SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 


Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Tuần XXIV Thường Niên 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Xh 32, 7-11. 13-14

"Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người".

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: "Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Chúa phán cùng Môsê: "Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại".

Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: "Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng: "Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời. Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi". Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 12-13. 17 và 19

Ðáp: Tôi sẽ chỗi dậy và đi về cùng cha tôi (Lc 15, 18).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Tm 1, 12-17

"Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian để cứu độ những người tội lỗi".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Cha cảm tạ Ðấng đã ban sức mạnh cho cha là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin. Nhưng ân sủng của Chúa chúng ta đã tràn lan dồi dào cùng với đức tin và đức mến trong Ðức Giêsu Kitô.

Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Ðức Giêsu Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời.

Danh dự và vinh quang (xin dâng về) Thiên Chúa độc nhất, hằng sống, vô hình, là Vua muôn đời. Amen!

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 15, 1-10 {hoặc 1-32}

"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng".

Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy, Tôi bảo các ông: "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.

"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'. Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".

{Người lại phán rằng: "Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: 'Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con'. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó muốn hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha'. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa'. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: 'Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.

"Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: 'Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ'. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: 'Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn, còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó'.

"Nhưng người cha bảo: 'Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'".}

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm


 

Thứ Hai

 


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 11, 17-26

"Anh em họp nhau lại thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, tôi truyền dạy điều này: tôi chẳng khen anh em, vì anh em hội nhau, không phải để được ích lợi hơn, nhưng là để ra tệ hơn. Trước tiên, tôi nghe đồn rằng: khi anh em họp nhau trong cộng đoàn, thì có sự chia rẽ giữa anh em, và tôi cũng tin phần nào. Vì cần phải có phe phái, để những người đã được thử thách, được tỏ rõ giữa anh em. Vậy khi anh em họp nhau lại thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa, vì mỗi người đều lo đem bữa ăn riêng của mình đến để ăn. Vì thế người thì đói, người khác lại say sưa. Chớ thì anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay là anh em khinh miệt Cộng Ðoàn Thiên Chúa, và làm nhục những kẻ không có gì? Tôi phải nói thế nào với anh em? Khen anh em ư? Về điều này, tôi chẳng khen anh em.

Vì chưng, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: "Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: "Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến.

Vậy hỡi anh em, khi anh em họp nhau để dùng bữa, anh em hãy chờ đợi nhau.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 17

Ðáp: Anh em hãy loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Chúa lại đến (1 Cr 11, 26b).

Xướng: 1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.

2) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.

3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

4) Hãy mừng vui hoan hỉ trong Chúa, bao nhiêu kẻ tìm Chúa, và luôn luôn nói: Chúa thực là cao cả! Bao nhiêu kẻ mong ơn phù trợ của Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Gc 1, 18

Alleluia, alleluia! - Do ý định của Thiên Chúa, Người đã sinh chúng ta bằng lời sự thật, để chúng ta nên như của đầu mùa các tạo vật. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 7, 1-10

"Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân chúng xong, Người vào Capharnaum. Bấy giờ một viên sĩ quan có tên đầy tớ thân tín bị bệnh gần chết. Nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ lão Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van xin Người rằng: "Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến dân ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta". Chúa Giêsu đi với họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này sai mấy người bạn đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh. Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm".

Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc nhiên và quay lại nói với đám đông theo Người rằng: "Ta nói thật với các ngươi, cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy". Và những người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ lành mạnh.

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XXIV Thường Niên hôm nay là bài tiếp ngay sau Bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, tức ngay sau bài giảng về việc sống Lòng Thương Xót như Cha trên trời.


Đó là lý do, mở đầu bài Phúc Âm hôm nay đã có câu móc nối một cách mạch lạc như sau: "Sau khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe, Đức Giêsu vào thành Carphanaum". Qua câu mở đầu bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu huấn dụ về việc sống Lòng Thương Xót đây chẳng những trực tiếp cho thành phần tông đồ môn đệ của Người khi "ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói(Luca 6:20), mà còn cho cả dân chúng ở chung quanh các vị nữa: "Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđêa, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tyro và Sidon đến để nghe Người giảng(Luca 6:17-18).


Nếu đối với các tông đồ môn đệ của mình, Chúa Giêsu chú trọng tới giáo huấn thế nào, như Người đã huấn dụ các vị ở Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi (xem Mathêu các đoạn 5-7), hay ở Loạt Dụ Ngôn về Nước Trời nhất là về ý nghĩa sâu nhiệm của một số dụ ngôn Người giải thích riêng cho các vị (xem Mathêu đoạn 13), hoặc ở Bữa Tiệc Ly (xem Gioan các đoạn 14-17), thì đối với chung dân chúng Người chú trọng đến việc chữa lành cho họ hơn, vì đó là nhu cầu của họ và đó cũng là nhu cầu tỏ mình ra của Người là Đấng Cứu Thế nơi họ nữa


Thật ra phép lạ chữa lành này của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã được bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại và được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Bảy Tuần XII Thường Niên rồi (Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XII Thường Niên). Sở dĩ Giáo Hội muốn đọc lại câu chuyện chữa lành này có thể là vì bài Phúc Âm hôm nay được Giáo Hội chọn đọc cùng với một bài đọc Tân Ước, chứ không phải bài đọc Cựu Ước như lần trước. 


Thực vậy, trong Bài Đọc 1 hôm nay, khi viết cho người môn đệ Timôthêu của mình ở đầu bức thư thứ 2, Thánh Phaolô đã đề cập đến: 1- ý của Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người, tức bao gồm cả dân ngoại nữa chứ không phải chỉ có dân Do Thái thôi, và 2- đâu là chân lý cứu độ mà con người cần phải nhận biết và chấp nhận để được cứu độ. Thánh Phaolô đã khẳng định về 2 yếu tố cứu độ then chốt này như sau:


"Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người".


Trong bài Phúc Âm hôm nay, nhân vật ngỏ ý xin Chúa Giêsu chữa lành chẳng những là một người dân ngoại mà còn là một trong "những người cầm quyền" (Bài Đọc 1)với vai trò là "một viên đại đội trưởng" (Bài Phúc Âm), nhưng lại là một viên đại đội trưởng vừa thương người vừa khiêm tốn.


Viên đại đội trưởng này thương người ở chỗ ông đã lưu tâm đến một trai đầy tớ đang hấp hối trong nhà lúc bấy giờ và đã từng giúp đỡ dân chúng đến độ được dân mến thương"Một viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm. Khi nghe đồn về Đức Giê-su, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông. Họ đến gặp Đức Giê-su và khẩn khoản nài xin Người rằng : 'Thưa Ngài, ông ấy đáng được Ngài làm ơn cho. Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta'".


Khiêm tốn ở chỗ tự cảm thấy bất xứng nên không dám đến gặp Chúa và cũng không đáng được Chúa đặt chân vào tệ xá của ông"Đức Giê-su liền đi với họ. Khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này cho bạn hữu ra nói với Người: 'Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Cũng vì thế, tôi không nghĩ mình xứng đáng đến gặp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh. Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: 'Đi !' là nó đi ; bảo người kia : 'Đến !' là nó đến ; và bảo người nô lệ của tôi : 'Làm cái này !' là nó làm". 


Đức bác ái và lòng khiêm tốn của viên đại đội trưởng có thẩm quyền này quả thực đã cho thấy đức tin của ông ta vào Thiên Chúa, cho dù ông thuộc thành phần dân ngoại, một đức tin chưa chắc dân Do Thái đã có, một đức tin cứu độ. Đó là lý do Chúa Giêsu đã không thể nào không hết lời khen ông ta trước mặt dân Do Thái rằng: 


"Nghe vậy, Đức Giê-su thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo Người rằng: 'Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Israel, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế'. Về đến nhà, những người đã được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn".




Thứ Ba

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 12, 12-14. 27-31a

"Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của chỉ thể".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, như thân xác là một, mà có nhiều chi thể, và tất cả các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể.

Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người theo phận sự mình. Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các Tông đồ, thứ đến là các tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép lạ, các ơn chữa bệnh, các việc từ thiện, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là Tông đồ ư? Tất cả là tiên tri ư? Tất cả là tiến sĩ ư? Tất cả được ơn làm phép lạ ư? Tất cả được ơn chữa bệnh ư? Tất cả nói nhiều thứ tiếng ư? Tất cả được ơn diễn giải ư? Anh em hãy cần mẫn sao cho được những ân điển cao trọng hơn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 99, 2. 3. 4. 5

Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).

Xướng: 1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan vơi lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.

2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta và ta thuộc quyền sở hữu của Người. Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. - Ðáp.

3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui; hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.

4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn thế hệ. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 11, 25

Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 7, 11-17

"Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Ðừng khóc nữa". Ðoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy". Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.

Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người". Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XXIV Thường Niên hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu tỏ mình ra qua phép lạ Người hồi sinh đứa con trai duy nhất của bà góa thành Nain nhờ đó Người được dân chúng nhận biết:

 

"Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: 'Bà đừng khóc nữa!' Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: 'Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!' Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: 'Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người'. Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận".

 

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, bình thường, nhất là theo chiều hưóng của Phúc Âm Nhất Lãm, Chúa Giêsu làm phép lạ khi thấy có đức tin nơi con người ta nói chung và nơi thỉnh nguyện nhân nói riêng. Nhưng ở trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay, phép lạ hồi sinh Người làm cho cậu con trai của bà mẹ góa hoàn toàn do Người tự ý, chứ bà mẹ của người chết không hề ngỏ ý xin hay tỏ đức tin gì hết. 

 

Xét cho cùng thì dù Chúa Giêsu làm phép lạ khi thấy đức tin nơi con người hay tự làm phép lạ cả hai đều để tỏ mình ra. Theo Phúc Âm của Thánh ký Gioan thì thường Người tỏ mình ra để cho con người nói chung và môn đệ của Người nói riêng tin vào Người. Bởi vì, Người "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12). Mà ánh sáng không chiếu soi không còn là ánh sáng nữa. Bởi thế, Người luôn phải đi bước trước, ở chỗ tự động tỏ mình ra bằng những "dấu lạ / sign" (từ ngữ được Thánh ký Gioan sử dụng thay từ ngữ "phép lạ - micracle" được Phúc Âm Nhất Lãm sử dụng). 

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca cũng cho thấy trường hợp Chúa Giêsu tự động tỏ mình ra, qua sự kiện Người làm cho đứa con trai duy nhất của người mẹ góa hồi sinh. Thế nhưng, tại sao Người lại tự động làm phép lạ hồi sinh đứa con bà mẹ góa này, nếu không phải, như bài Phúc Âm cho biết: "Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương". 

 

Ở đây, qua câu Phúc Âm này, Thánh ký Luca, một người ngoại trở lại và viết Phúc Âm cho dân ngoại theo chiều hướng của Lòng Thương Xót Chúa, đã ghi nhận được cả tấm lòng đầy cảm thương của Chúa Giêsu như thế, như thể chính ngài đang có mặt vào lúc bấy giờ. Nhưng tại sao khi làm các phép lạ khác vào những lần khác không thấy vị Thánh ký này thêm một câu tương tự như thế: "Trông thấy ... Chúa chạnh lòng thương".

 

Trông thấy ai? - "Trông thấy bà", chứ không phải trông thấy quan tài của đứa con trai duy nhất của bà, thì Chúa Giêsu cảm thấy thế nào? - "chạnh lòng thương". Tại sao vậy? Thánh ký Luca đã gián tiếp trả lời ở ngay câu trước đó: "mẹ anh ta lại là một bà goá" cũng như câu sau đó Chúa Giêsu trấn an thông cảm với bà, một cử chỉ hiếm quí hầu như Người chưa làm với ai bao giờ: "Bà đừng khóc nữa!"

 

Phải chăng Chúa Giêsu "trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương" và tỏ ra cử chỉ hết sức đặc biệt với người mẹ góa này bằng lời an ủi trấn an: "Bà đừng khóc nữa!", là vì bấy giờ cảnh tượng người mẹ góa đưa xác đứa con trai duy nhất của bà đã gợi lên nơi Người hình ảnh về Mẹ của Người, người mẹ góa có một người con trai duy nhất là Người, trong tương lai, cũng trải qua hoàn cảnh y như của bà goá thành Nain này, khi Người là con trai duy nhất của Mẹ qua đời ở Sọ Trường trên Đồi Canvê? Nếu đúng như thế thì phép lạ Người hồi sinh cho đứa con ttrai của bà mẹ góa thành Nain này là dấu tiên báo về Người Mẹ Đồng Công của Người trong cuộc Vượt Qua với Người vậy

  

Sự kiện Chúa Kitô là Vị Mục Tử Nhân Lành "chạnh lòng thương", thương từng con chiên của mình, nhất là những con chiên bị thương tích trong tâm hồn, như thương người mẹ góa trước cái chết của người con trai duy nhất trong bài Phúc Âm hôm nay, cần phải trở thành mô phạm trọn lành và tối cao cho thành phần mục tử được Người tuyển chọn làm môn đệ tông đồ của Người cũng như thành phần thừa kế các vị. 

 

Ngày 13: Thánh Gioan Kim Khẩu, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh

Thánh Gioan thành Antiokia, mệnh danh là Chrysostome (Kim Khẩu) vì sự khôn ngoan và tài hùng biện. Thánh nhân sinh năm 334 tại Antiokia nước Thổ Nhĩ Kỳ. Từ bé, ngài đã được hấp thụ do mẹ ngài một đức ái nhân hậu, một đức tin sắt đá và một lòng hy sinh hào hiệp.

Mùa xuân năm 373, ngài được tuyển vào chức đọc sách và từ đó danh tiếng ngài bắt đầu lừng lẫy. Ðược tôn lên chức Giám Mục, nhưng cảm thấy bất xứng nên ngài đã rút lui vào nơi kín đáo. Ngài ước ao sống cuộc sống khổ hạnh nhưng chỉ được bốn năm, vì mắc bệnh đau dạ dày nên buộc lòng ngài phải trở về Antiokia. Năm 386, ngài thụ phong linh mục và suốt 12 năm ngài đã làm cho thính giả thành Antiokia say mê và mến phục tài giảng thuyết. Ngài đả kích mãnh liệt những cổ tục mê tín, cuộc sống xa hoa của những người giàu có. Ngài nhấn mạnh đặc biệt đến những người nghèo và nêu gương bằng cách hết lòng giúp đỡ họ. Năm 397, ngài được bầu làm Giám Mục thành Constantinople. Ngài lo nghiên cứu đặc biệt về thánh Phaolô, cải tổ hàng giáo sĩ, thiết lập một số quy chế để thánh hóa bản thân, hủy bỏ mọi tập tục xa xỉ. Ngài cũng tận lực chiến đấu chống lại những bè rối như Ariô, Novatio... Vì phản đối nữ hoàng Eudoxie, đã chiếm đoạt gia sản của một góa phụ ở Callitrope, ngài bị kết án lưu đày năm 403. Người ta không được biết bao nhiêu khổ cực ngài đã phải chịu vì Ðức Kitô và bao nhiêu người đã trở lại cùng Chúa, nhưng mọi người đều phải thán phục lòng bác ái và những lời giảng thuyết và sách vở của ngài.

Sau cùng, ngài qua đời vào ngày 13/9/407. 

Ðức Thánh Cha Piô X đã nâng ngài lên bậc Tiến Sĩ Hội Thánh và bổn mạng của những nhà giảng thuyết.

 



Thứ Tư


Ngày 14: Kính Thánh Giá

 Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9 "Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11 "Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".

Phúc Âm: Ga 3, 13-17 "Con Người phải bị treo lên".

Dưới thời hoàng đế Hérachius I, những người Ba Tư xâm chiếm Giêrusalem và lấy mất phần chính của Thánh Giá thật mà thánh Hélène, mẹ của hoàng đế Constantin đã để lại. Hérachius nhất định chiếm lại Thánh Giá này. Ngài cầu nguyện, xin Chúa giúp đỡ và nung nấu lòng can đảm. Quả nhiên, lời cầu xin của nhà vua đã được Chúa chấp thuận, ngài đã đánh bại được quân Ba Tư và trở về Constantinople giữa tiếng reo hò của dân chúng. Với những cành Olive, những ngọn đuốc cháy sáng, Thánh Giá thật của Chúa đã được tôn vinh trong bầu khí khải hoàn. Hoàng đế tràn trề sung sướng muốn trở về Giêrusalem với Thánh Giá này sau 14 năm lưu lạc. Nhà vua tiến vào thành thánh, nhưng trước khi lên núi Sọ, ngài đã không thể bước đi được nữa, khiến cho mọi người đều kinh ngạc sợ hãi. Giáo trưởng Zachazie hô lớn: "Tâu đức vua, chắc chắn phẩm phục của đức vua không xứng đáng với cảnh nghèo nàn và khiêm nhượng của Chúa Giêsu khi vác Thánh Giá".

Hérachius vội cởi bỏ phẩm phục sang trọng, và thay bằng vào bộ quần áo nghèo hèn. Tức thì nhà vua cất bước một cách dễ dàng... và để ra sự khải hoàn, Chúa đã ban nhiều phép lạ cả thể trong ngày ấy.

Từ đó, lễ kính Thánh Giá Chúa Giêsu được lập ra để nhắc nhớ cho các thế hệ kỷ niệm ngày này.

 

Phụng Vụ Lời Chúa (theo ngày cho năm không trùng với Lễ Kính Thánh Giá)

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 12, 31 - 13, 13

"Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khoa học; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát hết gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.

Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý. Bác ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.

Bác ái không khi nào qua đi, ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ, tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 2-3. 4-5. 12 và 22

Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran. - Ðáp.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.

3) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 7, 31-35

"Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng:

"Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa.

"Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc".

Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: "Người bị quỷ ám". Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: "Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi". Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXIV Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh ký Luca không liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, mà cách bài Phúc Âm hôm qua 12 câu trong cùng đoạn 7, và khúc 12 câu không được Giáo Hội chọn đọc này liên quan đến vấn nạn về bản thân Chúa Giêsu được môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đặt ra với Người và Người chẳng những đã gợi chứng cho họ biết về Người mà còn chứng thực về Vị Tiền Hô của Người nữa (xem Luca 7:18-30), trong đó có câu Thánh ký Luca nhận định như sau:

 

"Nghe ông giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Công Chính và đã chịu phép rửa của ông. Còn những người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông".

Bởi thế, thành phần được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay chính là "những người Pharisêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông", Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, vị đã làm phép rửa cho cả Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế. Thế nên, thành phần vốn bị Chúa Giêsu khẳng định và khiển trách là giả hình này đã được Chúa Giêsu sánh ví trong bài Phúc Âm hôm nay như thế này:


"Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng: 'Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc'. Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: 'Người bị quỷ ám'. Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: 'Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi'. Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".

 

Ở đây, qua nhận định của Chúa Giêsu về thành phần biệt phái và luật sĩ này, chúng ta thấy con người phải tuân hợp với chân lý, chứ chân lý không tuân hợp với con người, không theo con người, không như ý nghĩ thiển cận và ý muốn vị kỷ của con người, cho dù chân lý có thích ứng với con người để con người dễ lĩnh hội và chấp nhận (theo chiều hướng của bài Đọc 1 hôm nay)

 

Chính vì thành phần biệt phái và luật sĩ trong dân Do Thái tự phụ cho rằng mình thông luật và cẩn thận tuân giữ luật lệ nhờ đó trở nên công chính hơn ai hết, nên tưởng mình là đệ nhất thiên hạ về lề luật Chúa, ai cũng phải theo như ý họ nghĩ về lề luật một cách duy luật mới được, bằng không, vẫn bị họ cho là "bị quỉ ám", dù vị ấy có là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, vị đã từng là đèn soi chiếu cho Đấng đến sau ngài được họ tìm đến trước đó để truy nguyên về Đấng Thiên Sai (xem Gioan 5:35; Gioan 1:24-27), thậm chí còn bị họ cho là "mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi", dù vị ấy có là Chúa Kitô, Đấng "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9).

 

Kinh nghiệm tu đức cũng cho thấy, Giáo Hội Công giáo chẳng những bị quyền bính chính trị bách hại suốt giòng lịch sử của mình ở khắp nơi, mà còn thường trở thành mục tiêu chống đối của chính nội bộ Kitô hữu Công giáo của mình nữa, bao gồm cả hàng giáo phẩm lẫn giáo dân, theo chiều hướng cấp tiến hay bảo thủ của họ: Giáo Hội bị coi là quá chậm chạp trước những con mắt cấp tiến, hay ngược lại Giáo Hội bị coi là phá giới trước con mắt của thành phần bảo thủ nếu Giáo Hội cần phải thích nghi những gì tùy phụ theo thời cuộc để mưu ích hơn cho phần rỗi các linh hồn. 

 

Chưa hết, thực tế phũ phàng cho thấy, theo chiều hướng canh tân cởi mở của Công Đồng Chung Vaticanô II, đặc biệt là về phụng vụ, đã xẩy ra tình trạng quá trớn bởi thành phần cấp tiến thừa thắng xông lên, Giáo Hội lại bị kêu trách là tại cởi mở, trong khi các nguyên tắc về cởi mở được Giáo Hội ấn định một cách đàng hoàng rõ ràng lại không được trung thực tuân giữ. Thế nhưng, cuối cùng mọi sự sẽ được sáng tỏ, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình". 




Thứ Năm

 

Ngày 15: Kính bảy sự thương khó Ðức Maria

Bài Ðọc I: Dt 5, 7-9 "Người đã học vâng phục và đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời".

Lc 2, 33-35 "Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà". / Ga 19, 25-27

Những đau khổ của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn thật vô cùng lớn lao. Tiên tri Isaia đã gọi Ngài là "Con người của đau khổ". Bên cạnh những thống khổ ấy, đau khổ trong đời Mẹ Maria cũng vượt mức chịu đựng của loài người, và chúng ta không làm sao diễn tả đầy đủ được. Nếu Ðức Giêsu đã đau khổ như một Thiên Chúa, Mẹ Maria cũng đã vô cùng đau đớn khi nhìn con Mẹ xuôi tay trước những cực hình phải chịu.

Trong một mức độ nào đó, Mẹ đã đóng góp rất nhiều vào công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu bằng việc liên kết những khổ đau của Mẹ với những đau khổ của Chúa.
Giáo Hội suy tôn Ðức Maria là Nữ Vương các thánh tử đạo và đã cụ thể hóa những đau khổ của Mẹ qua các sự kiện sau:

- Lúc nghe lời tiên tri Simêon, khi dâng Chúa Giêsu trong đền thánh.

- Lúc ẵm bế Chúa Hài Ðồng trốn sang Ai Cập.

- Lúc lạc mất Chúa tại Giêrusalem. 

- Lúc gặp Chúa vác thánh giá.

- Lúc Chúa chịu đóng đinh.

- Lúc hạ xác Chúa xuống khỏi thập giá.

- Lúc táng xác Chúa.

Cùng với Giáo Hội, chúng ta dâng lên Chúa lời nguyện: "Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ðức Mẹ Ðồng Trinh cộng khổ đứng kề bên Con Chúa chịu treo trên thánh giá, xin ban cho Hội Thánh Chúa, khi đã thông phần đau khổ với Chúa Kitô thì cũng đáng được sống lại với Người".

Phụng Vụ Lời Chúa (theo ngày cho năm không trùng với Lễ Bảy Sự Đức Mẹ)

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 15, 1-11

"Chúa hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin theo, nhờ đó anh em được cứu độ, nếu anh em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng cho anh em, bằng không, anh em đã tin cách vô ích. Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như đứa con sinh non.

Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội thánh của Thiên Chúa. Nhưng nay tôi là người thế nào là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các đấng: song không phải tôi, mà là ơn của Thiên Chúa ở với tôi. Dù tôi, dù là các đấng, chúng tôi đều rao giảng như thế cả, và anh em cũng đã tin như vậy.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 28

Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm (c. 1a).

Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.

2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. - Ðáp.

3) Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 135

Alleluia, alleluia! - Xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 7, 36-50

"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".

"Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng".

Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".

Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Bài Đọc 1 hôm qua có câu: "Rõ thực lớn lao thay mầu nhiệm của tình thương, là mầu nhiệm đã được tỏ hiện trong xác thịt, minh chính trong Thánh Thần, tỏ hiện cho Thiên Thần, rao giảng cho Dân Ngoại, kính tin trong thế gian, siêu thăng trong vinh hiển", Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, một phúc âm được viết cho dân ngoại và về Lòng Thương Xót Chúa, tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua về một Chúa Kitô bị thành phần biệt phái và luật sĩ cho rằng: "mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi", bài Phúc Âm ghi lại một sự kiện như thể chứng thực Chúa Giêsu quả là như thế, quả là Đấng muốn đến sống gần gũi với thành phần tội lỗi để có thể cứu chuộc họ, để nhờ đó họ có thể nhận ra Lòng Thương Xót Chúa qua Người, ở nơi Người và là chính Người. 


Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay Thánh ký Luca cho thấy Chúa Giêsu đã gần gũi với một người đàn bà hư thân mất nết, một thứ gần gũi bất khả tránh ngoài ý muốn nhưng thật cần thiết, cho dù có thể trở thành gương mù cho người khác, như đã xẩy ra ở ngay trước mắt của vị chủ nhà biệt phái, đến độ gia chủ lấy làm ngạc nhiên khi chứng kiến thấy cảnh tượng, mà đối với thành phần coi mình là công chính bởi thông luật và duy luật, có vẻ quái gở này:

 

"Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: 'Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!'".

Nếu trong dụ ngôn vẫn được gọi là dụ ngôn người con hoang đàng, người cha nhân hậu trong dụ ngôn chẳng những tỏ lòng thương đứa con hoang đàng trở về mà còn thương cả đứa con cả ở nhà với ông mà lòng lại xa ông thế nào, thì trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu chẳng những tỏ lòng thương cả đứa con hoang đàng là người phụ nữ đang hết lòng thống hối ăn năn trở về với Người mà còn tỏ lòng thương cả vị chủ nhà công chính nhưng lầm lạc đáng thương nữa. Đó là lý do trong khi gia chủ đang có tư tưởng ngờ vực về thế giá của Người là vị được ông ta trân trọng mời vào nhà và dùng bữa với ông, Chúa Giêsu đã kéo ông từ bộ óc trên đầu của ông xuống trái tim ở dưới lồng ngực của ông, bằng một dụ ngôn vấn nạn làm ông tự suy nghĩ và đã nhận định rất đúng:

 

"Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: 'Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông'. Simon thưa: 'Xin Thầy cứ nói'. 'Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?' Simon đáp: 'Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn'. Chúa Giêsu bảo ông: 'Ông đã xét đoán đúng'".

 

Thế rồi, căn cứ vào câu trả lời chính xác theo tự nhiên của vị chủ nhà, Chúa Giêsu mới áp dụng vào trường hợp của người phụ nữ tội lỗi đang đụng chạm đến Người ở ngay trước mặt ông, một con người được kể như mắc nợ nhiều hơn ông, (chứ không phải là ông công chính theo chủ quan mà ông không mắc nợ gì với Chúa nữa), một vị gia chủ tuy cảm phục Người đã mời Người đến nhà dùng bữa, (một người biệt phái hiếm thấy đối với Chúa Giêsu vẫn là cái gai chướng mắt của thành phần biệt phái và luật sĩ, dù vị chủ nhà này chưa cảm mến Người bằng nghị viên biệt phái Nicôđêmô - Gioan 3:1-2), nhưng vẫn không tỏ ra hết lòng cung kính Người và mến yêu Người như chính con nợ phụ nữ mà trong đầu của ông đang có vấn đề với Chúa, như chính Người đã vạch ra cho ông thấy trong bài Phúc Âm:

 

"Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: 'Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít'".

Thế rồi, trong khi chủ nhà đang bàng hoàng choáng váng bởi những nhận định rất chính xác về ông cũng như về người đàn bà tội lỗi đã có những hành động đúng như những gì vị đại khách nhắc lại và so sánh với thái độ cùng hành động của ông đối với cùng vị khách này, thì Chúa Giêsu đã phán với người đàn bà hư thân mất nết, như con nợ nhiều gấp 10 lần vị gia chủ ("hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi") rằng: "Tội con đã được tha rồi".

 

Lời Người phán truyền tha tội này không ngờ lại gây phản ứng dữ dội hơn nữa, lần này không phải chỉ riêng vị gia chủ mà bao gồm cả những khách được mời (chắc cùng thành phần biệt phái với chủ nhà) nữa. Bởi thế, "những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: 'Ông này là ai mà lại tha tội được?'". Họ nghĩ cũng đúng thôi, vì trước mắt họ thì Chúa Kitô chỉ là một nhân vật Giêsu Nazarét thuần túy, chứ chẳng phải thần thánh gì, chẳng phải là Con Thiên Chúa, chẳng phải là Thiên Chúa, Đấng duy nhất có quyền tha tội cho loài người. 

 

Tuy nhiên, trong khi con mắt duy luật và cao ngạo của thành phần biệt phái này không nhận ra vị thượng khách ở giữa họ như thế thì người phụ nữ lăng loàn tội lỗi đáng kinh tởm và xa lánh đối với họ lại nhận ra Người, Đấng có quyền tha tội lỗi cho nàng, nên nàng mới bày tỏ những cử chỉ ăn năn thống hối tuyệt vời nhưng đầy ngứa mắt như vậy, thậm chí nàng cứ đến với Người bất chấp các con mắt khinh người của nhóm khách biệt phái: "Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm...". 

 

Chính vì hành động đầy tin tưởng hết sức can đảm lạ lùng hiếm có này của người phụ nữ lạ mặt "tội lỗi trong thành" này mà cuối cùng Chúa Giêsu đã nói với nàng rằng: "Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an". 

 

Kinh nghiệm tu đức và mục vụ cũng cho thấy, có những tâm hồn tội lỗi lâu năm chưa xưng tội, hay đúng hơn không dám xưng tội, vì chỉ sợ cứ sa đi ngã lại, hay vì thấy mình tội lỗi chất chồng và càng chồng chất tội lỗi càng khó trở về với Chúa, thậm chí còn nản chí mất lòng tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa. 

 

Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn theo dõi và tìm kiếm từng con chiên lạc đã có cách cứu độ của Ngài. Bởi thế, vào thời điểm ấn định, trong một hoàn cảnh thích hợp nào đó, có những tâm hồn đã trở về với Ngài, đã xưng tội, cho dù vào trong giờ lâm tử, và sau đó họ cảm thấy họ được giải thoát và được tràn đầy bình an, một thứ bình an họ không thể nào có được khi họ đang sống trong tự do theo ý họ một cách gian ác lỗi lầm, một thứ bình an thế gian mà họ đã từng mù quáng theo đuổi và hoan hưởng không thể nào ban cho họ được (xem Gioan 14:27).

 

Bởi thế, kinh nghiệm tu đức còn cho thấy, có trở về với Chúa, có chạm đến Chúa nơi Bí Tích Hòa Giải và sau đó nơi Bí Tích Thánh Thể, con người yếu đuối với có sức để sống đức tin và đứa ái, bằng không, càng ngày sẽ càng bê bối và lún sâu xuống bùn lầy tội lỗi, đến độ nếu không có phép lạ không thể nào thoát khỏi vùng lầy tội lỗi ấy nữa. Nếu người phụ nữ tội lỗi trong bài Phúc Âm hôm nay không dám đến gần Chúa và thậm chí dám giơ bàn tay nhơ nhớp đã từng làm đĩ chạm đến Chúa, thì chắc nàng không bao giờ có thể được thanh tẩy và thậm chí được biến đổi (như chúng ta sẽ thấy trong Bài Phúc Âm ngày mai). 

 


Thứ Sáu

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 15, 12-20

"Nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì đức tin của anh em cũng vô giá trị".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu chúng tôi rao giảng rằng Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, làm sao trong anh em lại có người dám nói: không có vấn đề kẻ chết sống lại? Nếu kẻ chết không sống lại, thì Ðức Kitô cũng đã không sống lại. Mà nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì lời giảng của chúng tôi sẽ nên trống rỗng, và Ðức Tin của anh em cũng ra trống rỗng. Vì chưng nếu kẻ chết không sống lại, thì chúng tôi bị coi là những chứng nhân giả dối về Thiên Chúa, vì lẽ chúng tôi đã làm chứng nghịch với Thiên Chúa rằng: Chúa đã phục sinh Ðức Kitô, khi mà Chúa đã không làm cho Người sống lại. Bởi chưng nếu những kẻ chết không sống lại, thì Ðức Kitô cũng đã không sống lại. Và nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì đức tin của anh em cũng vô giá trị, vì anh em vẫn còn ở trong tội lỗi. Vậy ngay cả những người đã an giấc trong Ðức Kitô cũng hư vong. Nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Ðức Kitô trong đời sống hiện tại mà thôi, thì chúng ta là những người đáng thương hại nhất.

Nhưng kỳ thực Ðức Kitô đã sống lại, Người là đầu mùa những người đã an giấc ngàn thu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 16, 1. 6-7. 8b và 15

Ðáp: Lạy Chúa, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa (c. 15b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra từ cặp môi chân thành! - Ðáp.

2) Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin ghé tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. Xin tỏ ra đức từ bi lạ lùng của Chúa, là Ðấng giải thoát khỏi bọn đối phương, những ai tìm nương tựa tay hữu của Ngài. - Ðáp.

3) Xin che chở con trong bóng cánh tay Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 36a và 29b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 8, 1-3

"Có mấy phụ nữ đi với Người và họ đã lấy của cải mình mà giúp Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm


Bài Phúc Âm hôm nay, mở đầu đoạn 8, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua ở cuối đoạn 7. Tức là, sau sự kiện Chúa Giêsu được một người biệt phái tên là Simon mời đến dùng bữa với ông và bạn hữu của ông, ở đó Người đã tha th cho một người phụ nữ tội lỗi hết lòng ăn năn thống hối đến với Người.

 

Nếu bài Phúc Âm hôm qua, người phụ nữ lạ mặt như vô danh tiểu tốt này chỉ được Thánh ký Luca tiết lộ một chút xíu ở ngay đầu bài Phúc Âm đó là "một người đàn bà tội lỗi trong thành", thì hình như người phụ nữ tội lỗi ấy đã trở thành một (vẫn tiếp tục vô danh) trong những nữ môn đệ của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay: 

 

"Khi ấy, Chúa rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người".

Phải chăng người phụ nữ tội lỗi tỏ lòng ăn năn thống hối ấy chẳng những đã từ bỏ đời sống tội lỗi mà còn dấn thân theo phục vụ Đấng đã vô cùng từ bi nhân hậu tha thứ tội lỗi cho mình nữa, qua chi tiết được Thánh ký Luca cho biết là: "Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám". 

 

Suy diễn này có thể đúng: người phụ nữ tội lỗi đã "đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm" và đã được Người tha thứ: "Tội lỗi con đã được tha... Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an", trong bài Phúc Âm hôm qua, chính là "Maria cũng gọi là Mađalêna" trong bài Phúc Âm hôm nay

 

Thật vậy, căn cứ vào hai chi tiết trong 2 phúc âm khác, chúng ta có thể thấy được điều này. Trước hết, trong Phúc Âm Thánh Gioan, Thánh Ký đã chú thích ở trong ngoặc đơn về Maria là chị em của Matta và Lazarô như sau: “(Maria có Lazarô bị bệnh này là người đã xức dầu cho Chúa bằng dầu thơm và lau khô chân Người bằng tóc của mình)” (11:2), đúng như những gì Thánh ký Luca ghi nhận trong bài Phúc Âm hôm qua. 

Trong Phúc Âm của Thánh ký Marco, ở đoạn liệt kê thứ tự các lần Chúa Kitô phục sinh hiện ra, mà người đầu tiên được vị Thánh ký này liệt kê là “Maria Magdalene”, một nhân vật nữ đã được thánh ký ghi chú thêm một cách kỹ lưỡng như sau: “Người trước hết đã hiện ra với Maria Magdalene là người được Người trừ cho khỏi 7 quỉ” (16:9), đúng như những gì Thánh ký Luca ghi nhận trong bài Phúc Âm hôm nay.

 

Tóm lại, căn cứ vào các đoạn Phúc Âm được trích dẫn liên quan đến nhân vật mang tên Maria và Maria Magdalene, có thể kết luận rằng cả hai danh xưng này chỉ là một nữ nhân vật duy nhất, đó là Chị Thánh Maria Mai Đệ Liên được Giáo Hội mừng kính hằng năm vào ngày 22/7.

 

Vậy Maria Magdalene cũng là Maria chị em của Matta và Lazarô ở Bêtania, có thể là một con người đã bỏ nhà đi hoang sống đời tội lỗi (x Lk 7:37) ở Magdala (?), nhưng đã thống hối bằng tất cả tấm lòng tan nát khiêm cung của mình (x Lk 7:47), “đã chọn phần tốt hơn” là lắng nghe lời Chúa (x Lk 10:42), đã khóc thương Lazarô khiến Chúa cũng cảm thấy mủi lòng trước nước mắt của chị (x Jn 11:33), và đã trung kiên theo Chúa (còn hơn cả đa số các vị tông đồ) cho tới khi đứng dưới chân thập giá Chúa với Mẹ Maria và Thánh Tông Đồ Gioan (x Jn 19:25), nhờ đó chị thậm chí còn diễm phúc trở thành con người đầu tiên được Chúa Kitô phục sinh ưu tuyển hiện ra (x Mk 16:9), trước cả các thánh tông đồ, và Người đã sai chị đi loan báo tin mừng phục sinh về Người cho chính các tông đồ nữa (x Jn 20:17)! 


Ngày 16: Thánh Cornêliô, Giáo Hoàng và Cyprianô, Giám Mục tử đạo

Thánh Cornêliô sinh trưởng tại Rôma, ngài được nhiều người biết đến về tính hiền hậu và tiết độ. Năm 251, ngài được bầu lên ngôi Giáo Hoàng kế vị Ðức Fabianô giữa lúc con thuyền Giáo Hội đang nghiêng ngửa trong cơn bách đạo của hoàng đế Gallô và Volusianô. Ngoài ra, ngài còn phải đương đầu với ly giáo Novatianô và đã viết nhiều sách nói về những người bội giáo.

Vì trung thành với Chúa Kitô, thánh Cornêliô bị đày ở Civita Vecchia và chịu tử đạo ở đó vào cuối tháng 6 năm 253.

Hôm nay chúng ta mừng lễ thánh Cyprianô. Ngài sinh năm 200 tại Phi Châu trong một gia đình quý phái ngoại giáo. Sau khi trở lại, ngài phân phát hết của cải cho người nghèo. Dù mới trở lại chưa đầy một năm nhưng lòng nhiệt thành và hoạt động truyền giáo của ngài đã vang dội khắp nơi. Ngài được phong chức linh mục và sau đó được gọi giữ chức Giám Mục thành Carthagô. Chính trong thời thánh nhân làm Giám Mục cũng là lúc bạo vương Ðêciô ra tay tàn sát người Công Giáo. Cả Phi Châu sống trong lo sợ. Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ngài thấy cần phải điều khiển địa phận trong âm thầm hơn là công khai đương đầu với địch thủ, nên đã rút vào nơi bí mật. Bằng những thơ luân lưu, ngài khuyến khích các tín hữu bị tù đày can đảm chịu đau khổ và những người chối đạo trở về với Giáo Hội. Khi cuộc bách hại tạm yên được một thời gian, ngài phải lo kiếm tiền để giải thoát cho hàng trăm ngàn người bị bắt làm nô lệ. Ngoài ra, ngài còn phải đương đầu với ly giáo Novatianô. Ngài viết nhiều sách để kêu gọi họ trở về Giáo Hội.

Năm 257, Valêrianô ban hành sắc lệnh bách hại đạo Công Giáo lần nữa. Thánh Cyprianô bị bắt và đày ở đảo Curubi và người ta buộc ngài phải dâng hương tế thần, nhưng ngài đã cương quyết từ chối. Vì vậy, ngày 14/9/258, ngài được vinh dự lấy máu đào làm chứng cho Chúa.


Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 15, 35-37. 42-49

"Gieo xuống trong mục nát, sống lại trong bất hủ".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, có người sẽ nói: những người chết sống lại thế nào? Họ lấy thân xác nào mà đến? Hỡi kẻ khờ dại! Vật ngươi gieo xuống, nếu nó không chết trước đã, thì sẽ không sống được; và vật gì ngươi gieo xuống, không phải là hình sẽ có, nhưng chỉ là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa mì hay bất cứ hạt gì khác. Việc kẻ chết sống lại cũng thế: gieo xuống trong mục nát, sống lại trong bất hủ. Gieo xuống trong hèn mạt, sống lại trong vinh quang. Gieo xuống trong yếu đuối, sống lại trong khoẻ mạnh. Gieo xuống là xác phàm, sống lại là xác thiêng.

Và nếu có xác phàm thì cũng có xác thiêng, như lời chép rằng: "Ađam cũ là người có sự sống, còn Ađam mới thì có thần trí ban sự sống. Nhưng điều có trước, không phải thuộc tinh thần, song là điều thuộc thể xác, rồi mới đến cái thuộc tinh thần. Người thứ nhất bởi đất mà ra, thì thuộc địa giới; còn người thứ hai bởi trời mà đến, thì thuộc thiên giới. Người thuộc địa giới đó thế nào, thì những người khác thuộc địa giới cũng vậy; và người thuộc thiên giới đó thế nào, thì những người khác thuộc thiên giới cũng vậy". Bởi thế, như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 55, 10c-11. 12-13

Ðáp: Tôi sẽ bước đi trước nhan Thiên Chúa, trong ánh sáng của cõi nhân sinh (c. 13c).

Xướng: 1) Tôi biết chắc điều này là Thiên Chúa phù trợ tôi. Nhờ ơn Thiên Chúa là Ðấng mà tôi ca tụng lời hứa, tôi tin cậy vào Thiên Chúa, tôi không kinh hãi; con người phàm kia làm chi hại được tôi. - Ðáp.

2) Ôi Thiên Chúa, con mắc nợ những điều con khấn cùng Ngài, con sẽ tiến dâng Ngài lễ vật bằng lời ca tụng. Vì Ngài đã cứu mạng con thoát khỏi tử thần, và cứu chân con khỏi quỵ ngã, để con được tiến thân trước nhan Thiên Chúa, trong ánh thiều quang của cõi nhân sinh. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 34

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa, và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 8, 4-15

"Hạt rơi trong đất tốt, là những người giữ lấy lời và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu. Người dùng dụ ngôn mà nói rằng: "Người gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc lên và kết quả gấp trăm".

Khi nói những lời đó, Người kêu lên rằng: "Ai có tai để nghe thì hãy nghe!". Bấy giờ các môn đệ hỏi Người dụ ngôn đó ý nghĩa thế nào. Người nói rằng: "Phần các con, thì cho các con biết những mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu. Dụ ngôn đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXIV Thường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại dụ ngôn người gieo giống của Chúa Giêsu khi "có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu".

Hình ảnh "có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu" ở ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay rất thích hợp với dụ ngôn người gieo giống là Chúa Giêsu qua vai trò giảng dạy của Ngài, những lời giảng dạy như hạt giống gieo vào tai, vào lòng thính giả, trong đó không phải ai cũng tiếp nhận hạt giống này như nhau, mà là khác nhau, được chính Chúa Giêsu phân loại và tóm gọn lại thành 4 hạng trong dụ ngôn của Người như sau:  

 

"Người gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc lên và kết quả gấp trăm".

Bốn hạng hay bốn loại thính giả lắng nghe lời Chúa hay đón nhận hạt giống lời Chúa này ra sao và được hạt giống lời Chúa tác dụng như thế nào nơi bản thân họ, hay nói cách khác, hạt giống lời Chúa đã sinh hoa kết trái ra sao nơi họ, tất cả đã được Chúa Giêsu dẫn giải ở phần cuối bài Phúc Âm hôm nay theo lời yêu cầu của các môn đệ:

 

"Dụ ngôn đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".

Như thế, căn cứ vào những gì được Chúa Giêsu dẫn giải, thì trình độ lãnh nhận hay thái độ lãnh nhận lời Chúa được chia ra làm 4 cấp theo tác dụng của lời Chúa, thứ tự như sau: 

 

1- "Vệ đường" - Hững hờ trong tâm linh: "Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ". Trường hợp này thường thấy nơi những con người chẳng tin tưởng gì hết, ngoài chính bản thân họ, họ chủ quan, cố chấp, thành kiến, ý riêng, hoàn toàn sống theo bản tính tự nhiên và buông thả, đến độ không cần bị cám dỗ họ cũng sa ngã, phạm tội mà không biết, mất hết ý thức tội lỗi v.v.

 

2- "Sỏi Đá" - Nông cạn trong cuộc sống: "Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui". Thường thấy xẩy ra trong các cuộc tĩnh tâm, tham dự viên rất hào hứng khi nghe giảng, vổ tay, cười lớn, thích thú, gật gù v.v. thế nhưng sau đó vẫn tiếp tục sống với những gì phản lại với lời giảng mà họ cảm thấy hay ho thấm thía nhất thời. 

 

3- "Bụi gai" - Bất ổn trong nội tâm: "Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả". Có những Kitô hữu Công giáo rất thông thuộc lời Chúa, hay lập lại Lời Chúa khi cần, nhắc nhở Lời Chúa cho kẻ khác, và sống đời cầu nguyện một cách kỹ lưỡng hằng ngày, cho tới khi hoạt động đụng chạm mới thấy trình độ thấm nhuần lời Chúa của họ tới đâu.

 

4- "Đất lành" Đáp ứng trong tin tưởng: "Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái". Mẫu gương cho thành phần "đất lành chim đậu" này không ai hơn Đệ Nhất Tạo Vật về ân sủng là Mẹ Maria, nhờ luôn suy niệm và đáp ứng lời Chúa (xem Luca 2:19,51), bởi thế Mẹ luôn đầy ân phúc và không bao giờ giảm một chút gì ân phúc nơi Mẹ, trái lại, ân phúc càng đầy nơi Mẹ, càng làm cho Mẹ nên giống Chúa hơn ai hết, đến độ Mẹ trở nên rực rỡ như mặt trời (xem Khải Huyền 12:1; Diễm Tình Ca 6:10).

 

 

Ngày 17: Thánh Rôbertô Bellarminô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh

Thánh Rôbertô sinh ngày 04/10/1542 tại Montepuciano nước Ý. Mẹ ngài là Cynthia Cervin, chị của Ðức Giáo Hoàng Marcellô II. Lúc còn thiếu thời, Rôbertô đã tỏ ra có nhiều điểm đặc biệt về trí thông minh và lòng đạo đức. Khi lên 18 tuổi, ngài xin gia nhập dòng Tên ở La Mã và năm 1569, ngài được gửi đi du học tại Louvain. Sau khi mãn học ở đó, Robertô đã lãnh chức linh mục. Nhờ sự thông minh uyên bác, ngài được bầu làm giáo sư ngay tại đại học Louvain trong 6 năm liền. Trong thời gian ấy, ngài đã tổ chức nhiều cuộc tranh biện về đủ mọi đề tài và bao giờ vấn đề cuối cùng cũng được giải đáp một cách rành rẽ và thỏa đáng. Ít lâu sau, ngài được cử làm Giám Tỉnh dòng Tên ở Naples. Năm 1596, Ðức Giáo Hoàng Clêmentê IV phong ngài làm Hồng Y, nhưng vì khiêm nhượng ngài đã không mang sắc phục. Ðến năm 1602, ngài lại được phong Giám Mục.

Ở bất cứ chức vụ nào, ngài cũng đem hết tài sức ra phụng vụ nước Chúa bằng giảng thuyết, làm phúc bố thí và củng cố tinh thần đạo đức mọi giới trong Giáo Hội. Ngài được đề cử làm cố vấn, giữ nhiều chức vụ trong bộ truyền giáo và nghi lễ. Ngài phải đương đầu với nhiều cuộc tranh luận gay go về quyền bính của Ðức Giáo Hoàng và giáo thuyết Ðức Maria đồng trinh. Ngoài ra, ngài còn viết nhiều sách rất có giá trị về tu đức.

Ngày 17/9/1621, ngài được an nghỉ trong Chúa sau một cơn sốt nặng trong dịp tĩnh tâm hằng năm ở nhà dòng thánh Anrê. 

Năm 1930, Ðức Giáo Hoàng Benoit XV đã phong ngài làm Tiến Sĩ Hội Thánh.