THỨ TƯ 21/5/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Đức Bà dellea Guardia: ‘Hãy tin nơi Mẹ!’

Huấn Từ Nguyện Kinh Truyền Tin Chúa Nhật 18/5/2008

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

 Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

Hình Ảnh Thánh Kinh về Việc Tôn Sùng này: Bà Rebecca và Giacóp (186-190)

 Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

   MẾN Yêu Thánh Thể  

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

Thông Điệp Thánh Thể

Mầu Nhiệm Đức Tin (19-20)

  YÊU Thương Tha Nhân  

Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Châu Âu

"Nhân quyền và các quyền lợi của gia đình" (3.1-3.5)

Những Nhận Ðịnh của Cuộc Họp Quốc Tế Lần Thứ Hai  

    

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI
 

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

“Bản Chất và Căn Tính của Nền Giáo Dục Công Giáo Ngày Nay”

Huấn dụ Thành Phần Giảng Dạy ở Các Học Đường Công Giáo Các Cấp

 (tiếp THỨ HAI 19/5/2008)

Các bạn thân mến, lịch sử của quốc gia này có nhiều gương mẫu của việc Giáo Hội dấn thân về vấn đề này. Cộng đồng Công Giáo ở nơi đây thực sự đã coi việc giáo dục là một trong những ưu tiên hằng đầu của mình. Điều này không thể nào xẩy ra nếu không có nhiều hy sinh. Những nhân vật nổi bật như Thánh Elizabeth Ann Seton và những vị sáng lập nam nữ khác, bằng sự kiên trì và nhìn xa trông rộng của mình, đã đặt những nền tảng của những gì ngày nay trở thành một hệ thống khả quan về các trường học giáo xứ góp phần vào phúc lợi thiêng liêng của Giáo Hội và của quốc gia. Có một số vị, như Thánh Katharine Drexel, đã hiến đời mình cho việc giáo dục những người bị kẻ khác bỏ rơi – trong hoàn cảnh của mình, những người Mỹ gốc Phi Châu và những người Mỹ Châu bản xứ. Vô vàn những tu sĩ nam nữ và linh mục dấn thân cùng với những người làm cha làm mẹ vô vị kỷ, qua các trường học Công Giáo, đã giúp những thế hệ của thành phần di dân vượt qua cảnh nghèo khổ để chiếm được chỗ đứng của mình trong lòng xã hội.

Sự hy sinh này tiếp tục cho tới ngày nay. Thật là một việc tông đồ cả thể của niềm hy vọng, khi kiếm cách giải quyết những nhu cầu về vật chất, về tri thức và về tinh thần của trên  3 triệu trẻ em và học sinh. Nó cũng cung cấp một cơ hội rất đáng ca ngợi cho toàn thể cộng đồng Công Giáo trong việc đóng góp một cách rộng lượng vào những nhu cầu về tài chính của những tổ chức chúng ta. Cần phải bảo đảm vững vàng tính cách nâng đỡ hỗ trợ dài hạn của chúng. Thật vậy, cần phải thực hiện hết những gì có thể, trong việc hợp tác với cộng đồng rộng lớn hơn, để bảo đảm rằng chúng có thể vươn tới thành phần dân chúng thuộc tất cả mọi tầng lớp về xã hội và kinh tế. Không được từ khước quyền được giáo dục đức tin của một em bé nào, một sự giáo dục nuôi dưỡng hồn sống của một quốc gia.

Một số người ngày nay đặt vấn đề về việc Giáo Hội dấn thân cho nền giáo dục, tự nghĩ là không biết những đường lối của Giáo Hội có tốt đẹp hơn ở các nơi khác hay chăng. Chắc chắn là ở một quốc gia như quốc gia này đây thì Quốc Gia cung cấp những nhiều cơ hội giáo dục và thu hút được những con người nam nữ quảng đại dấn thân cho cái nghề giáo dục đang trọng kính này. Bởi vậy mà thật là đúng lúc để suy nghĩ về những gì chuyên biệt đối với các cơ cấu Công Giáo của chúng ta. Chúng đóng góp ra sao cho thiện ích của xã hội qua sứ vụ truyền bá phúc âm hóa chính yếu của Giáo Hội.

Tất cả mọi hoạt động của Giáo Hội xuất phát từ việc Giáo Hội nhận thức rằng Giáo Hội là một người mang tin mừng có nguồn gốc nơi chính Thiên Chúa: nơi sự thiện hảo và đức khôn ngoan của Ngài. Thiên Chúa đã muốn mạc khải bản thân mình và tỏ cho thấy dự án nhiệm mầu của ý muốn Ngài (x Eph 1:9; Dei Verbum, 2). Ước vọng của Thiên Chúa muốn tỏ mình ra, và ước vọng thâm sâu của tất cả mọi con người muốn biết sự thật, trở thành một môi trường cho việc con người tra vấn về ý nghĩa của cuộc sống. Cuộc gặp gỡ đặc thù này được bảo trì trong cộng đồng Kitô hữu của chúng ta: ai tìm kiếm sự thật thì trở nên người sống bởi đức tin (x Fides et Ratio, 31). Nó có thể diễn tả như là một thứ chuyển động từ ‘cái tôi’ đến cái ‘chúng tôi’, khiến cá nhân trở thành phần tử trong Dân Chúa.

Cái năng động này về căn tính của cộng đồng  - tôi thuộc về ai đây? – là những gì làm sống động nét đặc thù của các tổ chức Công Giáo. Một đại học đường hay căn tính của học đường Công Giáo không phải chỉ là một vấn đề của con số học sinh sinh viên. Nó là vấn đề của niềm xác tín – chúng ta có thực sự tin rằng chỉ ở nơi mầu nhiệm Lời nhập thể mới thật sự sáng tỏ mầu nhiệm về con người (x Gaudium et Spes, 22)? Chúng ta có sẵn sàng dấn toàn thân mình – trí khôn và lòng muốn, bộ óc và con tim – cho Thiên Chúa hay chăng? Chúng ta có chấp nhận sự thật được Chúa Kitô mạc khải hay chăng? Đức tin có hiện lộ trong các đại học đường và học đường của chúng ta hay chăng? Chúng ta có thiết tha bày tỏ trong lãnh vực phụng vụ, bí tích, bằng việc nguyện cầu, những hành động bác ái, quan tâm về công lý, và tỏ ra tôn trọng thiên nhiên tạo vật của Chúa hay chăng? Chỉ có thể chúng ta mới thực sự làm chứng cho ý nghĩa của những gì chúng ta là những gì chúng ta chấp nhận mà thôi.

(còn tiếp) 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/april/documents/hf_ben-xvi_spe_20080417_cath-univ-washington_en.html

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

 

Hình Ảnh Thánh Kinh về Việc Tôn Sùng này: Bà Rebecca và Giacóp

 

Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Giải Thích Câu Truyện về Giacóp

 

186.     Đó là hành vi cử chỉ thường tình của thành phần tội nhân:

 

1) Họ cậy dựa vào sức mạnh và tài năng của mình nơi các trần thế vụ. Họ rất năng nổ, lanh lợi và thông hiểu những sự trần thế song rất mù mịt và vô tri đối với những sự trên trời.

 

187.     (2) Họ không bao giờ hay rất hiếm khi có mặt ở nhà, trong nhà của họ, tức là, trong nội tâm của họ, trong lòng của họ, nơi chính yếu được Thiên Chúa b an cho mọi người để trú ngụ theo gương của Ngài, vì Thiên Chúa luôn ở trong chính bản thân của Ngài. Thành phần tội nhân không thích sống cô quạnh hay sống đời sống thiêng liêng hoặc tôn sùng bề trong. Họ coi những kẻ sống đời nội tâm, tách biệt khỏi thế gian, và những ai thiên  về nội tâm hơn  hoạt động, như là thành phần thiển cận, cuồng tín và kém văn minh.

 

188.     (3) Các tội nhân ít tỏ ra để ý tới hay chẳng để ý gì tới việc tôn sùng Mẹ Maria, Mẹ của thành phần được tuyển chọn. Họ thực sự là không ghét Mẹ. Thật vậy, họ đôi khi còn nói hay nói tốt về Mẹ nữa. Họ nói họ kính mến Mẹ và họ thực hành một đôi việc tỏ ra tôn sùng kính tôn Mẹ. Tuy nhiên, họ không thể nào chịu được khi thấy có ai thiết tha mến yêu Mẹ, vì họ không có bất cứ một cảm tình nào của Giacóp đối với Mẹ; họ bắt lỗi việc tôn kính được các con cái và đầy tớ tốt lành của Mẹ trung thành dâng lên Mẹ để được Mẹ thương. Họ nghĩ loại tôn sùng này là những gì không cần thiết cho phần rỗi, và miễn là họ không tỏ ra ghét Mẹ hay công khai mỉa mai chế giễu việc tôn sùng đối với Mẹ thì họ tin rằng họ đã làm tất cả những gì cần thiết để được Mẹ ban cho các ơn lành. Vì họ lẩm bẩm một ít kinh với Mẹ, song không cảm mến và chẳng để ý gì tới việc cải thiện đời sống của mình, mà họ lại coi họ là những người tôi tớ của Mẹ.

 

189.     (4) Các tội nhân bán đi quyền thừa kế của mình, tức là bán đi niềm vui thiên đàng, để đổi lấy một bát chè, tức là đổi lấy các thứ thú vui trần thế. Họ cười đùa, họ ăn uống, họ được hưởng những giây phút thoải mái, họ cờ bạc, họ nhẩy múa vân vân, chẳng hề lo gì tới các thứ trục trặc hơn cả Esau, trong việc làm sao cho bản thân mình xứng đáng với phúc lành của Cha mình trên trời. Tóm lại, họ chỉ nghĩ đến thế gian này, chỉ yêu chuộng thế gian này, nói năng và tác hành cho thế gian này và làm hài lòng thế gian. Họ đánh đổi ơn phép rửa của họ, chiếc áo vô tội của họ và di sản thiên đàng của họ để lấy một giây phút khoái lạc chóng qua, một chút vinh dự mau tàn, một chút đất vật hèn.

 

190.     (5) Sau hết, các tội nhân liên tục tỏ ra thù ghét và bách hại thành phần được tuyển chọn, một cách công khai hay thầm kính. Thành phần tuyển chọn là một gánh nặng đối với họ. Họ khinh thường thành phần này, họ chỉ trích bình phầm, họ chê cười chế giễu, xỉ nhục, cướp đoạt, lừa đảo, bần cùng hóa, săn bắt và chà đạp thành phần ấy dưới chân; trong khi chính họ lại tìm kiếm may mắn, hoan hưởng bản thân, tìm kiếm những vị thế tốt cho mình, làm cho họ trở thành phong phú, được thăng quan tiến chức và sống đời tiện nghi thoải mái.

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 


 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II 

Thông Điệp Thánh Thể của ĐTC Gioan Phaolô II (19-20)

Mầu Nhiệm Đức Tin 

19.       Chiều kích cánh chung được Thánh Thể thắp lên đã thể hiện và củng cố mối hiệp thông của chúng ta với Giáo Hội thiên đình. Không phải là ngẫu nhiên mà các bài Kinh Nguyện Thánh Thể Đông Phương và Latinh đã tôn kính Mẹ Maria, người Mẹ trọn đời Trinh Nguyên của Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Thiên Chúa của chúng ta, tôn kính các thiên thần, các thánh tông đồ, các vị tử đạo hiển vinh cùng tất cả mọi vị thánh nam nữ. Đây là một khía cạnh của Thánh Thể cần phải chú trọng hơn nữa, ở chỗ, khi cử hành hiến tế của Con Chiên là chúng ta được hiệp nhất với “phụng vụ” thiên đình, và trở thành một phần trong trong đám đông vô số người kêu lên rằng: “Ơn cứu độ là của Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai, và của Con Chiên!” (Rev 7:10). Thánh Thể thực sự là một thoáng nhìn về trời xuất hiện trên thế gian này. Thánh Thể là một tia sáng hiển vinh của Thành Giêrusalem thiên quốc xuyên thấu các tầng mây lịch sử của chúng ta để soi đường dẫn lối cho cuộc lữ hành của chúng ta.

20.       Thành quả đáng kể của chiều kích cánh chung chất chứa nơi Thánh Thể còn ở sự kiện là Thánh Thể thúc đẩy chúng ta tiến bước lữ hành qua giòng lịch sử và gieo một mầm mống hy vọng sống động nơi việc dấn thân hằng ngày của chúng ta đối với công việc trước mắt. Nhãn quan Kitô giáo bao giờ cũng dẫn đến niềm trông đợi “trời mới” và “đất mới” (Rev 21:1), thế nhưng nhãn quan này thay vì làm suy yếu lại làm tăng thêm cảm quan trách nhiệm của chúng ta đối với thế giới hôm nay (33). Tôi muốn tái xác nhận điều này một cách mạnh mẽ vào lúc mở màn cho một tân thiên niên kỷ đây, để Kitô hữu cảm nhận được hơn bao giờ hết trách nhiệm không được lơ là với nhiệm vụ là công dân trần thế của mình. Nhiệm vụ của họ đó là việc họ theo tinh thần Phúc Âm đóng góp vào vấn đề xây dựng một thế giới nhân bản hơn, một thế giới hoàn toàn hòa hợp với dự án của Thiên Chúa.

Nhiều vấn đề đã làm tăm tối cả chân trời thời đại của chúng ta. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến nhu cầu khẩn trương trong việc hoạt động cho hòa bình, trong việc đặt các mối liên hệ giữa các dân tộc trên những nền tảng công lý và đoàn kết vững vàng, cũng như trong việc bênh vực sự sống con người từ khi được hoài thai cho đến khi tự nhiên qua đi. Và chúng ta phải nói làm sao về cả hàng ngàn thứ bất nhất ở một thế giới “được toàn cầu hóa”, nơi mà thành phần yếu kém nhất, thành phần bất lực nhất và thành phần bần cùng nhất là những thành phần dường như chẳng có hy vọng là bao! Chính trong một thế giới như vậy mà niềm hy vọng Kitô giáo cần phải sáng tỏ! Cũng chính vì lý do này nữa mà Chúa Kitô muốn ở lại với chúng ta trong Thánh Thể, bằng cách biến việc hiện diện của Người qua hình thức bữa ăn và hiến tế thành một niềm hứa hẹn cho một thứ nhân loại được canh tân bởi tình yêu của Người. Thật vậy, qua trình thuật về Bữa Tiệc Ly của mình, trong khi các Phúc Âm Nhất Lãm đã kể lại việc thiết lập Thánh Thể, thì Phúc Âm Thánh Gioan, như để mang lại ý nghĩa sâu xa của việc thiết lập này, lại kể đến đoạn “rửa chân”, đoạn cho thấy Chúa Giêsu tỏ mình ra như một vị tôn sư về mối hiệp thông và phục vụ (x Jn 13:1-20). Về phần mình, Thánh Tông Đồ Phaolô đã nói rằng thật là “bất xứng” cho một cộng đồng Kitô hữu tham phần vào Bữa Tối của Chúa mà lại ở trong tình trạng chia rẽ và dửng dưng với thành phần nghèo khổ (x 1Cor 11:17-22,27-34) (34).

Lời công bố việc Chúa chịu chết “cho đến khi Chúa lại đến” (1Cor 11:26) đòi tất cả những ai tham dự vào Thánh Thể phải quyết tâm thay đổi cuộc đời của mình và làm cho nó hoàn toàn là “Thánh Thể” một cách nào đó. Chính hoa trái của một cuộc sống được biến đổi cũng như của một cuộc dấn thân biến đổi thế giới theo tinh thần Phúc Âm này là những gì làm sáng tỏ rạng ngời chiều kích cánh chung được chất chứa nơi cả việc cử hành Thánh Thể cũng như nơi đời sống Kitô hữu: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!” (Rev 22:20).


(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html)

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Châu Âu

 

"Nhân quyền và các quyền lợi của gia đình" (3.1-3.5)

 

Những Nhận Ðịnh của Cuộc Họp Quốc Tế Lần Thứ Hai  

 

Những Nỗ Lực Làm Lệch Lạc Các Quyền Lợi Của Con Người

 

3."Những thứ lệch lạc này thực sự chỉ là 'việc cắt nghĩa lại' Bản Tuyên Ngôn Năm 1948, một việc cắt nghĩa làm xoay chuyển tận gốc rễ cái ý nghĩa của nó. Vượt qua mặt và vượt lên trên những quyền lợi được Bản Tuyên Ngôn công nhận, tuyên xưng và công bố là một số 'những quyền lợi nhân bản mới' đang được đề ra bởi những khuynh hướng văn hóa, những điều đình, những áp lực và những phương sách đồng thuận, theo hoạch định của các hoạt động liên quốc gia.  

 

3.2  "Sau Hội Nghị ở Cairô (1994) và ở Bắc Kinh (1995), nhiều cơ quan Liên Hiệp Quốc, thường được hỗ trợ bởi Hiệp Hội Âu Châu, đang cố gắng để chiếm được một sự đồng thuận quốc tế về một số quyền được gọi là 'các thứ quyền mới' này. Những quyền mới này đặc biệt bao gồm 'vấn đề sức khỏe sinh sản' (một phát biểu thực sự cho thấy bao gồm cả việc phá thai), và quyền của vị thành niên trong việc thực hiện tác động tính dục với cả người khác phái tính hay đồng phái tính với mình, kèm theo việc họ được sử dụng những dụng cụ ngừa thai.  

 

3.3  "Những lệch lạc này hay những lệch lạc khác, như trợ tử, việc phát triển đồng tính luyến ái và paedophilia, đều được bộc phát bởi các thứ triết lý duy lợi, ngộ thức, kể cả bởi các thứ triết lý thực tiễn, buông thả và khoa học (x. ÐTC Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Ðức Tin và Lý Trí, đoạn 46, 88, 89, 90, 91), cũng như bởi ý hệ về 'giống tính'. Bởi thế, vấn đề ở đây không phải chỉ là việc thêm thắt vào những quyền phổ quát được công bố năm 1948 'những thứ quyền lợi mới', mà là việc làm mất đi ý nghĩa nơi quyền lợi của con người cũng như việc làm đảo lộn ý nghĩa chính yếu của chúng. 'Những tác nhân' của chiều hướng mới này hiểu ý nghĩa nơi quyền lợi con người chẳng những theo quan niệm về con người mà còn theo những chính sách được gọi là đồng thỏa thuận nữa. Con người, gia đình và cả Chính Quyền cần phải được điều chỉnh theo quan niệm 'đồng thỏa thuận' này, một việc vừa theo chiều hướng tích cực vừa theo chiều hướng tương đối. 

 

3.4  "Ðối với một số người thì tình trạng lệch lạc này cũng còn do bởi ảnh hưởng về ý hệ của phong trào 'Thời Mới' ngày nay, qua việc họ 'linh thánh hóa' thiên nhiên, đặc biệt hơn nữa là 'trái đất'. Theo quan điểm này thì con người không được coi như là trung tâm của lịch sử, là chủ thể của quyền lợi và nghĩa vụ, mà chỉ là một tùy thể ngắn hạn của thiên nhiên, cần phải được điều chỉnh theo 'khả năng nắm giữ' của hành tinh này. 

 

3.5  "Ngược lại với những chiều hướng tương đối và buông thả này, Bản Tuyên Ngôn Chung Năm 1948 chủ trương lề luật tự nhiên một cách đặc biệt, đó là chủ trương khả năng bẩm sinh của con người là để tìm kiếm những gì chân thật, ngay lành và thiện hảo. Chúng tôi chấp nhận quan niệm về con người này, và thấy nơi quan niệm ấy có một nền tảng luân lý để xác nhận phẩm vị cùng với các quyền lợi của hết mọi người, kể cả những quyền lợi của cộng đồng nhân loại căn bản là gia đình.

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dich từ tuần san L' O sservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 20/1/1999)

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net