THỨ BA 8/4/2008

 

Tuần Tưởng Niệm Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II băng hà 3 năm 2/4/2005-2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Chiêm Ngưỡng Mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh

Chúa Kitô "trở nên một người trong chúng ta"

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”

2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực - Hành Hương Thánh Mẫu

   MẾN Yêu Thánh Thể  

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

“Chúng ta được hạ sinh từ Thánh Thể… Thiên Chức Linh Mục cũng là một mầu nhiệm đức tin”

Thư Thứ Năm Tuần Thánh 2004 Cho Hàng Linh Mục

               YÊU Thương Tha Nhân              

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II: VỊ GIÁO HOÀNG CỦA ĐẠI KẾT TOÀN CẦU

Tha Thứ cho Kẻ Ám Sát mình

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI
 

 

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

 

Chiêm Ngưỡng Mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh  

Chúa Kitô "trở nên một người trong chúng ta"

 

(ĐTC Gioan Phaolô II: Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba)

 

 

 

4- Chúa Kitô, đấng cứu chuộc thế giới, là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. nên không có một danh hiệu nào khác ở dưới gầm trời này có thể cứu được chúng ta (x.Acts 4:12). Như chúng ta đọc thấy trong Thư gửi cho các tín hữu Êphêsô: "Nơi Đức Kitô, chúng ta nhờ máu của Người mà được ơn cứu chuộc, được ơn tha thứ những lỗi phạm của mình, theo ân sủng dồi dào Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên chúng ta. Vì Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta, bằng tất cả khôn ngoan và sáng suốt... mục đích của Ngài đã phác họa nơi Chúa Kitô một dự án cho thời điểm viên trọn, mục đích đó là hiệp nhất tất cả trong Người, những sự trên trời cùng những sự dưới đất" (1:7-10). Vì thế, Chúa Kitô, Ngôi Con là một với Chúa Cha, là Đấng mạc khải dự án của Thiên Chúa cho tất cả mọi tạo vật, đặc biệt là cho con người. Theo một câu đáng nhớ của Công Đồng Chung Vaticanô II thì Chúa Kitô "hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con người và làm sáng tỏ ơn gọi cao trọng của họ" (hiến chế Gaudium et Spes, đoạn 22). Người tỏ cho chúng ta ơn gọi này bằng việc mạc khải mầu nhiệm về Cha và về tình yêu của Cha.

 

5- Việc "trở nên một người trong chúng ta" (hiến chế Vui Mừng Và Hy Vọng, đoạn 22) nơi phần của Con Thiên Chúa đã xẩy ra hết sức khiêm hèn, nên không lạ gì các sử gia đời, chỉ chú trọng vào những biến cố náo động và những nhân vật danh tiếng, đã lấy Người, cho dù có quan trọng, cũng chỉ là những viện dẫn (references) mà thôi. Những viện dẫn về Chúa Kitô được tìm thấy trong "Các Truyện Cổ Về Dân Do Thái", một tác phẩm do sử gia Flavius Josephus tổng hợp ở Rôma vào giữa những năm 93 và 94, và nhất là trong "Annals" của Tacitus, được viết vào giữa những năm 115 và 120, một tài liệu mà khi tường thuật lại vụ thành Rôma bị cháy năm 64, Nêrô đã tưởng lầm là do những người Kitô giáo làm, nhà viết sử đã tỏ tường dẫn chứng về Chúa Kitô "bị hành xử theo lệnh của quan tổng trấn Phongxiô Philatô trong triều đại Tibêriô". Cả Suetonius nữa, trong cuốn truyện viết quãng năm 121 về đời của hoàng đế Claudiô, cho chúng ta biết rằng, những người Do Thái bị đuổi khỏi thành Rôma vì "họ thường gây nên những cuộc phiến loạn theo xúi giục của một số Chrestus" (Vita Claudii 25:4). Đoạn văn này thường được cắt nghĩa như ám chỉ về Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã trở nên căn nguyên tranh cãi trong những cộng đồng Do Thái ở Rôma. Việc phát triển nhanh chóng của Kitô giáo cũng là một chứng cớ quan trọng, như đã được Tiểu Pliny, vị tổng trấn ở Bithynia, tường trình cho hoàng đế Trajan, vào giữa những năm 111 và 113, về tình hình có một số đông dân chúng thường hay tụ họp nhau "vào một ngày ấn định, trước hừng đông, để luân phiên hát thánh ca chúc tụng Đức Kitô như là một vị Thiên Chúa" (Epist.10:96).

 

Thế nhưng, biến cố vĩ đại mà những sử gia ngoài Kitô giáo chỉ đề cập đến qua loa ấy lại có một tầm vóc hết sức quan trọng nơi những bản văn của Tân Ước. Những bản văn này, cho dù có là những văn kiện về đức tin đi nữa, nếu chúng ta để ý đến mối iên hệ toàn diện của chúng, thì chúng cũng là những chứng cớ lịch sử không phải không đáng tin. Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, Chúa của vũ trụ, cũng là Chúa của lịch sử, một lịch sử mà Người là "Alpha và Omega" (Rev.1:8;21:6), là "nguyên thủy và là cùng đích" (Rev.21:6). Nơi Người, Chúa Cha đã nói lên một lời thực sự về con người và về lịch sử của họ. Lời này được diễn tả một cách tóm gọn và hùng hồn qua Bức Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái: "Bằng nhiều thể nhiều cách, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta nhờ các tiên tri; thế nhưng, trong những ngày sau hết này, Ngài đã nói với chúng ta qua Người Con" (Heb.1:1-2).

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”

2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực (5)

      

Hành Hương Thánh Mẫu

 

Để mở màn cho giáo triều của mình, việc đầu tiên, ngay một tuần sau Lễ Đăng Quang của mình, vị Giáo Hoàng Totus Tuus này đã thực hiện, đó là đến kính viếng Đền Thánh Mẫu Đức Trinh Nữ Maria ở Mentorella Rôma ngoài thành Vatican ngày 29/10/1978, cũng ngay trong Tháng 10, tháng Thánh Mẫu cũng là Tháng Giáo Hoàng của ngài (như vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã đề cập tới chi tiết này trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 16/10/2005), để rồi, không hẹn mà hò, ngài cũng đã chấm dứt 104 chuyến tông du mục vụ của mình ngoài nước Ý ở Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức ngày 15/8/2004, nhân dịp kỷ niệm 150 năm Tín Điều Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ. Lần đầu tiên ngài đến Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức này là thời khoảng 14-15/8/1983, trong Năm Thánh Cứu Chuộc (25/3/1983-22/4/1984), vì đối với ngài, “Mẹ Đấng Cứu Chuộc – Redemptoris Mater” là vị bất khả phân ly với chính “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor Hominis”. 

 

Nói đến việc kính viếng Linh Địa Thánh Mẫu của ngài, lịch sử Giáo Hội còn ghi nhận ngài đã đến Linh Địa Thánh Mẫu Fatima 3 lần: Lần thứ nhất vào thời khoảng 12-15/5/1982 để tạ ơn Mẹ đã cứu mạng ngài trong cuộc ám sát ở Quảng Trường Thánh Phêrô đúng một năm trước đó, nhất là để hiến dâng chung thế giới và riêng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, đáp ứng yêu cầu của Trời Cao, đúng như những gì được nữ tu Lucia đệ trình Đức Thánh Cha Piô XII trong bức thư đề ngày 18/8/1940; lần thứ hai vào thời khoảng 10-13/5/1991, dịp kỷ niệm đúng 10 năm sau cuộc ám sát lịch sử nhưng sống sót này của ngài, để tạ ơn Mẹ về Biến Cố Đông Âu và không ngờ lại là dịp xẩy ra trước biến cố Nước Nga trở lại (25/12/1991); và lần thứ ba vào thời khoảng 12-13/5/2000, dịp phong Chân Phước cho hai thiếu nhi Phanxicô và Giaxinta (trong 3 Thiếu Nhi Fatima đã được thị kiến Mẹ Maria trong Biến Cố Fatima năm 1917), và tuyên bố sẽ tiết lộ Bí Mật Fatima phần thứ ba còn lại (là phần có liên quan đến việc ngài bị ám sát như ngài cảm nhận), một bí mật đã được Tòa Thánh, qua Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin công bố chính thức vào ngày 26/6/2000.

 

Sau đây là những lời cuối cùng của vị Giáo Hoàng Totus Tuus cho các cuộc Hành Hương Thánh Mẫu nói riêng và cho các lời Huấn Từ về Thánh Mẫu nói chung, những lời trực tiếp liên quan tới Thụ Nhân Cứu Chuộc là con người thời đại, đối tượng của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”, những lời ngài đã phải tận dụng hơi tàn sức kiệt của mình để lên tiếng giảng trong Thánh Lễ được cử hành hôm Lễ Mẹ Mông Triệu tại chính địa điểm Mẹ hiện ra ở Lộ Đức như sau:

 

“Anh chị em thân mến! Từ động Massabielle này, Vị Trinh Nữ Maria đây nói với cả chúng ta nữa, thành phần Kitô hữu của ngàn năm thứ ba. Chúng ta hãy lắng nghe Mẹ!


Hãy l
ắng nghe Mẹ, hỡi giới trẻ là thành phần tìm kiếm một câu đáp có thể cống hiến cho cuộc đời của các bạn ý nghĩa; Ở nơi đây, các bạn có thể tìm thấy câu giải đáp ấy. Nó là một câu giải đáp gay go, tuy nhiên nó lại là câu trả lời duy nhất thực sự làm thỏa mãn. Vì nó chất chứa cái bí mật của niềm vui và an bình thực sự.


”Từ hang động này, tôi
đặc biệt kêu gọi nữ giới. Hiện ra ở nơi đây, Mẹ Maria đã ký thác sứ điệp của Mẹ cho một em gái trẻ tuổi, như thể Mẹ muốn nhấn mạnh đến sứ vụ đặc biệt của nữ giới trong thời đại của chúng ta đây, một sứ vụ thực sự đang bị lôi cuốn bởi chiều hướng duy vật và trần tục: một sứ vụ trong xã hội ngày nay phải trở thành một chứng nhân cho những giá trị thiết yếu chỉ được thấy bằng con mắt tâm hồn. Hỡi nữ giới, chị em là thành phần mang trách nhiệm làm những người lính canh của Đấng Vô Hình! Tôi thiết tha kêu gọi hết mọi anh chị em, anh chị em thân mến, hãy làm mọi sự có thể để bảo đảm rằng sự sống, mỗi một sự sống và mọi sự sống, được tôn trọng từ khi được thụ thai cho đến khi tự nhiên qua đi. Sự sống là một tặng ân thánh hảo, không ai có thể cho mình có quyền làm chủ nó.


”Sau hết,
Đức Mẹ Lộ Đức gửi một sứ điệp cho hết mọi người. Đó là hãy trở thành những con người nam nữ của tự do! Thế nhưng, xin nhớ rằng: niềm tự do của con người là một niềm tự do đã bị tội lỗi làm tổn thương. Nó là một niềm tự do tự bản chất cũng cần phải được giải thoát. Chúa Kitô là vị giải phóng của nó; Người là Đấng ‘vì tự do đã giải phóng cho chúng ta’ (cf. Gal 5:1). Hãy bênh vực niềm tự do ấy!

 

”Quí bạn thân mến, về vấn đề này chúng ta biết rằng chúng ta có thể tin tưởng vào Mẹ Maria, vị mà, vì không bao giờ nhường bước cho tội lỗi, là tạo vật duy nhất hoàn toàn tự do. Tôi xin trao phó quí bạn cho Mẹ. Hãy bước đi bên Mẹ Maria khi quí bạn hành trình tiến tới chỗ hoàn toàn làm trọn nhân tính của mình!


(Trong khi
đang đọc bài giảng này  bằng tiếng Pháp, ngài đột nhiên nói bằng tiếng Balan: “giúp tôi với”. Sau khi uống nước được các vị hộ tống của mình trao cho, ngài nói tiếp: “Tôi phải làm cho xong việc này”. Quả thực, ngài đã đọc xong bài giảng nhưng bỏ một số đoạn. Ngài đã lên giọng để bày tỏ mối quan tâm với thành phần bệnh nhân, và chính bản thân ngài cũng là một bệnh nhân, ở tại Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức là nơi đã xẩy ra rất nhiều phép lạ, trong đó đã có cả hằng ngàn phép lạ được chính thức tường trình, song Giáo Hội mới chỉ công nhận 67 phép lạ mà thôi). 


 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 


Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

 

“Chúng ta được hạ sinh từ Thánh Thể… Thiên Chức Linh Mục cũng là một mầu nhiệm đức tin”


Thư Thứ Năm Tuần Thánh 2004 Cho Hàng Linh Mục


Các Linh Mục thân mến!


1.     Thật là vui mừng và cảm mến khi viết Bức Thư Thứ Năm Tuần Này này cho anh em, theo truyền thống được bắt đầu từ Lễ Phục Sinh đầu tiên của Tôi với tư cách là Giám Mục Rôma 25 năm trước đây. Cuộc hội ngộ hằng năm của chúng ta qua Bức Thư này là một cuộc hội ngộ đặc biệt huynh đệ, nhờ việc chúng ta chia sẻ chung về Thiên Chức Linh Mục của Chúa Kitô, và việc chia sẻ này diễn ra vào khung cảnh phụng vụ của một ngày thánh được đánh dấu bằng hai việc cử hành quan trọng, đó là Lễ Truyền Dầu ban sáng và Lễ Tiệc Ly ban chiều.


Tôi nghĩ đến anh em nhất là khi anh em tụ họp lại ở vương cung thánh đường thuộc các Giáo Phận khác nhau của anh em bên những Vị Bản Quyền đương nhiệm của anh em để lập lại những lới hứa linh mục của anh em. Lễ nghi sống động này xẩy ra sau việc thánh hiến các thứ Dầu Thánh, nhất là Dầu Thơm Olive, và là lễ nghi rất xứng hợp với Lễ Truyền Dầu, một Lễ cho thấy hình ảnh Giáo Hội là một dân tư tế được thánh hóa nhờ các phép bí tích và được sai đi khắp thế giới như hương thơm của Đức Kitô Cứu Thế (2Cor 2:14-16).


Vào lúc trời tối, Tôi thấy anh em tiến vào Căn Thượng Lầu để bắt đầu Tam Nhật Thánh. Chính ở “căn lầu rộng” (Lk 22:12) ấy Chúa Giêsu đã kêu mời chúng ta hãy trở lại vào mỗi Ngày Thứ Năm Tuần Thánh, và cũng chính ở nơi đó , hơn bất cứ ở đâu khác, Tôi hết sức vui mừng được gặp gỡ anh em thân yêu của Tôi trong thiên chức linh mục. Ở tại Bữa Tiệc Ly, chúng ta đã được sinh ra là những linh mục: vì thế chúng ta vừa hoan hỉ vừa phải qui tụ lại với nhau một lần nữa ở Căn Thượng Lầu này, để nhắc nhở nhau, bằng lòng thành thực tri ân, sứ vụ cao quí của chúng ta.


2.     Chúng ta đã được hạ sinh từ Thánh Thể. Nếu chúng ta thực sự nói rằng toàn thể Giáo Hội sống bởi Thánh Thể (“Ecclesia de Eucharistia vivit”), như Tôi đã tái xác nhận trong Thông Điệp mới đây, chúng ta có thể nói tương tự như thế về thiên chức linh mục thừa tác: một thiên chức linh mục thừa tác được hạ sinh, sống động và sinh hoa kết trái từ Thánh Thể “de Eucharistia” (cf. Council of Trent, Sess. XXII, canon 2: DS 1752). “Không thể nào có Thánh Thể nếu không có chức linh mục, cũng như không thể nào có chức linh mục nếu không có Thánh Thể” (cf. "Gift and Mystery. On the Fiftieth Anniversary of My Priestly Ordination," New York, 1996, pp. 77-78).


Thừa tác vụ thánh, một thừa tác vụ không bao giờ được biến thành một chiều kích thuần hành sự, vì nó thuộc về cấp độ “bản chất”, làm cho vị linh mục có thể tác hành thay cho Chúa Kitô “in persona Christi” mà giây phút tột đỉnh xẩy ra là lúc vị linh mục thánh hiến bánh và rượu, lập lại những cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly.


Trước thực tại phi thường này, chúng ta cảm thấy ngỡ ngàng và chất ngất trước sự khiêm hạ thật thẳm sâu của một Vị Thiên Chúa “cúi xuống” để liên kết bản thân mình với con người! Nếu chúng ta bị cảm kích trước máng cỏ Sinh Nhật, khi chúng ta chiêm ngưỡng Lời Nhập Thể, thì chúng ta phải cảm thấy ra sao trước bàn thờ là nơi, nhờ bàn tay tầm thường của vị linh mục, Chúa Kitô hiện thực hóa Hiến Tế của Người trong thời gian? Chúng ta chỉ còn biết quì xuống mà âm thầm tôn thờ mầu nhiệm đức tin siêu việt này mà thôi.


3.     Mầu nhiệm đức tin “mysterium fidei”, vị linh mục công bố lời này sau khi truyền phép. Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin, tuy nhiên, chính thiên chức linh mục, nhờ phản ảnh Thánh Thể, cũng là một mầu nhiệm đức tin nữa (x. ibid, p. 78). Cũng là một mầu nhiệm thánh hóa và yêu thương, việc làm của Chúa Thánh Thần, một việc biến bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Chúa Kitô, tác hành nơi con người của vị thừa tác viên vào lúc chịu chức linh mục. Có một tương giao đặc biệt giữa Thánh Thể và chức linh mục, một tương giao bắt nguồn từ Căn Thượng Lầu, ở chỗ, hai Bí Tích này được hạ sinh cùng một lúc và định mệnh của cả hai được gắn liền với nhau bất khả phân ly cho đến tận thế.


Đến đây chúng ta chạm đến những gì được gọi là “tính cách tông đồ của Thánh Thể” (x Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia, 26-33). Bí tích Thánh Thể, như bí tích Hòa Giải, được Chúa Kitô trao phó cho các Thánh Tông Đồ và đã được các vị cùng với những ai thừa kế các vị truyền lại cho mọi thế hệ. Vào lúc mở màn cho cuộc sống công khai của mình, Đấng Thiên Sai đã kêu gọi 12 Vị, chỉ định các vị “ở với Người” và sai các vị đi truyền giáo (x Mk 3:14-15). Ở Bữa Tiệc Ly, việc các Tông Đồ “ở với” Chúa Giêsu đã lên đến tuyệt đỉnh. Bằng việc cử hành bữa Vượt Qua và thiết lập Thánh Thể, vị Tôn Sư thần linh làm cho ơn gọi của họ nên trọn. Khi nói rằng “các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày”, là Người đóng ấn tín lên sứ vụ của các vị, và bằng việc liên kết các vị với chính bản thân Người trong mối hiệp thông về bí tích, Người truyền cho các vị phải kéo dài tác động rất thánh này để nhớ đến Người.

Khi công bố những lời “Các con hãy làm điều này…”, Chúa Giêsu nghĩ đến những người thừa kế của các Tông Đồ, đến những ai sẽ tiếp tục sứ vụ các ngài bằng việc phân phát lương thực sự sống cho đến tận cùng trái đất. Bởi thế, chư huynh linh mục thân mến, một cách nào đó, ở Căn Thượng Lầu, chúng ta cũng được kêu gọi một cách riêng tư, mỗi một người trong chúng ta, “bằng một tình yêu thương huynh đệ” (Lời Nguyện Mở Đầu Lễ Truyền Dầu), để lãnh nhận từ đôi thay thánh hảo của Chúa Bánh Thánh Thể và bẻ Bánh này ra để làm lương thực ban phát cho Dân Chúa trên lộ trình họ tiến qua thời gian về quê hương thiên đình vĩnh cửu.


4.     Thánh Thể, như thiên chức linh mục, là tặng ân của Thiên Chúa “hoàn toàn vượt trên quyền năng của cộng đồng” và cộng đồng “lãnh nhận qua việc thừa kế của hàng giáo phẩm được truyền từ các Thánh Tông Đồ” (Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia, 29). Công Đồng Chung Vaticanô II dạy rằng “vị linh mục thừa tác, bằng linh quyền có được… thay cho Chúa Kitô làm hiệu nghiệm hóa Hy Tế Thánh Thể và nhân danh toàn thể dân chúng hiến dâng Thánh Thể lên Thiên Chúa” Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 10). Cộng đồng tín hữu, hiệp nhất trong đức tin cũng như trong Thần Linh và là cộng đồng được trang bị bằng nhiều tặng ân khác nhau, cho dù có là nơi Chúa Kitô “hiện diện nơi Giáo Hội của Người, nhất là nơi những việc cử hành phụng vụ của Giáo Hội” (Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, 7), tự mình vẫn không thể cử hành Thánh Thể hay cung cấp thành phần thừa tác thánh chức.


Bởi thế, thật là chính đáng khi dân Kitô giáo dâng lời cảm tạ Thiên Chúa về tặng ân Thánh Thể và tặng ân linh mục, đồng thời cũng không ngừng cầu nguyện để Giáo Hội không bao giờ bị thiếu hụt linh mục. Con số linh mục không bao giờ đủ đáp ứng các nhu cầu truyền bá phúc âm hóa không ngừng tăng phát cũng như nhu cầu chăm sóc mục vụ cho tín hữu. Ở một số nơi trên thế giới tình trạng thiếu hụt linh mục là tất cả những gì khẩn trương, vì ngày nay con số linh mục đang bị giảm sút không đủ thay thế bởi thế hệ trẻ. Ở những nơi khác, cám ơn Chúa, chúng ta thấy một mùa xuân hứa hẹn ơn gọi. Dân Chúa cũng càng ngày càng ý thức được nhu cầu cần phải cầu nguyện và tích cực hoạt động để cổ võ ơn gọi linh mục và đời tận hiến.

 

(còn tiếp)

 

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II: VỊ GIÁO HOÀNG CỦA ĐẠI KẾT TOÀN CẦU

Tha Thứ cho Kẻ Ám Sát mình

 

 

Dù lịch sử thế giới không biết tới hay dù biết nhưng không hề đả động gì tới mối liên quan giữa Bí Mật Fatima 1917 với biến cố “Nước Nga trở lại” 1991, nhưng nó vẫn không thể nào phủ nhận được sự kiện Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị ám sát tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào ngày Thứ Tư 13/5/1981, đúng vào ngày kỷ niệm Đức Mẹ lần đầu tiên với 3 em thiếu nhi ở Fatima.

 

Sức khỏe của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bắt đầu bị suy giảm kể từ ngày 13/5/1981, ngày ngài bị ám sát mà không chết và được đem vào bệnh viện lần đầu tiên trong giáo triều của ngài.

 

Agca, 47 tuổi, đang ở trong nhà tù tại Istanbul được canh phòng cẩn mật tối đa, vì tội sát nhân và cướp bóc sau khi bị tù ở Ý 19 năm bởi tội cố sát giáo hoàng. Thẩm quyền Ý đã ân xá cho anh ta theo lời yêu cầu của Đức Giáo Hoàng vào năm 2000.

 

Hôm Thứ Ba 5/4/2005, Agca đã đệ đơn xin tạm ân dung một thời gian ngắn là những gì vốn được luật pháp Thổ Nhĩ Kỳ cho phép một số phạm nhân thường để cho họ dự lễ án táng của thân nhân trong gia đình.

 

Luật sư của Agca là Mustafa Demirdag đã nói với hãng thông tấn Reuters rằng: “Đơn của chúng tôi đã bị bác. Dường như đây là việc do chính phủ tác động. Chúng tôi không đủ thời gian để khiếu nại trước lễ an táng. Mehmet Ali sẽ cảm thấy rất buồn khi anh ta nghe được tin này”.

 

Agca đã viết “một bức thư ngỏ gửi cho thế giới”, trong đó, anh lập lại rằng anh ta là “vị thiên sai thứ hai”. Anh ta viết về cái chết của ĐTC GPII như sau: “Tôi đã mất đi một người anh tinh thần. Tôi chia sẻ nỗi thương tiếc với thành phần Kitô hữu Công giáo của tôi”.

 

Luật sư của anh ta cho biết thêm rằng gia đình của anh ta vẫn có thể tham dự lễ an táng này hôm Thứ Sáu 8/4/2005. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tiếp người anh và bà mẹ của anh ta ở Vatican nhiều năm trước đây.

 

Trong bức thư ngỏ cùng thế giới, anh ta còn viết: “Dự án thần linh đã đạt được mục đích của mình. Bởi thế chúng ta đang ở vào ngày cùng tận của thế giới”. Anh ta còn cho biết anh ta đang viết lại Thánh Kinh và sẽ sớm tiết lộ “Bí mật Fatima”.

 

Qua nhiều năm tháng, Agca đã đưa ra những lý do xung khắc nhau về việc anh ta cố sát Đức Gioan Phaolô II, bao gồm cả những điều tố giác về một cuộc âm mưu với mật vụ cộng sản nước Bulgaria và tình báo KGB Nga, một sự kiện đã được

 

Agca thuộc về đảng chiến quân thiên hữu ở Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối thập niên 1970 và đã bị tù về tội sát hại một viên chủ bút nhật báo cấp tiến năm 1979.

 

Trước năm sang Rôma, anh ta đã thoát ngục nhờ sự giúp đỡ của những tay an ninh Thổ Nhĩ Kỳ có cảm tình với đảng phái của anh ta. Chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ luôn phủ nhận có bất cứ liên hệ nào với Agca và phủ nhận việc hắn bị bệnh loạn trí.

 

Kẻ ám sát ngài đây là một người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi giáo tên là Ali Agca, một tay đánh thuê giết mướn cho một thế lực mà chính bản thân không biết rõ. Sau lời yêu cầu xin ân xá của Đức Thánh Cha, anh ta đã được tha án 19 năm tù ở Ý và được thả ra vào ngay trong Đại Năm Thánh 2000. Trong cuộc điều tra về động lực thúc đẩy anh ta ra tay hạ thủ ĐTC, có lần anh ta cho biết là mật vụ cộng sản nước Bulgaria, một quốc gia mà vào chuyến tông du năm 2002 ở Sofia, ĐTC đã làm sáng tỏ vấn đề nước này không hề dính dáng gì tới âm mưu sát hại ngài cả. 

 

Hiện nay, tay thủ phạm này vẫn còn bị chính phủ của mình nhốt ngục vì hai tộc ác khác là giết một ký giả đồng hương và tội trộm cướp, sau khi được ân xá ở Ý. Hôm Thứ Sáu 4/2/2005, tờ nhật báo Vatan ở Ankara Thổ Nhĩ Kỳ đã trích lại những lời của tay thủ phạm tín đồ Hồi giáo này viết nhắn gửi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II như sau:

 

“Ngài và tôi, cả hai chúng ta đều chịu khổ đau trong việc cố gắng để truyền đạo trên khắp thế giới. Tôi hy vọng rằng ngài sẽ được bình phục một ngày gần đây. Chúng ta đang tiến đến ngày cùng tháng tận của thế giới. Thế hệ này là giòng dõi cuối cùng. Tôi hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ngài sức mạnh và sinh lực”.

 

Vị giám đốc văn phòng báo chí này còn cho biết thêm rằng những trang kết được ngài dùng để diễn tả về việc ám sát ngài ngày 13/5/1981 “không phải chỉ là một thứ thêm thắt thuần túy, mặc dù thể thức khác với toàn bộ cuốn sách; chúng có giọng điệu của một con người nói về một kinh nghiệm đã thực sự trải qua. Vị Giáo Hoàng này muốn mở lòng mình ra và cắt nghĩa ngài đã cảm nghiệm và đang cảm nghiệm thấy sự dữ đó ra sao”.

 

Vị giám đốc văn phòng báo chí tòa thánh còn nói: “Đức Giáo Hoàng tin rằng Ali Agca không hành động một cách tình cờ”. Theo vị giám đốc này thì ở lời kết, “tư ụkhi ở trong tù được nói chuyện với Đức Giáo Hoàng, người ta thấy Ali Agca đã hoàn toàn bị ám ảnh ra sao với mầu nhiệm Fatima. Ở chỗ, anh ta không thể nào hiểu được có một cái gì đó đáng lẽ anh ta phải làm chủ về phương diện kỹ thuật trong cuộc tấn công Giáo Hoàng lại không xẩy ra như dự định. Ali Agca chỉ quan tâm tới những vấn đề về kỹ thuật mà thôi chứ không phải những vấn đề về luân lý”. Vị giám đốc này tiết lộ cho biết là kẻ ám sát này “không hề xin Đức Giáo Hoàng thứ tha”.

 

ĐHY Ratzinger đã cho biết Đức Giáo Hoàng đã nói về Agca như là “nạn nhân của một thứ lý lẽ lỏng lẻo bất toàn xét về mọi khía cạnh. Anh ta là một người Hồi giáo, và có lẽ cũng vì thế mà anh ta đã rơi vào một cơn lốc sợ hãi làm cho anh ta không bao giờ thoát khỏi, vì anh ta tiếp tục tin rằng anh ta là một phần của điềm báo trong phần bí mật Fatima thứ ba. Thế nhưng, ngoài những suy đoán này ra, Agca đã không bao giờ tự hỏi mình về những gì anh ta làm, sự kiện rõ ràng về cuộc ám sát vị Giáo Hoàng này chưa hề làm cho anh ta cảm thấy phiền hà gì hết. Anh ta chỉ quan tâm có một điều duy nhất thực sự đó là anh ta đã bị hụt mất mục tiêu”.

 

Được các ký giả hỏi về việc có nhận được những bức thư của tay ám sát ĐTC hay chăng, ĐHY Ratzinger cho biết rằng ngài đã nhận được các bức thư của Mehmet Ali Agca:

 

“Anh ta cũng đã viết thư cho tôi mà nói rằng: ‘Xin nói cho tôi mầu nhiệm Fatima này là gì’. Ali Agca tin rằng nơi mầu nhiệm này anh ta sẽ tìm thấy câu giải đáp về kỹ thuật cho một mầu nhiệm không thể nào hiểu nổi, đó là cái lý do tại sao cuộc tấn công ĐGH không thành. Thế nhưng, như ai cũng đã quá biết, cái liên hệ duy nhất giữa Agca với Fatima là ngày 13/5, và những gì anh ta suy nghĩ chỉ hạn hẹp ở mức độ này thôi”.

 

Vào ngày 15/2, tức sau khi Nữ Tu Lucia, vị thụ khải Fatima cuối cùng qua đời, anh ta đã gửi cho một tờ nhật báo một bản văn mang tựa đề “Bức Thư Ngỏ với Vatican”. Trong bản văn này, anh ta bày tỏ niềm cảm thông với việc qua đời của vị nữ tu này, và nhấn mạnh rằng bí mật Fatima có liên quan đến ngày tận thế, và yêu cầu Vatican vạch mặt tên Phản Kitô (Quỉ Vương).

 

(còn tiếp)

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net