SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 66, 18-21
"Chúng dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa phán: "Ta đã biết các việc làm và tư tưởng của chúng; Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta. Ta sẽ đặt nơi chúng một dấu lạ, Ta sẽ sai một số trong những người được giải thoát đến các dân ngoài biển, bên Phi châu và Lyđia, là những dân thiện xạ, đến Ý-đại-lợi và Hy-lạp, đến những hòn đảo xa xăm, đến với những kẻ chưa nghe nói về Ta, và chưa thấy vinh quang của Ta. Chúng sẽ rao giảng cho các dân biết vinh quang của Ta, sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến như của lễ dâng cho Chúa, họ cỡi ngựa, đi xe, đi võng, cỡi la, cỡi lạc đà, đến núi thánh của Ta là Giêrusalem, khác nào con cái Israel mang của lễ trong chén tinh sạch vào nhà Chúa, Chúa phán như thế. Trong những dân đó, Ta sẽ chọn các tư tế, các thầy Lêvi: Chúa phán như vậy". Vì chưng lời Chúa rằng: Cũng như Ta tạo thành trời mới, đất mới đứng vững trước mặt Ta thế nào, thì dòng dõi ngươi và danh tánh các ngươi sẽ vững bền như vậy".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng: 1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người. - Ðáp.
2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 12, 5-7, 11-13
"Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: "Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con". Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt. Ngày nay, hẳn ai cũng coi việc sửa dạy là nỗi buồn khổ, hơn là nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại hoa quả bình an công chính cho những ai được sửa dạy. Vì thế, anh em hãy nâng đỡ những bàn tay bủn rủn và những đầu gối rụng rời. Ðường anh em đi, anh em hãy bạt cho thẳng, để người què khỏi bị trẹo chân, nhưng được an lành.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 22-30
"Người ta sẽ từ đông chí tây đến dự tiệc trong nước Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào và đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: 'Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi'. Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi từ đâu tới'. Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: 'Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi'. Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta'. Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXI Thường Niên Năm C hôm nay liên quan
đến phần rỗi vô cùng quan trọng của loài người. Vấn đề then chốt được
một ai đó hỏi Chúa Giêsu, khi Người “rảo
qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem”
rằng:
"Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một
số ít sẽ được cứu độ?".
Chúa Kitô đã không trực tiếp trả lời dứt khoát là nhiều hay ít, dù người
đặt vấn nạn, theo chiều hướng và ý nghĩa của câu nghi vấn nhưng có tính
cách khẳng định của người này, xu hướng về
“ít” chứ không thể nào nhiều
được. Cũng căn cứ chiều hướng của vấn nạn này thì người đặt câu hỏi
không cho rằng “ít” người
được rỗi là vì ơn cứu độ của Thiên Chúa vô cùng cao quí, nên “ít”
người xứng đáng lãnh nhận và khó có thể lãnh nhận, ngoại trừ một số
“ít” có thể lãnh nhận, do
công khó của họ, điển hình nhất là thành phần luật sĩ và biệt phái Do
Thái vẫn tự nhận mình là công chính!
Thế nhưng, câu kết của Bài Phúc Âm hôm nay là lời cảnh báo cho thành
phần tự nhận mình là công chính, tưởng rằng ơn cứu độ là do tự sức mình
mà được, hơn là do Thiên Chúa ban cho những ai tin tưởng vào Ngài: “có
những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên
sau hết".
“Người sau hết trở nên trước hết”
đây là ai, nếu không phải là một người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện,
không dám ngước mắt lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn thống hối, chân nhận
mình là một tội nhân đáng thương, nên khi ra về đã trở nên công chính,
trong khi đó, người biệt phái nghênh ngang trong đền thờ, chẳng những
khoe khoang đủ thứ về công trạng của mình, mà còn tỏ ra khinh bỉ người
khác: “tôi không phải như tên thu
thuế kia”, nên cuối cùng người biệt phái lên đến thờ cầu nguyện này
đã thuộc về hạng của “những người
trước hết nên sau hết”.
Thật vậy, đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định ở cuối Bài Giảng Trên Núi
được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 7, thì “không phải cứ kêu lạy
Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời… mà là làm theo ý Thiên Chúa”. Bởi
vậy, thành phần tự coi mình là công chính, tưởng rằng nhờ đó mà họ có
quyền
“xin
mở cửa cho chúng tôi”,
lại không ngờ bị hoàn toàn phủ nhận và ruồng bỏ:
“Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi từ đâu tới'”.
Cho dù bấy giờ họ có nại lý do việc lành phúc đức của mình:
“’Chúng tôi đã ăn uống trước mặt
ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi'. Nhưng chủ sẽ
trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi
những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta'. Khi các ngươi sẽ
thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên
Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc
nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc
trong nước Thiên Chúa’”.
Đúng thế, thành phần tưởng mình là ngon lành, tưởng mình thuộc về số
“ít” được rỗi này, như Chúa
Kitô ám chỉ trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các
ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người
sẽ tìm vào mà không vào được”. Họ chính là những người “tìm
vào (ở chỗ giữ luật) mà không
vào được (ở chỗ tự công chính hóa)”, hơn là tin vào Đấng ban ơn cứu
độ cho họ. Và đó cũng chính là “cửa
hẹp” họ cần phải “vào qua”,
nghĩa là họ cần phải hoàn toàn tin tưởng vào một mình Chúa hơn là tự phụ
vào bản thân mình, một lòng tin tưởng biến họ trở thành bé nhỏ, hèn mọn
đáng thương trước nhan Chúa, trước Lòng Thương Xót Chúa, như người thu
thuế lên đền thờ cầu nguyện.
Vì ơn cứu
độ là của Chúa và do chính Chúa ban, chứ không phải của riêng ai và do
công lênh của ai, nên ơn cứu độ có tính cách phổ quát
(universal), tính cách công giáo
(catholic), nhất là đối với những ai tin vào Ngài, dù họ là dân Do Thái
đã từng được Chúa mạc khải trong suốt giòng lịch sử cứu độ, hay dân
ngoại, như Chúa Kitô đã khẳng định và tiên báo trong Bài Phúc Âm hôm
nay: “người
ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên
Chúa’”.
Bởi thế, không phải tất cả dân ngoại đều hư đi, chỉ có dân Chúa mới được
cứu độ, vì được Ngài tuyển chọn và tỏ mình ra cho hơn các dân ngoại
khác.
Do đó, dù là dân Do Thái, hay Kitô hữu đã lãnh nhận phép rửa và thuộc về
Kitô trong Giáo Hội, họ cũng chưa chắc được cứu độ, nếu họ không trung
thành với đức tin của họ, không sống đúng với những gì họ tin tưởng,
trong việc từ bỏ con người cũ là bản thân đã vướng mắc nguyên tội của
họ, và mặc lấy con người mới là Đức Kitô, biết chấp nhận làm theo ý Cha
trên trời trong hết mọi sự và cho đến cùng.
Nhờ
đó,
khi bị thử thách đức tin bởi Thiên Chúa, họ có thể chẳng những không nản
mà còn gia tăng đức tin hơn bao giờ hết, đúng như những gì Kitô hữu giáo
đoàn Do Thái được khuyên nhủ trong Bài Đọc 2 hôm nay:
“Anh em thân mến, anh em đã quên
lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: ‘Hỡi
con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người
quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà
Người chọn làm con’. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên
Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa
phạt. Ngày nay, hẳn ai cũng coi việc sửa dạy là nỗi buồn khổ, hơn là
nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại hoa quả bình an công chính cho
những ai được sửa dạy”.
Một khi ý thức được ơn cứu độ vô cùng cao quí Chúa ban, cho chung loài
người, bao gồm cả bản thân mình, chứ không phải chỉ ban cho bản thân
mình thôi, và phần rỗi vô cùng quan trọng của con người, thì chúng ta
không thể nào không cùng với toàn thể nhân loại nói chung và dân ngoại
nói riêng, vang lên tâm tư của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc
tụng Người.
2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng
trung thành của Chúa tồn tại muôn đời.
Ngày 24 tháng 8
THÁNH BA-TÔ-LÔ-MÊ-Ô, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Bài Ðọc I: Kh 21, 9b-14
"Trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Thiên Thần nói với tôi rằng: "Ngươi hãy đến, ta sẽ chỉ cho ngươi xem phu nhân, bạn của Con Chiên".
Thiên Thần đem tôi lên một núi cao chót vót khi tôi ngất trí, và chỉ cho tôi thấy thành thánh Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng của nó toả ra như đá quý, giống như ngọc thạch, óng ánh tựa pha lê. Thành có tường luỹ cao lớn, trổ mười hai cổng, trên các cổng có mười hai thiên thần, và có khắc tên mười hai chi họ con cái Israel. Phía đông có ba cổng, phía bắc có ba cổng, phía nam có ba cổng, và phía tây có ba cổng. Tường thành xây trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên. Còn đền thờ, tôi không thấy có trong thành, vì Thiên Chúa toàn năng và Con Chiên là đền thờ của thành. Thành không cần mặt trời mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó và đèn của nó chính là Con Chiên.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 10-11. 12-13ab. 17-18
Ðáp: Lạy Chúa, các bạn hữu Chúa nhận biết vinh quang nước Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.
2) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Chúa là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Chúa tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối của Người, và yêu thương mọi kỳ công Người tác tạo. Chúa ở gần những kẻ kêu cầu Người, những kẻ kêu cầu Người với lòng thành thật. - Ðáp.
Alleluia: Ga 1, 49b
Alleluia, alleluia! - Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 1, 45-51
"Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Philipphê gặp Nathanael và nói với ông: "Ðấng đã được Môsê ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nadarét". Nathanael đáp: "Bởi Nadarét nào có cái chi hay?" Philipphê nói: "Hãy đến mà xem".
Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông: "Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối". Nathanael đáp: "Sao Ngài biết tôi?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Nathanael thưa lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel". Chúa Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin, ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa". Và Người nói với ông: "Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người".
Ðó là lời Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một lòng tin vững mạnh, để chúng con thật tình gắn bó với Đức Ki-tô, Con Một Chúa, như thánh Ba-tô-lô-mê-ô tông đồ. Xin Chúa cũng nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con sống thế nào, để muôn dân nhận biết Hội Thánh chính là bí tích cứu độ. Chúng con cầu xin
Thứ
Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tx 1, 1-5. 8b-10
"Anh em đã từ bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa, để trông đợi Con của Người, Ðấng mà Người cho sống lại".
Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Phaolô, Silvanô và Timôthêu kính gửi giáo đoàn Thêxalôni-ca trong Thiên Chúa Cha và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an.
Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em; trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng, tôi nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần, và với lòng xác tín, như khi chúng tôi còn ở giữa anh em, anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em.
Trong mọi nơi, lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa. Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào, và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật, để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, (Ðấng mà Người đã làm cho từ cõi chết sống lại) là Ðức Giêsu, Ðấng đã giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b
Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: 2 Cr 5, 19
Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian với Người, và đã đặt lời giải hoà trên môi miệng chúng tôi. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 23, 13-22
"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài sản của các bà goá, bởi thế, các ngươi sẽ chịu phán xét nặng hơn.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi rảo khắp biển khơi và lục địa, để tìm cho được một người tòng giáo, nhưng khi đã cho người đó tòng giáo, các ngươi làm cho nó trở thành con cái hoả ngục gấp hai lần các ngươi.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù! Vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề, thì không có giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi kẻ ngu ngốc và đui mù, chớ thì vàng hay là đền thờ thánh hoá vàng, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn bảo rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không giá trị gì, nhưng ai lấy của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ thì của lễ hay là bàn thờ thánh hoá của lễ, cái nào trọng hơn?
"Vậy ai lấy bàn thờ mà thề, thì lấy cả bàn thờ và mọi sự để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà thề, thì lấy cả đền thờ và Ðấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà thề, thì lấy ngai toà Thiên Chúa và Ðấng ngự trên ngai toà ấy mà thề".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Coi cái trọng thành cái hèn và coi cái hèn thành cái trọng
Tiến trình của Phúc Âm cho ngày thường
trong Mùa Thường Niên được phân chia như sau: 9 tuần lễ đầu (từ tuần 1
đến hết tuần 9, và là 9 tuần thường niên Hậu Mùa Giáng Sinh) theo Phúc
Âm của Thánh ký Marcô, sau đó là 12 Tuần (từ tuần 10 sang Mùa Phục
Sinh đến hết tuần 21) theo Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, và cuối cùng là
13 tuần (từ tuần 22 đến hết tuần 34) theo Phúc Âm của Thánh ký Luca. Còn
Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho ngày thường trong tuần được Giáo Hội
chọn đọc cho các mùa đặc biệt như Mùa Giáng Sinh (cả tuần trước lễ Hiển
Linh) Mùa Chay (cả tuần 4 và 5) và Mùa Phục Sinh (liên tục từ Tuần 2
trở đi).
"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và
người Pharisiêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho
thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các
người cũng không để họ vào... Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và
người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ
cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại
làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người".
Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao thành phần chỉ đạo cho dân chúng là luật sĩ và biệt phái giả hình này sai lầm cả trong giáo huấn của họ như thế mà Chúa lại bảo cứ nghe họ như trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước? Có thể nói chỉ có người ban hành mới có thể sai lầm còn người tuân hành không bao giờ sai lầm, trừ trường hợp có tội rõ ràng, như Thánh Maximilian Kolbe chỉ dạy, do đó nếu thành phần tuân hành có sai trái cũng không bị phán xét và luận phạt.
Cho dù trước kia chàng Saolê thuộc thành phần biệt phái quá nhiệt thành với Do Thái giáo, với Luật Moisen, đến độ đã bách hại Kitô hữu, nhưng một khi đã trở thành một vị tông đồ dân ngoại, ngài đã chẳng những không phải là thành phần "các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người", mà trái lại những ai được ngài rao giảng về Chúa Kitô bằng tất cả cảm nghiệm thần linh của ngài, nên họ đã sống đức tin một cách chân chính, như ngài đã đề cập tới trong Thư 1 gửi giáo đoàn Thessalonica ở Bài Đọc 1 hôm nay:
"Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em; trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng, tôi nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta. Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần, và với lòng xác tín, như khi chúng tôi còn ở giữa anh em, anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em. Trong mọi nơi, lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa".
Đúng thế, vị tông đồ dân ngoại Phaolô này đã rao giảng Tin Mừng cho họ, "không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần". Bởi thế, cuộc sống đức tin chân chính của họ, dù có qua trung gian của ngài, nhưng chính yếu là do Thiên Chúa, Đấng được Thánh Vịnh 149 ở bài Đáp Ca hôm nay nhận biết và chúc tụng như sau:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.
Ngày 25/8
Thánh Louis Vua Nước Pháp
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã trả lời những người hỏi chị về con đường nhỏ thiêng liêng là con đường nào. Thánh nhân không ngần ngại trả lời :”…Đó là con đường thơ ấu thiêng liêng, đó là con đường của niềm tín thác và sống hoàn toàn tín thác. Con muốn chỉ cho họ những cách thế nho nhỏ rất thành công đối với con. Con sẽ bảo họ rằng ở trần gian này chỉ có một việc phải làm : hãy tặng Chúa Giêsu những bông hoa của các việc hy sinh nho nhỏ, hãy làm Chúa vui thích bằng những sự vuốt ve. Chính đó là cách con đã làm Chúa vui thích, và nhờ đó mà con luôn được Chúa đón nhận “. Các thánh là những con người đã biết tín thác nơi Chúa, đã biết trông cậy ở nơi Ngài thật nhiều, nên các Ngài nhận được nhiều. Thánh Luy, Vua nước Pháp cũng không nằm ngoài thông lệ ấy.
Khi đăng quang làm vua nước Pháp, Louis thề hứa sẽ sống như một người được Thiên Chúa xức dầu, đối xử với người dân như một hiền phụ và là tướng công của Vua Hòa Bình. Dĩ nhiên, các vua khác cũng phải thi hành như vậy. Nhưng Thánh Louis khác biệt ở chỗ ngài thực sự nhìn đến bổn phận làm vua dưới con mắt đức tin. Sau những xáo trộn của hai triều đại trước, ngài đã đem lại hoà bình và công bằng trong nước.
Vua Louis sinh ngày 25 tháng 4 năm 1214 tại Poissy, nước Pháp, con của vua Louis VIII và hoàng hậu Blanche ở Castile. Nhờ sống trong một gia đình đạo đức, cho dù Cha Mẹ của Ngài là Vua, là Hoàng Hậu nước Pháp. Sống trong cảnh giầu sang, phú quí và có quyền hành. Nhưng chính đời sống của Mẹ Ngài đã gây ấn tượng lớn lao trong đời sống của Luy. Mẹ Ngài đã uốn nắn, dậy bảo Luy bằng đời sống thánh thiện của bà. Thánh nhân đã được Mẹ gieo vào tâm hồn những mầm mống đạo đức, thánh thiện suốt cả đời niên thiếu. Đến lúc trưởng thành, vào đời, thánh nhân luôn luôn nhắc đi nhắc lại lời Mẹ nhắn nhủ, bảo ban :” Mẹ thà thấy con chết trước mặt Mẹ, còn hơn thấy con Mẹ phạm tội trọng”.
Ngài được tôn vương lúc 12 tuổi, khi cha ngài từ trần. Mẹ ngài cầm quyền trong thời gian khi ngài còn nhỏ. Năm 19 tuổi, thánh nhân kết hôn với Marguerite, con gái quận công miền Provence. Ðó là một hôn nhân hạnh phúc, bất kể tính tình kiêu căng và náo động của bà hoàng hậu. Hai ông bà sinh hạ cả thảy 11 người con. Với cương vị Vua lãnh đạo, trị vì nước Pháp, Luy luôn tỏ ra công chính, liêm khiết, ngay thẳng, hết mực thương dân chúng, đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Giáo Hội lên trên những lợi ích cá nhân và danh vọng riêng tư. Thánh nhân dù là Vua nhưng đời sống lại không khác gì một thầy Dòng khổ tu : sáng tham dự thánh lễ, đọc kinh nguyện, xưng tội và đánh tội mỗi tuần. Đời sống của Vua Luy thật sự là một đời sống tín thác, trông cậy và yêu mến Chúa. Để thể hiện lòng yêu mến, thánh nhân đã hiểu rõ lời Chúa trong Tin Mừng của thánh Matthêu 25,31-46, Ngài đã tìm dịp để giúp đỡ những kẻ nghèo, thăm viếng và nâng đỡ những người đau yếu tật nguyền.
Khi 30 tuổi, vua Louis “vác thập giá”. Thánh nhân đã lập Đạo Binh Thánh Giá đi chiến đấu với quân phá đạo ở Giêrusalem. Ðạo quân của ngài chiếm Damietta ở sông Nile nhưng sau đó không lâu, vì bệnh kiết lị và thiếu tiếp viện, họ bị bao vây và bị bắt. Vua Louis và đạo quân được trả tự do bằng cách giao lại thành phố Damietta và nộp một số tiền chuộc. Ngài ở lại Syria trong bốn năm. Ngài đã xây một đền thờ sau khi chinh chiến trở về để tôn kính mão gai Chúa Giêsu do Vua Constantin trao lại cho Ngài.
Mọi người thán phục ngài với tư cách của một thập tự quân, nhưng có lẽ công trạng lớn lao hơn của ngài là những lưu tâm về sự công bằng trong nền hành chính. Ngài đặt ra các quy tắc cho các viên chức chính quyền, mà sau đó trở thành những chuỗi luật cải tổ. Ngài thay thế hình thức xét xử đầy bạo lực bằng việc điều tra các nhân chứng, và nhờ ngài thúc giục, việc ghi chép lại các chi tiết trong toà được bắt đầu.
Vua Louis luôn luôn tôn trọng quyền bính của đức giáo hoàng, nhưng ngài bảo vệ quyền lợi của hoàng gia chống với các giáo hoàng và từ chối không công nhận bản án của Ðức Innôxentê IV chống với hoàng đế Frederick II.
Vua Louis là người tận tụy cho dân chúng, ngài thành lập các bệnh viện, thăm viếng người đau yếu, và cũng giống như quan thầy của ngài là Thánh Phanxicô, ngài chăm sóc ngay cả những người bị bệnh cùi. Bởi sự thánh thiện và cá tính của ngài, vua Louis đã đoàn kết nước Pháp thời bấy giờ, với đủ loại người — tướng công, dân thành thị, nông dân, linh mục và các hiệp sĩ. Trong nhiều năm, quốc gia này sống trong an bình.
Vào năm 1267, lo lắng vì những cuộc tấn công mới của người Hồi Giáo vào Syria, vua Louis dẫn đầu cuộc thập tự chinh khác, khi ấy ngài đã 41 tuổi. Năm 1270, thánh nhân còn thiết lập một Đạo Binh Thánh Giá mới để chống lại quân Hồi Giáo đang hung hăng tàn sát đạo. Tuy nhiên một cơn dịch nặng nề đã khiến Đạo Binh của Ngài tan rã và thánh Luy đã lâm trọng bệnh, trở về nhà Cha vào ngày 25 tháng 8 năm 1270.Chỉ trong vòng một tháng, đạo quân bị tiêu hao nhiều vì bệnh tật, và chính vua Louis đã từ trần ngày 25 tháng 8 năm 1270 tại Tunis, Algeria khi 44 tuổi.; thánh tích của ngài để tại nhà Saint Denis, Paris, nước Pháp; bị tiêu hủy năm 1793 trong thời cách mạng Pháp. Hai mươi bảy năm sau, ngài được Đức Giáo Hoàng Bonifacius VIII phong thánh năm 1297.
Thánh Louis là người có ý chí mạnh mẽ và kiên quyết. Lời của ngài thực sự đáng tin, và sự can trường của ngài thật đáng kể. Ðiều đặc biệt nhất là ngài tôn trọng bất cứ ai mà ngài gặp, nhất là những “người bé mọn của Thiên Chúa.” Ðể chăm sóc dân chúng, ngài xây dựng nhà thờ, thư viện, nhà thương và cô nhi viện. Ngài cũng đối xử với các hoàng tử một cách thành thật và công bằng. Ngài hy vọng cũng sẽ được đối xử tương tự bởi Vua các vua, là Người mà ngài đã dâng hiến cuộc đời, gia đình và quê hương.
Chúa mời gọi mọi người nên thánh. Đường nên thánh không chỉ dành riêng cho giới tu sĩ được đặc tuyển, nhưng con đường nên thánh dành cho mọi người. Từ thứ dân đến Vua Chúa thế trần đều được Chúa mời gọi sống thánh thiện và trở nên thánh. Thánh Luy IX, Vua nước Pháp đã cậy trông nơi Chúa hết lòng, nên Ngài cũng được Chúa cho lãnh nhận thật nhiều những ơn huệ cao quí. Thánh nhân đã lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa: Hoàng Hậu và các con của Ngài quả thực là những tặng phẩm cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho Ngài để Ngài làm vinh danh Chúa và cứu vớt các linh hồn.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, tổng hợp từ website dòng tên và cộng đoàn dũng lạc
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tx 2, 1-8
"Chúng tôi rất vui lòng trao phó anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống chúng tôi nữa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chính anh em cũng biết rằng sự chúng tôi đến với anh em không phải là luống công; nhưng dù khi trước chúng tôi phải khốn khổ, sỉ nhục tại thành Philipphê, như anh em đã biết, chúng tôi vẫn cậy trông vào Thiên Chúa chúng ta mà chuyên lo rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em. Vì chưng chúng tôi không khuyên dạy những điều sai lầm, những điều ô uế, những điều gian dối, nhưng như chúng tôi đã được Thiên Chúa thử thách để anh em được tin theo Tin Mừng thế nào, thì chúng tôi giảng dạy mà không muốn làm đẹp lòng người đời, nhưng muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, Ðấng thử thách tấm lòng chúng tôi như vậy.
Bởi vì chúng tôi không bao giờ nói lời dua nịnh, như anh em biết, và cũng không tìm dịp trục lợi, như Thiên Chúa chứng giám: chúng tôi không cầu vinh nơi loài người, dầu với anh em hay với ai khác, dù chúng tôi có thể làm phiền hà anh em, với danh nghĩa là Tông đồ của Ðức Kitô, nhưng chúng tôi đã trở thành như những kẻ bé mọn giữa anh em. Như người vú nuôi nâng niu con cái mình thế nào, thì chúng tôi yêu thương anh em đến nỗi chúng tôi rất vui lòng trao phó cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống chúng tôi nữa: vì anh em đã nên thiết nghĩa với chúng tôi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 138, 1-3. 4-6
Ðáp: Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con (c. 1a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con. Ngài biết con, lúc con ngồi khi con đứng; Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con. - Ðáp.
2) Khi lời nói chưa lên tới đầu lưỡi, thì kìa, lạy Chúa, Ngài đã biết cả rồi; sau lưng hay trước mặt, Chúa bao bọc thân con, và trên mình con, Chúa đặt tay. Ðối với con sự thông minh này quá ư huyền diệu, quá cao xa, con thực không thể hiểu ra. - Ðáp.
Alleluia: Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 23, 23-26
"Phải làm những điều này, và không bỏ các điều kia".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, hồi hương và thì là, còn những điều quan trọng hơn trong lề luật, là đức công bình, lòng nhân từ và lòng tin thì các ngươi lại bỏ qua; đáng lẽ phải làm những điều này và không bỏ các điều kia.
"Hỡi những kẻ dẫn đường đui mù, các ngươi gạn lọc một con muỗi ra, nhưng lại nuốt trửng cả con lạc đà. Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, vì các ngươi rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong, các ngươi đầy gian tham và nhơ bẩn. Hỡi những người biệt phái đui mù, hãy rửa bên trong chén đĩa trước đã, để bên ngoài cũng được sạch".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Coi trọng cái
thường và coi thường cái trọng
Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XXI Thường Niên vẫn tiếp tục những lời Chúa Giêsu khiển trách nặng nề thành phần luật sĩ và biệt phái. Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua Người khiển trách họ đặc biệt về giáo huấn sai lầm của họ thì hôm nay Người khiển trách họ về khuynh hướng của họ, hoàn toàn phản ảnh thứ giáo huấn lệch lạc họ chủ trường và truyền dạy cho người khác, đó là coi trọng cái thường và coi thường cái trọng, đó là coi trọng bên ngoài mà lại coi thường bên trong:
"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và
người Pharisiêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì
là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý,
lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia
thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi,
nhưng lại nuốt con lạc đà.
Sở dĩ thành phần biệt phái và luật sĩ là "những người dẫn đường đui mù" bởi họ giảng dạy sai trái kèm theo gương mù gương xấu của họ, là vì họ chưa được phúc như chàng biệt phái Saolê, ở chỗ bị "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) quật ngã trên đoạn đường chàng đang hăng say và mù quáng đi Damasco bách hại Kitô hữu, và chính nhờ được chiếm đoạt bởi "ánh sáng ban sự sống" (Gioan 8:12) là Chúa Kitô mà chàng mới xứng đáng và có đủ khả năng hoàn thành sứ vụ tông đồ dân ngoại của mình, với một thứ giáo huấn chân truyền có sức cứu độ, bằng đường lối chứng nhân trung thực của Chúa Kitô, như những gì ngài nói với giáo đoàn Thessalonica trong Thư 1 ở Bài Đọc 1 hôm nay:
"Chúng tôi không khuyên dạy những điều sai lầm, những điều ô uế, những điều gian dối, nhưng như chúng tôi đã được Thiên Chúa thử thách để anh em được tin theo Tin Mừng thế nào, thì chúng tôi giảng dạy mà không muốn làm đẹp lòng người đời, nhưng muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, Ðấng thử thách tấm lòng chúng tôi như vậy. Bởi vì chúng tôi không bao giờ nói lời dua nịnh, như anh em biết, và cũng không tìm dịp trục lợi, như Thiên Chúa chứng giám: chúng tôi không cầu vinh nơi loài người, dầu với anh em hay với ai khác, dù chúng tôi có thể làm phiền hà anh em, với danh nghĩa là Tông đồ của Ðức Kitô, nhưng chúng tôi đã trở thành như những kẻ bé mọn giữa anh em. Như người vú nuôi nâng niu con cái mình thế nào, thì chúng tôi yêu thương anh em đến nỗi chúng tôi rất vui lòng trao phó cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống chúng tôi nữa: vì anh em đã nên thiết nghĩa với chúng tôi".
Những gì Thánh Phaolô nói trong Bài Đọc 1 hôm nay là những gì chân thật, xuất phát từ tận đáy lòng của ngài, chứ không phải để vuốt ve nịnh bợ giáo đoàn Thessalonica nhờ đó ngài được họ mến thương cảm phục. Nếu ngài muốn mị dân thì ngài đã chẳng khiển trách giáo đoàn Corintô về những vấn đề xẩy ra giữa họ, phản lại với Tin Mừng Phúc Âm ngài rao giảng cho họ. Ngài là con người của Chúa, nên ngài luôn sống trước nhan Chúa, với tất cả niềm tin tưởng của ngài, như những câu đầy xác tín của Thánh Vịnh 138 ở bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con. Ngài biết con, lúc con ngồi khi con đứng; Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con.
2) Khi lời nói chưa lên tới đầu lưỡi, thì kìa, lạy Chúa, Ngài đã biết cả rồi; sau lưng hay trước mặt, Chúa bao bọc thân con, và trên mình con, Chúa đặt tay. Ðối với con sự thông minh này quá ư huyền diệu, quá cao xa, con thực không thể hiểu ra.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tx 2, 9-13
"Chúng tôi làm việc ngày đêm để rao giảng Tin Mừng giữa anh em".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, anh em vẫn còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em. Chính anh em là nhân chứng và cả Thiên Chúa cũng làm chứng: chúng tôi ăn ở thánh thiện, công chính và không đáng trách điều gì đối với anh em là những kẻ đã tin. Như anh em biết, chúng tôi đối xử với mỗi người trong anh em như cha đối xử với con cái mình, khi chúng tôi khuyên răn, khích lệ và van nài anh em hãy ăn ở sao cho xứng đáng với Thiên Chúa, Ðấng đã kêu gọi anh em vào hưởng nước trời và vinh quang của Người.
Bởi thế, chúng tôi không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, vì khi anh em nhận lãnh lời Thiên Chúa do chúng tôi rao giảng, anh em đã nhận lãnh lời ấy không phải như lời của người phàm, mà như lời Thiên Chúa, và thực sự là thế, lời đó hoạt động trong anh em là những kẻ đã tin.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 138, 7-8. 9-10. 11-12ab
Ðáp: Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con (c. 1a).
Xướng: 1) Con đi đâu để xa khuất được thần linh của Chúa? Con trốn đâu cho khỏi thiên nhan Ngài? Nếu con leo được lên trời, thì cũng có Ngài ngự đó; nếu con nằm dưới âm phủ, thì đấy cũng có mặt Ngài. - Ðáp.
2) Nếu con mượn đôi cánh của hừng đông, và bay đến cư ngụ nơi biên cương biển cả, tại nơi đấy cũng bàn tay Chúa dẫn dắt con, và tay hữu Ngài nắm giữ con. - Ðáp.
3) Nếu con nói: "Phải chi sự tối tăm che phủ, và sự sáng trở thành đêm bao quanh con", thì đối với Ngài sự tối sẽ không có tối, và đêm sẽ sáng sủa như ban ngày. - Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 23, 27-32
"Các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: vì các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi thứ dơ nhớp. Các ngươi cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác. Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công chính, và các ngươi nói rằng: "Nếu chúng tôi sống thời cha ông chúng tôi, ắt chúng tôi không thông đồng với các ngài trong việc đổ máu các tiên tri". Vì thế, các ngươi tự chứng thực các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri. Vậy các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Cảnh giác thành phần giấu đầu hở đuôi
Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXI Thường Niên, Giáo Hội tiếp tục bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu liên quan đến thành phần sư phụ trong dân Do Thái là luật sĩ và biệt phái, như trong 2 bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia.
Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục khiển trách hai thành phần sư phụ trong dân này về thái độ giả hình chính yếu của họ, bề ngoài có vẻ đạo mạo tốt lành còn bề trong thì xấu xa ghê tởm, và bề ngoài có vẻ ta đây tốt lành chứ không giống như cha ông của mình đã từng sống bê bối tồi tàn.
Trước hết, về thái độ giả hình chính yếu của họ, bề ngoài có vẻ đạo mạo tốt lành còn bề trong thì xấu xa ghê tởm:
"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: vì các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi thứ dơ nhớp. Các ngươi cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác".
Đúng thế, "các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác", ở chỗ họ chủ trương công chính là tuân giữ trọn vẹn lề luật, nhưng một cách vị luật hơn là vị nhân, nghĩa là thà giữ luật hơn là làm lành và cứu giúp tha nhân khi cần trong ngày hưu lễ (xem Mathêu 12:10-12), như có bao nhiêu lần họ đã cự lại Chúa Giêsu vì Người đã chữa lành trong ngày hưu lễ. Bởi thế, đã có lần Người đã nhắc nhở họ rằng: "Hãy đi mà học ý nghĩa của câu 'Ta muốn tình thương chứ không phải tế vật'" (Mathêu 9:13;12:7).
Họ đã chẳng coi lễ vật hơn tình thương là gì, đúng như giáo huấn và chủ trương lệch lạc của họ ở trong hai bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia về việc coi thường cái trọng và coi trọng cái thường, coi thường cái chính và coi trọng cái phụ. Họ quả thực đã không nắm bắt được nguyên tắc và mục đích của luật lệ họ nắm giữ đó là "ngày hưu lễ được thiết lập vì con người hơn là con người vì ngày hưu lễ" (Marco 2:27).
Sau nữa, về thái độ giả hình có vẻ ta đây tốt lành chứ không giống như cha ông của mình đã từng sống bê bối tồi tàn trong quá khứ:
"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các
ngươi xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công
chính, và các ngươi nói rằng: 'Nếu chúng tôi sống thời cha ông chúng
tôi, ắt chúng tôi không thông đồng với các ngài trong việc đổ máu các
tiên tri'. Vì thế, các ngươi tự chứng thực các ngươi là con cháu những
kẻ đã giết các tiên tri. Vậy các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông
các ngươi".
Thật vậy, "các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi", ở chỗ họ là hậu sinh của cha ông họ đã đích thân tố cáo tội lỗi của cha ông họ trong việc cha ông họ sát hại các tiên tri và những người công chính được Thiên Chúa sai đến với dân tộc họ trong giòng lịch sử cứu độ của họ.
Và họ đã đích thân tố cáo tội lỗi cha ông của họ, đã "đong cho đầy đấu của cha ông" họ, bằng cách đã "xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công chính" là thành phần bị cha ông họ bách hại và sát hại. Thế nhưng, như Chúa Giêsu cho biết, chính việc làm này của họ lại tố cáo họ "là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri", chứ chẳng hơn gì cha ông của họ, một giòng dõi còn phạm tội nặng hơn cha ông mình nữa khi tìm cách sát hại chính Con Thiên Chúa làm người là bản thân Người, Đấng Thiên Sai của họ.
Nếu thành phần biệt phái và luật sĩ
"xây đắp phần mộ các tiên tri, trang
hoàng mồ mả những người công chính... Vì thế, các ngươi tự chứng thực
các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri. Vậy các ngươi cứ
đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi" thế nào thì dân ngoại nói
chung và giáo đoàn Thessalonica nói riêng, trong Bài Đọc 1 hôm nay cũng
chứng thực cho thấy về vị tông đồ dân ngoại Phaolô đã được sai đến rao
giảng cho họ ra sao, để nhờ đó họ nhận biết Chúa Kitô mà được cứu rỗi
thế nào: "Anh em nhận lãnh lời Thiên Chúa do chúng tôi rao giảng,
anh em đã nhận lãnh lời ấy không phải như lời của người phàm, mà như lời
Thiên Chúa, và thực sự là thế, lời đó hoạt động trong anh em là những kẻ
đã tin".
Nếu Thánh Phaolô rao giảng một cách bất xứng và thất cách, như thành phần luật sĩ và biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, thì ngài không thể nào mang lại đức tin cho giáo đoàn Thessalonica như vậy. Trái lại, như ngài tự thú trong Bài Đọc 1 hôm nay rằng: "Chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em. Chính anh em là nhân chứng và cả Thiên Chúa cũng làm chứng: chúng tôi ăn ở thánh thiện, công chính và không đáng trách điều gì đối với anh em là những kẻ đã tin. Như anh em biết, chúng tôi đối xử với mỗi người trong anh em như cha đối xử với con cái mình, khi chúng tôi khuyên răn, khích lệ và van nài anh em hãy ăn ở sao cho xứng đáng với Thiên Chúa, Ðấng đã kêu gọi anh em vào hưởng nước trời và vinh quang của Người".
Tất cả những gì Thánh Phaolô nói với giáo đoàn Thessalonica trong Bài Đọc 1 hôm nay, không phải là để khoe khoang và tự phụ tự mãn về những gì ngài làm, trái lại, như chính ngài minh định: "Chính anh em là nhân chứng và cả Thiên Chúa cũng làm chứng". Nghĩa là ngài chỉ nói lên tất cả sự thật để làm gương sống đức tin và đức ái cho họ mà thôi, một sự thật không thể chối cãi trước nhan Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tất cả mọi sự, như những xác tín của bài Đáp Ca hôm nay, cũng chính là những gì ngài xác tín như sau:
1) Con đi đâu để xa khuất được thần linh của Chúa? Con trốn đâu cho khỏi thiên nhan Ngài? Nếu con leo được lên trời, thì cũng có Ngài ngự đó; nếu con nằm dưới âm phủ, thì đấy cũng có mặt Ngài.
2) Nếu con mượn đôi cánh của hừng đông, và bay đến cư ngụ nơi biên cương biển cả, tại nơi đấy cũng bàn tay Chúa dẫn dắt con, và tay hữu Ngài nắm giữ con.
3) Nếu con nói: "Phải chi sự tối tăm che phủ, và sự sáng trở thành đêm bao quanh con", thì đối với Ngài sự tối sẽ không có tối, và đêm sẽ sáng sủa như ban ngày.
Ngày 27 tháng 8
Thánh nữ Mô-ni-ca
lễ nhớ bắt buộc
Thánh Monica sinh vào năm 332 tại một thành phố nhỏ thuộc vùng Bắc Phi. Tại quê hương của Ngài lúc đó vẫn còn rất nhiều người ngoại giáo, và các Ki-tô hữu ở đây chỉ là một nhóm nhỏ. Thật hạnh phúc cho Monica vì cha mẹ của Ngài là những Ki-tô hữu thánh thiện.
Khi Monica đến tuổi trưởng thành, cô đã được gả cho một viên chức trong thành phố tên là Patrik. Nhưng Patrik lại là người ngoại. Việc một nữ Ki-tô hữu kết hôn với một người ngoại là điều không mấy phổ biến hồi ấy, vì các Ki-tô hữu thời ấy thường chỉ kết hôn với nhau chứ không bao giờ có những cuộc hôn nhân hỗn hợp giữa người Ki-tô hữu và người ngoại giáo. Nhưng dẫu vậy thì trường hợp của Monica cũng có thể giải thích được. Tại quê của Ngài lúc đó có rất ít các Ki-tô hữu, nên cô gái Monica hầu như không có chọn lựa nào khác ngoài việc phải kết hôn với một người ngoại. Nhưng sự chọn lựa này đã trở thành nguyên cớ để sau này Monica phải hối tiếc với rất nhiều nước mắt, vì chồng của bà rất dễ dàng nảy đóa. Và với tư cách là người ngoại đạo, ông ta không hề biết đến giới luật Ki-tô giáo, nên ông ta rất dễ dàng cáu tức với những sự việc dù đó là những điều nhỏ nhoi nhất. Ông ta thường xuyên đánh đập vợ mình. Đó là một nỗi cay nghiệt đối với Monica, nhưng Monica coi Thánh Giá này còn nhẹ hơn cả nỗi khổ đau khác mà một người mẹ Ki-tô hữu phải mang, đó là việc trong số những đứa con của bà, có một kẻ vô cùng mất dậy.
Monica có ba người con, hai cậu con trai và một cô con gái. Ngay từ lúc Thánh Monica còn sinh thời, cô con gái này đã là ánh sáng mặt trời đối với Bà. Cậu con thứ của Bà cũng rất ngoan ngoãn và tốt lành. Nhưng đứa con trai cả của bà tên là Augustinô thì lại là một kẻ lười biếng thực thụ.
Dù là kẻ biếng nhác đúng nghĩa, nhưng Augustinô lại luôn mang về nhà những kết quả tốt đẹp trong việc học tập. Tuy vậy, bà Monica vẫn phải thường xuyên nghe các thầy cô giáo than phiền về đứa con trai của bà, vì đứa con này thường xuyên trốn học, thiếu tập trung trong lớp, hay nói leo và thường xuyên kích động bạn bè. Người mẹ tội nghiệp Monica không thể cãi được bất cứ một lời nào trước những than phiền đó, vì bà biết rất rõ rằng, những lời than phiền đó quá thực. Chưa hết, Augustinô còn thường xuyên nói dối mẹ mình. Đã vậy, anh ta còn đánh cắp nhiều đồ đạc của mẹ. Không chỉ thiếu vâng lời với mẹ, Augustinô còn tỏ ra là một đứa con ngỗ nghịch và bướng bỉnh theo đúng nghĩa đen nữa.
Monica còn phải đối diện với một chuyện tồi tệ hơn, vì khi Augustinô tới tuổi trưởng thành, anh đã sa vào nhóm những đồng nghiệp xấu. Ngay lập tức toàn thành phố xì xèo về anh, và vì thế mẹ anh đã cảm thấy vô cùng xấu hổ và mất mặt, bởi con của bà là một đứa con đồi bại. Nhưng Augustinô còn tỏ ra tai quái và khốn nạn ở chỗ là, vì sự cuồng vọng, anh không ngừng khoe khoang về những hành vi đáng xấu hổ của mình, và anh muốn chứng tỏ với mọi người rằng, anh là kẻ đồi bại nhất trong nhóm những người bạn vốn đã vô cùng xấu xa của anh.
Hồi đó, bà Monica thường xuyên nhắc nhở đứa con trai ngỗ ngược của bà phải làm điều lành, phải sống nghiêm túc và tốt lành, nhưng Augustinô chỉ phản ứng lại với một cái nhún vai trước những lời trách móc đầy từ mẫu của mẹ. Và khi Augustinô coi những lời nhắc nhở của mẹ là sự quấy nhiễu càng ngày càng quá sức chịu đựng đối với mình, anh đã trốn khỏi nhà. Vào năm 370, Augustinô đã trốn nhà và đi đến Carthago, tức Tunisie ngày ngay. Sau đó anh đi tới Rô-ma và tới Milan.
Từ khi Augustinô trốn nhà ra đi, cuộc đời của Thánh Monica không còn có điều chi đặc biệt ngoài việc dành trọn thời gian để cầu nguyện cho đứa con ngỗ ngược đó. Trong lúc cầu nguyện, nước mắt đắng cay của bà không ngừng tuôn rơi, và chỉ mong sao đứa con trai cả của mình mau sám hối quay về. Càng không thấy Augustinô quay về, bà càng cầu nguyện thiết tha hơn cũng như càng than khóc nhiều hơn, đến độ một lần kia vị Giám mục Giáo phận đã phải an ủi và nói với bà rằng:
“Này bà mẹ Monica! Giờ của Chúa chưa điểm đối với con bà. Bà hãy tiếp tục cầu nguyện cho nó và hãy tin tưởng hy vọng, vì một đứa con của quá nhiều nước mắt và lời cầu nguyện sẽ không thể hư đi mất.”
Vị Giám Mục trên đã có lý. Tuy nhiên, Thánh Monica đã phải mất tới 18 năm trời để khóc và cầu nguyện cho con trai của bà. Thiên Chúa đã để cho bà phải chờ đợi trong cầu nguyện và nước mắt suốt 18 năm trời rồi Ngài mới chấp nhận chịu thua trước sức tấn công như vũ bão của bà.
Cuối cùng, những lời cầu nguyện đầy tin tưởng và tín tác trong một cách thức quá ư tuyệt hảo của người mẹ này đã được lắng nghe. Vào năm 385, khi biết được Augustinô đang ở Milan, bà đã đến đó để cùng đồng hành với con. Dưới sự ảnh hưởng tích cực của Thánh Ambrosiô Giám Mục Milan hồi đó, Augustinô đã trở lại và xin lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy. Vào ngày 15 tháng 08 năm 386, Augustinô đã được lãnh nhận các Bí Tích khai tâm Ki-tô giáo từ chính tay Đức Giám Mục Ambrosiô. Augustinô đã tỏ ra hoán cải một cách thực sự cũng như đã hoán cải một cách hoàn toàn, đến độ Ngài đã trở thành một vị đại Thánh. Có thể nói được rằng, nếu không nhờ vào lời cầu nguyện liên lỷ và kiên tâm của Thánh Nữ Monica thì cuộc trở lại của Augustinô, trong chừng mực nào đó, hầu như đã không xảy ra. Sau khi đạt được ước nguyện với việc trở lại của con trai mình, vào Lễ Phục Sinh năm 387, Thánh Monica đã lên đường trở về quê hương với sự đồng hành của chính Augustinô. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 387 khi vừa mới chỉ đến được thành phố cảng Ostia của Ý, Thánh Nữ Monica đã bị lên cơn sốt và qua đời ở đó. Thánh Nữ đã qua đời trước niềm vui bởi ước nguyện lớn nhất của đời bà đã xảy ra trước đó không lâu: bà đã được tận mắt chứng kiến cảnh đứa con trai cả của mình hoán cải và làm hòa với Thiên Chúa. Và việc đứa con mà bà đã phải vô cùng lo lắng và chăm lo cho nó, giờ đây đã trở thành một vị Thánh, đó chính là một niềm hạnh phúc không gì sánh bằng đối với bà, vì đối với một người Mẹ, không có vinh dự nào lớn lao nơi Thiên Chúa và nơi con người cho bằng việc bà có một đứa con thánh thiện. “Tất cả những gì tôi là, tôi đều phải biết ơn Mẹ tôi” – Thánh Augustinô đã thừa nhận một cách công khai như thế. Và đó cũng là lời khen tuyệt vời nhất mà một người con trai có thể dâng lên người mẹ tuyệt trần của mình!
Sau khi Thánh Nữ Monica qua đời, con trai của bà là Augustinô đã an táng Thân Mẫu mình ngay tại nơi bà qua đời, tức tại thành phố cảng Ostia của Ý.
Vào năm 1162, các Thánh Tích của Thánh Monica đã được cung nghinh tới Arras thuộc khu vực miền Bắc nước Pháp. Kể từ đó việc tôn kính Thánh Nữ Monica mới được lan rộng. Vào năm 1430, Đức Thánh Cha Martin V đã ra lệnh cung nghinh các Thánh Cốt của Thánh Monica từ Ostia về Rô-ma, và đặt các Thánh Cốt đó trong một nhà thờ được gọi tên theo tên của con trai bà, đó là nhà thờ S. Agostino tại Rô-ma.
Vào năm 1945 người ta đã phát hiện ra một phần di tích của ngôi mộ Thánh Monica tại Ostia.
Từ thế kỷ thứ XIII tới năm 1969, Thánh Monica được Giáo hội cử hành Lễ mừng vào ngày mồng 04 tháng 05. Nhưng kể từ cuộc cải tổ lịch Phụng Vụ vào năm 1969, Lễ kính Thánh Monica được dời sang ngày 27 tháng 08, ngay ngày hôm trước Lễ kính Thánh Augustinô, con trai của Bà. Giáo hội Công giáo mừng kính Thánh Nữ Monica với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III. Và Giáo đặt Thánh Monica làm Nữ Bổn Mạng của giới phụ nữ cũng như của các bà mẹ Công giáo.
Lm. Đa-minh Thiệu
Ta hãy tìm cách đạt tới sự khôn ngoan vĩnh cửu
Trích sách Tự thuật của thánh Âu-tinh, giám mục.
Hôm ấy, gần tới ngày mẹ con ra khỏi đời này -ngày mà Chúa biết rõ, còn chúng con thì không-, đã xảy ra một chuyện mà bây giờ con tin là đã do Chúa sắp đặt theo đường lối nhiệm mầu của Chúa : lúc đó chỉ có hai mẹ con chúng con đứng tựa cửa sổ quay ra thửa vườn bên cạnh ngôi nhà chúng con đang ở, gần Ốt-ti-a, bên bờ sông Ti-be. Nơi đây xa chỗ đông người, chúng con muốn nghỉ ngơi cho khoẻ lại sau những ngày đường xa mệt nhọc, hầu có thể lên tàu tiếp tục chuyến đi. Chỉ có hai mẹ con chúng con trò chuyện rất thân mật. Chúng con muốn quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước. Đứng trước Chân Lý là chính Chúa, chúng con cùng nhau tìm hiểu xem cuộc sống vĩnh cửu của các thánh sẽ ra sao, cuộc sống mà mắt không hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới. Chúng con nao nức mở rộng tâm hồn hớp lấy những dòng nước từ trời cao đổ xuống, nước suối nguồn của Chúa, suối ban sự sống bắt nguồn từ nơi Chúa.
Con đã nói những điều như trên đây, cho dầu cách nói có khác, từ dùng có khác. Nhưng lạy Chúa, Chúa biết là hôm ấy, đang khi chúng con nói với nhau những chuyện như thế, và đúng lúc thế gian này cùng với tất cả những khoái lạc của nó không còn chút giá trị gì nữa đối với chúng con qua những lời chúng con trao qua đổi lại, thì mẹ con nói : “Con ơi, riêng phần mẹ, mẹ chẳng còn lấy chi làm vui thích trên trần gian này nữa, chẳng còn biết làm gì nơi đây, cũng chẳng biết còn lý do nào mà ở lại đây. Mẹ chẳng còn trông mong gì trên đời này nữa. Trước đây, lý do duy nhất khiến mẹ ước mong được nán lại thêm một chút trong cuộc sống này là để nhìn thấy con thành một Ki-tô hữu trong Hội Thánh Công Giáo trước khi mẹ nhắm mắt lìa đời. Thiên Chúa đã ban cho mẹ quá lòng mẹ mong ước : mẹ còn đang được thấy con khinh chê hạnh phúc trần gian mà làm tôi tớ phụng sự Người. Bây giờ mẹ ở đây làm gì nữa ?”
Con cũng chẳng nhớ rõ đã trả lời mẹ con thế nào, nhưng hơn kém năm ngày sau thì mẹ con ngã bệnh. Người bị sốt rét. Trong cơn bệnh ấy, một ngày kia, có lúc người bị ngất đi trong giây lát, không còn biết có ai đứng xung quanh nữa. Chúng con chạy cả lại, nhưng người hồi tỉnh ngay. Thấy hai anh em con đứng bên, người lên tiếng nói như thể đang tìm kiếm một cái gì : “Hồi nãy mẹ ở đâu thế ?”
Rồi thấy chúng con đứng chết lặng vì buồn phiền, người bảo : “Chôn cất mẹ ở đây, chúng con nhé !” Con nín thinh và cố cầm nước mắt. Em con thì nói câu gì đó tỏ ý ước mong mẹ con đừng bỏ thân nơi đất khách quê người, nhưng nên nhắm mắt tại quê hương xứ sở. Được như vậy thì hạnh phúc hơn. Nghe thấy thế, nét mặt lo âu, người nhìn em con, trách chú ấy sao lại thích những chuyện như vậy. Rồi người nhìn con mà bảo : “Con xem nó nói gì vậy ?” Lát sau, người bảo cả hai chúng con : “Xác này, cứ chôn chỗ nào cũng được. Đừng bận tâm lo lắng gì chuyện đó. Mẹ chỉ xin hai con một điều, là dù chúng con ở đâu, thì cũng nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa.” Sau khi đã cố tìm lời giải thích điều đó, người im tiếng luôn và chịu đau đớn nhiều vì cơn bệnh trở nên trầm trọng.
Lạy Chúa là Đấng an ủi những ai sầu khổ, Chúa đã đoái thương nhậm lời thánh Mô-ni-ca khóc than cầu khẩn, mà cho con bà là Âu-tinh được ăn năn trở lại cùng Chúa. Xin cũng nhậm lời hai thánh chuyển cầu, mà cho chúng con biết thật tình ăn năn hối lỗi, để được Chúa khoan hồng thứ tha. Chúng con cầu xin
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tx 3, 7-13
"Xin Chúa ban cho anh em lòng yêu thương nhau và yêu thương mọi người".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, vì đức tin anh em, chúng tôi được an ủi nơi anh em trong mọi nỗi quẫn bách và gian truân, hiện giờ chúng tôi cảm thấy được sống, vì thấy anh em đứng vững trong Chúa. Vậy chúng tôi phải cảm tạ ơn Chúa thế nào thay cho anh em, vì nỗi vui mừng chúng tôi được hưởng trước mặt Thiên Chúa chúng ta nhờ anh em. Ðêm ngày chúng tôi gia tăng lời cầu nguyện, để được gặp mặt anh em lại và bổ túc những gì thiếu sót trong đức tin của anh em. Xin chính Thiên Chúa là Cha chúng ta, và Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, dẫn đàng đưa chúng tôi tới anh em. Về phần anh em, xin Chúa ban cho anh em được gia tăng và dồi dào lòng yêu thương nhau và yêu thương mọi người, như chính chúng tôi yêu thương anh em: để làm cho lòng anh em nên vững vàng trong sự thánh thiện, không còn điều gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đến làm một cùng tất cả các thánh của Người. Amen.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 89, 3-4. 12-13. 14 và 17
Ðáp: Xin cho chúng con sớm đươc no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan (c. 14).
Xướng: 1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.
2) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
3) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con. Sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố; xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra. - Ðáp.
Alleluia: Cl 3, 16a và 17c
Alleluia, alleluia! - Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em; anh em hãy nhờ Ðức Kitô mà tạ ơn Thiên Chúa Cha. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 24, 42-51
"Các con hãy sẵn sàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.
"Vậy các con nghĩ ai là đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ? Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ nó đến thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người ấy lên coi sóc tất cả gia sản ông. Nhưng nếu đầy tớ ấy xấu, nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", rồi nó đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa: chủ đầy tớ ấy trở về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ xé xác nó ra, và cho nó chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Cảnh giác thành phần đầy tớ vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm
Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Năm Tuần XXI Thường Niên hôm nay, những ngày cuối cùng của tuần cuối cùng theo Phúc Âm Thánh Mathêu cho ngày thường trong tuần, bao gồm những câu cuối của đoạn 24, đoạn mà phần trên nói về ngày tận thế, một sự kiện cánh chung Giáo Hội chưa muốn nhắc đến ở đây và vào thời điểm phụng vụ giữa mùa thường niên này, mà là ở vào tuần lễ cuối cùng của phụng niên là tuần thứ 34, với các bài Phúc Âm của Thánh ký Luca đoạn 21, cho 3 ngày Thứ Ba, Thứ Tư và Thứ Năm trong tuần lễ cuối cùng này.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu không còn nói với cả dân chúng lẫn các môn đệ của Người nữa, như 4 bài Phúc Âm trước đây, về thành phần thày dạy trong dân là luật sĩ và biệt phái, mà nói riêng với các môn đệ của Người về chính phận sự phục vụ của các vị trong việc "coi sóc gia nhân để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ?" như là những người "đầy tớ trung tín và khôn ngoan" được chủ đã tuyển chọn.
Thật vậy, các môn đệ của Chúa Kitô đã được Người tuyển chọn để phục vụ Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người để "phân phát lương thực" là Lời Chúa và Bí Tích Thánh, nhất là Bí Tích Thánh Thể để đáp ứng nhu cầu sống đức tin của Kitô hữu là thành phần "gia nhân" thuộc nhiệm thể Giáo Hội.
Trong câu "coi sóc gia nhân để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ?" này của Chúa Giêsu ở bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy bao gồm 3 sứ vụ hay chức năng chính yếu của hàng giáo phẩm trong Giáo Hội là thành phần thừa kế các tông đồ: 1- "coi sóc": vai trò quản trị của hàng giáo phẩm nói chung và của từng vị giám mục ở địa phương nói riêng, 2- "phân phát": vai trò giảng dạy ("phân phát" Lời Chúa) và 3- thánh hóa (ban phát Bí Tích).
Những vị nào chu toàn 3 sứ vụ chính yếu này của mình thì là những người "đầy tớ trung tín và khôn ngoan", bằng không, họ là những người đầy tớ bất trung và bất khôn.
Nếu thành phần "đầy tớ trung tín và khôn ngoan" được chủ tưởng thưởng ở chỗ: "đặt người ấy lên coi sóc tất cả gia sản ông" thì thành phần đầy tớ bất trung (với phận sự phục vụ chính yếu của mình) và bất khôn (vì hưởng thụ hơn phục vụ theo gương chủ là Đấng đã tuyển chọn mình), họ sẽ bị trừng phạt xứng đáng, như Chúa Giêsu nói đến ở cuối bài Phúc Âm:
"Nếu đầy tớ ấy xấu, nghĩ trong lòng rằng: 'Chủ tôi về muộn', rồi nó đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa: chủ đầy tớ ấy trở về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ xé xác nó ra, và cho nó chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Trong câu cảnh giác về thành phần đầy tớ bất trung và bất khôn này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy hình như vẫn còn lảng vảng đâu đây hình ảnh của thành phần thày dạy trong dân Do Thái là luật sĩ và biệt phái, khi Người bao gồm cụm từ: "chung số phận với những kẻ giả hình", thành phần mới bị Người thậm tệ quở trách trong 3 bài Phúc Âm đầu tuần này.
Đáng lẽ đoạn nói về hạng sư phụ luật sĩ và biệt phái này ở đoạn 23 của Phúc Âm Thánh Mathêu còn được tiếp tục 6 câu nữa, từ câu 33 đến hết câu 39, nhưng Giáo Hội đã không chọn đọc, trong đó, Chúa Giêsu đã sử dụng đến những từ ngữ kinh hoàng chưa từng thấy liên quan đến hậu quả vô cùng khủng khiếp gây ra bởi cuộc đời giả hình mù quáng của họ: "Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục chứ?" (Mathêu 23:33).
Bởi vậy, ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ các môn đệ của Người, cũng như những ai được Thiên Chúa tuyển chọn đóng vai trò thừa kế các tông đồ là các vị giám mục (kể cả các vị linh mục được giám mục truyền chức để thi hành thừa tác vụ thay giám mục và với giám mục) như một đầy tớ phục vụ cộng đồng Giáo Hội mà không sống trọn thánh chức của mình rằng:
"Các con hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến".
"Tỉnh thức" ở đây là ở chỗ sống đức tin hơn là sống theo tự nhiên, hứng thì làm không hứng thì bỏ, lúc sốt sắng thì làm cẩn thận, làm một cách có hồn còn lúc khô khan thì làm như cái máy, buông bỏ được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu, chưa kể gây ra những gương mù gương xấu khác, như đã và đang giết chiên tơ ăn thịt (lạm dụng tình dục trẻ em), hay trường hợp cưỡi lên chiên bằng đời sống xa xỉ sang trọng, và trường hợp các vị giành đất chiếm chiên của nhau, hoặc trường hợp nấp bóng chiên để chống đối hay bất tuân giáo quyền của mình v.v.
Thay vì họ phải là thành phần "đi trước chiên và chiên theo họ" (Gioan 10:4), trong việc làm gương sáng và biết trước nhu cầu của chiên mà đáp ứng, sẵn sàng hy sinh cho chiên, thì lại rụt rè đi sau chiên, sẵn sàng bỏ chiên mà chạy lấy thân khi vừa thấy sói xuất hiện, khi vừa thấy những gì bất lợi cho bản thân mình, nên họ chẳng bao giờ có thể nói như Chúa Kitô rằng: "Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi" (Gioan 10:27).
Nếu
thành phần "đầy tớ trung tín và khôn ngoan được chủ đã đặt
lên coi sóc gia nhân, để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ"
thì không còn ai như hay hơn vị tông đồ dân ngoại Phaolô trong Bài
Đọc 1 hôm nay, một bài đọc cho thấy những gì ngài quan tâm lo lắng
đủ mọi thứ cho lợi ích thiêng liêng của tất cả các giáo đoàn, trong
đó có giáo đoàn Thessalonica, như chính ngài đã bày tỏ muốn "bổ
túc" cho họ, "gặp mặt" và "đến với" với họ
trong Thư 1 ngài gửi cho họ như sau:
"Anh em thân mến, vì đức tin anh em, chúng tôi được an ủi nơi anh em trong mọi nỗi quẫn bách và gian truân, hiện giờ chúng tôi cảm thấy được sống, vì thấy anh em đứng vững trong Chúa... Ðêm ngày chúng tôi gia tăng lời cầu nguyện, để được gặp mặt anh em lại và bổ túc những gì thiếu sót trong đức tin của anh em. Xin chính Thiên Chúa là Cha chúng ta, và Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, dẫn đàng đưa chúng tôi đến với anh em. Về phần anh em, xin Chúa ban cho anh em được gia tăng và dồi dào lòng yêu thương nhau và yêu thương mọi người, như chính chúng tôi yêu thương anh em: để làm cho lòng anh em nên vững vàng trong sự thánh thiện, không còn điều gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đến làm một cùng tất cả các thánh của Người. Amen'.
Tất cả mọi sự trên đời này rồi sẽ qua đi, ngoại trừ những gì hợp với ý muốn của Thiên Chúa (xem 1Gioan 2:17), Đấng bất biến và bất diệt, Đấng mà những ai sống đức tin chân chính và dấn thân rao giảng Tin Mừng cứu độ như vị tông đồ dân ngoại Phaolô, thì tất cả những gì họ làm hay ngài làm đều trở thành một sự nghiệp hoàn toàn bất hủ trước nhan Thiên Chúa, không bao giờ tàn phai. Đó là tâm tình của họ với đầy những ước nguyện thần linh trong Thánh Vịnh 89 ở bài Đáp Ca hôm nay:
1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".
2) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.
3) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con. Sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố; xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.
Ngày 28 tháng 8
Thánh Âu-tinh, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
lễ nhớ bắt buộc
Ôi, Chúa là chân lý vĩnh cửu, là tình yêu chân thật và là sự vĩnh cửu dấu yêu !
(Phụng vụ giờ kinh sách)
Trích sách Tự thuật của thánh Âu-tinh, giám mục.
Khi được nhắc nhở phải trở về với chính mình, nhờ Chúa hướng dẫn, con đã đi vào tận thâm tâm con, và con đã vào được vì có Chúa phù trì nâng đỡ. Con đã vào và, dầu mắt linh hồn con có thế nào chăng nữa, nhờ nó, con cũng đã thấy một thứ ánh sáng không hề thay đổi. Ánh sáng này vượt quá cả mắt linh hồn con, vượt quá trí khôn con. Đó không phải là ánh sáng thông thường trên trần gian mà xác phàm nào cũng thấy được. Đó cũng không phải như cùng loại với ánh sáng phàm trần, mà chỉ khác là có độ sáng mạnh hơn và mỗi ngày cứ mỗi sáng hơn mãi, rực chiếu khắp nơi. Không, không phải loại ánh sáng ấy, mà khác, khác hẳn với mọi loại ánh sáng nói trên. Ánh sáng đó cũng vượt quá trí khôn con, không phải chỉ như dầu ở trên nước, hay như trời vượt trên đất, nhưng vượt xa hẳn, vì đã làm ra con, và con ở dưới hẳn, vì đã được ánh sáng đó làm ra. Ai biết chân lý thì biết ánh sáng đó.
Ôi, Chúa là chân lý vĩnh cửu, là tình yêu chân thật và là sự vĩnh cửu dấu yêu ! Chúa là Thiên Chúa của con, đêm ngày con khao khát Chúa. Và khi con nhận biết Chúa lần đầu, Chúa đã nâng con lên, cho con thấy là có những điều con phải thấy nhưng con chưa tự mình thấy được. Chúa đã chiếu ánh sáng chói chang vào con, khiến cặp mắt mù loà của con có thể thấy được. Con run lên vì yêu mến và kính sợ. Con nhận ra rằng tại nơi cách biệt này, con còn thật xa Chúa. Dường như con nghe Chúa phán từ trời cao : “Ta là lương thực dành cho người lớn : cứ lớn lên rồi sẽ được ăn Ta. Chẳng phải con sẽ biến Ta thành con như biến đồ ăn thành thịt con, mà chính con sẽ được biến đổi nên Ta.”
Con tìm cách trở nên lớn mạnh để có thể thưởng thức lương thực là chính Chúa, nhưng tìm không ra. Con chỉ thành công khi ôm choàng lấy Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, đó là một con người, Đức Ki-tô Giê-su. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Người lên tiếng gọi và nói : Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Thần tính Chúa là lương thực trước đây con không dùng được, Người đem kết hợp với nhân tính người phàm : Ngôi Lời đã trở nên người phàm, để đức khôn ngoan Chúa đã dùng mà dựng nên muôn loài muôn vật, nay nên sữa nuôi chúng con đang còn thơ ấu.
Con yêu Chúa quá muộn, lạy Chúa là vẻ đẹp vừa rất xưa vừa mới mãi, con yêu Chúa quá muộn ! Này Chúa vẫn ở trong con, mà hồi ấy con cứ ở ngoài và cứ tìm Chúa bên ngoài ! Con thật xấu khi mải chạy theo vẻ đẹp nơi các thụ tạo của Chúa. Chúa từng ở với con mà con chẳng ở với Chúa. Những sự vật vẫn giữ con xa Chúa, nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng làm sao hiện hữu được ? Chúa gọi con, Chúa la to, và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng, Chúa chiếu toả và đã xua tan sự mù loà của con. Chúa toả hương thơm, con hít lấy và con khao khát Chúa. Con đã nếm thử và bây giờ con đói, con khát Chúa. Chúa đã chạm đến con và con nóng lòng tìm bình an của Chúa.
XÔi chân lý, ánh sáng của lòng con, tối tăm của con chẳng nói gì với con nữa ; con đã lầm lạc và rồi tưởng nhớ Chúa.
ĐNày con đang nóng lòng, đang háo hức, đang tìm về mạch suối của Chúa.
XCon đâu phải là nguồn sống cho mình, tự mình con đã ăn ở xấu xa, nay con được hồi sinh trong Chúa.
ĐNày con đang nóng lòng, đang háo hức, đang tìm về mạch suối của Chúa.
Lạy Chúa, xin khơi dậy trong lòng Giáo Hội ơn Thánh Thần Chúa đã ban cho thánh giám mục Âu-tinh, để nhờ Thánh Thần nung nấu, chúng con chỉ khát khao một mình Chúa là nguồn mạch sự khôn ngoan đích thực, và chỉ tìm kiếm một mình Chúa là Thiên Chúa Tình Thương. Chúng con cầu xin
ĐTC Biển Đức XVI:
Thứ Tư 27/2/2008 – Bài Giáo Lý 67 - Thánh giáo phụ Âu Quốc Tinh
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tx 4, 1-8
"Ðây cũng là thánh ý Thiên Chúa và cũng là sự nên thánh của anh em".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chúng tôi van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này là như anh em được chúng tôi dạy cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em. Vì chưng, đây là thánh ý Thiên Chúa, và cũng là sự nên thánh của anh em là anh em hãy giữ mình khỏi tội gian dâm, để mọi người trong anh em biết giữ thân xác mình trong sự thánh thiện và danh dự: anh em chớ nên buông theo dục tình đam mê, như Dân Ngoại không biết Thiên Chúa: và đừng ai xâm phạm hay lường gạt quyền lợi anh em mình trong việc ấy, vì Chúa sẽ báo oán các điều đó, như chúng tôi đã bảo trước và đã minh chứng cho anh em. Vì chưng, Thiên Chúa không kêu gọi chúng ta để sống ô uế, nhưng để sống thánh thiện. Bởi thế, kẻ nào khinh chê những luật này, thì chẳng phải là khinh dể người phàm, nhưng là khinh dể Thiên Chúa, Ðấng cũng đã ban Thánh Thần Người cho chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 96, 1-2b. 5-6. 10. 11-12
Ðáp: Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao toả chung quanh; công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.
2) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong trước thiên nhan; trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.
3) Chúa yêu thương những ai ghét xa điều dữ; Người gìn giữ tâm hồn những tôi ngoan, và giải thoát họ khỏi bàn tay đứa ác. - Ðáp.
4) Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người. - Ðáp.
Alleluia: 1 Tx 2, 13
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy đón nhận lời Chúa, không phải như lời của loài người, mà là như lời của Thiên Chúa, và đích thực là thế. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 25, 1-13
"Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.
"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn". Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi". Vậy hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Nửa Đêm Nghênh Đón
Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Sáu Tuần XXI Thường Niên hôm nay, cũng như cho ngày mai, ở đoạn 25 của Thánh ký Mathêu, nhưng không bao gồm phần cuối của đoạn này về sự kiện chung thẩm, mà chỉ liên quan đến 2 dụ ngôn cuối cùng liên quan đến thời cánh chung của Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu.
Sở dĩ 2 dụ ngôn cuối cùng trong bài Phúc Âm hôm nay và ngày mai có thể nói và dám nói là liên quan đến mầu nhiệm cánh chung là vì, theo cấu trúc và diễn tiến của Phúc Âm Thánh ký Mathêu, thì chẳng những đoạn 24 ngay trước đó là đoạn Phúc Âm về ngày tận thế, mà phần cuối của đoạn 25 ngay sau 2 dụ ngôn này là cảnh chung thẩm.
Thật thế, một trong 2 dụ ngôn cánh chung ấy là dụ ngôn về "10 trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể" ở trong bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XXI Thường Niên hôm nay, nhưng "trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả. Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: 'Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả'. Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: 'E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn'".
Trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, muốn hiểu được phần nào ý nghĩa của dụ ngôn này, cần phải tìm hiểu ý nghĩa của ít là 4 hình ảnh ẩn dụ sau đây: trinh nữ đón (1), chàng rể đến (2), tiếng hô to (3), và dầu đốt đèn (4)
1- Trinh nữ đón: "Trinh nữ" đây ám chỉ ai, nếu không phải là Kitô hữu, vì họ là thành phần nhờ phép rửa đã được nên tinh tuyền và thánh hiến cho Chúa Kitô (xem Epheso 5:26-27). Có bản dịch là "phù dâu", cũng không sai, ở chỗ, ám chỉ thành phần tu sĩ và giáo sĩ, thành phần nhờ đời sống thánh hiến càng làm đẹp thêm cho cô dâu. Trong 10 cô này có 5 cô khôn và 5 cô dại, và khôn hay dại nơi các cô là ở chỗ có mang theo đèn và cả dầu nữa hay chăng. Chúng ta sẽ suy diễn về đèn và dầu sau, ở chi tiết thứ 4 cuối cùng.
2- Chàng rể đến: Thời điểm chàng rể tới chính vào lúc "nửa đêm", chứ không phải giữa thanh thiên bạch nhật ban ngày. Nghĩa là chàng rể đến vào lúc người ta buồn ngủ nhất về tâm linh và đen tối nhất về môi sinh. Đến độ, không phải chỉ có các cô khờ dại mới gục ngủ mà cả những cô trinh nữ khôn ngoan cũng thiếp ngủ nữa: "Thật vậy, nếu giai đoạn ấy không được rút ngắn lại thì không một con người nào được cứu độ" (Mathêu 24:22).
Tức là vào lúc Chúa đến lần thứ hai "không biết có còn đức tin trên thế gian này nữa hay chăng?" (Luca 18:8), một thời điểm "vì sự dữ gia tăng mà lòng người hầu hết trở nên nguội lạnh" (Mathêu 24:12), một thời điểm đầy như tối tăm gian dối nơi hiện tượng tiên tri giả và kitô giả đánh lừa được nhiều người (xem Mathêu 24:24).
3- Tiếng hô to: Thời điểm chàng rể đến chẳng những vào "nửa đêm" mà còn được kèm theo bằng một "tiếng hô to" nữa. Vậy thì "tiếng hô to" này xuất phát từ đâu, hay ai là người đã phát ra "tiếng hô to" ấy? Nếu Giáo Hội là cô dâu, chàng rể là Chúa Kitô, và thành phần trinh nữ là Kitô hữu, hay thành phần phù dâu là tu sĩ giáo sĩ, thì ai là người đã vang lên "tiếng hô to" ấy, nếu không phải là chính Đức Mẹ Maria.
Thật vậy, "tiếng hô to" ấy đã xuất phát từ Mẹ Maria qua những lần Mẹ hiện ra đây đó, đặc biệt nhất và "to" nhất là vào lần Mẹ hiện ra ở Linh Địa Fatima năm 1917, trong giai đoạn thế giới của thành phần "trinh nữ" Kitô giáo bị khủng hoảng đức tin hơn bao giờ hết, đến độ đã đi đến chỗ mất hết đức ái, và dữ dội sát hại nhau bằng các trận thế chiến ở tiền bán thế kỷ 20, cũng như bằng nạn diệt chủng phá thai và nạn ly dị ở hậu bán thế kỷ 20, những hiện tượng quái gở chưa từng có trong lịch sử loài người nơi một thế giới Tây phương càng văn minh con người càng bạo loạn và càng trở thành trung tâm của nền văn hóa chết chóc tối tăm.
4- Dầu đốt đèn: Nếu đèn ám
chỉ đức tin,
và ngọn lửa
cháy sáng nơi cây đèn ám
chỉ đức mến,
thì dầu đèn đây có thể hiểu là đức
cậy. Bởi vì, giai đoạn Chúa Kitô chàng rể tới "bị trì hoãn hay chậm trễ -
delayed", như trong bài Phúc Âm hôm
nay cho biết, mà thành phần trinh nữ hay phù dâu đợi chờ chàng cần phải
nhẫn nại và hy vọng hơn bao giờ hết, bằng không, một khi tắt mất đức mến
mà lại không còn đức cậy, mà lại mất hết hy vọng thì ngọn lửa đức
mến sẽ không bao giờ có thể thắp
lại được bởi thiếu dầu đức cậy. Thực
tế cũng chứng thực như vậy, một khi con người thất vọng đến chỗ tuyệt
vọng (như ngọn đèn hết dầu) thì chẳng còn muốn sống nữa, nên đã có những
cuộc tử tử là như vậy. Hy vọng chính là sức sống của con người, trong
con người và cho con người.
Dụ ngôn 10 cô trinh nữ trong bài Phúc Âm hôm nay tiêu biểu cho đời sống thánh thiện và tinh tuyền của thành phần Kitô hữu, những con người đã được thanh tẩy nên tinh tuyền xứng với nhiệm thể của thánh thiện của Chúa, nhờ Phép Rửa tái sinh, thành phần vì thế, cả về thân xác nữa, cũng cần phải sống thanh sạch như những lời huấn dụ của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Thessalonica trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Đây là thánh ý Thiên Chúa, và cũng là sự nên thánh của anh em, đó là anh em hãy giữ mình khỏi tội gian dâm, để mọi người trong anh em biết giữ thân xác mình trong sự thánh thiện và danh dự: anh em chớ nên buông theo dục tình đam mê, như Dân Ngoại không biết Thiên Chúa: và đừng ai xâm phạm hay lường gạt quyền lợi anh em mình trong việc ấy, vì Chúa sẽ báo oán các điều đó, như chúng tôi đã bảo trước và đã minh chứng cho anh em. Vì chưng, Thiên Chúa không kêu gọi chúng ta để sống ô uế, nhưng để sống thánh thiện".
Và chỉ có những Kitô hữu sống khôn ngoan xứng với danh phận là trinh nữ của Chàng Rể Kitô mới có được cảm nghiệm hân hoan trong Chúa, vì được vào dự tiệc cưới với Người, tức được hiệp hoan thần linh với Người, ngay ở đời này, cái cảm nghiệm của Thánh Vịnh 96 ở bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao toả chung quanh; công minh chính trực là nền kê ngai báu.
2) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong trước thiên nhan; trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người.
3) Chúa yêu thương những ai ghét xa điều dữ; Người gìn giữ tâm hồn những tôi ngoan, và giải thoát họ khỏi bàn tay đứa ác.
4) Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người.
Ngày 29 tháng 8
Thánh Gio-an Tẩy Giả bị trảm quyết
lễ nhớ bắt buộc
Từ tấm bé đã vào hoang địa
Lánh cuộc đời đô thị phồn hoa,
Cốt sao phòng bị ngăn ngừa
Hồn thiêng vương vấn uế nhơ bụi trần.
Lông dã thú quấn thân làm áo,
Bện da chiên chế tạo dây lưng,
Đồ ăn thức uống thường dùng :
Cào cào, châu chấu, mật rừng, nước khe.
Các ngôn sứ muốn bì sao đặng,
Họ chỉ loan ánh sáng đến thôi,
Gio-an Tẩy Giả riêng ngài
Trỏ cho thấy Đấng đền thay tội đời.
Tìm xem khắp mọi nơi mọi nước,
Thánh trẻ nào sánh được Gio-an,
Mình ngài đáng tới Gio-đan,
Rửa cho Đấng rửa muôn dân tội tình.
Toàn thiên quốc tôn vinh cảm tạ,
Trước ngai vàng một Chúa Ba Ngôi,
Chúng con khẩn nguyện lòng trời
Ban ơn xá tội cho đời an vui.
Gio-an Tẩy Giả siêu quần bạt chúng,
Đời trinh trong như tuyết trắng mỹ miều,
Tay anh hùng tử đạo thích cô liêu,
Vị ngôn sứ đứng đầu trong Cựu Ước.
Xin Đấng Thánh quyền năng dầy công đức
Uốn cho mềm lòng dạ chúng tôi đây,
Nẻo quanh co, ngài uốn lại thẳng ngay,
Đường lồi lõm, ngài san cho bằng phẳng.
Để khi thấy hồn chúng tôi trong trắng,
Chúa Giê-su, Đấng chuộc tội gian trần
Sẽ vui lòng rời gót ngọc viếng thăm
Và ban thưởng muôn hồng ân cứu độ.
Cả thiên quốc dâng Ba Ngôi một Chúa
Lời tôn vinh câu chúc tụng sum hoà,
Kẻ phàm trần mong được Chúa thứ tha
Hầu chung hưởng phúc vinh cùng Đấng Thánh.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho thánh Gio-an Tẩy Giả báo trước mầu nhiệm Con Chúa sinh ra và chịu chết. Xưa thánh nhân đã anh dũng hy sinh vì chân lý và chính đạo thế nào, thì nay xin Chúa cũng cho chúng con biết xả thân làm chứng cho Tin Mừng như vậy. Chúng con cầu xin
Vị tiền hô loan báo Đức Ki-tô sinh ra và chịu chết
Trích bài giảng của thánh Bê-đa Khả Kính, linh mục.
Vị thánh tiền hô loan báo Chúa sẽ sinh ra, rao giảng và chịu chết, đã tỏ ra là người có sức chiến đấu can đảm, xứng đáng được trời cao đoái nhìn. Đúng như Kinh Thánh nói, thiên hạ nghĩ rằng thánh nhân đã bị hành hạ, còn người lại vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử. Chúng ta có lý để vui mừng và long trọng tưởng nhớ sinh nhật của người. Ngày ấy, chính người đã làm cho thành trọng thể do cuộc khổ nạn người chịu. Ngày ấy, chính người đã làm cho nên tươi đẹp bằng máu hồng sáng chói người đổ ra. Chúng ta có lý, để trong niềm vui thiêng liêng, kính nhớ con người đã lấy ấn tử đạo đóng lên chứng từ làm chứng cho Chúa.
Thật vậy, không thể nghi ngờ gì nữa, thánh Gio-an đã chịu tù tội xiềng xích để làm chứng cho Đấng cứu chuộc chúng ta, Đấng mà người đi trước làm tiền hô. Người đã hy sinh cả mạng sống mình vì Đấng ấy. Tuy kẻ bách hại người không đòi người chối bỏ Đức Ki-tô, mà chỉ đòi người đừng nói lên sự thật, nhưng người đã nằm xuống vì Đức Ki-tô.
Đức Ki-tô nói : Chính Thầy là sự thật, nên thánh nhân đổ máu vì sự thật thì cũng là đổ máu vì Đức Ki-tô. Người sinh ra, rao giảng, làm phép rửa trước để làm chứng cho Đấng sẽ sinh ra, rao giảng và làm phép rửa sau. Chính người cũng chịu khổ nạn trước để báo hiệu về Đấng sẽ chịu khổ nạn sau.
Con người cao quý vĩ đại dường ấy, sau một thời gian dài chịu khốn khổ vì xiềng xích, đã chấp nhận đổ máu, chấm dứt cuộc đời trần gian. Con người từng loan báo tin mừng về tự do, thứ tự do từ bình an của trời cao đem tới, lại bị kẻ bất lương giam cầm. Con người đến để làm chứng về ánh sáng, xứng đáng cho chính ánh sáng là Đức Ki-tô gọi là ngọn đèn cháy sáng lại bị nhốt trong bóng tối ngục tù. Chính con người được vinh dự làm phép rửa cho Chúa Cứu Thế, được nghe tiếng Chúa Cha phán về Người, được thấy Thánh Thần ngự xuống trên Người, lại được rửa bằng chính máu đào của mình. Nhưng đối với những người như thánh Gio-an, chịu cực hình nhất thời vì sự thật không những không nặng nề, mà còn nhẹ nhàng và đáng ước ao là đàng khác, vì biết rằng mình sẽ được niềm vui vĩnh cửu làm phần thưởng.
Cái chết mà bản tính nhân loại không tài nào tránh khỏi, thì những người như thánh Gio-an lại ước mong nhận được cùng với cành thiên tuế là sự sống vĩnh cửu nhờ tuyên xưng danh Đức Ki-tô. Do đó, thánh Tông Đồ nói một cách chí lý : Nhờ Đức Ki-tô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. Vậy thánh nhân nói đó là ân huệ của Đức Ki-tô để những người được Thiên Chúa tuyển chọn có thể chịu đau khổ vì Đức Ki-tô, như thánh nhân cũng nói : Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta ?
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tx 4, 9-11
"Chính anh em đã được Thiên Chúa dạy cho biết phải thương yêu nhau".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, về tình bác ái huynh đệ, thì chúng tôi không cần viết cho anh em: vì chính anh em đã được Thiên Chúa dạy cho biết phải thương yêu nhau. Vì chưng anh em đã thi hành điều đó với mọi anh em trong toàn xứ Macêđônia. Nhưng, anh em thân mến, chúng tôi xin anh em hãy tiến tới hơn nữa, hãy cố gắng sống cho hoà thuận, thi hành các việc bổn phận, dùng tay mà làm việc như chúng tôi đã truyền dạy anh em, ăn ở lương thiện với những người ngoài, và khỏi cần nhờ đến ai.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 7-8. 9
Ðáp: Chúa ngự trị cai quản chư dân trong đường chính trực (c. 9).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Biển khơi và muôn vật trong đó hãy rống tiếng lên; cả địa cầu và những dân cư ngụ ở trong cũng thế. Các sông ngòi hãy vỗ tay reo, đồng thời các núi non hãy hân hoan nhảy nhót. - Ðáp.
3) Trước thiên nhan Chúa, vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người cai quản địa cầu với đức công minh, và cai quản chư dân trong đường chánh trực. - Ðáp.
Alleluia: 2 Tx 2, 14
Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được chiếm lấy vinh quang của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 25, 14-30
"Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy theo khả năng mỗi người, đoạn ông ra đi. Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Cũng vậy, người lãnh hai nén cũng làm lợi ra hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc, đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo và thu nơi không phát, nên tôi khiếp sợ đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Ðây của ông, xin trả lại ông". Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra ngươi phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc, nghiến răng".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Một thứ nguyên vẹn ... hoàn toàn băng hoại
Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXI Thường Niên hôm nay tiếp theo bài Phúc Âm về 10 trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể hôm qua.
Thật vậy, nếu bài Phúc Âm hôm qua về 10 trinh nữ, ám chỉ chung Kitô hữu trong thời cánh chung, như đã suy diễn, thì bài Phúc Âm hôm nay về thành phần "đầy tớ" được chủ "sắp đi xa... giao phó của cải mình cho", ám chỉ những vị lãnh đạo trong Giáo Hội.
Sở dĩ cả 2 bài
Phúc Âm hôm nay và
hôm qua ở đoạn 25 liên
quan đến thời cánh chung là vì, như đã nhận định, theo diễn tiến và cấu
trúc của Phúc Âm Thánh Mathêu, thì đoạn 24 đã được
Chúa Giêsu nói về ngày tận thế và cuối đoạn 25 ngay sau 2 bài Phúc Âm
này là cảnh chung thẩm.
Đúng vậy, nếu bài Phúc Âm hôm qua về các cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể liên quan đến thời cánh chung vì trong bài Phúc Âm này bao gồm sự kiện chàng rể đến, đến lần thứ hai: "Kìa chàng rể đến, ra ra nghênh đón chàng", thì cũng thế, cũng liên quan đến thời cánh chung, bài Phúc Âm hôm nay về thành phần đầy tớ được chủ trao phó của cải cho để sinh lợi trong thời gian ông đi vắng, ám chỉ Chúa Kitô thăng thiên về cùng Cha, nhưng Người sẽ lại đến lần thứ hai, như trong bài Phúc Âm cho thấy: "Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ", có nghĩa là các vị lãnh đạo cộng đồng dân Chúa sẽ phải trả lẽ trước mặt Người.
Nếu đoạn 25 của Phúc Âm Thánh Ký Mathêu bao gồm 3 dụ ngôn: dụ ngôn thứ nhất về 10 trinh nữ cần đèn đi nghênh đón chàng rể, ám chỉ chung Kitô hữu, ở bài Phúc Âm hôm qua, và dụ ngôn thứ hai về thành phần đầy tớ được trao tài sản để sinh lợi, ám chỉ các vị lãnh đạo cộng đồng dân Chúa, ở bài Phúc Âm hôm nay, thì dụ ngôn thứ 3 về cuộc chung thẩm giữa chiên và dê ám chỉ toàn thể nhân loại, và dụ ngôn chung thẩm này được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật 34 Thường Niên Năm A, Lễ Chúa Kitô Vua. Như thế, đoạn Phúc Âm 25 của Thánh ký Mathêu về thời điểm cánh chung bao gồm đủ mọi thành phần: từ riêng Kitô hữu và các vị lãnh đạo Giáo Hội đến chung toàn thể nhân loại.
Nếu thành phần Kitô hữu trinh nữ được cứu rỗi hay chăng là ở lòng tin tưởng cậy trông của họ, được ám chỉ nơi dầu đèn họ cần có, như đã chia sẻ hôm qua, và nếu chung toàn thể nhân loại được xét xử và cứu rỗi là nhờ "đức tin thể hiện qua đức ái" của họ (xem Galata 5:6; xem Mathêu 25:37-40,42-46), thì thành phần lãnh đạo cộng đồng dân Chúa sẽ bị xét xử và cứu độ nhờ các vị có biết trung tín sinh lợi cho chủ hay chăng.
Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, thành phần lãnh đạo cộng đồng dân Chúa được gọi là "đầy tớ", tức là những người phục vụ, những người được gọi là "thừa tác viên - minister", thay Chúa Kitô là Đấng đã đến để phục vụ (xem Mathêu 20:28), mà đã là "đầy tớ" phục vụ thì phải làm theo ý chủ và đúng ý chủ mới thật sự chu toàn nhiệm vụ đầy tớ của mình, bằng không, sẽ lỗi trách nhiệm và sẽ bị trừng phạt.
Đúng thế, "tùy khả năng riêng mỗi người", ông chủ đã khôn ngoan và công bằng trao cho "người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến". Trong khi "người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ".
Thế rồi những gì đã xẩy ra cho 2 đầy tớ 5 yến và 2 yến, Phúc Âm hôm nay kể tiếp:
"Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói : 'Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây'. Ông chủ nói với người ấy: 'Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!' Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: 'Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây'. Ông chủ nói với người ấy: 'Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!'"
Còn
người đầy tớ được trao cho một yến thì sao, Phúc Âm cũng cho biết số
phận bất hạnh không may của người đầy
tớ cuối cùng này
như sau:
"Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: 'Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!' Ông chủ đáp: 'Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
"Anh em thân mến, về tình bác ái huynh đệ, thì chúng tôi không cần viết cho anh em: vì chính anh em đã được Thiên Chúa dạy cho biết phải thương yêu nhau. Vì chưng anh em đã thi hành điều đó với mọi anh em trong toàn xứ Macêđônia. Nhưng, anh em thân mến, chúng tôi xin anh em hãy tiến tới hơn nữa, hãy cố gắng sống cho hoà thuận, thi hành các việc bổn phận, dùng tay mà làm việc như chúng tôi đã truyền dạy anh em, ăn ở lương thiện với những người ngoài, và khỏi cần nhờ đến ai".
Nếu con người biết mang tất cả những gì Thiên Chúa ban cho mình để phục vụ tha nhân, thì việc họ làm chẳng khác gì như việc họ chân nhận và tuyên xứng Thiên Chúa là chủ tể của họ và của tất cả mọi sự, Đấng làm nên những việc kỳ diệu, chẳng những trong thiên nhiên vạn vật, nhất là nơi loài người và cho loài người, qua loài người, để tỏ mình Ngài ra. Đó là nội dung của Thánh Vịnh 97 ở bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
2) Biển khơi và muôn vật trong đó hãy rống tiếng lên; cả địa cầu và những dân cư ngụ ở trong cũng thế. Các sông ngòi hãy vỗ tay reo, đồng thời các núi non hãy hân hoan nhảy nhót.
3) Trước thiên nhan Chúa, vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người cai quản địa cầu với đức công minh, và cai quản chư dân trong đường chánh trực.