SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
"Thày là Sự Sống"
Hiện Diện Thần Linh
Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần VI Phục Sinh
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phụng
Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh
(cho các Chúa Nhật).
....
Nếu
"Thày là sự sống lại và là sự sống"
(Gioan 11:25) là chủ đề chính yếu của toàn
Mùa Phục Sinh, trong đó, chủ đề
"Thày là sự sống lại"
cho
nguyên Tuần Bát Nhật Phục Sinh là thời điểm 8 ngày có
các bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc hoàn toàn liên quan đến các lần Chúa
Kitô Phục Sinh hiện ra mà thôi, thì chủ đề
"Thày là sự sống"
là
chủ đề cho những ngày còn lại, bao gồm cả Chúa Nhật lẫn ngày trong tuần.
Vậy, nếu chủ đề "Thày là sự sống" ở Phụng Vụ Lời Chúa cho cả Chúa Nhật lẫn các ngày trong tuần lễ II và III của Mùa Phục Sinh liên hệ tới chiều kích Tái Sinh Thần Linh và Bánh Sự Sống, trong tuần lễ IV của Mùa Phục Sinh liên quan đến chiều kích Mục Tử Thần Linh, và trong tuần lễ V của Mùa Phục Sinh liên quan đến chiều kích Liên Hệ Thần Linh trong gắn bó yêu thương, thì trong tuần của tuần lễ Thứ VI của Mùa Phục Sinh như thế nào?
Nếu so sánh cả với nội dung của phụng vụ Lời Chúa cho tuần lễ VII còn lại nữa, thì nội dung của Phụng Vụ Lời Chúa cho Tuần VI Phục Sinh này cho thấy chủ đề "Thày là sự sống" liên quan đến chiều kích Hiện Diện Thần Linh bởi Thánh Thần và trong Thánh Thần.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 8, 5-8. 14-17
"Các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Philipphê đi xuống một thành thuộc sứ Samaria, rao giảng Ðức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý đến những lời Philipphê rao giảng, vì họ cũng nghe biết và xem thấy các phép lạ ngài làm. Quỷ ô uế đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu lớn tiếng và xuất ra. Nhiều người bất toại và què quặt được chữa lành. Bởi đó cả thành được vui mừng khôn tả.
Khi các tông đồ ở Giêrusalem nghe tin Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ngài cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh Thần: vì chưa có ai trong họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 65, 1-3a. 4-5. 6-7a. 16 và 20
Ðáp: Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa! (c. 1)
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa! Hãy ca ngợi vinh quang danh Người; hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa! - Ðáp.
2) Toàn thể đất nước thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta! - Ðáp.
3) Người biến bể khơi thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan trong Chúa! Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời. - Ðáp.
4) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao. Chúc tụng Chúa là Ðấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại lòng nhân hậu đối với tôi. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 3, 15-18
"Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em hãy tôn thờ Chúa Kitô trong lòng anh em, hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo đức của anh em trong Ðức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em. Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác. Vì Ðức Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Người là Ðấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa; thật ra Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 15-21
"Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống. Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó".
Ðó là lời Chúa.
"Anh em thân mến, anh em hãy tôn thờ Chúa Kitô trong lòng anh em, hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo đức của anh em trong Ðức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em. Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác".
Đời sống của một Kitô hữu chứng nhân trung thực và sống động là sản phẩm của ân sủng, chứ tự họ vừa bất xứng vừa bất khả. Điển hình nhất là trường hợp của Thánh Phêrô trước và sau Chúa Kitô Phục Sinh, một người môn đệ lãnh đạo và được Thày tin tưởng nhưng lại quay ra trắng trợn chối bỏ Người, thế mà ngài đã được biến đổi để thực sự trở nên chứng cớ hùng hồn về ân sủng chữa lành và cứu độ, cho cả bản thân lẫn tha nhân. Thánh Vịnh 65 trong Bài Đáp Ca hôm nay là tâm tình hân hoan ngợi khen Thiên Chúa của những ai được ơn Chúa, nhận ra Chúa và làm tông đồ cho Chúa.
1) Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa! Hãy ca ngợi vinh quang danh Người; hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa!
2) Toàn thể đất nước thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta!
3) Người biến bể khơi thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan trong Chúa! Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời.
4) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao. Chúc tụng Chúa là Ðấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại lòng nhân hậu đối với tôi.
Bài Ðọc I: Cv 10, 25-26. 34-35. 44-48
"Ơn Thánh Thần cũng đã tuôn đổ xuống trên các dân tộc".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Xảy ra là khi Phêrô vừa vào nhà, thì Cornêliô ra đón ngài, và sấp mình dưới chân ngài mà lạy. Phêrô liền đỡ ông dậy và nói rằng: "Xin ông chỗi dậy, vì chính tôi cũng chỉ là người".
Phêrô lên tiếng nói rằng: "Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận!"
Phêrô đang nói các lời đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên mọi kẻ đang nghe lời. Các tín hữu đã chịu cắt bì, những người đã đến cùng Phêrô, đều sửng sốt, khi thấy ơn Thánh Thần cũng đã tuôn đổ xuống trên các dân tộc; vả lại họ nghe các người ấy nói nhiều thứ tiếng và ngợi khen Thiên Chúa. Bấy giờ Phêrô lên tiếng nói rằng: "Ai có thể ngăn cản ta lấy nước mà rửa cho những kẻ này, khi họ đã nhận lãnh Thánh Thần như chúng ta?" Và ngài truyền rửa tội cho họ nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Bấy giờ họ xin ngài ở lại với họ ít ngày.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (x. c. 2b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Ga 4, 7-10
"Thiên Chúa là Tình Yêu".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì lẽ hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ðiều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu ấy là thế này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta".
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15, 9-17
"Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn. Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là các con hãy yêu mến nhau".
Ðó là lời Chúa.
"Xảy ra là khi Phêrô vừa vào nhà, thì Cornêliô ra đón ngài, và sấp mình dưới chân ngài mà lạy. Phêrô liền đỡ ông dậy và nói rằng: 'Xin ông chỗi dậy, vì chính tôi cũng chỉ là người'. Phêrô lên tiếng nói rằng: 'Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận!' Phêrô đang nói các lời đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên mọi kẻ đang nghe lời. Các tín hữu đã chịu cắt bì, những người đã đến cùng Phêrô, đều sửng sốt, khi thấy ơn Thánh Thần cũng đã tuôn đổ xuống trên các dân tộc; vả lại họ nghe các người ấy nói nhiều thứ tiếng và ngợi khen Thiên Chúa. Bấy giờ Phêrô lên tiếng nói rằng: 'Ai có thể ngăn cản ta lấy nước mà rửa cho những kẻ này, khi họ đã nhận lãnh Thánh Thần như chúng ta?' Và ngài truyền rửa tội cho họ nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Bấy giờ họ xin ngài ở lại với họ ít ngày".
Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới có tâm tình tràn đầy hoan lạc và ngợi khen về ơn cứu độ phổ quát của Vị "Thiên Chúa là tình yêu" như sau:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca.
Chính vì tình yêu của Thiên Chúa đối với chung loài người như thế mà những ai được Ngài thương cũng phải yêu thương nhau như vậy, và cần phải làm sao để cho tình yêu thương của Ngài giành cho chúng ta được bừng phát lên, lan tỏa cho tất cả mọi người cũng như cho từng người đã được Ngài yêu thương nơi Con của Ngài và cứu chuộc nhờ Con của Ngài: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con", chính Chúa Giêsu đã khẳng định như thế trong Bài Phúc Âm hôm nay, Đấng đã tỏ hết tình yêu của Cha của Ngài ở trên trời cho loài người chúng ta qua cuộc Khổ Nạn và Tử Giá vô cùng nhục nhã và đớn đau của Người, đến độ Người đã trở thành đáng thương hơn cả chúng ta là loài tội lỗi đáng thương nữa.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 15, 1-2. 22-29
"Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, có mấy người từ Giuđêa đến dạy bảo các anh em rằng: "Nếu anh em không chịu cắt bì theo luật Môsê, thì không được cứu độ". Do đó, Phaolô và Barnaba đã tranh luận gắt gao với họ. Bấy giờ người ta quyết định là Phaolô, Barnaba và một ít người khác thuộc phe họ, lên Giêrusalem gặp các Tông đồ và niên trưởng, để xin giải quyết vấn đề này.
Bấy giờ các Tông đồ, kỳ lão, cùng toàn thể Hội thánh chấp thuận chọn ít người trong các ngài, và sai đi Antiôkia với Phaolô và Barnaba: đó là Giuđa, gọi là Barsaba, và Sila, những vị có uy thế giữa anh em. Các ngài nhờ tay hai ông chuyển bức thơ viết như sau:
"Anh em Tông đồ và kỳ lão chúng tôi kính chào các anh em thuộc dân ngoại ở Antiôkia, Syria và Cilicia. Chúng tôi nghe tin rằng có mấy người trong chúng tôi đã đến nói những lời gây hoang mang và làm cho tâm hồn anh em xao xuyến, chúng tôi không uỷ quyền cho họ, vì thế chúng tôi họp lại, đồng ý chọn một ít người và sai đến anh em làm một với Barnaba và Phaolô, những anh em yêu quý của chúng tôi, tức là những người đã liều mạng sống mình vì danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi đã sai Giuđa và Sila đến nói miệng với anh em cũng chính những lời này: Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần, huyết, thịt thú chết ngạt và gian dâm; giữ mình khỏi các điều đó là anh em làm phải. Chúc anh em vạn an".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5-6 và 8
Ðáp: Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Kh 21, 10-14. 22-23
"Người chỉ cho tôi thấy thành thánh do Thiên Chúa từ trời gởi xuống".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Thiên Thần đem tôi lên một núi cao chót vót khi tôi ngất trí, và chỉ cho tôi thấy thành thánh Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng của nó toả ra như đá quý, giống như ngọc thạch, óng ánh tựa pha lê. Thành có tường lũy cao lớn, trổ mười hai cổng, trên các cổng có mười hai thiên thần, và có khắc tên mười hai chi họ con cái Israel. Phía đông có ba cổng, phía bắc có ba cổng, Phía nam có ba cổng, và phía tây có ba cổng. Tường thành xây trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên. Còn đền thờ, tôi không thấy có trong thành, vì Thiên Chúa toàn năng và Con Chiên là đền thờ của thành. Thành không cần mặt trời, mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó, và đèn của nó chính là Con Chiên.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 23-29
"Thánh Thần sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
B
Điển hình nhất là trường hợp được Sách Tông Vụ trong Bài Đọc I hôm nay nhắc đến, đó là quyết định của các Thánh Tông Đồ, trong đó có 3 vị chính: Tông Đồ Phêrô là Giáo Hoàng tiên khởi đại diện Chúa Kitô trên trần gian lo cho đàn chiên phổ quát của Chúa Kitô, tiếp đến là Tông Đồ Giacôbê là Giám Mục cai quản Giáo Hội ở Giêrusalem thuộc cấp thẩm quyền địa phương bấy giờ, và còn có cả Tông Đồ Phaolô đặc trách dân ngoại, bao gồm các Giáo Hội mới được thành lập ở ngoài Giáo Phận Jerusalem. Quyết định của các vị nơi Công Đồng Chung Jerusalem của Giáo Hội sơ khai, Giáo Hội tiên khởi này đó là dân ngoại trở lại Kitô giáo không cần phải chịu phép cắt bì theo Do Thái giáo mới được cứu độ, như có một số tín hữu Do Thái giáo cực đoan trở lại Kitô giáo chủ trương và loan truyền. Thế nhưng, trong Văn Thư chính thức của công đồng về quyết định ấy đã cho thấy quyết định ấy bởi "Thánh Thần và chúng tôi". "Thánh Thần" trước", "chúng tôi" sau. Có nghĩa là "Người sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con", đó là "Ai tin vào tin mừng và chịu phép rửa thì được cứu độ" (Marco 16:16), chứ không cần cắt bì nữa.
Cho dù Kitô hữu không cần phải chịu phép cắt bì của Do Thái giáo đi nữa, nhưng dầu sao, theo nguyên tắc thì "ơn cứu độ xuất phát từ dân Do Thái" (Gioan 4:22), nghĩa là, ở một ý nghĩa nào đó, từ chính Đấng sáng lập và thành phần tông đồ là nền tảng của Giáo Hội toàn là những con người thuộc "dân Do Thái", và từ "Jerusalem, khắp Giuđêa và Samaria" (Tông Vụ 1:8) là giáo đô của Do Thái giáo và những miền đất của "dân Do Thái". Chưa hết, Kitô giáo có nguồn gốc từ Do Thái giáo, từ lịch sử cứu độ của "dân Do Thái", một lịch sử cứu độ đã được nên trọn "khi thời gian đã viên mãn" (Galata 4:4). Thế nhưng, chính vì lịch sử cứu độ của "dân Do Thái" đã và chỉ đạt đến tột đỉnh nơi Đức Giêsu Thiên sai Cứu Thế, giáo tổ Kitô giáo mà chỉ cần tin vào tin mừng về Người và lãnh nhận Phép Rửa nhân danh Người là đủ được cứu độ, một tin mừng do Giáo Hội rao giảng và một phép rửa do Giáo Hội ban phát. Như thế, cho dù Kitô giáo bắt nguồn từ Do Thái giáo, nhưng ngược lại Do Thái giáo chỉ nên trọn nơi Kitô giáo, hay nói ngược lại Kitô giáo là tầm vóc trọn hảo của Do Thái giáo.
Đó là lý do Sách Khải Huyền trong Bài Đọc II hôm nay đã cho thấy mối liên hệ giữa Do Thái giáo và Kitô giáo bất khả thiếu và bất khả phân ly nơi hình ảnh về một Thành Thánh Giêrusalem, ám chỉ Giáo Hội vinh quang của Chúa Kitô ở vào tận điểm của Mầu Nhiệm Cánh Chung, đó là một "thành thánh Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa... Thành có tường lũy cao lớn, trổ mười hai cổng, trên các cổng có mười hai thiên thần, và có khắc tên mười hai chi họ con cái Israel... Tường thành xây trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên". Trong bài đọc II này, hình ảnh Do Thái giáo được tiêu biểu nơi "mười hai cổng.. có khắc tên mười hai chi họ con cái Israel", nơi phải qua mới có thể vào trong thành, và hình ảnh Kitô giáo được tiêu biểu nơi "mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên" mà "tường thành xây trên". Hình ảnh 12 cổng thành liên quan đến Do Thái giáo trước và 12 móng của tường thành liên quan đến Kitô giáo sau như thế không phải đã chất chứa ý nghĩa Do Thái giáo dẫn đến Kitô giáo và Kitô giáo là tầm vóc trọn hảo của Do Thái giáo hay sao?
Dù sao cả hai, 12 cổng vào thành ám chỉ Do Thái và 12 móng tường thành ám chỉ Kitô giáo này cũng là 2 yếu tố bất khả thiếu để làm nên thành thánh Giêrusalem vinh quang, làm nên Giáo Hội Cánh Chung của Chúa Kitô, bao gồm cả "dân Do Thái" lẫn tất cả dân ngoại, nghĩa là toàn thể loài người. Bởi vì Thiên Chúa dựng nên loài người chỉ muốn trở thành Thiên Chúa ở cùng họ, là Emmanuel của họ (xem Gioan 1:14), thành phần được "Ngài ban cho quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), được "Con tỏ danh Cha cho họ... để tình cha với họ sống trong họ và Con sống trong họ" (Gioan 17:26). Do đó mà Bài Đọc II đã kết thúc bằng một hình ảnh và một sự thật về "thành thánh Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa" thật là chính xác như thế này: "Còn đền thờ, tôi không thấy có trong thành, vì Thiên Chúa toàn năng và Con Chiên là đền thờ của thành. Thành không cần mặt trời, mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó, và đèn của nó chính là Con Chiên". Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới có những tâm tình hân hoan chúc tụng như sau:
1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài.
Ghi Chú: Khi cử hành Lễ Thăng Thiên vào Chúa Nhật tới, thì trong Lễ Chúa Nhật VI Phục Sinh hôm nay có thể đọc Bài đọc II và Bài Tin Mừng của Chúa Nhật VII Phục Sinh.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc II: Kh 22, 12-14. 16-17. 20
"Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã nghe tiếng phán cùng tôi rằng: "Này Ta đến ngay, Ta có phần thưởng để trả công cho mỗi người tuỳ các việc người ấy đã làm. Ta là Alpha và Ômêga, là thứ nhất và cuối cùng, là nguyên thuỷ và cùng đích. Phúc cho những ai giặt áo của mình trong máu Con Chiên, để được hưởng dùng cây sự sống, và được qua cửa để vào thành.
"Ta là Giêsu, đã sai thiên thần đến làm chứng cho các ngươi về những điều có liên quan đến các giáo đoàn. Ta là gốc rễ, là dòng dõi Ðavit, là sao mai sáng chói".
Thần Trí và tân nương nói: "Hãy đến!" Và kẻ nào nghe cũng hãy nói: "Hãy đến!" Và ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy nhận lãnh nhưng không nước sự sống.
Ðấng làm chứng những điều ấy phán: "Phải, Ta đến ngay". "Amen. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến!"
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 18; 16, 22
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 17, 20-26
"Ðể chúng được hoàn toàn nên một".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một, và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con."
"Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng: Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
N
Đối với thành phần tông đồ này, Chúa Giêsu muốn "Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con", trước hết có thể hiểu là các tông đồ được chọn để nên giống hình ảnh Người, tức là được tham phần Khổ Nạn và Tử Giá với Người: "Thầy đi dọn chỗ cho anh em... Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (Gioan 14:2-3), tức các vị chính là: "Những ai Thiên Chúa đã biết trước thì Ngài cũng tiền định cho nên giống Con của Ngài" (Roma 8:29).
Và đó phải chăng là ý nghĩa của những gì Sách Khải Huyền trong Bài Đọc II
hôm nay đã nói tới: "'Ta là Giêsu,
đã sai thiên thần đến làm chứng cho các ngươi về những điều có liên quan đến
các giáo đoàn. Ta là gốc rễ, là dòng dõi Ðavit, là sao mai sáng chói'. Thần
Trí và tân nương nói: 'Hãy đến!' Và kẻ nào nghe cũng hãy nói: 'Hãy đến!' Và
ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy nhận lãnh nhưng không nước sự sống". Câu
này ám chỉ một cuộc hiệp thông thần linh giữa Chúa "Giêsu" và "tân
nương" là Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng các tông đồ (xem Epheso
2:20). Đúng thế, "Thần Trí và tân nương" đây đã được phản ảnh nơi
Bài Đọc I hôm nay: "Thánh Thần và chúng tôi". Cuộc hiệp
thông thần linh đây là cuộc hiệp thông giữa Chúa Kitô là Đầu và Giáo Hội là
Nhiệm Thể của Người, một Nhiệm Thể Giáo Hội mà
Thế nên, Đoạn Thánh Vịnh 66 trong Bài Đáp Ca hôm nay mới kêu gọi "các dân tộc" hay "chư dân", thành phần đã trở thành Giáo Hội Nhiệm Thể Chúa Kitô, được hiệp thông thần linh với Người và trong Người với Cha rằng: "Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân (chứ không chỉ ưu ái riêng với dân Do Thái - xem Tông Vụ 10:34), và Ngài cai quản các nước địa cầu (bao gồm muôn dân trong đó có cả dân Do Thái)" (câu xướng 2). Bởi thế: "Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài" (câu xướng 3 cũng là chính câu Đáp).
Thánh BÊ-ĐA Đáng Kính
Linh mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (673 - 735)
Thánh Bede với Một Âu Châu Kitô Giáo
Chính thánh Beđa kể cho chúng ta biết mọi điều về cuộc đời thơ ấu của Ngài. Trong vài câu thêm vào cuốn lịch sử Giáo hội, thánh nhân sinh năm 673 hay là 674. Tên Bêđa theo từ ngữ Saxon có nghĩa là cầu nguyện. Cuộc sống của Ngài rất gương mẫu nên người ta thêm cho Ngài biệt danh Vênêrabilê có nghĩa là khả kính. Lên bảy tuổi Ngài bị mồ côi cha mẹ và được giao phó cho tu viện trưởng Bênêdictô Biscop săn sóc giáo dục. Lúc 18 tuổi Ngài được thụ phong chức phó tế và năm 702 hay 703 tức là lúc 29 tuổi Ngài được thụ phong linh mục.
Cuộc sống của Ngài trong tu viện rất cực nhọc. Chúng ta có thể tóm lược cuộc sống ấy bằng chính lời Ngài: - "Tôi đã sống trọn đời nỗ lực học hỏi kinh thánh và trong khi tuân thủ luật dòng cũng như bổn phận hàng ngày và hát thánh ca tại nhà thờ, tôi sung sứơng được học hành, dạy dỗ và viết lách".
Đây quả là tổng hợp chính xác trọn cuộc sống của thánh Bêđa, Ngài rất ít rời bỏ nhà dòng. Chúng ta chỉ nghe biết có hai chuyện du hành của Ngài. Một lần Ngài đi thu tập tài liệu về đời thánh Cuthbert, Ngài ở lại Lindisfanne và từ đó đến viếng Farne Islanol để khảo sát những di tích trong căn phòng của vị thánh. Một lần khác, Ngài đến York để thăm Đức tổng giám mục Egbert, và để quan sát các trường học nổi tiếng ở đó.
Dạy học, thánh Bêna tỏ ra là một bậc thầy lỗi lac. Ngài không quan tâm suy tư và ao ước được nổi bật. Tài năng của Ngài là cố gắng không cùng để tự đào luyện mình rồi truyền thông không phải chỉ có những gì mình đã học mà còn cả cảm thức về giá trị của điều đã được hiểu biết, đặt tầm quan trọng của việc giảng dạy. Tuy nhiên chúng ta không thể nói nhiều về điểm này. Nhưng các sách đủ loại Ngài viết đều là kiểu mẫu trong việc trưng dẫn các tài liệu. Chính cách trình bày cẩn thận và điều độ và gắng để được chính xác và đúng đắn làm cho các sách ấy có thế giá. Các tác phẩm của thánh Bêda có thể xếp thành ba loại. Các bút tích về thần học của Ngài chính yếu gồm những phần dẫn giải thánh kinh của một thầy dạy phần lớn dựa trên các sách giáo phụ Tây phương. Dầu thiếu sự độc sáng trong cách trình bày, nhưng những dẫn giải của thánh Bêda ngày nay còn là phương tiện tốt đẹp nhất để hiểu về các giáo phụ.
Các tác phẩm về khoa học của Ngài một phần là những giải thích cổ truyền về các hiện tượng tự nhiên, một phần bàn về niên lịch và cách tính của Đông phương. Cách tính niên lịch của Ngài kể từ thời Chúa Giêsu Giáng sinh đã được Kitô giáo Tây phương chấp nhận rộng rãi hơn cả.
Các tác phẩm về lịch sử của thánh nhân có lẽ ngày nay được nhớ tới nhiều hơn hết. Cuốn "Lịch sử Giáo hội của dân Anh" là một trong những tác phẩm quan trọng nhất về lịch sử về thời đầu Trung cổ. Ngài đã viết cách khách quan và phê phán cách quân bình, dựa trên những tài liệu và nhân chứng đáng tin cậy, Ngài cũng viết một tiểu sữ về các tu viện ở Wearmonth và thơ văn về cuộc đời thánh Cuthbert.
Kể từ năm 679, Ngài ở hai tu viện Wearmonth và Jarrow, chăm chú thi hành bổn phận thuộc đời sống tu trì và vẫn không ngừng viết lách và dạy học. Lời kinh ở cuối cuốn "Lịch sử Giáo hội" trình bày lý tưởng của Ngài: - "Lạy Chúa Giêsu nhân từ, con khẩn cầu Chúa, khi đã cho con được vui hưởng những lời khôn ngoan của Chúa thì xin Chúa cho con một ngày kia được đến gần bên thánh nhan Chúa".
Đương thời, không ai nghi ngờ sự thánh thiện của thánh nhân, nhưng Ngài đã không làm một phép lạ, không được một thị kiến và không mở ra một đường lối tu đức mới mẻ nào. Mùa hè năm 735 vào tuổi 63, sức khỏe suy giảm, Ngài còn bị đau khổ bị bệnh suyễn. Dầu vậy, Ngài vẫn làm việc đến giây phút cuối cùng, đọc cho thầy thơ ký hoàn tất cuốn sách Chú giải Phúc âm thánh Gioan và 48 giờ cuối cùng trên giường bệnh. Đúng ngày lễ Thăng thiên 27 tháng 5 năm 735, thánh Beda từ trần.
Thánh GRÊGORIÔ VII
Giáo Hoàng
(1028 - 1085)
Thánh Gregoriô hay là Hildebrand theo tên rửa tội, sinh khoảng năm 1028. Gia đình Ngài không thuộc dòng tộc quí phái và có thuộc gốc Do thái. Thấy con mình thông minh lại hiếu học, thân phụ thánh nhân gởi Ngài tới thụ huấn với người chú là Tu viện trưởng Đức Bà Maria ở Aventin, Hildebrand đã trở thành một tu sĩ dòng Bênêdictô.
Tuy nhiên khả năng đặc biệt của Ngài đã sớm kéo Ngài ra khỏi hàng rào tu viện để phục vụ tại giáo triều. Khi đắc cử giáo hoàng, trên đường về nhận chức, Đức Leo IX ghé qua Cluny và dẫn theo thày dòng trẻ tuổi Hildebrand để làm cố vấn cho mình. Đức giáo hoàng đã trao cho Ngài điều khiển tu viện thánh Phaolô và đặt làm hồng y. Đức giáo hoàng Leo IX là vị tiên khởi trong cuộc cải cách Grêgoriô, danh hiệu dựa vào khuôn mặt sáng giá nhất cuộc cải cách này, nhưng chính đức Leo là người khởi xướng.
Kể từ việc đề cử của Đức Leo IX Hildebrand đã có ảnh hưởng lớn lao trong nhiều triều đại liên tiếp. Khi được cử làm đặc sứ tại Pháp Đức Hồng y Hildebrand, đã chống lại nhiều tập tục xấu. Trong hội đồng họp ở Tour, Ngài đã buộc Berenger từ bỏ những lầm lạc của mình. Thế là chính Ngài đã giữ phần quyết định trong cuộc tranh luận về bí tích Thánh Thể giữa Lanfranc và Berenger. Ngài ủng hộ giáo thuyết về sự biến thể của Lanfranc nhưng cũng giảm bớt sức đối kháng để trình bày cách mầu nhiệm hơn.
Dưới ảnh hưởng của Đức hồng y Hildebrand, chức giáo hoàng ngày càng nghịch với hoàng đế hơn. Một liên minh hình thành với nhiều nhà cai trị ở miền nam nước Ý chống lại các Hoàng đế nhà Hohenstanen. Đức giáo hoàng nâng đỡ phong trào quần chúng chống lại hoàng đế ở Milanô nhưng tâm điểm đường lối chính trị của tòa thánh được diễn tả trong việc chọn lựa Đức Giáo hoàng, dành riêng cho hồng y đoàn. Nói cách khác, ảnh hưởng của hoàng để bị rút lại, nếu không nói là bị hủy bỏ. Năm 1073 dưới ảnh hưởng đã trở nên lớn mạnh, Đức Hồng y Hildebrand đắc cử giáo hoàng với hiệu Gregoriô VII.
Tình hình Giáo hội lúc này thật đáng buồn với nhiều thảm trạng đang diễn ra. Đích thân giáo hoàng thấy rõ những điều đó, sống khắc khổ như một thày dòng, Ngài đã sáng ngời như mặt trời chiếu dãi vào ngôi nhà Giáo hội. Đầy uy quyền trong lời nói và việc làm, Ngài đã nỗ lực tái lập kỷ lục truyền bá đức tin, diệt trừ các lỗi lầm. Nhất là Ngài được chống lại hoàng đế Henri IV nước Đức. Ông hoàng này ham mê khoái lạc và tham lam, đã dám bán quyền giám mục và các chức vụ trong Giáo hội cho những người bất xứng.
Năm 1075, Đức Gregoriô VII đã tuyên bố phạt mọi người ở bất cứ địa vị nào dám dùng tiền để mua bán chức thánh. Với tình phụ tử, Ngài cảnh cáo hoàng đế Henri IV và các lạm quyền của ông. Tức giận ông bắt cóc Đức Giáo hoàng đang khi Ngài làm lễ và giam ngục. Nhưng rồi dưới áp lực của dân Roma, ông phải thả Ngài ra. Đức giáo hoàng đã tha thứ cho ông. Tuy nhiên nhà vua vẫn ngoan cố. Năm 1076, ông triệu tập một số giám mục rồi đặt Gnibert de Ravenna làm giáo hoàng. Đức Gregoriô VII liền ra vạ tuyệt thông Henri IV. Hối hận và sợ các quan bất phục, Henri IV lo giữ ngôi bằng cách đến Canossa làm việc đền tội.
Ngày 28 tháng giêng năm 1077, Đức giáo hoàng giải vạ cho ông.
Một thời gian sau Henri IV lại trở mặt, ông cầm quân sang Roma để bắt Đức Giáo hoàng. Nhưng Đức Gregoriô đã kịp thời rút lui về Sôlerna và qua đời tại đây năm 1085. Trước khi qua đời Ngài đã nói: - Ta yêu mến điều công chính và chê ghét sự gian tà nên mới phải chết ở chốn lưu đày này.
Người ta đã nói tới cuộc cải cách thời Gregoriô. Phải nhận đinh rằng ý tưởng của Ngài rất cao thượng, Ngài quan niệm hàng giáo sĩ được đặt ra ngoài mọi người khác bởi phép truyền chức thánh làm thành một cộng đoàn siêu nhiên ấn định bởi quyền ban bí tích và được cai quản bởi đấng kế vị thánh Phêrô. Họ phải sống xứng đáng với phận vụ thiêng liêng, Ngài nhiệt hành ủng hộ luật độc thân của giáo sĩ và chống lại mọi thứ buôn thần bán thánh.
Ngài cũng nỗ lực diệt trừ mọi can thiệp vào việc chọn giám mục, nhất là sự can thiệp của hoàng đế. Dầu không thành công trong việc này, nhưng chắc chắn đã làm thay đổi thái độ của mọi người đối với Giáo hội.
Sau khi đã từ trần, lý tưởng canh tân Giáo hội của Ngài mới rõ rệt hơn, sắc bén hơn và tiến gần tới hiện thực hơn.
Thánh MARIA MADALENA ĐỆ PAZZI
(1566 - 1607)
Thánh Maria Madalena Pazzi sinh năm 1566 tại Florence. Khi rửa tội Ngài được đặt tên là Catarina. Ngay từ nhỏ, Ngài đã ham thích cầu nguyện và làm việc lành. Muốn cho Ngài vui thích, cứ việc đọc cho Ngài nghe truyện các thánh hay là dẫn Ngài tới nhà thờ.
Lên 7 tuổi lòng thương người của Ngài đã tiến xa tới độ nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo. Có dịp về miền quê, niềm vui chính của Ngài là tập họp trẻ em lại để dạy giáo lý cho chúng. Một lần kia, khi mới bắt dầu dạy đạo cho một em bé con một nông dân, thì Ngài phải báo cho biết là phải trở về Florence. Ngài đã buồn rầu đến độ không cầm được nước mắt, Cha Ngài chỉ có thể an ủi Ngài bằng cách dẫn em bé ấy về để dạy cho xong.
Thánh nữ có lòng sùng kính phép Thánh thể một cách đặc biệt. Lên 10 tuổi, tức là năm 1576, Ngài được rước lễ lầ đầu. Dịp này, Ngài đã khấn dâng mình trọn vẹn cho Chúa. Năm 13 tuổi Ngài còn tự ý làm một mão gai để đội đầu mỗi khi đi ngủ để cảm thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.
Đến 16 tuổi, Catarina đã ao ước được gia nhập dòng Carmêlô. Sau một thời gian luỡng lự, cuối cùng cha mẹ Ngài đã chấp nhận, Catarina vào dòng ngày 14 tháng 8 năm 1582 và ngay 30 tháng giêng năm 1583, được mặc áo dòng với danh hiệu Maria Madalena. Cuộc đời Ngài là một phép lạ liên tục. Một cơn bệnh xâu xé Ngài. Có nữ tu hỏi thánh nữ xem bí mật nào đã giúp Ngài nhẫn nại chịu đựng như vậy, chỉ vào cây thánh giá Ngài trả lời: - Hãy xem điều Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc tôi. Những ai nhớ tới những đau khổ của Chúa Giêsu và dâng những đau khổ của mình lên Thiên Chúa, họ chỉ còn thấy êm ái đối với những gì mình phải chịu mà thôi.
Đau đớn vì bệnh hoạn, thánh nữ lại hay xuất thần. Những yếu tố ấy đều góp phần xây dựng đời sống thánh thiện của Ngài. Dù suốt năm năm liền kể từ tháng 6 năm 1585, Ngài đã phải trải qua một cuộc thử thách dữ dằn, Thiên Chúa cho Ngài thấy sự dữ đang diễn ra trong Giáo hội, những xúc phạm do hàng giáo sĩ và do các giám mục gây nên. Các tu sĩ trong cộng đoàn vấp phạm vì những khuyến cáo Ngài trình lên Đức gíao hoàng và các đức giám mục để thực hiện cuộc canh tân. Sự nghi ngờ của họ trở thành sự khinh bỉ, khi thánh nữ chịu cơn thử thách khủng khiếp này, là thấy mình bị Thiên Chúa bỏ rơi. Thêm vào đó, Ngài còn bị cám dỗ trở nên kiêu căng thất vọng.
Dầu vậy, ý chí của Ngài bám chặt vào Chúa không ngơi, Ngài chỉ còn biết rên rỉ: - Tôi không hiểu mình có còn trí khôn nữa không. Tôi không thấy mình còn có gì đáng kể ngoài một chút thiện chí là không bao giờ dám xúc phạm đến Thiên Chúa.
Nhưng nhìn lên thánh giá Ngài thêm phấn khởi: - Đừng chết, nhưng chớ gì được chịu đau khổ mãi.
Bị cám dỗ quá, Ngài gieo mình vào bụi gai, bình thường Ngài hãm mình kinh khủng và thường mặc áo nhặm.
Năm năm bão tố trôi qua nhằm lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong khi hát kinh tạ ơn, Maria Madalena đã bỗng xuất thần và thưa với bề trên trong niềm vui mừng: - Bão tố qua rồi, xin hãy giúp con cảm tạ Chúa tạo thành khả ái.
Từ đây Ngài chỉ còn ước muốn vô cùng là được làm việc để tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn. Ngài luôn tìm kết hiệp với thánh ý Chúa. Thánh Thần đọc cho Ngài những ý tưởng thâm sâu và hai chị thơ ký đã ghi thành một pho sách được các người nhân đức và thông thái ở Ý chuẩn nhận.
Với nhiệt tình, Ngài đã nguyện hy sinh không muốn biết đến một sự dịu ngọt nào nữa. Khi làm phó bề trên, Ngài bị tật bệnh dày vò lại còn mất ơn an ủi, cha linh hướng tìm cách an ủi, nhưng Ngài nói: - Không, đó không phải là thứ an ủi con tìm kiếm. Con chỉ ước mong được đau khổ đến lúc cuối đời. Khi sắp từ trần thánh nữ nói:
- Tôi sắp từ giã mà không hiểu tại sao một thụ tạo lại quyết tâm phạm tội chống lại Chúa tạo thành được.
Với các nữ tu vây quanh, Ngài nói những lời sau cùng: - Tôi sắp từ giã các chị để đi vào vĩnh cửu, tôi xin các chị như là một ân huệ cuối cùng là chỉ yêu mến một mình Chúa, đăt trọn niềm hy vọng nơi Ngài và chịu đựng tất cả vì tình yêu Ngài.
Thánh nữ từ trần ngày 25 tháng 5 năm 1607. Thân xác Ngài vẫn còn nguyên vẹn cho tới ngày nay.
Thứ Hai sau Chúa Nhật VI Phục Sinh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 16, 11-15
"Chúa đã mở lòng cho bà chú ý nghe những lời Phaolô giảng dạy".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Chúng tôi xuống tàu tại Trôa và đi thẳng đến Samôthra, và hôm sau đến Nêapôli; rồi từ đó đi Philippê là thành thứ nhất vùng Macêđônia, và là xứ thuộc địa. Chúng tôi lưu lại thành này một ít ngày. Ðến ngày Sabbat, chúng tôi đi ra ngoài cửa thành đến bờ sông, chỗ người ta thường hợp nhau đọc kinh. Chúng tôi ngồi xuống giảng cho những phụ nữ đang tề tựu ở đó. Bấy giờ có một bà tên là Lyđia, buôn vải gấm, quê ở Thyatira, có lòng thờ Chúa, cũng ngồi nghe; Chúa đã mở lòng cho bà chú ý nghe các điều Phaolô giảng dạy. Sau khi chịu phép rửa tội làm một với gia đình, bà nài xin rằng: "Nếu các ngài xét thấy tôi đã nên tín đồ của Chúa, thì xin đến ngụ tại nhà tôi". Bà nài ép chúng tôi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5 và 6a và 9b
Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 13
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15, 26-16, 4
"Thần Chân lý sẽ làm chứng về Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Ðấng Phù Trợ đến, Ðấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban đầu. Thầy đã nói với các con điều đó để các con khỏi vấp ngã. Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Ðã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa. Họ sẽ làm những điều đó cho các con, vì họ không biết Cha, cũng không biết Thầy. Nhưng Thầy đã nói với các con như vậy, để khi đến giờ của họ, các con nhớ lại là Thầy đã bảo các con".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
"Thiên Chúa là Thần Linh"
(Gioan 4:24).
"Thần Linh" ở đây
không phải như kiểu thiên thần theo bản tính thiêng liêng cũng có thể gọi là "thần
linh",
vì
"thần linh"
theo tầm cấp tạo vật của các thiên thần thì không thể ở trong các tạo vật nói
chung và nhất là trong linh hồn thiêng liêng của con người ta nói riêng. Chính
sự kiện có thể ở trong linh hồn con người cũng như ở nơi chính các thiên thần
trên trời cho thấy
"Thiên Chúa là Thần Linh",
là Hiện Diện Thần Linh.
Trong bài phúc âm Thứ Hai Tuần VI Phục Sinh hôm nay, thời điểm gần hết Mùa Phục
Sinh 7 tuần lễ, một bài phúc âm cũng như các bài Phúc Âm khác trong tuần
này, Giáo Hội cố ý chọn đọc những đoạn Phúc Âm của Thánh ký Gioan về Thánh Linh
(3 ngày đầu trong tuần VI Phục Sinh này) là Đấng sau khi thăng thiên về cùng Cha Người sẽ từ Cha sai đến với các tông đồ,
với Giáo Hội, để Người có thể ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế (xem Mathêu
28:20), nhờ đó Giáo Hội có thể hiên ngang bất khuất làm chứng nhân về Người
và cho Người đến tận cùng trái đất và cho tới khi Người lại đến trong vinh
quang.
"Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Khi Ðấng Phù Trợ đến, Ðấng Thầy sẽ từ
nơi Cha Thầy sai đến với các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ
làm chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban
đầu. Thầy đã nói với các con điều đó để các con khỏi vấp ngã. Người ta sẽ loại
các con ra khỏi hội đường. Ðã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự
Thiên Chúa. Họ sẽ làm những điều đó cho các con, vì họ không biết Cha, cũng
không biết Thầy. Nhưng Thầy đã nói với các con như vậy, để khi đến giờ của họ,
các con nhớ lại là Thầy đã bảo các con'".
"Các con cũng sẽ làm chứng" ở đây, theo lời Chúa Giêsu, cần hai yếu tố bất khả thiếu, đó là Thánh Linh, "Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy" và "ở với Thầy từ ban đầu", bằng không, không ai có thể làm chứng cho Chúa Kitô. Hai yếu tố bất khả thiếu là những gì cũng bất khả phân ly.
Trước hết là yếu tố "ở với Thày ngay từ ban đầu", điều kiện tối cần để chọn vị tông đồ thay cho tông đồ Giuđa Ích-Ca (xem Tông Vụ 1:21-22), vì không hiểu biết Chúa Kitô bằng chính cảm nghiệm bản thân gần gũi với Người, không thể làm chứng về Người và cho Người. Bởi thế mà Thánh Gioan Tông Đồ, ngay đầu Thư Thứ Nhất là nói đến sự kiện "điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời..." (1Gioan 1:1-2).
Sau nữa là yếu tố "Thần Chân Lý", được "Thày từ nơi Cha sai đến", một "Thần Chân Lý" là Đấng "thấu suốt mọi sự nơi Thiên Chúa" (1Corinto 2:10), bất khả thiếu cho thành phần chứng nhân tông đồ, thành phần chứng nhân tiên khởi. Vì cho dù được ở với Chúa Kitô ngay từ ban đầu đấy, các tông đồ vẫn không hoàn toàn hiểu được Chúa Kitô như Người thực sự là, trái lại, còn trắng trợn bán Người và chối bỏ Người. Bởi thế các vị cần đến Thánh Linh là "Thần Chân Lý", vì Ngài "bởi Cha mà ra", là chính Ý Thức Thần Linh của Cha về bản thân Cha là chính Người Con của Cha, nên chỉ có Vị "Thần Chân Lý" này mới biết được Đấng Cha sai hầu có thể "làm chứng về Thày", làm chứng qua các chứng nhân được "ở với Thày ngay từ ban đầu": "Các con cũng sẽ làm chứng nữa". Nếu không có Thánh Linh là Thần Chân Lý, cho dù có ở với Thày ngay từ ban đầu, họ vẫn có thể trở thành một phản kitô, một kitô giả. Như trường hợp tông đồ Phêrô vừa tuyên xưng Thày xong đã trở thành Satan trước mặt Người.
"Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường". Nếu so sánh với Giáo Hội Công Giáo có nghĩa là tuyệt thông nếu không tin Chúa Kitô như Giáo Hội tin hay không tin các tín điều do Giáo Hội tuyên bố. Cho đến nay Do Thái giáo vẫn loại ra khỏi hội đường của họ, hay tuyệt thông những ai theo Do Thái giáo công nhận Nhân Vật Giêsu Nazarét là Đức Kitô Thiên Sai. Mà các vị tông đồ gốc gác từ Do Thái giáo nên bị họ loại ra khỏi hội đường bởi các vị rao giảng Nhân Vật Giêsu Nazarét là Đức Kitô Thiên Sai.
“Kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa” ở đây, vì họ nghĩ rằng Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ trong giòng Lịch Sử Cứu Độ không thể nào ở nơi một Nhân Vật Lịch Sử Giêsu Nazarét cũng là người như họ. Điển hình là trường hợp của Hội Đồng Đầu Mục Do Thái đã nhân danh Thiên Chúa để lên án tử cho Chúa Giêsu là nhân vật đối với họ chỉ là người mà dám lộng ngôn cho mình ngang hàng với Thiên Chúa (xem Mathêu 26:65; Gioan 10:33). Lý do chính yếu là vì "họ không biết Cha, cũng không biết Thày"
"Khi Ðấng Phù Trợ đến, Ðấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban đầu", trong câu đầu tiên của Bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được "Đấng Phù Trợ" là ai? (1) Từ đâu đến? (2) Để làm gì? (3) Bằng cách nào? (4)
"Đấng Phù Trợ" là ai? - Là "Đấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con"; 2- "Đấng Phù Trợ" từ đâu đến? - "Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra"; 3- "Đấng Phù Trợ" đến để làm gì? - "Người sẽ làm chứng về Thầy"; 4- "Đấng Phù Trợ" thi hành sứ vụ bằng cách nào? - "các con cũng sẽ làm chứng", tức là qua và nhờ Giáo Hội Chúa Kitô trên trần gian.
Trước hết, "Đấng Phù Trợ" được Chúa Kitô "sai đến", như Chúa Kitô đã được Cha sai, và vì thế, về Ngôi Vị, theo thứ tự, Chúa Cha là Ngôi Nhất - Ngôi Cha, Chúa Kitô là Ngôi Hai - Ngôi Con, và "Đấng Phù Trợ" là Ngôi Ba - Thánh Linh. Tuy là Ngôi Ba trong Ba Ngôi nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa, "bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra", và như Chúa Con, Ngài "không phải được tạo thành", nhưng "đồng bản thể" với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, vì Ngài "bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra". Nghĩa là, theo ngôn ngữ thần học thì trong khi Chúa Con "nhiệm sinh" từ Chúa Cha thì Thánh Thần "nhiệm xuất" từ Chúa Cha và Chúa Con.
Thật ra, khi sống lại từ trong kẻ chết, Chúa Kitô đã ban Thành Thần của Người cho các tông đồ rồi (xem Gioan 20:22), nhưng "Đấng Phù Trợ" được Người nói đến ở đây, cũng là Thánh Thần, thì chỉ khi nào Người Thăng Thiên về cùng Cha, Người mới "sai đến với các con". Tuy nhiên, Giáo Hội Chính Thống chỉ tuyên xưng Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha mà ra thôi, như câu Chúa Giêsu nói ngay sau: "Ngài là Thần Chân lý bởi Cha mà ra". Đây là một trong những điểm tín lý, được gọi là "filioque", khác biệt chính yếu nhất giữa hai Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống từ trước cho tới nay!
Sau nữa, vì chính Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa được nhiệm xuất từ Cha và Con, nên như Con bởi Cha mà ra đã đến để "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) cho dân Do Thái nói chung và cho các tông đồ nói riêng thế nào, thì Thánh Thần được Chúa Con sai đến, nghĩa là được Chúa Kitô Thăng Thiên về cùng Cha và ngự bên hữu Chúa Cha rồi, bấy giờ, với tư cách là Chúa Con, Người mới sai Ngài đến, do đó mà sứ vụ của Ngôi Ba Thánh Thần đến là để "làm chứng về Thày".
Nghĩa là Ngài được Thày từ Cha sai đến là để, trước hết và trên hết, tỏ Thày ra cho Giáo Hội, nghĩa là làm cho Giáo Hội thấm nhập Chúa Kitô và làm cho Chúa Kitô càng ngày càng hiện tỏ nơi Giáo Hội. Vì chỉ có Ngài "thấu suốt mọi sự nơi Thiên Chúa" (1Corinto 2:12), mới "là Thần Chân Lý... dẫn các con vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13), nhờ đó "Ngài sẽ làm chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban đầu". Nghĩa là Chúa Thánh Thần tỏ Chúa Kitô ra cho Giáo Hội, để qua Giáo Hội, làm chứng về Người trước thế gian, bằng chính chứng từ đức ái trọn hảo của Giáo Hội.
Nếu Chúa Thánh Thần "là Thần Chân lý bởi Cha mà ra", được sai đến để "làm chứng về Thày", nghĩa là để tỏ Thày ra: Thày là ai, và Thày đã tỏ mình ra nơi giáo huấn của Người cũng như nơi các gương sống của Người ra sao, thì thành phần Kitô hữu chứng nhân chân chính cũng phải hoàn toàn phản ảnh Người đúng như thế, chứ không thể nào làm chứng về Người bằng những gì Người không làm, như việc đặt tay trên ai thì người ấy ngã lăn quay, và Người cũng chẳng bao giờ căn dặn các tông đồ là phải luôn chực sẵn ở đằng sau những ai được Người đặt tay để đỡ họ khỏi ngã bổ ngửa ra đằng sau chẳng còn biết gì nữa, như chết vậy, trong khi Người đặt tay trên các con trẻ thì chẳng có em nào ngã ra hết (xem Mathêu 19:13-15), hay như hiện tượng nói tiếng lạ mà chính đương sự cùng người nghe chẳng hiểu gì, thì Người lại chẳng bao giờ có những hành vi cử chi ngộ nghĩnh buồn cười chỉ gây thêm thắc mắc như vậy. Người chẳng bao giờ làm dấu kỳ lạ cho người ta thưởng thức, và thu hút họ bằng những thứ ảo thuật như thế. Chứng từ trung thực nhất và sống động nhất nơi Kitô hữu môn đệ chân chính của Chúa Kitô đó là "đức tin được thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), yếu tố bất khả thiếu để thế gian nhận biết Chúa Kitô!
Bài Đọc 1 (Tông
Vụ 16:11-15)
Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy sự hiện diện thần linh chẳng những ở nơi
người giảng mà còn cả ở nơi người nghe nữa, bởi thế, một khi gặp ngay tần số
thần linh giống nhau,
"Chúa đã mở lòng cho bà chú ý nghe các điều Phaolô giảng dạy", mới
xẩy ra câu chuyện trở lại tiêu biểu (như các cuộc trở lại khác cũng nhờ sự hiện
diện thần linh là chính Thánh Thần Thiên Chúa nơi cả đôi bên) của một người phụ
nữ cùng với gia đình của bà sau khi nghe các nhà truyền giáo chuyên nghiệp
Phaolô làm chứng cho Chúa Kitô bằng lời rao giảng của ngài về Người.
"Chúng
tôi xuống tàu tại Trôa và đi thẳng đến Samôthra, và hôm sau đến Nêapôli; rồi từ
đó đi Philippê là thành thứ nhất vùng Macêđônia, và là xứ thuộc địa. Chúng tôi
lưu lại thành này một ít ngày. Ðến ngày Sabbat, chúng tôi đi ra ngoài cửa thành
đến bờ sông, chỗ người ta thường hợp nhau đọc kinh. Chúng tôi ngồi xuống giảng
cho những phụ nữ đang tề tựu ở đó. Bấy giờ có một bà tên là Lyđia, buôn vải gấm,
quê ở Thyatira, có lòng thờ Chúa, cũng ngồi nghe; Chúa đã mở lòng cho bà chú ý
nghe các điều Phaolô giảng dạy. Sau khi chịu phép rửa tội làm một với gia đình,
bà nài xin rằng: 'Nếu các ngài xét thấy tôi đã nên tín đồ của Chúa, thì xin đến
ngụ tại nhà tôi'. Bà nài ép chúng tôi".
Ngày 26 tháng 5
Thánh Phi-líp-phê Nê-ri, linh mục
lễ nhớ bắt buộc
THÁNH PHILIPPHÊ NÊRÔ
Linh Mục (1515 - 1595)
Thánh Philipphê Nêrô sinh năm 1515 tạo Florence. Bị mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, nhưng Philipphê có một bà Dì nhất mực yêu thương. Ngược lại Philipphê cũng rất vui tươi và ngoan ngùy đang cho mọi người yêu thích. Ngài hấp thụ được đức tin sâu xa nôi cha mẹ và các cha dòng Daminh ở tu viện thánh Marcô.
Năm 1533 Ngài đến sống với người cậu ở gần Naples để tập nghề kinh doanh. Ong cậu không có con thừa tự nên muốn dành gia tài cho Philipphê, nhưng thánh nhân thấy mình không có ơn gọi để sống cuộc đời như vậy. Và Ngài đi bộ về Roma, không tính toán cũng không có đồ dùng chi, Philipphê sẽ sống và chết tại Roma.
Một người đồng hương ở Roma cho Philipphê một căn phòng với điều kiện là dành ít thời gian dạy dỗ cho con cái họ. Thánh nhân đã sống đời cầu nguyện và học hành trong cô tịch, ngày ăn một bữa với bánh mì, nước và trái ôliu, ngủ trên sàn nhà. Trong khi theo môn triết học và thần học, Ngài vẫn tìm cách lôi kéo bạn bè vào nếp sống đạo đức, lo cải hoá người khác. Như vậy chính thánh nhân cũng bị cám dỗ và phải cố gắng để tự chủ, Ngài tăng thêm lời cầu nguyện và các việc hy sinh hãm mình.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1544, trong khi cầu nguyện, Ngài thấy một vật gì như trái banh bằng lửa xoáy vào trong tim gây nên một cơn bệnh và một vết thương xưng lên dầu không đau đớn gì. Trong cuộc khám nghịệm sau khi chết người ta thấy hai xương sườn phía trên bị gãy và tạo ra một khoảng rộng lớn hơn.
Sau nhiều năm, Ngài bán hết sách vở và bắt đầu lo cho linh hồn người khác hơn là cho mình. Ngài hòa mình với các bạn trẻ ở các ngã tư , các cửa tiệm và các bờ sông, dùng đến sức thu hút tự nhiên lẫn siêu nhiên để dẫn họ về đường ngay.
Hòa mình vào nhóm các nhà giảng thuyết, Philipphê đã gây được nhiều ảnh hưởng nơi các giáo dân lẫn lương dân. Người ta cho rằng: Ngài làm nhiều phép lạ. Tuy nhiên, thánh nhân rất khiêm tốn và không dám nhận chức linh mục. Cuối cùng theo lời khuyên của cha giải tội, Ngài thụ phong linh mục năm 1551. Nhiệt tâm của Ngài thật mãnh liệt khi Ngài cử hành thánh lễ đầu tiên đến nỗi như có một luồng ánh sáng từ Ngài phát ra. Phần lớn thời gian trong ngày và cả ban đêm Ngài dành vào việc ngồi tòa giải tội. Nhận thấy có nhiều thanh niên và trẻ em biếng nhác, Ngài mở cửa không cho chúng vui tươi trò chuyện ca hát. Căn phòng ấy được mệnh danh là "Ngôi nhà của nịềm vui Kitô giáo". Mỗi chiều Ngài tổ chức buổi cầu nguyện chung cho các tín hữu. Muốn cho lời cầu nguyện khởi sắc, Ngài nhờ người bạn danh tiếng là nhạc sĩ Palestrina phổ nhạc các thánh thi. Nhà nghệ sĩ này coi Ngài như một người cha và đã qua đời trong cánh tay Ngài. các linh mục muốn dấn thân phù giúp Ngài đã họp thành một hội ái hữu và đó là tiền thân của dòng giảng thuyết.
Thánh Philipphê làm việc với một tính khí vui tươi đặc biệt. Ngày kia cộng đoàn một bạn trẻ đến báo tin cho Ngài biết hạnh phúc của mình đã được thân phụ cho theo học luật. Sau khi phác họa niềm vui hạnh phúc của mình như thế nào rồi, anh nghe hỏi:
- Học xong anh sẽ làm gì ?
- Con sẽ đậu bằng tiến sĩ luật .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ cãi những vụ kiện quan trọng, khó khăn để thành danh tiếng.
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ nên danh giá và giàu có thỏa lòng mong ước .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ sống sung sướng và hạnh phúc.
- Rồi sao nữa ?
- Rồi sao nữa ? sao nữa ? rồi con chết.
- Thánh nhân cao giọng hỏi tiếp: Rồi sao nữa ?
Và bạn trẻ không biết trả lời ra sao nữa, nhưng câu hỏi đã lọt vào trong tâm hồn cho đến khi hiến mình trong tu viện và chết lành thánh.
Cũng với tính khôi hài này. Thánh Philipphê đã sửa dạy được nhiều nết xấu của người ta. Chẳng hạn một phụ nữ quen tật nói xấu người khác được nghe thánh nhân dạy hãy mua một con gà giết chết, rồi vừa đi vừa nhổ lông trên đường tới gặp Ngài. Chị ta ngạc nhiên làm và như vậy. Tới nơi thánh nhân dạy : - Chị hãy trở về đường cũ và lượm hết các lông đó lại.
Người phụ nữ la lối không thể được vì gió thổi bay khắp chốn rồi. Thánh nhân mới nói: - Những lời nói xấu vu oan cho người ta một khi ra khỏi miệng sẽ truyền từ tai này qua tai nọ. Chị có thể lấy lại được không ?
Và thánh Nhân khuyên nhủ : - Khi muốn nói về một người nào làm khổ mình, hãy nói với Chúa mà thôi để cầu nguyện và giúp họ sửa sai.
Với những bức thư của thánh Phanxicô Xavier từ phương Đông gởi về, thánh Philipphê đã tìm cách theo Ngài để gieo vãi chính máu mình cho Chúa Kitô. Nhưng một thày dòng khổ tu đã nói với thánh nhân : - Dân An độ của Ngài ở tại Roma này.
Thế là thánh nhân ở lại Rôma trở thành "Tông đồ thành Rôma".
Năm 1622 khi được phong thánh, thì Phanxicô Xavie vị "Tông đồ của dân An độ" cũng được tuyên phong với Ngài.
Năm 1575, Đức giáo hoàng Gregoriô XIII đã cho Ngài và anh em linh mục thuộc nhóm Ngài một nhà thờ. Họ tái thiết thành một nhà thờ mới và ngày nay cũng chính là nhà mẹ ở Roma của dòng giảng thuyết. Philipphê được đặt làm bề trên của hội dòng mới, dòng giảng thuyết. Ngài hướng dẫn anh em trong dòng sống như như các linh mục triều, không có lời khấn nào đặc biệt, nhưng liên kết với nhau trong tình yêu thương nhau, trong một mục đích là phục vụ các linh hồn bằng việc cầu nguyện, giảng dạy và ban các phép bí tích. Ngài không đặt ra nhiều lề luật và ngày nay có tới 40 nhà dòng giảng thuyết gồm các phần tử sống theo đường lối của thánh Philipphê Nêrô.
Năm 1595, thánh Philipphê ngã bệnh. Ngày 25 tháng 5 Ngài dâng lễ và ngồi tòa như thường lệ. Nhưng sáng hôm sau Ngài bị thổ huyết, trong khi giơ tay chúc lành cho cộng đoàn và miệng lẩm bẩm : - Đây là tình yêu của con, hạnh phúc của lòng con và thánh nhân đã phó mình cho tình yêu.
https://www.giaophanbaria.org/hanhcacthanh/theovetchannguoi05.htm#25
https://giaohovinhloc.com/2020/05/26/thanh-philipphe-nero-linh-muc-1515-1595-ngay-26-5/
Anh em hãy vui luôn trong Chúa
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày lễ Thánh Philiphe Neri 26/5 bài đọc 2)
Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.
Thánh Tông Đồ truyền cho chúng ta phải vui lên, nhưng phải vui lên trong Chúa, chứ không theo thế gian. Quả thật, như lời Kinh Thánh chép : Ai muốn làm bạn với thế gian, thì sẽ bị coi như kẻ thù của Thiên Chúa. Nhưng như con người không thể làm tôi hai chủ, thì cũng vậy : không người nào có thể vừa vui theo thế gian, vừa vui trong Chúa.
Vậy, chớ gì niềm vui trong Chúa chiếm ưu thế cho đến khi niềm vui theo thế gian chấm dứt. Chớ gì niềm vui trong Chúa gia tăng luôn mãi và niềm vui theo thế gian không ngừng giảm đi cho đến khi chấm dứt. Những điều ấy được nói ra không phải vì chúng ta không được phép có niềm vui khi còn đang sống ở đời này, nhưng để chúng ta vui trong Chúa ngay cả khi đang trải qua cuộc đời dương thế.
Nhưng có người bảo : Tôi đang sống trên cõi trần ; phải, nếu tôi vui, thì tôi phải vui ở nơi tôi đang ở. Nhưng bạn nói gì ? Vì bạn đang ở trên cõi trần, nên bạn không ở trong Chúa sao ? Bạn hãy nghe thánh Tông Đồ nói với những người thành A-then ; trong sách Công vụ Tông Đồ, người nói về Thiên Chúa, về Chúa là Đấng tạo thành chúng ta : Ở nơi Người chúng ta sống, cử động và hiện hữu. Quả thật, có nơi nào mà Đấng ở khắp mọi nơi lại không ở ? Thánh Tông Đồ đã chẳng khuyên chúng ta rằng : Chúa đã gần đến, anh em đừng lo lắng gì cả hay sao ?
Điều này thật cao cả : Người đã lên cao hơn mọi tầng trời và Người lại ở gần những kẻ còn sống dưới đất. Ai vừa ở xa vừa ở gần, nếu không phải là Đấng đã trở nên gần chúng ta do lòng từ bi thương xót ?
Quả thế, toàn thể nhân loại là chính con người đã bị các tên cướp bỏ lại, nằm ở giữa đường nửa sống nửa chết, con người bị thầy tư tế và thầy Lê-vi khinh chê khi đi qua đó, con người được một người Sa-ma-ri khi đi qua đó đã tới gần để chăm sóc và cứu giúp. Tuy là Đấng bất tử và công chính, tuy ở xa chúng ta là những con người phải chết và tội lỗi, Người đã đến với chúng ta để trở nên gần gũi chúng ta, mặc dầu Người vẫn ở xa.
Người không cứ tội ta mà xét xử. Quả thật, chúng ta là con cái. Chúng ta lấy gì để chứng minh điều đó ? Để không còn là người cô độc, Đấng duy nhất đã chết vì chúng ta. Là Đấng đã chết cô thế cô thân, Người không muốn là người cô độc. Quả thật, Con Một Thiên Chúa đã làm cho muôn người trở nên con Thiên Chúa. Người đã dùng máu mà mua lấy cho mình một đàn em. Bị chối bỏ, Người đã đón nhận họ ; bị bán đi, Người đã cứu chuộc họ ; bị làm nhục, Người đã tôn vinh họ ; bị giết chết, Người đã cho họ sống.
Vậy, thưa anh em, anh em hãy vui lên trong Chúa, chứ không theo thế gian, nghĩa là anh em hãy vui lên trong sự thật, chứ không phải trong sự gian tà ; hãy vui lên trong niềm hy vọng đạt tới phúc trường sinh, chứ không phải trong cảnh phù vân chóng tàn. Như thế, anh em hãy vui lên : dù anh em ở đâu và sống trong thời điểm nào, Chúa đã gần đến, anh em đừng lo lắng gì cả !
Lạy Chúa, Chúa nâng lên hàng chư thánh hiển vinh tất cả những ai trung thành phụng sự Chúa. Xin cử Thánh Thần đến đốt lửa yêu mến trong lòng chúng con, như xưa Người đã hun đúc tâm hồn thánh Phi-líp-phê Nê-ri một cách lạ lùng. Chúng con cầu xin
Thứ Ba sau Chúa Nhật VI Phục Sinh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 16, 22-34
"Anh hãy tin vào Chúa Giêsu, thì anh và cả nhà anh sẽ được cứu thoát".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, dân thành Philipphê xúm lại chống đối Phaolô và Sila; các nhà chức trách cho người xé áo choàng các ngài, và ra lệnh đánh đòn. Khi đã đánh các ngài nhừ tử, họ cho tống ngục, và truyền cho viên canh ngục canh giữ cẩn thận. Ðược lệnh như thế, viên cai ngục giam các ngài vào ngục sâu nhất, và còng chân các ngài lại.
Ðến nửa đêm, Phaolô và Sila cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa; các tù nhân đều lắng nghe các ngài. Bỗng xảy ra một cuộc động đất lớn, làm rung chuyển cả nền móng ngục thất. Tức khắc mọi cửa đều mở tung, và xiềng xích mọi tù nhân đều rơi xuống. Viên cai ngục giật mình thức dậy, thấy các cửa ngục mở tung, thì rút gươm toan tự vẫn, vì tưởng những người bị xiềng đã tẩu thoát. Nhưng Phaolô kêu lớn tiếng rằng: "Anh chớ hại mình, vì chúng tôi còn tất cả ở đây". Viên cai ngục gọi lấy đèn, rồi chạy vào tù, và run rẩy sấp mình dưới chân Phaolô và Sila; đoạn dẫn hai ngài ra ngoài và nói: "Thưa các ngài, tôi phải làm gì để được cứu thoát?" Hai ngài đáp: "Hãy tin vào Chúa Giêsu, thì anh và cả nhà anh sẽ được cứu độ".
Hai ngài giảng dạy lời Chúa cho anh và mọi người trong nhà. Ngay lúc đó, giữa ban đêm, viên cai ngục đem hai ngài đi, rửa vết thương, và lập tức anh ta được chịu phép rửa cùng với tất cả người nhà. Rồi anh đưa hai ngài lên nhà, dọn bàn ăn. Anh và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 137, 1-2a. 2bc-3. 7c-8
Ðáp: Lạy Chúa, tay hữu Chúa khiến con được sống an lành (c. 7c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa, con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. - Ðáp.
2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. - Ðáp.
3) Tay hữu Chúa khiến con được sống an lành. Chúa sẽ hoàn tất cho con những điều đã khởi sự, lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 26
Alleluia, alleluia! - Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều; và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16, 5b-11
"Nếu Thầy không đi, thì Ðấng Phù Trợ sẽ không đến với các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Bây giờ Thầy về với Ðấng đã sai Thầy, mà các con không ai hỏi Thầy: Thầy đi đâu? Nhưng vì Thầy đã nói với các con điều đó, nên lòng các con tràn ngập u sầu. Dầu vậy Thầy phải nói sự thật cho các con: Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Ðấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con. Khi Người đến,Người sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu đã nói xa xa đến biến cố Thăng Thiên của Người, thì trong bài Phúc Âm hôm nay, Người đã nói rõ ràng: "Thầy về với Ðấng đã sai Thầy", nhưng dù Người nói gần hay nói xa, biến cố Thăng Thiên của Người, cả ở trong bài Phúc Âm hôm qua lẫn hôm nay, đều liên quan đến Chúa Thánh Thần, đến "Đấng Phù Trợ". Trong bài Phúc Âm hôm qua, "Đấng Phù Trợ" được Người, sau khi Thăng Thiên về cùng Cha, từ Cha sai đến để "làm chứng về Thày" qua Giáo Hội và với Giáo Hội, nhưng trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cho biết "Đấng Phù Trợ" "làm chứng về Thày", bằng cách: "tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt".
Chiều kích hiện diện thần linh trong chủ đề
"Thày là sự sống"
của Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh vẫn được tiếp tục trong bài
Phúc Âm Thứ Ba Tuần VI hôm nay. Ở chỗ, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã báo
trước cho các tông đồ về sự kiện Người Thăng Thiên về cùng Cha của Người. Và
Ngưòi trấn an các tông đồ rằng việc Người về cùng Cha thì có lợi cho các
vị. Ở chỗ, nếu Chúa Kitô tiếp tục ở trên thế gian này bằng nhân tính của
Người nói chung và bằng thân xác hữu hình của Người nói riêng thì Người
không thể nào hiện diện thần linh trong các tông đồ được, cho đến khi Người
Phục Sinh và Thăng Thiên, nhờ đó Người mới có thể ở trong các vị bằng Thánh
Thần từ Cha Người sai đến với các vị như là một Đấng Phù Trợ của các vị và ở
cùng các vị để các vị được công chính hóa, vì các vị hoàn toàn sống bằng đức
tin "không
còn thấy Thày"
mà chỉ theo tác động thần linh của Đấng Phù Trợ.
"Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Bây giờ Thầy về với Ðấng đã sai Thầy,
mà các con không ai hỏi Thầy: Thầy đi đâu? Nhưng vì Thầy đã nói với các con điều
đó, nên lòng các con tràn ngập u sầu. Dầu vậy Thầy phải nói sự thật cho các con:
Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Ðấng Phù Trợ sẽ không
đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con. Khi
Người đến, Người sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt.
Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha,
và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị
xét xử'".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu còn cho biết sứ vụ của Đấng Phù Trợ là
minh chứng về tội lỗi liên quan đến thế gian, về sự công chính liên quan đến
các môn đệ và về án phạt liên quan đến ma quỉ.
Thật vậy, nếu ngón tay của Thiên Chúa đây ám chỉ Thánh Thần (xem Mathêu
12:28 so với Luca 11:20) thì hai lần Chúa Giêsu đã lấy ngón tay viết trên
đất trong vụ người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (xem Gioan
8:6,8) đã cho thấy ba khía cạnh tội lỗi, công chính và án phạt nơi sứ vụ của
Đấng Phù Trợ.
Theo thứ tự tác hành của Chúa Giêsu trong vụ này thì lần thứ nhất Người đã viết chữ “tội lỗi”, nên sau đó Người đã đứng lên thách thức thành phần muốn ném đá nạn nhân phụ nữ ngoại tình rằng: “Ai không có tội thì…” (Gioan 8:7). Lần thứ hai Người viết trên đất là chữ “công chính”, bởi thành phần tố cáo người phụ nữ ngoại tình đã lần lượt bỏ đi hết từ người già nhất cho thấy họ đã nhận biết mình mà nên công chính.
Đúng thế, theo lời Chúa nói trong bài Phúc Âm hôm nay thì tội lỗi ở ngay chỗ không tin vào Người: "Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy", chứ không phải ở các hành vi cử chỉ lỗi phạm đến điều răn Chúa, đến lương tâm, đến luật Giáo Hội v.v. Bởi vì, con người không có đức tin, sống như vô thần thì vẫn còn ở trong tối tăm, tức "ngồi trong tối tăm và bóng chết chóc" (xem Luca 1:79), bởi thế mới cần được "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12) chiếu soi.
Thánh Thần được sai đến để, qua Giáo Hội nói chung và các môn đệ của Chúa Kitô nói riêng, "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:13), soi chiếu thế gian "không tin vào Thày" bằng lời rao giảng, nhất là bằng chứng từ của một "người công chính sống bởi đức tin" (Roma 1:17; Galata 3:11; Do Thái 10:28): "Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy".
Một khi thế gian được soi chiếu bằng ánh sáng đức tin của Giáo Hội Chúa Kitô thì kể như "về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử", một xét xử đã xẩy ra ngay khi Chúa Kitô hoàn tất ơn cứu chuộc của Người ở biến cố Vượt Qua, và còn được xét xử cho tới tận thế bởi "quyền lực chiến thắng thế gian là đức tin của chúng ta" (1Gioan 5:4), một đức tin có tác dụng làm sáng tỏ Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) trong thế gian tăm tối gây ra bởi ma quỉ ngay từ ban đầu nơi nguyên tội.
Cho dù Chúa Giêsu có tỏ mình ra cho chung dân Do Thái cũng như cho riêng các tông đồ, không một ai trong họ có thể tự mình thấu hiểu và chấp nhận được, cho đến khi "Đấng Phù Trợ" tới. Và vì thế, tất cả những tội nhân và tội ác phạm đến Con Thiên Chúa Làm Người, đối với LTXC, chỉ là "lầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34), đáng tha thứ. Tuy nhiên, một khi "Đấng Phù Trợ" là "Thần Chân Lý" được Chúa Giêsu Thăng Thiên từ Cha sai đến "phù trợ" cho họ nhận biết "tất cả sự thật" (Gioan 16:13) là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai Cứu Thế của cả dân Do Thái lẫn loài người mà họ vẫn không tin thì họ phạm một tội "không thể tha thứ được" (Mathêu 12:30-32).
Tóm lại, "Khi Người đến, Người sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử", chúng ta có thể suy diễn tóm gọn câu chính yếu của Bài Phúc Âm hôm nay ấy về "Đấng Phù Trợ" được Chúa Giêsu hứa hẹn sai đến với Giáo Hội để "làm chứng cho Thày" trước thế gian ở ba khía cạnh chính yếu liên quan đến ba thành phần (thế gian, tông đồ và ma quỉ) như thế này:
"Ngài sẽ tố cáo thế gian" đây nghĩa là Ngài làm chứng về Chúa Kitô, làm cho thế gian nhận biết Chúa Kitô, như chính Chúa Kitô đã tỏ mình ra vào thời điểm lịch sử của Người nơi dân Do Thái bấy giờ, và còn được ghi nhận trong Thánh Kinh Tân Ước nói riêng và toàn bộ Kinh Thánh Kitô Giáo nói chung, cũng như được rao giảng và chứng thực nơi Giáo Hội của Người, để rồi "ai không tin vào Thầy" thì sẽ ở trong tình trạng "tội lỗi", trái lại, những ai tin tưởng chấp nhận, như các tông đồ và thành phần môn đệ chân chính của Chúa Kitô dọc suốt dòng thời gian lịch sử của Giáo Hội, thì được trở nên "công chính", còn "thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử" rồi, vì Con Khủng Long ngay từ đầu ở trên trời đã ngang nhiên chống lại ý định nhập thể của Thiên Chúa (xem Khải Huyền 12:4), một đệ nhất thần khi bị mất chỗ đứng của mình và rơi xuống đất, nghĩa là đã bị "án phạt" và đã trở thành Satan, vẫn tiếp tục xui giục "thế gian" không tin tưởng Thiên Chúa, không chấp nhận ơn cứu độ của Ngài nơi Chúa Giêsu Kitô được chứng thực bởi Thánh Thần là Thần Chân Lý.
Bài Đọc 1 (Tông
Vụ 16:22-34)
Sự
hiện diện thần linh bao giờ cũng có tác dụng thần linh. Đúng thế, đúng như lời
Chúa Kitô báo trước cho các tông đồ về Đấng Phù Trợ trong bài phúc âm hôm
nay, Đấng
"sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt".
Trước hết
"về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy",
như sự kiện xẩy ra trong bài đọc 1 hôm nay, đó là
"trong những ngày ấy, dân thành Philipphê xúm lại chống đối Phaolô và Sila; các
nhà chức trách cho người xé áo choàng các ngài, và ra lệnh đánh đòn. Khi đã đánh
các ngài nhừ tử, họ cho tống ngục, và truyền cho viên canh ngục canh giữ cẩn
thận. Ðược lệnh như thế, viên cai ngục giam các ngài vào ngục sâu nhất, và còng
chân các ngài lại", ấy
thế mà Thánh
Phaolô và Sila vẫn được giải cứu nhờ
"một cuộc động đất lớn, làm rung chuyển cả nền móng ngục thất".
Sau
nữa
"về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy",
một
sự công chính được thể hiện nơi các chứng nhân của Chúa Kitô trong bài đọc 1 hôm
nay, ở chỗ, cho dù bị giam nhốt trong một mật thất chắc ăn nhất,
"đến nửa đêm" các
vị vẫn
"cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa",
và
nhất là tỏ ra khoan dung với chính
"viên cai ngục... rút gươm toan tự tử",
bằng
cách đã can ngăn anh: "Anh
chớ hại mình, vì chúng tôi còn tất cả ở đây".
Sau
hết,
"về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử", ở
chỗ, cho dù hắn có lồng lên kịch liệt tấn công để triệt hạ cho bằng được thành
phần chứng nhân của Chúa Kitô, hắn chẳng những không làm hại được các vị, trái
lại, chính những thành phần tay sai loài người của hắn còn bị chinh phục ngược
lại, như trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy, qua trường hợp của viên cai ngục cùng
gia đình của viên chức thành tâm này: "'Thưa
các ngài, tôi phải làm gì để được cứu thoát?' Hai ngài đáp: 'Hãy tin vào Chúa
Giêsu, thì anh và cả nhà anh sẽ được cứu độ'".
"Trong những ngày ấy, dân thành Philipphê xúm lại chống đối Phaolô và Sila; các
nhà chức trách cho người xé áo choàng các ngài, và ra lệnh đánh đòn. Khi đã đánh
các ngài nhừ tử, họ cho tống ngục, và truyền cho viên canh ngục canh giữ cẩn
thận. Ðược lệnh như thế, viên cai ngục giam các ngài vào ngục sâu nhất, và còng
chân các ngài lại. Ðến nửa đêm, Phaolô và Sila cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa;
các tù nhân đều lắng nghe các ngài. Bỗng xảy ra một cuộc động đất lớn, làm rung
chuyển cả nền móng ngục thất. Tức khắc mọi cửa đều mở tung, và xiềng xích mọi tù
nhân đều rơi xuống. Viên cai ngục giật mình thức dậy, thấy các cửa ngục mở tung,
thì rút gươm toan tự vẫn, vì tưởng những người bị xiềng đã tẩu thoát. Nhưng
Phaolô kêu lớn tiếng rằng: 'Anh chớ hại mình, vì chúng tôi còn tất cả ở đây'.
Viên cai ngục gọi lấy đèn, rồi chạy vào tù, và run rẩy sấp mình dưới chân Phaolô
và Sila; đoạn dẫn hai ngài ra ngoài và nói: 'Thưa các ngài, tôi phải làm gì để
được cứu thoát?' Hai ngài đáp: 'Hãy tin vào Chúa Giêsu, thì anh và cả nhà anh sẽ
được cứu độ'. Hai ngài giảng dạy lời Chúa cho anh và mọi người trong nhà. Ngay
lúc đó, giữa ban đêm, viên cai ngục đem hai ngài đi, rửa vết thương, và lập tức
anh ta được chịu phép rửa cùng với tất cả người nhà. Rồi anh đưa hai ngài lên
nhà, dọn bàn ăn. Anh và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa".
Thánh AUGUSTINÔ CANTURBERY
Giám mục (+605)
Thánh Augustinô là tác nhân của một con người vĩ đại hơn chính Ngài, đức giáo hoàng Grêgôriô Cả, trừ các tu sĩ Ai Nhĩ Lan, hoạt động truyền giáo không hề được biết đến tại Giáo hội Tây Pbương và chính Đức giáo hoàng Grêgôriô Cả làm sống lại phong trào này.
Khi làm bề trên tu viện thánh ANRÊ, Ngài đã muốn sang truyền giáo tại Anh, nhưng vì được đắc cử giáo hoàng, nên phải từ bỏ ý định. Nước Anh đã được đón nhận đức tin từ thế kỷ đầu, nhưng rồi cuộc xâm chiếm của dân Saxon vào thế kỷ V và VI đã làm cho đức tin công giáo bị phai mờ.
Dịp may đưa tới khi Ethebert, tiểu vương miền Kent phía nam nước Anh thành hôn với người vợ công giáo là công chúa Berthe và còn tiếp nhận một giám mục xứ Gaule vào triều đình. Năm 596 Đức giáo hoàng Grêgoriô sai tới Anh quốc một tu sĩ, Augustinô lên đường với 40 tu sĩ. Khi tới miền nam xứ Gaule họ bị khủng hoảng và sai Augstinô trở về Rôma xin Đức giáo hoàng gọi họ trở về. Đáp lại, Đức giáo hoàng đã đặt Augustinô làm Đan viện phụ và bắt mọi người trong nhóm phải vâng phục Ngài.
Với quyền hạn này, Augustinô vẫn còn truyền giáo tới đảo Thanet. Thoạt đầu, Ethebert được rửa tội và bàn định với Đức Giáo hoàng một dự án chuẩn bị tái lập toà Giám mục tự Canterbury (Cantuariô) tới Lôn - Đôn (Luân Đôn) và thiết lập một giáo tỉnh khác ở York.
Theo chỉ thị của Đức Giáo hoàng, Augustinô đi Arles để thụ phong giám mục do tay Đức Tổng giám mục Vigile, đại diện tòa thánh ở xứ Gaule, nhiều biến cố dù ngăn trở những dự tính trên. Nhưng diễn tiến trong cuộc truyên giáo vẫn tiếp tục cho tới khi thánh Augustinô qua đời khoảng năm 605.
Thất bại duy nhất của thánh Augustinô khi Ngài tới nước Anh vì nỗ lực giải hoà với các Kitô hữu miền Welsh nhằm thuyết phục họ nhận cách tính ngày lễ phục sinh của Roma, sửa lại vài điều bất thường trong nghi lễ và phục quyền Ngài. Thánh Augustinô mời các vị lãnh đạo Giáo hội Welsh tới họp, nhưng lại gây cảm giác bất lợi vì Ngài đã ngồi yên khi họ tới gặp Ngài. Hình như việc này cũng làm cho thánh Bêđa mất thiện cảm nữa.
Thánh Augustinô không phải là một nhà truyền giáo anh hùng nhất, khéo léo nhất. Nhưng Ngài đã thực hiện một công cuộc vĩ đại, là một trong số rất ít người ở Gaule và ở Ý thời đó sẵn sàng tử bỏ mọi sự để ra đi rao giảng : Tin Mừng cho những miền xa xăm.
https://www.giaophanbaria.org/hanhcacthanh/theovetchannguoi05.htm#25
https://yeuthuongphucvu.com/2019/05/26/thanh-augustino-canterbury-giam-muc-605-ngay-27-5/
Vào năm 597, một nhóm đan sĩ 40 người khởi hành từ Rôma đi truyền giáo cho người Anglo-Saxon ở Anh. Dẫn đầu là Augustinô, bề trên đan viện Thánh Anrê ở Rôma. Nhưng khi đến Gaul (Pháp) họ nghe những câu chuyện dã man về người Anglo-Saxon cũng như sự nguy hiểm của các luồng nước ở eo biển, họ quay trở về Rôma và gặp vị giáo hoàng đã sai họ đi – Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô Cả – và đức giáo hoàng cho biết sự lo sợ của họ thì vô căn cứ. Trong một lá thư gửi cho Thánh Augustinô, Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả viết: “Ai muốn trèo ngọn núi cao thì phải đi từng bước, chứ đừng có nhảy.”
Augustinô lại ra đi một lần nữa, và lần này cả nhóm đã vượt qua eo biển và cập bến đất Kent thuộc Vua Ethelbert, là người ngoại giáo kết hôn với một Kitô Hữu, bà Bertha, công chúa nước Pháp. Vua Ethelbert tiếp đón họ nồng hậu, thiết lập cho họ nơi cư trú ở Cantơbery và trong năm ấy, vào Chúa Nhật Hiện Xuống năm 597, chính nhà vua đã được rửa tội.
Sau khi được tấn phong làm giám mục ở Gaul, Pháp bởi Đức Cha xứ Arles – Tổng Giám Mục tiên khởi của Cantơbery, nước Anh. Augustinô trở lại Cantơbery, là nơi ngài thiết lập giáo phận và khởi công xây dựng vương cung thánh đường. Khi số tín hữu ngày càng gia tăng, các giáo phận khác được ngài mở thêm ở Luân Ðôn và Rochester.
Cuộc đời Augustinô cũng gặp nhiều thất bại. Những cố gắng hòa giải giữa người Kitô Anglo-Saxon và Kitô Hữu Briton bản xứ đã chấm dứt trong thất bại đau buồn. Augustinô cũng không thuyết phục được người Briton từ bỏ một số phong tục khác biệt với Rôma và quên đi những cay đắng để giúp ngài phúc âm hóa người Anglo-Saxon, là kẻ xâm lăng đã dồn người Briton về miền tây.
Sau những thất bại, Augustinô đã khôn ngoan hơn để ý đến các nguyên tắc truyền giáo – đối với thời bấy giờ thật sáng suốt mà Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đề nghị: Hãy thanh tẩy thay vì tàn phá các đền thờ và các phong tục ngoại giáo; hãy du nhập các nghi thức và ngày lễ của người ngoại giáo vào ngày lễ Kitô Giáo; duy trì các truyền thống địa phương càng nhiều càng tốt.
Sau tám năm đến Anh, sự thành công của ngài tuy hạn hẹp nhưng sau này đã đem lại kết quả tốt đẹp là cả nước Anh đã tòng giáo. Quả thật, Thánh Augustinô đáng được gọi là “Tông Ðồ của Anh Quốc”.
Ngài qua đời ngày 26 tháng 5 năm 604 tại Cantơbery, Anh Quốc. Ngài được mai táng trong nhà thờ chính tòa Thánh Phêrô và Phaolô ở Cantơbery, ngôi thánh đường ngài đã xây dựng.
https://dongten.net/2019/05/26/hanh-cac-thanh-27-05-thanh-augustine-o-canterbury/
http://giaoxutanviet.com/ngay-275-thanh-augustino-canterbury-giam-muc-qua-doi-nam-605/
Thánh Augustinô là tu sĩ dòng thánh Anrê ở Rôma, Giám mục tiên khởi của giáo phận Canterbury, Anh Quốc. Sau 8 năm coi sóc giáo phận, ngài đã đưa nhiều người trở thành tín hữu Công giáo bằng cách duy trì, thăng hoa nhiều phong tục tập quán và các lễ hội của người dân địa phương cho phù hợp với niềm tin tôn giáo. Vì lẽ đó, ngài được gọi là Tông đồ của Anh Quốc.
Năm 596, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả sai ngài cùng với ba mươi nhà truyền giáo đến rao giảng Tin Mừng ở Anh Quốc. Khi các ngài đặt chân đến Kent, vua Ethebert nghĩ rằng các ngài có thần chú và ma lực, mà những phép thuật này sẽ vô hiệu lực khi ở ngoài trời. Vì thế, vua đã tiếp các nhà truyền giáo dưới gốc cây sồi ở ngoài trời. Sau đó, vua nhận thấy thiện chí của các ngài nên cấp cho một phần đất ở địa hạt Canterbury và cho phép họ tự do đi lại khắp nơi để rao giảng. Sau một thời gian ngắn hoạt động, có hàng ngàn người dân đón nhận Tin Mừng và chính nhà vua cũng xin được rửa tội vào ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 597.
Sau khi được tấn phong Giám mục ở Pháp, Ðức Giám mục Augustinô trở lại Canterbury, là nơi ngài thiết lập giáo phận và khởi công xây dựng Vương Cung Thánh Đường. Khi số tín hữu ngày càng gia tăng, ngài mở thêm các giáo phận khác ở Luân Ðôn và Rochester.
Các nhà truyền giáo này luôn liên lạc với Đức Giáo Hoàng và làm theo chỉ dẫn của ngài là “Muốn trèo lên tới đỉnh cao thì phải leo từng bước chứ không được nhảy”. Thánh Augustinô và các nhà truyền giáo không dẹp bỏ các đền thờ của dân ngoại nhưng tìm cách biến nó thành nơi thờ phượng Thiên Chúa. Các ngài cũng giữ những phong tục tập quán của địa phương khi có thể và các lễ hội của dân ngoại cũng được thay thế bằng lễ kính các thánh.
Thánh Augustinô qua đời vào ngày 26.5.605, kể từ đó thánh nhân được tôn kính như là vị Tông đồ của Anh Quốc.
http://www.cgvdt.vn/lich-cong-giao/thanh-augustino-thanh-canterbury_a5112
Thứ Tư sau Chúa Nhật VI Phục Sinh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 17, 15. 22 - 18,1
"Ðấng quý vị thờ mà không nhận biết, thì tôi xin loan báo Người cho quý vị".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, nhừng người tháp tùng Phaolô, dẫn đưa ngài cho đến Athêna; và khi đã nhận lệnh ngài truyền cho Sila và Timôthêu đến gặp ngài lập tức, họ liền ra đi.
Bấy giờ Phaolô đứng giữa đồi Arêôpagô mà nói: "Kính thưa quý vị người Athêna, tôi nhận thấy quý vị rất sùng tín về mọi mặt. Vì khi đi ngang qua, nhìn các tượng thần của quý vị, tôi cũng thấy một bàn thờ có ghi chữ: "Kính Thần vô danh". Vậy Ðấng quý vị thờ mà không nhận biết, thì tôi xin loan báo Người cho quý vị. Thiên Chúa, Ðấng đã tác tạo vũ trụ và vạn vật trong vũ trụ, Người là Chúa trời đất, nên không ngự nơi đền thờ do tay người phàm làm ra. Người cũng không cần bàn tay người phàm phụng sự như thể thiếu thốn điều gì, vì chính Người ban cho mọi người sự sống, hơi thở và hết mọi sự. Người đã làm cho toàn thể loài người từ một nguyên tổ lan tràn khắp mặt đất. Người phân định thời hạn rõ rệt và biên giới chỗ họ ở, để họ tìm thấy Thiên Chúa nếu họ cố gắng dò dẫm tìm gặp Người, vì thật ra Người không ở xa mỗi người chúng ta. Vì chưng ta sống, ta cử động và ta hiện hữu trong Người, như có mấy thi sĩ của quý vị đã nói: "Chúng ta thuộc tông giống Người". Vậy bởi chúng ta là dòng giống của Thiên Chúa, chúng ta không được nghĩ rằng Thần Linh giống như vàng, hoặc bạc, hay đá do nghệ thuật chạm trổ và suy tưởng của con người làm ra. Thiên Chúa không chấp những thời gian mê muội đó, nay Người loan báo cho nhân loại nhận biết để mọi người khắp nơi ăn năn hối cải, vì Người đã quy định ngày Người sẽ xét xử vũ trụ cách công minh, do Ðấng Người đã chỉ định và cho Ðấng ấy từ cõi chết sống lại để mọi người tin".
Khi họ nghe nói kẻ chết sống lại, thì có kẻ nhạo cười, có người lại nói rằng: "Ðể khi khác, chúng tôi sẽ nghe ông nói lại về điều đó". Thế là Phaolô bỏ họ ra đi. Nhưng cũng có vài người theo và tin ngài, trong số đó có Ðiônysiô nhân viên thuộc Arêôpagô, một phụ nữ tên Ðamari và mấy người khác nữa. Sau đó, Phaolô rời Athêna đi Côrintô.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 148, 1-2. 11-12ab. 12c-14a. 14bcd
Ðáp: Trời đất đầy vinh quang của Chúa.
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa từ muôn cõi trời, hãy ca tụng Người trên nơi cao thẳm. Các thiên thần Chúa, hãy ca tụng Người đi, ca tụng Người đi, hỡi các đạo thiên binh. - Ðáp.
2) Quân vương địa cầu và tất cả chư dân, quan chức và các vị chính quyền trên cõi đất, các thanh niên và cả những cô gái tân, những ông cụ già với đoàn con trẻ. - Ðáp.
3) Họ hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người siêu phàm, độc nhất, oai nghiêm. Người tràn lan trên trời dưới đất, và Người nâng cao quyền thế dân Người. - Ðáp.
4) Dân Người là đề tài ca tụng cho mọi tín hữu, cho hết thảy con cái Israel, dân tộc sống gần gũi với Người. - Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 7 và 13
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ sai Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16, 12-15
"Thần Chân lý sẽ dạy các con biết tất cả sự thật".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con. Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: "Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Chiều kích Hiện Diện Thần Linh cho Tuần VI Phục Sinh tiếp tục liên quan đến
Thánh Linh trong bài Phúc Âm Thứ Tư hôm nay. Ở chỗ, nhờ sự hiện diện thần linh
của Ngài, trong khi thế gian được Ngài làm sáng tỏ cho thấy những gì là tội lỗi,
công chính và hình phạt, các vị được Ngài "dẫn vào tất cả sự thật", nghĩa
là được thông hiểu tất cả những gì Chúa Kitô đã mạc khải cho các vị và dạy dỗ
các vị khi Người còn ở bên các vị và ở với các vị bằng xương bằng thịt, nhưng
bấy giờ các vị chưa sâu xa cảm nhận và thấu hiểu, vì chưa có được chính Thần
Linh thông biết của Người.
"Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Thầy còn nhiều điều phải nói với các
con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân lý đến, Người
sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người
nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai.
Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền
cho các con. Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: 'Người
sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con'".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô còn tỏ cho chúng ta thấy Mầu Nhiệm Ba Ngôi,
về mối Liên Hệ Thần Linh nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Ở chỗ:
"Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: 'Người sẽ lãnh
nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con'".
Trước hết là mối liên hệ thần linh giữa Ngôi Cha và Ngôi Con: "tất
cả những gì Cha có, đều là của Thầy"
tức Chúa Kitô là
"hiện thân bản thể Cha" (Do Thái 1:3) - "Cha yêu Con và đã ban hết mọi sự cho
Con" (Gioan 3:35);
Cha thực sự ở nơi Người và tỏ mình ra qua Người là Đấng
"tỏ Cha ra" (Gioan 1:18),
cho đến độ
"Cha và Ta là một" (Gioan 10:30) để "ai
thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9).
Sau
nữa là mối liên hệ thần linh giữa Cha và Con với Thánh Thần: "Người
sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con",
nghĩa là Thánh Thần chẳng những bởi Cha mà còn
"bởi
Con mà ra"
như
Kinh Tin Kính của Giáo Hội Công Giáo vẫn tuyên xưng, và Vị "Thần
Chân Lý"
là
Nội Tâm của Thiên Chúa này (xem 1Corintô 2:10), là chính Liên Hệ Thần Linh
giữa Ngôi Cha và Ngôi Con ấy, truyền đạt cho các tông đồ nói riêng và Giáo Hội
nói chung chính Chúa Kitô là tất cả mạc khải thần linh về Thiên Chúa và của
Thiên Chúa, tức là làm cho Giáo Hội được hoàn toàn hiệp thông thần linh với Chúa
Kitô:
"như
Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha"
(Gioan 17:21).
Căn cứ vào nguyên tắc này, một nguyên tắc liên hệ mật thiết giữa Chúa Kitô và Thánh Thần như thế, có thể nói rằng việc đặt tay chữa lành và nói tiếng lạ chẳng ai hiểu gì không xuất phát từ Thánh Linh và không phải của Thánh Linh, vì chẳng bao giờ thấy Chúa Kitô trong các Phúc Âm đặt tay ngã lăn quay (và luôn cần phải có người đỡ đằng sau cho "nạn nhân" khỏi ngã) mới có thể chữa lành hay chẳng bao giờ thấy Người nói tiếng lạ chẳng ai hiểu gì.
Có thể đặt vấn đề với những ai có thể đặt tay ngã lăn quay lẫn người cho rằng mình được chữa lành nhờ đặt tay, về cả thực tế liên quan đến hiện tượng Thánh Linh lẫn nguyên tắc liên quan đến thực tại Thánh Linh như sau:
Về hiện tượng Thánh Linh: 1- Hiện tượng đặt tay ngã lăn quay bởi đâu, bởi Thánh Linh hay bởi loài người hoặc bởi ma quỉ? 2- Nếu bởi Thánh Linh thì từ người đặt tay hay từ người được đặt tay? 3- Nếu từ người đặt tay thì tại sao các vị giám mục đặt tay truyền chức linh mục các vị phó tế không ngã lăn quay - như thế thì chẳng nhẽ việc truyền chức linh mục không thành, bởi Thánh Thần không xuống trên các vị thụ phong; nếu Thánh Linh từ người được đặt tay chứ không phải từ người đặt tay thì các vị phó tế tự phong chức linh mục cho mình, chẳng cần đến các vị đặt tay mà không có Thánh Linh?
Về thực tại Thánh Linh: 1- Thánh Linh từ đâu đến? 2- Thánh Linh được sai đến để làm gì? 3- Nếu Thánh Linh từ Cha mà đến và để làm chứng cho Chúa Kitô, mà Chúa Kitô không hề chữa lành bằng cách đặt tay ngã lăn quay và cần có người đỡ lưng cho khỏi té ngã, thì việc đặt tay ngã lăn quay không từ Thánh Linh và bởi Thánh Linh. Chính Chúa Kitô đã đặt tay trên các em bé nhưng chẳng có em nào ngã...! Vậy thì một là Người không có Thánh Linh hay là các em nhỏ không có Thánh Linh??? Ai dám cam đoan rằng mình đặt tay lên đầu Đức Giáo Hoàng thì ngài chắc chắn ngã lăn quay hay chăng?
Mới đây hiện tượng chữa lành bằng cách đặt tay ngã lăn quay lại còn có tính
cách Lòng Thương Xót Chúa nữa, cho nó có vẻ chính đáng hơn. Tuy nhiên, hai
vị Thánh tiêu biểu nhất của Lòng Thương Xót Chúa là Thánh Faustina và Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II không hề chữa lành bằng cách đặt tay ngã lăn quay
như thế. Trái lại, các vị chỉ chữa lành bằng cách chịu đựng khổ đau để cứu
các linh hồn về phần thiêng liêng mà thôi.
Bài Đọc 1 (Tông
Vụ 17:15,22 - 18:1)
Chính nhờ Hiện Diện Thần Linh của Thần Chân Lý mà vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã
tỏ ra hết sức khôn ngoan trong bài giảng ở thủ đô của một đất nước có thể nói là
văn minh nhất về tri thức bấy giờ đó là Hy Lạp, đến độ bài giảng này và đường
lối của ngài diễn giải là mô phạm cho tính cách truyền bá phúc âm hóa của Giáo
Hội và cho Giáo Hội. Ở chỗ, không đả phá, trái lại, còn biết lợi dụng chính
những yếu tố được coi là mầm mống thần linh nơi tâm thức và văn hóa của con
người, trong trường hợp của bài đọc 1 hôm nay là vị
"Thần vô danh" để
có thể phúc âm hóa, để hướng họ về
"tất cả sự thật",
về Vị "Thiên
Chúa, Ðấng đã tác tạo vũ trụ và vạn vật trong vũ trụ",
rồi từ đó, từ nguyên lý chung hợp với tâm thức của chung nhân loại ấy,
ngài đã dẫn thành phần thính giả luôn tìm kiếm sự khôn ngoan, (như Người Do Thái
tìm kiếm dấu lạ), đến Chúa Kitô Cứu Thế,
"Ðấng từ cõi chết sống lại để mọi người tin".
"Bấy
giờ Phaolô đứng giữa đồi Arêôpagô mà nói: 'Kính thưa quý vị người Athêna, tôi
nhận thấy quý vị rất sùng tín về mọi mặt. Vì khi đi ngang qua, nhìn các tượng
thần của quý vị, tôi cũng thấy một bàn thờ có ghi chữ: Kính Thần vô danh. Vậy
Ðấng quý vị thờ mà không nhận biết, thì tôi xin loan báo Người cho quý vị. Thiên
Chúa, Ðấng đã tác tạo vũ trụ và vạn vật trong vũ trụ, Người là Chúa trời đất,
nên không ngự nơi đền thờ do tay người phàm làm ra. Người cũng không cần bàn tay
người phàm phụng sự như thể thiếu thốn điều gì, vì chính Người ban cho mọi người
sự sống, hơi thở và hết mọi sự. Người đã làm cho toàn thể loài người từ một
nguyên tổ lan tràn khắp mặt đất. Người phân định thời hạn rõ rệt và biên giới
chỗ họ ở, để họ tìm thấy Thiên Chúa nếu họ cố gắng dò dẫm tìm gặp Người, vì thật
ra Người không ở xa mỗi người chúng ta. Vì chưng ta sống, ta cử động và ta hiện
hữu trong Người, như có mấy thi sĩ của quý vị đã nói: 'Chúng ta thuộc tông giống
Người'. Vậy bởi chúng ta là dòng giống của Thiên Chúa, chúng ta không được nghĩ
rằng Thần Linh giống như vàng, hoặc bạc, hay đá do nghệ thuật chạm trổ và suy
tưởng của con người làm ra. Thiên Chúa không chấp những thời gian mê muội đó,
nay Người loan báo cho nhân loại nhận biết để mọi người khắp nơi ăn năn hối cải,
vì Người đã quy định ngày Người sẽ xét xử vũ trụ cách công minh, do Ðấng Người
đã chỉ định và cho Ðấng ấy từ cõi chết sống lại để mọi người tin".
Tuy
nhiên, cho dù đường lối truyền bá phúc âm hóa của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô
thật là tuyệt hảo như thế vẫn không hoàn toàn gây tác hiệu thần linh nơi hầu
hết thính giả của ngài, ngoại trừ
"có vài người theo và tin ngài, trong số đó có Ðiônysiô nhân viên thuộc
Arêôpagô, một phụ nữ tên Ðamari và mấy người khác nữa". Tại
sao thế? Nếu không phải tại thành phần thính giả này chưa được chính tác nhân
thần linh là
"Thần Chân lý ... dẫn vào tất cả sự thật"
như
"vài
người"
trong họ. Tuy nhiên, họ cũng vẫn còn thiện chí:
"Ðể khi khác, chúng tôi sẽ nghe ông nói lại về điều đó",
nhờ đó, vào một lúc nào đó, họ sẽ nhận biết chân lý và chân lý sẽ giải phóng họ
(xem Gioan 8:32).
Thứ Năm sau Chúa Nhật VI Phục Sinh
Hôm nay đúng 40 ngày sau Phục Sinh là Lễ Trọng Chúa Giêsu Thăng Thiên và là Lễ Buộc.
Xin xem phần chia sẻ dưới đây ngay sau Thứ Bảy tuần này, nếu ở đâu cử hành đúng ngày.
Bởi thế cho nên ở đây chúng ta vẫn tiếp tục phụng vụ Lời Chúa cho ngày Thứ Năm trong Tuần VI Phục Sinh liên tục như thường.
Nơi
đâu cử hành Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên thì xin theo dõi PVLC ở phần cuối
cùng.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 18, 1-8
"Ngài cư trú và làm việc tại nhà họ, và giảng trong hội đường".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô rời Athêna đi Côrintô; ngài gặp một người Do-thái tên là Aquila, quê ở Pontô, vừa từ đất Ý-đại-lợi đến làm một với vợ là Priscilla (bởi vì vua Clauđiô đã ra lệnh trục xuất mọi người Do-thái khỏi Roma); Phaolô đến gặp họ. Và vì chung một nghề, nên ngài cư trú và làm việc tại nhà họ: họ làm nghề dệt bố để làm nhà lều. Mỗi ngày Sabbat, ngài đến tranh luận tại hội đường, nêu danh Chúa Giêsu, thuyết phục người Do-thái và Hy-lạp.
Khi Sila và Timôthêu từ Macêđônia đến, Phaolô chỉ chuyên lo việc giảng dạy, minh chứng cho người Do-thái biết Chúa Giêsu là Ðức Kitô. Nhưng họ công kích và lăng mạ Ngài, nên ngài dũ áo nói với họ: "Máu các ngươi đổ trên đầu các ngươi. Phần tôi, tôi vô can, từ đây, tôi sẽ đến với dân ngoại".
Ngài ra khỏi chỗ đó, vào nhà một người kia tên là Titô Giustô có lòng kính sợ Chúa, nhà ông ở bên cạnh hội đường. Bấy giờ Crispô trưởng hội đường, và cả nhà ông tin theo Chúa; nhiều người Corintô nghe giảng, cũng tin theo và chịu phép rửa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (c. 2b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 28
Alleluia, alleluia! - Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian; bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng Cha. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16, 16-20
"Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha".
Bấy giờ trong các môn đệ có mấy người hỏi nhau: "Ðiều Người nói với chúng ta: "Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy", và "Vì Thầy về cùng Cha", như thế có ý nghĩa gì?" Họ nói: "Lời Người nói 'Một ít nữa' có ý nghĩa gì? Chúng ta không biết Người muốn nói gì?"
Chúa Giêsu nhận thấy họ muốn hỏi Người, nên Người bảo họ: "Các con hỏi nhau vì Thầy đã nói: Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy. Thật, Thầy bảo thật với các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu; nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Sự
Hiện Diện Thần Linh là những gì bất khả thiếu đức tin, vì chỉ có đức tin mới có
thể cảm nhận được sự hiện diện thần linh mà thôi, cho dù là trong những lúc đau
thương khốn khó nhất. Đó là lý do trong bài Phúc Âm cho Thứ Năm của Tuần VI Phục
Sinh này, một bài Phúc Âm cũng rất thích hợp với ý nghĩa của biến cố Chúa Giêsu
Thăng Thiên hôm nay, Chúa Giêsu mới nói đến một tình trạng rất ư là khó hiểu đối
với tâm thức tự nhiên của các tông đồ: "Ít lâu
nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy
Thầy".
"'Ít
lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy
Thầy.' Bấy giờ vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giê-su hỏi nhau: 'Người muốn
nói gì khi bảo chúng ta: Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu
nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy và Thầy đến cùng Chúa Cha?' Vậy các ông nói: 'Ít
lâu nữa' nghĩa là gì? Chúng ta không hiểu Người nói gì!' Đức Giê-su biết là các
ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông: 'Anh em bàn luận với nhau về lời Thầy nói:
Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy
Thầy. Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian
sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm
vui'".
Chúa Giêsu tuy không trực tiếp trả lời cho những gì các vị thắc mắc về vấn đề
thời gian
'ít lâu nữa' các vị
'không thấy Thày' rồi lại
'thấy Thày', nhưng
Người đã
trấn an các vị và khẳng định cho các vị thấy một dấu hiệu Người vẫn ở với các
vị, sẽ hiện diện thần linh nơi các vị, ở chỗ, đó là cho dù các vị
"sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui
mừng", cuối cùng các vị chẳng
những không cảm thấy chán nản bỏ cuộc, trái lại, chính
"nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui"
nơi các
vị, như đã từng xẩy ra thực sự
nơi hai Tông Đồ Phêrô và Gioan sau khi bị đánh đòn và thả về:
"Họ
cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức
Giê-su, rồi thả các ông ra. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan
bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su". (Tông
Vụ 5:40-41).
Bài Đọc 1 (Tông
Vụ 18:1-8)
Nếu
nhờ sự hiện diện thần linh của Chúa Kitô bởi
Thánh Thần của Người nơi các tông đồ mà "anh
em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng
nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui",
thì đã quả thực xẩy ra nơi
trường hợp của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong bài đọc 1 hôm nay. Ở chỗ, vị
tông đồ này bị chống đối bởi chính đồng hương và đồng đạo của mình, thật là đắng
cay chua xót, như chính lời ngài thẳng thắn ngỏ cùng họ trong bài đọc 1 hôm nay.
Tuy nhiên, nỗi xót xa cay đắng khổ tâm gây ra cho ngài bởi chính dân của
ngài ấy đã trở thành niềm vui trong ngài khi ngài thấy tác động thần linh đã tỏ
hiện lạ lùng nơi một gia đình
"dân ngoại tôn thờ Thiên Chúa" cũng như nơi nhiều người dân ngoại khác ở
"Corinto":
"Khi
ông Xi-la và ông Ti-mô-thê từ Ma-kê-đô-ni-a xuống, thì ông Phao-lô chỉ lo giảng,
long trọng làm chứng cho người Do-thái biết rằng Đức Giê-su chính là Đấng
Ki-tô. Bởi họ chống đối và nói lộng ngôn, nên ông giũ áo mà bảo họ: 'Máu các
người cứ đổ xuống trên đầu các người! Phần tôi, tôi vô can; từ nay trở đi, tôi
sẽ đến với người ngoại'. Ông rời bỏ chỗ ấy đến nhà một người ngoại tôn thờ Thiên
Chúa, tên là Ti-xi-ô Giút-tô, ở sát bên hội đường. Ông Cơ-rít-pô, trưởng hội
đường, tin Chúa, cùng với cả nhà. Nhiều người Cô-rin-tô đã nghe ông Phao-lô
giảng cũng tin theo và chịu phép rửa".
Thứ Sáu sau Chúa Nhật VI Phục Sinh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 18, 9-18
"Trong thành này, Ta có một dân đông đảo".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
(Khi Phaolô đang ở Côrintô), một đêm kia, Chúa hiện ra phán bảo Phaolô trong một thị kiến rằng: "Con đừng sợ, cứ giảng dạy, chứ đừng làm thinh; vì Ta ở cùng con, và không ai tra tay làm hại con, vì trong thành này, Ta có một dân đông đảo". Phaolô ở lại đó một năm sáu tháng mà giảng dạy lời Chúa cho họ.
(Ðến) thời Galliô làm tổng trấn xứ Akaia, người Do-thái đồng lòng nổi lên chống Phaolô và điệu ngài đến toà án mà thưa rằng: "Người này xui dân tôn thờ Thiên Chúa trái luật". Phaolô toan mở miệng, thì Galliô nói với người Do-thái rằng: "Hỡi người Do-thái, nếu quả thật là điều chi tội ác, ta sẽ có lý mà nghe các ngươi; nhược bằng chỉ là những tranh luận về đạo lý, danh từ và lề luật, thì các ngươi hãy liệu lấy; ta không muốn xử các việc ấy". Rồi ông đuổi họ ra khỏi toà án. Mọi người liền bắt Sosthênê, trưởng hội đường, và đánh đập ông ta trước toà án, thế mà Galliô cũng chẳng lưu tâm gì đến. Còn Phaolô thì lưu lại đó nhiều ngày, rồi từ giã anh em, xuống tàu đi Syria (với Priscilla và Aquila); tại Cenchri, ngài cạo trọc đầu, vì ngài đã khấn như thế.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 46, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần gian (c. 8a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hết thảy chư dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Ðấng Tối cao, khả uý, Người là Ðại Ðế trên khắp trần gian. - Ðáp.
2) Người bắt các dân tùng phục chúng tôi, và đặt chư quốc dưới chân chúng tôi. Người đã chọn cho chúng tôi phần gia sản, vinh dự của Giacob mà Người sủng ái. - Ðáp.
3) Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang. Hãy ca mừng, ca mừng Thiên Chúa, hãy ca mừng, ca mừng Vua của chúng ta. - Ðáp.
Alleluia: Cl 3, 1
Alleluia, alleluia! - Nếu anh em sống lại làm một với Ðức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự cao siêu trên trời, nơi Ðức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16, 20-23a
"Niềm vui của các con không ai sẽ lấy mất được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui. Người đàn bà khi sinh con thì lo buồn, vì giờ đã đến, nhưng khi đã sinh con rồi, thì bà mừng rỡ, không còn nhớ đến cơn đau, bởi vì đã có một người sinh ra đời. Các con cũng thế, bây giờ các con buồn phiền, nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và niềm vui của các con không ai sẽ lấy mất được. Và trong ngày đó các con sẽ không còn hỏi Thầy điều gì nữa".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Chiều
kích hiện diện thần linh trong chủ đề
"Thày là sự sống" cho Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh càng tỏ hiện
trong bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần VI Phục Sinh hôm nay. Ở chỗ, "Thầy
sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng", đến độ họ chỉ biết ngây
ngất hoan hưởng sự hiện diện thần linh lạ lùng ấy không còn nói lên lời: "Và
trong ngày đó các con sẽ không còn hỏi Thầy điều gì nữa".
"Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Thật, Thầy bảo thật các con: các con
sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi
buồn của các con sẽ trở thành niềm vui. Người đàn bà khi sinh con thì lo buồn,
vì giờ đã đến, nhưng khi đã sinh con rồi, thì bà mừng rỡ, không còn nhớ đến cơn
đau, bởi vì đã có một người sinh ra đời. Các con cũng thế, bây giờ các con buồn
phiền, nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và niềm vui
của các con không ai sẽ lấy mất được. Và trong ngày đó các con sẽ không còn hỏi
Thầy điều gì nữa'".
Sự
hiện diện thần linh của Chúa Kitô nơi các tông đồ nói riêng và chung Giáo
Hội được chứng tỏ nơi 2 dấu hiệu: khổ đau và vui mừng, hay khổ đau để sinh hoa
kết trái, như người đàn bà quằn quại sinh con, hay như cành nho vì dính chặt với
thân nho đã sinh trái lại càng cần được cắt tỉa cho sai trái hơn (xem Gioan
15:2). Chính niềm vui hay hoa trái trổ sinh nơi tình trạng gian nan khốn khó của
Kitô hữu là những gì chứng tỏ đích thực nhất sự hiện diện thần linh của Chúa
Kitô nơi họ, như thân nho tràn đầy nhựa sống thần linh tuôn sang cho họ để họ
sinh hoa kết trái như Người mong muốn, xứng với quyền lực thần linh phục sinh
của Người (xem Mathêu 28:18).
Trong bài Phúc
Âm hôm nay còn chất chứa một hình ảnh về người đàn bà sinh con. Việc sinh
con có triệu chứng đớn đau. Và cơn đau đớn khi sinh con này bởi đâu mà có
ngay lúc bấy giờ, nếu không phải bởi chính đứa con, vai chính trong cuộc, đã
tới ngày giờ cần phải được sinh ra nên đòi ra, từ đó gây ra những biến động
co thắt nơi bụng dạ của người mẹ, khiến bà cảm thấy đau đớn.
Trong lãnh vực
siêu nhiên cũng thế. Mẹ Maria chịu đớn đau nhất vào lúc Chúa Giêsu bị lưỡi
đòng đâm vào cạnh sườn, và bấy giờ Người không còn đau nữa nhưng Mẹ Maria bị
nhói lên, đau cái đau của Người và đau cái đau thay Người, mà cái đau như
gươm sắc thâu qua lòng của Mẹ (xem Luca 2:35) bấy giờ không phải bởi lưỡi
đòng gây ra cho Mẹ mà là bởi chính Người Con yêu dấu của Mẹ bị đâm, tức là
chính Con Mẹ làm cho Mẹ đau, như thai nhi đạp bụng mẹ khiến mẹ đau để nó có
thể lọt lòng mẹ mình vậy.
Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, để có thể sinh Chúa Giêsu ra cho các
linh hồn, (hơn là hay cũng là sinh các linh hồn vào sự sống thần linh), linh
hồn nào cũng phải trải qua một cơn đau đớn khủng khiếp với Chúa Giêsu và như
Chúa Kitô Tử Giá, và chính cơn đau hiệp thông thần linh này là dấu hiệu cho
thấy tình trạng hiệp thông thần linh của Kitô hữu lên đến tột đỉnh, đến độ
Chúa Kitô nơi họ sắp được hay đang được sinh ra cho các linh hồn qua họ là một
linh hồn được tuyển chọn, dù họ là nam nhân chứ không phải nữ nhân, như
chính Chúa Giêsu đã khẳng định
“ai là mẹ Tôi”
khi Người chỉ tay vào thành phần môn đệ nam nhân của Người bấy giờ
(xem Mathêu 12:49-50).
Bài Đọc 1 (Tông
Vụ 18:9-18)
Sự
hiện diện thần linh của Chúa Kitô Phục Sinh và Thăng Thiên quả thực đã hiện diện
một cách tỏ tường nơi vị tông đồ dân ngoại Phaolô trong bài đọc 1 hôm nay, khi
Người tỏ mình ra cho ngài vào
"một đêm kia" và
trấn an ngài trong một thị kiến rằng: "Con
đừng sợ, cứ giảng dạy, chứ đừng làm thinh; vì Ta ở cùng con, và không ai tra tay
làm hại con, vì trong thành này, Ta có một dân đông đảo".
Bởi
thế, cho dù ngài bị kịch liệt chống đối và bị điệu ra tòa, đã có thẩm quyền bênh
vực ngài:
"(Ðến)
thời Galliô làm tổng trấn xứ Akaia, người Do-thái đồng lòng nổi lên chống Phaolô
và điệu ngài đến toà án mà thưa rằng: 'Người này xui dân tôn thờ Thiên Chúa trái
luật'. Phaolô toan mở miệng, thì Galliô nói với người Do-thái rằng: 'Hỡi người
Do-thái, nếu quả thật là điều chi tội ác, ta sẽ có lý mà nghe các ngươi; nhược
bằng chỉ là những tranh luận về đạo lý, danh từ và lề luật, thì các ngươi hãy
liệu lấy; ta không muốn xử các việc ấy'. Rồi ông đuổi họ ra khỏi toà án. Mọi
người liền bắt Sosthênê, trưởng hội đường, và đánh đập ông ta trước toà án, thế
mà Galliô cũng chẳng lưu tâm gì đến. Còn Phaolô thì lưu lại đó nhiều ngày, rồi
từ giã anh em, xuống tàu đi Syria (với Priscilla và Aquila); tại Cenchri, ngài
cạo trọc đầu, vì ngài đã khấn như thế".
Ngày 31 tháng 5
ĐỨC MA-RI-A THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT
lễ kính
Đức Ma-ri-a ngợi khen Đức Chúa hoạt động nơi Người
Trích bài giảng của thánh Bê-đa Khả Kính, linh mục.
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Qua những lời đó, trước hết Đức Mẹ muốn tuyên xưng những ơn riêng Chúa đã ban cho Người cách đặc biệt, sau là kể ra những ơn chung Thiên Chúa không ngừng ban cho nhân loại đến muôn đời.
Linh hồn ngợi khen Đức Chúa, khi đem hết mọi tình cảm con người bên trong ra mà ca ngợi phụng sự Chúa, khi tỏ ra luôn suy tưởng về quyền lực oai phong của Chúa qua việc tuân giữ các huấn lệnh của Người.
Thần trí hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, khi lấy làm vui vì tưởng nhớ đến một mình Chúa là Đấng Hoá Công và là Đấng ban cho niềm hy vọng được ơn cứu độ muôn đời.
Những lời đó thật thích hợp cho mọi người hoàn thiện, nhưng đặc biệt thích hợp cho Mẹ diễm phúc, khi Người tuyên xưng những lời ấy, vì nhờ đặc ân lạ lùng mà Người được cháy lửa yêu mến thiêng liêng đối với Đấng Người đã hoan hỷ cưu mang trong thân xác mình.
Người thật có lý để vui mừng một cách đặc biệt hơn các vị thánh khác trong Đức Giê-su, nghĩa là trong Đấng cứu độ Người, vì Người nhận biết Đấng là tác giả ơn cứu độ muôn đời sẽ sinh ra trong thời gian bởi thịt của Người, để trong cùng một ngôi vị duy nhất, Đức Giê-su thật sự vừa là con, vừa là Chúa của Người.
Bởi vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn. Người không kể gì là do công trạng riêng, vì cho tất cả sự cao trọng của mình là do ơn của Đấng tự bản tính vốn là quyền năng và vô cùng cao cả thường làm cho các tín hữu từ chỗ nhỏ bé thấp hèn nên mạnh mẽ cao sang.
Đức Mẹ còn khéo léo nói thêm : Danh Người thật chí thánh chí tôn, để khuyên nhủ thính giả và dạy tất cả những ai nghe được lời của Người biết mau đón nhận đức tin và kêu cầu danh Chúa, hầu chính họ có thể thông phần sự thánh thiện muôn đời và ơn cứu độ đích thực, như lời ngôn sứ : Phàm ai kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu độ. Đó chính là danh Đức Mẹ nói tới trong câu : Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Vì thế, trong Hội Thánh có thói quen rất tốt lành là hằng ngày mọi người hát thánh thi của Đức Mẹ khi nguyện kinh chiều, nhờ đó tâm hồn các tín hữu vừa năng tưởng nhớ đến mầu nhiệm của Chúa mà thêm lòng sốt mến, vừa năng suy niệm các gương lành của Thánh Mẫu mà thêm vững mạnh trên đường nhân đức. Đọc như thế vào giờ kinh chiều thật là thích hợp, vì tâm trí chúng ta sau một ngày làm việc mệt mỏi và ngổn ngang trăm mối, lúc sắp được nghỉ ngơi, có thể hồi tâm để cùng nhau suy gẫm.
Đấng cứu độ chúng ta đã chẳng nề sinh làm con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Ta hãy chúc tụng và tha thiết nguyện cầu :
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Chúa là Mặt Trời soi đường công chính, đã muốn cho Đức Mẹ xuất hiện tựa hừng đông, - xin cho chúng con biết theo Người mà bước đi trong ánh sáng của ngày cứu độ.
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Chúa là Ngôi Lời hằng hữu, Thánh Mẫu Chúa đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, - xin cho chúng con hằng noi gương Thánh Mẫu mà gắn bó cùng Chúa trọn đời.
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con, Chúa đã muốn cho Đức Mẹ đứng kề bên thánh giá, - xin nhậm lời Người chuyển cầu mà cho chúng con hưởng nhờ ơn cứu độ.
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Chúa là Con Đức Trinh Nữ, và là anh của chúng con, xưa trên thánh giá, Chúa đã xin Đức Mẹ làm mẹ thánh Gio-an, - xin cho chúng con cũng nhận biết Người là mẹ, và trọn niềm hiếu thảo với Người.
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Thiên Chúa là Cha toàn năng đã muốn cho mọi đời phải ca ngợi Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Ki-tô. Vậy ta hãy tôn vinh Thiên Chúa Cha, và xin Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng ta :
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Chúa đã chọn Đức Ma-ri-a làm Thân Mẫu Chúa Giê-su, - xin cho các bà mẹ biết gây tinh thần bác ái và đời sống thánh thiện trong gia đình.
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Chúa đã đặt Đức Ma-ri-a làm Từ Mẫu của nhân loại, - xin cho tất cả những ai đang gặp cảnh gian truân được cảm nghiệm tình mẫu tử của Người.
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Chúa đã làm cho Đức Mẹ biết chăm chỉ lắng nghe lời Chúa, và tận tâm phục vụ Chúa, - xin cho chúng con được trở thành những môn đệ trung tín của Đức Ki-tô.
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Chúa đã phong Đức Ma-ri-a làm Nữ Vương thiên quốc, - xin cho các anh chị em đã lìa thế được chung hưởng vinh quang với thần thánh trên trời.
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Thánh Mẫu Ma-ri-a vừa cưu mang Chúa Giê-su, Cha đã soi sáng cho Thánh Mẫu đi thăm viếng bà Ê-li-sa-bét. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Đức Ma-ri-a ngợi khen Cha muôn đời. Chúng con cầu xin
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Xp 3, 14-18a
"Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi".
Trích sách Tiên tri Xôphônia.
Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi, và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa.
Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: "Hỡi Sion, đừng sợ! Tay đừng bủn rủn! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Với ngươi, Người làm mới lại tình yêu của Người. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui, như thuở tao phùng".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc: Rm 12, 9-16
"Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà".
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, đức ái không được giả hình: Hãy chê ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy thương yêu nhau trong tình bác ái huynh đệ. Hãy nhân nhượng tôn kính nhau. Hãy siêng năng, chớ biếng nhác: Hãy sốt mến trong tâm hồn và phụng sự Chúa. Hãy hân hoan trong niềm cậy trông, nhẫn nại trong gian truân và kiên tâm cầu nguyện. Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà.
Hãy chúc phúc cho những kẻ bắt bớ anh em: Hãy chúc phúc, chứ đừng chúc dữ. Hãy vui mừng với kẻ vui mừng, và khóc lóc với kẻ khóc lóc. Hãy đồng tâm hiệp ý với nhau: đừng tự cao tự đại, một hãy ưa thích những sự hèn kém. Ðừng tự đắc cho mình là khôn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6
Ðáp: Ðấng Thánh cao cả của Israel ở giữa ngươi (c. 6b).
Xướng: 1) Này là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi, tôi sẽ tin tưởng hành động và không sợ hãi: vì Chúa là sức mạnh và là sự ngợi khen của tôi, và Người đã đem lại cho tôi ơn cứu độ. - Ðáp.
2) Hãy tuyên xưng Chúa và kêu cầu thánh danh Người; hãy làm cho các dân tộc biết việc Chúa sáng tạo; hãy nhớ rằng danh Người thật cao sang. - Ðáp.
3) Hãy ca mừng Chúa, vì người đã làm những việc trọng đại; hãy công bố việc đó trong khắp hoàn cầu. Hỡi dân thành Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì Ðấng Thánh cao cả của Israel ở giữa ngươi. - Ðáp.
Alleluia: Lc 1, 45
Alleluia, alleluia! - Hỡi Trinh Nữ Maria, phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 39-56
"Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.
"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa đã săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
Ðó là lời Chúa.
Viếng Thăm Là Dạo Khúc Cho Sứ Vụ Của Chúa Giêsu
1- Trong đoạn trình thuật về Cuộc Viếng Thăm, Thánh Luca cho chúng ta thấy,
sau khi tràn đầy hồng ân Nhập Thể, Đức Maria đã mang ơn cứu độ và niềm vui
đến cho gia đình bà Êlizabét ra sao. Đấng Cứu Thế nhân trần, được cưu mang
trong lòng Mẹ mình, đã tuôn đổ Thánh Linh xuống, qua việc tỏ mình ra ngay từ
lúc mới vào trần gian của mình.
Khi diễn tả việc khởi hành của Đức Maria lên đường đi xuống Giuđêa, Thánh Ký
đã dùng động từ “anistemi”, nghĩa là “chỗi dậy”, là “bắt đầu di chuyển”. Nếu
động từ này được các Phúc Âm sử dụng để nói đến việc Phục Sinh của Chúa
Giêsu (Mk 8:31, 9:9,31; Lk 24:7,46), hay những tác động thể lý ám chỉ nỗ lực
về tâm linh (Lk 5:27-28, 15:18,20), chúng ta có thể cho rằng Thánh Luca muốn
dùng cách diễn tả này để nhấn mạnh đến cái nhiệt tình mạnh mẽ, theo ơn soi
động của Thánh Linh, đã thúc đẩy Đức Maria ban tặng cho thế giới Vị Cứu Tinh
của nó.
2- Bản văn Phúc Âm cũng trình thuật rằng Đức Maria “vội vàng” (Lk 1:39) lên
đường. Ngay cả ghi chú về việc Người “đến một miền đồi núi”, Phúc Âm Thánh
Luca cũng cho thấy một ý nghĩa sâu xa của nó, hơn là chỉ cố ý nói đến một
địa dư vậy thôi, vì nó gợi lại cho chúng ta thấy hình ảnh một vị sứ giả loan
báo tin mừng trong Sách Tiên Tri Isaia: “Đẹp thay trên các núi đồi bước chân
của người loan báo tin vui, của người rao truyền an bình, của người mang tin
thiện phúc, của người rao truyền ơn cứu độ, của người nói với Sion rằng:
‘Thiên Chúa của các người hiển trị’” (Is 52:7).
Như Thánh Phaolô, vị nhìn nhận đoạn sách tiên tri này đã được nên trọn ở
việc loan truyền phúc âm (Rm 10:15), Thánh Luca hình như cũng muốn mời gọi
chúng ta hãy nhìn nơi Đức Maria như là “vị truyền bá phúc âm” tiên khởi, vị
loan truyền “tin mừng”, khai mào các cuộc hành trình thừa sai cho Người Con
thần linh của Người.
Sau hết, hướng đi trong cuộc hành trình của Đức Trinh Nữ cũng có một ý nghĩa
đặc biệt, ở chỗ, Người đi từ Galilê xuống Giuđêa, giống như cuộc hành trình
truyền giáo của Chúa Giêsu vậy (x 9:51).
Thật thế, cuộc viếng thăm bà Eâlizabét của Đức Maria là một dạo khúc cho sứ
vụ truyền giáo của Chúa Giêsu, và ngay từ ban đầu, với vai trò làm mẹ cộng
tác vào công cuộc cứu chuộc của Con mình, Người đã trở nên một mẫu gương cho
những ai thuộc về Giáo Hội muốn ra đi mang ánh sáng của Chúa Kitô và niềm
vui đến cho con người ở mọi thời và khắp mọi nơi.
3- Cuộc gặp gỡ bà Elizabét có tính cách của một biến cố cứu độ vui mừng,
vượt lên trên những cảm xúc tự nhiên của tình nghĩa gia đình. Nơi đang ở vào
hoàn cảnh bối rối về hành động thiếu tin tưởng, được tỏ hiện qua tình trạng
bị câm lặng của ông Zacaria, thì Đức Maria đã làm bừng lên niềm vui của một
đức tin mau mắn và cởi mở của Người: “Người đã vào nhà ông Zacaria và chào
bà Elizabét” (Lk 1:40).
Thánh Luca cho thấy mối liên hệ này là: “Khi bà Elizabét nghe lời chào của
Đức Maria thì con trẻ trong lòng bà liền nhẩy mừng” (Lk 1:41). Lời chào của
Đức Maria đã khiến cho người con trai của bà Elizabét nhẩy lên vui sướng, ở
chỗ, qua việc làm của Đức Maria, việc Chúa Giêsu vào nhà của bà Elizabét đã
mang đến cho vị tiên tri thai nhi này một niềm vui được Cựu Ước tiên báo như
là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Đấng Thiên Sai.
Với lời chào của Đức Maria, niềm vui cứu độ đã đến với cả bà Elizabét nữa,
để rồi, “được đầy Thánh Linh… bà đã lớn tiếng kêu lên rằng ‘Người có phúc
hơn mọi phụ nữ, và phúc cho hoa trái trong lòng của Người’ (Lk 1:41-42).
Nhờ được ơn soi sáng từ trên cao, bà hiểu được sự cao trọng của Đức Maria,
vị còn hơn cả Jael và Judith là những nhân vật tiền thân của Người trong Cựu
Ước, Người có phúc hơn mọi người nữ bởi quả phúc trong lòng Người là Chúa
Giêsu, Đấng Thiên Sai.
4- Lời bà Elizabét hô lên ấy, hô một cách “lớn tiếng”, chứng tỏ cho thấy cả
một tấm lòng nhiệt thành sốt sắng chân tình, một tấm lòng nhiệt thành sốt
sắng chân tình sẽ được tiếp tục vang vọng trên môi miệng của tín hữu qua
kinh “Kính Mừng”, một kinh nguyện như một bài ca của Giáo Hội chúc tụng
những việc trọng đại được Đấng Tối Cao thực hiện nơi Người Mẹ của Con Ngài.
Trong việc tuyên tụng Người “có phúc hơn mọi người nữ”, bà Elizabét muốn nói
đến đức tin của Đức Maria là lý do đã làm cho Người được diễm phúc: “Phúc
cho Người vì đã tin rằng những gì Chúa nói cùng Người sẽ được thực hiện” (Lk
1:45). Sự cao cả và niềm vui của Đức Maria phát xuất từ việc Người là một
con người tin tưởng.
Thấy được vai trò tuyệt hạng nơi Đức Maria, bà Elizabét cảm thấy cái vinh dự
mình được Người đến viếng thăm: “Tôi làm sao lại có diễm phúc là được Mẹ
Chúa tôi đến thăm tôi?” (Lk 1:43). Bằng lời xưng tụng “Chúa tôi”, bà
Elizabét đã nhìn nhận phẩm vị hoàng tộc, đúng hơn, phẩm vị thiên sai nơi
Người Con của Đức Maria. Trong Cựu Ước, lời này quả thực được dùng để xưng
tụng đức vua (x 1Kgs 1:13,20,21 v.v.) cũng như để nói về Vị Vua Thiên Sai
(Ps 110:1). Thiên Thần đã nói về Chúa Giêsu rằng: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban
cho Người ngôi báu của Đavít tổ phụ của Người” (Lk 1:32). “Được đầy Thánh
Thần”, bà Elizabét cũng có cùng một minh thức như thế. Cuộc vinh hiển vượt
qua của Chúa Kitô sau này mới tỏ cho thấy ý nghĩa cần phải hiểu về danh hiệu
này, một ý nghĩa siêu việt (x Jn 20:28; Acts 2:34-36).
Bằng việc vang lên lời chúc tụng ấy, bà Elizabét mời gọi chúng ta hãy cảm
nhận tất cả những gì do sự hiện diện của Đức Maria mang đến như là một ân
phúc cho đời sống của mọi tín hữu.
Qua việc Viếng Thăm này, Người Trinh Nữ đã mang Chúa Giêsu đến cho mẹ của Vị
Tẩy Giả, một Chúa Kitô là Đấng tuôn đổ Thánh Linh. Vai trò trung gian môi
giới này phát xuất từ chính những lời của bà Elizabét: “Này, khi tai tôi vừa
nghe thấy tiếng Người chào thì con trẻ trong lòng tôi liền nhẩy mừng” (Lk
1:44). Với tặng ân Thánh Linh được ban phát bấy giờ, sự hiện diện của Đức
Maria đóng vai trò như một dạo khúc cho Cuộc Hiện Xuống, một Cuộc Hiện Xuống
xác nhận việc hợp tác, được bắt đầu từ Biến Cố Nhập Thể, cần phải được thể
hiện nơi toàn cục diện cứu độ thần linh.
(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 2/10/1996, Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch
từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 9/10/1996)
Thứ Bảy sau Chúa Nhật VI Phục Sinh
(Năm 2025 ngày Thứ Bảy trong tuần này bị át bởi Lễ Kính Đức Mẹ Thăm Viếng)
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 18, 23-28
"Apollô trưng Thánh Kinh để minh chứng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Sau khi ở lại Antiôkia ít lâu, Phaolô ra đi, lần lượt ngài đi qua các vùng Galata và Phrygia, làm cho tất cả môn đồ thêm vững mạnh.
Bấy giờ có một người Do-thái tên là Apollô, quê ở Alexan-dria, rất lợi khẩu và thông biết Thánh Kinh, ông đến Êphêxô. Ông đã học thông đạo Chúa; ông nhiệt tâm rao giảng và siêng năng dạy những điều về Ðức Kitô, mặc dầu ông chỉ biết phép rửa của Gioan. Vì thế ông bắt đầu hành động mạnh dạn trong hội đường. Khi Priscilla và Aquila nghe ông, liền đón ông (về nhà) và trình bày cặn kẻ hơn cho ông biết đạo Chúa. Ông muốn sang Akaia, thì các anh em khuyến khích ông và viết thơ cho các môn đồ xin họ tiếp đón ông. Ðến nơi, ông đã giúp các tín hữu rất nhiều, vì ông đã công khai phi bác những người Do-thái cách hùng hồn; ông trưng Thánh Kinh để minh chứng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 46, 2-3. 8-9. 10
Ðáp: Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần gian (c. 8a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hết thảy chư dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Ðấng Tối cao, khả uý, Người là Ðại Ðế trên khắp trần gian. - Ðáp.
2) Vì Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người, Thiên Chúa thống trị trên các nước, Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người. - Ðáp.
3) Vua chúa của chư dân, đã nhập đoàn với dân riêng Thiên Chúa của Abraham. Vì các vua chúa địa cầu thuộc quyền Thiên Chúa: Người là Ðấng muôn phần cao cả! - Ðáp.
Alleluia: Ga 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16, 23b-28
"Cha yêu mến các con, bởi vì các con yêu mến và tin Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: điều gì các con sẽ nhân danh Thầy mà xin Cha, thì Người sẽ ban cho các con. Cho đến bây giờ, các con chưa nhân danh Thầy mà xin điều gì. Hãy xin thì sẽ được, để các con được niềm vui trọn vẹn. Tất cả những điều đó, Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói với các con. Ðã đến giờ Thầy sẽ không còn dùng dụ ngôn mà nói nữa, Thầy sẽ loan truyền rõ ràng cho các con về Cha. Ngày đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không bảo là chính Thầy sẽ xin Cha cho các con đâu. Chính Cha yêu mến các con, bởi vì chúng con yêu mến Thầy và tin rằng Thầy bởi Thiên Chúa mà ra. Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Cha".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Sự hiện diện thần linh của Chúa Kitô nơi thành phần môn đệ của Người sẽ lên tới tột đỉnh khi mà họ được hiệp nhất nên một với Người như thể họ là chính Người. Ở chỗ, như lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần VI Phục Sinh đang tiếp tục chiều kích Hiện Diện Thần Linh theo chủ đề "Thày là sự sống" trong Mùa Phục Sinh hậu Bát Nhật Phục Sinh, không phải họ chỉ "nhân danh Thầy mà xin Cha", mà còn lấy chính tư cách Chúa Kitô để xin Cha: "Ngày đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không bảo là chính Thầy sẽ xin Cha cho các con đâu".
Tại
vì chính họ được Cha của Người yêu thương nhờ sự hiện diện thần linh của Người
nơi họ, tức là nhờ họ tin vào Người, tin rằng Người
"bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về
cùng Cha", chấp nhận
Người đúng với căn tính thần linh của Người, chứ
không tin Người chỉ là một con người thuần túy, và chỉ khư khư giữ chặt
lấy Người như Người là của họ, thuộc
về họ theo như ý của họ.
"Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Thật, Thầy bảo thật các con: điều gì
các con sẽ nhân danh Thầy mà xin Cha, thì Người sẽ ban cho các con. Cho đến bây
giờ, các con chưa nhân danh Thầy mà xin điều gì. Hãy xin thì sẽ được, để các con
được niềm vui trọn vẹn. Tất cả những điều đó, Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói với
các con. Ðã đến giờ Thầy sẽ không còn dùng dụ ngôn mà nói nữa, Thầy sẽ loan
truyền rõ ràng cho các con về Cha. Ngày đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin, và
Thầy không bảo là chính Thầy sẽ xin Cha cho các con đâu. Chính Cha yêu mến các
con, bởi vì chúng con yêu mến Thầy và tin rằng Thầy bởi Thiên Chúa mà ra. Thầy
bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng
Cha'".
Ở trong bài Phúc Âm hôm qua, chúng ta đã thấy được tột đỉnh của tình trạng hiệp thông thần linh nơi các môn đệ Chúa Kitô, đó là được thông phần đau khổ với Người và như Người, nhờ đó mới có thể làm chứng về Người và cho Người, nghĩa là mới có thể sinh Người ra nơi các linh hồn, ở chỗ làm cho các linh hồn nhận biết Người mà được sống, nhờ đó, những đau khổ của họ đã trở thành niềm vui cho họ là thế, vì được chịu khổ vì Chúa Kitô và cho phần rỗi các linh hồn, một niềm vui thần linh tràn đầy bình an không thể nào có được trên thế gian này nếu không xuất phát từ quyền lực phục sinh của Chúa Kitô.
Tột đỉnh của tình trạng hiệp thông thần linh trong bài Phúc Âm hôm nay cũng thế, cũng trở nên một với Chúa Kitô, đến độ Người không cầu cho các môn đệ của Người nữa mà chính các môn đệ của Người cầu cùng Cha của Người như Người đã làm, và Cha của Người sẽ nghe họ như đã nghe Người. Tức là họ có thần thế trước nhan Cha của Người, Đấng nhìn thấy Người nơi họ và chắc chắn sẽ đáp ứng lời nguyện cầu của họ, và lời nguyện cầu của họ bấy giờ không phải của họ nữa mà là của chính Chúa Kitô, Đấng chỉ mong phần rỗi cho nhân loại, và chuyển cầu cho nhân loại được cứu rỗi, một lời chuyển cầu đẹp lòng Thiên Chúa nhất, vì Ngài sai Con Ngài xuống trần gian (xem Gioan 3:16) và không dung tha cho Con Ngài (xem Roma 8:32) chỉ có một mục đích duy nhất là cứu độ nhân loại mà thôi.
Bài Đọc 1 (Tông
Vụ 18:23-28)
Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy Chúa Kitô hiện diện thần linh nơi một con
người đặc biệt tuy chưa chính thức thuộc về thành phần môn đệ của Người, đó là
Apollô, một con người chỉ mới biết phép rửa thống hối của Tiền hô Gioan,
nhưng đã tỏ ra "nhiệt tâm rao giảng
và siêng năng dạy những điều về Ðức Kitô... bắt đầu hành động mạnh dạn trong hội
đường".
"Bấy
giờ có một người Do-thái tên là Apollô, quê ở Alexan-dria, rất lợi khẩu và thông
biết Thánh Kinh, ông đến Êphêxô. Ông đã học thông đạo Chúa; ông nhiệt tâm rao
giảng và siêng năng dạy những điều về Ðức Kitô, mặc dầu ông chỉ biết phép rửa
của Gioan. Vì thế ông bắt đầu hành động mạnh dạn trong hội đường".
Vấn đề ở đây là với một con người như vậy, từ vô danh tiểu tốt tự nhiên được nổi
tiếng, thế mà nhờ sự hiện diện thần linh của Chúa Kitô trong thành phần môn đệ
của Người, nên các vị chẳng những không ghen tị và đố kị, như tông đồ Gioan xưa
kia tỏ ra đối với một người không thuộc về nhóm tông đồ đã nhân danh Thày mà trừ
quỉ (xem Marco 9:38; Luca 9:49), trái lại, còn giúp thêm cho nhân vật mới lạ này
nữa, để vị này càng nổi nang hơn, nghĩa là càng làm rạng danh Chúa Kitô hơn:
"Khi
Priscilla và Aquila nghe ông, liền đón ông (về nhà) và trình bày cặn kẻ hơn cho
ông biết đạo Chúa. Ông muốn sang Akaia, thì các anh em khuyến khích ông và viết
thơ cho các môn đồ xin họ tiếp đón ông. Ðến nơi, ông đã giúp các tín hữu rất
nhiều, vì ông đã công khai phi bác những người Do-thái cách hùng hồn; ông trưng
Thánh Kinh để minh chứng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô".
Lễ Thăng Thiên Năm A-B-C
Thứ Năm Tuần VI Phục Sinh hay Chúa Nhật Tuần VII Phục Sinh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 1, 1-11
"Trước sự chứng kiến của các ông, Người lên trời".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những điều Ðức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: "Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần".
Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?" Người bảo họ rằng: "Ðâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất". Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.
Ðang khi các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 46, 2-3. 6-7. 8-9
Ðáp: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang (c. 6).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hết thảy chư dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Ðấng Tối cao, khả uý, Người là Ðại Ðế trên khắp trần gian. - Ðáp.
2) Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang. Hãy ca mừng, ca mừng Thiên Chúa' hãy ca mừng, ca mừng Vua ta! - Ðáp.
3) Vì Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người. Thiên Chúa thống trị trên các nước, Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 1, 17-23
"Người đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời".
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Ðấng chu toàn mọi sự trong mọi người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 28, 16-20 (Năm A)
"Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy".
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Mc 16, 15-20 (Năm B)
"Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Lc 24, 46-53 (Năm C)
"Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống". Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen.
Ðó là lời Chúa.
Lạy Vua Cả chí tôn hằng hữu
Chịu khổ hình để cứu muôn dân,
Dang tay đánh bại tử thần,
Đem về chiến thắng muôn phần vinh quang.
Ngài lên tận ngai vàng vĩnh cửu,
Cõi thiên đình bên hữu Chúa Cha,
Uy phong ngự chốn thiên toà,
Quyền năng Thánh Phụ trao qua tay Ngài.
Để từ đây muôn loài muôn vật,
Khắp mọi nơi trời đất âm ty,
Thảy đều tay chắp gối quỳ,
Một niềm suy phục trọn bề thần dân.
Thấy cảnh tượng, thiên thần run sợ :
Tội loài người, thân Chúa đền thay,
Rồi lên ngự chốn trời mây,
Phận hèn người thế đổi thay tuyệt vời.
Ngài là chính nguồn vui khôn sánh,
Thưởng công người xa lánh phù hoa.
Lạy Vua ngự chốn thiên toà,
Niềm vui thiên giới vượt xa thế trần.
Ngửa trông Chúa khoan nhân lượng thứ,
Rủ lòng thương xoá bỏ tội tình,
Nhờ ơn vũ lộ huyền linh,
Nghe lời Chúa gọi vươn mình bay cao.
Ngày chung thẩm khi nào chợt tới
Vinh quang Ngài chói lọi trời mây.
Xin tha hình phạt đoạ đày,
Vinh quang đã mất từ đây trả về.
Câu chúc tụng xin quỳ dâng Chúa
Vua cõi trời rực rỡ hồi loan,
Cùng Ngôi Thánh Phụ Thánh Thần
Ngàn đời hiển trị muôn phần quang vinh.
Đây ngày thánh muôn dân từng mong đợi
Đã bừng lên thật chói lọi huy hoàng :
Đức Ki-tô niềm tin của thế giới
Lên cõi trời ngợp vinh hiển cao sang.
Bên Thánh Phụ Người tỏ bày chi tiết
Cuộc giao tranh qua thập tự máu hồng.
Thủ lãnh thế gian chính Người tiêu diệt,
Thân thể Người đầy chiến tích oai phong.
Người ngự giá trên mây trời lộng lẫy,
Gieo niềm tin cho tín hữu chắc rằng :
Cửa thiên quốc, tội A-đam đóng lại,
Nhờ ơn Người, nay mở rộng thênh thang.
Ôi vĩ đại, niềm hân hoan khôn tả :
Này người con Trinh Nữ Ma-ri-a
Sau bao nỗi khổ hình, sau thập giá,
Được lên trời ngự bên hữu Chúa Cha.
Nào ta hãy cùng dâng lên Cứu Chúa
Muôn muôn lời cảm tạ với ca khen :
Người cất nhắc lên cõi trời muôn thuở
Xác phàm nhân, thân cát bụi yếu hèn.
Nguyện xin Chúa cho đoàn con chia sẻ
Nỗi vui mừng của chư thánh thiên cung,
Nơi Chúa ban cho các ngài phỉ chí,
Chúng con xin được đôi chút thoả lòng.
Hôm nay Chúa lên trời cao vời vợi,
Xin nâng lòng nhân thế mãi vươn cao,
Và gửi xuống Ngôi Thánh Thần an ủi
Như nguồn ơn hằng tuôn chảy dạt dào.
Quỳ lạy Chúa Giê-su Cứu Thế,
Khắp càn khôn yêu quý hết tình.
Ngài là Tạo Hoá uy linh,
Nhưng thời sau hết giáng sinh làm người.
Lòng nhân hậu cao vời đến nỗi
Chúa vui lòng gánh tội trần gian,
Lại cam chịu chết nhục nhằn
Cho đoàn con khỏi tử thần lôi đi.
Ngài phá vỡ âm ty ngục thất,
Kẻ tù đày, giải thoát đưa ra,
Khải hoàn cao ngự thiên toà,
Vinh quang bên hữu Chúa Cha muôn trùng.
Xin lượng cả bao dung tha thứ
Muôn lỗi lầm và rủ lòng thương,
Ngày nao tới cõi thiên đường
Chúng con được thấy tỏ tường Thánh Nhan.
Ngài là Đấng sẽ ban ân thưởng,
Xin giờ đây đổ xuống niềm vui,
Chờ mong vinh hiển đời đời
Cùng Ngài chung hưởng trên nơi thanh nhàn.
Chúa lên trời tăng thêm đức tin cho chúng ta
Trích bài giảng của thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng.
Dịp đại lễ Vượt Qua, Chúa sống lại đã là lý do vui mừng cho chúng ta thế nào, thì Chúa lên trời cũng là đề tài hoan hỷ cho chúng ta hôm nay như vậy. Chúng ta đang tưởng niệm và long trọng cử hành ngày bản tính yếu hèn của chúng ta nơi Đức Ki-tô được đưa lên cao hơn các đạo binh trên trời, hơn tất cả các phẩm thiên thần, hơn tất cả các quyền thần, để cùng hiển trị với Chúa Cha. Nhờ các công trình Chúa xếp đặt như vậy, chúng ta được xây dựng trên nền móng vững chắc, để, một khi không còn thấy những điều lạ lùng kinh ngạc nữa mà đức tin vẫn không suy giảm, đức cậy không lung lay, đức ái không lạnh nhạt, thì tình thương của Thiên Chúa lại càng tỏ ra diệu kỳ.
Sức mạnh của những bậc thượng trí, ánh sáng của những tâm hồn tín trung là đây : tin không do dự những gì mắt phàm không xem thấy, và trông cậy không nao núng những gì tầm nhìn không tới được. Nhưng lòng đạo đức này bởi đâu mà phát sinh, hoặc làm sao ai đó được nên công chính nhờ đức tin, nếu ơn cứu độ chúng ta chỉ hệ tại những gì mắt thấy ?
Vậy điều xưa kia thấy được nơi Đấng cứu chuộc chúng ta, nay đã chuyển thành bí tích ; để đức tin nên tinh tuyền và vững chắc hơn, thì lời giáo huấn đã thay cho giác quan, khiến tâm hồn các tín hữu được ánh sáng Chúa chiếu soi, sẵn sàng vâng theo lời giáo huấn đầy thẩm quyền đó. Nhờ được mầu nhiệm Chúa lên trời gia tăng và ân huệ Chúa Thánh Thần củng cố, đức tin đó không khiếp sợ gông cùm, tù tội, lưu đày, đói khát, lửa thiêu, hùm beo cắn xé hay những cực hình tinh vi của những kẻ bách hại. Chính vì đức tin ấy mà khắp nơi trên hoàn cầu không những đàn ông mà cả đàn bà, trẻ con non nớt cũng như thiếu nữ liễu yếu đào tơ, đã chiến đấu đến đổ máu mình ra. Đức tin ấy đã xua trừ ma quỷ, đẩy lui bệnh tật, làm cho kẻ chết sống lại.
Bởi đó, chính các thánh Tông Đồ trước kia, dù đã được bấy nhiêu phép lạ củng cố và bao lời giáo huấn chỉ dạy mà vẫn khiếp sợ trước cuộc Thương Khó dữ dằn của Chúa và do dự không chịu tin Chúa đã sống lại thật, thì nay nhờ mầu nhiệm Chúa lên trời, các ông đã tiến bộ đến nỗi tất cả những gì đã làm cho các ông khiếp sợ đều biến thành niềm vui.
Vì không còn nhìn thấy thân xác của Người nữa, nên tâm trí nhạy bén của các ông dễ nhìn ngắm Đấng, khi xuống trần không rời xa Chúa Cha và khi lên trời cũng chẳng lìa bỏ các môn đệ. Vậy, anh em rất thân mến, khi được đón nhận vào vinh quang rực rỡ của Chúa Cha thì Con Người hiển hiện là Con Thiên Chúa cách tuyệt vời và thánh thiêng hơn lúc nào hết. Và Đấng rời xa các môn đệ theo nhân tính lại bắt đầu hiện diện cách khôn tả theo thần tính. Bấy giờ đức tin sáng suốt hơn bao giờ hết bắt đầu hiểu được Chúa Con ngang hàng với Chúa Cha và không cần phải đụng chạm tới phần xác thể nơi Đức Ki-tô là phần làm cho Người thua kém Chúa Cha. Đành rằng bản tính của thân xác hiển vinh của Chúa vẫn còn đó, nhưng các tín hữu được kêu mời lấy đức tin tiếp xúc với Đấng là Con Một ngang hàng với Chúa Cha, đụng chạm tới Người không phải bằng bàn tay, nhưng bằng tâm trí.
XChúng ta có một Vị Thượng Tế cao cả ngự bên hữu ngai Đấng uy linh trên trời.
ĐChúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm. Ha-lê-lui-a.
XChúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín.
ĐChúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm. Ha-lê-lui-a.
Đức Ki-tô đã được tôn vinh và đang lôi kéo mọi sự lên cùng Người. Chúng ta cùng hoan hỷ tung hô :
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Lạy Chúa Giê-su, sau khi đã hiến thân làm của lễ hy sinh đền tội chúng con, Chúa khải hoàn lên ngự bên hữu Chúa Cha, - xin hoàn tất công trình thánh hoá tất cả loài người.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Chúa là Vị Thượng Tế đã hoàn thành Giao Ước Mới, và nay hằng sống bên Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng con, - xin ban ơn cứu độ cho dân Chúa đang tha thiết nguyện cầu.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Sau khi phục sinh khải hoàn, Chúa đã hiện ra cho các môn đệ được thấy, - xin củng cố niềm tin của chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Chúa đã hứa ban Thánh Thần cho các Tông Đồ để các ngài đi đến tận cùng trái đất làm chứng cho Chúa, - xin cũng ban Thánh Thần, để chúng con trở nên chứng nhân can trường của Chúa.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Đức Ki-tô đã lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, chúng ta hãy hoan hỷ tung hô Người :
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Chúa đã lên trời, làm cho thân xác yếu hèn của chúng con được vinh quang, - xin cho chúng con ngày ngày biết cởi bỏ con người cũ, hầu trở nên người mới theo hình ảnh của Chúa.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Vì yêu thương, Chúa đã xuống trần gian ở giữa chúng con, - xin cũng lấy tình thương ấy mà lôi kéo chúng con lên cùng Chúa.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Chúa đã hứa sẽ lôi kéo mọi người lên cùng Chúa, - xin đừng để một ai trong chúng con phải lìa xa Chúa bao giờ.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Lạy Chúa, Chúa đã lên trời vinh hiển, - xin cho lòng trí chúng con cũng luôn hướng về nơi Chúa ngự.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Chúa đã muốn rằng Chúa ở đâu thì các môn đệ cũng ở đó, - xin cho anh chị em chúng con đã qua đời được theo Chúa vào cõi vinh quang.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển ; là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa, khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.