SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXIX  

Năm C 
(Chúa Nhật) và Năm Lẻ (trong tuần)

Hạnh Thánh Trong Tuần sau phần PVLC Hằng Ngày


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Xh 17, 8-13

"Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận".

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, người Amalec đến giao chiến với Israel tại Raphiđim, Ông Môsê nói với ông Giosuê rằng: "Ngươi hãy tuyển lựa các chiến sĩ ra chiến đấu với người Amalec: ngày mai tôi sẽ cầm gậy Thiên Chúa trong tay lên đứng trên đỉnh núi". Ông Giosuê thực hiện như lời ông Môsê đã dạy, và ra chiến đấu với người Amalec. Còn ông Môsê, Aaron và Hur thì đi lên đỉnh núi. Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế. Bấy giờ tay ông Môsê mỏi mệt, người ta liền khiêng tảng đá kê cho ông ngồi, còn ông Aaron và ông Hur thì nâng đỡ hai tay ông. Bởi đó hai tay ông không còn mỏi mệt cho đến khi mặt trời lặn. Ông Giosuê dùng lưỡi gươm đánh đuổi người Amalec và quân dân nó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 120, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8

Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất (c. 2).

Xướng: 1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất. - Ðáp.

2) Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té; Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say. - Ðáp.

3) Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm. - Ðáp.

4) Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến; Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi và khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Tm 3, 14 - 4, 2

"Người của Thiên Chúa được hoàn hảo, để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Con thân mến, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính, ngõ hầu người của Thiên Chúa được hoàn hảo để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.

Cha khuyến cáo con trước tôn nhan Thiên Chúa và Ðức Kitô, Ðấng sẽ thẩm phán kẻ sống và kẻ chết, nhân danh cuộc xuất hiện của chính Người và vương quốc của Người: Con hãy rao giảng lời Phúc Âm, hãy xúc tiến việc đó, dầu thời thế thuận lợi hay không thuận lợi; hãy thuyết phục, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn với tất cả lòng kiên nhẫn và quan tâm giáo huấn.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 18, 1-8

"Thiên Chúa sẽ minh xử cho những kẻ người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng, mà rằng: "Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: 'Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù'. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: 'Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc'".

Rồi Chúa phán: "Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn, hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Chủ đề của Chúa Nhật XXVIII Thường Niên Năm C thoạt tiên cứ tưởng là vấn đề cầu nguyện, nhưng thật ra lại tiếp tục vấn đề đức tin. Thật vậy, căn cứ vào Phụng Vụ Lời Chúa nói chung, cách riêng là bài Phúc Âm và Bài Đọc 1 thì việc cầu nguyện hiện lên rõ ràng. Nếu trong bài Phúc Âm, Thánh Ký Luca đã ghi nhận ngay ở đầu bài về vấn đề cầu nguyện như thế này: "Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng...", thì trong Bài Đọc 1, sách Xuất Hành cũng cho chúng ta thấy hình ảnh một "ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế".

Tuy nhiên, cầu nguyện là tác động của đức tin. Nếu không tin tưởng chắc chắn người ta sẽ không cầu nguyện. Không phải hay sao, ngay chi tiết "Chúa Giêsu... dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng" đã cho thấy muốn cầu nguyện phải có đức tin, phải tin tưởng, chứ "đừng ngã lòng". Nhân vật Moisen cũng vậy, nếu không tin vào quyền năng của Thiên Chúa là Đấng có thể cứu dân mình cho khỏi lực lượng dân địa phương Amalech quen thuộc địa giới tấn công, bằng không dân Do Thái của ông chỉ có từ chết đến bị thương, vì bấy giờ dân này mới là một thứ dân du mục, đang hành trình trong sa mạc, không có quân hùng tướng mạnh, không được huấn luyện gì về chiến đấu. Đức tin của Moisen đại diện cho dân Do Thái đang cầm cự bấy giờ được tỏ hiện nơi việc ông kiên trì qua cử chỉ cầu nguyện là giang tay ra ở trên núi, vì núi ám chỉ Đấng Tối Cao, nơi Moisen hay lên gặp Thiên Chúa.

Chưa hết, ở cuối cùng bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu còn cảnh báo cho các môn đệ của Người về đức tin, chứ không phải về cầu nguyện, như sau: "Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?" Đến đây chúng ta mới hiểu được tất cả ý nghĩa sâu xa và chiều hướng thực sự của phụng vụ Lời Chúa hôm nay, liên quan đặc biệt đến bài Phúc Âm và Bài Đọc 2.

Đúng thế, vì Chúa Nhật này là Chúa Nhật thứ XXIX Thường Niên, tức đã gần đến cuối phụng niên, đến tuần Thứ XXXIV Thường Niên, tuần lễ mở đầu bằng Lễ Chúa Kitô Vua, nên Giáo Hội bắt đầu chọn đọc các bài Phúc Âm liên quan đến tận thế, đến ngày cùng tháng tận, đến thời điểm sau hết của Mầu Nhiệm Cánh Chung, đến sự kiện Chúa Kitô đến lần thứ 2. Bộ Phúc Âm Nhất Lãm cũng thế, càng về cuối của cuộc hành trình Giêrusalem của Chúa Kitô, tức càng gần đến biến cố Vượt Qua của Chúa Kitô, các vị Thánh ký càng ghi lại những trình thuật liên quan đến tận thế.

Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXIX Thường Niên Năm C theo Thánh ký Luca hôm nay là một điển hình, như một dạo khúc mở màn, ở ngay câu kết thúc bài Phúc Âm: "Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?" Và đó là lý do "khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn...", liên quan đến vấn đề vô cùng quan trọng cho hành trình đức tin của Kitô hữu trên đời này, bằng không, tất cả cuộc sống đạo chỉ là vô nghĩa, nếu không muốn nói là cuồng tìn và vô vọng: "Chúa sẽ kíp giải oan".

Không phải hay sao, nếu không có biến cố chung thẩm, hay nếu Chúa Kitô không đến lần thứ hai "để phán xét kẻ sống và kẻ chết", như Kitô hữu Công giáo hằng tuyên xưng trong Kinh Tin Kính vào mỗi Chúa Nhật hay lễ trọng trong năm, thì thành phần hèn mọn nhất của Chúa Kitô (xem Mathêu 25:40,42), thành phần bị đàn áp, bóc lột, loại trừ, bỏ rơi, coi thường v.v. sẽ là những con người khốn nạn nhất, "thà đừng sinh ra còn hơn" (Mathêu 26:24).

Tác giả Thư gửi giáo đoàn Do Thái đã xác tín và khẳng định rất rõ ràng về mục đích của sự kiện bất khả tránh đó là biến cố Chúa Kitô tái giáng, rằng: "Đức Ki-tô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người" (Do Thái 9:28). Chính vì thế, trong cuộc chung thẩm và bằng cuộc chung thẩm, "lúc Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người" (Mathêu 25:31-32), chính là lúc "Chúa sẽ kíp giải oan" cho những ai không "ngã lòng", nghĩa là Thiên Chúa, qua Chúa Kitô tái giáng, "mang ơn cứu độ đến cho những ai trông đợi Người".

Theo chiều hướng tin tưởng của bài Phúc Âm, vị tông đồ dân ngoại Phaolô, trong Thư gửi người môn đệ Timôthêu của mình, ở Bài Đọc thứ 2 hôm nay, đã khuyên dạy rằng: "Con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín... để con được cứu rỗi nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô... Ðấng sẽ thẩm phán kẻ sống và kẻ chết". "Kẻ sống" đây phải chăng chính là thành phần "chiên bên phải" (Mathêu 25:33) hiền lành dễ "bị mang đi sát tế" (Isaia 53:7) như chính "Chiên Thiên Chúa" (Gioan 1:29,36)!?

Thành phần khốn khổ trên trần gian này thường là thành phần, nhờ thân phận khốn cùng của mình, dễ tin tưởng vào Thiên Chúa hơn, như hình ảnh một Lazarô trong Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm C trước đây, và tâm trạng càng khốn khổ càng tin tưởng vào Đấng duy nhất có thể cứu độ họ, được chất chứa trong Thánh Vịnh 120 (1-8) được Giáo Hội trích lại cho Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất.

2) Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té; Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say.

3) Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm.

4) Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến; Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi và khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời.

 

 


Thứ Hai

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 4, 20-25

"Có lời đã chép vì chúng ta là những kẻ được kể là tin vào Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, lòng tin của Abraham vào Thiên Chúa không nao núng, mặc dầu ông nhìn đến thân xác cằn cỗi của mình, -- vì ông đã gần trăm tuổi, -- và tuổi già tàn tạ của Sara. Ông đã không cứng lòng hồ nghi lời hứa của Thiên Chúa; trái lại, ông vững tin mà làm sáng danh Thiên Chúa, ông biết chắc chắn rằng Thiên Chúa có quyền năng thi hành điều Người đã hứa. Bởi đấy, "việc đó đã được kể cho ông là sự công chính".

Và khi chép rằng "Ðã được kể cho ông", thì không phải chỉ chép vì ông mà thôi, mà vì chúng ta nữa, là những kẻ tin vào Ðấng đã cho Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, từ cõi chết sống lại, Người đã bị nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã sống lại để chúng ta được công chính hoá.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Lc 1, 69-70. 71-72. 73-75

Ðáp: Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người (c. 68).

Xướng: 1) Chúa đã gầy dựng cho chúng tôi một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa. - Ðáp.

2) Ðể giải phóng chúng tôi khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng tôi. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng tôi, và nhớ lại lời thánh ước của Người. - Ðáp.

3) Lời minh ước mà Người tuyên thệ với Abraham tổ phụ chúng tôi, rằng Người cho chúng tôi được không sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù. Phục vụ Người trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Người, trọn đời sống chúng tôi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 13-21

"Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi". Người bảo kẻ ấy rằng: "Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?" Rồi người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".

Người lại nói với họ thí dụ này rằng: "Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: "Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?" Ðoạn người ấy nói: "Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi, mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi!" Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?" Vì kẻ tích trữ của cải cho mình, mà không làm giàu trước mặt Chúa, thì cũng vậy".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lc 12, 13-21


Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Đồ ngu...

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXIX Thường Niên, là bài Phúc Âm tiếp ngay sau bài Phúc Âm của Thứ Bảy tuần trước, và cả 2 bài Phúc Âm, cùng với Bài Đọc 1 của từng ngày, đều nhắm đến vấn đề người công chính sống bởi đức tin. 

 

Thật vậy, chính đức tin mới chứng tỏ ai là người công chính và ai là người không công chính hay chưa công chính. Mà đức tin không thể tách rời với thử thách, tức những thử thách liên quan tới bản tính tự nhiên, tới giác quan thực nghiệm, tới ý nghĩ phàm nhân cho dù là hợp lý, tới ý muốn tự do cho dù là tốt lành v.v. 

 

Bởi thế ai công chính là người như nhìn thấy Đấng vô hình, là người đi mà không biết mình đi đâu ngoài những nơi được hứa hẹn song chưa bao giờ tới, là người hy vọng trong cả những lúc hầu như tuyệt vọng v.v. Như trường hợp của vị tổ phụ Abraham là nhân vật được gọi là cha của những kẻ tin, như Thánh Phaolô Tông Đồ cho thấy trong Bài Đọc 1 hôm nay: 


"Anh em thân mến, lòng tin của Abraham vào Thiên Chúa không nao núng, mặc dầu ông nhìn đến thân xác cằn cỗi của mình, -- vì ông đã gần trăm tuổi, -- và tuổi già tàn
 tạ của Sara. Ông đã không cứng lòng hồ nghi lời hứa của Thiên Chúa; trái lại, ông vững tin mà làm sáng danh Thiên Chúa, ông biết chắc chắn rằng Thiên Chúa có quyền năng thi hành điều Người đã hứa. Bởi đấy, 'việc đó đã được kể cho ông là sự công chính'".

 

Đức tin đây không phải chỉ áp dụng cho riêng tổ phụ Abraham mà cho tất cả những ai tin tưởng như ông, tin tưởng vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Vị Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tổ phụ Abraham bằng lời hứa của Ngài, một lời hứa đã được hiện thực nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế. Bởi thế, Thánh Phaolô Tông Đồ đã viết thêm cho Kitô hữu thuộc Giáo đoàn Rôma như sau:  


"Và khi chép rằng 'đã được kể cho ông', thì không phải chỉ chép vì ông mà thôi, mà vì chúng ta nữa, là những kẻ tin vào Ðấng đã cho Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, từ cõi chết sống lại, Người đã bị nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã sống lại để chúng ta được công chính hoá".

Đề tài người công chính sống bởi đức tin cũng được chính Chúa Giêsu áp dụng trong bài Phúc Âm hôm nay, qua dụ ngôn Người huấn dụ về khuynh hướng tự nhiên nơi con người thường tham lam vô đáy và chỉ muốn hưởng thụ tối đa, chẳng biết đến yêu thương bác ái là gì, đến nỗi họ chỉ biết có thiên đường trần gian mà quên mất linh hồn bất t đời sau của mình:

 

"Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: 'Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?' Ðoạn người ấy nói: 'Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi, mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi!' Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: 'Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?' Vì kẻ tích trữ của cải cho mình, mà không làm giàu trước mặt Chúa, thì cũng vậy".

 

"Nếu được lợi lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì" (xem Mathêu 16:26) thì quả thật: "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?". Đó là lý do Chúa Giêsu đã cảnh giác "người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi'" rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình cho khỏi mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".

 

Ở đây, Chúa Giêsu chẳng những cảnh báo cho người anh tham lam không chịu chia gia tài cho người em mà còn cảnh giác cả người em bị thiệt phần gia tài bị anh lấy mất nữa. Như thể Người khuyên người em rằng có lấy được phần gia tài của mình chăng nữa cũng chẳng ích lợi gì, cũng không quan trọng bằng phần rỗi đời đời của anh ta, đôi khi còn vì của cải mà mất linh hồn nữa. Trái lại, anh ta có thể lợi dụng chính những bất công và thua thiệt về vật chất ấy để sống đức tin, để sống nghèo khđể sống thiếu thốn, nhờ đó anh ta mới có thể càng thêm lòng trông cậy mọi sự nơi Đấng Quan Phòng Thần Linh. 

 

Bài Đáp Ca hôm nay được trích từ Ca Vịnh của Tư Tế Giacaria, thân phụ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, bài ca vịnh được ông bộc phát sau một thời gian dài câm lặng, bởi ông đã tỏ ra hồ nghi không tin lời tiên báo của Tổng Thần Gabiên về việc người vợ son sẻ hết thời của ông sẽ hạ sinh một người con trai (xem Luca 1:18-20), cũng như sau khi người con trai "là tiếng kêu trong sa mạc" của ông vừa mở mắt chào đời và đang cần đặt tên cho

 

Nội dung của Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa ý thức đức tin về một Vị Thiên Chúa giao ước cũng chính là Vị Thiên Chúa cứu độ của thành phần công chính sống bởi đức tin:

 

1) Chúa đã gầy dựng cho chúng tôi một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa.

2) Ðể giải phóng chúng tôi khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng tôi. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng tôi, và nhớ lại lời thánh ước của Người. 

3) Lời minh ước mà Người tuyên thệ với Abraham tổ phụ chúng tôi, rằng Người cho chúng tôi được không sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù. Phục vụ Người trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Người, trọn đời sống chúng tôi. 

 



Thứ Ba



Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 5, 12. 15b. 17-19. 20b-21

"Nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị, thì càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi có sự chết, và thế là sự chết đã truyền đến mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Vì nếu bởi tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa và ơn huệ kèm trong ân sủng của một người, là Ðức Giêsu Kitô, càng tràn ngập chan chứa hơn nữa tới nhiều người. Vì nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những người lãnh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một người là Ðức Giêsu Kitô.

Do đó, tội của một người truyền đến mọi người, đưa tới án phạt như thế nào, thì đức công chính của một người truyền sang mọi người, đưa tới bậc công chính ban sự sống cũng như thế. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế.

Nhưng ở đâu càng đầy tràn tội lỗi, thì ở đó càng tràn đầy dư dật ân sủng: để như tội lỗi đã thống trị làm cho người ta chết thế nào, thì nhờ đức công chính, ân sủng sẽ thống trị làm cho người ta sống đời đời do Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cũng như vậy.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 17

Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a & 9a).

Xướng: 1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.

2) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.

3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

4) Hãy mừng vui hoan hỉ trong Chúa, bao nhiêu kẻ tìm Chúa, và luôn luôn nói: Chúa thực là cao cả! Bao nhiêu kẻ mong ơn phù trợ của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 17, 17b và a

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 35-38

"Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Chủ mà cũng không có chìa khóa vào nhà... phải gõ cửa chờ mở ra cho

 

 

Trong Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XXIX Thường Niên hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta thấy hình ảnh sống động về một con người công chính sống bởi đức tin như thế nào, qua những gì Người nói với các môn đệ của Người sau đây: 

"Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay c
ho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy". 

Người công chính sống bởi đức tin ở đây, theo lời Chúa dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước hết và trên hết, đó là một con người luôn có thái độ "tỉnh thức", bằng cách "thắt lưng" (hy sinh, bỏ mình, làm chủ bản thân) và "cầm đèn cháy sáng trong tay" (cây đèn đức tin cháy lửa đức mến bằng dầu đức cậy)nhờ đó, họ mới có thể tiếp nhận chủ của họ khi người chủ của họ "đi ăn cưới về".  

Kinh nghiệm sống đạo cho thấy một khi Kitô hữu sống buông thả theo bản tính tự nhiên, không khổ chế, không hãm mình, không "thắt lưng", thì hậu quả bất khả tránh đó là ngọn đèn đức tin của họ không thể hay khó lòng cháy sáng được, vì ngọn đèn này bị đam mê nhục dục và tính mê nết xấu của họ dập tắt mất bằng đủ mọi thứ tội lỗi của họ 

Về thời giờ chủ của họ trở về mà họ không "tỉnh thức" không thể đón nhận Người, là vì thời giờ ấy không dễ đoán trước hay ngay giữa ban ngày, song vào "canh hai hoặc canh ba", (nghĩa là vào khoảng "nửa đêm" như trong dụ ngôn 10 trinh nữ - Mathêu 25:6 - "canh hai" từ 9 giờ tối tới nửa đêm "hay canh ba" từ nửa đêm tới 3 giờ sáng), một thời giờ vừa đêm tối về thời gian vừa buồn ngủ về nhân gian. 

Thời điểm được Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Người phải "tỉnh thức" trong bài Phúc Âm hôm nay đây có thể hiểu về thời điểm Người tái giáng, Người đến lần thứ hai, thời điểm Người "ăn cưới về", nghĩa là thời điểm xẩy ra sau khi Người nhập thể (để hiệp nhất nên một với nhân loại nơi ngôi vị hai bản tính của Người) cũng như sau khi Người cứu thế (nhờ đó đã phát sinh ra một Nhiệm Thể Giáo Hội hiền thê của Người trên cây Thánh Giá).  

Nếu "những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức" để có thể nghênh đón Người và tiếp nhận Người như Người mong muốn, nghĩa là họ còn nhận biết Người, như Người tỏ mình ra cho họ, thì phúc cho họ, bởi vì họ chẳng những gặp lại Người, mà nhất là còn được hiệp nhất nên một với Người, "được thông phần với Thày" (Gioan 13: 8), đến độ: "chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng", như Người cũng đã thực sự thắt lưng và hạ mình xuống rửa chân cho mỗi và mọi tông đồ trong Bữa Tiệc Ly ngày xưa (xem Gioan 13:4-5), nghĩa là được Người "yêu cho tới cùng" (Gioan 13:1) để nhờ đó các môn đệ của Người có thể sinh muôn vàn hoa trái trong họ và qua họ 

Nguyên việc chính chủ cũng không có chìa khóa mà phải "gõ cửa" để đầy tớ của mình mở cửa cho mà vào trong nhà, hay cho dù chủ có chìa khóa chăng nữa mà cũng không tự động mở vào, đã cho thấy người chủ này rất tôn trọng đầy tớ của mình, và hoàn toàn tin tưởng đầy tớ của mình. Đến độ, có thể nói, ông đã cho đầy tớ được quyền làm chủ, thay ông làm chủ trong thời gian ông đi vắng. Phải chăng ở đây bao gồm cả ý nghĩa quyền bính của riêng vị lãnh đạo Phêrô và các vị thừa kế ngài là các vị giáo hoàng trong giòng thời gian được trao cho "chìa khóa Nước Trời" (Mathêu 16:19), cũng như của chung các tông đồ và các vị giám mục thừa kế các ngài trong việc đóng mở (Mathêu 18:18). 

Thật vậy, "chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ" "những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức", thành phần đầy tớ làm công cho chủ, hoàn toàn không xứng đáng được chủ yêu thương quá như vậy, bởi thân phận của họ chẳng những không ngang hàng với chủ như bạn hữu hay thân nhân ruột thịt, mà còn là một tạo vật tội lỗi xấu xa vô cùng hèn hạ trước nhan Người là Thiên Chúa của họ nữa.  

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa thích tới vào lúc đen tối ("canh hai hoặc canh ba"), mà đen tối ám chỉ ma quỉ, gian dối, chết chóc? Trước hết, Chúa không thích đêm tối, một tình trạng chỉ ở nơi loài tạo vật bất toàn, nhất là nơi thành phần hư đi, bao gồm cả thiên thần sa đọa và loài người, Ngài không thích những gì là gian ác, dối trá, phản lại với bản tính chân thật và toàn thiện của Ngài.  

Bởi vậy, sở dĩ Chúa hay đến vào lúc đêm tối là vì để cứu độ con người cho khỏi "quyền lực tối tăm" (Colose 1:13) là tội lỗi và sự chết, bởi "con người thích tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan 3:19), thích đường rộng hơn vào cửa hẹp (xem Mathêu 7:13-14), thích sống theo bản tính tự nhiên buông thả hơn là "thắt lưng" hy sinh hãm mình khổ chế, không dám chấp nhận ánh sáng là tất cả sự thật về mình, không sống theo đức tin như "cầm đèn sáng trong tay".  

Như thế, bất cứ khi nào cuộc đời của Kitô hữu cảm thấy tăm tối nhất, khốn khổ nhất, gian nan nhất, hầu như chẳng còn lối thoát, trước mắt chỉ còn tuyệt vọng, thì chính bấy giờ lại là lúc rất thích thuận để "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5) tỏ mình ra, miễn là Kitô hữu biết mình hoàn toàn bất lực, chẳng còn biết trông cậy vào ai, ngoài một mình Đấng Tối Cao có thể cứu mình. 

Đó là lý do, ơn cứu độ không phải do công nghiệp của con người, của thành phần đầy tớ, mà do tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, do ân sủng của Ngài nơi Đức Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế, đến độ tội lỗi của con người càng tràn lan thì ân phúc của Ngài càng ngập lụt, càng bao phủ tội lỗi, càng nhận chìm tội lỗi, đúng như cảm nhận và xác tín của Thánh Phaolô Tông Đồ trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay:  

"Nếu bởi tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa và ơn huệ kèm trong ân sủng của một người, là Ðức Giêsu Kitô, càng tràn ngập chan chứa hơn nữa tới nhiều người. Vì nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những người lãnh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một người là Ðức Giêsu Kitô... Ở đâu càng đầy tràn tội lỗi, thì ở đó càng dồi dào dư dật ân sủng: để như tội lỗi đã thống trị làm cho người ta chết thế nào, thì nhờ đức công chính, ân sủng sẽ thống trị làm cho người ta sống đời đời do Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cũng như vậy". 

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những nhận thức và tâm tình của một con người sống bởi đức tin ở chỗ dấn thân thực thi ý muốn tối cao của Vị Thiên Chúa công minh và từ bi nhân ái, để tình yêu và ân sủng của Ngài càng được tràn lan viên mãn: 

1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". 

2) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. 

3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi.

4) Hãy mừng vui hoan hỉ trong Chúa, bao nhiêu kẻ tìm Chúa, và luôn luôn nói: Chúa thực là cao cả! Bao nhiêu kẻ mong ơn phù trợ của Ngài.



Thứ Tư

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 6, 12-18

"Anh em hãy hiến thân cho Thiên Chúa như những người từ cõi chết sống lại".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, nguyện cho tội lỗi đừng thống trị trong xác hay chết của anh em, khiến anh em phải vâng phục những dục vọng của nó. Anh em cũng đừng dùng các chi thể anh em làm khí giới của gian tà để phục vụ tội lỗi, nhưng hãy hiến thân cho Thiên Chúa như những người từ trong cõi chết sống lại, và hãy hiến dâng các chi thể anh em làm khí giới đức công chính để phục vụ Thiên Chúa. Vì chưng, tội lỗi không còn bá chủ được anh em: bởi anh em không còn ở dưới chế độ lề luật, nhưng dưới chế độ ân sủng.

Thế nghĩa là gì? Nào chúng ta cứ phạm tội đi, vì chúng ta không ở dưới chế độ lề luật, nhưng dưới chế độ ân sủng ư? Không phải thế! Chớ thì anh em chẳng biết rằng: hễ anh em hiến thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của kẻ anh em vâng phục đó sao? hoặc là nô lệ của tội lỗi để rồi phải chết, hoặc là nộ lệ của đức vâng lời để rồi được nên công chính? Nhưng cảm tạ Thiên Chúa, vì xưa kia anh em là nô lệ của tội lỗi, mà nay anh em đã hết lòng vâng theo khuôn mẫu đạo lý đã truyền cho anh em noi giữ. Một khi anh em đã được giải phóng khỏi ách tội lỗi, anh em đã được nhận vào phục vụ đức công chính.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 123, 1-3. 4-6. 7-8

Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa (c. 8a).

Xướng: 1) Nếu như Chúa không che chở chúng tôi, - Israel hãy xướng (lên) - nếu như Chúa không che chở chúng tôi, khi thiên hạ cùng chúng tôi gây hấn, bấy giờ người ta đã nuốt sống chúng tôi rồi, khi họ bầng bầng giận dữ chúng tôi. - Ðáp.

2) Bấy giờ nước cả đã lôi cuốn mất, trào lưu đã ngập lút con người chúng tôi, bấy giờ sóng cả kiêu hùng đã ngập lút chúng tôi! Chúc tụng Chúa vì Ngài đã không để chúng tôi nên mồi trao đưa vào răng chúng. - Ðáp.

3) Hồn chúng tôi như cánh chim non, thoát khỏi lưới dò của người gài bẫy bắt chim. Lưới dò đã đứt gãy, và chúng tôi đã thoát thân. Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất! - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 18

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều kỳ diệu trong luật Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 39-48

"Người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".

Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lc 12, 39-48


Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Bao giờ "Con Người sẽ đến"? - Phải chăng không bao giờ vào lúc chúng ta tỉnh thức mà là vô thức?!

 

Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXIX Thường Niên, bài Phúc Âm được Thánh ký Luca ghi lại tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua về lời Chúa Kitô khuyên các môn đệ của Người "tỉnh thức" chờ Người đến.  

Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô nói cho các môn đệ của Người biết lý do tại sao các vị cần phải "tỉnh thức": "Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến". 

Đúng thế, chính vì không biết giờ nào "Con Người sẽ đến" mà thành phần môn đệ của Chúa Kitô mới cần phải đợi chờ, mới cần phải nhẫn nại, mới cần phải trông mong. Đời sống trần gian của Kitô hữu quả thực là một mùa vọng, mùa đợi trông ơn cứu chuộc, dù đã được cứu chuộc, nơi Phép Rửa, nhưng lại là một ơn cứu chuộc cần phải bền đỗ đến cùng nữa (xem Mathêu 24:13) mới được, mới hoàn thành, mới nên trọn 

Chính vì thế mà trong Mùa Vọng đợi trông của cuộc đời người Kitô hữu như thế, thành phần môn đệ của Chúa Kitô còn cần phải sống tinh thần của Mùa Chay hướng về Mùa Phục Sinh nữa mới được. Tinh thần của Mùa Chay hướng đến Mùa Phục Sinh này chính là tinh thần "thắt lưng" (tiêu biểu cho Mùa Chay) và "cầm đèn cháy sáng trong tay" (tiêu biểu cho Mùa Phục Sinh) như được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm qua.  

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng vẫn lập lại với các môn đệ tinh thần Mùa Chay hướng về Mùa Phục Sinh này khi Người cảnh báo các vị về một đời sống hưởng thụ vô trách nhiệm đối với vai trò phục vụ của các vị như sau: "nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: 'Chủ tôi về muộn', nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung". 

Trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nayThánh Tông Đồ Phaolô đã cảnh giác và khuyên nhủ Tín hữu Giáo đoàn Rôma về đời sống công chính bằng đức tin hơn là sống tự nhiên theo xác thịt lăng loàn bại hoại như thành phần đầy tớ bại hoại trong Phúc Âm hôm nay: 

"Anh em thân mến, nguyện cho tội lỗi đừng thống trị trong xác hay chết của anh em, khiến anh em phải vâng phục những dục vọng của nó. Anh em cũng đừng dùng các chi thể anh em làm khí giới của gian tà để phục vụ tội lỗi, nhưng hãy hiến thân cho Thiên Chúa như những người từ trong cõi chết sống lại, và hãy hiến dâng các chi thể anh em làm khí giới đức công chính để phục vụ Thiên Chúa. Vì chưng, tội lỗi không còn bá chủ được anh em: bởi anh em không còn ở dưới chế độ lề luật, nhưng dưới chế độ ân sủng". 

Như đã suy diễn trong bài Phúc Âm hôm qua, thời điểm trở về của chủ là thời điểm Chúa Kitô tái giáng, tức là thời điểm Người "ăn cưới về". Và vì thế, thành phần "đầy tớ" của người chủ này không ai khác hơn là thành phần môn đệ của Chúa Kitô nói chung và các vị lãnh đạo trong Giáo Hội của Người nói riêng, như Người đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay để trả lời cho câu hỏi của tông đồ Phêrô "Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?": 

"Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình.... Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn". 

Tuy Chúa Kitô không trả lời thẳng cho tông đồ Phêrô là "Thày nói dụ ngôn ấy chỉ về các con đấy chứ còn ai nữa", nhưng nội dung của câu Người trả lời đã ám chỉ về các vị cũng như về thành phần thừa kế các vị là hàng giáo phẩm sau này, qua mọi thời đại, chứ không phải chỉ vào thời tận thế, vì không ai biết lúc nào Người trở lại, nên ai cũng phải tỉnh thức, bằng việc làm theo ý chủ mình qua phần nhiệm được Người trao phó, được Người "đặt" lên thay Người phục vụ, đó là "coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ". 

Ở đây, qua câu này, chúng ta thấy 3 sứ vụ chính yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly của hàng giáo phẩm: sứ vụ quản trị ở chỗ "coi sóc gia nhân mình", sứ vụ rao giảng Lời Chúa và sứ vụ thánh hóa bằng việc ban phát các Bí Tích Thánh, ở chỗ "phân phát phần lúa thóc cho h". Mà phân phát khi "đến giờ" nữa. Hai chữ "đến giờ" này không phải chỉ hiểu theo kiểu hành chính và quan lại, cứ phải xưng tội hằng tuần vào trước giờ lễ chẳng hạn, mà là đáp ứng nhu cầu khẩn trương và ngoại lệ của tín hữu nữa, chẳng hạn họ sắp chết cần xức dầu ngay.  

Tuy nhiên, cũng còn có thể hiểu là có thời Giáo Hội "đến giờ" phải bênh vực chân lý, như sau thời kỳ 300 năm Giáo Hội bị bách hại có những lạc thuyết sai lầm nguy hiểm về Chúa Kitô, qua các Công Đồng Chung như Nicea năm 325, Epheso năm 431 và Contantinople năm 481 v.v. Và có thời Giáo Hội "đến giờ" phải đối thoại với thế giới, phải trở thành men muối trong đời và cho đời, theo tinh thần của Công Đồng Chung thứ 21 là Vaticanô II (11/10/1962 - 8/12/1965), với văn kiện tiêu biểu nhất là Hiến Chế Gaudium et Spes - Vui Mừng và Hy Vọng được ban hành ngày 7/12/1965.  

Hơn thế nữa, còn có thời Giáo Hội "đến giờ" phải tỏ lòng thương xót hơn bao giờ hết, một thời điểm kể từ Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II từ Đại Năm Thánh 2000, qua việc ngài phong hiển thánh cho nữ tu Faustina, Sứ Giả của Lòng Thương Xót Chúa, nhất là thời điểm của Đức Thánh Cha Phanxicô, vị giáo hoàng chủ trương nghèo hèn và phục vụ những người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô, cũng là vị giáo hoàng đã bất ngờ mở Năm Thánh Tình Thương (8/12/2015 - 20/11/2016).   

Ở bài Phúc Âm hôm qua, các môn đệ của Chúa Kitô đóng vai "đầy tớ" đối với chủ, nghĩa là mang thân phận làm theo ý chủ chứ không phải làm theo ý riêng mình, thân phận phục vụ chủ chứ không phải hưởng thụ, còn ở bài Phúc Âm hôm nay, các vị lại đóng vai "quản lý" đối với "gia nhân" của chủtuy có quyền "coi sóc gia nhân" của chủ và có quyền "phân phát phần lúa thóc cho họ" khi "đến giờ", nhưng vẫn với tư cách là "đầy tớ" của chủ, được chủ chọn để thay Người phục vụ như Người và với Người, chứ họ thực sự không phải là chủ, không có toàn quyền như chủ 

Thành phần sống thân phận "đầy tớ", thân phận lệ thuộc chẳng khác gì thân phận của những kẻ "nô lệ", trong vai trò "quản lý trung tín khôn ngoan" này, như lời Thánh Phaolô Tông Đồ nói trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, quả thực đã "biết rằng: hễ anh em hiến thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của kẻ anh em vâng phục đó sao? hoặc là nô lệ của tội lỗi để rồi phải chết, hoặc là nộ lệ của đức vâng lời để rồi được nên công chính? Nhưng cảm tạ Thiên Chúa, vì xưa kia anh em là nô lệ của tội lỗi, mà nay anh em đã hết lòng vâng theo khuôn mẫu đạo lý đã truyền cho anh em noi giữ. Một khi anh em đã được giải phóng khỏi ách tội lỗi, anh em đã được nhận vào phục vụ đức công chính".  

Đúng thế, chính vì biết phận mình là "đầy tớ" chỉ biết phục vụ theo ý của chủ như thế, nghĩa là "đã hết lòng vâng theo khuôn mẫu đạo lý đã truyền cho anh em noi giữ", mà họ mới đích thực là quản lý của chủ và thay chủ: "Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình": "Một khi anh em đã được giải phóng khỏi ách tội lỗi, anh em đã được nhận vào phục vụ đức công chính".  

Thành phần "đầy tớ" đóng vai "quản lý" phục vụ thay chủ trong Bài Phúc Âm hôm nay chỉ có thể chu toàn những gì được chủ trao phó bằng tất cả ý thức và cảm nhận của Bài Đáp Ca hôm nay: 

1) Nếu như Chúa không che chở chúng tôi, - Israel hãy xướng (lên) - nếu như Chúa không che chở chúng tôi, khi thiên hạ cùng chúng tôi gây hấn, bấy giờ người ta đã nuốt sống chúng tôi rồi, khi họ bầng bầng giận dữ chúng tôi. 

2) Bấy giờ nước cả đã lôi cuốn mất, trào lưu đã ngập lút con người chúng tôi, bấy giờ sóng cả kiêu hùng đã ngập lút chúng tôi! Chúc tụng Chúa vì Ngài đã không để chúng tôi nên mồi trao đưa vào răng chúng. 

3) Hồn chúng tôi như cánh chim non, thoát khỏi lưới dò của người gài bẫy bắt chim. Lưới dò đã đứt gãy, và chúng tôi đã thoát thân. Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất! 

 


Thứ Năm


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 6, 19-23

"Giờ đây anh em được thoát khỏi sự tội, được phục vụ Thiên Chúa".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi nói theo kiểu người phàm, bởi lẽ xác thịt anh em yếu đuối: như xưa anh em đã cống hiến chi thể anh em để làm nô lệ sự ô uế và sự gian ác, khiến anh em trở nên người gian ác thế nào, thì giờ đây anh em hãy cống hiến chi thể anh em để phục vụ đức công chính, hầu nên thánh thiện cũng như vậy. Vì xưa kia anh em làm nô lệ tội lỗi, thì anh em được tự do đối với đức công chính. Vậy thì bấy giờ anh em đã được những lợi ích gì do những việc mà giờ đây anh em phải hổ thẹn? Vì chung cục của những điều ấy là sự chết. Nhưng giờ đây, anh em được thoát khỏi sự tội, được phục vụ Thiên Chúa, thì anh em được những ích lợi đưa đến thánh thiện, mà chung cục là sự sống đời đời. Bởi vì lương bổng của tội lỗi là sự chết. Nhưng hồng ân của Thiên Chúa là sự sống đời đời trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (c. Tv 39,5a).

Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa, lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.

3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 49-53

"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".

Ðó là lời Chúa.


Fogo sobre a terra

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Chúa Kitô cũng chủ trương bạo lực như ai? - "Thày đến không phải để đem bình an mà là gươm giáo!"

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XXIX Thường Niên, tuy có 4 câu ngắn ngủi nhưng chất chứa nhiều ý nghĩa sâu xa liên quan đến chính bản thân của Chúa Kitô, hơn là đến các môn đệ của Người như 2 bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia, nhưng lại là những gì được Người "phán cùng các môn đệ" chứ không với ai khác, với chung dân chúng hay với riêng thành phần biệt phái và luật sĩ như thường thấy. Nguyên văn của Bài Phúc Âm hôm nay như sau: 

"Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng". 

Có ít là 3 vấn đề chính yếu cần phải tìm hiểu trong bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến bản thân của Chúa Kitô, thứ tự ở ngay 3 câu đầu tiên như sau: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên" (1); "Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất" (2); và "Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ" (3).  

1- "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên".  

"Lửa" đây là gì, nếu không phải là Thánh Thần!?! Vì Người là Đấng "làm phép rửa bằng Thánh Thần" (Gioan 1:33), một phép rửa Người sẽ thực hiện cho thành phần môn đệ tông đồ của Người khi sau khi Người thăng thiên về cùng Cha để sai Thánh Thần từ Cha xuống trên các tông đồ cũng là trên Giáo Hội của Người: "Gioan làm phép rửa bằng nước nhưng trong vòng ít ngày nữa các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần" (Tông Vụ 1:5), Đấng khi hiện xuống vào Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem trên các tông đồ cũng như từng tông đồ, đã mặc lấy hình lưỡi lửa (xem Tông Vụ 2:3). 

2- "Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất". 

"Phép rửa" Chúa Giêsu cần phải chịu đây là gì, như Người cũng đã đề cập với cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIX Thường Niên Năm B đầu tuần này, nếu không phải là chính cuộc khổ giá của Người, một cuộc khổ giá bất khả thiếu mà Người không thể nào tránh được với tư cách là một Đấng Thiên Sai Cứu Thế, một cuộc khổ giá vì thế Người không thể nào không "khắc khoảidấn thân thực hiện "cho đến khi hoàn tấttheo ý của Đấng đã sai Người, và là một "phép rửakhổ giá vô cùng cần thiết cho "phép rửa bằng Thánh Linh" mà Nhiệm Thể Giáo Hội của Người sẽ lãnh nhận. 

3- "Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ". 

Nếu chỉ căn cứ vào duy câu nói này thôi của Chúa Kitô thì chắc chắn sẽ không một ai còn lương tâm chân chính trên thế gian này có thể chấp nhận Người là giáo tổ Kitô giáo, trái lại, trong trào lưu bạo loạn và khủng bố khắp nơi ngày nay, họ sẽ cho Người là một tên chúa tể hung ác bạo tàn, chẳng khác gì như những tay lãnh đạo nhóm khủng bố Al Queda hay IS, hay những tên chuyên chế độc tài diệt chủng ở thế kỷ 20, và Người sẽ bị cơ quan mật vụ CIA và FBI của Mỹ theo dõi sát nút 

Thế nhưng dù sao vẫn không thể nào phủ nhận được sự thật bất khả chối cãi của lời Người khẳng định như thế. Bởi vì, chính Người xuống thế gian là để đem lại bình an cho nhân loại, ở chỗ Người đã tái lập lại mối liên hệ đã bị nguyên tội làm lũng đoạn giữa con người với Thiên Chúa cũng như giữa con người với thiên nhiên tạo vật và với nhau, bằng chính cuộc Vượt Qua của Người.  

Tuy nhiên, tinh thần Phúc Âm trọn lành theo con đường hẹp rất ít người đi của Người và như Người như thế, tự bản chất của mình, đã gây "chia rẽ" nơi xã hội loài người, ở chỗ, tinh thần trọn lành cùng con đường hẹp Phúc Âm của Người đã làm đảo lộn khuynh hướng vị kỷ của trần gian, bằng đường lối "bỏ mình và vác thập giá" (Mathêu 16:24), và đã cách mạng văn hóa hưởng thụ của con người tự nhiên, bằng tinh thần "không để được phục vụ nhưng phục vụ làm giá chuộc nhiều người" (Mathêu 20:28), khiến cho những ai dấn thân theo Người bị cả chính thân nhân ruột thịt của họ phản kháng và chống phá, như chính Chúa Kitô đã khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay:  

"Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng". 

Tình trạng "chia rẽ" xẩy ra trong xã hội loài người do tinh thần và đường lối Phúc Âm của Chúa Kitô gây ra như thế thực sự đã phản ảnh của tâm trạng "chia rẽ" trong nội tâm của mỗi một con người, như chính Thánh Phaolô Tông Đồ đã cảm nhận và bày tỏ trong Thư gửi Giáo đoàn Rôma  Bài Đọc 1 cho năm lẻ ngày mai: "sự lành tôi muốn thì tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn thì tôi lại làm" (7:19).  

Bởi thế, trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, ngài đã khuyên Kitô hữu của giáo đoàn này đừng sống theo xác thịt mà "làm nô lệ sự ô uế và sự gian ác", trái lại hãy sống cho Thiên Chúa một cách tự do để được "sự sống đời đờinhư sau:  

"Anh em thân mến, tôi nói theo kiểu người phàm, bởi lẽ xác thịt anh em yếu đuối: như xưa anh em đã cống hiến chi thể anh em để làm nô lệ sự ô uế và sự gian ác, khiến anh em trở nên người gian ác thế nào, thì giờ đây anh em hãy cống hiến chi thể anh em để phục vụ đức công chính, hầu nên thánh thiện cũng như vậy. Vì xưa kia anh em làm nô lệ tội lỗi, thì anh em được tự do đối với đức công chính. Vậy thì bấy giờ anh em đã được những lợi ích gì do những việc mà giờ đây anh em phải hổ thẹn? Vì chung cục của những điều ấy là sự chết. Nhưng giờ đây, anh em được thoát khỏi sự tội, được phục vụ Thiên Chúa, thì anh em được những ích lợi đưa đến thánh thiện, mà chung cục là sự sống đời đời. Bởi vì lương bổng của tội lỗi là sự chết. Nhưng hồng ân của Thiên Chúa là sự sống đời đời trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".

Bài Đáp Ca hôm nay diễn tả về người công chính sống bởi đức tin theo tinh thần trọn lành và con đường hẹp Phúc Âm của Chúa Kitô nên họ được triển nở một cách viên mãn như sau:

1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. 

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa, lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. 

3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.  



Thứ Sáu

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 7, 18-25a

"Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi cái xác chết này?"

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi biết rằng sự lành không ở trong tôi, nghĩa là trong huyết nhục của tôi. Vì chưng ước muốn thì tôi vẫn có, nhưng làm cho sự lành nên hoàn hảo thì không sao được. Bởi vì sự lành tôi muốn thì tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn thì tôi lại làm. Thực ra nếu tôi làm điều tôi không muốn, thì bấy giờ không phải chính tôi làm điều đó, nhưng là sự tội ở trong mình tôi. Thành ra khi tôi muốn làm sự lành, tôi nhận thấy trong tôi có lề luật, vì sự dữ vẫn kèm bên tôi. Theo như con người bên trong, tôi cũng ưa thích lề luật Thiên Chúa: nhưng tôi thấy trong chi thể tôi có một lề luật khác đối địch với lề luật tâm thần tôi, và giam hãm tôi dưới ách lề luật sự tội trong chi thể tôi. Tôi là con người vô phúc! Ai sẽ cứu tôi khỏi cái xác chết này? Cảm tạ Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Như thế, chính tôi lấy tâm thần mà phục vụ lề luật Thiên Chúa; còn về xác thịt, thì vâng phục lề luật của sự tội.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 66. 68. 76. 77. 93. 94

Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài (c. 68b).

Xướng: 1) Xin Chúa dạy con sự thông minh và lương tri, vì con tin cậy vào các chỉ thị của Ngài. - Ðáp.

2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

3) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu uỷ lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. - Ðáp.

4) Nguyện Chúa xót thương cho con được sống, vì luật pháp Ngài là sự sung sướng của con. - Ðáp.

5) Ðời đời con không quên những huấn lệnh của Ngài, bởi lẽ đó mà Ngài đã ban cho con được sống. - Ðáp.

6) Con thuộc về Chúa, xin Chúa cứu độ con, vì con tìm kiếm huấn lệnh của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 54-59

"Các ngươi biết tìm hiểu diện mạo trời đất? Còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán bảo dân chúng rằng: "Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế. Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều gì phải lẽ? Thế nên, khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn thoả với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước quan toà, và quan toà trao ngươi cho lý hình và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi đó cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng".

Ðó là lời Chúa.

 


Related image

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Nạn Nhân Bản Thân

 

Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXIX Thường Niên, tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm hôm qua về chính bản thân của Chúa Kitô, bài Phúc Âm hôm nay, với 7 câu cuối cùng của đoạn 12, Thánh ký Luca đã thuật lại cho chúng ta những gì "Chúa Giêsu phán bảo dân chúng" về việc họ biết xem điềm trời mà không biết suy đoán dấu chỉ thời đại, cũng như việc họ cần phải thanh toán với đối phương khi còn có thể.  

 

Trước hết, về việc họ biết xem điềm trời mà không biết suy đoán dấu chỉ thời đại: "Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế. Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều gì phải lẽ?" 

 

Sau nữa, về việc họ cần phải thanh toán với đối phương bao lâu khi còn có thể: "Thế nên, khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn thoả với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước quan toà, và quan toà trao ngươi cho lý hình và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi đó cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng". 

 

Vấn đề được đặt ra ở đây là việc họ biết xem điềm trời mà không biết suy đoán dấu chỉ thời đại và việc họ cần phải thanh toán với đối phương bao lâu khi còn có thể có liên hệ gì với nhau hay chăng, nếu có thì ở chỗ nào, vì thật sự là giữa hai sự việc này, về mạch văn, được nối kết với nhau bằng liên từ "thế nên" ở sự việc thứ hai, ngay sau sự việc thứ nhất, tức là có liên quan đến sự việc thứ nhất?  

 

Thật vậy, lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay có thể hiểu về lương tâm nơi con người, được biểu hiệu qua hình ảnh của "quan toà", một thẩm quyền phán xét nơi con người có thể ra tay hành hạ con người như những tay "lý hình", và đồng thời cũng có thể "tống" con người "vào ngục" là chính thâm tâm khổ ải bất an của con người, "cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng" là chấp nhận lỗi lầm của họ, những lỗi lầm mà trước đó, lúc còn "đang lúc đi dọc đường", lúc đang còn được lương tâm nhắc nhở đừng làm, đừng vấp phạm, tức nếu biết tránh né, đã không bị lương tâm trở thành "quan tòa" phán xét họ đến độ họ cảm thấy bị hành hạ bởi những áy náy, lo sợ, khổ tâm và bất an v.v. 

 

Dấu chỉ thời đại để họ có thể giải quyết vấn đề lương tâm của họ là chính những nhắc nhở của lương tâm trước khi họ liều mình vấp phạm theo đam mê nhục dục của họ, bằng việc họ trấn an lương tâm theo những lý lẽ chủ quan nông cạn đầy tham vọng nhất thời của họ. Hay dấu chỉ thời đại để họ có thể giải quyết vấn đề lương tâm của họ thậm chí còn là chính những cắn rứt sau khi họ đã lỡ vấp phạm, để nhờ đó họ có thể được giải thoát "ra khỏi" ngục tù thâm tâm của họ, bằng cách "tự mình phê phán điều gì phải lẽ?" theo lời Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ chấp nhận lỗi lầm của mình, trả lại cho công lý những gì mình đã qua mặt và cướp quyền: "trả xong đồng xu cuối cùng". 

 

Trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ cũng cho thấy một thứ ngục tù nơi thâm tâm của con người đã vướng mắc nguyên tội, như thể con người bị giam giữ, khiến con người bị gò bó hạn hẹp không thể thoát thân, đến độ con người cảm thấy như Vị Thánh Tông Đồ Dân Ngoại than lên rằng: "Tôi là con người vô phúc! Ai sẽ cứu tôi khỏi cái xác chết này?": 

"Anh em thân mến, tôi biết rằng sự lành không ở trong tôi, nghĩa là trong huyết nhục của tôi. Vì chưng ước muốn thì tôi vẫn có, nhưng làm cho sự lành nên hoàn hảo thì không sao được. Bởi vì sự lành tôi muốn thì tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn thì tôi lại làm. Thực ra nếu tôi làm điều tôi không muốn, thì bấy giờ không phải chính tôi làm điều đó, nhưng là sự tội ở trong mình tôi. Thành ra khi tôi muốn làm sự lành, tôi nhận thấy trong tôi có lề luật, vì sự dữ vẫn kèm bên tôi. Theo như con người bên trong, tôi cũng ưa thích lề luật Thiên Chúa: nhưng tôi thấy trong chi thể tôi có một lề luật khác đối địch với lề luật tâm thần tôi, và giam hãm tôi dưới ách lề luật sự tội trong chi thể tôi".

Thực tế phũ phàng cũng cho thấy, trong đời sống đạo, có những tâm hồn rất đạo đức, đọc kinh xem lễ rước lễ hằng ngày, xưng tội hằng tháng, tĩnh tâm hằng năm, chay tịnh trường kỳ, dạy đạo liên miên v.v., nhưng vẫn liên tục lỗi đức bác ái một cách trầm trọng và công khai, gây gương mù gương xấu cho những ai sống quanh mình và với mình, như cho con cái và bạn bè ngoại đạo.  

Thậm chí trong những lúc bối rối, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta biết được ý định của Ngài để mà làm theo. Thế nhưng, khi đã rõ ràng biết được ý muốn của Thiên Chúa, như qua vị linh hướng, chúng ta liền trốn mất, hay vội vàng chối bỏ, vì ý Chúa ấy không đúng như ý của chúng ta, hay là những gì phản lại với đời sống tự nhiên của chúng ta, bắt chúng ta phải bỏ mình!  

Tình trạng chối bỏ chân lý và lấn át chân lý này vẫn thường xẩy ra trong đời sống hằng ngày của tất cả mọi người trên thế gian này nói chung và của Kitô hữu chúng ta nói riêng, khi chúng ta liên tục chối bỏ tiếng lương tâm của chúng ta, liên quan đến việc làm lành lánh dữ được lương tâm nhắc nhủ hay cảnh báo, bằng việc chúng ta trấn an lương tâm hay lèo lái lương tâm theo sở thích tự nhiên của mình hay theo ý riêng vị kỷ của mình. 

Bởi thế, để có thể sống chân chính và bằng an theo lương tâm của mình, hơn là theo đam mê nhục dục và tính mê nết xấu của bản tính mang nguyên tội của mình, khiến con người sống bất hạnh hơn là phúc hạnh, con người cần phải thành tâm khẩn cầu cùng Chúa bằng các ước nguyện của Bài Đáp Ca hôm nay: 

1) Xin Chúa dạy con sự thông minh và lương tri, vì con tin cậy vào các chỉ thị của Ngài. 

2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. 

3) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu uỷ lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. 

4) Nguyện Chúa xót thương cho con được sống, vì luật pháp Ngài là sự sung sướng của con. 

5) Ðời đời con không quên những huấn lệnh của Ngài, bởi lẽ đó mà Ngài đã ban cho con được sống. 

6) Con thuộc về Chúa, xin Chúa cứu độ con, vì con tìm kiếm huấn lệnh của Ngài. 


 


Thứ Bảy

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 1-11

"Thánh Thần của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, giờ đây không còn gì là án phạt dành cho những ai ở trong Ðức Giêsu Kitô: vì những kẻ ấy không còn sống theo xác thịt. Bởi chưng lề luật của Thánh Thần ban sự sống trong Ðức Giêsu Kitô, đã giải thoát tôi khỏi lề luật sự tội và sự chết. Ðiều mà lề luật không thể làm được, vì bị xác thịt làm cho ra yếu đi, thì Thiên Chúa sai Con của Người đến trong xác thịt giống như xác thịt tội lỗi, và để phản đối sự tội, Người đã luận phạt tội lỗi, và phản đối sự tội, Người đã luận phạt tội lỗi trong xác thịt, khiến cho ơn công chính của lề luật thành tựu đầy đủ trong chúng ta, là những người không còn sống theo xác thịt, nhưng theo tinh thần. Vì những ai sống theo xác thịt, thì tưởng ước những sự thuộc về xác thịt: còn những ai sống theo tinh thần, thì tưởng ước những sự thuộc về tinh thần. Mà tưởng ước của xác thịt là sự chết, còn tưởng ước của tâm thần là sự sống và bình an. Vì chưng sự khôn ngoan của xác thịt là thù nghịch với Thiên Chúa: bởi nó không tùng phục lề luật của Thiên Chúa: vả lại nó cũng không thể tùng phục được. Những kẻ sống theo xác thịt, thì không thể đẹp lòng Chúa. Còn anh em, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Ðức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người. Nhưng nếu Ðức Kitô ở trong anh em, cho dù thân xác đã chết vì tội, nhưng tinh thần vẫn sống vì đức công chính. Và nếu Thánh Thần của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6

Ðáp: Lạy Chúa, đó là dòng dõi người tìm kiếm long nhan Chúa (c. 6).

Xướng: 1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Người xây dựng nó trên biển cả, và Người giữ vững nó trên chỗ nước nguồn. - Ðáp.

2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Người? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. - Ðáp.

3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 18

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều kỳ diệu trong luật Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 13, 1-9

"Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Người lên tiếng bảo: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê đó bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế; nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".

Người còn nói với họ dụ ngôn này: "Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: Kìa, đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!" Nhưng anh ta đáp rằng: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân: may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi".

Ðó là lời Chúa. 


Image result for Lc 13, 1-9

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 


Những bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXIX Thường Niên hôm nay là bài Phúc Âm chất chứa lời Chúa Giêsu cảnh giác "những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu của họ hoà lẫn với máu của các vật họ tế sinh". 

Người cảnh giác họ những gì, nếu không phải cảnh giác họ về hình phạt tương tự như thế nếu họ không ăn năn hối cải, mà cứ tưởng mình tốt lành hơn các nạn nhân được họ thuật lại cho Chúa Giêsu biết.  

Ở đây, qua ý nghĩa của lời Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Người dường như vừa không công nhận đau khổ là hậu quả hay hình phạt của tội lỗi lại vừa công nhận. 

Chúa Giêsu dường như không công nhận đau khổ là hình phạt của tội lỗi hay hậu quả của tội lỗi: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê đó bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế... Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế". 

Chúa Giêsu đồng thời lại khẳng định đau khổ là hình phạt của tội lỗi và là hậu quả của tội lỗi"Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy... nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy". 

Trong trường hợp của người mù từ lúc mới sinh, Chúa Giêsu cũng dường như phủ nhận đau khổ là hậu quả của tội lỗi khi khẳng định sự kiện anh ta bị mù từ lúc mới sinh: "không phải do tội của anh ta hay của cha mẹ anh ta" (xem Gioan 9:3). Thật ra, Chúa Giêsu không phủ nhận đau khổ là hậu quả của tội lỗi, nhưng Người gán cho đau khổ một ý nghĩa quí giá hơn và cao cả hơn, như trong trường hợp người mù từ lúc mới sinh như nó là một cơ hội để Thiên Chúa tỏ mình ra: "Chính là để cho các công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh ta" (xem Gioan 9:3). 

Trong bài Phúc Âm hôm nay cũng thế, Chúa Giêsu cũng không phủ nhận đau khổ là hình phạt của tội lỗi hay là hậu quả của tội lỗi, nhất là trong trường hợp con người không biết thống hối ăn năn. Tuy nhiên, cũng qua bài Phúc Âm hôm nay, Người còn gán cho đau khổ một ý nghĩa cảnh báo cho những ai tự phụ cho mình là lành thánh nên không bị đau khổ như người khác là những người tội lỗi chứ không vô tội như mình. 

Chưa hết, cũng theo chiều hướng ấy, Chúa Giêsu dường như còn ngầm cho thấy rằng đau khổ cho dù là và chính là hậu quả của tội lỗi mà nó đã được Thiên Chúa sử dụng như gậy ông đập lưng ông, như của độc giải độc, trong việc đánh động con người tội lỗi, để nhớ đó họ có thể nhận lỗi, hối lỗi và sửa lỗi mà quay về cùng Người.  

Đó là lý do ở phần cuối bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu còn nói thêm một dụ ngôn liên quan đến việc cải thiện đời sống, qua hình ảnh cây vả không sinh hoa kết trái "đã 3 năm" liền, đáng bị đốn đi cho đỡ "choán đất", nhưng nó vẫn còn được kéo dài chờ thêm "một năm nữa":  

"Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: 'Kìa, đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!' Nhưng anh ta đáp rằng: 'Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân: may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi'". 

Thật vậy, việc cải thiện đời sống được chứng tỏ qua việc tâm hồn thống hối trổ sinh hoa trái thiêng liêng, mà để có thể sinh hoa trái thiêng liêng, Kitô hữu không thể nào sống theo xác thịt vốn hướng chiều về chết chóc, mà phải sống theo Thánh Linh là Đấng ban sự sống, một sự sống bao gồm cả hồn xác của bản tính con người, đúng như xác tín của Thánh Phaolô Tông đồ trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay qua Thư gửi Giáo đoàn Rôma: 

"Những kẻ sống theo xác thịt, thì không thể đẹp lòng Chúa. Còn anh em, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Ðức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người. Nhưng nếu Ðức Kitô ở trong anh em, cho dù thân xác đã chết vì tội, nhưng tinh thần vẫn sống vì đức công chính. Và nếu Thánh Thần của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em".

Bài Đáp Ca hôm nay nói đến những tâm hồn không sống theo xác thịt, "không để lòng xu hướng bả phù hoa", mà là sống theo Thánh Thần, ở chỗ sống trổi vượt trên trần gian như "trèo lên cao sơn của Chúa", như "đứng trong nơi thánh của Người", một con người có "tay vô tội và lòng thanh khiết", một con người "tìm kiếm Chúa, tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp": 

1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Người xây dựng nó trên biển cả, và Người giữ vững nó trên chỗ nước nguồn.

2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Người? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. 

3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp.

 

 

 Hạnh Thánh Trong Tuần sau phần PVLC Hằng Ngày

 

 

Ngày 19/10 - Chúa Nhật

 

1. Thánh Gioan Brébeuf; thánh Isaac Jogues và các bạn tử đạo (chỉ ở Hoa Kỳ)

                2. Thánh Phaolô Thánh Giá, linh mục

 


Thánh Phaolô Thánh Giá

ĐẤNG SÁNG LẬP DÒNG THƯƠNG KHÓ CHÚA GIÊSU

Saint-Paul-of-theCross.jpg

1694 – 1775

Ngay thuở niên thiếu, Thánh Giá là cuốn sách gối đầu của ngài và việc Chúa chịu đóng đinh là khuôn mẫu ngài muốn noi theo

Để tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh

Trích từ những lá thư của Thánh Phaolô Thánh Giá

Hơn nữa, cha ước ao rằng mãi này về sau con sẽ là người chài lưới. Bằng cách nào ư? Hãy theo cách này. Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu là một biển sầu, nhưng đồng thời đó cũng là một đại dương tình yêu. Hãy khẩn cầu Đức Chúa để Ngài hướng dẫn con cách thả lưới trong đại dương này. Con hãy đắm mình vào trong đó, và chớ đặt nặng việc con lặn sâu được bao nhiêu, bởi con sẽ không bao giờ chạm tới đáy. Hãy để tình yêu và sầu khổ thấm nhập vào thân con. Qua cách thế này, con sẽ biến những đau khổ của Chúa Giêsu hiền lành thành của chính con. Con hãy tìm những viên ngọc nhân đức của Chúa Giêsu. Việc tìm kiếm thánh thiêng sẽ được dẫn lối bằng đức tin và tình yêu chứ không bằng lời nói. Những người thả lưới khiêm nhường nhất chính là những người giỏi nhất.

Thánh Phaolô Thánh Giá

Ngày mùng 8 tháng 4 năm 1758

Hãy xua đi những nỗi u sầu nơi trái tim của con, và dẫu con có làm điều gì sai thì cũng đừng nản chí, bởi vì nó sẽ làm hại cho con hơn chính hành vi sai trái. Thay vào đó, con hãy khiêm nhu, hãy van nài sự tha thứ tha của Thiên Chúa, hãy quyết tâm làm điều tốt hơn trong tương lai và hãy hân hoan dấn bước trên hành trình của con

Thánh Phaolô Thánh Giá

Lời nguyện cùng Thánh Phaolô Thánh Giá

Lạy cha Thánh Phaolô,

Là cha và là người anh em của chúng con,

Giờ đây, chúng con đang cùng ngài đứng trước Thập Giá Đức Kitô. Xin tình yêu được thể hiện cho chúng con nơi thập giá của Đức Kitô chiếm lấy khối óc, con tim và đời sống chúng con. Ngài đã noi gương Chúa Giêsu chịu đóng đinh, thì xin cho chúng con cũng gạt bỏ mọi sự, mà khao khát mỗi thánh ý của Thiên Chúa và làm cho sự tưởng niệm về cuộc Thương Khó và sự Chết của Chúa Giêsu Kitô, Đấng là hy vọng duy nhất của chúng con, luôn sống mãi. Amen.

Thánh Phaolô Thánh Giá

Khoảng những năm 1715 – 1716, với niềm khát khao phục vụ Đức Kitô, Thánh Phaolô Thánh Giá đã đến Venice để đăng ký nhập ngũ. Từ nguồn cảm hứng về lý tưởng Thập Tự Chinh, ngài ước ao đấu tranh chống lại quân Đạo Hồi đang đe dọa cả Châu Âu thời đó. Ngày nọ, trong khi Chầu Thánh Thể, ngài nhận ra lý tưởng Thập Tự Chinh không phải là ơn gọi của ngài. Khi đó, ngài xuất ngũ nhưng vẫn ở lại Venice một thời gian để chăm sóc gia đình một người quen. Sau đó, Thánh nhân trở về nhà. Dẫu người chú linh mục đã để lại cho ngài thừa hưởng khối tài sản lớn với mong muốn ngài lập gia đình nhưng Thánh nhân đã từ chối ý định đó.

Thánh Phaolô Thánh Giá sinh ngày 3 tháng 1 năm 1694 tại Ovada, nước Ý. Sau đó, gia đình ngài dời đến Castellazzo Bormida, cách nơi ngài sinh ra không xa. Từ thuở bé, người mẹ đã dạy ngài tìm thấy sức mạnh từ cuộc Thương khó Chúa Giêsu để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Được đốt cháy bởi tình yêu dành cho Chúa Giêsu chịu đóng đinh từ lúc còn nhỏ, Thánh Phaolô Thánh Giá ước mong dâng hiến trọn đời cho Người. Một lần, khi bị ốm, Thánh nhân có một thị kiến về hỏa ngục khiến ngài khiếp sợ. Sau đó không lâu, ngài đã được Chúa linh hứng về tình yêu của Chúa Giêsu chịu đóng đinh qua một bài giảng. Ngài xem khoảnh khắc đó như là thời điểm của “sự trở lại” của mình.

Liên quan việc tưởng nhớ sự kiện Chúa Giêsu chịu đóng đinh, theo một nhân chứng, qua một thị kiến về Đức Nữ Đồng Trinh, Thánh Phaolô Thánh Giá đã nhận ra áo dòng, huy hiệu và lối sống mà ngài phải bước đi. Đó là một cuộc sống hoàn toàn dâng hiến cho Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Sau khi tham vấn một số vị giải tội khôn ngoan, ngài được Đức Giám Mục Gattinara thành Alessandria khoác lên người chiếc tu phục của Dòng Thương Khó Chúa Giêsu ngày 22 tháng 11 năm 1720. Sau đó, ngài đã dành 40 ngày tiếp theo để làm một cuộc tĩnh tâm trong phòng thánh của nhà thờ Thánh Chales tại Castellazzo. Những kinh nghiệm và cảm nghiệm về đời sống tâm linh của ngài trong suốt 40 ngày mà ngày nay chúng ta được biết đến qua cuốn “Nhật Ký Thiêng Liêng”. Cũng trong khoảng thời gian tĩnh tâm 40 ngày đó, ngài đã soạn thảo tu luật dành cho những anh em tu sĩ tương lai. Họ là những người mà Thánh nhân gọi là “Người Nghèo của Chúa Giêsu”. Trong một cuộc thăm viếng, em ngài là John Baptist xin chia sẻ đời sống cùng ngài nhưng Thánh nhân đã từ chối lời yêu cầu ấy, chí ít trong khoảng thời gian này.

Sau trải nghiệm 40 ngày, Đức Giám mục đã cho phép Thánh nhân được sống trong môi trường ẩn tu tại nhà thờ Thánh Stephen thuộc giáo xứ Castellazzo và cộng tác vào công việc mục vụ với tư cách là một giáo dân. Trong suốt mùa hè năm 1721, Thánh Phaolô Thánh Giá đi tới Rôma với ý định trình bày với Đức Thánh Cha về những linh hứng liên quan đến hội dòng tương lai. Những người gác cổng điện Quirinal (nơi ở của Đức Giáo Hoàng thời đó) đã không cho phép Thánh nhân vào vì nghĩ rằng ngài là kẻ ăn xin.

Lời Khấn Đầu Của Dòng Thương Khó Chúa Giêsu. Chấp nhận việc xỉ nhục vừa rồi, theo gương Chúa Giêsu chịu đóng đinh, Thánh Phaolô Thánh Giá đi đến Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả và đứng trước ảnh Thánh, Đức Bà Salus Populi Romani (Sự cứu rỗi dân Rôma), ngài đã khấn dâng mình cho việc loan truyền sự tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô.

Trên hành trình trở về nhà, ngài dừng chân một thời gian ở Orbetello, tại tu viện của Dòng Truyền Tin trên núi Argentario. Khi đến Castellazzo, Thánh nhân hội ngộ cùng em ngài là John Baptist. Ngay sau đó, cả hai rời nơi ấy đi lên núi Argentario và sống như những vị ẩn tu. Sau đó, Đức Giám mục Pignatelli mời họ đến tu viện tại Madonna della Catena, Giáo phận Gaeta. Đức Giám mục Cavalieri tiếp tục cho phép họ sống ở Troia trong một thời gian. Sau đó, hai anh em trở về đền thờ Đức Mẹ Civita thuộc Giáo phận Gaeta. Họ đã nỗ lực rất nhiều để thành lập một cộng đoàn nhưng thất bại. Để rao giảng về Cuộc Thương Khó, họ cần phải thụ phong linh mục, vì thế cả hai cùng tới Rôma. Trong khi học thần học, họ đã chăm sóc các bệnh nhân da liễu tại bệnh viện San Gallicano. Hai anh em có cơ hội được nói chuyện với Đức Thánh Cha khi ngài thăm nhà thờ Navicella trên đồi Celian. Qua lời hứa, ngài đã cho phép hai anh em thành lập cộng đoàn trên Núi Argentario. Năm 1727, sau khi thụ phong linh mục, hai anh em rời Rôma đến sống tại núi Argentario.

Rao truyền Cuộc Thương Khó Chúa Kitô. Lúc đầu, hai anh em thi hành mục vụ cho những ngư dân, các tiều phu và những người chăn chiên. Không lâu sau, nhiều anh em khác đã gia nhập với các ngài. Trong số đó, Antonio là em của ngài và một vài người khác đã được thụ phong linh mục. Đức Giám mục đã yêu cầu họ giảng đại phúc tại cho các xứ trong vùng. Khi chiến tranh xảy ra trong bang Garrison, Thánh Phaolô Thánh Giá đã chăm sóc các thương binh của cả hai bên. Mọi người luôn chào đón sự hiện diện của ngài

Nhà tĩnh tâm đầu tiên đã khánh thành vào năm 1737 và được dâng hiến cho Đức Mẹ Dâng Mình. Sau đó, Thánh Phaolô Thánh Giá đệ trình hiến luật mới của hội dòng lên Rôma.  Sau khi điều chỉnh, Đức Giáo Hoàng Benedicto XIV đã phê duyệt luật dòng vào năm 1741.

Đấng Sáng Lập Dòng Thương Khó Chúa Giêsu là một trong những nhà giảng thuyết nổi bật thời bấy giờ như Thánh Leonard vùng Maurica và Thánh Alphonsus Liguori. Họ là những người mà Thánh nhân đã từng gặp. Vì tình yêu dành cho  Đức Giêsu chịu đóng đinh, Thánh Phaolô Thánh Giá cũng như những vị thánh ấy đã nhiệt tâm cho việc rao giảng đại phúc.

Mặc dù Thánh Phaolô Thánh Giá giữ chức vụ Bề trên Tổng quyền từ năm 1747 trở đi, ngài không ngừng rao giảng hoặc viết thư đồng hành thiêng liêng. Hội dòng phải đối diện với nhiều sự chống đối từ một số thành phần trong hội thánh. Chính vì thế, một số hoạch định thành lập bị trì hoãn cho tới khi Ủy ban Giáo Hoàng thông qua những đánh giá thuận lợi cho Dòng Thương Khó Chúa Giêsu.

Qua những tham vấn và chính mẫu gương của John Baptist, Thánh Phaolô Thánh Giá đã cố gắng không ngừng nhằm giữ tinh thần cô tịch, nghèo khó và cầu nguyện. Năm 1767, trước cái chết của John Baptist, Thánh Phaolô Thánh Giá cảm thấy lạc lõng như một đứa trẻ mồ côi.

Nữ Tu Dòng Thương Khó Chúa Giêsu. Lucia Burlini, một thôn nữ, từng nói chuyện với Thánh Phaolô Thánh Giá về “những chú chim bồ câu trên đồi Canvê”. Hình ảnh này được sử dụng rộng rãi trong giới đan sĩ và tu sĩ. Mặc dầu, Thánh Phaolô Thánh Giá đã nỗ lực trong suốt 40 năm để hiện thực hóa việc thành lập dòng nữ. Nhưng mãi đến 1771, Đan Viện Nữ Thương Khó Chúa Giêsu mới được thành lập tại in Corneto-Tarquinia. Ngài đã bổ nhiệm Mẹ Mary Crocifissa Costantini, một Nữ Đan sĩ Biển Đức, làm Mẹ Bề trên đầu tiên. Đức Giáo Hoàng Clemente XIV đã cho phép mẹ được chuyển đến đan viện mới.

Sau khi Dòng Tên bị giải thể, Đức Giáo Hoàng Clemente XIV đã chuyển các tu sĩ dòng Lazarists (the Fathers of the Missions) đến nhà thờ Sant’Andrea trên đồi Quirinal. Ngài trao cơ sở sinh hoạt và Vương Cung Thánh Đường Gioan và Phaolô (Giovanni e Paolo) trên đồi Celian cho Thánh Phaolô Thánh Giá. Nơi này cách đấu trường Coliseum không xa và đây cũng là nơi Thánh Phaolô Thánh Giá sống những năm tháng cuối đời. Cũng chính nơi đây, Đức Giáo Hoàng Clemente XIV và Đức Giáo Hoàng Pi-ô VI đã tới thăm ngài trong năm 1774 và 1775. Vài tháng sau chuyến thăm viếng của Đức Thánh Cha, Thánh nhân đã qua đời. Thánh tích của Thánh Phaolô Thánh Giá được cất giữ và tôn kính trong Nhà nguyện. Nó được hoàn thành và dâng hiến cho ngài, năm 1880.

https://www.passionists.com/vi/about-the-passionists/st-paul-cross/


 

THÁNH GIOAN PHAOLÔ II

 

22/10 Thứ Tư

 


26 Năm Dẫn Dắt Giáo Hội 

Vị GH Vui Mừng và Hy Vọng: 'Đừng Sợ'

Thời Điểm Gioan Phaolô II 

 

 

 

 

 

Thánh Gioan Capistranô, linh mục

23/10 Thứ Năm

stjohncapistrano.jpg

 

Người ta thường nói các thánh là những người lạc quan nhất thế giới. Các ngài không bị mù quáng bởi sự dữ hay hậu quả của nó, nhưng các ngài luôn đặt niềm tin vào quyền năng ơn cứu độ của Ðức Kitô. Sức mạnh hoán cải của Ðức Kitô không chỉ ảnh hưởng đến người có tội, mà còn ảnh hưởng cả đến các tai họa.
Thế kỷ 14 là thời kỳ hỗn loạn về đạo cũng như đời. Một phần ba dân số và gần 40 phần trăm giáo sĩ bị tiêu diệt bởi bệnh dịch hạch. Cuộc Ðại Ly Giáo Tây Phương đã phân tán Giáo Hội đến độ Tòa Thánh không chỉ có một giáo hoàng mà đến hai, ba giáo hoàng một lúc. Nước Anh và nước Pháp đang giao chiến với nhau. Thủ đô nước Ý luôn luôn có tranh chấp. Hiển nhiên sự u ám đó đã bao trùm cả thời đại, và khống chế tinh thần văn hóa.
Thánh Gioan sinh ở Capistrano, nước Ý năm 1385. Ngài là con của một cựu hiệp sĩ người Ðức sống trong thành phố.

 

 

Cha của Gioan là một nhà quí tộc người Pháp đã theo bá tước Anjon trong cuộc chinh vương quốc Naples. Để ân thưởng cho lòng can đảm, ông đã được chiếm những lãnh điạ rộng lớn. Ông định cư tại Caoistranô và qua đời sớm sau khi cưới một thiếu nữ người Y. Gioan con của ông theo học tại Perugia đã gia nhập ngành thẩm phán. Ngài học luật ở Ðại Học Perugia, và hành nghề luật sư ở các tòa án Naples.

 

Các tài năng của thánh nhân đã khiến cho thánh nhân được coi như hoàng tử của các luật gia. Được đặt làm nhà cầm quyền, thánh nhân hiểu rõ sự cao trọng trong sứ mạng của mình: dửng dưng với những đe dọa của các lãnh chúa, Ngài quyết nâng đỡ những người nghèo khó. Một cư dân quí phái giàu có muốn gả con cho Ngài. Tương lai rực rỡ trước mắt Gioan khi bất ngờ định mệnh đổi khác. Khi 26 tuổi, ngài được Hoàng Ðế Ladislas của Naples bổ nhiệm làm thủ hiến xứ Perugia. Ngài bị tố cáo là đã thiên tư. Trong cuộc chiến tranh với người Malatestas ở lân cận, ngài bị phản bội và bị bắt giam ở Rimini... trong một tháp canh.

 

Gioan muốn tẩu thoát, bị gãy chân và nằm bẹp nhưng một hầm gia dưới đất. Trong tận cùng đau khổ, một tu sĩ dòng Phanxicô xuất hiện mời gọi Ngài sống đời sống nghèo khó và bác ái. Gioan đã nhiệt thành đáp lời. Vừa khi được phóng thích, Ngài bán mọi của cải, từ hôn và đến với các tu sĩ dòng Phanxicô ở Perugia. Chân phước Marcô thành Bergame nghi ngờ ơn gọi như vậy và đón nhận Ngài với những lời chẳng hoà nhã chút nào: "các tu viện không phải nơi trú chân của những kẻ lang thang hay chán đời. Phải có những thử thách khác để gia nhập một dòng tu. Tôi chỉ nhận anh khi anh nói lời từ giã những phù vân thế tục mà tôi sẽ chỉ cho anh".

Sau khi được thả về, ngài quyết tâm thay đổi cuộc đời, và gia nhập dòng Phanxicô ở Perugia năm ngài 31 tuổi.

 

Đây là một lời giã từ lừng danh, một thử thách nổi tiếng thánh nhân phải chịu. Perugia được chiêm ngưỡng nhà cầm quyền của họ riễu qua đường phố, quay ngược lại trên lưng lừa ăn mặc rách rưới, đầu đội nón có ghi những tội của mình bằng chữ lớn. Dân chúng nhạo cười, nhưng Gioan can đảm đón nhận mắng nhiếc.

 

Tại nhà dòng, Gioan có một bậc thầy chỉ là trợ sĩ, anh Onuphre, người nghiêm khắc lột bỏ con người cũ của Ngài cách vĩnh viễn. Thêm vào những lời quở trách là những nghiêm nghị. Nhưng những bất công dày và phải được bỉnh thản lãnh nhận, chẳng hạn ngày kia anh em giặt đồ đang đợi cho nước bớt nóng. Bỗng anh Onuphre đi tới. Bỏ qua mọi anh em khác, anh giận dữ phạt Gioan vì biếng nhác và lấy áo dài từ nước nóng bỏng ra thải vào mặt Gioan. Đáp lại, Gioan khiêm tốn đến quì trước mặt anh.

 

lòng nhiệt thành của Ngài còn tăng gấp đôi trong những công việc thấp hèn nhất, đồng thời vẫn học thần học thánh Bernadinô thành Sienua là thầy dạy, thán phục vì những buớc tiến ngoại hạng của Người đã nói: "Gioan ngủ mà học những điều mà người khác ngày đêm nỗ lực mới học được" Dường như Ngài có sự hiểu biết thiên phú, là nhà thần học sâu sắc và sắp thành nhà truyền giáo lớn của thời Ngài.

Sau khi được thụ phong linh mục vào bốn năm sau, ngài đi rao giảng khắp các nước Ý, Ðức, Bohemia, Áo, Hung Gia Lợi, Ba Lan và Nga. Vào lúc người ta thờ ơ và nghi ngờ tôn giáo, thì ngài đã lôi cuốn được nhiều người trở về với Giáo Hội. Các quốc gia miền trung Âu Châu đã tiếp đón ngài, cùng với các tu sĩ Phanxicô như các thiên thần của Thiên Chúa. Họ là những khí cụ để hồi phục niềm tin đang dẫy chết.
Chính dòng Phanxicô cũng trong tình trạng xáo trộn, về việc giải thích và tuân giữ quy luật của Thánh Phanxicô. Qua các nỗ lực không ngừng của Cha Gioan Capistrano, và nhờ kinh nghiệm luật pháp của ngài, tà giáo Fraticelli bị cấm hoạt động và Linh Ðạo Thánh Phanxicô tinh tuyền lại được nêu cao.

 

Gioan rảo qua các tỉnh thuộc nước Ý và dẫn về cho Chúa hàng triệu những kẻ lạc giáo và những tội nhân, Ngài đã thăm các dòng tu ở Đông phương, góp phần hiệp nhất với người Armenia. Trở về Ngài nổi bật tại cộng đồng Florentinô và được đặt làm sứ thần tại Sicile. Giữa những thành công rực rỡ. Gioan vẫn là con người cầu nguyện và sám hối. Ngài xây dựng các tu viện, chống lại lạc giáo. Các bài giảng của Ngài thật phi thường. Thiên Chúa rõ ràng bao bọc Ngài. Những người rối đạo lân la để biết chỗ Ngài ở đâu. Giọng điệu của họ đủ cho thấy rõ số phận họ muốn dành cho Ngài như thế nào. Gioan giản dị và êm ái trả lời: "Tôi đây". Những người theo bè rối sững sờ và không làm gì hại Ngài.

 

Một huyền thoại bình dân kể rằng: thánh nhân khi giã từ Assisiô với các bạn để hoàn thành một sứ mệnh, bị từ chối không được chở qua sông gần Trévise vì người lái xe đoán rằng: đám người nghèo này sẽ không trả tiền. Thánh nhân trải áo của Bernađiô thầy mình trên sông. Nước rẽ ra và các tu sĩ qua bờ bên kia sông.

 

Đức giáo hoàng đã sai Gioan qua Đức, Hungari, Bohemia, Balan. Cả thành ra đón Ngài, lão già nhỏ bé khô khan kiệt sức nhưng vui tươi không mệt mỏi. Cả đoàn thính giả đã nghe Ngài mỗi ngày. Sau đó người ta công khai đốt các cỗ bài, những hình ảnh dâm ô, những đồ trang sức, mọi cái có hại cho tâm hồn.

 

Đây là lửa hỏa thiêu lâu đài của quỉ dữ. Ở Bohemia sau một trong những bài giảng về sự phán xét, thánh nhân đã gây hứng khởi cho hơn 100 thanh niên ôm ấp đời sống tu trì. Các Đức giáo hoàng nối tiếp liên tiếp trao cho Ngài những sứ mệnh đặc biệt.

 

Người Hồi vừa mới xâm chiếm Constantinople. Mahomet tin rằng: mình là thủ lãnh Kitô giáo. Không ông hoàng nào xem ra có thể ngăn cản nổi cuộc xâm lăng. hi vua Hồi Giáo là Mohammed II đe dọa tấn công Vienna và Rôma, Cha Gioan Capistrano, dù đã bảy mươi tuổi, được Ðức Giáo Hoàng Callistus II giao cho công việc rao giảng và chỉ huy thập tự quân chống với sự xâm lăng của người Thổ Nhĩ Kỳ. Gioan Capistranô nhận được lệnh của Đức giáo hoàng để cổ động đoàn quân thánh giá, Ngài liên kết được 40 ngàn người và chọn Hunyade là một anh hùng làm thủ lãnh của họ. Quân hung bạo bốn lần đông hơn chế nhạo. Belgrade đã bị chiếm. Mọi sự xem ra đã mất hết. Gioan lao lên hàng đầu, tay cầm kỳ hiệu và một thánh giá, khuyên các binh sĩ hoặc thắng hoặc chết. Địch quân rút lui, thành lũy được cứu thoát. Cùng với đoàn quân bảy mươi ngàn Kitô hữu, ngài đã chiến thắng người Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc chiến sau cùng ở Belgrade năm 1456.

 

Vài tuần sau, Hunyade qua đời trong tay Gioan, người sống sót đã được lâu hơn ông ta một chút. Ngài tiến tới gần cái chết với sự bình thản hoàn toàn và các ông hoàng đã thán phục sự can đảm của Ngài, bấy giờ phải bối rối trước sự khiêm tốn của vị thánh khi hấp hối, công khai thú nhận các lỗi lầm của mình. Ba tháng sau ngài từ trần ở Illok, Hung Gia Lợi ngày 23.10.1456. Ngài được đặt làm quan thầy của các luật gia.

Lời Bàn
John Hofer, người viết tiểu sử Thánh Gioan Capistrano, nhắc lại một tổ chức ở Bỉ lấy tên của thánh nhân, nhằm mục đích giải quyết các vấn đề của đời sống trong một tinh thần hoàn toàn Kitô Giáo. Châm ngôn của tổ chức ấy là: “Sáng Kiến, Tổ Chức, Hành Ðộng”. Những lời này thực sự là đặc tính của cuộc đời Thánh Gioan. Ngài không phải là người ngồi không. Sự lạc quan Kitô Giáo đã thúc đẩy ngài chiến đấu với các vấn đề thuộc đủ mọi tầng lớp với niềm tin sâu xa nơi Ðức Kitô.

Lời Trích
Trên mộ của thánh nhân ở làng Villach, Hung Gia Lợi, quan đầu tỉnh đã cho khắc những hàng chữ sau: “Ngôi mộ này là nơi chôn cất Thánh Gioan, sinh ở Capistrano, một người đáng được ca tụng, người biện hộ và cổ võ đức tin, người bảo vệ Giáo Hội, người hăng say che chở nhà dòng, niềm vinh dự cho cả thế giới, người yêu quý sự thật và công bình, gương sáng cho đời sống, vững chắc trong giáo lý; được bao người đời ca tụng, ngài đang sung sướng ngự trên thiên đàng”. Văn mộ chí ấy thật xứng đáng cho một người lạc quan chân chính và thành công.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ Công Giáo Info và Hội Dòng Đaminh Việt Nam

 

 

 

Thánh Antôn Maria Claret, Giám Mục

Ngày 24 Thứ Sáu

THÁNH ANTON MARIA CLARET: MỘT CUỘC ĐỜI

Nời cha tinh thần của Cuba” là một nhà truyền giáo, người sáng lập dòng, người cải cách xã hội, tuyên uý của hoàng hậu, nhà văn và nhà xuất bản, là đức tổng giám mục và cũng

là người tị nạn. Thánh nhân là người Tây Ban Nha mà vì công việc người đã đặt chân đến các nơi như quần đảo Canary, Cuba, Madrid, Paris và Công Ðồng Vatican I.

Thánh Antôn Claret sinh ở làng Salient, tỉnh Catalonia, năm 1807 tại Sallent Bắc Tây Ban Nha, trong một gia đình khiêm tốn làm nghề dệt. Đó là năm hoàng đế Napôlêôn đem quân xâm lược đất nước này. Có lẽ đó là dấu chỉ của sự kiện náo động sẽ theo Antôn suốt cả cuộc đời.

Là con thứ 5 trong 10 anh em, thánh nhân tỏ ra nhanh nhẹn thông minh có khiếu đối với nghề nghiệp của cha anh và được gởi đi Barcelone trong một xưởng máy lớn. Trong khi làm thợ dệt cũng như vẽ kiểu cho một xưởng tơ sợi ở Barcelona, người dùng thời giờ rảnh rỗi để học tiếng Latinh và học cách in ấn: quả thật Chúa đang chuẩn bị người để trở nên một linh mục và nhà xuất bản tương lai. Ơn gọi đi tu sống sâu trong đáy lòng ngài, kèm theo mọi hành động và sắp trở thành mạnh mẽ nhất : cuối cùng ngài đã bước qua cổng chủng viện ở Vich năm 1829. 

Ðược thụ phong linh mục lúc 28 tuổi, vì sức khỏe yếu kém nên ước mơ trở nên một tu sĩ dòng Tên hay dòng Thánh Brunô không thành tựu, người đã trở nên một linh mục triều nổi tiếng về rao giảng ở Tây Ban Nha. Người dành 10 năm để đi giảng tuần đại phúc, và luôn luôn nhấn mạnh đến bí tích Thánh Thể và sự sùng kính Trái Tim Mẹ Maria. Người ta nói, chuỗi mai khôi không bao giờ rời khỏi tay người. Khi 42 tuổi, cùng với năm linh mục trẻ, người thành lập tu hội truyền giáo, mà ngày nay được gọi là tu sĩ Dòng Claret.

Trước tâm hồn phong phú của thánh nhân, Đức Cha Corcuera đã rút ngắn chương trình thần hoc. Ngài thụ phong linh mục 6 năm sau và cử hành thánh lễ đầu tiên tại giáo xứ ngài đã được rửa tội. Được cử làm cha sở, ngài đã thánh hóa địa hạt của mình. Nhưng việc tông đồ của ngài cần một điạ hạt rộng lớn hơn. Ngài đi Rôma, muốn gia nhập dòng Tên nhưng một vết thương ở chân buộc ngài từ bỏ ý định trở về Tây Ban Nha. Bản chất nóng nảy của ngài tỏ lộ những ân huệ siêu nhiên mới, tài hùng biện thánh của ngài tăng bội số những cuộc trở lại, chủ đề được ưa chuộng của ngài là : “đường thẳng và chắc để về trời" và ngày càng thêm nhiều người dấn thân vào đường hẹp sỏi đá mở ra ánh sáng. Đức Trinh Nữ hình như hiện diện khi ngài trình bày các bổn phận của bậc sống nhạt nhẽo nhưng có nét đẹp ẩn giấu trước mặt Chúa, các từ bỏ liên tiếp ..

Trong thời gian làm linh mục, Antôn Maria Claret là giám đốc đại chủng viện ở Marid. Ngài đã thiết lập trường thánh Micael để bảo vệ công trình nghiên cứu nghệ thuật và văn chương. Thậm chí cha còn cố gắng thiết lập một trường học để nghiên cứu nông nghiệp. Cha Antôn Maria Claret cũng có một năng lực viết lách đặc biệt. Ngài đã viết 144 cuốn sách và rất nhiều những tập sách nhỏ; Antôn thuyết giảng trên 25000 bài! Quyển sách danh tiếng nhất của Antôn Maria Claret, Lẽ phải, đã vươn tới với hàng triệu độc giả.

Ngài đã đi giảng như vậy qua một tỉnh với hành trang gồm có cuốn sách Thánh Kinh và sách nguyện gói trong khăn, ngài từ chối tất cả tiền bạc, ngủ dưới vòm trời, giải tội ngày đêm và dâng lễ khi ánh sao cuối cùng vừa lặn. Ngài đã đặt tay chữa bệnh, chiêm ngắm các cuộc hiện ra. Antôn rất gần gũi tự do đến nỗi đã gây nên những ghen tương, những lời chế nhạo ngắt ngang bài giảng của ngài. Mạng sống bị đe dọa, ngài phải giã từ quê hương thân yêu để rồi chỉ trở lại 15 năm sau để được đề cử và tấn phong Tổng Giám mục Santiago, Cuba, tại nhà thờ chính toà Vich, ngài đã dùng khoảng thời gian giao thời này để Phúc âm hoá các đảo Camari. Đây là lúc ngài thêm danh hiệu MARIA vào tên mình. Vào năm 1849, Antôn Maria Claret thiết lập một hội dòng mới gọi là dòng Thừa Sai Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ, cũng gọi là dòng Claret. Hội dòng có sứ vụ giảng các tuần đại phúc tại các giáo xứ.

Nữ hoàng Isabella II nước Tây Ban Nha đánh giá rất cao về cha Antôn Maria Claret. Bà đã đề nghị cha làm tổng giám mục giáo phận Santiagô, Cuba. Từ năm 1850 đến 1857, người được bổ nhiệm về làm tổng giám mục của giáo phận bị quên lãng từ lâu là Tổng Giáo Phận Santiago ở Cuba. Việc tông đồ của Antôn tại Cuba lại mở ra bảy năm thú vị nữa. Đức tổng giám mục Antôn Maria Claret thăm viếng các xứ đạo, chống lại các thói xấu xã hội, nhất là tội buôn bán nô lệ. Ngài chúc lành cho bậc hôn nhân gia đình và ban bí tích Thanh tẩy cho các trẻ em.

Người bắt đầu cải cách bằng việc rao giảng không ngừng và giải tội. Dĩ nhiên người phải chịu nhiều chống đối cay đắng -- phần lớn là vì người kịch liệt lên án vấn đề vợ lẽ và vì dạy giáo lý cho các người nô lệ da đen. Một tù nhân mà ĐGM Antôn chuộc ra khỏi tù đã được thuê để giết người, nhưng đức giám mục thoát chết và chỉ bị thương ở mặt và tay. Cũng chính ĐGM Antôn giúp người này thoát án tử hình. Người giúp thay đổi sự nghèo nàn của dân Cuba bằng cách giúp họ trồng trọt những thực phẩm khác nhau, cần cho thị trường. Ðiều này khiến các điền chủ tức giận, vì họ chỉ muốn dân chúng trồng mía để thu hoa lợi. Trong các văn bản về tôn giáo của người còn có hai quyển người viết khi ở Cuba: Suy Tư về Canh Nông và Lợi Nhuận Quốc Gia.

Vị Tổng Giám mục truyền giáo cập bến, ngài sắp gặp thấy một giáo xứ đầy thương tâm gồm một ít linh mục thiếu học nghèo túng, ngài thiết lập một nhóm học hiểu biết và tiếp tục vai trò người bao bọc vì Chúa Kitô, ngài mất 6 năm để rảo qua các điạ phận mênh mông của mình, những con số sau đây nói lên hoạt động của ngài: 11.000 bài giảng, 120.000 lễ Thêm sức, 40.000 phép rửa tội, 12.000 lễ hôn phối. Còn mệt nhọc hơn cả những khó khăn trên đường, thánh nhân hòa mình với các bệnh nhân ngã gục vì dịch tả. Các chủ nhân buôn bán nô lệ tố cáo ngài đã xúi giục các người bị tàn phá nổi loạn. Mười lăm lần ngài đã thoát chết. Ngài mơ lập một trường nông nghiệp nhưng gặp những chống đối mạnh mẽ. 

Người được gọi về Tây Ban Nha với một công việc mà người không ưa thích gì -- làm tuyên uý cho nữ hoàng. Người đồng ý trở về với ba điều kiện: người sẽ ở ngoài hoàng cung, người chỉ đến nghe nữ hoàng xưng tội và dạy giáo lý cho con cái họ, và người không bị dính líu gì đến sinh hoạt triều đình. Từ Madrid, ngài tiếp tục cai quản Cuba. Nhưng sự ghen tương không dứt. Sự vu khống đã đưa đến chỗ các kẻ thù ký tên khả kính của ngài dưới những danh sách bần tiện, trong khi chính ngài đã là tác giả xây dựng của 150 pho sách hay những tập rời. 

Cả cuộc đời Thánh Antôn, người chỉ mơ ước việc xuất bản sách báo Công Giáo. Người sáng lập Nhà In Công Giáo, một cơ sở xuất bản Công Giáo mạo hiểm kinh doanh ở Tây Ban Nha, và người đã viết cũng như xuất bản khoảng 200 cuốn sách lớn nhỏ.

Cuộc cách mạng đã xua đuổi hoàng hậu tới Panu, rồi Paris là nơi cha giải tội đã theo bà và lo lắng cho thuộc điạ Tây ban Nha và vẫn theo đuổi phát triển của tu hội truyền giáo, ngài dự cộng đồng bàn về giáo thuyết bất khả ngộ của Tòa Thánh. Trong Công Ðồng Vatican I, người trung thành bảo vệ tín điều bất khả ngộ của đức giáo hoàng, người được sự thán phục của các giám mục bạn. Ðức Hồng Y Gibbons của Baltimore nhận xét về người, “Ðây thực sự là vị thánh. ”Sự ghen ghét của những thù địch người Tây ban Nha theo đuổi ngài mãi. Thánh nhân một thời rút lui về một trong những nhà dòng của ngài ở Prades, rồi ở L'Audes, nơi các thầy dòng Xitô ở Fontfroide là nơi ngài đã qua đời lúc 63 tuổi, sau những đau khổ dữ dội mà không hề phàn nàn kêu trách năm 1870. Antôn Maria Claret được đức thánh cha Piô XII tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1950.

Antôn Maria Claret vị thánh rất tân thời đã tỏ ra là nhà tiên phong với nhà sách đạo của ngài. Trước khi có các tu hội triều ngày nay, ngài đã sáng nghĩ ra "các nữ tu tại gia" là học giả uyên bác, ngài đã xếp các văn sĩ có giá trị, các nghệ sĩ Công giáo vào "hàn lâm viện thánh Micae". 

Lời Bàn

Ðức Giêsu đã nói trước cho những ai muốn theo Người là họ sẽ bị bách hại như chính Người. Ngoài những cám dỗ trong đời, Thánh Antôn còn phải chịu đựng biết bao vu khống xấu xa đến độ tên Claret của người đồng nghĩa với nhục nhã và bất hạnh. Ma quỷ không dễ gì buông tha con mồi của chúng.

Chúng ta không cần phải đi tìm sự bách hại. Tất cả những gì chúng ta cần là sẵn sàng chịu đau khổ vì đức tin chân thật nơi Ðức Kitô, chứ không phải vì những bất cẩn và tính khí bất bình thường của chúng ta.

Lời Trích

Có lần Nữ Hoàng Isabella II nói với Thánh Antôn, “Không ai có thể nói cho tôi nghe một cách rõ ràng và thành thật như cha.” Sau này hoàng hậu nói với cha, “Mọi người đều xin tôi ban cho họ những ơn huệ này nọ, nhưng chưa bao giờ thấy cha làm như vậy. Cha có muốn xin điều gì không?” Người trả lời, “Thưa có, xin cho tôi từ chức.” Từ đó trở đi hoàng hậu không còn đề nghị gì khác. 

claret

THÁNH ANTON MARIA CLARET: NHỮNG MẨU TRUYỆN.

 

THÁNH ANTHONY MARY CLARET XIN ƠN CHẾT LÀNH CHO 4 TỬ TÙ

Khi Thánh Anthony Mary Claret sắp sửa rời Tây ban Nha để nhận chức Tổng Giám Mục ở nước Cuba xa xôi, ngài đã cứu được 4 tử tội khỏi sa hỏa ngục.

Trước đó, 4 tử tội đã bị kết án xử tử vào ngày thứ hai sắp đến. Cả 4 người đều không muốn ăn năn thống hối và không muốn chịu các bí tích sau cùng, dù cho nhiều linh mục khuyên răn và năn nỉ.

Sáng hôm ấy, tình cờ Cha Claret đi ngang qua vùng Villafranca ấy nhưng thật ra đó là chương trình của Chúa. Đưọc tin ngài đi qua đó, các linh mục năn nỉ xin ngài hãy cứu 4 tử tội khỏi hỏa ngục.

Ngài vội vàng đến ngục thất và thấy có 3 tử tội còn trẻ và người tử tội thứ 4 khoảng 40 tuổi.

Khi ngài vào phòng giam và khuyên răn thì có 3 tử tội chịu xưng tội. Trước khi cho 3 người này chịu Mình Thánh Chúa thì Thánh Claret hỏi xem liệu họ đã tha thứ cho tất cả mọi người chưa, thì một người tù trẻ hét to:

“Con tha thứ cho hết mọi người, trừ mẹ con.”

Lời nói ấy làm ngạc nhiên tất cả mọi người đang hiện diện.

“Con không tha thứ cho mẹ con bởi chính vì bà mà con bị tử hình ngày hôm nay. Nếu mẹ con chịu sửa sai con và trừng phạt con thì ngày nay còn đâu phải bị xử tử hình. Vì thế, con sẽ không tha thứ cho mẹ con.”

Nghe những lời này, Cha Claret xúc động, ngài quỳ trước kẻ tử tội và năn nỉ hắn:

“Con ơi, hôm nay con sẽ ra trước Tòa Chúa là Đấng Thẩm Phán Chí Công! Con hãy tha thứ cho mẹ con đi!”

“Không, bà ấy là nguyên nhân của việc con bị xử tử!”

“Con ơi, con sẽ bị xuống hỏa ngục nếu con không tha thứ cho mẹ con. Cha xin con, vì Danh Chúa và vì cha, xin con tha thứ cho bà ấy!”

“Không, không bao giờ con tha thứ cho mẹ con.”

Mọi người xôn xao. Một số người cầu nguyện cho hắn, một số người khóc, và đôi mắt mọi người gắn chặt vào cha Claret. Cha Thánh bèn quay sang nói với vị linh mục rằng:

“Xin cha đừng cho hắn chịu Mình Thánh Chúa.”

Sau đó, cả 4 tử tù đi ra pháp trường, đàng sau họ là Thánh Claret, ngài vừa đi vừa đọc kinh Mân Côi cầu nguyện cho họ, nhất là cầu cho hai người cứng đầu nhất, một người không chịu xưng tội, một người không chịu tha thứ. Giờ lên đoạn đầu đài đã điểm. Bỗng dưng, người trẻ kia lên tiếng:

“Từ trái tim của con, con tha thứ cho mẹ con. Xin mọi người cầu nguyện cho con!”

Rồi sau đó, người lớn tuổi trong đám là kẻ đã từng từ chối không xưng tội nay vội xin cha giải tội cho hắn. Cha Claret giải tội cho hắn. Mọi người la lên:

“Chúc tụng Chúa đã gửi Cha Claret đến đây!”

Về sau, Chúa tỏ lộ cho cha Claret biết rằng cả 4 tử tội đã được ơn cứu độ. Ngài họp mọi người lại và tuyên bố điều ấy, và ai ai cũng vui mừng.
 

THÁNH ANTHONY CLARET TRỪ QUỶ


Lời kể của Thánh Anthony Mary Claret:

"Có một loại bịnh làm cho tôi mất nhiều thì giờ để chữa trị, đó là bịnh quỷ ám. Trong khi tôi đi các thành phố để rao giảng Lời Chúa thì có nhiều người bị quỷ ám được gia đình đem đến gặp tôi. Họ xin tôi trừ quỷ cho người thân của họ. Vì được phép của giáo hội để trừ quỷ nên tôi đã trực tiếp trừ quỷ cho hàng ngàn vụ.

Việc trừ quỷ làm cho tôi rất tốn thì giờ hơn là việc giải tội và rao giảng Tin Mừng của Chúa. Tôi rút ra một kết luận là:

“Điều quan trọng hơn là hãy trừ quỷ tội trọng ra khỏi linh hồn người ta hơn là trừ quỷ ra khỏi thế xác.”

Khi có ai xin tôi trừ quỷ thì tôi ra lệnh cho người ấy làm 3 điều sau:

Thứ nhất, tất cả những người ấy phải kiên nhẫn và từ bỏ chính mình.

Thứ hai, không được uống rượu hay bất cứ một thứ nước giải khát nào bởi vì tôi biết có một số người uống quá nhiều rượu, rồi say sưa, và để tránh phiền toái, họ cứ đổ lỗi của mình cho kẻ dữ ám hại họ.

Thứ ba, tôi bảo họ mỗi ngày đọc 7 Kinh Lạy Cha và 7 Kinh Kính Mừng để suy nhớ đến 7 sự Thương Khó của Đức Mẹ Maria.

Tôi khuyên họ nên xưng tội một cách kỹ càng, xưng các tội đã phạm từ khi mới có trí khôn cho đến lúc ấy, tức là xưng tội trọn đời, rồi rước lễ với lòng sùng kính và tôn thờ Chúa.

Sau đó có một số người đến cám ơn tôi và nói rằng họ được giải thoát và tự do. Có một số người được ơn hoán cải và nói rằng họ không phải bị quỷ ám nhưng họ bị ảo ảnh và họ giả vờ bị quỷ ám để mọi người chú ý, thương hại và giúp đỡ họ."


GƯƠNG SỐNG ĐẠO ANH HÙNG CỦA THÁNH ANTHONY MARY CLARET


Vì đức vâng lời tuyệt đối nên Thánh Anthony Mary Claret đã viết tác phẩm Tự Thuật về cuộc sống của ngài. Đọc xong chúng ta nhận thấy ngài có trái tim và linh hồn của một vị thánh. Thánh Anthony Mary Claret nêu ra những điều minh chứng cho sự thành công trong việc cứu rỗi các linh hồn. Ngài nhấn mạnh đến 5 đức tính tiên quyết cần thiết để cho mục vụ truyền giáo có kết quả, đó là:

1. Khiêm nhường,
2. Sống khó nghèo,
3. Lòng nhân hậu,
4. Sự đơn sơ,
5. Sự từ bỏ chính mình, tức là chết đi cho cái tôi của mình.

Chúa Giêsu thường hiện ra và nói với ngài rằng:

“Con hãy cho Ta máu(từ bỏ chính mình) và Ta sẽ ban cho con Thần Trí.”

Trong lúc làm công tác truyền giáo, Thánh Anthony Mary Claret không bao giờ nhận tiền, và ngài đi bộ đến khắp mọi nơi, từ thành phố này đến làng mạc kia. Ngài chỉ có một đôi giầy, một bộ quần áo và vài cuốn sách trong người.

Ngài chỉ đi giảng đạo ở những nơi nào mà Đức Giám mục sai ngài đi. Ngài thâm tín rằng Thiên Chúa đụng chạm đến những trái tim khi một nhà truyền giáo làm việc với đức vâng lời thánh thiện hơn là với ý riêng của mình. Ngài không bao giờ ăn thịt hay uống rượu, và ngài chỉ ngủ từ 3 đến 5 tiếng đồng hồ mỗi đêm.

Ngài trở thành vị Tổng Giám Mục của vùng Santiago, nước Cuba. Ngài đến viếng thăm mỗi giáo xứ trong địa phận của ngài 4 lần. Có những nơi từ trước đến lúc ấy chưa hề được thấy một vị giám mục trong suốt 60 năm. Ngài làm việc truyền giáo ở khắp mọi nơi, ban phép thêm sức cho 300 ngàn người, và hợp thức hóa hôn nhân cho 9 ngàn đôi vợ chồng. Tất cả những điều ngài làm chỉ vỏn vẹn trong 6 năm và 2 tháng.

Ngài là cha giải tội của vị hoàng hậu nước Tây Ban Nha và khi ngài quyết định đi nơi khác, ngài không hề nhận bất cứ một vật gì mà Hoàng hậu muốn tặng cho ngài, dù chỉ là một cây kim. Suốt cuộc đời, ngài chỉ muốn làm việc truyền giáo mà thôi.

Ngài không bao giờ bỏ phí thì giờ. Trong 35 năm làm linh mục, ngài viết được 144 cuốn sách và giảng khỏang 25 ngàn bài giảng. Trong một chuyến đi, ngài giảng 205 bài giảng trong 48 ngày, tức là khoảng 12 bài trong một ngày.

Để biện minh cho việc làm của mình, ngài viết:

“Nếu bạn thấy một người mù sắp rớt xuống hố, liệu bạn có cảnh cáo người ấy không? Vì thế tôi cũng làm như vậy và tôi phải làm vì đó là bổn phận của tôi. Tôi phải cảnh cáo những kẻ tội lỗi và cho họ thấy trước những gì sẽ dẫn họ đến lửa hỏa ngục không bao giờ tắt, bởi vì họ sẽ đến nơi ấy nếu họ không hoán cải. Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng và cảnh cáo họ, bởi vì tôi sẽ chịu trách nhiệm nếu họ bị án phạt."

Trong cuôc đời linh mục, ngài làm nhiều phép lạ, ngài có ơn tiên tri và hiểu những bí mật của tâm hồn người khác. Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria thường hiện ra với ngài. Có lần Chúa bảo ngài rằng có 3 án phạt sẽ giáng xuống trần gian, đó là:

1. Thệ Phản và Cộng sản.

2. Lòng ham muốn lạc thú và tiền bạc, và sự độc lập của tư tưởng và ý muốn.

3. Chiến tranh và hậu quả của chiến tranh.

Theo ngài, sự khiếm khuyết của xã hội thời nay là:


“Tất cả mọi nguời trong thế gian đều thích giàu có, thích nổi danh và ham muốn lạc thú. Lý do mà xã hội hư mất vì họ đã từ chối không nghe lời Giáo hội, đó là lời Hằng Sống, Lời của Thiên Chúa. Tất cả những chương trình cứu độ sẽ trơ trụi nếu như Lời vĩ đại của giáo hội Công Giáo không được khôi phục một cách sung mãn.”

“Quyền giảng đạo và dạy dỗ con người là quyền mà giáo hội nhận từ chính Thiên Chúa qua các thánh tông đồ, nhưng đã bị đảo lộn vì truyền thông và những kẻ ngu dốt. Mục vụ rao giảng lời Chúa là một điều quan trọng nhất và thăng hoa nhất bởi vì nhờ đó là trái đất chiến thắng. Các linh mục cần rao giảng và phát hành những tài liệu, sách báo tốt và những mục vụ bác ái để sinh hoa quả tốt lành.”

“Lạy Thiên Chúa của con, con dâng lên Ngài lời hứa của con rằng con sẽ lao động, rao giảng, viết lách, và tặng thật nhiều sách báo tốt cho mọi người để nhờ đó mà tẩy trừ những sự dữ bằng việc làm tốt.”
 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp tứ Người Tín Hữu, Theo Vết Chân Người, Tin Mừng, TGP Sài Gòn, Hội Dòng Đaminh Thánh Linh