THỨ NĂM 1/5/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

"Sao các người lại đứng nhìn lên trời như thế?’.

 Bài Giảng ở Krakow cho Thánh Lễ Bế Mạc Chúa Nhật 28/5/2006, Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

 “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”: Một Tác Phẩm Cổ Điển Về Linh Đạo Thánh Mẫu

Thư Gửi Chư Gia Đình Hội Dòng Montfort Dịp 160 Năm (1843-2003) Xuất Bản Tác Phẩm “Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”

   MẾN Yêu Thánh Thể  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

TỪ THÁNH THỂ ĐẾN CÁNH CHUNG

  Nhân Ngày Lao Công Con Người 1/5

  YÊU Thương Tha Nhân  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Lao Công Con Người

Lễ Thánh Giuse Thợ 1/5

      

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI
 

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

"Sao các người lại đứng nhìn lên trời như thế?’.

 

Bài Giảng ở Krakow cho Thánh Lễ Bế Mạc Chúa Nhật 28/5/2006, Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên

 

‘Hỡi những người Galilê, sao các người lại đứng nhìn lên trời như thế?’ (Acts 1:11)

 

Anh Chị Em thân mến, hôm nay, tại Công Viên Blonie ở Krakow này, một lần nữa, chúng ta nghe thấy câu hỏi này từ Sách Tông Vụ. Lần này câu hỏi ấy nhắm đến tất cả chúng ta đây: ‘Tại sao anh chị em lại đứng nhìn lên trời như thế?Câu trả lời cho vấn nạn này bao gồm một sự thật nền tảng cốt yếu về đời sống cũng như về định mệnh của con người nam nữ.

 

Câu hỏi cần thiết đối với thái độ của chúng ta đây liên quan tới hai thực tại căn bản là những thực tại làm nên tất cả mọi cuộc sống của con người, đó là đất và trời. Trước hết là trái đất: ‘Tại sao anh chị em đứng đó?’ Tại sao chúng ta sống ở trên thế gian này? Câu trả lời của chúng ta là chúng tôi đang sống trên thế gian này bởi vì Đấng Tạo Dựng của chúng tôi đã đặt chúng tôi ở nơi đây như tuyệt đỉnh của việc Ngài tạo dựng. Thiên Chúa Toàn Năng, theo dự án yêu thương bất khả phai nhòa của Ngài, đã tạo dựng nên vũ trụ, làm cho nó hiện hữu từ hư không. Thế rồi, khi hoàn tất công việc ấy, Ngài đã ban sự sống trên thành phần con người nam nữ, dựng nên họ theo hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài (x Gen 1:26-27). Ngài đã ban cho họ phẩm vị được làm con cái của Thiên Chúa cùng với tặng ân bất tử. Chúng tôi biết rằng con người đã đi sai đường lạc hướng, đã lạm dụng tặng ân tự do và đã ‘bất chấp’ Thiên Chúa, nên đời sống của con người đã bị ghi dấu vết sự dữ, tội lỗi, khổ đau và chết chóc. Thế nhưng, chúng tôi cũng biết rằng Thiên Chúa không bỏ cuộc trước trạng huống ấy của con người, mà đã đích thân tiến vào lịch sử của nhân loại, một lịch sử nhờ đó đã trở thành một lịch sử cứu độ. ‘Chúng tôi đứng’ trên thế gian này, chúng tôi xuất phát từ trái đất này và chúng tôi lớn lên từ trái đất đây. Ở trên đời đây chúng tôi hành thiện trong nhiều lãnh vực của cuộc sống hằng ngày, thuộc cả lãnh giới vật chất lẫn thiêng liêng, nơi các mối liên hệ giữa chúng tôi với người khác, nơi những gì chúng tôi nỗ lực xây dựng cộng đồng nhân loại và nơi văn hóa. Trên đời này, chúng tôi cũng cảm thấy cả tâm trạng buồn chán của những ai tiến về một mục đích theo những con đường dài lộng gió, giữa những ưu tư lưỡng lự, những căng thẳng, những bất định, bằng một niềm xác tín rằng cuộc hành trình ấy một ngày kia rồi cũng đi tới chỗ kết thúc thôi. Đó là lúc câu hỏi sau đây xuất hiện: Phải chăng đó là tất cả mọi sự? Phải chăng trái đất ‘chúng tôi đang đứng’ đây là đích điểm cuối cùng của chúng tôi?

 

Bởi thế chúng ta cần hướng đến phần thứ hai của vấn nạn thánh kinh: ‘Tại sao anh chị em lại đứng nhìn lên trời như thế?’ Chúng ta đã đọc thấy rằng, vừa lúc các vị Tông Đồ đã hỏi Chúa Kitô Phục Sinh về việc dân Yến Duyên phục hồi của vương quốc trần gian, thì ‘Người được nhắc lên và có một đám mây vây phủ Người làm cho Người khuất khỏi mắt các vị’ (x Acts 1:9-10). Các vị đứng nhìn lên trời vì các vị nhìn lên Chúa Giêsu Kitô, Đấng Tử Giá và Phục Sinh, Đấng được nâng lên cao. Chúng ta không biết chính xác lúc nào các vị nhận thấy hiện lên trước mắt các vị một chân trời rạng ngời bất tận: đích điểm tối hậu cho cuộc hành trình trần gian của chúng ta. Có lẽ các vị chỉ nhận ra điều này vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, trong ánh sáng của Thánh Linh. Thế nhưng, đối với chúng ta, cách cả hai ngàn năm, thì ý nghĩa của biến cố đó lại quá rõ ràng. Trên trái đất này, chúng ta được kêu gọi để nhìn lên trời, để hướng tâm trí của chúng ta về mầu nhiệm khôn tả của Thiên Chúa. Chúng ta được kêu gọi để hướng tới thực tại thần linh này, một thực tại thần linh mà chúng ta đã từng nhắm tới từ cuộc tạo thành của chúng ta. Vì ở nơi đó chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa tối hậu của cuộc sống.

 

Anh Chị Em thân mến, tôi rất cảm động khi có thể cử hành Thánh Thể hôm nay tại Công Viên Blonie ở Krakow, nơi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thường cử hành Thánh Lễ trong những chuyến Tông Du Mục Vụ của ngài nơi quê hương đất nước của mình. Qua những cuộc cử hành phụng vụ của mình, ngài đã gặp Dân Chúa ở hầu hết các nơi trên thế giới, song việc ngài cử hành Thánh Lễ tại Công Viên Blonie ở Krokow chắc chắn bao giờ cũng là một cái gì đặc biệt. Ở nơi đây tâm trí ngài trở về với cội gốc của mình, với nguồn mạch đức tin của ngài cùng việc phục vụ Giáo Hội của ngài. Từ nơi đây, ngài có thể thấy được Krwkow và toàn quốc Balan. Trong cuộc tông dù đầu tiên về Balan ngày 19/6/1979, ở cuối bài giảng của mình nơi công viên đây, ngài đã nói một cách nhung nhớ như sau: ‘Xin cho tôi, trước khi lìa xa anh chị em, một lần nữa nhìn lại Krakow, một Krakow rất thân thương với tôi từng hòn đá cục gạch. Và từ đây nhìn lại Balan một lần nữa’. Trong Thánh Lễ cuối cùng ngài cử hành ở nơi đây, ngày 18/8/2002, ngài đã nói trong bài giảng của mình rằng: ‘Tôi cám ơn về việc mời tôi tới thăm Krakow của tôi và về lòng hiếu khách anh chị em đã giành cho tôi’ (đoạn 2). Kraków, thành phố của Karol Wojtyla và của Gioan Phaolô II, cũng là Krakow của tôi nữa, chiếm được một chỗ đứng đặc biệt nơi tâm can của vô vàn Kitô hữu khắp thế giới, thành phần biết rằng Gioan Phaolô II xuất hiện ở Đồi Vatican từ thành phố này, từ Đồi Wawel, ‘từ một xứ sở xa xôi’, một xứ sở nhờ đó đã trở thành thân thương với tất cả mọi người.

 

Mở màn năm thứ hai cho Giáo Triều của mình, tôi đã cảm thấy rất cần phải đến viếng thăm Balan và Krakow như là một con người hành hương theo bước chân của vị tiền nhiệm tôi. Tôi muốn hít thở không khí của quê hương đây. Tôi muốn thấy mảnh đất ngài đã được sinh ra, nơi ngài đã lớn lên và đã nhiệt tình dấn thân phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội hoàn vũ. Tôi đặc biệt muốn gặp gỡ những con người nam nữ sống động của đất nước ngài, muốn cảm nghiệm thấy đức tin của anh chị em, một đức tin đã cống hiến cho ngài sự sống và sinh lực, và muốn biết rằng anh chị em tiếp tục vững mạnh trong niềm tin ấy. Ở nơi đây, tôi muốn xin Thiên Chúa hãy bảo trì cái di sản đức tin, đức cậy và đức mến được Đức Gioan Phaolô II cống hiến cho thế giới, đặc biệt là cho anh chị em.

 

Tôi thân ái chào tất cả những ai qui tụ lại Công Viên Blonie, vì mắt tôi có thể nhìn thấy những người đứng xa thật xa, cho dù xa hơn thế nữa. Tôi ước gì có thể gặp được từng người trong anh chị em một cách riêng tư. Tôi ôm ấp tất cả những ai đang tham dự Thánh Lễ của chúng ta đây qua truyền thanh và truyền hình. Tôi chào toàn thể Balan! Tôi chào trẻ em và giới trẻ, cá nhân và gia đình, thành phần bệnh nhân và những ai khổ đau nơi thân xác hoặc tinh thần, những ai bị hụt hang niềm vui của cuộc sống. Tôi chào tất cả những ai ngày ngày cực nhọc giúp cho xứ sở này được phát triển thịnh vượng. Tôi chào nhân dân Balan hải ngoại, ở khắp nơi trên thế giới. Tôi cám ơn Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz, Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Krakow, về những lời lẽ đón mừng nồng hậu của ngài. Tôi chào Đức Hồng Y Franciszek Macharski cùng toàn thể các vị Hồng Y, Giám Mục, linh mục và tu sĩ nam nữ, cũng như những vị khách đến từ các nơi, nhất là từ các nước láng giềng. Tôi chào Tổng Thống Cộng Hòa và Thủ Tướng cùng các vị đại diện Thẩm Quyền quốc gia, khu vực và địa phương.

 

Anh chị em thân mến, tôi đã chọn làm câu châm ngôn cho chuyến hành hương Balan của tôi theo bước chân Đức Gioan Phaolô II những lời là: ‘Anh chị em hãy đứng vững trong đức tin của mình!’ Lời kêu gọi này được trực tiếp ngỏ cùng tất cả chúng ta là phần tử thuộc cộng đồng môn đệ Chúa Kitô, cùng mỗi người và mọi người trong chúng ta. Đức tin là một tác động nhân loại riêng tư sâu xa, một tác động có hai khía cạnh. Tin tưởng nghĩa là trước hết chấp nhận như thật những gì trí khôn chúng ta không thể thấu triệt. Chúng ta phải chấp nhận những gì Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta về chính mình Ngài, về chúng ta, về mọi sự chung quanh chúng ta, bao gồm cả những gì vô hình, khôn tả và ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Tác động chấp nhận sự thật được mạc khải là những gì nới rộng chân trời kiến thức của chúng ta và kéo chúng ta tới mầu nhiệm bao trùm chúng ta. Để trí khôn của chúng ta bị giới hạn như thế không phải là một chuyện dễ làm. Đến đây chúng ta thấy khía cạnh thứ hai của đức tin, đó là khía cạnh niềm tin tưởng nơi một con người, không phải là một con người bình thường, mà là chính Chúa Giêsu Kitô. Những gì chúng ta tin tưởng đều quan trọng, nhưng còn quan trọng hơn thế nữa đó là Đấng chúng ta tin tưởng.

 

Thánh Phaolô đã nói về điều này trong đoạn Thư gửi Giáo Đoàn Êphêsô mà chúng ta nghe thấy hôm nay đây. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một thần trí khôn ngoan và ‘đã sáng soi cặp mắt tâm hồn của chúng ta, để chúng ta biết những gì là niềm hy vọng được Ngài kêu gọi chúng ta hướng tới, những gì là phong phú thuộc gia sản hiển vinh của Ngài nơi các thánh nhân, và những gì là cao cả khôn lường của quyền lực Ngài nơi chúng ta là những kẻ tin tưởng, theo việc làm quyền năng vĩ đại của Ngài nơi Chúa Kitô’ (x Eph 1:17-20). Tin tưởng nghĩa là phó mình của chúng ta cho Thiên Chúa và trao phó định mệnh của chúng ta cho Ngài. Tin tưởng nghĩa là sống liên hệ thân tình với Đấng Hóa Công và Cứu Chuộc của chúng ta trong quyền nặng của Thánh Thần và làm cho mối liên hệ này thành nền tảng cho cả cuộc đời của chúng ta.

 

Hôm nay chúng ta đã nghe thấy những lời của Chúa Giêsu: ‘Các con sẽ lãnh nhận quyền năng khi Thánh Thần xuống trên các con; và các con sẽ là những chứng nhân của Thày ở Giêrusalem cũng như ở khắp Giuđêa và Samaria, và cho tới tận cùng trái đất’ (Acts 1:8). Nhiều thế kỷ trước đây những lời ấy đã tiến đến Balan. Chúng đã thách đố và tiếp tục thách đố tất cả những ai nói rằng mình thuộc về Chúa Kitô, những người coi lời của Người ấy là một lý tưởng cao cả nhất. Chúng ta cần trở thành những chứng nhân của Chúa Giêsu, Đấng đang sống trong Giáo Hội và trong lòng người. Người đã trao cho chúng ta một sứ vụ. Vào ngày Người lên trời, Người đã nói cùng các Tông Đồ rằng: ‘Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật… Và các vị đã ra đi rao giảng khắp nơi, Chúa Kitô đồng thời làm việc với các vị và củng cố sứ điệp các vị rao giảng bằng các dấu hiệu kèm theo’ (Mk 16:15,20). Anh chị em thân mến! Khi Đức Karol Wojtyla được bầu lên Ngài Tòa Thánh Phêrô để phục vụ Giáo Hội hoàn vũ thì đất nước của anh chị em đã trở thành một địa điểm của chứng từ đặc biệt về niềm tin tưởng vào Chúa Giêsu Kitô. Anh chị em đã được kêu gọi để cống hiến chứng từ này trước toàn thế giới. Ơn gọi này của anh chị em là những gì luôn cần thiết, và có lẽ còn khẩn trương hơn bao giờ hết khi mà Người Tôi Tớ Chúa đây đã qua khỏi đời này. Anh chị em đừng làm cho thế giới bị hụt hẫng mất chứng từ này nhé!

 

Trước khi tôi trở về Rôma để tiếp tục thừa tác vụ của mình, tôi kêu gọi tất cả mọi anh chị em bằng những lời được Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói lên ở nơi đây vào năm 1979, đó là ‘Anh chị em thân mến, anh chị em cần phải vững mạnh. Anh chị em cần phải vững mạnh bằng sức mạnh xuất phát từ đức tin. Anh chị em cần phải vững mạnh bằng sức mạnh của đức tin. Anh chị em cần phải trung thành. Ngày nay, hơn bất cứ một thời đại nào khác, anh chị em cần đến sức mạnh này. Anh chị em cần phải mạnh mẽ bằng sức mạnh của đức cậy, một đức cậy mang lại niềm vui trọn vẹn cho cuộc sống và là niềm hy vọng làm cho chúng ta tránh được việc làm phiền lòng Thánh Linh! Anh chị em cần phải mạnh mẽ bằng đức ái, một đức ái mạnh hơn sự chết… Anh chị em cần phải vững mạnh bằng sức mạnh của đức tin, đức cậy và đức mến, một đức mến ý thức, trưởng thành và hữu trách, và là một đức mến có thể giúp chúng ta trong lúc này đây nơi lịch sử của chúng ta thực hiện việc đối thoại trao đổi đại thể với con người và thế giới, một cuộc đối thoại được bắt nguồn từ cuộc đối thoại với chính Thiên Chúa, với Chúa Cha, nhờ Chúa Con trong Thánh Thần, một cuộc đối thoại cứu độ’ (Bài Giảng 10/6/1979, đoạn 4).

 

Cả tôi nữa, Biển Đức XVI, Vị Thừa Kế Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, cũng đang xin anh chị em hãy từ đất nhìn lên trời, hãy hướng mắt về Đấng được các thế hệ liên tục nhau trông chờ cả hai ngàn năm, và là Đấng họ khám phá thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Được kiên cường bởi niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, anh chị em hãy nhiệt thành với việc củng cố Vương Quốc của Người trên thế gian này, một Vương Quốc của thiện hảo, công lý, đoàn kết và tình thương. Tôi xin anh chị em hãy can đảm làm chứng cho Phúc Âm trước thế giới ngày nay, mang hy vọng tới cho người nghèo, cho người khổ đau, cho thành phần lầm lạc và bị bỏ rơi, thành phần thất vọng và những ai trông mong tự do, chân lý và an bình. Bằng việc làm lành cho tha nhân của mình và tỏ ra quan tâm đối với công ích, anh chị em làm chứng rằng Thiên Chúa là tình yêu.

 

Sau hết, tôi xin anh chị em hãy chia sẻ với các dân tộc khác ở Âu Châu cũng như với thế giới kho tàng đức tin của anh chị em, ít là như cách thức để kính nhớ tới con người đồng hương của anh chị em, vị, với tư cách là Thừa Kế Thánh Phêrô, đã thực hiện điều ấy một cách đặc biệt mãnh liệt và hiệu năng. Và xin hãy nhớ đến tôi trong lời nguyện cầu và hy sinh của anh chị em, thậm chí như anh chị em nhớ đến vị đại Tiền Nhiệm của tôi, để tôi có thể thi hành sứ vụ Chúa Kitô đã trao phó cho tôi. Tôi xin anh chị em hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em! Hãy đứng vững trong đức cậy của anh chị em! Hãy đứng vững trong đức ái của anh chị em! Amen!

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Tòa Thánh phổ biến ở  mạng điện toán toàn cầu

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2006/documents/hf_ben-xvi_hom_20060528_krakow_en.html

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng) 

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

 

 “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”: Một Tác Phẩm Cổ Điển Về Linh Đạo Thánh Mẫu

 

Thư Gửi Chư Gia Đình Hội Dòng Montfort Nhân Dịp Kỷ Niệm 160 Năm (1843-2003) Xuất Bản Tác Phẩm “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”

 

(loạt bài mở màn cho Tháng Hoa Mẹ 5/2008)

 

Gửi Tu Sĩ Nam Nữ Chư Gia Đình Montfort 

 

1.         Một tác phẩm được viết để làm tác phẩm cổ điển về linh đạo Thánh Mẫu đã được xuất bản cách đây 160 năm trước. Thánh Louis Marie Grignion de Montfort đã viết cuốn Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Đức Trinh Nữ vào đầu thế kỷ 18, thế nhưng, trên thực tế, bản thảo đã không được biết đến trên một thế kỷ. Cuối cùng, hầu như là tình cờ, nó đã được tìm thấy vào năm 1842 và xuất bản vào năm 1843, tác phẩm này đạt được thành quả ngay, cho thấy hiệu năng phi thường của việc truyền bá ‘lòng thành thực sùng kính’ đối với Vị Trinh Nữ Rất Thánh này. Chính tôi, trong những năm còn trẻ, đã tìm được hỗ trợ rất nhiều khi đọc tác phẩm này. ‘Tôi đã thấy ở đó những giải đáp cho các vấn nạn của mình’, vì có lúc tôi sợ rằng nếu việc tôi tôn sùng Mẹ Maria ‘trở thành quá đà thì sẽ đi đến chỗ làm tổn thương tới tính cách tối thượng của việc tôn thờ giành cho Chúa Kitô’ (Dono e Mistero, Libreria Editrice Vaticana, 1996; English edition: Gift and Mystery, Paulines Publications Africa, p. 42). Với sự hướng dẫn khôn ngoan của Thánh Louis Marie, tôi đã nhận ra rằng nếu ai sống mầu nhiệm Mẹ Maria trong Chúa Kitô thì không có vấn đề nguy cơ này. Thật thế, tư tưởng Thánh Mẫu của vị Thánh này ‘đã bắt nguồn từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và từ sự thật Nhập Thể của Lời Thiên Chúa’ (ibid.).

 

Từ khi được hạ sinh, nhất là vào những lúc khó khăn nhất của mình, Giáo Hội đã thiết tha chiêm ngưỡng biến cố Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô được Thánh Gioan đề cập tới, đó là: ‘Đứng kề Thánh Giá Chúa Giêsu có Mẹ của Người, và chị của Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas, cùng với Maria Mai Đệ Liên. Khi Chúa Giêsu thấy Mẹ của mình và môn đệ Người yêu đứng gần thì Người nói với Mẹ mình rằng: Hỡi Bà, này là con của bà! Đoạn Người nói với người môn đệ rằng: Này là người mẹ của con! Và từ lúc đó người môn đệ ấy mang Người về nhà mình’ (Jn 19:25-27). Qua giòng lịch sử của mình, Dân Chúa đã cảm nghiệm được tặng ân này của Chúa Giêsu tử giá, đó là tặng ân Mẹ Người. Mẹ Maria Rất Thánh thực sự là Mẹ của chúng ta, vị đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình đức tin, đức cậy và đức mến, tiến tới chỗ càng được hiệp nhất nên một hơn với Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ và là Trung Gian cứu độ duy nhất (x Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, các số 60, 62).

 

Như đã quá rõ, huy hiệu giáo phẩm của tôi cho thấy một cách tượng trưng câu Phúc Âm được trích dẫn trên đây; câu khẩu hiệu Totus tuus là câu được gợi hứng bởi giáo huấn của Thánh Louis Marie Grignion de Montfort (cf. Gift and Mystery, pp. 42-43; Rosarium Virginis Mariae, n. 15). Hai chữ này diễn tả việc hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu qua Mẹ Maria: ‘Tuus totus ego sum, et omnia mea tua sunt’, Thánh Montfort đã viết như thế và ngài chuyển dịch sang ngôn từ của mình như sau: ‘Tất cả con là của Chúa, và tất cả những gì con có là của Chúa, Ôi Chúa Giêsu rất dấu yêu, nhờ Mẹ Maria, Người Mẹ rất thánh của Chúa’ (Treatise on True Devotion, n. 233). Giáo huấn của vị Thánh này đã gây được một ảnh hưởng sâu xa nơi lòng tôn sùng của nhiều tín hữu và nơi cuộc sống của tôi. Nó là một giáo huấn được sống bởi một tầm mức sâu xa trổi vượt về khổ hạnh và thần bí, một tầm mức được thể hiện nơi một kiểu cách sống động và hăng say thường sử dụng đến các thứ hình ảnh và biểu hiệu. Tuy nhiên, việc phát triển đáng kể thần học về Thánh Mẫu từ thời Thánh Louis Marie phần lớn là do việc đóng góp quan trọng của Công Đồng Chung Vaticanô II. Bởi thế, giáo huấn của Thánh Montfort, một giáo huấn vẫn giữ được tính cách hiệu lực thiết yếu của nó, cần phải được đọc lại và tái dẫn giải ngày nay theo chiều hướng của Công Đồng này.

 

Trong bức thư đây, tôi muốn chia sẻ với anh chị em, hỡi Tu Sĩ Nam Nữ Thuộc Chư Gia Đình Montfort, việc suy niệm về một số đoạn trong bản văn của Thánh Luois Marie để giúp chúng ta trong những lúc khó khăn này biết nuôi dưỡng đức tin của chúng ta nơi việc môi giới từ mẫu của Người Mẹ Chúa Kitô.

 

(còn tiếp)

 

Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, chuyển dịch từ  

http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/letters/2004/documents/hf_jp-ii_let_20040113_famiglie-monfortane_en.html

 

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

TỪ THÁNH THỂ ĐẾN CÁNH CHUNG

 

 Nhân Ngày Lao Công Con Người 1/5

 

 

Chất liệu được trở nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô chính là “hoa mầu ruộng đất” và “rượu bởi cây nho”. Nghĩa là, bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, qua lời vị chủ tế khẩn cầu trước mỗi lần Truyền Phép Thánh Hiến Bánh Rượu, những chất liệu thiên nhiên, tiêu biểu cho “toàn thể tạo vật” thuộc thế giới tự nhiên, sẽ được hoàn toàn biến đổi tận bản chất của mình, để trở thành thần linh và sự sống. Mỗi lần việc biến thể (transubstantiation), việc bánh trở nên Mình Thánh Chúa Giêsu và rượu trở nên Máu Thánh Chúa Giêsu xẩy ra trên bàn thờ trong Thánh Lễ là mỗi lần nhắc nhở cho Kitô hữu Công Giáo chúng ta chân lý cánh chung này, đó là chính thân xác tầm thường, hèn hạ và chết chóc của chúng ta sau cùng cũng sẽ được biến đổi nên giống như thân xác linh thiêng, hiển vinh và bất tử của Chúa Giêsu Kitô: “Người sẽ ban cho thân xác thấp hèn của chúng ta một thể thức mới và tái tạo nó theo như khuôn mẫu của thân xác hiển vinh Người, bằng quyền năng Người bắt mọi sự suy phục Người” (Phil 3:21).

 

Vẫn biết, trong ngày sau hết “tất cả mọi kẻ chết sẽ sống lại nơi thân thể như họ đang có hiện nay” (CĐ Lataranô IV năm 1215: DS 801), thế nhưng, chỉ có “những ai làm lành thì phục sinh để được sống, còn ai hành ác thì phục sinh để chịu luận phạt” (Jn 5:29; x Dan 12:2; Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, 998). Tức là thân xác của kẻ lành mới được biến đổi nên giống như thân xác vinh hiển của Chúa Kitô Phục Sinh, còn thân xác của thành phần hư đi tuy cũng được biến đổi thành linh thiêng nhưng lại là một tình trạng linh thiêng giống như ma quỉ trong hỏa ngục. Yếu tố chính yếu làm cho thân xác của kẻ lành được biến đổi trở thành vinh hiển giống như thân xác của Chúa Kitô Phục Sinh, hoàn toàn khác với thân xác của thành phần đời đời hư đi trong hỏa ngục chính là Sự Sống nơi kẻ lành khi còn sống trên trần gian trước khi chết, một Sự Sống họ đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa: “Nhờ phép rửa trong sự chết của Người, chúng ta đã được mai táng với Người, để như Đức Kitô nhờ vinh quang của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, chúng ta cũng được sống một sự sống mới như vậy” (Rm 6:4).

 

“Sự sống mới” đây là gì, nếu không phải, về phương diện thần học, là chính sự sống “tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8:21), sự sống toàn thể tạo vật mong đợi nơi họ để được giải phóng và thông phần vào, sự sống được hiệp nhất nên một với Thiên Chúa, với chính mình, với tha nhân và với toàn thể thiên nhiên tạo vật như ngay từ khi con người còn ở trong tình trạng thánh thiện và công chính nguyên thủy (x Giáo Lý GHCG, 399-400). Về phương diện tu đức, “sự sống mới” “tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa”, chính là “sống không theo xác thịt song theo thần trí” (Rm 8:4; x Col 5:16), vì “xác thịt hướng về sự chết còn thần trí hướng về sự sống và bình an” (Rm 8:6): “Nếu anh em sống theo xác thịt, anh em sẽ chết; nhưng nếu bởi thần trí anh em tiêu diệt những việc xấu xa của thân xác anh em sẽ sống” (Rm 8:13). “Những việc xấu xa của thân xác” hay của “xác thịt là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Col 5:19-21); còn những việc hay “hoa trái của thần trí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Col 5:22-23).

 

“Người ta chỉ gặt gái những gì họ đã gieo vãi. Nếu họ gieo vãi nơi thửa ruộng xác thịt, họ sẽ gặt hái được mùa màng băng hoại; nhưng nếu hạt giống gieo xuống của họ là thần trí thì họ sẽ gặt được sự sống trường sinh” (Gal 6:8). Đúng thế, “mùa gặt đây là tận thế” (Mt 13:39), lúc mà “Đấng ngự trên ngai phán phán: ‘Này đây Ta đổi mới mọi sự... Xong cả rồi! Ta là Alpha và Ômega, là Khởi Nguyên và là Cùng Tận. Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh mà không phải trả tiền. Ai thắng sẽ được hưởng hồng ân đó. Ta sẽ là Thiên Chúa của người ấy, và người ấy sẽ là con của Ta. Còn những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ dối trá điêu ngoa, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh ngùn ngụt cháy: đó là cái chết lần thứ hai’” (Rev 21:5-8).

 

Thiên Chúa chỉ hứa cứu chuộc con người tạo vật khỏi cái chết lần nhất mà thôi, như lời Ngài hứa với hai nguyên tổ sau khi sa phạm đó là Ngài sẽ cho “miêu duệ người nữ... đạp nát đầu” (Gen 3:15), “con cựu xà, tức Satan, tên cám dỗ cả thế gian” (Rev 12:9). Đức Giêsu Kitô, con của Đức Maria, “một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse thuộc giòng dõi Đavít” (Lk 1:27), thực sự đã “đạp nát đầu” (Gen 3:15) con cựu xà Satan bằng tử giá cứu độ của mình: “Chính vì để phá hủy các việc làm của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra” (1Jn 3:8); “Một khi Tôi bị treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32). Đúng thế, nhờ cuộc tử giá của Chúa Kitô, “Vị Mục Tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên” (Jn 10:11), mà đàn chiên Kitô hữu môn đệ của Người, qua Bí Tích Rửa Tội đã “được sự sống” (Jn 10:10), và qua Bí Tích Thánh Thể, còn được hưởng “một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10), một sự sống phát xuất từ chính huyết nhục của Mẹ Maria được “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) mặc lấy: “Thịt Tôi là của ăn thật, máu Tôi là của uống thật. Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở trong Tôi và Tôi ở trong họ” (Jn 6:55-56).

 

Thật vậy, Thiên Chúa nhập thể làm người không phải chỉ để trở thành một Vị “Thiên Chúa ở giữa chúng ta” (Mt 1:23; Is 7:14) một cách tổng quát chung chung vậy thôi, mà Người còn muốn ở với và ở trong mỗi người chúng ta nữa, vì Người thương từng con chiên của Người, dù là con chiên lạc đàn duy nhất (x. Mt 18:10-14). Bởi thế, Người không chỉ muốn ở trong hồn thiêng bất tử của chúng ta bằng Ơn Thánh của Người mà thôi, Người còn muốn thực sự ở trong thân xác tro bụi hèn hạ tầm thường của chúng ta nữa bằng chính Thánh Thể của Người, vì Người chẳng những muốn cứu linh hồn chúng ta khỏi tội lỗi bằng Thánh Giá của mình, Người còn muốn cứu cả thân xác hữu hình và hữu hạn của chúng ta khỏi sự chết bằng Thánh Thể của Người nữa, nghĩa là Người muốn cả thân xác của chúng ta cũng sẽ được sống lại như thân xác hiển vinh của Người trong ngày sau hết.

 

Như thế, quả thật Thánh Thể có liên quan hết sức mật thiết đến “việc cứu độ của thân xác chúng ta” (Rm 8:23): “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì có sự sống đời đời, phần Tôi sẽ làm cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Jn 6:54). Tuy nhiên, tác nhân làm cho thân xác của những ai ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô sống lại trong ngày sau hết giống như thân xác vinh hiển của Người đây là ai, nếu không phải là chính Thánh Linh, Đấng bao giờ cũng được Giáo Hội cầu khẩn trước khi thánh hiến bánh rượu trên bàn thờ, để nhờ Ngài bánh rượu được trở nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô: “Nếu Thần Linh của Đấng đã phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết ở trong anh em thì Đấng đã phục sinh Chúa Kitô từ trong kẻ chết sẽ mang sự sống đến cho thân xác chết chóc của anh em, bằng Thần Linh của Ngài ở trong anh em” (Rm 8:11).

 

Tuy nhiên, không phải cho đến khi thân xác con người ăn Mình Thánh và uống Máu Thánh Chúa Kitô khi còn sống sắp phục sinh từ trong cõi chết Thần Linh của Thiên Chúa mới “mang sự sống đến cho thân xác chết chóc” của họ, mà là ngay từ khi họ còn sống trong thân xác của họ trên thế gian này. Ở chỗ, “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống” (Kinh Tin Kính) làm cho họ càng ngày càng nhận biết Chúa Kitô hơn (x Jn 16:13), để rồi, nhờ nhận biết Chúa Kitô, một nhận biết chính là sự sống trường sinh (x Jn 17:3), họ sẽ sống Chúa Kitô, tức sẽ tác hành như Chúa Kitô, đến nỗi, không phải họ sống nữa mà là Chúa Kitô sống trong họ (x Gal 2:20), một sự sống khiến cho những ai thấy họ là nhận ra Chúa Kitô (x Jn 13:15).

 

Sự sống Chúa Thánh Thần làm cho thế gian nhận ra Chúa Kitô nơi những ai lãnh nhận Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô đây chính là sự sống “yêu thương như Thày yêu” (Jn 15:12, x 13:34), một tình yêu cao cả đã hiến mạng sống mình vì người mình yêu (x Jn 15:13). Như thế, khi Kitô hữu sống tình yêu cao cả này của Chúa Kitô và như Chúa Kitô là họ chẳng những thực sự “cử hành mầu nhiệm thánh” (theo lời kêu gọi thống hối mở đầu mỗi Thánh Lễ), cử hành Mầu Nhiệm Yêu Thương của Thiên Chúa được lập lại trong Hiến Tế Thánh Thể, một mầu nhiệm đòi con người phải biết yêu thương tha thứ cho nhau mới hội đủ điều kiện xứng đáng để dâng tiến (x Mt 5:23-24), mà họ còn thực sự “làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19; 1Cor 11:24) ngay trong cuộc sống của họ nữa, chứ không phải chỉ ở trên bàn thờ khi dâng lễ thôi, vì họ làm cho biến cố Tử Giá Cứu Độ có tác dụng “một lần là vĩnh viễn” (Heb 7:27, 10:10; 1Pet 3:18) của Chúa Kitô tái diễn “cho tới khi Chúa lại đến” (như lời tung hô sau truyền phép), một cách hiển nhiên và sống động trên thế gian, chứ không phải một cách bí tích và mầu nhiệm chỉ có ở trong phụng vụ và nội bộ cộng đồng Dân Chúa thôi.

 

Nếu cuộc đời của những người lãnh nhận Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô sống Tình Yêu cao cả của Người thực sự cử hành một Thánh Lễ sống động như thế, thì bản thân họ, nhân tính của họ nói chung và thân xác của họ nói riêng, như Chúa Kitô, cũng đã trở thành một “con chiên bị đem đi sát tế” (Is 53:7), một “con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Jn 1:29). Vì “theo Con Chiên đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên đến” (Rev 14:4) như vậy mà “khi Con Người đến trong vinh quang, ngự trên ngai, có tất cả các thiên thần hầu chực và muôn dân tụ họp trước nhan Người” (Mt 25:31-32), họ mới là thành phần “chiên ở bên phải Người” (Mt 25:33), thành phần được Người nhận biết và tưởng thưởng hết sức xứng đáng vì những việc họ làm “khi họ còn sống ở trong thân xác” (2Cor 5:10) để đáp ứng những nhu cầu cụ thể hầu như liên quan trực tiếp đến thể lý của tha nhân là những con người vô cùng cao quí đã được chính Vị Thiên Chúa Làm Người Giêsu Kitô đồng hóa với Người: “Hãy đến. Các con được Cha Ta chúc phúc! Hãy hưởng vương quốc đã sắm sẵn cho các con từ khi tạo thành thế gian. Vì khi Ta đói các con đã cho Ta ăn, Ta khát các con đã cho Ta uống. Khi Ta là khách lạ các con đã đón nhận Ta, trần truồng các con đã cho Ta mặc. Khi Ta đau yếu các con đã an ủi Ta, tù ngục các con đã đến viếng thăm Ta... vì bao lâu các con làm như thế cho một trong những người anh em hèn mọn nhất của Ta là các con làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:35- 36, 40).

 

Nếu con người lãnh nhận Thánh Thể Chúa Kitô thực sự có thể sống Chúa Kitô, có thể yêu thương như Người đã yêu thương, thì không phải là thân xác của họ đang được Thần Linh của Người biến đổi làm cho nên giống thân xác vinh hiển của Người ngay ở đời này rồi hay sao? Ở chỗ, xác thịt vốn là một thực thể hướng chiều về sự chết (x Rm 8:6): “Cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt” (Jn 3:6), lại có thể sinh hoa trái sự sống yêu thương. Vậy để biết mình đã hơn một lần hay vẫn thường xuyên lãnh nhận Thánh Thể Chúa Kitô có thực sự sống sự sống của Người hay chưa, tức đã được Thần Linh của Người biến đổi hay chưa, chúng ta hãy thực tâm xét mình lại xem, về phần tiêu cực, chúng ta có còn dùng miệng lưỡi vẫn há ra rước lấy Thánh Thể vô cùng cao trọng của Người để nói hành, nói xấu, chê bai, hành tỏi nhau, hoặc có còn tự nhiên ham thích khoái lạc xác thịt thấp hèn cả về tình dục và cảm quan, cả về việc đua đòi tiện nghi và say sưa chè chén, trái lại, về mặt tích cực, chúng ta có biến thân xác của mình trở thành khí cụ cho đức chính trực (x Rm 6:13) trong việc phục vụ tha nhân, tức trở thành bánh nuôi sống nhân gian chăng? Nếu chưa hay rồi, chúng ta cũng hãy Sống Thánh Thể hơn nữa, bằng cách “liên lỉ mang trong mình cái chết của Chúa Giêsu để sự sống của Chúa Giêsu được tỏ hiện trong thân xác của chúng ta” (2Cor 4:10).

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Lao Công Con Người

 

Lễ Thánh Giuse Thợ 1/5

 

  

Lao Công Và Đời Sống 

 

P

hải, nếu thành ngữ: “eternal rest”, nghỉ yên muôn đời, được giành cho những con người vĩnh viễn ra khỏi trần gian thế nào, thì thành ngữ “đời là một cuộc chiến đấu” cũng áp dụng cho những con người vào đời và còn sống trên trần gian này như vậy. “Đời là một cuộc chiến đấu” chẳng những có thể được hiểu về những khó khăn thử thách trên đời, mà, trước hết và trên hết, còn được hiểu về tình trạng con người phải vất vả làm ăn sinh sống, nhiều khi phải dùng đến từ ngữ “tranh sống” để mà survive, sống còn. Thực tế cho thấy, ngay tại mảnh đất cơ hội opportunity land Mỹ Quốc này, người ta tranh sống hơn bao giờ hết và hơn ở đâu hết. Đến nỗi, hầu như người nào, dù giầu có đi nữa, cũng cảm thấy cuộc đời của mình thật là chật chội, lận đận long đong, chẳng có giờ giấc gì để mà thụ hưởng những gì mình làm ra cả. Nhiều khi chưa kịp hưởng đã bị mất tiêu. Lúc nào con người cũng lo lắng phải làm sao kiếm ra tiến và đủ tiền để trang trải cho các thứ bills hàng tháng. Bill nhà ở, bill xe cộ, bill bảo hiểm, bill điện thoại, bill điện nước, bill mua đồ, bill tín dụng v.v. Bởi thế, đi làm công thì hết làm ngày đến làm đêm, có giờ overtime phụ trội là nhào vô liền, bao nhiêu cũng làm. Nếu làm chủ thì không dám đóng cửa đi vacation nghỉ hè kẻo mất khách, mở cửa hầu như suốt năm, 7 ngày một tuần, 12 tiếng một ngày v.v. Bởi vì, mất việc là mất tất cả: mất nhà cửa, mất xe cộ, nhất là bị bad credit thất tín dụng, thậm chí từ đó còn bị mất cả gia đình nữa. Thành ngữ “lao động là vinh quang” phát xuất từ Việt Nam ngay sau năm 1975, thời được nhà văn kiêm nhạc sĩ Hà Thúc Sinh diễn tả “chỉ còn hàm răng là sống hung hăng giữa mùa khát thèm” trong bài “Chàng thi sĩ lính và hầm chứa xác” được danh ca Khánh Ly trình bày ở cuốn băng Tủi Nhục Ca, không ngờ lại đúng nhất và hợp nhất ở cuộc sống tại thiên đường Mỹ Quốc này. 

 

Tuy nhiên, không phải con người sống trong xã hội văn minh Mỹ Quốc quay cuồng với việc làm chỉ vì “lao động là vinh quang”, thất nghiệp là đời tàn, mà còn vì việc làm gắn liền với thân phận làm người của họ. Đến nỗi, như chim bay thế nào, con người sống trên đời cũng phải làm việc như vậy. Bằng không, con người sống trên đời chẳng có ý nghĩa gì cả. Đó là lý do, con người cảm thấy boring, buồn chán, khi không có việc gì làm. Người về hưu cũng cố tìm được một mảnh vườn để ra vào làm việc cho khuây khỏa. Giới trẻ trong năm học thì chỉ mong cho đến ngày lễ để nghỉ, nhưng hè đến thì lại cảm thấy hết sức boring v.v. Thế nhưng, cái boring của giới trẻ ở đây không phải là chúng muốn kiếm việc gì làm, cho bằng muốn có những gì vui chơi, như đi cấm trại, du ngoạn, hay ít là có bạn bè bên cạnh. Dù sao đi nữa, cái boring nơi mọi giới tuổi, già cũng như trẻ, đều chứng tỏ cho thấy con người một khi còn sống là còn cảm thấy cần phải không ngừng sinh hoạt. Ăn uống và ngủ nghỉ chẳng những là những tác động cần thiết để con người có thể lấy sức tiếp tục sinh hoạt hơn, mà chính việc ăn uống và ngủ nghỉ cũng là những sinh hoạt quan yếu của con người nữa.

 

Bởi thế, lao động có thể được hiểu theo ba ý nghĩa sau đây. Ý nghĩa đầu tiên của lao động ở đây có thể được hiểu rộng là tất cả mọi sinh hoạt của con người sống trên đời. Ý nghĩa thứ hai của lao động ở đây có thể hiểu hẹp hơn trong giới hạn liên quan đến tất cả những việc làm ăn sinh sống theo nghề nghiệp khiến con người phải lao nhọc, kể cả việc con người phải lao tâm về trí óc lẫn lao lực về tay chân. Và ý nghĩa thứ ba của lao động ở đây được áp dụng cách riêng cho những việc làm về thể lực của con người, những việc làm cho con người phải đổ mồ hôi, điển hình là việc làm ruộng ngoài đồng, làm việc sản xuất trong các hãng xưởng kỹ nghệ, làm việc chuyên chở nhân sự và hàng hóa v.v. Phải chăng vì ý nghĩa lao nhọc của nghề nghiệp cũng như lao động của việc làm về thể lực mà tại Hoa Kỳ người ta lập ra Ngày Lao Động, Labor Day, và cử hành Labor Day này như là một Ngày Lễ, bằng cách cho phép nhân viên làm việc, nhất là ở các công sở, đều được nghỉ việc vào chính Ngày Lễ Lao Động, Labor Day này?

 

 

Lao Công Và Phát Triển

 

Không hoàn toàn như vậy. Thành phần đi làm được nghỉ việc trong Ngày Lễ Lao Động Labor Day không phải chỉ để xả hơi cho đỡ mệt rồi sau đó tiếp tục lao đầu vào làm việc, lao đầu vào việc đi cầy trả nợ v.v. Trái lại, người ta nghỉ việc trong ngày này là để cử hành nó, đúng hơn là để cử hành ý nghĩa của Lao Động, một ý nghĩa hết sức cao quí và đầy giá trị, đáng con người phải ngừng tay làm việc một ngày để nghĩ lại, để lấy lại tinh thần làm việc, nhờ đó họ có thể làm việc một cách xứng đáng hơn và hiệu quả hơn, chẳng những cho chính bản thân họ, mà còn cho gia đình họ cũng như cho chung nhân quần xã hội nữa. Thế thì ý nghĩa đích thực của Lao Động, hay bản chất của Lao Động, hoặc giá trị của Lao Động đây là gì? Nếu không phải Lao Động là yếu tố bất khả thiếu để giúp cho cá nhân, gia đình và xã hội loài người phát triển một cách trọn vẹn.

 

Đúng thế, Lao Động sẽ chẳng có ý nghĩa và giá trị gì, đến nỗi sẽ mất hẳn bản chất của nó, nếu nó không đi liền với Phát Triển và không nhắm đến mục tiêu Phát Triển. Phải nhận thực là cốt lõi của Lao Động là Phát Triển, nếu Lao Động không Phát Triển tức là đi ngược chiều, là đi lạc hướng, thậm chí có thể đi đến bờ vực thẳm, đi đến hố diệt vong. Thế nhưng, Lao Động và Phát Triển chỉ là những giá trị khách quan, chúng không thể đồng hành và đồng qui, trái lại, chúng còn có thể tương khắc và tương tàn với nhau, hoàn toàn tùy thuộc vào yếu tố Nhân Bản, tức tùy theo con người tác nhân Lao Động. Nếu con người làm việc Lao Động biết đoàn kết tương thân tương ái, biết dấn thân phục vụ, coi công ích hơn tư lợi v.v. thì họ mới thực sự là con người xây dựng xã hội loài người, mới làm cho bản thân họ, gia đình họ cùng với toàn thể nhân gian được Phát Triển. Bởi thế, nếu nói đến Công Việc Lao Động là nói đến Phát Triển, thì nói đến Phát Triển không thể nào không nói đến Tinh Thần Lao Động, tức, như vừa đề cập, nói đến Tinh Thần Đoàn Kết Tương Trợ cũng như Tinh Thần Dấn Thân Phục Vụ.

 

Đoàn Kết Tương Trợ trong Công Việc Lao Động nghĩa là làm việc gì thì làm, dù làm chính khách hay nông dân, dù làm việc để kiếm chác sinh nhai hay làm việc thiện nguyện volunteer đi nữa, con người cũng phải làm “chung” với mọi người và làm “cho” mọi người. Làm “chung” với mọi người là ở chỗ, ai làm việc nấy, theo trách nhiệm và khả năng của mình, như trong một thân thể, đầu làm việc của đầu, tay làm việc của tay, mắt làm việc của mắt, nhờ đó, những phần thể này làm cho toàn thân sinh động và phát triển thế nào, thì mỗi phần tử trong cơ cấu xã hội cũng cần phải cố gắng chu toàn trách nhiệm và khả năng của mình, theo lương tâm và qui định. Còn làm “cho” mọi người là ở chỗ, khi làm việc con người lao Động chỉ nhắm đến công ích, đến thiện ích chung của mọi người, hơn là tư lợi cá nhân hay thủ lợi cho phái nhóm.

 

Nhìn vào xã hội loài người khắp thế giới hiện nay, thực tế cho thấy con người đang nỗ lực làm việc “chung” với nhau để canh tân bộ mặt trái đất, làm cho bộ mặt trái đất rạng ngời ánh sáng văn minh vật chất về khoa học và kỹ thuật tân kỳ của họ hiện nay. Tuy nhiên, về phương diện văn minh nhân bản thì hình như con người ngày nay đang ở trong tình trạng thực hiện những việc làm “công” kích nhau, phản  diệt nhau, chứ không phải “cho” nhau. Chẳng hạn, thế giới tư bản tự do hoàn toàn tương phản và tương khắc với thế giới cộng sản chuyên chế. Chẳng hạn, các nước tân tiến, thường ở bắc phương, càng bành trướng quyền lực chính trị và thị trường kinh tế thì các nước chậm tiến hay đang tiến, thường ở phía nam, đã nghèo lại càng nghèo thêm, với chồng chất những món nợ quốc tế kếch xù không thể trả. Chẳng hạn, phong trào phò quyền sự sống pro life hoàn toàn chống chọi với phong trào phò quyền tự quyết pro choice. Chẳng hạn, những cuộc tấn công khủng bố trả đũa những cuộc khủng bố tấn công, điển hình là tại Trung Đông giữa khối Palestine với những cuộc khủng bố tấn công và khối Do Thái với những cuộc tấn công khủng bố, hầu như không thể chấm dứt, nhất là từ năm 2000 đến nay, cũng như tại Hoa Kỳ vào ngày 11/9/2001, ngày khủng bố tấn công Hoa Kỳ, và ngày 7/10/2001, ngày Hoa Kỳ tấn công khủng bố. Ngoài ra, Lao Động còn bị lòng tham của con người bóp méo. Ở chỗ, Lao Động vô sản hay Lao Động trả nợ như trong thế giới Cộng Sản. Hay trong thế giới tư bản có kiểu Lao Động rẻ tiền, làm nhiều lương ít, như thân phận của những người Mễ khốn khổ trong nước Mỹ, hoặc kiểu Lao Động ép uổng, theo luật chỉ buộc làm 40 tiếng một tuần, nhưng nếu không làm giờ phụ trội khi cần cũng có thể bị sa thải vì những cớ chụp mũ khác.

 

Chính vì Lao Động đi ngược chiều với Phát Triển như thế, thực tế cho thấy xã hội văn minh vật chất hiện nay của con người chẳng những đã đi đến bờ vực thẳm mà còn đang lao xuống hố diệt vong nữa, vì nền tảng của xã hội là gia đình đang bị tan rữa bởi nạn ly dị và phá thai, nạn đồng tính hôn nhân và tạo sinh ngoại nhiên. Đó cũng là chứng cớ hiển nhiên và hùng hồn nhất cho thấy Lao Động và Phát Triển hết sức liên hệ chặt chẽ với nhau, chặt chẽ ở Tinh Thần Lao Động nơi tác nhân con người, một Tinh Thần Đoàn Kết Tương Trợ, làm việc Lao Động “chung” với mọi người, và Tinh Thần Dấn Thân Phục Vụ, làm việc Lao Động “cho” mọi người. Không biết có phải vì cố ý hay ngẫu nhiên mà Cuộc Họp Thượng Đỉnh Về Việc Phát Triển Khả Thủ, The World Summit for Sustainable Development, đã được tổ chức vào những ngày trước và sau dịp Lễ Lao Động Hoa Kỳ, 2/9/2002.

 

 

Lao Công và Quốc Tế

 

Thật vậy, Cuộc Họp Thượng Đỉnh về Việc Phát Triển Khả Thủ lần này tại Johannesburg ở Nam Phi trong thời gian từ ngày 26/8 đến 4/9/2002 là cuộc họp thập niên sau cuộc họp ở Rio de Janeiro trước đây. Để sửa soạn cho cuộc họp lần này, đã có một cuộc họp dự thảo tại Bali Nam Dương vào những ngày 27/5-7/6/2002. Trong cuộc họp dự thảo này, Quốc Đô Vatican, Vatican City State, đã phổ biến một văn kiện khai triển chủ đề phát triển. Vậy, nhân dịp Lễ Lao Động Hoa Kỳ, chúng ta cũng nên ôn lại bản văn kiện này, bản văn kiện rất hợp với Tinh Thần Lao Động chúng ta vừa mới đề cập đến trên đây, đó là một Tinh Thần Đoàn Kết Tương Trợ, làm việc Lao Động “chung” với mọi người, và Tinh Thần Dấn Thân Phục Vụ, làm việc Lao Động “cho” mọi người.

 

Trước hết, về Tinh Thần Đoàn Kết Tương Trợ, làm việc Lao Động “chung” với mọi người, bản văn kiện đã đề cập đến vấn đề môi sinh, vấn đề toàn cầu hóa và vấn đề hợp tác quốc tế.

 

Về vấn đề môi sinh, theo bản văn kiện này, việc phát triển trước hết liên quan đến vấn đề môi sinh, một dấu hiệu cho thấy “tình đoàn kết nhân loại”, một dấu hiệu “hiển nhiên bao gồm việc bảo trì và chăm bón cho các nguồn lợi của trái đất”.

 

Về vấn đề phát triển liên quan đến tiến trình toàn cầu hóa, văn kiện của Quốc Đô Vatican cho biết là: “nó chẳng tốt cũng không xấu. Nó sẽ là những gì con người làm nên nó. Không có một hệ thống nào tự mình là cùng đích cả, và cần phải nhấn mạnh là vấn đề toàn cầu hóa, như bất cứ một hệ thống nào khác, phải phục dịch con người; nó phải phục vụ tình đoàn kết và công ích”. Để cụ thể hóa vấn đề phát triển liên quan đến tiến trình toàn cấu hóa này, bản văn kiện của Quốc Đô Vatican nhấn mạnh đến việc “hết sức cần thiết phải nhổ tận gốc tình trạng nghèo khổ”. Để đạt được mục đích này, cần phải có “sự tham dự chủ động của người nghèo”. Bản văn nhận định là: “Có quá nhiều những đề án đang được bàn thảo nhìn thành phần nghèo như là một cái nạn chứ không phải như là những diễn viên sản xuất và sáng tạo trong xã hội”. Theo nhận định này, Quốc Đô Vatican kêu gọi “việc cung cấp những cơ hội làm việc, giáo dục, chăm sóc sức khỏe căn bản và nơi ăn chốn ở đầy đủ. Phải xét lại và cổ động những kiểu cách tiêu thụ và sản xuất mới hợp với những nguyên tắc về phẩm giá và tình đoàn kết của con người. Vì hơn một nửa dân số thế giới vẫn còn sống ở những miền quê và vì thành phần nghèo nàn quê mùa thiếu cơ hội được hưởng các dịch vụ xã hội tối thiểu nhất, họ cần phải được chú trọng và cứu xét hơn nữa… cần phải bảo đảm mọi người có được nước dùng trong lành”.

 

Tiến trình toàn cầu hóa trong việc phát triển còn là vấn đề liên quan đến mối liên hệ giữa các quốc gia nữa. Bởi thế, bản văn của Quốc Đô Vatican đã đề cập đến khía cạnh là “tình liên kết có một tính chất linh thiêng cần phải đâm rễ sâu xa hơn trong việc chúng ta tiến đến chỗ giải quyết những vấn đề quốc tế”. Thế nên, bản văn kiện này đã đề nghị nên có một “chính quyền quốc tế” dựa trên nguyên lý phụ thuộc, một nguyên lý mà theo đó, nếu nước nào “không có khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển của mình, thì những nước khác buộc phải hỗ trợ nước ấy”.

 

Sau nữa, về Tinh Thần Dấn Thân Phục Vụ, làm việc Lao Động “cho” mọi người, bản văn kiện đề cập đến những vấn đề môi sinh, luân lý, nhân phẩm, nhất là tặng ân hy hiến bản thân mình.

 

Theo bản văn kiện thì việc phát triển của con người muốn thành đạt và tồn tại cần phải đặt trên: “những giá trị luân thường đạo lý vững chắc, hay không thể nào thiếu được sự hướng dẫn cùng với những nền tảng cần thiết nhờ đó việc phát triển được theo đuổi này mới có thể thành đạt và tồn tại”. Bản văn kiện đã định nghĩa ý niệm phát triển khả thủ như sau: “Nói đến ý niệm về việc phát triển khả thủ là nói đến tiến trình đáp ứng những nhu cầu của con người hiện đại liên quan đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các nhu cầu của họ. Ý niệm này phải được hiểu theo quan điểm của việc phát triển toàn diện con người”. Bản văn kiện đã lập lại chiều hướng duy nhất cho việc phát triển đích thực của con người từ cuộc họp thượng đỉnh 10 năm trước như sau: “Nguyên lý tiên quyết của Bản Tuyên Ngôn Rio ở chỗ: ‘Con người là trung tâm của những mối quan tâm về việc phát triển khả thủ’”. Đó là lý do tại sao Quốc Đô Vatican đã kêu gọi Cuộc Họp Thượng Đỉnh ở Johannesburg lần này hãy chấp nhận từ ngữ “vấn đề môi sinh nhân bản”, human ecology. Bản văn kiện của Quốc Đô Vatican đã giải thích thêm về vấn đề môi sinh nhân bản như sau: “Khái niệm trọn vẹn về vấn đề môi sinh nhân bản… chính yếu là ở việc bảo toàn và canh chừng những điều kiện về luân lý nơi tác hành của con người ở môi sinh. Cũng cần phải lưu ý là cái cấu trúc đầu tiên và cốt yếu của vấn đề môi sinh nhân bản đó là gia đình, nơi con người nhận được những ý tưởng giáo dục đầu tiên về sự thật và sự thiện, và biết được thế nào là yêu thương hay được thương yêu, nhờ đó biết được cả sự thực về con người là gì”.

 

Bản văn kiện của Quốc Đô Vatican đã kết thúc bằng một yếu tố quyết liệt cho việc phát triển đó là việc con người hiến thân với một phẩm vị “được xây trên tính cách chuyên nhất của con người khác biệt với tất cả mọi tạo vật; tức là tính cách được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa. Việc tương tự này chứng tỏ là con người, tạo vật duy nhất trên mặt đất được Thiên Chúa cho quyền sống vì mình, không thể hoàn toàn tìm thấy bản thân mình ngoại trừ thành thật trao tặng bản thân mình. Việc trao tặng bản thân mình là bảo đảm trên hết cho phúc hạnh của những người khác cũng như cho các thế hệ tương lai”.

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net