CHÚA NHẬT 4/5/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

"Ngày nay cái nguy hiểm của thế giới Tây phương đó là ở chỗ con người,

chính ở vào lúc họ cho rằng kiến thức và quyền  năng của mình là cao cả, lại đầu hàng trước vấn đề về sự thật"

Bài Diễn Từ Soạn Dọn để nói trong dịp Khai Mạc Năm Học cho Đại Học Rôma La Sapienza ngày Thứ Năm 17/1/2008

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

 “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”: Thánh Thiện là Đức Ái Trọn Hảo

Thư Gửi Chư Gia Đình Hội Dòng Montfort Dịp 160 Năm (1843-2003) Xuất Bản Tác Phẩm “Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”

   MẾN Yêu Thánh Thể  

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

Phẩm Vị của Việc Cử Hành Thánh Thể

Thông Điệp Giáo Hội Sống Bởi Thánh Thể

  YÊU Thương Tha Nhân  

 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

HÔN NHÂN BẤT KHẢ PHÂN LY

Với Pháp Đình Tòa Thánh dịp mở màn cho một Tân Pháp Niên, 28/1/2002

    

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI
 

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

"Ngày nay cái nguy hiểm của thế giới Tây phương đó là ở chỗ con người,

chính ở vào lúc họ cho rằng kiến thức và quyền  năng của mình là cao cả, lại đầu hàng trước vấn đề về sự thật"

 

Bài Diễn Từ Soạn Dọn để nói trong dịp Khai Mạc Năm Học cho Đại Học Rôma La Sapienza ngày Thứ Năm 17/1/2008

 

 

Thế nhưng vấn nạn của Philatô bởi vậy xuất hiện: Chân lý là gì? Làm sao nhận ra chân lý? Nếu nơi câu trả lời cho những vấn nạn này, người ta nói tới “lý trí chung”, như Rawls làm, thì một lần nữa vấn đề tiếp theo được đặt ra là: Đâu là những gì hợp lý? Làm thế nào lý trí cho thấy mình là lý trí đích thực? Dù sao đi nữa, theo đó vấn đề trở nên hiển nhiên là trong việc tìm kiếm luật lệ cho tự do, tìm kiếm sự thật của đời sống chung chân chính, thì cần phải lắng nghe cả những tiếng nói không phải của các đảng phái và của những nhóm quan tâm nữa, song không vì thế đối chọi với tầm quan trọng của những đảng phái và những nhóm quan tâm ấy. Chúng ta hãy trở về với cấu trúc của đại học đường thời trung cổ. 

 

Song song với phân khoa luật học là các phân khoa triết học và thần học, những phân khoa được trao phó cho việc nghiên  cứu về toàn diện hữu thể con người, theo đó, cả công việc giữ gìn cho cái cảm quan về sự thật được tồn tại. Thậm chí có thể nói rằng đó là ý nghĩa vĩnh viễn và đích thực của cả hai phân khoa này: đó là làm quản viên cảm thức về sự thật, không để cho con người bị cản trở việc tìm kiếm chân lý. Thế nhưng, làm sao hai phân khoa ấy có thể hoàn thành công việc này được đây? Đó là một câu hỏi cần phải bàn đi bàn lại chi tiết, và là một câu hỏi không bao giờ được v ĩnh viễn nêu lên hay giải quyết. Bởi thế, ở đây tôi cũng không thể thích hợp để đưa ra một câu trả lời, mà là một lời mời gọi hãy tiến bước trên con đường với vấn nạn ấy – một con đường mà dọc theo đó có những con người cao cả đã tranh đấu và tìm kiếm suốt giòng lịch sử, với những câu trả lời của họ cùng với niềm khắc khoải chân  lý của họ, một sự thật tiếp tục cho thấy vượt ra ngoài bất cứ một câu trả lời duy nhất nào.

 

Vì thế, thần học và triết học làm nên mộït cặp song sinh đặc biệt, không phân khoa nào có thể hoàn toàn tách khỏi nhau, song mỗi một phần  khoa vẫn phải bảo trì công việc thích đáng và căn tính thích đáng của mình. Đó là công nghiệp về lịch sử của Thánh Tôma Aquinas – so sánh với những đáp ứng khác nhau của các vị Giáo Phụ tùy theo môi trường lịch sử của các ngài – đã làm sáng tỏ tính cách biệt lập của triết học, và theo đó, cái quyền thích đáng và trách nhiệm của lý trí được tự vấn căn cứ vào khả năng của mình. Khác với những thứ triết lý Tân Plato là những triết lý tôn giáo và triết lý quyện lấy nhau bất khả phân ly, các vị Giáo Phụ đã trình bày đức tin Kitô giáo như là một thứ triết lý đích thực, cũng nhấn mạnh là đức tin này thích hợp với những nhu cầu khẩn trương của lý trí trong việc tìm kiếm sự thật;  đức tin là “đáp ứng” sự thật, so sánh với các tôn giáo huyền thoại là những gì đã trở thành thuần túy tục lệ.

 

Thế rồi, tuy nhiên, với việc xuất hiện  của đại học đường, những thứ tôn giáo ấy không còn tồn tại nơi Tây phương, mà chỉ còn duy Kitô giáo, bởi thế, cần phải nhấn mạnh một cách mới mẻ trách nhiệm thích đáng của lý trí, một thứ lý trí không bị đức tin nuốt mất. Thánh Tôma đã chứng tỏ việc làm của mình vào một thời điểm đặc biệt: Vì lần  đầu tiên toàn bộ các bản văn triết lý của Aristotle được phổ biến; các triết gia Do Thái và Ả Rập hiện diện như là những sở hữu và tiếp tục đặc biệt cho nền triết lý Hy Lạp. Nhờ đó, Kitô giáo, bằng việc đối thoại cách mới mẻ với lý trí của các tôn giáo khác, với những gì Kitô giáo giao tiếp với, đã phải đấu tranh cho cái hợp lý của mình. 

 

Phân khoa triết lý, một phân khoa, vốn được gọi là “phân khoa nghệ thuật”, cho đến bấy giờ mới chỉ làmột thứ propedeutic cho thần học, bấy giờ trở thành một phân khoa thực sự và thích đáng, một đồng bạn biệt lập của thần học và của đức tin nơi phản ứng ấy. Chúng ta không thể dừng lại nơi đây để thấu triệt cuôc chạm trán bởi đó mà ra. Tôi có thể nói rằng tư tưởng của Thánh Tôma về mối liên hệ giữa triết lý và thần học có thể được diễn tả theo công thức về Kitô học của Công Đồng Chalcedon thế này: triết lý và thần học cần phải liên hệ với nhau “mà không lẫn lộn cũng không tách biệt”. “Không lẫn lộn” nghĩa là cả hai vẫn bảo trì được căn tính thích đáng của mình. Triết lý cần phải thực sự tiếp tục công việc của lý trí theo tính cách tự do thích đáng của mình cũng như theo trách nhiệm thích đáng của nó; nó cần phải nhận thức được những giới hạn của mình, và chính theo chiều hướng ấy cũng nhìn nhận cả tính cách cao sang và bao rộng của nó. Thần học cần phải tiếp tục rút ra từ kho tàng của kiến thức không phải tự nó sáng chế, một kho tàng kiến thức luôn luôn vượt lên trên nó và, vì không bao giờ hoàn toàn triệt thấu được bằng việc suy tư, mà chính vì thế mới gợi ý để suy nghĩ.

 

Song song với việc “không lẫn lộn” cần phải hiệu lực hóa việc “không tách biệt”, ở chỗ, triết lý không bắt đầu lại từ số không nơi chủ thể suy tư riêng lẻ, mà là liên quan tới một cuộc đối thoại cả thể với sự khôn ngoan của lịch sử, một sự khôn ngoan tiếp tục vừa khôn ngoan vừa chân thành lãnh nhận và phát triển; thế nhưng nó cũng không được khép mình khỏi những gì các tôn giáo, đặc biệt là đức tin Kitô giáo, đã lãnh nhận và truyền lại cho nhân loại như là một dấu chỉ đường. Những gì khác nhau được các thần học gia nói trong giòng lịch sử và cũng là những gì được truyền đạt trong thực hành bởi các thẩm quyền của giáo hội, đã được lịch sử chứng tỏ là sai lầm và ngày nay những điều ấy làm cho chúng ta bối rối. Thế nhưng, đồng thời cũng đúng nữa, đó là lịch sử của các thánh nhân, lịch sử của chủ nghĩa nhân bản đã tăng trưởng trên nền tảng đức tin Kitô giáo, là những gì cho thấy sự thật của đức tin này nơi nguyên  tố thiết yếu của nó, nhờ đó, làm cho nó trở thành một thứ mô phạm cho lý trí quần chúng. Thật sự là nhiều điều thần học và đức tin nói chỉ có thể được chấp nhận trong đức tin và bởi đó nó không thể tỏ mình ra như là một thứ nhu cầu khẩn trương đối với những ai vẫn chưa thể chấp nhận đức tin ấy. Tuy nhiên, cũng xác đáng nữa khi sứ điệp của đức tin Kitô giáo lại không bao giờ chỉ là một “tín điều đạo giáo toàn diện” theo chiều hướng của Rawls, nhưng là một quyền lực thanh tẩy đối với chính lý trí, một quyền lực giúp cho lý trí trở thành lý trí hơn. Sứ điệp Kitô giáo, căn cứ vào nguồn gốc của mình, bao giờ cũng là một thứ phấn khích hướng tới chân lý và nhờ đó là một khả năng chống lại những áp đảo của quyền lực và những thứ lợi lộc.

 

Vậy là tôi mới đang nói về đại học đường thời trung cổ, dù sao cũng cố gắng để làm sáng tỏ cái bản chất vĩnh viễn của đại học đường cùng với công việc của nó. Trong những thời đại tân tiến, những chiều kích mới về kiến  thức đã được phát hiện, những chiều kích đã được coi trọng nơi đại học nhất là nơi hai lãnh vực lớn: trước hết nơi các khoa học tự nhiên, những ngành khoa học đã phát triển được phát triển theo mối liên kết giữa việc thí nghiệm và tính chất hữu lý giả định về vật chất; tiếp theo là nơi các khoa học về lịch sử và nhân  bản, những khoa học mà con người, khi cẩn thận xem xét tấm gương của lịch sử mình và làm sáng tỏ những khía cạnh về bản tính của mình, cố gắng hiểu biết về mình hơn nữa. Nơi việc phát triển ấy, mở ra trước nhân loại chẳng những cả một tầm mức mênh mông về kiến  thức và năng lực; mà còn tăng triển cả tầm hiểu biết và việc nhìn nhận các thứ quyền  lợi và phẩm vị của con người, làm chúng ta chỉ biết cảm tạ về điều này.

 

Thế nhưng, cuộc hành trình của con người không bao giờ tự cho mình là đã đi đến tận cùng, và mối nguy hiểm bị rơi vào những gì là phi nhân sẽ chẳng bao giờ dễ dàng thắng vượt nổi – như chúng ta thấy được nơi tất cả lịch sử hiện đại đây! Ngày nay cái nguy hiểm của thế giới Tây phương – xin chỉ nói theo bối cảnh này thôi – đó là ở chỗ con người, chính ở vào lúc họ cho rằng kiến thức và quyền  năng của mình là cao cả, lại đầu hàng trước vấn đề về sự thật. Như thế đồng thời cũng có nghĩa là lý trí, cuối cùng, phải cúi mình trước áp lực của các thứ lợi lộc cùng với cái mê hoặc của những gì là thực lợi, một lý trí phải bó buộc nhìn nhận áp lực ấy như là một qui chuẩn tối hậu. Áp dụng điều này vào quan điểm cấu trúc của đại học đường thì mối nguy hiểm là ở chỗ triết học, vì không còn cảm thấy mình có khả năng làm được công việc thực sự của mình nữa, đã bị suy thoái thành chủ nghĩa thực chứng; ở chỗ thần học, qua những gì nó nói với lý trí, đã bị giam hãm vào lãnh vực tư riêng của một nhóm lớn hay nhỏ. Tuy nhiên, nếu lý trí – khi chú ý tới cái tinh tuyền cần phải có của nó – trở thành điếc lác trước sứ điệp cao cả xuất phát từ đức tin Kitô giáo cũng như từ sự khôn ngoan của đức tin này, thì nó sẽ tàn úa đi như một thứ cây mà rễ của nó không còn vươn tới những giòng nước cung cấp cho nó sự sống nữa. Nó sẽ mất đi lòng can đảm đối với sự thật và vì thế nó sẽ không trở nên cao cả hơn mà là thấp hèn hơn. Áp dụng vào nền  văn hóa Âu Châu của chúng ta thì điều này có nghĩa là: Nếu châu lục này chỉ muốn kiến tạo mình trên nền tảng của lãnh vực lập luận riêng của mình và là những lập luận thu phục nó vào lúc này đây – khi tỏ ra lo toan về tính cách trần thế của nó – thì nó sẽ bị bật những gốc rễ làm cho nó sống còn; thế rồi nó sẽ không trở nên hữu lý hơn và tinh tuyền  hơn, mà là đổ bể và tan rã.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 20/1/2008

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

 

 “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”: Thánh Thiện là Đức Ái Trọn Hảo

 

Thư Gửi Chư Gia Đình Hội Dòng Montfort Nhân Dịp Kỷ Niệm 160 Năm (1843-2003) Xuất Bản Tác Phẩm “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”

 

(loạt bài mở màn cho Tháng Hoa Mẹ 5/2008)  

 

 

6.         Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Ánh Sáng Muôn Dân nói: ‘Thế nhưng, trong khi nơi Vị Trinh Nữ Rất Thánh này Giáo Hội đã đạt tới sự trọn lành mà nhờ đó Giáo Hội hiện hữu một cách tinh tuyền không tì ố (x Eph 5:27), thì tín hữu vẫn cố gắng chiến thắng tội lỗi và thăng tiến thánh đức. Bởi thế họ mới hướng về Mẹ Maria là vị chiếu soi toàn thể cộng đồng thành phần được tuyển chọn như là mô phạm của các nhân đức’ (khoản 65). Thánh thiện là sự trọn hảo của đức ái, của lòng mến yêu Thiên Chúa và tha nhân, một tình yêu là đối tượng của giới răn cao cả nhất do Chúa Giêsu truyền dạy (x Mt 22:38). Nó cũng là tặng ân cao cả nhất của Thánh Linh (x 1Cor 13:13). Bởi thế, trong các bài Ca Vịnh của mình, Thánh Luois Marie đã cho tín hữu thấy được nơi cấp trật này tính cách tuyệt hảo của đức ái (Ca Vịnh 5), ánh sáng của niềm tin (Ca Vịnh 6) và sự vững vàng của lòng trông cậy (Ca Vịnh 7).

 

Nơi linh đạo của Thánh Montfort, năng lực của đức ái được đặc biệt diễn tả bởi cái biểu hiệu của việc làm nô lệ tình yêu cho Chúa Giêsu, theo gương mẫu và với sự hỗ trợ từ mẫu của Mẹ Maria. Nó là vấn đề của mối hiệp thông trọn vẹn vào cuộc kenosishư không hóa bản thân của Chúa Kitô, một cuộc hiệp thông được Mẹ Maria sống, một cuộc hiệp thông hiện diện thân mật nơi các mầu nhiệm đời sống Con Mẹ. “Không có gì nơi Kitô hữu làm cho chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu Kitô và Người Mẹ thánh của Người hơn là việc làm nô lệ của ý muốn, theo gương của chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã mace lấy thân phận tôi đòi vì yêu thương chúng ta” – forman servi accipiens – “cũng như theo gương của Vị Trinh Nữ thánh đức đã nhận mình là tôi tớ và nữ tì của Chúa (Lk 1:38). Thánh Tông Đồ nói về mình là ‘nô lệ của Chúa Kitô’ (servus Christi) như thể danh xưng này là một cái gì vinh dự vậy. Kitô hữu cũng thường được gọi như thế trong Sách Thánh” (cf. Treatise on True Devotion, n. 72). Thật thế, Người Con Thiên Chúa, Đấng đã đến thế gian vì vâng lời Cha nơi mầu nhiệm Nhập Thể (x Heb 10:7), sau đó đã hạ mình tuân phục cho đến chết và chết trên thập giá (x Phil 2:7-8). Mẹ Maria đã đáp lại ý muốn của Thiên Chúa bằng tất cả việc hiến dâng bản thân mình, cả xác lẫn hồn, vĩnh viễn, từ lúc Truyền Tin tới Thập Giá và từ Thập Giá tới Mông Triệu. Dĩ nhiên, việc tuân phục của Chúa Kitô và việc vâng lời của Mẹ Maria không phải là những gì cân xứng với nhau, vì tính cách khác biệt về bản thể giữa Ngôi Vị thần linh của Người Con và ngôi vị nhân loại của Mẹ Maria. Điều này cũng cho thấy tính cách duy nhất nơi tác hiệu cứu độ trọng yếu xuất phát từ việc tuân phục Chúa Kitô là Đấng nhờ Người mà Mẹ của Người đã nhận  được ân sủng để có thể hoàn toàn tuân phục Thiên Chúa và cộng tác vào sứ vụ của Con Mẹ.

 

Việc nô lệ tình yêu bởi thế cần phải được giải thích theo chiều hướng của việc trao đổi tuyệt vời này giữa Thiên Chúa và nhân loại trong mầu nhiệm Lời nhập thể. Đó là việc trao đổi thực sự của tình yêu giữa Thiên Chúa và tạo vật của Ngài trong cuộc hoàn toàn hiến mình cho nhau. ‘Tinh thần (của việc tôn sùng này) là ở chỗ: về bề trong chúng ta lệ thuộc vào Mẹ Maria Rất Thánh; chúng ta là thành phần nô lệ của Mẹ Maria, và qua Mẹ là nô lệ của Chúa Giêsu’ (The Secret of Mary, n. 44). Nghịch thường thay, ‘mối liên hệ đức ái’ này, ‘việc nô lệ tình yêu’ này, lại làm cho con người được hoàn toàn tự do, một thứ tự do thực sự của thành phần con cái Thiên Chúa (cf. Treatise on True Devotion, n. 169). Nó là vấn đề hoàn toàn hiến thân cho Chúa Giêsu, bằng việc đáp ứng thứ Tình Yêu được Ngài yêu thương chúng ta trước. Những ai sống trong tình yêu này có thể nói cùng với Thánh Phaolô rằng: ‘không phải là tôi sống nữa mà là Chúa Kitô sống trong tôi’ (Gal 2:20).

 

(còn tiếp)

 

Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, chuyển dịch từ  

http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/letters/2004/documents/hf_jp-ii_let_20040113_famiglie-monfortane_en.html

 

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 


 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

Phẩm Vị của Việc Cử Hành Thánh Thể

 

Thông Điệp Giáo Hội Sống Bởi Thánh Thể

 

  

47.       Khi đọc đoạn về việc thiết lập Thánh Thể trong các Phúc Âm Nhất Lãm, chúng ta thấy ngỡ ngàng trước tính cách vừa đơn sơ lại “long trọng” mà Chúa Giêsu trong tối Tiệc Ly đã tỏ ra khi thiết lập đại bí tích này. Có một đoạn đóng góp một cách nào đó như là một dạo khúc cho việc Người thiết lập này, đó là đoạn xức dầu ở Bêthania. Một người phụ nữ được Thánh Ký Gioan nhắc đến là Maria chị của Lazarô, đã đổ một lọ dầu quí trên đầu của Chúa Giêsu, một hành động khiến cho các môn đệ, đặc biệt là Giuđa (x Mt 26:8; Mk 14:4; Jn 12:4), tỏ thái độ bất mãn, như thể hành động ấy, trước nhu cầu của thành phần nghèo khổ, như là một thứ “phung phí “ không thể nào chấp nhận được. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại phản ứng hoàn toàn khác hẳn. Dù không thể nào làm phân rẽ nhiệm vụ bác ái đối với thành phần nghèo túng cần phải được các môn đệ bao giờ cũng phải tỏ ra quan tâm tới, “các con luôn có những người nghèo khó bên mình” (Mt 26:11; Mk 14:7; x. Jn 12:8), Người hướng hành động ấy đến cái chết và an tang sắp đến của Người, và thấy hành động xức dầu này như là một việc ngưỡng kính được tiếp tục tỏ ra đối với thân xác của Người cho dù sau khi qua đi, một thắt kết bất khả phân ly gắn liền với mầu nhiệm về bản thân của Người.

Ðoạn trình thuật theo các Phúc Âm Nhất Lãm ấy tiếp tục kể đến việc Chúa Giêsu trao trách nhiệm cho các môn đệ trong vấn đề cẩn thận sửa soạn “một căn thượng lầu rộng” để ăn Lễ Vượt Qua (x Mk 14:15; Lk 22:12), rồi tới việc thiết lập Thánh Thể. Phản ảnh ít là một phần các nghi thức bữa Vượt Qua của người Do Thái cho tới việc họ hát Hallel (x Mt 26:30; Mk 14:26), đoạn trình thuật này cho thấy tính cách trầm lắng và long trọng, dù có khác biệt về những truyền thống khác nhau, những lời được Chúa Kitô phán trên bánh và rượu, những lời Người cụ thể diễn tả việc Người trao nộp thân thể của Người cũng như việc Người đổ máu của Người. Tất cả những chi tiết này đều được các vị Thánh Ký, theo chiều hướng quen thuộc của việc “bẻ bánh” đã cẩn thận thiết lập trong thời Giáo Hội sơ khai. Thế nhưng, thực sự là từ thời của Chúa Giêsu trở đi, biến cố Ngày Thứ Năm Tuần Thánh đã cho thấy những dấu vết hữu hình về một thứ “cảm quan” phụng vụ được hình thành theo truyền thống Cựu Ước và hướng đến việc tái hình thành theo các việc cử hành của Kitô giáo trung thực phản ảnh nội dung mới mẻ của biến cố Phục Sinh.

48.       Như người phụ nữ xức dầu cho Chúa Giêsu ở Bêthania, Giáo Hội đã không sợ “vấn đề phung phí”, khi cống hiến những gì tốt đẹp nhất của mình để tỏ bày nỗi ngất ngây và việc tôn thờ của mình trước tặng ân Thánh Thể khôn sánh. Cũng như những vị môn đệ đầu tiên lãnh trách nhiệm sửa soạn “một căn thượng lầu rộng rãi”, Giáo Hội cũng cảm thấy nhu cầu, qua các thế kỷ cũng như nơi cuộc gặp gỡ của mình với các nền văn hóa khác nhau, cử hành Thánh Thể ở một khung cảnh xứng đáng với một mầu nhiệm thật là cao cả như thế. Phụng vụ Kitô Giáo đã được hình thành theo lời lẽ và hành động của Chúa Giêsu, cũng như dựa vào gia sản nghi lễ của Do Thái Giáo. Còn phương tiện nào đầy đủ hơn là cách này trong việc Giáo Hội tỏ ra chấp nhận tặng ân ban mình của vị Hôn Phu thần linh liên tục cống hiến cho Hôn Thê là Giáo Hội của Người, bằng Hiến Tế Người hiến dâng một lần vĩnh viễn trên Thập Giá cho các thế hệ tín hữu, nhờ đó trở thành của dưỡng nuôi tất cả mọi tín hữu hay chăng? Mặc dù ý tưởng “bữa tiệc” tự nhiên cho thấy tính cách gia đình thân thương, Giáo Hội vẫn không bao giờ chiều theo khuynh hướng tầm thường hóa “tính cách thân mật” với Vị Hôn Phu của mình, quên rằng Người cũng là Chúa của mình và “bữa tiệc” này bao giờ cũng là một bữa tiệc hy hiến được ghi dấu bằng máu Người đã đổ ra trên đồi Golgôta. Bữa Tiệc Thánh Thể thực sự là một bữa tiệc “linh thánh”, một bữa tiệc có tính cách đơn sơ về dấu hiệu nhưng lại chất chứa sự thánh thiện thăm thẳm của Thiên Chúa: sacrum convivium, in quo Christus sumitur! Tấm Bánh được bẻ ra trên bàn thờ của chúng ta, được cống hiến cho chúng ta như của ăn đàng trên đường lữ thữ trần thế, là bánh thiên thần, panis angelorum, một thứ bánh không thể tiếp nhận nếu thiếu lòng khiêm tốn của vị đại đội trưởng trong Phúc Âm: “Lạy Thày, tôi chẳng đáng Thày đến nhà tôi” (Mt 8:8; Lk 7:6).

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

 

HÔN NHÂN BẤT KHẢ PHÂN LY


Với Pháp Đình Tòa Thánh dịp mở màn cho một Tân Pháp Niên, 28/1/2002


“Tính cách bất khả phân ly là một sự thiện cho vợ chồng, con cái,
cho Giáo Hội cũng như cho toàn thể nhân loại”.
“Sự thiện của tính cách bất khả phân ly là sự thiện của chính cuộc sống hôn nhân”.

 

Giáo dục giới trẻ nhận thức được rằng Tính Cách Bất Khả Phân Ly là tảng đá nền của xã hội chứ không phải là một chọn lựa riêng tư

9.- Chứng từ thiết yếu cho giá trị của tính cách bất khả phân ly được tỏ hiện nơi đời sống hôn nhân của các đôi phối ngẫu, nơi việc họ trung thành gắn bó với nhau trong những lúc vui sướng cũng như trong những lúc thử thách của cuộc đời. Giá trị của tính cách bất khả phân ly không được nghĩ đó chỉ là đối tượng của việc chọn lựa cá nhân, giá trị này liên quan đến một trong những nền tảng của toàn thể xã hội. Bởi thế, trong lúc đang khích lệ tất cả mọi sáng kiến được Kitô hữu, cùng với những người thiện chí khác, phát động vì thiện ích của gia đình, (như việc cử hành kỷ niệm thành hôn), người ta phải tránh cái nguy cơ yếm thế về những vấn đề trọng yếu liên quan đến bản chất của hôn nhân và gia đình (x Thư gửi Các Gia Đình, 17).

Trong số những sáng kiến này, cần phải có những sáng kiến nhắm đến việc làm cho tính cách hôn nhân bất khả phân ly được công khai nhìn nhận nơi lãnh vực pháp lý dân sự (x cùng nguồn vừa dẫn, 17). Để mạnh mẽ chống lại tất cả những phương sách về pháp lý cũng như về hành pháp dẫn đến vấn đề ly dị, hay biến những thứ hiệp nhất được thừa nhận như thật, thậm chí như thứ hiệp nhất đồng tính, ngang hàng với hôn nhân, cần phải đẩy mạnh đường lối, ở mọi phương sách tài phán, thiên về việc cải tiến giúp cho xã hội nhìn nhận thực tại hôn nhân chân chính trong lãnh vực hệ thống pháp lý, một hệ thống tiếc thay lại chấp nhận vấn đề ly dị.

Việc cộng tác hành sử vấn đề ly dị về đối với các vị thẩm phán

Ngoài ra, các chuyên viên trong ngành tư pháp dân sự phải tránh nhúng tay vào bất cứ những gì có thể dính dáng đến việc cộng tác vào vấn đề ly dị. Đối với các vị thẩm phán điều này có thể là khó khăn, vì hệ thống pháp lý không nhìn nhận tính cách phản kháng của lương tâm để có thể châm chước cho họ khỏi việc áp đặt phán quyết. Cho dù có những lý do hệ trọng và vững chắc đến thế nào chăng nữa, các vị thẩm phán vẫn có thể tác hành theo những nguyên tắc truyền thống liên quan đến vấn đề tích cực cộng tác với điều xấu. Thế nhưng, họ cũng phải tìm những phương thế hiệu nghiệm để hỗ trợ cho vấn đề hiệp nhất hôn nhân nữa, trước hết bằng việc khôn khéo đưa đến vấn đề hòa giải.

Những vị luật sư hành nghề độc lập lúc nào cũng phải từ khước sử dụng nghề nghiệp của mình vào mục đích phản lại công lý, như vào việc ly dị. Phải tránh không được nhúng tay vào những gì có thể bao hàm việc cộng tác giúp thực hiện vấn đề ly dị. Họ chỉ được cộng tác vào loại hành động này khi thân chủ của họ không có ý định hủy bỏ hôn nhân, mà là hướng đến việc bảo toàn những hiệu quả tiềm mật khác, những hiệu quả chỉ có thể đạt được qua một tiến trình tài phán thuộc lãnh vực pháp lý qui định (x Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 2383). Theo đường lối này, bằng việc hỗ trợ và hòa giải những con người trải qua các cuộc khủng hoảng hôn nhân, những vị luật sư mới thực sự phục vụ quyền lợi của con người và mới không trở thành một kỹ thuật gia thuần túy chuyên môn phục vụ cho bất kỳ một thứ lợi lộc nào.

10.- Tôi xin ký thác cho sự chuyển cầu của Mẹ Maria, Nữ Vương Gia Đình và là Gương Soi Công Lý, niềm xác tín cao cả của mọi người về sự thiện của tính cách hôn nhân bất khả phân ly. Tôi cũng trao phó cho Mẹ công việc hăng say của Giáo Hội cũng như của con cái Giáo Hội, cùng với các công việc nhiệt thành của các con người nam nữ thiện tâm, trong vấn đề rất hệ trọng đối với tương lai của nhân loại đây.

Với những mong ước ấy, để xin Thiên Chúa trợ giúp tất cả mọi hoạt động của quí vị, Thẩm Phán, Viên Chức và Biện Hộ của Pháp Đình Rôma, Tôi thân ái ban Phép Lành cho quí vị.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net