SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
"Thày là Sự Sống"
Mục Tử Thần Linh
Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần IV
Phục Sinh
Phụng
Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh
(cho các Chúa Nhật)
Bài Ðọc I: Cv 2, 14a. 36-41
"Thiên Chúa đã tôn Người làm Chúa và làm Ðấng Kitô".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: "Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Ðấng Kitô".
Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: "Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?" Phêrô nói với họ: "Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến". Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ mà rằng: "Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này". Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng, đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 2, 20b-25
"Anh em đã trở về cùng Ðấng canh giữ linh hồn anh em".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, khi làm việc lành, nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ, đó mới là ân phúc trước mặt Thiên Chúa. Anh em được gọi làm việc đó, vì Ðức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Ðấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Ðấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành. Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Ðấng canh giữ linh hồn anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 1-10
"Ta là cửa chuồng chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ". Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".
Ðó là lời Chúa.
1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
Bài Ðọc I: Cv 4, 8-12
"Ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô được đầy Thánh Thần, đã nói: "Thưa chư vị Thủ lãnh toàn dân và Kỳ lão, xin hãy nghe, nhân vì hôm nay chúng tôi bị đem ra xét hỏi về việc thiện đã làm cho một người tàn tật, về cách thức mà con người đó đã được chữa khỏi, xin chư vị và toàn dân Israel biết cho rằng: Chính nhờ danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng ta, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây. Chính người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên Ðá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác. Bởi chưng, không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được ban tặng cho loài người, để phải nhờ Danh đó mà chúng ta được cứu độ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1 và 8-9. 21-23. 26 và 28cd và 29
Ðáp: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường (c. 22).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa ở loài người. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa những bậc quân vương. - Ðáp.
2) Con cảm tạ Chúa vì Chúa đã nghe con, và đã trở nên Ðấng cứu độ con. Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. - Ðáp.
3) Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến, từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Ngài muôn thuở. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Ga 3, 1-2
"Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, các con hãy coi: tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và sự thật là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con cái Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 11-18
"Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Ðó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta".
Ðó là lời Chúa.
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa ở loài người. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa những bậc quân vương.
2) Con cảm tạ Chúa vì Chúa đã nghe con, và đã trở nên Ðấng cứu độ con. Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta.
3) Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến, từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Ngài muôn thuở.
Bài Ðọc I: Cv 13, 14. 43-52
"Ðây chúng tôi quay về phía các dân ngoại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường. Có nhiều người Do-thái và tòng giáo theo các ngài, được các ngài khuyên bảo bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa.
Ðến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: "Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất". Nghe vậy các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.
Những người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo và các thân hào trong thành bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy hân hoan và Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 99, 2. 3. 5
Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy phụng sự Chúa với niềm vui vẻ; hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người, ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. - Ðáp.
3) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Kh 7, 9. 14b-17
"Chiên Con sẽ thống trị họ, và dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan, đã xem thấy một đám đông không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên; họ mặc áo trắng dài, tay cầm lá vạn tuế.
Và một bô lão đã nói với tôi: "Ðây là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự Người trong đền thánh Chúa, Ðấng ngự trên ngai vàng đặt ở giữa họ. Họ sẽ không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 27-30
"Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một".
Ðó là lời Chúa.
Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật thứ 4 Năm C Lễ Chúa Chiên Lành hôm nay được Giáo Hội soạn dọn rất ăn khớp với nhau, căn cứ vào câu đầu tiên của bài Phúc Âm ngắn ngủi: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta".
"Chiên Ta thì nghe tiếng Ta": Để biết được đâu là chiên của Chúa thì đặc tính đầu tiên và trên hết của nó đó là biết "nghe tiếng" chủ chiên của mình. Nếu không biết nghe tiếng chủ chiên của mình thì thật sự không phải là chiên của Chúa, như ngay trước câu đầu tiên của bài Phúc Âm hôm nay chính Người đã khẳng định với những người Do Thái đang nghe Người bấy giờ rằng: "Quí vị không chịu tin Tôi vì quí vị không phải là chiên của Tôi" (10:26). Như thế, "nghe tiếng" chủ chiên là đặc tính của chiên đây chính là tin vào Người, chứ không phải chỉ nghe về thể lý như thành phần thính giả Do Thái lúc ấy trong hội đường Carpanaum.
Đặc tính "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi" đây, không phải chỉ nghe trực tiếp từ Người, mà còn nghe qua thành phần môn đệ tông đồ được Người sai đi làm thành phần chứng nhân tiên khởi của Người nữa. Bởi vì những gì các vị loan báo và giảng dạy về Người với thẩm quyền Người ban đều có tính cách Truyền Thống từ chính Người (xem Mathêu 16:19; 18:20). Và đó là lý do chúng ta thấy trong Sách Tông Vụ ở Bài Đọc 1 hôm nay một sự kiện hoàn toàn đối chọi nhau giữa "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi" và "quí vị không phải là chiên của Tôi" rất tỏ tường nơi thái độ của những ai nghe theo Thánh Phaolô cùng những ai không như sau:
"Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường. Có nhiều người Do-thái và tòng giáo theo các ngài, được các ngài khuyên bảo bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa.
"Ðến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: 'Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất'. Nghe vậy các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.
"Những người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo và các thân hào trong thành bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy hân hoan và Thánh Thần".
"Ta biết chúng": Vị Chủ Chiên là Chúa Kitô đã thực sự "biết chiên" của mình như thế nào, nếu không phải như chính Người đã xác nhận trong bài Phúc Âm hôm nay: "Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một".
Trước hết Người biết chiên của Người ở chỗ họ nghe tiếng của Người, họ tin vào Người; sau nữa, Người biết chiên của Người ở chỗ Người ban cho họ là thành phần xứng đáng và hội đủ điều kiện để "được sống đời đời"; và sau hết, Người biết chiên của Người là tất cả những gì Cha Người ban cho Người, trao cho Người và Người cần phải trân trọng và quí mến, như chính Cha quí mến họ vậy: "Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một".
Chính vì "Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả" mà "chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta". Cho dù họ có là thành phần lên án Người như Hội Đồng Đầu Mục Do Thái cùng đám dân chúng vừa tung hô Người vào thành Jerusalem liền hùa theo thành phần lãnh đạo hô hoán "đóng đanh nó vào thập giá", dù họ có phản nộp Người như tông đồ Giuđa Íchca, dù họ có chối bỏ Người như tông đồ Phêrô, dù họ có lên án tử cho một con người vô tội như Người đúng như tổng trấn Philatô đã nhận thức mà còn cố tình sát hại Người, và dù họ có là những tên lý hình của đế quốc Roma tàn nhẫn hành hạ và đóng đanh Người vào thập tự giá v.v. Vì, đối với Chúa Kitô Khổ Giá là tất cả LTXC thì "họ lầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34).
"Chúng theo Ta": Vâng, nếu đặc tính chính yếu làm nên thành phần chiên được cứu độ, tức thành phần được chủ chiên biết đến và ban cho họ sự sống đời đời như thế, thì thành phần chiên được sự sống này còn ở chỗ "theo" chủ chiên nữa, theo đúng "sự sống" thần linh vô cùng "viên mãn" (Gioan 10:10) họ được thông hưởng và chia sẻ. Nhờ đó, như một cành nho đã sinh trái được cắt tỉa cho càng sinh trái hơn (xem Gioan 15:2), họ mới chứng thực Chúa Kitô sống trong họ và Người tiếp tục mang ơn cứu độ đến cho những con chiên của Người trong suốt giòng lịch sử nhân loại, cho đến khi Người lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống (là chiên) và kẻ chết (là dê) trong cuộc Chung Thẩm cánh chung (xem Mathêu đoạn 25).
Và thành phần chiên "theo" chủ chiên này đã được Sách Khải Huyền của Thánh Gioan, trong Bài Đọc 2 hôm nay diễn tả như thành phần đẫm máu như chủ chiên của mình, ở chỗ "Họ tinh tuyền và theo Con Chiên đến những nơi Con Chiên tới" (Khải Huyền 14:4):
"Tôi là Gioan, đã xem thấy một đám đông không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên; họ mặc áo trắng dài, tay cầm lá vạn tuế. Và một bô lão đã nói với tôi: "Ðây là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự Người trong đền thánh Chúa, Ðấng ngự trên ngai vàng đặt ở giữa họ. Họ sẽ không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ".
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 11, 1-18
"Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các tông đồ và anh em ở Giuđêa nghe tin rằng cả dân ngoại cũng đã đón nhận lời Thiên Chúa. Khi Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người rằng: "Tại sao ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ?" Phêrô trình bày cho họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: "Tôi đang ở tại thành Gióp-pê, lúc cầu nguyện, trong một thị kiến, tôi thấy một vật gì giống chiếc khăn lớn túm bốn góc, từ trời thả xuống sát bên tôi. Tôi chăm chú nhìn và thấy những con vật bốn chân, những mãnh thú, rắn rết và chim trời. Tôi nghe tiếng phán bảo tôi: "Phêrô, hãy chỗi dậy giết mà ăn". Tôi thưa: "Lạy Chúa, không được, vì con không khi nào bỏ vào miệng con những đồ dơ nhớp hay bẩn thỉu". Tiếng từ trời nói lần thứ hai: "Vật gì Thiên Chúa cho là sạch, ngươi đừng nói là dơ nhớp". Ba lần xảy ra như thế, và mọi sự lại được kéo lên trời.
"Và ngay lúc đó, ba người từ Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi đừng ngần ngại đi với họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một người. Anh thuật lại cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào; thiên thần đứng trong nhà anh và nói với anh rằng: "Hãy sai người đến Gióp-pê tìm Simon có tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và cả nhà ngươi được cứu độ". Lúc tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự trên chúng ta lúc ban đầu. Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: "Gioan đã rửa bằng nước, còn các con, các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần". Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như đã ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể ngăn cản Thiên Chúa?"
Nghe những lời ấy, họ thinh lặng và ca tụng Thiên Chúa rằng: "Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 41, 2. 3; 42, 3. 4
Ðáp: Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống (Tv 41, 3a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi. - Ðáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống; ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời! - Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúng con biết rằng Ðức Kitô đã thật sự sống lại từ cõi chết: Lạy Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 1-10
"Ta là cửa chuồng chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ".
Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".
Ðó là lời Chúa.
Trong Năm A, bài Tin Mừng dưới đây được đọc thay bài Tin Mừng trên:
Phúc Âm: Ga 10, 11-18
"Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Ðó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Lời Chúa
Chủ đề
"Thày là sự sống"
theo chiều kích Mục Tử Thần Linh cho Tuần IV Phục Sinh chẳng những được tỏ
hiện rõ ràng ở bài Phúc Âm Chúa Nhật, cũng được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên
Lành, bài phúc âm cho cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, mà còn cho cả các
bài đọc ở các ngày thường trong tuần lễ này nữa. Rõ ràng nhất là bài Phúc Âm
cho ngày Thứ Hai hôm nay, cũng chính là bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Năm A
hôm trước, bài Phúc Âm được chính Chúa Kitô khẳng định Người chẳng những là
cửa đàn chiên mà còn đến để mang lại sự sống cho chiên nữa:
"Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến
trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà
vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm
có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho
chúng được sống và được sống dồi dào".
"Ta là mục tử tốt lành. Mục tử
tốt lành thí mạng sống mình vì chiên...
Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta".
Căn cứ vào hai câu Chúa
Giêsu nói về Người là vị mục tử tốt lành, thì vị mục tử tốt lành cần 2 yếu tố
bất khả thiếu và bất khả phân ly, đó là dám chết vì chiên, cũng như chẳng những
biết chiên mà còn được chiên biết đến nữa. Chỉ có những vị mục tử nào biết chiên
và được chiên biết đến mới dám liều mạng sống mình vì chiên.
Tuy nhiên, nếu biết chiên mà không được chiên biết thì cũng không phải hay chưa
phải là mục tử tốt lành, bởi chưa biết chiên thực sự, hay chỉ biết những cái xấu
của chiên để mà sửa phạt, chứ không thông cảm và nâng đỡ, hoặc biết những cái
tốt của chiên nhưng lại không sử dụng, trái lại, còn coi thường và tẩy chay, chỉ sợ mất uy tín
của mình v.v.
Một vị chủ chiên tốt lành thì được chiên mộ mến lắng nghe, tuy nhiên, nếu vị chủ
chiên ấy lợi dụng lòng mộ mến của chiên để mà cạnh tranh với các chủ chiên khác,
hay đàn áp những con chiên dám nói thẳng những gì cần được xây dựng chính đáng,
hoặc tỏ ra bất tuân phục thẩm quyền của mình, hay nể nang mị dân không dám dẫn
dắt chiên theo đúng tinh thần và đường lối của Chúa v.v., thì cũng chỉ là những
chủ chiên tốt lành giả hình, mang tinh thần của kẻ trộm cướp mà thôi, và chắc
chắn sẽ không dám liều mạng sống vì chiên.
Bài Đọc I (Tông
Vụ 11:1-18):
"Khi
Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người rằng: 'Tại sao
ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ?' Phêrô trình bày cho
họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: '... ngay
lúc đó, ba người từ Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi
đừng ngần ngại đi với họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một
người. Anh thuật lại cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào;
thiên thần đứng trong nhà anh và nói với anh rằng: 'Hãy sai người đến Gióp-pê
tìm Simon có tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và
cả nhà ngươi được cứu độ'".
"Lúc
tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự trên chúng ta lúc ban đầu.
Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: 'Gioan đã rửa bằng nước, còn các con, các con
sẽ được rửa bằng Thánh Thần'. Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như đã
ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể
ngăn cản Thiên Chúa?' Nghe những lời ấy, họ thinh lặng và ca tụng Thiên Chúa
rằng: 'Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được
sống'".
Ngày 12 tháng 5
BA THÁNH Tử
ĐẠO NÊRÊÔ, ACHILÊÔ VÀ PANCRATIÔ
I. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ.
Những gì chúng ta biết về hai vị tử đạo Nêrêô, Achilêô của thế kỷ thứ nhất là từ các lời chứng của Thánh Giáo Hoàng Damasus trong thế kỷ thứ tư, và được ghi khắc trên tấm bia để tưởng nhớ các ngài. Và sự việc này chỉ xảy ra sau cái chết của các ngài đến 300 năm.
Ðức Damasus kể rằng Nêrêô và Achilêô là binh lính của đạo quân Rôma và nhiệm vụ của họ là bách hại người Kitô Giáo. Có lẽ các ngài chẳng có lý do gì để chống đối đạo và cũng chẳng muốn đổ máu người vô tội, nhưng họ tuân lệnh chỉ vì sợ chết. Nói cho cùng, đó là nhiệm vụ của một người lính.
Chúng ta không rõ hai ngài đã trở lại đạo như thế nào, chỉ biết đó là một “phép lạ đức tin.” Sau phép lạ này, hai ngài quăng vũ khí và trốn ra khỏi trại, vứt bỏ áo giáp và gươm đao để mặc lấy đời sống mới trong Ðức Kitô. Vì đã từng là những kẻ bách hại, có lẽ các ngài biết rõ hơn ai hết về sự đau khổ đang chờ đợi người Kitô. Tuy nhiên, đức tin đã chiến thắng sự sợ hãi cái chết, và sự chiến thắng của đức tin là sự ngọt ngào nhất mà các ngài chưa bao giờ được cảm nghiệm.
Chúng ta biết là các ngài đã tử đạo, nhưng Ðức Damasus không cho biết chi tiết như thế nào. Sau này, truyền thuyết nói rằng các ngài phục vụ dưới quyền bà Flavia Domitilla, là cháu gái của Hoàng Ðế Domitianô, và đã bị lưu đày và bị hành quyết cùng với bà khi chính bà này trở lại đạo. Truyền thuyết này có lẽ phát xuất từ sự kiện là hai ngài đã được chôn cất trong một hầm mộ được gọi là nghĩa trang Domitilla.
Còn thánh Pancratiô sinh tại Phygia, trong một gia đình quý tộc. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ngài về chung sống với một người cậu tại Rome. Năm 14 tuổi, ngài trở thành tín hữu và đem hết của cải cho người nghèo khổ. Do ngài sống đức tin Công giáo nên hoàng đế Diocletianô đã chém đầu thánh nhân vào năm 304. Xác ngài được đem về chôn cất trên đường Aurelianô. Ðức Giáo Hoàng Symmacô đã xây một thánh đường tại đó để tôn vinh danh ngài. Thánh Grêgôriô thành Tours gọi ngài là “Ðấng trừng phạt những kẻ bội thề”, bởi ai đứng trước mộ ngài mà thề gian thề dối đều bị Chúa phạt.
II. BÀI HỌC.
Bài học rõ nét nhất về cuộc đời của các ngài là lòng can đảm dám hy sinh vì niềm tin của mình.
Cuộc sống đức tin đã đến với các ngài như một phép lạ. Phải nói đúng là một phép lạ vì trước đó các ngài là những người hoàn toàn thuộc về thế gian, thậm chí tay các ngài còn nhúng chàm khi nghe theo những mệnh lệnh của thế gian mà gây ra những sự chết chóc đau thương cho những người tin Chúa. Các ngài đã có kinh nghiệm rất cụ thế về sự đau đớn các vị tử đạo đã phải chịu.Thế nhưng khi đã tin Chúa thì vì tình yêu đối với Chúa các ngài đã nhìn những đau khổ khi phải chịu vì Chúa trở nên nhẹ nhàng và đáng quí đến nỗi các ngài dám chấp nhận mọi hy sinh để được trung thành với đức tin của mình.
Vào cuối năm 1949, trong một nhà nguyện của một đại chủng viện ở Nam Kinh, thủ đô Trung Hoa Dân quốc của tổng thống Tưởng Giới Thạch, lúc đó có một buổi diễn tập đám cưới: Đây chưa phải là đám cưới thật, nhưng hôm trước đám cưới, cô dâu chú rể, phù dâu, phù rể tham dự buổi diễn tập để khi làm lễ chính thức họ không bị lúng túng, ngượng nghịu.
Nhưng ngay tối hôm đó, Hồng quân của Mao Trạch Đông tiến vào Nam Kinh, chiếm đóng đại chủng viện và bắt nhiều sinh viên, trong số đó có chú rể, đem giam vào trại tập trung với một lý do đơn giản là những người này có tội với nhà nước vì tin nhận Chúa Cứu Thế và đi học đại chủng viện để truyền bá Phúc âm.
Từ đó, cứ mỗi năm một lần, chính quyền cho phép cô dâu vào thăm chú rể ít phút. Sau khi cho cô dâu vào thăm chú rể, nhân viên cơ quan công lực đến nói với chú rể rằng: “Anh có thể được trả tự do ngay bây giờ và được chính quyền cho phép làm đám cưới nếu anh bằng lòng chối bỏ Chúa của anh”. Thanh niên này không ngần ngừ và chỉ trả lời bằng một tiếng ngắn gọn: “Không!”.
Cảnh đó diễn ra suốt 30 năm trời. Cứ mỗi năm một lần cô dâu được vào thăm chú rể ít phút, rồi cô câu hỏi:
- Anh có bằng lòng bỏ Chúa anh không? Nếu anh bỏ, anh sẽ được tự do, được cưới vợ...
Và lần nào cũng chỉ có một câu trả lời là “không!”.
Trong 30 năm đó, chú rể từ một thanh niên trẻ trung, khỏe mạnh, đã trở thành một người già, lưng đã còng xuống vì liên tục lao động, vì điều kiện sinh sống kham khổ, nhưng niềm tin vào Chúa Cứu Thế của ông vẫn không lay chuyển.
Đến năm 1979, chính sách của Trung Hoa lục địa thay đổi chú rể già này được trả tự do, được phép qua Hong Kong sinh sống và một đám cưới đã được tổ chức ở Hong Kong. Có người đến thăm, hỏi ông:
- Tại sao ông có thể trung kiên với Chúa suốt 30 năm trời bị ngược đãi, áp bức, đau khổ như vậy?.
Ông đáp: - Chúa Cứu Thế đã hy sinh chịu chết vì tôi, làm sao tôi có thể phản bội Ngài được?. (ĐTPA).
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện :
Lạy Chúa
Đã hai ngàn năm nay, lượn sóng tình thương của Chúa đã lôi kéo biết bao nhiêu người về với Chúa, nào có ai đã được người ta yêu mến bằng Chúa?
Hàng triệu Đấng Tử đạo đổ máu mình trong những hình khổ quái gở, miệng vẫn tươi cười, lòng vẫn hớn hở, vì họ được phước kể vào hàng ngũ kẻ xứng đáng chịu đau khổ vì danh Thánh Chúa.
Hằng triệu thầy cả, thầy dòng, thừa sai đã hy sinh tất cả để được nên giống Chúa và đã hy sinh trót mình họ một cách hoàn toàn như Chúa đã hy sinh vì Chúa Cha và cho các linh hồn.
Và biết bao nhiêu giáo hữu luôn cương quyết xông pha trong cuộc chiến đấu hằng ngày của đời sống Công giáo. Chỉ vì họ yêu mến Chúa.
Trung thành với lời thề hứa ngày rửa tội, họ đã từ bỏ tội lỗi, đã đóng đinh mọi khuynh hướng tội lỗi hầu sống trong ơn thánh và Phục sinh với Chúa.
Ở Giêsu Kitô, con thấy Chúa còn tự đắc lắm, vì không ai dưới trần thế này được người ta yêu mến quá như vậy, yêu mến với một mối tình sống động phát hiện ở việc làm, lời nói, cách ăn ở, với một tấm lòng mạnh hơn mọi cơn cám dỗ, mạnh hơn mọi sự đau khổ và mạnh hơn cả sự chết nữa.
Giêsu, xin hãy lôi cuốn con theo lượn sóng tình yêu ấy. Xin Chúa nói trong tâm hồn con: Chúa đáng mọi sự ấy và còn đáng hơn nữa bội phần…
E. Maraux
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-12-05-thanh-nereroakileo-va-pancrasio-tu-dao-39973
Thánh Nêrô và thánh Akilêô là những binh sĩ Rôma qua đời khoảng năm 304. Có thể các ngài là những vệ sĩ của hoàng đế Rôma dưới thời vua Trajanô. Chúng ta không được biết nhiều chi tiết về các ngài. Thế nhưng những điều chúng ta biết được là do hai vị giáo hoàng Sirisiô và Đamasô sống vào thế kỷ thứ tư kể lại. Vào năm 398, đức giáo hoàng Sirisiô đã xây một ngôi thánh đường ở Rôma để tôn kính các ngài. Đức giáo hoàng Đamasô thì soạn một bài viết tóm tắt cuộc đời của hai vị tử đạo này. Ngài giải thích rằng Nêrô và Akilêô được ơn trở lại với đức tin Công giáo. Các ngài đã vĩnh viễn từ bỏ vũ khí lại đằng sau. Các ngài là những môn đệ đích thực của Đức Chúa Giêsu dù phải trả giá cả mạng sống mình. Nêrô và Akilêô bị đày ra đảo Têraxina và bị xử trảm tại đó. Vào thế kỷ thứ bốn, ngôi thánh đường thứ hai đã được xây cất tại một nơi khác trong thành Rôma để tôn kính hai vị tử đạo này.
Thánh Pancrasiô, một trẻ mồ côi mười bốn tuổi, cũng sống vào thời gian này. Ngài có lẽ cũng bị giết chết cùng ngày với hai vị thánh trên. Pancrasiô không phải là người bản xứ Rôma. Người cậu trông coi Pancrasiô đã đưa ngài tới đó. Pancrasiô được chịu phép Thanh tẩy và trở nên môn đệ của Đức Chúa Giêsu. Dù mới chỉ là một cậu bé, nhưng Pancrasiô cũng bị bắt giữ vì lý do là Kitô hữu. Pancrasiô nhất định không chịu chối bỏ đức tin của mình. Vì vậy, ngài đã bị kết án tử hình. Pancrasiô bị trảm quyết. Pancrasiô là vị thánh tử đạo rất được sùng mộ và kính phục trong thời Giáo hội sơ khai. Người ta ngưỡng mộ Pancrasiô vì tuy tuổi đời non trẻ nhưng đã rất can đảm và anh dũng. Vào năm 514, người ta xây cất một ngôi thánh đường lớn tại Rôma để tôn kính thánh Pancrasiô. Đến năm 596, một vị thừa sai danh tiếng, thánh Augustinô Cantơbơri, đến đem đức tin Công giáo cho đất nước Anh. Ở đó, thánh nhân đã lấy danh thánh Pancrasiô để đặt tên cho ngôi thánh đường đầu tiên của mình.
Các thánh tử đạo Rôma nhắc nhớ chúng ta ý nghĩa quan trọng của đức tin Công giáo. Mỗi người chúng ta hãy biết quý mến, đề cao cũng như thực hành đức tin này. Nếu muốn kiện toàn đức tin của mình, chúng ta hãy nài xin các thánh Nêrô, Akilêô và Pancrasiô giúp đỡ.
https://dongten.net/2019/05/12/hanh-cac-thanh-12-05-thanh-nero-akileo-va-pancrasio/
Hai thánh Nêrêô và Akileo là những binh sĩ, nhưng khi trở lại đạo các Ngài đã rời bỏ quân ngũ rồi sau đó đã lãnh triều thiên tử đạo. Câu chuyện tử đạo của các Ngài có lẽ đã là giả tưởng. Theo bản văn của đức giáo hoàng Damas, thì các Ngài đã sống dưới triều hoàng đế Nêrô. Chính thánh Phêrô đã rửa tội cho các Ngài. Được phái về phục vụ thánh nữ Đômôtilla, sau đó các Ngài cũng bị đi đày và được phúc tử đạo với bà chủ.
Một tài liệu khác cho rằng thánh Nêrêô và Akileo là lính cận vệ của chính Đức Giáo hoàng Damas.
Có người lại cho rằng thánh Nêrêô là con tinh thần của thánh Phaolô.
Như vậy các tài liệu về cuộc đời hai thánh tử đạo không được chắc chắn. Tuy nhiên, lòng tôn kính dành cho các Ngài rất cổ kính. Thánh đường lưu giữ hài cốt các Ngài ở đường Ardeatina đã được tái thiết tới ba lần.
Thánh Pancraxiô sinh tại Phrygia trong một gia đình danh giá giàu có. Nhưng cha mẹ Ngài mất sớm và ký thác Ngài cho ông cậu là Denis. Ba năm sau, Denis đến lập nghiệp ở Rôma. Chúa quan phòng đã xếp đặt để họ ở gần nơi trốn tránh của Đức Giáo hoàng Marcelionô trong cơn bách hại của Diocletianô và Maximianô. Cảm kích trước sự khiêm tốn, nhân hậu đạo đức cùng đức nhẫn nại của vị thánh Giáo hoàng, họ đã xin theo đạo và được đức giáo hoàng ưng thuận. Ong Denis chỉ sống thêm ít ngày sau khi trở lại. Nhưng Pancraxiô mới 14 tuổi, bị bắt sau khi ông cậu qua đời. Vì quen với cha Ngài Hoàng đế Diôcletianô đến gặp và dùng hết cách để đưa Ngài trở về với cuộc sống lương dân, Ngài đã can đảm trả lời nhà vua: Một Kitô hữu không màng tới của cải và thú vui trần thế. Họ chỉ ao ước những gia sản trên trời. Cái chết chỉ làm cho hạnh phúc của họ tới mau hơn. Ngài cứ hành hình tôi và đừng tìm cách bắt tôi thờ lạy các tượng thần làm gì.
Hoàng đế giận dữ ra lệnh chém đầu Ngài. Một phụ nữ đạo đức đã đến lấy xác Ngài và chôn cất ở đường Aurelia. Đức Giáo hàong Symmacho đã xây cất một thánh đường tại đây cho Ngài.
Thánh Pancrasiô, một trẻ mồ côi mười bốn tuổi, cũng sống vào thời gian này. Ngài có lẽ cũng bị giết chết cùng ngày với hai vị thánh trên. Pancrasiô không phải là người bản xứ Rôma. Người cậu trông coi Pancrasiô đã đưa ngài tới đó. Pancrasiô được chịu phép Thanh tẩy và trở nên môn đệ của Đức Chúa Giêsu. Dù mới chỉ là một cậu bé, nhưng Pancrasiô cũng bị bắt giữ vì lý do là Kitô hữu. Pancrasiô nhất định không chịu chối bỏ đức tin của mình. Vì vậy, ngài đã bị kết án tử hình. Pancrasiô bị trảm quyết. Pancrasiô là vị thánh tử đạo rất được sùng mộ và kính phục trong thời Giáo hội sơ khai. Người ta ngưỡng mộ Pancrasiô vì tuy tuổi đời non trẻ nhưng đã rất can đảm và anh dũng. Vào năm 514, người ta xây cất một ngôi thánh đường lớn tại Rôma để tôn kính thánh Pancrasiô. Đến năm 596, một vị thừa sai danh tiếng, thánh Augustinô Cantơbơri, đến đem đức tin Công giáo cho đất nước Anh. Ở đó, thánh nhân đã lấy danh thánh Pancrasiô để đặt tên cho ngôi thánh đường đầu tiên của mình.
https://www.giaophandanang.org/ngay-12-05-thanh-nerero-akileo-va-pancrasio-tu-dao.html
Các vị thánh là những người đã sống tới mức anh hùng của các nhân đức,các
ngài cố gắng hết sức họa lại hình ảnh của Chúa Giêsu. Như một tảng đá các
Ngài phấn đấu gọt dũa sống hết mình vì Đức Kitô. Hai thánh Nêrê và Achillêô
đã để lại mẫu gương tuyệt vời về lòng trung kiên đối với Chúa Giêsu Kitô.
Hai thánh nhân trước khi được phúc chết vì đạo đều là những binh sĩ ngoại
giáo. Quả thực, Chúa muốn tuyển chọn ai là do sự tự do, tấm lòng quảng đại,
hoàn toàn vô vị lợi của Chúa. Một tiếng gọi, một lời mời vang lên: Chúa có
con đường và có cách của Ngài. Tiếng của Chúa có thể ngỏ trực tiếp với một
người, nhiều người, con người có sẵn sàng đáp trả hay không tùy thuộc tự do
của mỗi người.
Thường khi Chúa kêu mời ai, người đó mau mắn đáp lại tiếng gọi của
Ngài.Trường hợp của Nêrê và Achillêô ghi đậm lời sách khải huyền:” Ai thắng,
Ta sẽ cho ăn quả cây sự sống, trồng ở trên thiên đàng của Thiên Chúa”( Kh 2,
7 ). Thánh Nêrô và thánh Achillêô đều phục vụ trong quân đội như thánh
Sêbastianô dưới thời Hoàng Đế Điôclêtianô. Cơn bách hại đạo xẩy ra vào năm
304, các Ngài còn là người ngoại giáo,nhưng trước những mẫu gương sáng chói
của các vị tử đạo, các Ngài đã có đức tin và xin quay trở về với Chúa Giêsu
Kitô. Vì lòng can đảm, đức tin sắt đá của các Ngài, hai thánh nhân đã bị
bắt, bị tra tấn và bị giết vì danh Chúa Kitô. Ngày nay khi tới Roma, người
ta sẽ được viếng, được chiêm ngưỡng hai vương cung thánh đường dâng kính
thánh Nêrê và thánh Achillêô: một được xây cất vào thế kỷ thứ IV ở đường
Ardéatina và một thánh đường do Đức Thánh Cha Lêô III xây dựng và cung hiến
vào những năm 795-816 tại đường Appia.
CHÚA
THƯỞNG CÔNG CHO CÁC NGÀI
Vì lòng mến Chúa và hy sinh cuộc đời, hy sinh mạng sống của mình cho Chúa
như lời Chúa nói:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người
hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Thánh Nêrê và thánh Achillêô
đã nói lên cái cuối cùng của mình là hy sinh chết vì tình yêu. Các Ngài đã
có một giấc mơ như M. Luther King đã nói:” Tôi có một giấc mơ”( I have a
dream ).Hai thánh Nêrê
Lạy Thiên Chúa toàn năng, hôm nay chúng con mừng hai thánh Nêrê và Achillêô
tử đạo đã anh dũng tuyên xưng đức tin. Xin cho chúng con luôn được các Ngài
bênh vực chở che trước tòa Chúa”( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Nêrê và
Achillêô ).
http://www.simonhoadalat.com/SuyNiem/Saints/Thang5/Ngay12.htm
Thứ Ba
Bài Ðọc I: Cv 11, 19-26
"Họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vì cơn bách hại xảy ra nhân dịp Têphanô bị giết, có nhiều người phải sống tản mác, họ đi đến Phênixê, Cyprô và Antiôkia, họ không rao giảng lời Chúa cho một ai ngoài những người Do-thái. Nhưng một ít người trong họ quê ở Cyprô và Xyrênê; khi đến Antiôkia, họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp nữa. Và tay Chúa ở với họ; nên có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu tai Hội Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và thấy việc ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng tin nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi, liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đồ lần đầu tiên nhận tên là Kitô hữu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 86, 1-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa (Tv 116, 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa yêu cơ sở Ngài thiết lập trên núi thánh; Ngài yêu cửa nhà Sion hơn mọi cư xá nhà Giacóp. Hỡi thành trì của Thiên Chúa, thiên hạ đang nói những điều hiển hách về ngươi. - Ðáp.
2) Ta sẽ kể Rahab và Babel vào số người thờ phượng Ta, kìa Philitinh, Tyrô và dân Êthiôpi: những người này đã sinh ra tại đó. Và thiên hạ sẽ nói về Sion rằng: "Riêng từng người và hết mọi người đã sinh tại đó, chính Ðấng Tối Cao đã củng cố thành này". - Ðáp.
3) Chúa sẽ ghi chép vào sổ sách của chư dân rằng: "Những người này đã sinh ra tại đó". Và khi ca vũ, người ta sẽ ca rằng: "Mọi nguồn vui thú của tôi đều ở nơi ngươi". - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô, Ðấng tác tạo mọi loài, đã sống lại và đã xót thương nhân loại. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 22-30
"Tôi và Cha Tôi là một".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết". Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Ðiều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một".
Ðó là lời Chúa.
"Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: 'Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết'. Chúa Giêsu đáp: 'Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Ðiều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một'".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành, đã minh định chiên của Người có bản chất và khuynh hướng tự nhiên ra sao, đó là "nghe tiếng Tôi (tức tin vào Người) và theo Tôi", bởi thế, những ai không nghe tiếng Người, hay "không tin" vào Người, như Người đã nói thẳng vào mặt dân Do Thái bấy giờ "không tin" Người nên "không thuộc về đàn chiên của Tôi".
Ở đây Chúa Giêsu không hất hủi một ai, nhất là thành phần được Cha của Người tuyển chọn làm dân riêng, một dân tộc Người mang huyết thống khi hóa thành nhục thể. Người chỉ nói rằng họ vì không tin nên "không thuộc (đúng hơn chưa thuộc) về đàn chiên của Tôi" thôi, cho đến khi họ tin thì họ sẽ thuộc về đàn chiên của Người, và hành động đầy thiện chí của họ trong việc theo đuổi tìm hiểu về nguồn gốc của Người cho bằng được, như ở đầu bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết", đã đủ chứng tỏ họ muốn tin Người, cần Người nhẫn nại tỏ mình ra cho họ, theo cách thức mù tối và cứng lòng của họ để nhờ đó họ có thể tin vào Người.
Riêng đối với chiên của Người, nghĩa là đối với những ai tin vào Người và theo Người, thì như Người quả quyết: 1- "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời", một sự sống thần linh liên quan đến mầu nhiệm nhập thể của Người, ở chỗ "ai chấp nhận Người, thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12); 2- "Chúng sẽ không bao giờ hư mất", một hứa hẹn thần linh liên quan đến mầu nhiệm tử giá, ở chỗ: "Vì họ mà Con tự thánh hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19); và 3- "Không ai có thể cướp chúng khỏi tay Tôi", một quyền lực thần linh liên quan đến mầu nhiệm phục sinh của Người, bởi vì "Thày được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18).
Thật vậy, "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi", thế nhưng, nếu "chúng theo Tôi", thì chúng còn cần phải được "Tôi biết chúng" nữa. Bởi vì, tự bản chất hiền lành của mình, chiên của Người cũng dễ bị sói dữ ăn thịt, nếu không có Người luôn ở với chúng, ở chỗ "biết chúng", như tỏ ra quan tâm đến chúng, đến từng nhu cầu của chúng, tỏ ra chăm sóc cho chúng, bằng cách đáp ứng nhu cầu của chúng, và sẵn sàng đi tìm kiếm chúng, một khi chúng bị lạc đàn.
Đời sống của Kitô hữu là một hành trình đức tin là như thế: trước hết ở chỗ "nghe tiếng Tôi" khi lãnh nhận Phép Rửa tái sinh; sau nữa ở chỗ được Đấng biết họ, "Tôi biết chúng" thông ban sự sống thần linh cho: "Vị Chủ Chiên nhân lành đến cho chiên được sống và sống viên mãn" (Gioan 10:10), và sau hết, ở chỗ, "chúng theo Tôi" để truyền đạt sự sống thần linh viên mãn nơi mình nhờ được hiệp thông thần linh với Cây Nho là Chúa Kitô (xem Gioan 15:4), như trường hợp của tông đồ Phêrô được Chúa Kitô là Đấng ủy thác cho ngài sứ vụ chăn dắt các chiên con chiên mẹ cho kèm theo số phận hy sinh cho chiên thì được Người kêu gọi "Hãy theo Thày" (Gioan 21:19).
Bài Đọc I (Tông
Vụ 11:19-26):
"Trong những ngày ấy, vì cơn bách hại xảy ra nhân dịp Têphanô bị giết, có nhiều
người phải sống tản mác, họ đi đến Phênixê, Cyprô và Antiôkia, họ không rao
giảng lời Chúa cho một ai ngoài những người Do-thái. Nhưng một ít người trong họ
quê ở Cyprô và Xyrênê; khi đến Antiôkia, họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người
Hy-lạp nữa. Và tay Chúa ở với họ; nên có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó
thấu tai Hội Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến
nơi và thấy việc ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy
vững lòng tin nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng
tin. Và có đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô.
Gặp được rồi, liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một
năm, giảng dạy cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đồ lần đầu
tiên nhận tên là Kitô hữu".
Lễ Đức Mẹ Fatima 13/5
Fatima là một biến cố và là một sứ điệp hướng về và dẫn đến Lòng Thương Xót Chúa.
Biến Cố Fatima và Sứ Điệp Fatima không phải chỉ là Biến Cố Thánh Mẫu và Sứ Điệp Thánh Mẫu, mà là một biến cố và là một sứ điệp hướng về và dẫn đến Lòng Thương Xót Chúa. Đó là lý do 3 Thiếu Nhi Fatima đã được thị kiến thấy hỏa ngục ngày 13/7/1917, và cũng trong cùng lần hiện ra thứ ba này, Đức Mẹ đã kêu gọi các em sau mỗi chụ Kinh Mân Côi hãy đọc: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con. Xin gìn giữ chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn”.
Chưa hết, đúng như lời hứa vào lần hiện ra trên “Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng”, Đức Mẹ đã thực sự hiện ra với chị Lucia vào ngày 13/6/1929, tại tu viện dòng Đôrôthêô của chị ở thành Tuy nước Tây Ban Nha khi chị chầu Thánh Thể ban đêm, và cho chị thấy một thị kiến được chị kể lại như sau:
· “Bỗng nhiên, cả nhà nguyện bừng sáng, không còn lờ mờ với ngọn đèn chầu nhà tạm nữa. Một thánh giá bằng ánh sáng hiện ra trên bàn thờ cao lên tới trần nhà nguyện. Phần trên của cây thánh giá sáng hơn, có dung nhan cùng với thân mình của một người từ cạnh sườn trở lên; trên ngực của người này có một con chim câu bằng ánh sáng; bị đóng đanh vào thập giá là thân mình của một người khác. Dưới cạnh sườn chút xíu, có một chén thánh và một bánh thánh lớn lơ lửng trên không trung. Những giọt máu từ mặt của Chúa Giêsu Tử Giá và từ cạnh sườn của Người chảy xuống bánh thánh và nhỏ vào chén thánh. Bên phải cây thánh giá là Đức Mẹ với Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội ở trong tay Mẹ. Bên trái cây thánh giá có những chữ lớn như thể bằng nước trong như thủy tinh chảy xuống trên bàn thờ làm thành những chữ: ‘Ân Sủng và Tình Thương’".
(Như Mẹ Maria hiện ra ở Fatima là để đem loài người về với Lòng Thương Xót Chúa, qua lời Mẹ kêu gọi vào lần hiện ra cuối cùng 13/10/1917, ngay trước khi biến đi để chấm dứt Biến Cố Thánh Mẫu Fatima 1917, đó là: “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”, và như gương 3 Thiếu Nhi Fatima tiên khởi đã sống ơn gọi của mình, bằng cả một đời hy sinh cho các tội nhân và đền tạ Chúa, Thiếu Nhi Fatima TGP/LA cũng cố gắng để làm tông đồ cho Lòng Thương Xót Chúa, bằng việc cử hành Đường Thánh Giá trong Ngày Thánh Mẫu tại Missouri (4-7/8/2005), vào chiều Thứ Sáu 5/8/2005, như đã thực hiện trong năm 2003, một biến cố đã được cả giáo dân lẫn nhà dòng tổ chức Ngày Thánh Mẫu hoan hô và mong TNF tiếp tục công việc chẳng những mang lại lợi ích thiêng liêng cho người tham dự mà còn tăng thêm ý nghĩa cho Ngày Thánh Mẫu nữa).
Biến Cố Fatima và Sứ Điệp Fatima là một biến cố và là một sứ điệp hướng về và dẫn đến Lòng Thương Xót Chúa. Bởi vì, cốt lõi của Biến Cố Fatima và Sứ Điệp Fatima là Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Thánh Thể mở đầu Biến Cố Fatima và là tột đỉnh của Sứ Điệp Fatima.
Trước hết, Thánh Thể mở đầu Biến Cố Fatima, ở chỗ, Thiên Thần Hòa Bình đã hiện ra với 3 em Thiếu Nhi Fatima 3 lần, một vào Mùa Xuân, 1 vào Mùa Hè và 1 vào Mùa Thu, đều về Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lần thứ nhất, Thiên Thần Hòa Bình hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima vào Mùa Xuân năm 1916 ở trong hang Loca do Cabeco, để kêu gọi và dạy các em cầu nguyện: "Lạy Chúa, con tin kính Chúa, con thờ lạy Chúa, con trông cậy Chúa và con yêu mến Chúa. Xin Chúa thứ tha cho những người không tin kính Chúa, không thờ lạy Chúa, không trông cậy Chúa và không yêu mến Chúa".
Lần thứ hai, Thiên Thần Hòa Bình hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima vào Mùa Hè cùng năm, sau giờ nghỉ trưa, ở dưới bóng cây bên một giếng nước, để kêu gọi các em hy sinh cầu nguyện và dạy cho các em biết cách hy sinh đền tạ Chúa mà cứu rỗi các tội nhân: "Hãy biến mọi sự có thể thành những hy sinh dâng lên Chúa như một việc để đền tạ tội lỗi Ngài đã bị xúc phạm mà cầu cho tội nhân ơn ăn năn hối cải".
Lần thứ ba, Thiên Thần Hòa Bình hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima vào một buổi chiều Mùa Thu cũng năm ấy, trên đường các em từ Pregueira về Lapa, để cho các em rước Mình Thánh (Lucia) và Máu Thánh (Phanxicô và Giaxinta), sau khi kêu gọi các em đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể như sau: "Lạy Chúa Ba Ngôi Chí Thánh là Cha và Con và Thánh Thần, con sấp mình thờ lạy Chúa. Con xin dâng lên Chúa Mình Máu châu báu, linh hồn và Thiên Tính của Chúa Giêsu Kitô đang hiện diện trong các nhà tạm trên khắp thế giới, để đền tạ những lăng nhục, phạm thánh và thờ ơ lãnh đạm mà chính Người đã phải chịu. Xin vì công nghiệp vô cùng của Thánh Tâm Chúa Giêsu và của Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, xin Chúa ban cho các tội nhân ơn ăn năn hối cải".
Sau nữa, Thánh Thể là tột đỉnh của Sứ Điệp Fatima, ở chỗ, trong 3 Mệnh Lệnh Fatima, mệnh lệnh chính yếu đó là Mệnh lệnh Cải Thiện Đời Sống, một mệnh lệnh kêu gọi con người tội nhân hãy hoán cải trở về cùng “Chúa là Thiên Chúa của chúng ta, vì Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”, như lời Mẹ Maria kêu gọi loài người vào lần hiện ra ở Fatima cuối cùng 13/10/1917 ngay trước khi biến đi để kết thúc Biến Cố Fatima. “Chúa là Thiên Chúa của chúng ta” đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi đây chính là Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đã mở đầu cho Biến Cố Fatima, cũng là Đấng đã được nữ tu Lucia thị kiến thấy vào ngày 13/6/1929, tại Tuy nước Tây Ban Nha, qua hình ảnh “Những giọt máu từ mặt của Chúa Giêsu Tử Giá và từ cạnh sườn của Người chảy xuống bánh thánh và nhỏ vào chén thánh”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Thứ Tư
Ngày 14 tháng 5
THÁNH MÁT-THI-A, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Bài Ðọc I: Cv 1, 15-17. 20-26
"Matthia trúng thăm, ông được kể vào số mười một Tông Ðồ".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô đứng lên giữa anh em (đám đông có chừng một trăm hai mươi người) mà nói: "Hỡi anh em, phải ứng nghiệm lời Thánh Kinh mà Thánh Thần đã dùng miệng Ðavít để tiên báo về Giuđa, kẻ hướng dẫn những người bắt Chúa Giêsu. Hắn cũng là một trong số chúng ta, đã thông phần chức vụ của chúng ta. Vì chưng, trong Thánh vịnh có chép rằng: "Trại của nó sẽ trở nên hoang vắng, và không một ai ở lại trong đó, và một người khác sẽ lãnh lấy chức vụ của nó". Vậy trong những người đi cùng với chúng ta suốt thời gian Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, kể từ ngày Gioan thanh tẩy cho đến ngày Chúa Giêsu lìa chúng ta mà lên trời, chúng ta phải chọn lấy một trong những người có mặt đây, để cùng với chúng ta làm chứng Người đã sống lại".
Họ giới thiệu hai người: ông Giuse, tức Barsabba, biệt danh là Công chính, và ông Matthia. Ðoạn họ cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, xin hãy tỏ ra Chúa chọn ai trong hai người này để nhận chức vụ và tước hiệu Tông đồ thay cho Giuđa, kẻ đã hư hỏng mà đi đến nơi của nó". Thế rồi họ bỏ thăm và Matthia đã trúng thăm: ông được kể vào số với mười một Tông đồ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 112, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Chúa cho người ngồi với những bậc quân vương của dân Người (c. 8).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.
2) Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa. - Ðáp.
3) Ai được như Thiên Chúa chúng tôi, Người ngự trên nơi cao thẳm, và Người để mắt nhìn coi, khắp cả trên trời dưới đất? - Ðáp.
4) Người nâng cao kẻ túng thiếu từ chỗ bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ nơi phẩn thổ, hầu cho họ ngồi với những bậc quân vương, với những bậc quân vương của dân Người. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15, 16
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15, 9-17
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ: Thầy gọi các con là bạn hữu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy; cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn.
"Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền.
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau".
Ðó là lời Chúa.
Lạy Chúa, xin chỉ cho biết Ngài chọn ai
Bài đọc 2 giờ kinh sách
(bản dịch của Nhóm Phiên dịch các Giờ Kinh PV)
Trích bài giảng của thánh Gio-an Kim Khẩu, giám mục, về sách Công vụ Tông Đồ.
Trong những ngày ấy, ông Phê-rô đứng lên giữa các môn đệ mà nói. Vì ông là một con người nhiệt thành được Đức Ki-tô giao phó đoàn chiên và lại là người đứng đầu nhóm, nên bao giờ ông cũng lên tiếng trước tiên : Thưa anh em, phải chọn một người trong chúng ta. Ông để cho cộng đoàn cân nhắc ; như thế, ông vừa làm cho cộng đoàn kính nể những người họ đã chọn, vừa tránh được lòng ghen ghét có thể xảy ra. Quả thật, những việc lớn lao như thế thường dễ sinh ra tai hoạ.
Vậy thì sao ? Chính ông Phê-rô không có quyền chọn ư ? Dĩ nhiên, ông có quyền. Nhưng ông không dùng quyền đó để khỏi bị coi là người thiên vị. Đàng khác, ông chưa được lãnh nhận Thần Khí. Rồi sách Công vụ Tông Đồ kể : Họ đề cử hai người : ông Giu-se, biệt danh là Ba-sáp-ba, cũng gọi là Giút-tô, và ông Mát-thi-a. Không phải chính ông, nhưng tất cả mọi người đã đề cử họ. Ý kiến thì chính ông đưa ra, nhưng ông cho thấy đó không phải là ý kiến riêng của ông, mà là do lời ngôn sứ xưa kia đã nói ra. Như thế, ông là người giải thích, chứ không phải người ra lệnh.
Ông nói : Vậy phải chọn trong số những người đã cùng chúng tôi theo Chúa Giê-su. Bạn coi, ông muốn họ phải là những người chứng đã thấy tận mắt, mặc dù còn phải có Chúa Thánh Thần ngự đến. Quả là ông rất quan tâm đến điều này.
Ông lại nói : Trong số những người đã cùng chúng tôi theo Chúa Giê-su trong suốt thời gian Người sống giữa chúng tôi. Ông muốn nói : họ phải là những người đã ở với Người, chứ không chỉ đơn giản là những môn đệ. Dĩ nhiên, từ đầu đã có nhiều người đi theo Chúa Giê-su, như có thể thấy được trong câu này : Một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su.
Ông nói tiếp : Trong suốt thời gian Chúa Giê-su sống giữa chúng tôi, kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa. Đúng thế, những gì đã xảy ra trước đó, chẳng ai biết được, nhưng Thánh Thần đã dạy cho họ biết.
Ông còn nói : Cho đến ngày Chúa Giê-su lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có một người trở thành chứng nhân cùng với chúng tôi để làm chứng Người đã phục sinh. Ông không nói : làm chứng về những điều khác, nhưng : làm chứng Người đã phục sinh mà thôi. Quả thật, người đáng tin hơn là người có thể nói được : Đấng đã ăn, đã uống và đã chịu đóng đinh vào thập giá, chính Đấng ấy đã sống lại. Vậy, người ấy không cần phải là chứng nhân về quá khứ, về tương lai hay về các dấu lạ, nhưng phải là chứng nhân về sự phục sinh mà thôi. Quả thế, những điều kia đã rõ ràng và hiển nhiên ; còn sự phục sinh thì đã xảy ra kín đáo và chỉ được tỏ ra cho các vị này mà thôi.
Rồi mọi người cùng nhau cầu nguyện rằng : Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người, xin chỉ cho thấy. Chúa, chứ không phải chúng con. Họ kêu cầu Đấng thấu suốt lòng mọi người là phải, vì việc chọn lựa phải do Đấng ấy thực hiện, chứ không phải do những ai khác. Như thế, họ cầu xin với niềm tin tưởng, vì nhất thiết phải chọn cho được một người. Họ không nói : Xin Ngài chọn, nhưng xin chỉ cho thấy Ngài chọn ai, vì họ biết rằng mọi sự đều do Thiên Chúa ấn định trước. Rồi họ rút thăm. Quả thế, lúc ấy họ chưa nghĩ mình xứng đáng tự làm lấy việc lựa chọn, nên họ muốn được một dấu chỉ nào đó tỏ cho biết.
Xin đọc bài Giáo Lý của ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Matthia ở cái link dưới đây:
Thứ Tư 18/10/2006 - Bài 22 về Tông Đồ Giuđa Ích Ca và Tông Đồ Matthia
Lạy Chúa, Chúa đã chọn thánh Mát-thi-a để bổ sung nhóm mười hai Tông Đồ. Cúi xin Chúa nhậm lời người cầu thay nguyện giúp, mà cho chúng con nay đang vui hưởng tình yêu của Chúa, thì mai sau cũng được kể vào số những người Chúa chọn. Chúng con cầu xin
Thứ Tư
Bài Ðọc I: Cv 12, 24 - 13, 5a
"Hãy dành Saolô và Barnaba riêng cho Ta".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, lời Chúa được lan rộng và tiến triển. Nhưng Barnaba và Saolô, sau khi hoàn tất sứ mạng, đã rời Giêrusa-lem, đem theo Gioan cũng gọi là Marcô.
Bấy giờ trong Hội Thánh Antiôkia có những tiên tri và tiến sĩ, trong số đó có Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của vua Hêrôđê lúc còn thơ ấu, và Saolô. Ðang khi các ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo các ông rằng: "Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho Ta, để làm công việc mà Ta đã chỉ định". Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường.
Ðược Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xêlêucia, rồi từ đó vượt biển sang Cyprô. Khi đến Salamina, hai ông rao giảng lời Chúa trong các hội đường Do-thái.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8
Ðáp: Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô đã sống lại và chiếu soi chúng ta, là những kẻ Người đã cứu chuộc bằng máu của Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 12, 44-50
"Ta là sự sáng đã đến thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng: "Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Ðấng đã sai Ta. Và ai thấy Ta là thấy Ðấng đã sai Ta. Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Ðấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy".
Ðó là lời Chúa.
Chủ đề
"Thày là sự sống"
về khía cạnh Mục Tử Thần Linh cho Tuần IV Phục Sinh vẫn còn được thấy tỏ hiện
trong bài Phúc Âm của Thứ Tư trong Tuần IV Phục Sinh hôm nay. Ở chỗ, Vị Mục Tử
Thần Linh là Chúa Kitô đây, sở dĩ yêu thương chiên của mình đến độ hiến mạng
sống của mình cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn chẳng những vì chiên thuộc về
Cha là chính Đấng đã trao chiên cho Người mà còn vì Người là Đấng Thiên
Sai thật
sự, Đấng vì được Cha sai nên luôn chỉ làm theo ý của Cha, đúng như những gì Cha
muốn và cách thức Cha muốn, như Người đã tự chứng về bản thân Người với dân Do
Thái trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Ðấng đã sai Ta. Và ai thấy Ta là thấy Ðấng đã sai Ta. ... Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Ðấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy".
Trong
"Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết".
Do đó, để có thể dung hòa giữa 2 thái cực chủ trương một là có Lòng Thương Xót Chúa hai là có hỏa ngục chứ không thể nào có cả hai, hãy căn cứ vào nguyên tắc trong bài Phúc Âm hôm nay ngay trên đây. Nghĩa là có cả hai: Thiên Chúa không thể nào không yêu thương, không thương xót, vì đó là bản tính của Ngài, và kẻ nào không chấp nhận tình yêu thương vô cùng nhân hậu của Ngài thì tự họ bị hư đi, và chính tình yêu vô cùng nhân hậu bất diệt của Thiên Chúa sẽ trở thành hình phạt cho họ đời đời trong hỏa ngục, nơi họ chỉ còn khóc lóc và nghiến răng, khóc lóc vì đau khổ và nghiến răng vì hận mình (hơn là hối hận) nhưng đã quá muộn.
Kinh nghiệm làm người cũng đã cho thấy điều ấy. Ở chỗ, một khi con người chối bỏ lương tâm, thì chính lương tâm nơi họ sẽ trở thành quan án của họ và cắn rứt họ, đến độ họ không thể nào chịu được, có trường hợp phải tự ra đầu thú để bớt ray rứt lương tâm cho dù có bị tù đầy khổ sở xác thân và cuộc đời. Khi chết cũng vậy, chính lương tâm là tòa phán xét con người, và tự mình họ biết họ đi về đâu: Thiên Đàng hay hỏa ngục.
Bài Đọc I (Tông
Vụ 12:24 - 13:5a):
"Bấy
giờ trong Hội Thánh Antiôkia có những tiên tri và tiến sĩ, trong số đó có
Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của vua
Hêrôđê lúc còn thơ ấu, và Saolô. Ðang khi các ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn
chay, thì Thánh Thần phán bảo các ông rằng: 'Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho
Ta, để làm công việc mà Ta đã chỉ định'. Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt
tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường. Ðược Thánh Thần sai đi, hai ông
xuống Xêlêucia, rồi từ đó vượt biển sang Cyprô. Khi đến Salamina, hai ông rao
giảng lời Chúa trong các hội đường Do-thái".
Thứ Năm
Bài Ðọc I: Cv 13, 13-25
"Bởi dòng dõi Ðavít, Thiên Chúa đã ban Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Rời Paphô, Phaolô và các bạn vượt biển đến Perghê xứ Pamphy-lia; còn Gioan từ biệt các ngài, và trở về Giêrusalem. Hai ngài sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường. Sau khi đọc sách luật và các tiên tri, những thủ lãnh nhà hội đường sai người đến nói với các ngài rằng: "Hỡi anh em, nếu ai trong anh em có lời khuyên bảo dân chúng, xin hãy nói".
Phaolô đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng và nói: "Hỡi người Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây. Thiên Chúa dân Israel đã chọn Tổ phụ chúng ta, Người đã thăng tiến dân Người khi họ còn cư ngụ trong nước Ai-cập và Người ra tay mạnh mẽ đưa cha ông chúng ta ra khỏi nước ấy. Trong thời gian bốn mươi năm, Người chịu đựng thói xấu họ trong hoang địa; và sau khi đã tiêu diệt bảy dân tộc trong đất Canaan, Người đã cho họ chiếm đất của các dân tộc ấy gần bốn trăm năm mươi năm; và sau đó, Người ban cho họ các thẩm phán cho đến tiên tri Samuel. Kế đó, họ xin một nhà vua và Thiên Chúa cho Saolê, con ông Cis, thuộc chi họ Bengiamin, cai trị họ bốn mươi năm. Sau khi loại bỏ Saolê, Chúa đã đặt Ðavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã phán: "Ta đã gặp được Ðavít con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta".
"Bởi dòng dõi Ðavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ, Ðấng mà Gioan đã báo trước khi người đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành trình, ngài tuyên bố: "Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 21- 22. 25 và 27
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời", trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta. Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người. - Ðáp.
3) Thành tín và ân sủng của Ta hằng ở với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người tăng thêm mãi. Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Tảng Ðá cứu độ của con". - Ðáp.
Alleluia: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 13, 16-20
"Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Sau khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: "Thật, Thầy bảo thật các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc. Thầy không nói về tất cả các con, vì Thầy biết những kẻ Thầy đã chọn, nhưng lời Thánh Kinh sau đây phải được ứng nghiệm: Chính kẻ ăn bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta. Thầy nói điều đó với các con ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy đến, để một khi xảy đến, các con tin rằng: Thầy là ai. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Ðấng đã sai Thầy".
Ðó là lời Chúa.
Khía cạnh
"Mục Tử Thần Linh"
của chủ đề
"Thày là sự sống"
trong Tuần Thứ IV Phục Sinh tiếp tục được chất chứa trong bài Phúc Âm của Thứ
Năm hôm nay. Ở chỗ Chúa Kitô tỏ mình ra cho các tông đồ biết "Ta
là cửa chuồng chiên... Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người
ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân...Ta đến để cho chúng được sống và được
sống dồi dào", khi
Người phục vụ các vị là chiên của Người bằng cách rửa chân cho các vị, và vì
thế, để vào "qua cửa chuồng chiên"
là Người thì các tông đồ cũng phải noi
gương bắt chước Người thì mới thực sự phản ảnh vai trò Mục Tử Thần Linh của
Người, nhờ đó mới mang lại cho chiên sự sống và là sự sống viên mãn.
"Sau
khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: 'Thật, Thầy bảo thật
các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai
mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc...Thật, Thầy bảo thật
các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón
nhận Ðấng đã sai Thầy".
Nếu Tuần IV Phục Sinh được mở đầu bằng bài Phúc Âm Chúa Nhật về vị mục tử nhân lành là Chúa Giêsu Kitô, và ở riêng Phúc Âm Năm C được mở đầu bằng câu "Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo tôi", thì bài Phúc Âm trong suốt tuần IV Phục Sinh này cũng vẫn chất chứa vị mục tử nhân lành này cùng với chiên của Người. Chẳng hạn như bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Năm Tuần IV Phục Sinh hôm nay, như sau:
"Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi", tuy nhiên, tự mình, chiên không thể nghe tiếng chủ chiên nếu chủ chiên không lên tiếng gọi, và đó là lý do ngay sau đó mới có câu: "Tôi biết chúng", nghĩa là "Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi" bởi vì "Tôi biết chúng", Tôi yêu thương chúng, bằng việc tỏ mình ra cho chúng, từng con một, tùy theo hoàn cảnh và bản chất của từng con, để chúng có thể "nghe tiếng Tôi", tức nhận biết Tôi mà "theo Tôi".
Chính vì thế, để làm cho "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi", Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho đàn chiên nhỏ là 12 vị tông đồ bấy giờ ở Nhà Tiệc Ly bằng việc rửa chân cho các vị, một cử chỉ phục vụ các vị, vì Người "biết" các vị, thành phần chẳng những bất toàn, bẩn thỉu nhất là về tâm hồn liên quan đến luân lý, mà còn không biết mình về tâm linh nữa, nên Người đã phải thanh tẩy các vị, nhờ đó các vị mới xứng đáng dự phần với Người, nghĩa là hiệp nhất nên một với Người, khiến nhân loại có thể nhận biết Chúa Kitô nơi chứng từ của các vị và qua các vị.
Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với các vị trong bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc". Có nghĩa là khi thấy việc Chúa rửa chân cho mình như thế, theo chiều hướng của "chiên thì nghe tiếng" chủ chiên, thì thành phần chiên môn đệ của Chúa sẽ "theo" Chúa, sẽ áp dụng "thực hành" theo như gương phục vụ của Thày mình. Tuy nhiên, chính vì "Tôi biết chiên Tôi", như chính Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "Thầy biết những kẻ Thầy đã chọn" , mà Người đã ám chỉ người môn đệ bất hạnh Giuđa, một con chiên chẳng những không nghe tiếng chủ chiên khi thấy chính Thày của mình rửa chân cho mình, mà trái lại, thậm chí còn "giơ chân lên đạp" vào Thày của mình nữa.
Căn cứ vào nội dung và ý nghĩa sâu xa của biến cố rửa chân nói chung và tình tiết được Thánh ký Gioan trình thuật thì việc Chúa Giêsu rửa chân cho chung các tông đồ liên quan đặc biệt đến Giuda. Bởi vì Giuđa, ở cả 3 bản liệt kê 12 tông đồ, người môn đệ Giuda bất hạnh này bao giờ cũng ở cuối cùng như bàn chân trong toàn bộ cơ cấu thân thể tông đồ đoàn có tông đồ Phêrô bao giờ cũng được liệt kê đầu tiên, và vì thế nên Chúa Giêsu đã trả lời cho vị trưởng tông đồ đoàn này là "không phải tất cả các con đều sạch cả đâu... chỉ cần rửa chân thôi".
Chính vì là chiên của Chúa trong toàn bộ đàn chiên tông đồ đoàn, mà tông đồ Giuđa cũng được Người thương - "Người thương cho đến cùng" (Gioan 13:1) đây ám chỉ vị môn đệ này...
Bài Đọc I (Tông
Vụ 13:13-25):
"Phaolô đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng và nói: 'Hỡi người
Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây... Bởi dòng dõi Ðavít, theo
lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ, Ðấng mà Gioan đã
báo trước khi người đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi
Gioan hoàn tất hành trình, ngài tuyên bố: 'Tôi không phải là người mà anh em lầm
tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân
Người'".
TH
Chàng Isidore và nàng Toribia hay Maria de la Cabeza là hai vợ chồng ở Tây
Ban Nha không thuộc giòng tộc quí phái hay hoàng triều như hầu hết các vị
thánh sống đời hôn nhân gia đình vào thời Trung Cổ. Người viết lại câu
truyện về chàng Isidore và đời sống hôn nhân của chàng là phó tế Johannes
Aegidius of Zamora ở nhà thờ Thánh Anrê thủ đô MaNí trong thời khoảng
1232-1275; gần 150 năm sau khi chàng Isidore qua đời, vị phó tế này đã ghi
lại những gì tai nghe mắt thấy: nghe về đời sống của chàng và chính mắt thấy
các phép lạ tỏ tường xẩy ra tại ngôi mộ của chàng.
Chàng Isidore sinh ra vào khoảng năm 1080 trong thành phố MaNí hay vùng phụ
cận của thành phố thủ đô Tây Ban Nha này. Chàng là một tay lao động không
biết mệt như chàng chuyên tâm nguyện cầu vậy. Chàng tham dự Thánh Lễ hằng
ngày và bao giờ cũng tìm Nước Chúa trước, nên mọi sự phụ thuộc khác đã được
Chúa ban cho, đến độ các công việc lao nhọc của chàng đã gặt hái được dồi
dào phong phú, khiến chàng thu được nhiều lợi tức, số lợi tức chàng không
hoan hưởng một mình mà đã quảng đại chia sẻ với người nghèo, không sợ chính
bản thân mình bị thiếu thốn.
Chàng đã lập gia đình với một người nữ trẻ cũng có đời sống nhân đức đạo
hạnh như chàng, đó là cô Maria de la Cabeza. Cặp vợ chồng này sống thanh đạm
bình dân quê mùa. Cả hai có một người con trai, nhưng sau khi người con trai
duy nhất này qua đời lúc còn rất trẻ, đôi uyên ương này đã đồng ý với nhau
hoàn toàn sống tiết dục trong đời sống vợ chồng, để nhờ đó hiến mình cho
việc nguyện cầu và công việc sinh nhai.
Là nông dân làm công cho một người chủ ruộng là Juan de Vergas, chàng
Isidore đã tạo được niềm tin tưởng của chủ. Nhưng cũng vì thế đã gây ra ghen
tị với các đồng nghiệp của chàng. Và họ đã đi tố cáo với chủ về chàng rằng
chàng cứ chuyên chú cầu nguyện và đi nhà thờ nên đã bỏ bê nhiệm vụ của
chàng. Được chủ hạch hỏi, chàng đã trả lời với chủ rằng chàng phải phụng sự
Thiên Chúa trước hết mọi sự và nhờ đó Thiên Chúa đã lo cho chàng và đã giúp
chàng chu toàn công việc của chàng qua các thiên thần của Ngài.
Chính chủ nhân ông của chàng đã thực sự chứng kiến thấy vào một ngày kia có
hai thiên thần cầy ruộng bằng hai con ngựa trắng trong khi Isidore đang tham
dự Thánh Lễ. Chưa hết, các đồng nghiệp của chàng không chịu thua, còn vu oan
giáng họa cho người vợ đạo hạnh của chàng nữa.
Nàng Maria hằng ngày vốn có thói quen đến một nhà thờ nhỏ là nơi đặc biệt
tôn kính Mẹ Maria. Ở đó, nàng thực hiện những việc tỏ lòng thành thực sùng
kính Mẹ và giữ cho ngọn đèn chầu luôn cháy sáng bằng việc tiếp tục và liên
tục cung cấp dầu cho nó. Nàng bị đồng nghiệp của chồng tố cáo là nàng đi đến
đó để gặp một người chăn thú vật để lén lút tình tứ ân ái với hắn. Tuy
nhiên, chàng Isidore quá biết về người vợ của mình và hoàn toàn tin tưởng
rằng nàng chỉ một lòng thủy chung với mình.
Hai vợ chồng nông dân nghèo khó này đã sống với nhau hạnh phúc trong Chúa.
Không ai đã từng nghe thấy họ to tiếng với nhau. Họ đã cùng nhau chia sẻ với
những người anh chị em nghèo khổ hơn họ bằng chính những đồng lương chẳng
bao nhiêu do công khó của họ kiếm được. Chàng Isidore đã qua đời vào năm ngũ
tuần, ngày 15/5/1130, sau khi chàng đã nói trước giờ chết của mình. Năm năm
sau, vợ của chàng cũng theo chàng về đời sau. Nàng đã được kính như vị chân
phước cho đến khi được chính thức tôn phong là Chân Phước của Giáo Hội bởi
Đức Thánh Cha Innocent XII vào năm 1697, sau 75 năm chồng của nàng được
phong thánh vào năm 1622, do yêu cầu của Vua Philip III Nước Tây Ban Nha.
Đúng thế, lý do vị vua này yêu cầu như thế là vì vua đã lâm bệnh hiểm nghèo,
đến độ các lương y đều bó tay đầu hàng, thì thành phần giáo sĩ đã long trọng
kiệu hài cốt của Isidore vào phòng của vua. Khi hài cốt của Isidore rời Nhà
Thờ Thánh Anrê ở MaNí thì cơn sốt của vua hạ xuống. Và khi hài cốt của
Isidore được đặt trong phòng bệnh của vua thì vua chỗi dậy và hoàn toàn khỏi
bệnh.
Người chồng nông dân sống tiết dục với vợ sau khi đứa con trai duy nhất qua
đời và cùng vợ sống đời nhân đức đầy bác ái này đã được Đức Giáo Hoàng
Gregory XV phong thánh vào ngày 12/3/1622. Thật vậy, hôm ấy, ngoại trừ một
vị Thánh người Ý là Thánh Philip Nêri sáng lập Dòng Oratory, còn có các vị
Thánh thời danh của Tây Ban Nha cũng được tuyên phong bấy giờ là Thánh
Ignatiô sáng lập Dòng Tên, Thánh Phanxicô Xavier cũng Dòng Tên là quan thày
các xứ truyền giáo, và Thánh Teresa Avila canh tân Dòng Carmelo, có cả một
vị thánh giáo dân tầm thường sống đời hôn nhân gia đình đó là Thánh Isidore.
(Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL, phỏng theo cuốn Married saints and Blesseds through the Centuries, by Ferdinand Holbock, translated by Michael J. Miller, Ignatius Press San Francisco 2002)
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 13, 26-33
"Thiên Chúa đã làm trọn lời hứa khi cho Ðức Giêsu sống lại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, khi Phaolô đến Antiôkia thuộc xứ Pisiđia, ông lên tiếng trong hội đường rằng: "Thưa chư huynh, con cháu Abraham, và những người kính sợ Thiên Chúa ở giữa chư huynh, lời cứu độ đó đã được rao giảng cho chư huynh. Những người cư ngụ ở Giêrusalem và các thủ lãnh của họ đã không nhìn nhận Ðức Giêsu và các lời tiên tri mà họ đọc mỗi ngày Sabbat; thế mà họ đã làm ứng nghiệm lời tiên tri khi lên án Người. Và dầu không thấy nơi Người lý do nào đáng phải chết, họ cũng xin Philatô cho giết Người. Và khi đã hoàn tất mọi điều đã chép về Người, họ đã tháo Người xuống khỏi cây thập giá và mai táng Người trong mồ. Nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết vào ngày thứ ba. Và trong nhiều ngày, Người đã hiện ra với những kẻ đã cùng với Người từ Galilêa lên Giêrusalem. Bây giờ những kẻ đó là những chứng nhân của Người trước mặt dân chúng.
"Phần chúng tôi, chúng tôi loan báo cho chư huynh hay rằng: lời hứa ban cho tổ phụ chúng ta, Thiên Chúa đã làm hoàn tất cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Ðức Giêsu sống lại, như đã chép trong thánh vịnh thứ hai rằng: 'Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con' ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 2, 6-7. 8-9. 10-11
Ðáp: Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con (c. 7).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chính Ta đã đặt vương nhi Ta trên Sion, núi thánh của Ta. Ta sẽ tuyên rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con". - Ðáp.
2) Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia tài. Con sẽ cai trị chúng bằng cây gậy sắt, như bình thợ gốm, Con đem nghiền nát chúng ra. - Ðáp.
3) Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu biết, quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan mừng Người, hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục Chúa. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô đã sống lại ra khỏi mồ, Người đã chịu treo trên thập giá vì chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 1-6
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy".
Ðó là lời Chúa.
Khía cạnh
"Mục Tử Thần Linh"
trong chủ đề
"Thày là sự sống"
cho Mùa Phục Sinh hậu Bát Nhật Phục Sinh tiếp tục với bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần
IV Phục Sinh hôm nay. Ở chỗ, Vị
"Mục Tử Thần Linh"
này tiếp tục tỏ mình ra là
"cửa chuồng chiên",
là đường lối đến với chiên của Người và sống cho chiên như Người. Nếu Vị
"Mục Tử Thần Linh"
là
"cửa chuồng chiên" ở nơi tấm gương
"hiến mạng sống mình vì chiên" (Gioan 10:11)
thì Người cũng muốn các môn đệ tiếp tục vai trò Mục Tử Thần Linh của Người cũng
hiến mạng sống của họ vì chiên như thế, như Người đã ngầm nói trong bài Phúc Âm:
"Anh
em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy,
có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho
anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với
Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường
rồi".
"Thày đi dọn chỗ cho anh em" đây
là gì mà Người trước đó đã phải trấn an các môn đệ của Người rằng "anh
em đừng xao xuyến", nếu không phải là Người "tự
hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19),
nghĩa là Người đi
chịu chết, tự hiến "để họ được thánh hóa trong chân lý",
tức là để họ nhận biết
Người là ai, nhờ đó, họ cũng có thể chết vì Người và như Người để làm chứng cho
Người, đúng như ý nghĩa sâu xa của câu Người nói với các tông đồ: "Thầy
lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó".
Ở
Bài Đọc I (Tông
Vụ 13:26-33):
"Thưa anh em, là con cái thuộc dòng giống Áp-ra-ham, và thưa anh em đang hiện
diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới
chúng ta. Dân cư thành Giê-ru-sa-lem và các thủ lãnh của họ đã không nhận biết
Đức Giê-su; khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi
ngày sa-bát. Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-la-tô xử
tử. Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người
từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người
trỗi dậy từ cõi chết. Trong nhiều ngày, Đức Giê-su đã hiện ra với những kẻ từng
theo Người từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người
trước mặt dân. Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này :
điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là
con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong
Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con".
Thứ Bảy
Bài Ðọc I: Cv 13, 44-52
"Ðây chúng tôi quay về phía các dân ngoại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Ðến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: "Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất". Nghe vậy, các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.
Những người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo, các thân hào trong thành, bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy hân hoan và Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Alleluia: Cl 3, 1
Alleluia, alleluia! - Nếu anh em sống lại làm một với Ðức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự cao siêu trên trời, nơi Ðức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 7-14
"Ai thấy Thầy là xem thấy Cha".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Philipphê, Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin, vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho".
Ðó là lời Chúa.
Vai trò
"Mục Tử Thần Linh"
của Chúa Kitô là vai trò của một Đấng Thiên Sai, đến để làm theo ý Đấng đã sai
chứ không phải theo ý của mình, đến độ làm cho thế gian nhờ mình mà nhận biết
Cha, và đến độ bất cứ ai tin vào Người thì được sự sống, đúng như Người đã
khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần IV Phục Sinh về chủ đề
"Thày là sự sống".
"Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: 'Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa
Cha'? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?
Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng
luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy:
Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công
việc Thầy làm".
Trong câu khẳng định trên đây của mình, Chúa Giêsu đã ngầm tái xác nhận lời
tuyên xưng của Tông Đồ Phêrô
“Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mathêu 16:16)
là chính xác.
Vì là
“Đức Kitô”
Thiên Sai mà Người đến chỉ
“nói”
và
“làm”
những gì Cha là Đấng đã sai Người muốn mà thôi, chứ không phải những gì
Người muốn, và chính vì thế, Người cho thấy
“Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày”,
và cho thấy Người là
“Con Thiên Chúa hằng sống”, “đồng bản thể với Cha” (Kinh Tin Kính),
đến độ,
“ai thấy Thày là thấy Cha”,
nơi nhân tính của Người, qua những gì Người nói và làm trong bản tính của
con người, một bản tính loài người được Người mặc lấy để
“tỏ Cha ra” (Gioan 1:18),
hay để Cha tỏ mình ra nơi Người và qua Người.
Nếu Chúa Giêsu tỏ mình ra là hiện thân của Cha như thế, thì thành quả hay tác dụng của niềm tin vào Vị Mục Tử Thần Linh Thiên Sai là ở chỗ làm cho kẻ tin vào Người được hiệp nhất nên một với Người, được Người biến đổi, thậm chí đến độ còn làm được những việc hơn Người làm nữa, như cành nho dính liền với thân nho thì sinh muôn vàn hoa trái nhờ nhựa sống từ thân cây, trong khi chính thân nho lại chẳng sinh hoa trái gì:
"Thật,
Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc
Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa
Cha. Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa
Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì,
thì chính Thầy sẽ làm điều đó".
“Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” nghĩa là gì? Nếu không phải nghĩa là một khi Người Thăng Thiên "về cùng Cha" thì nhân tính của Người, một bản tính Người mặc lấy khi nhập thể vốn được Ngôi Hiệp với thần tính của Người trên thế gian, nhờ phục sinh đã trở thành linh thiêng, bấy giờ được hoàn toàn hoan hưởng Thực Tại Thần Linh là Thánh Thần với Cha và như Cha. Bởi thế, ai tin vào Người thì được hiệp nhất nên một với Người là Đấng từ Cha sẽ sai Thánh Thần đến (xem Gioan 15:26) để nhờ đó họ có thể làm chứng về Người cho đến tận cùng trái đất (xem Tông Vụ 1:8).
"Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa" là vì thế - vì Chúa Kitô Phục Sinh và Thăng Thiên ở trong họ bằng Thánh Thần của Người, và "Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa" là như thế - ở chỗ nhờ Thánh Thần và cùng với Thánh Thần của Người họ có thể làm chứng về Người, nhờ đó Người được nhận biết và yêu mến khắp thế giới chứ không phải chỉ ở nơi dân Do Thái là thành phần vốn không tin Người cho dù Người đã tỏ hết mình ra cho họ, và nhờ đó Người là hạt lúa miến mục nát đi nơi mầu nhiệm khổ giá trổ sinh muôn vàn hoa trái là phần rỗi các linh hồn (xem Gioan 12:24).
Bài Đọc I (Tông
Vụ ):
"Tại I-cô-ni-ô cũng xảy ra như vậy: hai ông vào hội đường người Do-thái và giảng
dạy, khiến rất đông người Do-thái và Hy-lạp tin theo. Nhưng những người Do-thái
không tin theo thì xúi giục những người ngoại và làm cho họ có ác cảm với các
anh em. Vậy hai ông ở lại một thời gian khá lâu, mạnh dạn vì dựa vào Chúa, là
Đấng chứng nhận lời giảng về ân sủng của Người, khi cho tay các ông thực hiện
những dấu lạ điềm thiêng".