Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Am 8,
4-7
"Chống lại những kẻ lấy tiền mua
người nghèo".
Trích sách Tiên tri Amos.
Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp kẻ
nghèo khó, và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong cả nước. Các ngươi
bảo: "Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày
Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và
làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy
người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát". Vì Giacóp kiêu căng, Chúa
đã thề rằng: "Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho
đến cùng".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 112,
1-2. 4-6. 7-8
Ðáp: Hãy
ngợi khen Chúa, Ðấng nâng cao kẻ túng thiếu (c. 1a & 7b).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen, hỡi những
người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được
chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa siêu việt trên hết thảy chư
dân, trên muôn cõi trời là vinh quang của Chúa... và Người để mắt nhìn coi
khắp cả trên trời dưới đất. - Ðáp.
3) Người nâng cao kẻ túng thiếu từ chỗ
bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ nơi phẩn thổ, hầu cho họ ngồi với những
bậc quân vương, với những bậc quân vương của dân Người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Tm 2,
1-8
"Cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho mọi
người. Ngài muốn cho mọi người được cứu độ".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gởi Timôthêu.
Trước tiên, cha khuyên hãy cầu xin,
khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những
bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức
và thanh sạch. Ðó là điều tốt lành và đẹp lòng Ðấng Cứu Ðộ chúng ta là Thiên
Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý.
Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Ðấng
Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Ðức Giêsu Kitô, cũng là con
người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng
tá trong thời của Người, mà vì chứng tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao
giảng, làm Tông đồ (cha nói thật chứ không nói dối), và làm Thầy dạy dân
ngoại trong đức tin và chân lý. Vậy cha muốn rằng những người đàn ông cầu
nguyện trong mọi nơi, hãy giơ lên hai tay thanh sạch, không oán hờn và cạnh
tranh.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 17,
17b và a
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời
Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc
16, 10-13 {hoặc 1-13}
"Các con không thể làm tôi Thiên
Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: {"Một
người phú hộ kia có một người quản lý, và người này bị tố cáo đã phung phí
của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: 'Tôi nghe nói anh sao
đó? Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm
quản lý nữa'. Người quản lý nghĩ thầm rằng: 'Tôi phải làm thế nào, vì chủ
tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.
Tôi biết phải liệu thế nào, để khi mất chức quản lý, thì sẽ có người đón
tiếp tôi về nhà họ'.
"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến
và hỏi người thứ nhất rằng: 'Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?' Người ấy đáp:
'Một trăm thùng dầu'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống
mau mà viết lại: năm mươi'. Rồi anh hỏi người khác rằng: 'Còn anh, anh mắc
nợ bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm giạ lúa miến'. Anh bảo người ấy rằng:
'Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi'. Và chủ khen người quản lý bất
lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi đối xử với đồng
loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng.
"Phần Thầy, Thầy bảo các con: Hãy dùng
tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón
tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.}
"Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng
trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối
trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian
dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con?
"Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai
chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ
nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Ðó là lời Chúa.

Suy Nghiệm
Lời Chúa
Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C hôm nay thật ra Giáo Hội chỉ
buộc đọc một số câu vắn gọn như sau (3 câu cuối trong 13 câu đầu tiên của
đoạn 16 Phúc Âm Thánh Luca):
“Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: ‘Ai trung tín trong việc nhỏ,
thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian
dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của
gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con? Không đầy tớ nào có
thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ
này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi
tiền của được’".
Căn cứ vào đoạn Phúc Âm chính yếu buộc phải đọc cho Chúa Nhật XXV Thường
Niên Năm C này thì chúng ta thấy nếu Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXIV
Thường Niên Năm C liên quan đến thành phần lầm lạc đáng được xót thương, thì
Phụng Vụ tuần này liên quan đến thành phần đầy tớ đối với những gì được trao
phó cần hoàn thành theo ý chủ.
Mối liên hệ giữa Phụng Vụ Lời Chúa tuần trước và tuần này, như trên đây nhận
định và phân tích, dường như theo chiều hướng là một khi con người được
thương xót thế nào thì cũng phải thương xót như vậy, không được lạm dụng hay
hưởng thụ, nghĩa là phải chia sẻ, phải áp dụng lòng thương xót mình đã lãnh
nhận cho những đối tượng đáng thương như mình.
Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay chúng ta thấy có 2 loại đầy tớ, 2 thành phần
hoàn toàn phản nghịch nhau: một bất trung gian dối và một trung tín phục vụ.
Thành phần bất trung gian dối ở Bài Đọc 1 và thành phần trung tín phục vụ ở
Bài Đọc 2.
Đúng thế, trước
hết là
thành phần bất trung gian dối ở Bài Đọc 1, được Tiên Tri Amos diễn tả về
chính mưu gian của họ như sau:
"Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat
để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân
giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng
thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát".
Thành phần đầy tớ bất trung gian ác này là ai, nếu không phải là chung dân
Do Thái, thành phần được Thiên Chúa tuyển chọn và tỏ mình ra cho họ, để họ
nhận biệt lòng thương xót của Ngài, nhờ đó họ sống lòng thương xót như Ngài,
nhất là khi đối xứ với tha nhân đồng hương của mình. Và đó là lý do, dân Do
Thái đã bị chính vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu của họ nghiêm chỉnh cảnh báo
ở cuối Bài Đọc 1 hôm nay rằng: “Vì
Giacóp kiêu căng, Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả
các việc chúng làm cho đến cùng’".
Sau nữa là thành phần đầy tớ trung tín phục vụ, được điển hình nhất nơi
trường hợp của Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, vị tông đồ đã cảm nhận
được lòng thương xót Chúa đối với bản thân tội lỗi lầm lạc của mình, nhưng
vẫn được tin tưởng sai đi làm chứng cho ân sủng thần linh, là tất
cả sự thật về ơn cứu độ và lòng thương xót Chúa, như Thư gửi môn đệ Timôthêu
của ngài ở Bài Đọc 2 hôm nay cho thấy:
“Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Ðấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài
người, là Ðức Giêsu Kitô, cũng là con người. Người đã phó mình làm giá cứu
chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người, mà vì chứng
tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao giảng, làm Tông đồ (cha nói thật chứ
không nói dối), và làm Thầy dạy dân ngoại trong đức tin và chân lý”.
Đúng thế, chân lý được vị tông đồ dân ngoại Phaolô này rao giảng liên quan
đến ơn cứu độ của vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu muốn cho hết mọi người được
cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô là dấu chứng của lòng thương xót thần linh, nhờ
việc họ chấp nhận chứng từ là Đức Giêsu Kitô ấy, nghĩa là nhận biết chân lý
nơi Đấng Trung Gian duy nhất này, như vị tông đồ dân ngoại đã khẳng định nơi
phần đầu Bức Thư gửi môn đệ Timôthêu ở Bài Đọc 2 hôm nay:
“Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý. Vì chỉ
có một Thiên Chúa, và một Ðấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là
Ðức Giêsu Kitô, cũng là con người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay
cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người”.
Chính vì ơn cứu độ do lòng thương xót Chúa có tính cách phổ quát cho chung
loài người và cho riêng những ai tin tưởng, nhờ nhận biết chân lý cũng là
chấp nhận Đấng Thiên Sai Cứu Thế Giêsu Kitô Trung Gian Duy Nhất, nghĩa là những ai cảm thấy nghèo hèn trước nhan Thiên Chúa và chỉ còn biết hy vọng
vào Ngài, mà Bài Đáp Ca hôm nay mới vang lên những lời
kêu gọi
“Hãy ngợi khen Chúa, Ðấng nâng cao kẻ
túng thiếu” (câu họa), chất
chứa đầy niềm chúc tụng ngợi khen của con người, kèm theo những ý thức thần
linh chân thực nhất về Thiên Chúa ở những câu xướng như sau:.
1) Hãy ngợi khen, hỡi những người
tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng
từ bây giờ và cho đến muôn đời.
2) Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời là vinh quang
của Chúa... và Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất.
3) Người nâng cao kẻ túng thiếu từ chỗ bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ
nơi phẩn thổ, hầu cho họ ngồi với những bậc quân vương, với những bậc quân
vương của dân Người.
Ngày 21 tháng 9
Lễ Thánh Matthêu, Tông Ðồ
Lễ kính vị thánh Tông đồ nhưng không thể át Chúa Nhật

Sở dĩ trong hình Thánh Mathêu trên đây có cả hình con sư tử, là vì Phúc
Âm của ngài là 1 trong 4 Phúc Âm,được vì trong thị kiến của Sách Khải
Huyền 4:6-7 và Ezekien 1:10, là 1 trong 4 Con Vật "đầy mắt" (thần linh
khôn ngoan):
Cuốn phúc âm đầu tiên ấy được ví như con sư tử, phúc âm thứ 2 của Thánh
Marco được ví như con bò tơ, phúc âm thứ 3 của Thánh Luca được vì như
Con Vật có mặt con người, và phúc âm thứ 4 của Thánh Gioan như phượng
hoàng,
Bài Ðọc I: Ep
4, 1-7. 11-13
"Chu toàn chức vụ, xây dựng
thân thể Chúa Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, tôi là tù nhân
trong Chúa, tôi khuyên anh em hãy ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh em
đã lãnh nhận. Anh em hãy hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu
đựng nhau trong đức ái; hãy lo bảo vệ sự hợp nhất tinh thần, lấy bình an
hoà thuận làm dây ràng buộc: Chỉ có một thân thể và một tinh thần, cũng
như anh em đã được kêu gọi đến cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa,
một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi người,
Ðấng vượt trên hết mọi người, hoạt động nơi mọi người, và ở trong mọi
người.
Nhưng mỗi người trong chúng ta đã
được ban ơn tuỳ theo lượng Ðức Kitô ban cho. Và chính Người đã ban cho
kẻ làm Tông đồ, người làm Tiên tri, còn kẻ khác thì rao giảng Tin Mừng,
kẻ khác nữa làm chủ chăn và thầy dạy, để tổ chức các thánh nhân nên hoàn
bị hầu chu toàn chức vụ, xây dựng thân thể Ðức Kitô, cho đến khi mọi
người chúng ta hợp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên
Chúa, trở nên người trưởng thành, đạt đến tầm vóc của Ðức Kitô viên mãn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18,
2-3. 4-5
Ðáp: Tiếng chúng đã vang
cùng trái đất (c. 5a).
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật
vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này
nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Ðáp.
2) Ðây không phải lời cũng không
phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã
vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúng con ca
ngợi Chúa là Thiên Chúa; chúng con tuyên xưng Chúa là chúa tể. Lạy Chúa,
ca đoàn vinh quang các Tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9,
9-13
"Hãy theo Ta". - Và ông ấy đứng
dậy đi theo Người.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua,
thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông:
"Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra khi Người ngồi
dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng
bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy
vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn
uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?" Nghe vậy, Chúa Giêsu
bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau
yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: Ta muốn lòng nhân từ,
chớ không phải hy lễ. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng
kêu gọi người tội lỗi".
Ðó là lời Chúa.
Dẫn Nhập
(Đaminh Maria cao tấn tĩnh)
Mỗi vị thánh đều phản ánh 1 tia sáng nào đó từ Chúa Kitô "là ánh sáng
thế gian" (Gioan
8:12), một "Ánh Sáng đã chiếu trong tăm tối..." (Gioan 1:5) là thế gian
tội lỗi này, khi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), và "ánh sáng
thật đã chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian này" (Gioan 1:9) vẫn
còn tiếp tục phản chiếu nơi thành phần môn đệ của Chúa Kitô: "Các con
là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14).
Trong số các thánh, quan trọng nhất phải kể đến các Thánh Tông Đồ, được
Giáo Hội cử hành từng vị ở bậc Lễ Kính (feast, có kinh vinh danh và
phụng vụ Lời Chúa hợp với chung các vị hay từng vị), vì các tông đồ được
Chúa Kitô tuyển chọn để làm chứng nhân tiên khởi của Người, và làm nền
tảng của Giáo Hội Người thiết lập (Epheso 2:20). Đức tin của Kitô hữu
hậu sinh chúng ta là đức tin tông truyền từ các tông đồ, những người
môn đệ tiên khởi của Chúa Kitô, được sống cận kề với Người từ đầu đến
cuối, nhờ đó các vị mới tận mắt thấy, tận tai nghe và chính
tay được đụng chạm đến Người (xem 1Gioan 1:1-3).
Trong số các Thánh Tông Đồ, thì chỉ có 2 vị được tặng thêm danh hiệu
Thánh Sử thôi, đó
là 2 vị thánh viết 2 cuốn Phúc Âm: Thánh Mathêu và Thánh Gioan, còn
Thánh Phêrô, Thánh Giacôbê và Thánh Giuđa (không phải Giuđa phản bội)
chỉ viết các thư còn lưu lại trong sổ bộ Tân Ước, cũng không được tước
hiệu Thánh Sử. Thánh Mathêu viết Phúc Âm bằng tiếng Do Thái (Hebrew) và
viết cho dân Do Thái, (trong khi Thánh Gioan viết cho Giáo Hội và Thánh
Luca cho Dân ngoại, bởi đó gia phải về Chúa Giêsu được Thánh Luca liệt
kê về tới tận 2 nguyên tổ của chung loài người),
nên Thánh Mathêu liệt
kê Gia Phả về Chúa Giêsu từ Abraham trở xuống, và hay
trích dẫn Thánh Kinh Cựu Ước để chứng thực Chúa Kitô chính là Thiên Sai
của dân Do Thái.
Thánh Mathêu có khuynh hướng tổng hợp, nên chúng ta thấy trong Phúc Âm
của ngài có Bài
Giảng Trên Núi (đoạn 5-7), Bảy Dụ Ngôn Nước Trời (đoạn 13), Khiển Trách
biệt phái và luật sĩ (đoạn 23), Tận Thế (đoạn 24-25) v.v.
ĐTC
Biển Đức XVI: Thứ Tư 30/8/2006 - Bài 17
Anh Chị Em thân mến:
Để tiếp tục loạt chân dung về 12 Tông Đồ, loạt chân dung được bắt đầu
một ít tuần trước đây, hôm nay chúng ta suy niệm về Thánh Mathêu.
Phải chân nhận rằng hầu như không thể mô tả trọn vẹn hình ảnh của ngài,
vì tín liệu về ngài hiếm có và không đầy đủ. Những gì chúng ta có thể
làm đó là mô tả không nhiều lắm về tiểu sử của ngài nhưng những gì được
Phúc Âm cống hiến cho chúng ta.
Ngài bao giờ cũng có tên trong danh sách 12 vị được Chúa Giêsu tuyển
chọn (x Mt 10:3; Mk 3:18; Lk 6:15; Acts 1:13). Tên của ngài, theo tiếng
Do Thái, có nghĩa là ‘tặng ân của Chúa’. Cuốn Phúc Âm đầu tiên trong sổ
bộ thánh kinh là cuốn phúc âm mang tên của ngài, cho chúng ta thấy trong
danh sách 12 Vị ngài có một tính chất rất đặc biệt, đó là ‘viên thu thế’
(Mt 10:3).
Đó là lý do ngài được đồng hóa với con người ngồi ở phòng thuế, kẻ được
Chúa Giêsu kêu gọi theo Người. ‘Khi Chúa Giêsu đi ngang qua đó Người
thấy một người tên là Mathêu đang ngồi ở phòng thuế, và Người nói cùng
anh rằng: ‘Hãy theo Tôi’. Và ngài đã chỗi dạy theo Người’ (Mt 9:9).
Thánh Marcô (x 2:13-17) và Luca (x 5:27-30) trình thuật lời kêu gọi con
người ngồi ở phòng thuế, nhưng các vị gọi ngài là ‘Levi’. Việc tưởng
tượng ra cảnh được diễn tả trong Phúc Âm Thánh Mathêu 9:9 cũng đủ để nhớ
đến bức họa vĩ đại của Carabaggio, được giữ ở Rôma đây, nơi Thánh Đường
Thánh Louis của Pháp.
Một chi tiết mới về thân thế của ngài được các Phúc Âm nhắc tới, đó là,
trong đoạn Phúc Âm, trước trình về về lời Chúa Giêsu kêu gọi ngài, có
nói tới chi tiết về phép lạ Chúa Giêsu đã làm ở Capernaum (x Mt 9:1-8;
Mk 2:1-12), liên quan tới Hồ Tibêria, gần Biển Galilêa (x. Mk 2:13-14).
Người ta có thể suy diễn là Thánh Mathêu đã thực hiện nhiệm vụ của một
viên thu thuế ở Capernaum, ở ngay ‘bên biển’ (Mt 4:13), nơi Chúa Giêsu
là một vị khách thường xuyên của gia đình Thánh Phêrô.
Căn cứ vào những nhận định sơ sài từ Phúc Âm này, chúng ta có thể thực
hiện một số chia sẻ như sau. Trước hết là Chúa Giêsu đã đón nhận trong
nhóm bạn hữu thân thiết của mình một con người, theo quan niệm ở Do Thái
thời ấy, được coi là một tội nhân công khai.
Thật ra Mathêu chẳng những là nhân viên quản trị về tiền bạc, một việc
được coi là không tinh sạch vì nó xuất phát từ con người xa lạ với thành
phần dân Chúa, mà còn hợp tác với thẩm quyền ngoại bang, tham lam bẩn
thỉu, có thể ấn định việc cống nộp một cách tùy tiện.
Vì những lý do đó, có vài lần các Phúc Âm đã đề cập chung ‘thành phần
thu thuế và tội lỗi’ (Mt 9:10; Lk 15:1), ‘thành phần thu thuế và gái
điếm’ (Mt 21:31). Ngoài ra, các Phúc Âm còn thấy nơi thành phần thu thuế
một mẫu gương tham lam nữa (x Mt 5:46: họ chỉ yêu thương những ai thương
yêu họ) và đã đề cập đến một người trong họ là Gia Kêu, như ‘người
trưởng ban thu thuế, và giầu có’ (Lk 18:11).
Căn cứ vào những chi tiết ấy vấn đề cần phải chú ý là Chúa Giêsu không
loại trừ một ai ra khỏi tình thân hữu của Người. Hơn thế nữa, chính lúc
Người ngồi ở bàn ăn trong nhà viên Thu Thuế Mathêu, trả lời những ai cảm
thấy ngứa mắt trước sự kiện qui tụ thường xuyên song bất xứng của Người,
Người đã tuyên bố điều quan trọng này là ‘Những ai khỏe mạnh thì không
cần đến thày thuốc, chỉ có những ai yếu bệnh mới cần; Tôi đến không phải
để kêu gọi thành phần công chính mà là tội nhân’ (Mk 2:17).
Lời loan báo tốt đẹp này của Phúc Âm thực sự là ở chỗ đó, ở chỗ Thiên
Chúa cống hiến ân sủng của Ngài cho thành phần tội nhân! Ở một đoàn
khác, bằng một dụ ngôn nổi tiếng về người Pharisiêu và người thu thuế
cùng lên đền thờ cầu nguyện, Chúa Giêsu thậm chí cho thấy một người thu
thuế vô danh nêu gương khiêm nhượng tin tưởng vào tình thương thần linh:
Trong khi người Pharisiêu ngạo nghễ về tình trạng trọn lành luân lý của
mình, thì ‘người thu thuế, đứng ở đằng xa, không dám ngước mắt lên trời,
chỉ biết đấm ngực mà rằng: Lạy Chúa, xin thương đến tôi là kẻ tội lỗi!’
Và Chúa Giêsu nhận định rằng: ‘Thày cho các con biết người này về nhà
được công chính chứ không phải người kia; vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ
xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên’ (Lk 18:13-14).
Bởi thế, qua hình ảnh Mathêu, các Phúc Âm cho chúng ta thấy một cái
ngược đời thực sự, đó là ai có vẻ xa vời nhất với thánh đức lại có thể
trở thành một mô phạm trong việc chấp nhận lòng thương xót Chúa, giúp họ
có thể thoáng thấy được những hiệu năng của lòng xót thương này nơi cuộc
sống của họ.
Về vấn đề này, Thánh Gioan Chrysostom đã có một nhận định đáng kể. Ngài
nhận định rằng nơi trình thuật về ơn gọi thì chỉ có một vài người được
kêu gọi là có liên quan tới công việc họ đang hành sự. Phêrô, Anrê,
Giacôbê và Gioan đã được kêu gọi khi các vị đang đánh cá; Mathêu được
kêu gọi khi anh đang thu thuế.
Chúng là những công việc có tầm vóc không quan trọng là bao, Thánh
Chrysostom nhận định: ‘không còn gì đáng ghê tởm hơn là viên thu thuế và
không gì tầm thường hơn là việc đánh cá’ ("In Matth. Hom":
PL 57, 363).
Bởi thế, lời kêu gọi của Chúa Giêsu cũng vươn tới cả thành phần ở tầm
cấp thấp kém, thành phần làm những việc tầm thường của mình.
Một ý tưởng khác cũng xuất phát từ trình thuật Phúc Âm, đó là việc
Mathêu tức khắc đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: ‘Ông đã đứng lên đi
theo Người’. Lời vắn gọn của câu này nhấn mạnh đến tính cách tức khắc
nơi việc Mathêu đáp lại lời kêu gọi.
Đối với ông thì điều này có nghĩa là từ bỏ hết mọi sự, nhất là một nguồn
lợi tức vững chắc, mặc dù thường bất chính và bất xứng. Hiển nhiên là
Mathêu hiểu rằng mối thân tình với Chúa Giêsu không cho phép anh tiếp
tục những hoạt động không đẹp lòng Chúa.
Người ta có thể dễ dàng trực giác thấy rằng vấn đề này cũng có thể được
áp dụng cho hiện nay nữa, ở chỗ, ngày nay người ta cũng không thể chấp
nhận việc gắn bó với những gì bất xứng hợp với việc theo Chúa Giêsu, như
những thứ giầu sang gian dối. Có lần Người đã công khai phán rằng: ‘Nếu
anh muốn nên trọn lành thì hãy về bán những gì mình có mà cho kẻ khó để
có được nước trời; rồi hãy đến mà theo Tôi’ (Mt 19:21).
Đó chính là những gì Mathêu đã làm: Anh đã chỗi dậy đi theo Người! Nơi
việc ‘đứng dậïy’ này người ta có thể thấy được việc ly thoát với tình
trạng tội lỗi, đồng thời, thấy được cả việc ý thức gắn bó với một sự
sống mới, chính trực, hiệp thông với Chúa Giêsu.
Sau hết, chúng ta nhớ lại rằng truyền thống của Giáo Hội sơ khai đồng ý
với việc gán tác giả quyền của cuốn Phúc Âm thứ nhất cho Mathêu. Việc
này được bắt đầu với Papias, vị giám mục của Gerapolis ở Phrygia, vào
khoảng năm 130.
Vị giám mục này viết rằng: ‘Mathêu đã viết những lời của Chúa Giêsu bằng
tiếng Do Thái, và mỗi người giải thích những lời ấy tuỳ họ có thể’ (in
Eusebius of Caesarea, "Hist. eccl.", III, 39, 16). Sử gia Eusebius còn
thêm chi tiết là: ‘Mathêu, vị trước đó đã giảng dạy cho người Do Thái,
khi quyết định đi đến với cả các dân tộc khác nữa, thì đã viết bằng
tiếng mẹ đẻ của mình Phúc Âm ngài đã loan truyền: Nhờ đó ngài đã thay
thế, bằng bản viết của mình, những gì họ, thành phần ngài lìa bỏ, bị mất
mát đi bởi việc ra đi của ngài’ (Ibid., III, 24, 6).
Chúng ta không còn bản Phúc Âm được Thánh Mathêu viết bằng tiếng Do Thái
hay Aramaic, mà là bản Phúc Âm bằng tiếng Hy Lạp là bản được lưu lại cho
tới chúng ta, chúng ta vẫn tiếp tục nghe, ở một nghĩa nào đó, tiếng nói
thuyết phục của người thu thuế Mathêu, vị mà khi trở thành tông đồ đã
tiếp tục loan truyền cho chúng ta tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp này của Thánh Mathêu, chúng ta hãy suy
niệm sứ điệp ấy luôn mãi để chúng ta có thể cương quyết dứt khoát chỗi
dạy theo Chúa Giêsu.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ
biến ngày 30/8/2006
Bài đọc 2
Đức Giê-su đã nhìn thấy ông, yêu thương và tuyển chọn ông
Trích bài giảng của thánh Bê-đa Khả Kính, linh mục.
Đức Giê-su thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi ở bàn thu thuế. Người
bảo ông : Anh hãy theo tôi. Người
thấy không phải với con mắt thể xác, cho bằng với cái nhìn đầy tình thương
sâu xa. Đức Giê-su thấy người thu thuế ; Người nhìn ông với tình thương và
có ý chọn ông, nên bảo ông : Anh hãy theo
tôi ! Nhưng hãy theo có nghĩa là
hãy bắt chước, không phải chỉ theo bằng bước chân mà nhất là bằng cách ăn
thói ở. Quả thật, ai nói mình ở lại trong
Đức Ki-tô thì phải đi trên con đường Người đã đi.
Và ông đứng dậy đi theo Người. Chẳng có gì lạ khi thoạt nghe tiếng Chúa
truyền, người thu thuế từ bỏ ngay những lợi lộc trần gian ông đang quản lý,
và một khi đã coi thường sự giàu sang, ông dấn thân bước theo Đấng mà ông
thấy chẳng có chút của cải nào. Thật vậy, chính Chúa, Đấng bên ngoài dùng
lời nói để gọi ông, thì bên trong dùng sự thúc đẩy vô hình mà dạy ông bước
theo Người, vì Người tuôn đổ vào lòng trí ông ánh sáng của ơn thiêng khiến
ông hiểu được rằng Đấng kêu gọi ông từ bỏ của cải tạm bợ trên trần gian,
cũng có quyền ban kho tàng chẳng hư nát trên trời.
Đức Giê-su đang dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi
đến cùng ăn với Người và các môn đệ. Như
thế, một người thu thuế trở lại đã nêu gương cho nhiều người thu thuế và tội
lỗi biết sám hối và được ơn tha tội. Đây thật là một điềm tốt : vì thoạt khi
vừa trở lại, người sau này sẽ trở thành tông đồ và thầy dạy đức tin đã kéo
theo mình một đoàn tội nhân đến lãnh ơn cứu độ, và ngay khi đức tin của ông
còn phôi thai, ông đã bắt đầu làm công việc loan báo Tin Mừng, công việc mà
sau này ông sẽ hoàn thành mỹ mãn, khi đã tiến bộ trên đường nhân đức. Nếu
chúng ta muốn tìm hiểu sâu xa hơn câu chuyện trên đây, thì nên biết rằng
không phải Mát-thêu chỉ thết Chúa một bữa tiệc vật chất trong ngôi nhà của
ông ở trần gian, mà còn dọn cho Người một bữa tiệc trong ngôi nhà tâm hồn
ông với tất cả niềm tin yêu, điều đó còn quý hơn nhiều, bởi chính Chúa đã
phán : Này đây Ta đứng trước cửa và gõ.
Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với
người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.
Chúng ta nghe tiếng Người và mở cửa ra đón Người, khi chúng ta sẵn sàng vâng
theo những lời khuyên nhủ kín đáo hay rõ ràng của Người, và ra sức chu toàn
những điều ta biết mình phải thi hành. Người vào nhà để Người cùng với chúng
ta và chúng ta cùng với Người ăn bữa tối, vì Người ngự trong tâm hồn những
kẻ được tuyển chọn, nhờ hồng ân tình yêu của Người. Nhờ đó, Người luôn nuôi
dưỡng họ bằng sự hiện diện quang minh của Người, để họ ngày càng vươn tới
những ước vọng cao siêu và để chính Người được thưởng thức những khát vọng
cao cả của họ như một thứ cao lương mỹ vị.
Lạy Chúa, Chúa đã mở lượng từ bi khôn tả chọn một người thu thuế là
Mát-thêu làm tông đồ rao giảng Tin Mừng. Xin nhậm lời thánh nhân cầu
thay nguyện giúp mà cho chúng con biết noi gương người, luôn hết tình
gắn bó với Chúa Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp
nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Đức Thánh Cha Phanxicô trả lời cuộc phỏng vấn của đại diện các tạp chí trên
thế giới của Dòng Tên Cuộc
phỏng vấn dài này kéo dài 3 buổi khác nhau, tại chính phòng trọ của ngài ở
Casa Santa Marta trong Tháng 8/2013.
Jorge Mario Bergoglio là ai?
Tôi hỏi thẳng Đức Giáo Hoàng Phanxicô rằng: "Jorge Mario Bergoglio là ai?"
Ngài chăm chăm nhìn vào tôi một cách trầm lặng. Tôi hỏi ngài xem tôi có được
hỏi ngài câu này hay chăng. Ngài gật đầu và trả lời rằng: "Tôi không biết
phải diễn tả làm sao cho thích đáng nhất đây... Tôi là một tội nhân. Đó là
một định nghĩa chính xác nhất. Nó không phải là một lời nói bóng gió, một
thứ văn chương. Tôi là một tội nhân".
Đức Giáo Hoàng tiếp tục chia sẻ và tỏ ra tập trung vào vấn đề như thể ngài
không ngờ về một câu hỏi như thế, như thể ngài bị bắt buộc phải chia sẻ
thêm. "Đúng thế, có lẽ tôi có thể nói rằng tôi hơi khéo léo một chút, rằng
tôi có thể thích ứng với các hoàn cảnh mà nói, thế nhưng tôi cũng thật sự là
hơi ngây ngô thẳng thắn. Phải đấy, thế nhưng cái tóm gọn đúng nhất, cái xuất
phát từ trong lòng và tôi cảm thấy đúng nhất là thế này: Tôi là một tội nhân
được Chúa đoái thương". Và ngài lập lại rằng: "Tôi là một kẻ được Chúa đoái
thương. Tôi luôn cảm thức được câu tâm niệm của mình, Miserando atque
Eligendo (vì thương mà chọn) là những gì rất đúng với tôi".
Câu tâm niệm này được lấy từ các Bài Giảng của tác giả Bede the Venerable,
vị viết trong phần dẫn giải của mình về câu truyện Phúc Âm liên quan đến
việc Thánh Mathêu được Chúa Giêsu kêu gọi: "Chúa Giêsu đã trông thấy một
người thu thuế, và vì Người nhìn anh ta bằng những cảm xúc yêu thương nên đã
chọn anh ta, Người đã nói cùng anh ta rằng: 'Hãy theo Ta'". Đức Giáo Hoàng
còn thêm: "Tôi nghĩ động danh từ Latinh miserando này không thể dịch sang cả
tiếng Ý lẫn tiếng Tây Ban Nha. Tôi thích dịch nó bằng một động danh từ
(gerund) khác vốn không có, đó là misericordiando ('mercy-ing' - việc thương
xót)".
Đức Giáo Hoàng tiếp tục chia sẻ mà nói, khi nhẩy qua một đề tài khác: "Tôi
không biết rõ về Rôma. Tôi biết một ít điều thôi. Những điều này bao gồm Đền
Thờ Đức Bà Cả; tôi thường đến đó. Tôi biết Đền Thờ Đức Bà Cả, Đền Thờ Thánh
Phêrô... thế nhưng khi tôi cần phải đến Rôma thì tôi bao giờ cũng ở (vùng
lân cận) của Via della Scrofa. Từ đó, tôi thường viếng thăm Nhà Thờ Thánh
Louis Pháp Quốc và tôi đến đó để chiêm ngưỡng bức họa liên quan đến 'Ơn Gọi
của Thánh Mathêu' của Caravaggio.
"Ngón tay của Chúa Giêsu chỉ vào Thánh Mathêu. Tức là tôi. Tôi cảm thấy như
ngài". Đến đây Đức Giáo Hoàng trở nên quyết liệt, như thể ngài cuối cùng đã
thấy được hình ảnh ngài đã tìm kiếm: "Chính cử chỉ của Thánh Mathêu đã tác
động tôi: Ngài giữ lấy tiền của ngài như muốn nói rằng 'Không, không phải là
tôi! Không, tiền bạc này là của tôi'. Đấy, tôi đó, một tội nhân đã được Chúa
hướng nhìn tới. Và đó là những gì tôi đã nói khi các vị hỏi tôi rằng tôi có
chấp nhận được tuyển bầu làm giáo hoàng hay chăng". Bấy giờ vị giáo hoàng
này đã thầm thĩ bằng tiếng Latinh rằng: "Tôi là một tội nhân, nhưng tôi tin
vào tình thương vô biên và nhẫn nại của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng tôi, và
tôi chấp nhận bằng tinh thần thống hối".
Thứ
Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Esd
1, 1-6
"Ai thuộc dân Chúa, hãy lên
Giêrusalem và xây cất nhà Chúa".
Khởi đầu sách Esdra.
Năm thứ nhất triều đại Kyrô vua
nước Ba-tư, để ứng nghiệm lời Chúa đã phán bởi miệng Giêrêmia, Chúa giục
lòng Kyrô vua nước Ba-tư, và ông truyền công bố bằng lời rao và sắc chỉ
trong khắp nước rằng: "Ðây là lệnh của Kyrô vua nước Ba-tư: Chúa là Chúa
Trời đã ban cho ta mọi nước trên mặt đất, chính Người truyền dạy ta phải
xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong nước Giuđêa. Ai trong
các ngươi thuộc về dân Người? Xin Thiên Chúa của nó ở cùng nó. Nó hãy
lên Giêrusalem trong xứ Giuđêa, và xây cất nhà của Chúa là Thiên Chúa
Israel, chính Người là Thiên Chúa ngự ở Giêrusalem. Và tất cả những
người khác đang cư ngụ bất kỳ nơi nào, thì từ nơi mình ở, hãy giúp họ
bằng vàng bạc, của cải và súc vật, đừng kể những gì tình nguyện dâng cho
đền thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem.
Các trưởng tộc thuộc chi họ Giuđa,
Bêngiamin, các tư tế, các thầy Lêvi và mọi người được Chúa thúc giục
trong lòng, đều vùng dậy tiến lên, để xây cất đền thờ Chúa ở Giêrusalem.
Toàn thể dân chúng sống trong vùng lân cận cũng tiếp tay giúp họ vàng
bạc, của cải, súc vật, những đồ quý, không kể những gì họ tự ý dâng
cúng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 125,
1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã
đối xử đại lượng với chúng tôi (c. 3a).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những người
Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ; bấy giờ miệng
chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với
nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại
lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận
của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt
trong hân hoan. - Ðáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay
mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. -
Ðáp.
Alleluia: Gc 1,
21
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy
khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng; lời đó có thể cứu thoát
linh hồn anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8,
16-18
"Ðặt đèn trên giá đèn, để những
ai đi vào đều thấy sự sáng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân
chúng rằng: "Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm
giường: nhưng đặt nó trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy ánh sáng.
Vì chẳng có gì kín nhiệm mà không bị tỏ ra, và không có gì ẩn giấu mà
không bị lộ ra cho người ta biết. Vậy các ngươi hãy ý tứ xem các ngươi
nghe thế nào! Vì ai có, sẽ được cho thêm; còn ai không có, cả điều mình
tưởng có cũng sẽ bị lấy đi".
Ðó là lời Chúa.

Suy Nghiệm
Lời Chúa
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ
Hai Tuần XXV Thường Niên, là bài Phúc Âm tiếp liền với bài Phúc Âm Thứ
Bảy Tuần trước, Tuần XXIV Thường Niên.
Thật vậy, ngay sau khi
nói với đám đông dân chúng
tuốn đến nghe Người và Người đã giảng dạy họ bằng
dụ ngôn người gieo giống trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, Chúa
Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay, liền
giảng tiếp vỏn vẻn trong 3 câu Phúc Âm như
là những gì liên hệ với nhau bất khả phân ly trong cùng một bài giảng
của Người, đó là:
"Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng
đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì
bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta
lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng. Vậy hãy để ý tới cách thức
anh em nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay
cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất."
Đúng thế, dụ ngôn người gieo
giống trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước liên quan đến 4 loại thính
giả, và 3 câu Phúc Âm hôm nay có liên hệ hết sức mật thiết với nhau ở
chỗ: "Vậy
hãy để ý tới cách thức anh em nghe". Thế nhưng tại
sao Chúa Giêsu lại ghép cách thức nghe lời Chúa với việc thắp đèn lên
cho sáng tỏ chứ?
Phải chăng ở đây Chúa Giêsu có ý nói
rằng Chúa là người gieo giống, là Đấng rao giảng hạt giống lời
Chúa, chẳng
còn muốn gì hơn là làm sao cho lời của Người sinh hoa kết trái nơi con
người, nơi những người nghe lời của Người, mà "lời Chúa là đèn soi
chân con bước,
là ánh sáng dẫn lối con đi"
(Thánh Vịnh 119:105), thì
cũng có
nghĩa là Người
muốn thắp lên trong mỗi một con người ngọn đèn lời của Người, nếu họ
biết lắng nghe và đáp ứng lời
của Người, nhờ đó,
lời của Người cho dù đầy
sâu nhiệm "bí ẩn" cũng sẽ
"trở nên hiển hiện", dù
lời của Người như
có vẻ "che giấu" trong tâm
hồn của mỗi một người nghe lời của Người, cũng
sẽ trở
nên cụ
thể trước mặt mọi người qua đời
sống chứng nhân của họ, như
"được đưa ra ánh sáng" vậy.
Nếu biết lắng nghe, chấp nhận
và đáp ứng lời của Chúa, như một mảnh đất tốt, thì mảnh đất nhân tính
tốt của con người lắng nghe ấy sẽ trổ sinh hoa trái, như thể "ai
đã có (lời
Chúa),
thì được cho thêm (hoa trái)", trái
lại, thành phần nghe lời Chúa như một vệ đường hay như sỏi đá hoặc như
bụi gai, thì lời Chúa Giêsu kết luận ở cuối bài Phúc Âm hôm nay đã
khẳng định: "còn
ai không có (ám
chỉ lời
Chúa chẳng công hiệu gì nơi họ như thể họ chẳng có lời Chúa, chẳng hề
nghe lời Chúa),
thì ngay cái họ tưởng là có (như đức
tin họ lãnh nhận khi lãnh nhận Phép Rửa, như việc lành phúc đức họ làm
là những gì họ tưởng là có), cũng
sẽ bị lấy mất (như
người đầy tớ được
trao cho một nén chẳng sinh lợi nên bị tước luôn - xem Mathêu 25:28-29)".
Đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay:
"chẳng có gì kín nhiệm mà không bị tỏ ra,
và không có gì ẩn giấu mà không bị lộ ra cho người ta biết". Bài
Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Esdra đã chứng thực điều đó. Ở chỗ,
những gì Thiên Chúa đã ấn định một cách "kín nhiệm" thì Ngài đã
"tỏ ra" cho chính vị vua dân ngoại, như được thuật lại như sau:
"Năm thứ nhất triều đại Kyrô vua
nước Ba-tư, để ứng nghiệm lời Chúa đã phán bởi miệng Giêrêmia,
Chúa giục
lòng Kyrô vua nước Ba-tư, và ông truyền công bố bằng lời rao và sắc chỉ
trong khắp nước rằng: "Ðây là lệnh của Kyrô vua nước Ba-tư: Chúa là Chúa
Trời đã ban cho ta mọi nước trên mặt đất, chính Người truyền dạy ta phải
xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong nước Giuđêa. Ai trong
các ngươi thuộc về dân Người? Xin Thiên Chúa của nó ở cùng nó. Nó hãy
lên Giêrusalem trong xứ Giuđêa, và xây cất nhà của Chúa là Thiên Chúa
Israel, chính Người là Thiên Chúa ngự ở Giêrusalem. Và tất cả những
người khác đang cư ngụ bất kỳ nơi nào, thì từ nơi mình ở, hãy giúp họ
bằng vàng bạc, của cải và súc vật, đừng kể những gì tình nguyện dâng cho
đền thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem".
Chưa hết, những gì Thiên Chúa "ẩn dấu" thì Ngài cũng đã "lộ
ra" cho dân của Ngài biết khi tới thời điểm ấn định của Ngài, như
được cùng Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy:
"Các trưởng tộc thuộc chi họ Giuđa,
Bêngiamin, các tư tế, các thầy Lêvi và
mọi người được Chúa thúc giục
trong lòng, đều vùng dậy tiến lên, để xây cất đền thờ Chúa ở Giêrusalem.
Toàn thể dân chúng sống trong vùng lân cận cũng tiếp tay giúp họ vàng
bạc, của cải, súc vật, những đồ quý, không kể những gì họ tự ý dâng
cúng".
Đó là lý do, khi Thiên Chúa ẩn mặt đi, vì tội lỗi của dân Ngài, hay vì
Ngài muốn thử thách dân Ngài, thì Ngài cũng chỉ làm vì lợi ích thiêng
liêng cho chính họ mà thôi, để rồi, nhờ đó, khi họ nhận ra tội lỗi mình
và nhận biết Thiên Chúa của họ, khi Ngài tỏ mình ra cho họ, bằng cách
cứu độ họ cho khỏi cảnh vừa cùng cực vừa bất lực của họ, họ sẽ càng cảm
thấy hân hoan vui sướng hơn bao giờ hết, như Thánh Vịnh 125 ở bài Đáp Ca
hôm nay như sau:
1) Khi Chúa đem những người
Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ; bấy giờ miệng
chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với
nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại
lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận
của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt
trong hân hoan.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay
mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Esd
6, 7-8. 12b. 14-20
"Họ hoàn tất việc xây cất nhà Chúa
và mừng lễ Vượt Qua".
Bài tích sách Esdra.
Trong những ngày ấy, (Vua Ðariô viết
thư cho các vị tư lệnh vùng ở bên kia sông Euphrate mà nói rằng:) "Hãy để
cho vị thủ lãnh người Do-thái và các kỳ lão của họ xây cất đền thờ của Thiên
Chúa, để đền thờ của Thiên Chúa được xây cất chính nơi cũ. Ta cũng ra lệnh
về việc các ngươi phải làm với các bậc Kỳ cựu Do-thái, để tái thiết nhà
Thiên Chúa: là phải lấy của trong kho nhà vua, nghĩa là tiền nộp thuế của
miền bên kia sông Euphrate, và cẩn thận phân phát cho những người ấy, để
công việc không bị trì hoãn. Ta là Ðariô ra sắc chỉ này, ta muốn mọi người
ân cần tuân giữ".
Các kỳ lão người Do-thái xây cất đền
thờ và công việc tiến hành nhanh chóng, nhờ lời sấm của tiên tri Khác-gai và
tiên tri Dacaria, con ông Ađđô: họ xây cất và hoàn thành theo lệnh Chúa
Israel truyền dạy, và theo lệnh các vua nước Ba-tư là Kyrô, Ðariô và
Artaxerxê. Họ hoàn tất việc xây cất nhà Thiên Chúa ngày mồng ba tháng Ađar,
năm thứ sáu triều vua Ðariô. Vậy con cháu Israel, các tư tế, các thầy Lêvi,
và những người lưu đày còn sống sót, đều vui mừng hiến thánh nhà Thiên Chúa.
Trong lễ cung hiến nhà Thiên Chúa, họ dâng một trăm con bò, hai trăm con
cừu, bốn trăm con chiên, và để làm lễ đền tội cho cả dân Israel, họ cũng
dâng mười hai con dê theo số các chi tộc Israel. Rồi họ cắt đặt các thầy tư
tế theo phẩm trật và các thầy Lêvi theo cấp bậc, để giúp việc đền thờ Thiên
Chúa ở Giêrusalem, như đã chép trong sách của Môsê.
Những con cái Israel lưu đày về mừng
lễ Vượt Qua ngày mười bốn tháng thứ nhất. Các thầy tư tế và Lêvi, tất cả như
một, đều được thanh tẩy, tất cả đều trong sạch, để sát tế mừng lễ Vượt Qua
cho toàn thể dân lưu đày và cho anh em tư tế của họ và chính mình họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 121,
1-2. 3-4a. 4b-5
Ðáp: Tôi vui mừng
khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa" (c. 1).
Xướng: 1) Tôi vui mừng khi người ta
nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi
đang đứng nơi cửa thành rồi. - Ðáp.
2) Giêrusalem được kiến thiết như
thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc của Chúa
tiến lên. - Ðáp.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi
khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavit. -
Ðáp.
Alleluia: Tv 118,
18
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng
theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8,
19-21
"Mẹ và anh em Ta là những người
nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu đến
tìm Người, nhưng vì đám đông, nên không thể đến gần Người được. Người ta báo
tin cho Người rằng: "Có mẹ và anh em Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy". Người
trả lời với họ rằng: "Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và
đem ra thực hành".
Ðó là lời Chúa.

Suy Nghiệm
Lời Chúa
Hôm
nay, Thứ Ba Tuần XXV Thường Niên, bài
Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cũng rất ngắn ngủi, chỉ có 3 câu, tiếp ngay
sau Bài Phúc Âm hôm qua về chiều hướng lời Chúa nơi con người thắp sáng trần
gian, và có liên hệ với bài Phúc Âm hôm qua về ý nghĩa của nó, về mối liên
hệ đích thực giữa Người với những ai giữ lời Chúa, đó
là bài Phúc Âm trong đó
Chúa Kitô khẳng định về mối liên hệ thiêng liêng với Người:
"Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu đến tìm Người, nhưng vì đám đông, nên không
thể đến gần Người được. Người ta báo tin cho Người rằng: 'Có mẹ và anh em
Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy'. Người trả lời với họ rằng: 'Mẹ và anh em
Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành'".
Đúng thế, qua câu khẳng định về
tình nghĩa thiêng liêng với Người này, Chúa
Giêsu chẳng những không
phủ nhận mối liên hệ tự
nhiên về huyết nhục, nhất là đối với Người Mẹ của Người, mà còn đề cao Mẹ
của Người hơn nữa, như muốn nhấn mạnh rằng Mẹ Maria của Người chẳng những có
phúc vì đã được thụ thai và cưu mang Người (xem Luca 11:27) là "Lời đã hóa thành
nhục thể" (Gioan 1:14), là "Con Thiên Chúa", là "Con Đấng
Tối Cao" (Luca 1:32,35), mà
còn "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45), tin phục những gì đã truyền đạt
cho Mẹ.
Chính "đức tin tuân phục"
(Roma 1:5) của Mẹ mới làm và đã làm cho Mẹ nên một với Con của Mẹ, mới làm
cho Mẹ xứng đáng đồng công cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Con Mẹ và
với Con Mẹ, nhất là khi Mẹ đứng kề bên Thánh Giá của Người (xem Gioan
19:25). Mẹ là đệ nhất môn đệ của Con Mẹ, là môn đệ tuyệt hảo nhất của Con
Mẹ đúng như Con Mẹ mong muốn, ở chỗ Mẹ là "người
nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
Mẹ
không thể nào có thể "đem ra thực hành" lời Chúa nếu không "nghe
lời Thiên Chúa",
như khi Mẹ nghe thấy câu
trả lời của Thiếu Nhi Giêsu Con Mẹ 12 tuổi trong đền
thờ sau 3 ngày lạc mất,
một lời mà Mẹ không nắm bắt được ý
nghĩa của nó (xem
Luca 2:50), nhưng Mẹ vẫn
lấy "đức tin tuân phục" để "xin
vâng" như trong Biến Cố Truyền Tin (xem Luca 1:38), hay như khi Mẹ chứng
kiến thấy những dấu lạ
Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nhưng Mẹ vẫn lưu giữ tất cả
những sự ấy mà suy niệm trong lòng, chẳng
hạn như sự
kiện ba chiêm tinh vương gia đông phương đến bái thờ Hài Nhi Giêsu Con Mẹ
(xem Luca 1:19).
Bởi thế, Mẹ thật sự là Mẹ của
Chúa Kitô, Lời Nhập Thể cả về phương diện thể
lý lẫn phương diện thiêng
liêng. Nếu về phương diện
tự nhiên, Mẹ đã hạ sinh nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét thuộc giòng
dõi Đavít, thì về phương diện siêu nhiên, nhờ đức tin tuân phục của Mẹ,
Mẹ đã thụ thai Lời Nhập Thể và Lời Nhập Thể đã chiếm đoạt Mẹ, biến Mẹ thành
phương tiện thông ban ơn cứu độ,
một ơn cứu độ trước
tiên được thông ban cho thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, qua lời chào đầy
Thánh Linh của Mẹ (xem Luca 1:41-44), và sau đó, cũng nhờ lời chuyển cầu
thần thế của Mẹ, bằng vai trò trung gian môi
giới, Chúa Giêsu lần đầu
tiên đã tỏ mình ra cho các môn đệ của Người ở tiệc cưới Cana làm cho các vị
tin vào Người (xem
Gioan 2:1-11).
Chính
nhờ tâm hồn đầy "đức tin tuân phục" của Mẹ
mà chẳng những tâm
hồn đầy ân phúc của Mẹ thực sự là Đền Thờ cho Chúa Thánh Thần ngự trị, mà
nhờ đó cả thân xác trọn đời trinh nguyên của Mẹ nữa cũng đã hoàn toàn trở
thành Đền Thờ vô cùng xứng đáng cho
Lời Nhập Thể ẩn ngự
trong suốt
9 tháng mở đầu
cho cuộc sống trần gian của Người.
Đúng thế, chỉ có những tâm hồn nào, như Mẹ Maria, trở thành Đền Thờ của
Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa ngự, mới thật sự là thân nhân ruột thịt thiêng
liêng của Chúa Giêsu và với Chúa Kitô, Vị Thiên Chúa Làm Người - Emmanuel.
Dân Do Thái là dân được Thiên Chúa tuyển chọn làm sản nghiệp của Ngài giữa
muôn dân trên thế gian này cũng thế, họ chỉ xứng đáng với Ngài khi họ trở
thành nơi cho Thiên Chúa ngự giữa họ, như Đền Thờ Giêrusalem ở trong Thành
Giêrusalem vậy.
Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Esdra, đã cho chúng ta thấy dân Do
Thái, sau thời gian lưu đầy bởi tội lỗi của mình cho tới thời kỳ ấn định thì
được hồi hương đúng như thời hạn Thiên Chúa đã báo trước qua tiên tri
Giêrêmia (như Bài Đọc 1 hôm qua đã nhắc đến ngay ở đầu bài), và nhờ được cứu
độ như thế, dân Chúa càng nhận biết Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình
hơn và cố gắng sống xứng đáng với Ngài hơn, ở chỗ đã tái thiết Đền Thờ của
Ngài và cho Ngài, như một dấu hiệu chứng thực lòng họ trở về với Ngài và gắn
bó với Ngài, một việc tái thiết đền thờ đã được Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại
như sau:
"Các kỳ lão người Do-thái xây cất đền
thờ và công việc tiến hành nhanh chóng, nhờ lời sấm của tiên tri Khác-gai và
tiên tri Dacaria, con ông Ađđô: họ xây cất và hoàn thành theo lệnh Chúa
Israel truyền dạy, và theo lệnh các vua nước Ba-tư là Kyrô, Ðariô và
Artaxerxê. Họ hoàn tất việc xây cất nhà Thiên Chúa ngày mồng ba tháng Ađar,
năm thứ sáu triều vua Ðariô. Vậy con cháu Israel, các tư tế, các thầy Lêvi,
và những người lưu đày còn sống sót, đều vui mừng hiến thánh nhà Thiên Chúa.
Trong lễ cung hiến nhà Thiên Chúa, họ dâng một trăm con bò, hai trăm con
cừu, bốn trăm con chiên, và để làm lễ đền tội cho cả dân Israel, họ cũng
dâng mười hai con dê theo số các chi tộc Israel. Rồi họ cắt đặt các thầy tư
tế theo phẩm trật và các thầy Lêvi theo cấp bậc, để giúp việc đền thờ Thiên
Chúa ở Giêrusalem, như đã chép trong sách của Môsê. Những con cái Israel lưu đày về mừng
lễ Vượt Qua ngày mười bốn tháng thứ nhất. Các thầy tư tế và Lêvi, tất cả như
một, đều được thanh tẩy, tất cả đều trong sạch, để sát tế mừng lễ Vượt Qua
cho toàn thể dân lưu đày và cho anh em tư tế của họ và chính mình họ".
Đối với dân Do Thái thì Đền Thờ là tâm điểm của Do Thái giáo và là biểu hiệu
cho đức tin của họ vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, giống như
Tòa Thánh Rôma là trung tâm điểm của Kitô giáo và là vị trí có di tích lịch
sử về đức tin Kitô giáo, hay Mecca đối với Hồi giáo cũng vậy. Và đó là lý do
tín đồ Do Thái giáo luôn hướng về Đền Thờ Giêrusalem với tất cả niềm tin
tưởng và hân hoan của mình, đúng như Thánh Vịnh 121 ở bài Đáp Ca hôm nay cho
thấy:
1) Tôi vui mừng khi người ta
nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi
đang đứng nơi cửa thành rồi.
2) Giêrusalem được kiến thiết như
thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc của Chúa
tiến lên.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi
khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavit.
Ngày 23 tháng 9
Thánh Pi-ô Pi-ết-ren-si-na, linh mục
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Thánh nhân sinh tại làng Pi-ết-ren-si-na gần Bê-nê-ven-tô nước Ý năm
1887. Người vào tu dòng Anh Em Hèn Mọn, ngành Ca-pút-xi-nô, và sau
khi thụ phong linh mục đã tận tình lo việc mục vụ nhất là tại tu
viện ở thị trấn Xan Gio-van-ni Rô-tôn-đô miền Pu-li-a. Trong tinh
thần cầu nguyện và khiêm nhường, người phục vụ dân Chúa qua việc
linh hướng, bí tích Hoà Giải và việc săn sóc giúp đỡ những người ốm
đau, nghèo khổ. Người đã được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô
chịu đóng đinh và ngày 23 tháng 9 năm 1968, người kết thúc cuộc hành
trình ở thế gian này.

Thiên Chúa là nhà Nghệ Sĩ đã tìm cách chuẩn bị những viên đá để xây
nên ngôi đền vĩnh cửu, bằng những nhát đục đẽo miệt mài và gọt giũa
chuyên cần, tài khéo. Đó là điều mẹ rất dịu hiền của chúng ta là Hội
Thánh Công Giáo ca ngợi trong bài thánh thi lễ cung hiến thánh
đường. Và thật như vậy.
Bất cứ linh hồn nào được dành cho vinh quang vĩnh cửu có thể được
coi cách rất đúng như viên đá, để xây nên ngôi đền vĩnh cửu. Kiến
trúc sư xây nhà trước hết phải gọt đẽo những viên đá xây ngôi nhà
đó. Ông phải dùng búa dùng đục mà làm. Cha trên trời cũng làm như
thế đối với các linh hồn được tuyển chọn. Những linh hồn này, do sự
khôn ngoan và quan phòng tuyệt vời của Người, đã được dành riêng từ
thuở đời đời để xây dựng ngôi đền vĩnh cửu.
Vậy linh hồn được dành cho hưởng vinh quang vĩnh cửu để trị vì cùng
Đức Ki-tô, cũng phải được gọt giũa bằng những nhát búa nhát đục.
Thiên Chúa là nhà Nghệ Sĩ dùng những thứ đó để chuẩn bị đá là những
tâm hồn được tuyển chọn. Những nhát búa, những nhát đục đẽo đó là gì
? Chị ơi, đó là các bóng tối, những sự sợ hãi, những cám dỗ, những
sự buồn phiền trong tâm trí, những nỗi sợ hãi về đường thiêng liêng,
với chút sầu não, và cả những đau đớn trong thân xác.
Vậy, chị em hãy tạ ơn lòng lành vô cùng của Cha muôn đời, vì Người
đối xử như vậy đối với linh hồn chị em, linh hồn đã được dành sẵn
cho ơn cứu độ. Tại sao không hãnh diện vì cách cư xử đầy tình nghĩa
của người cha tốt nhất trong các người cha ? Chị em hãy mở tâm hồn
ra cho Thiên Chúa là vị lương y của các linh hồn và phó thác mình
vào cánh tay chí thánh của Người, với đầy lòng tin cậy. Người xử với
chị em như những người được tuyển chọn để theo sát Đức Giê-su trên
con đường dốc lên đồi Can-va-ri-ô. Tôi vui mừng và vô cùng cảm động,
khi nhìn thấy ân sủng hoạt động nơi chị em thế nào.
Chị em đừng hoài nghi rằng mọi sự xảy đến cho linh hồn chị em là do
Chúa xếp đặt. Vì thế đừng sợ rằng mình sa vào sự dữ hoặc xúc phạm
đến Thiên Chúa. Chị em chỉ cần biết rằng : trong toàn bộ cách sống,
chị em đã không bao giờ xúc phạm đến Chúa, trái lại Người đã được
tôn vinh mỗi ngày một hơn.
Nếu Đấng Phu Quân vô cùng nhân hậu của linh hồn chị em ẩn mình, thì,
không phải như chị em nghĩ, là vì Người muốn trả thù sự bất trung
của chị em, mà chỉ là vì Người thử thách sự trung thành và kiên trì
của chị em và chữa trị chị em cho khỏi một số bệnh tật, mà con mắt
xác thịt không nhìn thấy, là những bệnh tật và sai lỗi ngay cả người
công chính cũng không thoát khỏi. Thật vậy, Sách Thánh nói : Người
công chính ngã bảy lần.
Chị em hãy tin tôi : giả như tôi không biết là chị em buồn sầu như
vậy, thì tôi sẽ kém vui, vì tôi sẽ hiểu là Chúa ban cho chị em ít
viên ngọc hơn. Hãy xua đuổi như những cám dỗ các hoài nghi ngược
lại... Cũng hãy xua đuổi những hoài nghi về cách sống của chị em,
nghĩ rằng chị em không nghe tiếng Chúa kêu gọi và bỏ ngoài tai những
lời mời ngọt ngào của Đấng Phu Quân. Tất cả những điều đó không phát
xuất từ thần khí tốt mà là từ thần khí xấu. Đó là những mưu ma chước
quỷ nhằm làm cho chị em rời xa sự hoàn thiện, hay ít là chậm bước
trên con đường tiến về đó. Chị em đừng nản lòng !
Khi Đức Giê-su tỏ mình ra, chị em hãy tạ ơn Người ; nếu Người ẩn
mình, cũng cứ tạ ơn Người : đó là những trò vui của tình yêu. Tôi
muốn chị em cùng Đức Giê-su trao phó mạng sống trên thập giá và cùng
Đức Giê-su kêu lên : Đã
hoàn tất.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Pi-ô, linh
mục, ơn đặc biệt là được chung phần thập giá với Con Chúa, và nhờ
thừa tác vụ của thánh nhân, Chúa đã tái thực hiện những kỳ công của
lòng Chúa thương xót. Nhờ lời thánh nhân chuyển cầu, xin cho chúng
con luôn được kết hợp với cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô để mai sau
đạt tới vinh quang phục sinh. Chúng con cầu xin
(xin xem tiếp một số phụ bản về vị thánh này ở phần cuối tuần 25
Thường Niên này, sau PVLC Thứ Bảy và Tiểu Sử Thánh
Vincent Phaolo)
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Esd
9, 5-9
"Thiên Chúa không bỏ rơi chúng
tôi trong cảnh nô lệ".
Trích sách Esdra.
Tôi là Esdra, khi dâng lễ tế ban
chiều, tôi vùng dậy khỏi cơn âu sầu, áo trong áo ngoài đều rách hết, tôi
quỳ gối xuống, giơ tay lên Chúa là Thiên Chúa tôi mà thưa rằng: "Lạy
Chúa, con hổ ngươi thẹn thuồng không dám ngước mặt lên cùng Chúa: vì
những sự gian ác của chúng con chồng chất trên đầu chúng con, và tội lỗi
chúng con cao lên tới trời. Kể từ thời cha ông chúng con cho tới ngày
nay, tội lỗi chúng con đã quá nhiều, và vì sự gian ác của chúng con, nên
chúng con, vua chúa, tư tế của chúng con, bị trao vào tay vua các dân
ngoại, bị gươm đao, bị lưu đày, bị cướp bóc và bị thẹn mặt như ngày nay.
"Và hiện giờ đây, Chúa vừa tạm ban
cho chúng con một chút lòng thương xót, là để cho chúng con sống sót
phần nào, và cho chúng con một nơi ẩn náu trong chốn thánh của Chúa, để
soi sáng mắt chúng con, và ban cho chúng con một chút sự sống trong cảnh
nô lệ của chúng con, vì chúng con là nô lệ mà Thiên Chúa không bỏ rơi
chúng con trong cảnh nô lệ, nhưng Chúa đã khiến các vua Ba-tư thương xót
chúng con, mà cho chúng con còn sống để chúng con xây cất nhà Thiên Chúa
chúng con, tu bổ những nơi hoang tàn, và cho chúng con một chỗ ở trong
xứ Giuđêa và tại Gierusalem".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tb 13,
2. 3-4. 6. 7. 8.
Ðáp: Lạy Chúa,
Chúa cao cả muôn đời (c. 1b).
Xướng: 1) Chúa trừng phạt, rồi lại
tha thứ. Chúa đẩy xuống âm phủ, rồi lại đem ra; và không một ai thoát
khỏi tay Chúa. - Ðáp.
2) Bởi vì thế, Chúa đã phân tán
các ngươi giữa các dân tộc không nhìn biết Chúa, để các ngươi tường
thuật các việc kỳ diệu của Người, để các ngươi làm cho họ biết rằng
ngoài Người ra, không có Thiên Chúa toàn năng nào khác. - Ðáp.
3) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa
làm cho chúng ta, hãy tuyên xưng Người với lòng cung kính và run sợ, hãy
suy tôn vua muôn đời trong những việc làm của các ngươi. - Ðáp.
4) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị
lưu đày, vì Người tỏ ra uy quyền trước dân phạm tội. - Ðáp.
5) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn
năn, hãy thực hiện sự công chính trước mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng
Người tỏ lòng từ bi với các ngươi. - Ðáp.
Alleluia: 1 Ga
2, 5
Alleluia, alleluia! - Ai giữ lời
Chúa Kitô, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người
ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9,
1-6
"Người sai các ông đi rao giảng
nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai
Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và
được chữa lành các bệnh tật. Ðoạn Người sai các ông đi rao giảng nước
Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người bảo các ông rằng: "Khi đi đàng,
các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc
hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy.
Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy
giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ". Các ông liền đi rảo khắp
các làng mạc, rao giảng Tin Mừng, và chữa lành bệnh tật khắp nơi.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XXV Thường Niên, không
tiếp nối bài Phúc Âm hôm qua, mà bỏ qua hết 34 câu còn lại của đoạn 8
Phúc Âm Thánh ký Luca, một khúc phúc âm bao gồm 3 sự kiện chính yếu
sau đây:
1- Chúa Giêsu dẹp yên bão tố khi được các môn đệ đánh
thức lúc Người ngủ trên thuyền (câu 22-25),
một sự kiện đã được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cho ngày Thứ Ba Tuần
XIII Thường Niên;
2- Người ra tay trừ quỉ cho một
người trần truồng ở Gerasene (câu 26-39), một
sự kiện cũng đã được
Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cho ngày Thứ Tư Tuần
XIII Thường Niên; và
3- Người chữa
lành người đàn bà loạn huyết 12 năm và hồi sinh đứa con gái của vị
trưởng hội đường (40-56), một sự kiện cũng đã được
Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cho ngày Thứ Hai Tuần XIV Thường Niên.
Bài Phúc Âm hôm
nay bao gồm 6 câu đầu của đoạn 9 Phúc Âm Thánh Luca, liên quan đến biến
cố Chúa Giêsu sai 12 tông đồ "đi
rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân", một
biến cố cũng đã được Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại cho Thứ
Năm Tuần XIV Thường Niên.
Tuy nhiên, nếu bài
Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên liên
quan đến bài đọc 1 được trích từ Sách Khởi Nguyên
(44:18-21,23-29;45:1-5): Phụng
Vụ Lời Chúa - Tuần XIV Thường Niên, thì bài
Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay liên quan đến
Sách Esdra
/ Ezra.
Nguyên văn nội
dung của bài Phúc Âm hôm nay như thế này: "Khi
ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và
quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật. Ðoạn Người
sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người
bảo các ông rằng: 'Khi đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và
bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở
lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì
khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố
cáo họ'. Các ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao giảng Tin Mừng, và
chữa lành bệnh tật khắp nơi".
Sách
Ezra ở Bài Đọc 1 hôm nay liên quan đến ước vọng muốn tái thiết
Đền Thờ Giêrusalem của nhân vật tác giả, một đền thờ đã bị
tàn phá và bỏ hoang trong thời gian dân Do Thái Xứ Giuđêa bị đi đầy ở
Babylon: "Chúa
đã khiến các vua Ba-tư thương xót chúng con, mà cho chúng con còn sống
để chúng con xây cất nhà Thiên Chúa chúng con, tu bổ những nơi hoang
tàn, và cho chúng con một chỗ ở trong xứ Giuđêa và tại Gierusalem".
Nếu Giáo Hội là Đền Thờ của Thiên Chúa thì các vị tông đồ quả thực là
nền móng của Đền Thờ Giáo Hội (xem Epheso 2:20), thành phần tông đồ được
Con Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi làm chứng nhân cho Người, nhưng được
Người ban cho các quyền năng tương xứng, với vai trò đại diện Người và
thay cho Người là Đấng đã thiết lập Giáo Hội, một Giáo Hội cần phải được
các vị xây dựng trở nên một Đền Thờ xứng đáng là Nhiệm Thể của Người.
Phải chăng chính vì hàng giáo phẩm là thừa kế của các vị tông đồ, một
hàng giáo phẩm có 3 vai trò chính yếu đó là quản trị, rao giảng và thánh
hóa, mà các vị tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm nay, khi được Chúa Kitô sai
đi, đã được Người "ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma
quỷ và được chữa lành các bệnh tật. Ðoạn Người sai các ông đi rao giảng
nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân".
"Sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật"
đây ám chỉ quyền năng thánh hóa của các tông đồ và những ai kế nhiệm
các vị, một quyền năng thánh hóa bằng các phép bí tích: Bí tích
Rửa Tội bao gồm cả quyền năng trừ tà và Bí tích Giải tội cùng Bí tích
Xức Dầu bao gồm quyền năng chữa lành về phần hồn, liên quan đến cả phần
xác. "Ðoạn Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa" là chi
tiết cho thấy quyền năng giảng dạy của các tông đồ.
Tuy nhiên, cho dù được quyền năng thay cho Chúa Kitô để thực hiện việc
giảng dạy và thánh hóa như Đấng đã tuyển chọn mình, tin tưởng mình,
thánh hóa mình và truyền sai mình, các tông đồ còn phải sống làm sao để
có thể chứng thực mình thực sự từ Thiên Chúa mà đến, là chứng nhân sống
động của Người nữa, thì nhân loại nói chung và những ai giao tiếp với
các vị, lắng nghe các vị, mới có thể nhận biết Chúa Kitô trong các vị và
qua các vị mà trở về với Người.
Đó là lý do các vị còn được Chúa Kitô căn dặn thêm về tinh thần cần phải
có của một chứng nhân đích thực và sống động của Người, đó là tinh thần
khó nghèo tín thác, hành vi cử chỉ bình dân hòa đồng, thái độ không đòi
hỏi hay nghi kỵ thành kiến hoặc oán hờn: "khi đi đàng, các con đừng
mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các
con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai
không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi
chân lại, để làm chứng tố cáo họ".
Lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho thấy, cho dù họ có thất trung với Vị
Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ đến thế nào chăng nữa, thậm chí ra
tay sát hại các tiên tri là ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến nhắc nhở họ,
đến độ máu của các vị đổ ra kêu thấu đến trời cao, một tình trạng bất
chấp thành phần ngôn sứ của Thiên Chúa, có thể so sánh với tác động phủi
bụi chân của các tông đồ được Chúa Kitô sai đi trong Bài Phúc Âm hôm
nay. Tuy nhiên, trong tình trạng cùng khốn của mình do tội lỗi của mình
gây ra, một khi họ biết lỗi và kêu van Thiên Chúa là Đấng đã sử dụng
chính tội lỗi của họ để làm cho họ tỉnh thức để Ngài ra tay cứu độ họ,
Ngài sẽ lại ra tay cứu độ họ, một nhận thức được tác giả của Bài Đọc 1
hôm nay tỏ lộ:
"Lạy Chúa, con hổ ngươi thẹn thuồng không dám ngước mặt lên cùng
Chúa: vì những sự gian ác của chúng con chồng chất trên đầu chúng con,
và tội lỗi chúng con cao lên tới trời. Kể từ thời cha ông chúng con cho
tới ngày nay, tội lỗi chúng con đã quá nhiều, và vì sự gian ác của chúng
con, nên chúng con, vua chúa, tư tế của chúng con, bị trao vào tay vua
các dân ngoại, bị gươm đao, bị lưu đày, bị cướp bóc và bị thẹn mặt như
ngày nay.... chúng con là nô lệ mà Thiên Chúa không bỏ rơi chúng con
trong cảnh nô lệ, nhưng Chúa đã khiến các vua Ba-tư thương xót chúng
con, mà cho chúng con còn sống để chúng con xây cất nhà Thiên Chúa chúng
con, tu bổ những nơi hoang tàn, và cho chúng con một chỗ ở trong xứ
Giuđêa và tại Gierusalem".
Thánh Vịnh 13 ở bài Đáp Ca hôm nay quả thực đã nhận thức như thế,
nhận thức được yếu điểm của lòng thương xót Chúa, lòng thương xót của
một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình, không bao giờ bỏ rơi
mình, dù mình có tội lỗi đến đâu, miễn là mình biết nhận lỗi, hối lỗi và
xin lỗi Ngài, để xứng đáng được Ngài xót thương và để Ngài được dịp
tỏ lòng thương xót vô cùng bất tận của Ngài hơn nữa:
1) Chúa trừng phạt, rồi lại tha thứ. Chúa đẩy xuống âm phủ,
rồi lại đem ra; và không một ai thoát khỏi tay Chúa.
2) Bởi vì thế, Chúa đã phân tán các ngươi giữa các dân tộc không
nhìn biết Chúa, để các ngươi tường thuật các việc kỳ diệu của Người, để
các ngươi làm cho họ biết rằng ngoài Người ra, không có Thiên Chúa toàn
năng nào khác.
3) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm cho chúng ta, hãy tuyên xưng
Người với lòng cung kính và run sợ, hãy suy tôn vua muôn đời trong những
việc làm của các ngươi.
4) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu đày, vì Người tỏ ra uy quyền
trước dân phạm tội.
5) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn, hãy thực hiện sự công chính
trước mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng từ bi với các ngươi.
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Kg
1, 1-8
"Các ngươi hãy xây cất đền thờ
và như thế sẽ đẹp lòng Ta".
Khởi đầu sách Tiên tri Khác-gai.
Ngày mồng một tháng sáu năm thứ
hai triều đại vua Ðariô, có lời Chúa sai tiên tri Khác-gai đến nói với
Giorôbabel, con trai ông Giosêđec, thầy cả thượng phẩm những lời sau
đây: "Ðây Chúa các đạo binh phán: Dân này nói: "Chưa đến lúc xây cất đền
thờ Chúa". Và có lời Chúa dùng tiên tri Khác-gai phán rằng: "Chớ thì đến
lúc các ngươi cư ngụ trong nhà ấm cúng, và để đền thờ này hoang vu sao?"
Giờ đây Chúa các đạo binh phán như thế này: "Các ngươi hãy lưu tâm đến
đường lối các ngươi. Các ngươi đã gieo nhiều mà thu vào ít: các ngươi đã
ăn không no, đã uống không say, đã mặc không ấm, kẻ nhận tiền công lại
bỏ vào túi lủng". Chúa các đạo binh phán như thế này: "Các ngươi hãy lưu
tâm đến đường lối các ngươi: Hãy lên núi mang gỗ về xây cất đền thờ, như
thế sẽ đẹp lòng Ta và Ta sẽ được tôn vinh". Chúa phán như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 149,
1-2. 3-4. 5-6a và 9b
Ðáp: Chúa yêu
thương dân Người (c. 4a).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài
ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy
mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của
họ. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen
Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con, bởi vì Chúa
yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. -
Ðáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong
vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên
lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv
24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa,
xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý
của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9,
7-9
"Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu
rồi, ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe
biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng:
"Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại"; còn kẻ khác lại nói: "Ông Êlia đã
hiện ra"; kẻ khác nữa nói rằng: "Một tiên tri thời xưa đã sống lại".
Nhưng Hêrôđê thì nói: "Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà
trẫm nghe đồn làm những điều như thế?" và vua tìm cách gặp Người.
Ðó là lời Chúa.

Suy Nghiệm
Lời Chúa
Thứ Bảy Tuần XVII Thường Niên Giáo Hội đã chọn đọc bài
Phúc Âm của Thánh ký Mathêu có
nội dung về biến cố Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị chém đầu với
lời mở đầu của quận vương Hêrôđê liên quan đến danh tiếng của Chúa
Giêsu: Phụng
Vụ Lời Chúa - Tuần XVII Thường Niên. Hôm
nay, Thứ Năm Tuần XXV Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh
ký Luca cũng lập lại lời của vị quận vương này về
danh tiếng của Chúa Giêsu liên quan đến cái chết của Tiền Hô Gioan Tẩy
Giả.
Tuy nhiên, trong khi Phúc Âm Thánh Mathêu bao gồm cả tiến
trình xẩy ra việc lấy thủ cấp của vị thánh này và chỉ nói vỏn vẻn đến
cảm nhận của quận vương Hêrôđê,
thì Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay lại không
thuật lại tất cả diễn tiến xẩy ra biến cố ấy, nhưng bao gồm cả các cảm
nhận khác cùng với cảm nhận của
chính quận
vương Hêrôđê về Chúa Giêsu:
"Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã
làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: 'Ông Gioan đã từ cõi chết sống
lại'; còn kẻ khác lại nói: 'Ông Êlia đã hiện ra'; kẻ khác nữa nói rằng:
'Một tiên tri thời xưa đã sống lại'. Nhưng Hêrôđê thì nói: 'Ông Gioan
trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như
thế?' và vua tìm cách gặp Người".
Trước hết, chúng ta
thấy rằng, nhờ
Phúc Âm của Thánh ký Luca chúng ta có thể suy ra là cảm nhận của quận
vương Hêrôđe trong bài Phúc Âm của Thánh
ký Mathêu có
thể đã bị ảnh hưởng bởi cảm nhận của một
vị quần
thần nào đó của
vua: "vì
có kẻ nói rằng: 'Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại'",
và vua chỉ lập lại cảm nhận ấy như là cảm nhận của vua về Chúa Giêsu
thôi: "Thời
ấy, tiểu vương Hêrôđê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ
hầu cận rằng: Đó
chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có
quyền năng làm phép lạ" (14:2)
Qua cảm nhận này của quận
vương Hêrôđê, người ta có cảm tưởng là vị quận vương này vừa đánh trống
vừa ăn cướp, đúng là một "con cáo" (Luca 13:32) muốn "tìm giết"
cả Người nữa, như Người đã được một số người biệt phái mật báo cho biết
sau này (xem Luca 13:31). Còn trong bài
Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, ông ta lại có vẻ khách quan
hơn, thiện chí hơn và tỏ
ra thân
thiện hơn với Chúa Giêsu: "Khi
ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì
phân vân... 'Ông
Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những
điều như thế?' và vua tìm cách gặp Người".
Ở đây, trong bài Phúc Âm của
Thánh ký Luca, vị quận
vương Hêrôđê này chỉ tỏ
ra thắc mắc mà thôi,
chứ không suy diễn rồi đi đến quả quyết chủ quan một cách hống hách
ngang tàng như trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, và
chính vì
thắc mắc nên ông mới
muốn "tìm
cách gặp Người".
Không ngờ, ước nguyện
muốn được gặp Người của ông cuối cùng cũng đã được đáp ứng, khi tổng
trấn Philatô, nghe biết Chúa Giêsu gốc gác thuộc về miền Galilêa là
vùng thuộc thẩm quyền của ông, đã giải giao Người cho ông, và khi nghe
thấy thế ông đã tỏ ra "hết sức vui mừng để gặp Người", nhưng ông đã
hoàn toàn thất vọng
khi gặp Người, bởi ông chỉ muốn "xem Người làm một phép lạ nào đó",
mà không được toại nguyện nên ông cùng đám vệ binh của ông đã tỏ
ra khinh chê nhạo báng Người (xem 23:6-12).
Phải chăng Kitô hữu
chúng ta đôi khi cũng chỉ muốn "tìm
cách gặp Người" như
quận vương Hêrôđê này để được "xem Người làm một phép lạ nào đó", ở
chỗ Người ban cho chúng ta những điều chúng ta xin Người, nhất là trong
cơn gian nan khốn khó hoạn nạn của chúng ta, cần được cứu vớt nhanh bao
nhiêu có thể, lạ bao nhiêu có thể theo lòng mong ước chủ quan thiển
cận của chúng ta, nhưng xin mãi mà Người vẫn im lìm chẳng nhúc nhích gì,
khiến chúng ta cảm thấy chán ngán Người, xa lánh Người và thậm chí chối bỏ
Người cùng nguyền rủa
Người?
Thái độ và lòng mong ước của quận vương Hêrôđê muốn tìm cách gặp Chúa
Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay chỉ vì muốn
được "xem Người làm một phép lạ nào đó" thì cũng chẳng
khác gì như tâm trạng của dân Do Thái ở Bài Đọc 1 hôm nay, trích từ Lời
Chúa phán trong Sách Tiên Tri Khác-gai: "Các ngươi hãy lưu
tâm đến đường lối các ngươi. Các ngươi đã gieo nhiều mà thu vào ít: các
ngươi đã ăn không no, đã uống không say, đã mặc không ấm, kẻ nhận tiền
công lại bỏ vào túi lủng".
Bởi thế, cũng qua Tiên Tri Khác-gai ở Bài Đọc 1 hôm nay, Chúa mới
truyền dạy cho dân của Ngài phải làm sao mới đẹp lòng Ngài, như sau:
"Các ngươi hãy lưu tâm đến đường lối các ngươi: Hãy lên núi mang gỗ
về xây cất đền thờ, như thế sẽ đẹp lòng Ta và Ta sẽ được tôn vinh".
Chính vì dân của Ngài đã đáp ứng lời truyền dạy của Ngài mà họ mới có
được tâm tình hân hoan như trong Thánh Vịnh 149 ở bài Đáp Ca hôm nay như
sau:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài
ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy
mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của
họ.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen
Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con, bởi vì Chúa
yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong
vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên
lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Kg
2, 1b-10
"Còn một ít lâu nữa, Ta sẽ làm cho
đền thờ này đầy vinh quang".
Trích sách Tiên tri Khác-gai.
Năm thứ hai triều đại vua Ðariô, đến
ngày hai mươi mốt tháng bảy, có lời Chúa dùng tiên tri Khác-gai mà phán
rằng: "Ngươi hãy nói với Giorôbabel, con trai tướng lãnh Giuđa, là
Saluthiel, nói với Giosua, con trai thượng tế Giosêđec, và với những kẻ sống
sót lại trong dân rằng: "Ai trong các ngươi là kẻ sống sót lại đã nhìn thấy
vinh quang thuở xưa của đền thờ này: và giờ đây các ngươi xem thấy nó thế
nào? Chớ thì nó chẳng là không trước mắt các ngươi sao? Và Chúa lại phán:
Hỡi Giorôbabel, giờ đây hãy can đảm. Hỡi Giosua, con trai thượng tế
Giosêđêc, hãy can đảm; và toàn dân trên lãnh thổ, hãy can đảm, đây Chúa các
đạo binh phán: Các ngươi hãy khởi công, vì Ta ở cùng các ngươi, Chúa các đạo
binh phán như vậy. Có lời Ta đã giao ước với các ngươi, khi các ngươi ra
khỏi đất Ai-cập, là thần linh Ta sẽ ở giữa các ngươi, nên các ngươi đừng
sợ".
Vì Chúa các đạo binh phán như thế này:
"Còn ít lâu nữa, Ta sẽ khiến trời đất, biển khơi và đất cạn chuyển động. Ta
cũng sẽ khiến mọi dân tộc chuyển động; và Ðấng mọi dân tộc trông đợi sẽ đến:
Ta sẽ làm cho đền thờ đầy vinh quang, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vàng
bạc đều là của Ta, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vinh quang đền thờ sau
hết này sẽ cao trọng hơn vinh quang đền thờ trước, Chúa các đạo binh phán
như vậy: trong nơi này, Ta sẽ ban hoà bình, Chúa các đạo binh phán như vậy".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 42, 1.
2. 3. 4
Ðáp: Hãy cậy trông
Ðức Chúa Trời, vì con còn ca tụng Chúa, Ðấng cứu thể diện và là Thiên Chúa
của con (c. 5bc).
Xướng: 1) Xin Chúa minh xét cho con,
ôi Thiên Chúa, xin bênh vực quyền lợi con đối nghịch với dân vô đạo, xin cứu
con khỏi tay người độc ác, điêu gian! - Ðáp.
2) Vì lạy Chúa, Chúa là sức mạnh con,
cớ chi Chúa bỏ con? Cớ chi con phải sống ngậm ngùi vì bị quân thù áp bức? -
Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân
thật của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung
lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa,
đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ con
sẽ ca ngợi Chúa, ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94,
8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay
các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9,
18-22
"Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa.
Con Người phải chịu nhiều đau khổ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu
nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì Người hỏi các ông
rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông thưa rằng: "Người thì
bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một
trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại". Người lại hỏi các ông rằng: "Phần
các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðấng Kitô
của Thiên Chúa". Và Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà
rằng: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và
các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".
Ðó là lời Chúa.

Suy Nghiệm
Lời Chúa
Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXV
Thường Niên, trùng với bài Phúc Âm của Thánh ký Marco của Chúa Nhật
XXV đầu tuần vừa rồi, cũng như trùng với bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu
cho Thứ Năm Tuần XVIII Thường
Niên.
Cả 3 bài Phúc Âm đều thuật lại sự kiện dân chúng nói
chung và các môn đệ nói riêng cảm nhận về căn tính của Chúa Giêsu: "Phần các
con, các con bảo Thày là ai?". Ở Phúc Âm của
Thánh ký Marco thì câu trả lời của vị đại diện tông đồ đoàn bấy giờ là
Thánh Phêrô đã
thưa ngắn nhất: "Thày là Đức Kitô" (8:29), và ở Phúc Âm của Thánh
ký Mathêu câu trả lời của ngài lại dài nhất: "Thày là Đức Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống" (16:16), còn ở bài Phúc Âm của Thánh ký Luca
hôm nay câu trả lời của ngài vừa phải, hòa hợp giữa 2 câu trả lời ngắn
dài trên đây: "Thầy
là Ðấng Kitô của Thiên Chúa".
Câu trả lời tuyên xưng đức
tin của Thánh Phêrô được 3 Phúc Âm trong bộ Phúc Âm Nhất lãm thuật lại
hơi khác nhau về văn tự, nhưng nội dung vẫn như nhau. Ở chỗ "Thày
là Đức Kitô" (Phúc Âm Thánh Marco), cho dù "Đức
Kitô" ấy "của
Thiên Chúa" (Phúc Âm Thánh Luca) hay là "Con Thiên Chúa hằng sống"
(Phúc Âm Thánh Mathêu). Bởi vì, tự bản chất "Đức Kitô" phải là
Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, bằng không, không phải là "Đức
Kitô".
Tuy nhiên, theo mạc khải
thần linh, "Đức Kitô" này, "Đức Kitô" được chung dân chúng
cảm nhận như là
một vị đại tiên tri,
như Gioan Tẩy Giả hay như Elia, cũng như được riêng các tông đồ tuyên
xưng đúng như căn tính của Người, đúng như sự thật nơi nhân vật lịch
sử Giêsu Nazarét này, lại có một dung nhan lưỡng diện, chẳng những có
mặt phải mà còn có cả mặt trái nữa.
Vậy nếu mặt phải của dung
nhan lưỡng diện này của "Đức Kitô" là gì, nếu không phải là
"Con
Thiên Chúa hằng sống"
(Phúc Âm Thánh Mathêu), thì
mặt trái của dung nhan Người là gì, nếu không phải là Đấng Vượt Qua, như
cả 3 Phúc Âm Nhất lãm này cho thấy, hay trong bài Phúc Âm của Thánh ký
Luca hôm nay thuật lại: "Con
Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật
sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".
Chính
mặt trái nơi dung
nhân của "Đức
Kitô" này đã
khiến cho chung dân Do Thái, đặc biệt là thành phần thày dạy lề luật của
họ là luật sĩ và biệt phái, nhất là Hội Đồng Đầu
Mục Do Thái lãnh đạo
trong dân,
thậm chí bao
gồm cả thành phần
môn đệ thân tín nhất của "Đức Kitô" là các tông đồ, tất cả đều
vấp phạm vì Người, tức không nhận ra Người, đến độ phản nộp Người, chối
bỏ Người, lên án Người, thách đố nhạo báng Người xuống khỏi thập giá để
họ tin Người quả thực là Đấng Thiên Sai (xem
Mathêu 27:39-42; Marco
15:29-32; Luca 23:35).
Thật vậy, làm sao dân
Do Thái nói chung và các tông đồ môn đệ của Người nói riêng có thể nhận
ra Người và chấp nhận Người được, nếu qua lời tiên báo về cuộc vượt qua
của Người lần thứ nhất này trở thành hiện thực, khi mà một "Đức Kitô"
khôn ngoan giảng dạy và quyền năng chữa lành ấy lại có một dung nhan
thật trái khuấy, hoàn toàn bị biến dạng trông vô cùng ghê rợn, đến độ
Người không còn dung nhan hình hài gì nữa (xem Isaia 52:14), thậm chí
Người còn trở nên như sâu bọ đất không còn là người (xem
Thánh Vịnh 22:7), một
sự thật quá ư là phũ phàng và vô cùng bất xứng với danh phận vô cùng uy
nghi cao cả và thiện
hảo của một Đấng Thiên Sai, "Con
Thiên Chúa hằng sống".
Trong đời sống tu đức cũng
thế, theo bản tính và khuynh hướng tự nhiên, không ai trong loài người
nói chung và Kitô hữu nói riêng lại yêu thích đau khổ thử thách, trái
lại, còn tìm cách xa lánh và tiêu diệt nó bao nhiêu có thể. Bởi thế, ai
cũng sung sướng khi được may lành và chúc phúc trong cuộc sống, cũng
như nơi
mọi việc mình làm, nhất là khi được ơn an ủi lúc mới bước
chân vào đường trọn lành hay khi mới tĩnh tâm xong v.v. Thế nhưng
khi đụng độ với đau khổ, tức khi giáp mặt với một "Đức Kitô" khổ
nạn và tử giá đầy thương tích vô cùng khủng khiếp và ghê rợn, mới
biết được cường độ đức tin của chúng
ta mạnh mẽ tới đâu,
mức độ đức cậy của chúng
ta vững chắc tới
chừng nào, và nhiệt độ đức mến của chúng
ta sốt nóng tới
bao nhiêu!
Ngay sau lời tuyên xưng của tông đồ Phêrô bấy giờ, Chúa Kitô đã tỏ cho
các tông đồ biết thâm cung bí sử của Đấng được các vị, qua tông đồ
Phêrô, tuyên xưng, Đấng sẽ Vượt Qua, tức sẽ phải chịu khổ giá rồi mới
tới vinh quang phục sinh thế nào, thì Thiên Chúa, qua Sách Tiên Tri
Khác-gai ở Bài Đọc 1 hôm nay, cũng tiên báo về Vị Thiên Sai của Ngài qua
hình ảnh một Đền Thờ Giêrusalem sau khi bị quân ngoại tàn phá trở thành
vinh quang hơn trước như thế này:
"Còn ít lâu nữa, Ta sẽ khiến trời đất, biển khơi và đất cạn chuyển động.
Ta cũng sẽ khiến mọi dân tộc chuyển động; và Ðấng mọi dân tộc trông đợi
sẽ đến: Ta sẽ làm cho đền thờ đầy vinh quang, Chúa các đạo binh phán như
vậy. Vàng bạc đều là của Ta, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vinh quang
đền thờ sau hết này sẽ cao trọng hơn vinh quang đền thờ trước, Chúa các
đạo binh phán như vậy: trong nơi này, Ta sẽ ban hoà bình, Chúa các đạo
binh phán như vậy".
Thánh Vịnh 42 ở bài Đáp Ca hôm nay có thể nói là chính tâm tình của
Vị Thiên Sai Kitô Cứu Thế, tuy là "Con Thiên Chúa hằng sống"
nhưng, mang thân phận làm người, thân phận gánh tội trần gian, mà Người
cũng hướng về Cha là Đấng đã sai Người mà nguyện xin Cha hãy tỏ vinh
quang của Cha ra qua Người như sau:
1) Xin Chúa minh xét cho con,
ôi Thiên Chúa, xin bênh vực quyền lợi con đối nghịch với dân vô đạo, xin cứu
con khỏi tay người độc ác, điêu gian!
2) Vì lạy Chúa, Chúa là sức mạnh con,
cớ chi Chúa bỏ con? Cớ chi con phải sống ngậm ngùi vì bị quân thù áp bức?
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân
thật của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung
lâu của Ngài.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa,
đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ con
sẽ ca ngợi Chúa, ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con.
Ngày 26-09
Thánh COSMA và Thánh ĐAMIANÔ
tử đạo

Theo truyền thuyết, thánh Cosma và Đamianô là hai anh em sinh
đôi. Sinh tại Ả rập. Các Ngài sớm mồ côi cha. Mẹ các Ngài là một
góa phụ nhân đức, đã không tiếc gì để giáo dục con cái về tri
thức và đạo đức. Bà gửi hai con theo học ở Syria. Tại đây Cosma
và Đamianô nổi tiếng là lương thiện, vô vị lợi và trong trắng.
Vì thế, người ta đã đặt cho hai ngài một danh xưng bằng tiếng Hy
Lạp là “những người nghèo khó.” Với
cách thức đó, các ngài đã hoán cải được nhiều người
trở thành tín hữu Công giáo.
Nhiệt thành với đức tin, các Ngài dự tính học nghề thuốc. Khoa
này vào thời ấy bị coi rẻ. Nhưng các Ngài tin rằng khi chữa lành
thể xác con người các Ngài có thể góp phần vào việc chữa trị tật
bệnh linh hồn. Mỗi khi có dịp, cả hai vị thánh đều kể cho các
bệnh nhân của mình nghe biết về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.
Và vì yêu mến cặp bác sĩ song sinh này, họ đã rất sẵn lòng lắng
nghe hai ngài. Cosma và Đamianô thường mang lại sức khỏe cả phần
xác lẫn phần hồn cho những người đến xin các ngài giúp đỡ.
Thiên Chúa đã chúc lành cho dự tính của các Ngài và ban cho các
Ngài được thông thạo về nghề thuốc. Chữa bệnh hoàn toàn miễn
phí, các Ngài càng ngày càng trở nên danh tiếng vì những cuộc
chữa lành nhờ lời cầu nguyện. Những cuộc chữa lành lạ lùng này
lôi cuốn được nhiều người, kể cả các lương dân đến với các Ngài.
Tuy nhiên, chính vì tiếng tăm lừng lẫy này đã đưa tới cái chết
vì đạo của các Ngài.
Các hoàng đế Điôclêtianô và Maximianô quyết tận diệt Kitô giáo,
đã sai tổng trấn Lysias đến Ege để ép buộc các Kitô hữu phải
dâng hương tế thần. Ai không tuân lệnh sẽ bị sát hại. Các lương
dân tố cáo với quan tổng trấn rằng có hai người rất thạo nghề
thuốc nhưng lại là thù địch chí tử của các thần minh. Nếu họ
tiếp tục hành nghề các đền thờ sẽ trống vắng và cả nước sẽ theo
Kitô giáo hết. Nghe tin này quan tổng trấn truyền bắt giam hai
Ngài. Sau khi bắt các Ngài phải dâng hương tế thần mà không
được, ông ra lệnh hành hạ các Ngài. Nhờ ơn Chúa, hai thánh Cosma
và Đamianô đã nhẫn nại chịu đựng, lại còn tỏ ra hân hoan nữa.
Quan lính trói các Ngài rồi bỏ xuống biển, nhưng các thiên thần
đã đến tháo cởi xiềng xích và cứu các Ngài bình an vô sự.
Chứng kiến phép lạ tỏ tường ấy, thêm nhiều người được ơn trở
lại. Sau khi Cosma và Đamianô qua đời, có nhiều chứng bệnh
được chữa lành qua lời chuyển cầu của các ngài. Đôi khi hai vị
còn hiện ra trong giấc mơ để mách bảo cho bệnh nhân
phương pháp chữa bệnh. Nghe tin này, quan tổng trấn truyền
lập giàn thiêu. Nhưng giữa ngọn lửa cháy bừng, hai thánh nhân
vẫn không hề hấn gì. Cuối cùng quan tổng trấn ra lệnh xử trảm.
Hai thánh Cosma và Đamianô khẩn khoản nài xin Chúa thương nhận
lễ dâng của các Ngài và cầu xin Chúa tha tội cho những kẻ đã
hành hạ mình. Sau những nhát chém đầu tiên, đầu các Ngài lìa xác
và nhận phúc tử vì đạo. Hôm ấy là ngày 26-09-297.
Danh tiếng của hai thánh Cosma và Đamianô lan rộng khắp Giáo hội
vì những cuộc chữa lành bệnh các Ngài đã thực hiện. Hoàng đế
Justinô I khuyến khích lòng sùng kính hai thánh nhân. Một nguyện
đường được xây dựng ở Aege miền Cilicia để ghi nhớ nơi các Ngài
chịu chết vì đạo. Tại Roma, Đức Thánh Cha Symmachô (498 - 514)
đã cho xây nguyện đường kính hai thánh, và Đức Thánh Cha Felix
IV (526 - 530) đã cho xây một đại giáo đường kính các Ngài. Tại
Brazil, Cosma và Đamianô được coi là người bảo vệ trẻ em, vào
ngày lễ kính, tín hữu Brazil tặng các trẻ em những túi kẹo có in
hình các ngài. Cùng
với thánh Luca, hai thánh Cosma và Đamianô được đặt làm thánh
bổn mạng các y sĩ và các nhà giải phẫu.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ websites của TGP Sài Gòn,
Dòng Tên và CGVDT
Dẫn Nhập
(Đaminh
Maria cao tấn tĩnh)
Đọc hay nghe truyện 2 Thánh Cosma và Đamianô hôm nay, chúng ta
thấy được rằng bất cứ dân nước nào trên thế giới trên thế giới
đều có thể nên thánh, đều có người tốt, dù chủng tộc của họ có
thế nào chăng nữa. Theo lịch sử của Giáo Hội, thì Phi Châu, một
châu lục vốn bị coi là chậm tiến nhất thế giới, thua cả Á Châu,
thế mà ngay từ đầu đã có những vị thánh đặc biệt và nổi tiếng,
như Thánh Giám Mục Cypriano thế kỷ thứ 3, hay Thánh Âu Quốc
Tinh, Thánh Monica thế kỷ thứ 5 v.v.
Kể từ sau khi Kitô giáo được chính Con Thiên Chúa xuống thế làm
người thành lập, tức là kể từ sau khi "Lời đã hóa thành nhục
thể" (Gioan 1:14) là Chúa Giêsu Kitô, "ánh sáng chân thật
chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:12),
thì kể như không còn một đạo giáo nào khác trên thế giới có vẻ
mê tín dị đoan và đa thần xuất hiện nữa, như trước thời Kitô
giáo này. Tuy nhiên, vào thế kỷ thứ 7, một tôn giáo hoàn toàn
mới mẻ đã xuất hiện, mang tính cách pha trộn giữa Do Thái giáo
và Kitô giáo, cũng tôn thờ một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất
như Do Thái giáo và Kitô giáo, tuy nhiên, lại qua một vị trung
gian khác, đó là vị đại tiên tri Mohammed của họ, hơn là Moisen
của Do Thái giáo, hay Đức Giêsu Kitô của Kitô giáo.
Thứ đạo mới này được gọi là Hồi giáo (Islam), và tín đồ của tôn
giáo này được gọi là Muslim, có nghĩa là thành phần thuận phục
Thiên Chúa. Vị giáo tổ Mohammed của họ được cho là đã đọc toàn
bộ Thánh Kinh Kitô giáo, (kỹ đến đâu thì không biết), nên đã
biết lịch sử dân Do Thái trong Cựu Ước, và cả Chúa Giêsu lẫn Đức
Maria cùng Tổng Thần Gabriel trong Tân Ước; nhưng ông chỉ công
nhận tổ phụ Abraham, vì có liên quan đến cả dân Do Thái (từ
Isaac là con thứ của vị tổ phụ) lẫn Ả Rập (liên quan đến người
con Ismael được sinh ra theo xác thịt từ nữ đầy tớ Ai Cập, tỳ nữ
của Sara, vợ của tổ phụ Abraham). Còn Chúa Giêsu cũng chỉ là vị
tiên tri ngang hàng với ông, thậm chí còn thua ông.
Ông đã viết Kinh Koran, được tín đồ coi như "thánh kinh" của họ,
vị vị đại tiên tri giáo tổ của họ được Thần Gabiên mạc khải cho,
trong đó, ông chủ trương tất cả những gì hợp với Cựu Ước hơn là
Tân Ước, chẳng hạn, 2 điều điển hình nhất là chủ trương đa thê
của Cựu Ước, hơn là đơn thê của Tân Ước, và chủ trương tính cách
có vẻ bạo lực của Cựu Ước, vì ông thấy Vị Thiên Chúa của Cựu Ước
rất công thẳng, động một tí là trừng phạt nghiêm minh, hơn là
lòng nhân từ của Cha Trên Trời là Đấng Xót Thương (xem Luca
6:36) nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô trong Tân Ước v.v. Từ
đầu thế kỷ 21, thế giới đã liên tục xẩy ra các cuộc khủng bố tự
sát gây ra bởi những con người hay những nhóm khủng bố quốc tế,
nổi tiếng nhất là Al-Queda, một tổ chức đã công khai tấn công
khủng bố Hoa Kỳ sáng ngày 11/9/2001, và từ năm 2014, một nhóm
khủng bố khác xuất hiện ở Iraq, được gọi là ISIS, còn kinh khủng
dữ tợn hơn nữa, đã gây ra biết bao chết chóc và kinh hoàng trên
khắp thế giới, nhất là thế giới Tây Phương, với các cuộc khủng
bố đã xẩy ra ở Pháp, Anh, Tây Ban Nha v.v., và ngay cả trong
vùng thế giới riêng của họ, bao gồm cả Iraq và Syria, đến độ họ
đã làm cho dân chúng phải thoát thân, tràn sang Âu Châu qua ngả
Thổ Nhĩ Kỳ, khiến Âu Châu vẫn còn chới với tới bây giờ....
Hôm nay, nhân lễ hai vị thánh người Ả Rập, chúng ta cũng nên đọc
thêm về một người Ả Rập khác, một người Ả Rập Hồi giáo nhưng rất
thành tâm và rất can đảm, dám lên tiếng kêu gọi và nhắc nhở
chính đồng đạo Hồi giáo của mình, về chính đạo giáo của mình,
một thứ đạo, như chúng ta thấy, ngay từ ban đầu, ngay từ thời vị
giáo tổ của họ, đã chủ trương canh tân xã hội bằng vũ lực, bằng
các cuộc thánh chiến, thậm chí bằng cả các cuộc tấn công khủng
bố, bất chấp là ai, kể cả chính đồng đạo của họ, và tôn giáo hóa
chính trị, bắt mọi người không phải Hồi giáo, đều bị họ cho là
bọn bất trung infidels, nghĩa là không thuận phục Thiên Chúa như
họ, thành phần mang danh Muslim với ý nghĩa như thế, phải cải
đạo trở về thuận phục vị Thiên Chúa Allah Vĩ Đại chân thực duy
nhất của Hồi giáo, qua Mohammed là vị đại tiên tri trung gian
đích thực duy nhất của Ngài. Tạ ơn Chúa còn cho thế giới thấy có
những tia sáng phát ra từ một thứ thế giới đã từng liên tục ôm
mộng thống chiếm Âu Châu, và đã liên tục bách hại cùng sát hại
Kitô giáo chưa từng thấy như hiện nay.
"Từ đáy lòng của một người Hồi giáo chân thực"
Tác giả là bác sĩ Tawfik Hamid, một nhà thông thái Ai cập,
với bằng cấp Y sĩ nội khoa và bằng Cao học tâm lý nhận thức
và kỷ thuật giáo dục.

Tôi được sinh ra là người Hồi Giáo và đã sống suốt cuộc đời như một tín
đồ Hồi Giáo. Sau những cuộc tấn công khủng bố man rợ khắp nơi trên thế
giới của hành tinh này qua bàn tay của những anh em hồi giáo của tôi, và
sau quá nhiều hành vi bạo lực của những tín đồ hồi giáo ở nhiều nơi trên
thế giới, tôi - một người hồi giáo và là một con người, cảm thấy có
trách nhiệm nói lên và kể ra sự thật để bảo vệ cho thế giới, kể cả người
hồi giáo, tránh khỏi một tai họa có thể thấy trước và một trận chiến
giữa các nên văn minh.
Tôi phải thừa nhận rằng giáo huấn hiện hành của hồi giáo kích động bạo
lực và sự thù ghét đối với những người không phải là tín đồ hồi giáo.
Chúng ta, những người
hồi giáo là những kẻ cần phải thay đổi.
Cho đến nay, chúng ta vẫn chấp nhận chế độ đa thê, sự bạo hành thể xác
của bọn đàn ông đánh đập người phụ nữ và sự tử hình đối với những người
bỏ đạo hồi để qua các tôn giáo khác.
Chúng ta chưa từng bao giờ có được một lập trường rõ ràng và vững chắc
chống lại quan niệm về nạn nô lệ hoặc chiến tranh, chống lại phương thức
truyền bá đạo chúng ta bằng cách chế ngự những kẻ khác vào đạo hồi và
buộc họ phải trả một loại thuế nhục nhã gọi là Jizia. Chúng ta đòi người
khác phải tôn trọng tôn giáo của chúng ta, trong khi chúng ta lúc nào
cũng chưởi lớn (bằng tiếng Ả Rập) những kẻ ngoại đạo trong những buổi
cầu nguyện vào ngày thứ sáu trong các thánh thất hồi giáo.
Chúng ta phát ra thông điệp nào cho con cháu của chúng ta khi chúng ta
gọi những người Do Thái là “đồ
hậu sinh của loài heo khỉ” ? (dù rằng người Ả Rập và người
Do Thái đều là hậu duệ của ông Abraham) ! Phải chăng đó là một thông
điệp của tình thương và hòa bình, hay là một thông điệp của sự thù hận ?
Tôi đã từng đi vào nhà thờ và các hội đường ở đó họ đang cầu nguyện cho
những người hồi giáo. Trong khi đó thì mọi lúc chúng ta đều nguyền rủa
họ, và dạy cho những thế hệ con cháu chúng ta phải gọi họ là “bọn
bất trung” và thù ghét họ.
Chúng ta lập tức nhảy cửng lên theo “phản xạ của đầu gối” một cách tự
động để bào chữa cho Tiên Tri Mohammed khi có ai đó tố giác ông ta là kẻ
thích ấu dâm trong khi chúng ta lại hãnh diện về câu chuyện trong sách
đạo hồi của chúng ta kể rằng ông ấy đã cưới một bé gái bảy tuổi (tên là
Aisha) làm vợ khi ông ta đã ngoài 50 tuổi.

Tôi cảm thấy buồn khi nói rằng nhiều người, nếu không phải là hầu hết
chúng ta, đều hân hoan trong vui sướng sau vụ 9/11 và sau nhiều vụ tấn
công khủng bố khác. Trước mặt truyền thông thì người Hồi giáo tố giác
những vụ tấn công đó, nhưng chúng ta lại khoan dung cho những kẻ khủng
bố hồi giáo đó và có thiện cảm với lý tưởng của họ. Đến nay thì những vị
đỉnh cao “lừng danh” trong giáo quyền đã không hề ban bố một Fatwa hay
là một thông báo tôn giáo nào để tuyên bố rằng Bin Laden là một tên lạc
đạo, trong khi đó thì nhà văn Rushdie lại bị tuyên bố là tên lạc đạo cần
phải giết chết chiếu theo luật Sharia của hồi giáo chỉ vì ông ta viết ra
một cuốn sách chỉ trích đạo hồi.

Những người hồi giáo đã biểu tình để đòi quyền được đạo đức hơn là những
gì họ đã có tại Pháp, biểu tình đó là để chống lại lịnh cấm choàng khăn
trùm đầu Hejab, nhưng chúng ta đã không biểu tình với một niềm đam mê
như thế đối với một số quá lớn những vụ ám sát khủng bố. Chính sự im
lặng tuyệt đối của chúng ta đối với những kẻ khủng bố đã khiến chúng có
thêm năng lực để tiếp tục thực hiện những hành vi xấu xa của chúng.
Chúng ta, những người hồi giáo phải chấm dứt mang cái nguyên nhân gây ra
các khó khăn của chúng ta gán lên đầu người khác hoặc lên sự xung đột
giữa Do Thái và Palestine. Đây là một vấn đề lương thiện khi xác nhận
rằng nước Do Thái là ánh sáng duy nhất của sự dân chủ, của văn minh, của
nhân quyền trong khối các quốc gia Trung Đông.
Chúng ta đã xua đuổi những người Do Thái ra khỏi hầu hết các xứ ả rập mà
không chút bồi thường hoặc thương xót để biến họ thành những “người Do
Thái vô quê hương” trong khi đó thì nước Do Thái đã chấp nhận cho hơn
một triệu người ả rập được sống trong lòng của họ, xem họ như những công
dân Do Thái để họ được hưởng đầy đủ quyền lợi của con người.
Ở nước Do Thái, những phụ nữ ả rập không thể bị đánh đập một cách hợp
pháp bởi bọn đàn ông, và mọi người đều có thể thay đổi niềm tin của họ
mà không sợ bị kết án tử hình bởi luật “lạc đạo” của hồi giáo, trong khi
đó trong thế giới của hồi giáo, không một ai được hưởng một cái gì trong
những quyền lợi đó.
Tôi đồng ý là những người dân Palestine đang đau khổ, nhưng họ đau khổ
là vì những kẽ lãnh đạo của họ hư hỏng chứ không phải vì Do Thái.
Thật hiếm thấy những người Ả Rập đang sống tại Do Thái bỏ ra đi để về
sống trong những nước ả rập. Ngược lại chúng tôi thấy hàng ngàn người
dân Palestine vui sướng đi lao động tại nước Do Thái là “kẻ thù của họ”.
Nếu nước Do Thái đối xử tàn tệ với người Ả Rập như có kẻ đã rêu rao, thì
hẳn chúng ta sẽ thấy được một hiện tượng trái ngược lại.
Chúng ta, những người Hồi Giáo, cần phải gánh vác những nan đề của chúng
ta và đối mặt với chúng. Chỉ có lúc đó chúng ta mới có thể giải quyết
được vấn nạn để bắt đầu một kỷ nguyên mới sống trong hòa hợp với tình
nhân loại của con người.
Những vị lãnh đạo tôn giáo phải chứng minh một lập trường rõ ràng và
vững chắc chống lại việc đa thê, ấu dâm, nô lệ, kết án tử hình đối với
những kẻ bỏ đạo Hồi qua các tôn giáo khác, họ phải kết án những sự bạo
hành thể xác của bọn đàn ông lên phụ nữ, và khuynh hướng tuyên chiến với
những kẻ ngoại đạo để bành trướng Hồi Giáo.
Khi đó, và chỉ có khi đó thì chúng ta mới có quyền đòi hỏi những kẻ khác
tôn trọng tôn giáo của chúng ta. Thời điểm đã đến để chúng ta chấm dứt
sự giả đạo đức của chúng ta và công khai nói : “Chúng tôi, những người
Hồi Giáo phải thay đổi.”
Tawfik Hamid
Chúng ta hãy tiếp tục cầu cho họ, cũng như cho dân Chúa Do Thái, để cuối
cùng tất cả được ứng nghiệm những gì đã được chính Chúa Kitô đã tiên
báo: "Sẽ chỉ có một đàn chiên theo một chủ chiên" (Gioan
10:16).
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Dcr
2, 1-5. 10-11a
"Này đây Ta đến và ngự giữa
ngươi".
Trích sách Tiên tri Dacaria.
Tôi đã ngước mắt lên và đã nhìn
thấy: Kìa, có người cầm dây đo trong tay. Tôi đã hỏi rằng: "Ông đi đâu?"
Người ấy đáp: "Tôi đi đo Giêrusalem, coi nó rộng bao nhiêu và dài bao
nhiêu". Và đây vị thiên thần đang nói chuyện với tôi ra đi, một thiên
thần khác đến đón người và nói: "Hãy chạy lại nói với đứa trẻ ấy rằng:
Giêrusalem là nơi trú ngụ không có tường thành, vì trong đó có đông dân
cư và súc vật. Chúa phán: "Phần Ta, Ta sẽ nên tường thành lửa đỏ chung
quanh nó, và Ta sẽ tỏ vinh quang Ta giữa nó". Chúa lại phán: "Hỡi thiếu
nữ Sion, hãy ca tụng và hân hoan: vì này đây Ta đến ngự giữa ngươi.
Trong ngày ấy, sẽ có nhiều dân tộc quy phục Chúa, họ sẽ là dân Ta, và Ta
sẽ ngự giữa ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Gr 31,
10. 11-12ab. 13
Ðáp: Chúa sẽ
gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).
Xướng: 1) Hỡi các dân tộc, hãy
nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng:
Ðấng đã phân tán Israel sẽ quy tụ nó lại, và sẽ giữ nó như mục tử chăn
dắt đoàn chiên mình. - Ðáp.
2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp,
giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca
hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người. - Ðáp.
3) Bấy giờ người trinh nữ sẽ hân
hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ
biến đổi tang chế của chúng thành niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho
chúng hết đau khổ. - Ðáp.
Alleluia: Tv
114, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung
thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9,
44b-45
"Con Người sẽ phải bị nộp. Các
ông không đám hỏi Người về lời ấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Ðang lúc mọi người thán phục về
tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng:
"Phần các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ
phải bị nộp vào tay người đời". Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó
còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông
không dám hỏi Người về lời ấy.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Bài Phúc Âm cho Thứ
Bảy Tuần XXV Thường Niên hôm
nay về hình
thức cũng
không tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua ở cùng đoạn 9 của Phúc Âm Thánh ký
Luca,
nhưng về nội dung lại có tính cách liên tục và đồng
nhất.
Thật vậy, Giáo Hội đã không chọn đọc đoạn Phúc Âm về điều kiện làm
môn đệ của Chúa Kitô (9:23-27), về biến cố biến hình trên núi
(9:28-36), và về
sự kiện Người trừ quỉ
cho một bé trai (9:37-43a), tương
tự như Giáo Hội đã bỏ 2 trong 3 biến cố này ở Phúc Âm Thánh ký Marco
trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Thường Niên đầu tuần này, mà chỉ
lấy đoạn Phúc Âm về lời Chúa Giêsu tiên báo lần hai cuộc vượt qua
của Người.
Đúng thế, bài Phúc Âm
hôm nay của Thánh ký Luca là bài Phúc Âm ghi lại lời Chúa Giêsu tiên
báo lần thứ hai về cuộc vượt qua của Người:
"Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc
Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: 'Phần các con,
các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp
vào tay người đời'. Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị
che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không
dám hỏi Người về lời ấy".
Như đã cảm nhận về dung
nhan lưỡng diện của
"Đức Kitô" trong bài
Phúc Âm hôm qua, một dung nhan có bộ mặt
trái rất ư là
kinh hoàng khiến cho chính vị trưởng tông đồ đoàn là Thánh Phêrô
cũng phải vấp phạm. Bởi thế, sau khi tiết lộ về mầu nhiệm vô cùng bí
mật này, Người chỉ
dám tiết
lộ sau khi đã
thấy được đức tin thật chính xác của
thành phần môn đệ tông đồ của Người, và
Người cũng đã phải tìm cách củng cố cho đức tin của các vị nữa, bằng
cách Người đã tỏ vinh quang của Người ra cho các vị một cách rạng
ngời, qua việc Người biến hình trên núi cao, ám chỉ cuộc phục sinh
khải hoàn của Người, như cả 3 Phúc Âm Nhất lãm đều thuật lại sau lần
tiết lộ đầu tiên ấy.
Trong bài Phúc Âm
của Thánh ký Luca hôm nay cũng thế, trước khi Người báo trước cuộc
vượt qua của Người lần thứ hai, một mầu nhiệm chưa thể nào thấu hiểu
và chấp nhận được đối với trí khôn phàm nhân của các tông đồ, cũng
như nhất là đối với tâm thức của các vị về một Đấng Thiên
Sai đầy quyền năng giải phóng vẫn thường thấy trong Lịch sử Cứu Độ
của Dân Do Thái, Người
cũng phải lợi
dụng: "Ðang
lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người
phán cùng các môn đệ..." về mầu
nhiệm ấy, một mầu nhiệm quan trọng đến độ Người đã nhấn mạnh với các
tông đồ rằng: "các
con hãy ghi vào lòng những lời này...".
Phần các tông đồ,
thành phần đã từ bỏ mọi sự mà theo Người, không biết có phải hoàn
toàn vì lý do trần tục hay chăng, ở chỗ các vị hy
vọng sau
này có
thể được vẻ vang bởi các vị đã trở thành chân tay thân
tín của chính Đấng Thiên Sai đầy uy quyền của
Thiên Chúa, như
các vị đã có lần tranh nhau ngôi thứ, được Thánh ký Marco thuật lại
trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Thường Niên đầu tuần này? Cho dù
không hoàn toàn như thế, nhưng đứng trước một mầu nhiệm siêu
việt ấy, Phúc Âm hôm nay đã cho biết: "các
ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các ông không
lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy".
Phụng Vụ Lời Chúa
nói chung và các bài Phúc Âm nói riêng (nhất là hôm qua và hôm
nay đều về lời tiên báo cuộc vượt qua liền nhau) cho ngày thường
trong Tuần XXV Thường Niên này, từ Thứ Hai tới hôm nay cuối tuần,
dường như đều hướng
về chung nhân
tính của Chúa Kitô và riêng thân xác của Người.
Nếu Đền Thánh Giêrusalem là biệu hiệu ám chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa
giữa dân của Ngài thì Thành Giêrusalem là biểu hiệu ám chỉ chính dân của
Ngài, một thành phần dân mà Ngài muốn ở với họ và ngự giữa họ, bằng việc
Ngài liên tục tỏ mình ra cho họ qua giòng lịch sử cứu độ của họ, cũng như
bằng việc họ nhận biết Ngài. Chính vì Chúa Kitô Thiên Sai Cứu Thế đến là "để
hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28) mà Thành Giêrusalem
ám chỉ dân Chúa nói riêng và những ai tin Chúa Kitô nói chung mới cần phải
được cân đo kích thước.
Đúng thế, Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái và đồng thời cũng
chính vì thế còn là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại nữa. Do đó nên vì
Thành Giêrusalem ám chỉ tất cả thành phần dân được cứu chuộc tin vào Chúa
Kitô, chứ không phải chỉ có dân Do Thái, mà thành này mới "không có
tường thành", trái lại, theo lời Chúa phán trước trong cùng Bài Đọc 1
hôm nay:
"Trong ngày ấy, sẽ có nhiều dân tộc quy phục Chúa, họ sẽ là dân Ta,
và Ta sẽ ngự giữa ngươi".
Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Thánh Vịnh 31, bao gồm cả 2 vai trò của
Chúa Giêsu Kitô: vai trò Thiên Sai đối với dân Do Thái lẫn vai trò Cứu Thế
đối với toàn thể nhân loại, một Bài Đáp Ca chất chứa lời kêu gọi liên quan
đến dân ngoại: "Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa
trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: Ðấng đã phân tán Israel sẽ quy tụ nó lại,
và sẽ giữ nó như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình" (câu xướng 1).
fr.aleteia.org,
2017-04-24
Chúng ta biết Thánh Dòng Capuxinô của San Giovanni Rotondo không tránh
được thử thách nhưng ngài cũng có rất nhiều ơn lớn đền bù lại. Tuy nhiên
ít ai biết tính hài hước của ngài!
San Giovanni Rotondo là một thành phố của bang Foggia trong vùng
Pouilles miền Nam nước Ý. Cha Thánh Pio đã sống ở đây từ năm 1916 cho
đến khi ngài qua đời năm 1968. Trước đây San Giovanni Rotondo là thành
phố sống về chăn nuôi, trồng trọt nhưng bây giờ San Giovanni Rotondo là
thành phố du lịch trù phú nhờ khách đi hành hương về thăm Cha Pio kể từ
những năm 1930.
Đi đứng cẩn
thận nghe!
Một ông đi đến tận San Giovanni Rotondo để gặp Cha Pio, nhưng có rất
đông người ở đó nên ông phải đi về nhà mà không gặp được ngài. Trong lúc
ông đi xa tu viện, thì ông ngữi thấy một mùi hương từ các thánh tích của
cha và ông cảm thấy mình được an ủi.
Vài tháng sau, khi ông đi qua một vùng núi, ông cũng ngữi thấy một mùi
hương như vậy. Ông ngừng lại và ông ngây ngất trong một lúc khi ngữi
thấy mùi hương thơm ngát. Khi sực tỉnh lại thì ông thấy mình ở bên bờ
vực thẳm, không có mùi hương của Cha Pio thì e ông đã tiếp tục đi tới.
Ông quyết định đi về San Giovanni Rotondo ngay lập tức để cám ơn Cha
Pio. Khi ông đến tu viện, Cha Pio từ trước đến giờ chưa bao giờ gặp ông,
ngài gọi ông lại vừa cười vừa nói: “Con của ta, lần sau đi đứng cẩn thận
nghe!”.
Dưới tấm nệm
Một phụ nữ bị bệnh nhức đầu kinh khủng đến mức bà quyết định để một tấm
hình của Cha Pio dưới gối, hy vọng cơn đau sẽ hết. Sau nhiều tuần, cơn
nhức đầu vẫn còn; tính khí nóng nảy của người Ý làm bà than lên: “Này
Cha Pio, cha không làm cho con hết bệnh, con phạt cha, con để cha dưới
tấm nệm”.
Vài tháng sau bà đến San Giovanni Rotondo để xưng tội với Cha Pio. Bà
vừa quỳ vào tòa giải tội thì cha nhìn bà chăm chăm, cha đóng cánh cửa
tòa giải tội một cái rầm. Bà hoảng người, bà không hiểu tại sao cha phản
ứng như vậy, bà không thốt nên lời. Vài phút sau, cánh cửa tòa giải tội
mở ra, Cha Pio vừa cười vừa nói với bà: “Đúng là con không hài lòng phải
không? Để thế cho con biết, cha cũng không hài lòng khi con để cha dưới
nệm!”.
Các lời
khuyên của Cha Pio
Một linh mục Argentina nghe tiếng các lời khuyên của Cha Pio, linh mục
quyết định đi đến tận Ý với mục đích duy nhất là xin lời khuyên quý báu
của ngài để ngài hướng dẫn mình trong đời sống thiêng liêng. Khi đến
nơi, linh mục đi xưng tội với cha và về nhà mà không nhận một lời khuyên
nào.
Về lại Argentina, linh mục rất thất vọng, cha thấy có nhu cầu phải nói
cho mọi người biết. Linh mục lấy làm tiếc: “Tôi không hiểu tại sao Cha
Pio không nói gì với tôi. Vậy mà tôi đi từ Argentina qua Ý để chỉ muốn
nghe lời khuyên của ngài… Cha Pio đọc được trong tư tưởng người khác,
ngài biết là tôi đến chỉ để xin ngài lời khuyên”. vv và vv…
Cha than phiền đến mức mà các giáo dân bắt đầu hỏi cha: “Cha, cha có
chắc là Cha Pio không nói gì không? Cha Pio có làm cử chỉ gì khác thường
không?”.
Vị linh mục từ từ suy nghĩ và cuối cùng cha nhớ lại Cha Pio có làm một
cử chỉ hơi là lạ. Cha giải thích cho các giáo dân: “Ngài ban phép lành
cuối cùng cho tôi, ngài làm dấu thánh giá cực kỳ chậm, đến mức tôi nghĩ,
e chẳng khi nào xong?” Nghe xong, các giáo dân kêu lên: “Vậy là Cha Pio
đã cho cha lời khuyên! Cha, cha ban phép lành quá nhanh, giống như cha
làm nguệch ngoạc cho xong chứ không phải làm dấu thánh gia!ù”. Nghe
xong, vị linh mục vui mừng vì cuối cùng cha biết được lời khuyên đặc
biệt của Cha Pio.
Người giữ nhà
và các tên trộm
Các tên trộm hoành hành ở một khu phố Rôma làm cho một người dân ở đó
không đi thăm Cha Pio được. Nhưng cuối cùng ông đi, ông khóa cửa kỹ và
“ra điều kiện” cho Cha Pio: “Cha, bây giờ con đi thăm cha nhưng cha giữ
nhà cho con…”.
Khi đến San Giovanni Rotondo, ông xưng tội với Cha Pio. Ngày hôm sau,
ông đến chào cha để đi về, cha trách ông: “Con, con còn ở đây à? Cha
đang toát mồ hôi giữ cửa cho con!”.
Ông đi về nhà ngay lập tức, lòng chưa hiểu ngài muốn nói gì với mình. Về
đến nhà, ông nhận ra bọn trộm đã đến, chúng đã bẻ ống khóa nhưng trong
nhà không mất gì hết”.
Trẻ con và
kẹo bánh
Một phụ nữ đã lâu không đến thăm Cha Pio, bà khổ sở nghĩ cha đã quên
mình. Như thường lệ, một buổi sáng nọ, sau khi phó giao con gái mình cho
cha che chở, bà đi lễ. Khi về nhà, bà thấy con mình đang ăn kẹo
ca-ra-men. Ngạc nhiên bà hỏi con “ai cho con kẹo?”. Đứa bé vui vẻ chỉ
hình Cha Pio treo bên trên cái “cũi em bé” mà mỗi lần bà đi vắng chốc
lát bà để con vào đó. Nghe con kể, bà mẹ không lấy làm quan trọng gì.
Sau một thời gian, lại lo không biết Cha Pio đã quên mình chưa, bà đến
thăm cha. Sau khi xưng tội, bà hôn tay cha. Khi đó cha vừa cười vừa hỏi
bà: “Con, con cũng muốn cây kẹo ca-ra-men phải không?”.
Một người sói
tóc
Một người bị rụng tóc nhưng dứt khoát không muốn mình bị sói. Một ngày
nọ ông đến gặp Cha Pio và xin cha: “Xin cha cầu nguyện để tóc của con
đừng rụng nữa”.
Chính lúc đó thì Cha Pio đi xuống cầu thang. Ông lo lắng nhìn cha mong
cha trả lời cho mình. Khi đến gần cha, ông thấy nét mặt của cha thay
đổi, và với một cái nhìn như đề nghị một cái gì với ông, ngài chỉ một
người đang ở sau lưng ngài, ngài nói với ông: “Con giới thiệu con với
ông ấy đi”. Ông quay lại thì thấy một linh mục sói tóc hoàn toàn, cái
đầu láng bóng như tấm gương. Và mọi người cười ngất.
Ném giày
Một giáo dân của Cha Pio bị đau răng khủng khiếp, đau đến mức không chịu
nổi, vợ của ông đề nghị: “Tại sao anh không cầu nguyện với Cha Pio để
cha chữa cho bớt đau? Đây, hình của cha đây, anh cầu nguyện với cha đi”.
Ông chồng giận dữ la hét: “Đau răng như thế này, em không có thuốc men
gì mà bắt anh cầu nguyện hả?”. Ông cầm chiếc giày ném hết sức mình vào
hình của Cha Pio.
Vài tháng sau bà vợ thuyết phục được chồng đi xưng tội với Cha Pio ở San
Giovanni Rotondo. Ông quỳ trong tòa giải tội và ông đọc một dọc các tội
của mình. Nghe ông đọc xong, cha Pio nói với ông: “Có tội nào con quên
không?”. “Dạ hết rồi!”. “Hết thật rồi à? Vậy còn tội con ném chiếc
giày ngay mặt cha thì sao?!”
Một lời chào
“lớn thật lớn!”
Cô con gái thiêng liêng của Cha Pio ở lại San Giovanni Rotondo ba tuần
với mục đích duy nhất là được xưng tội với cha. Không xưng được, cô chưa
muốn về lại Thụy Sĩ vì cô quá buồn. Bỗng cô nhớ, mỗi ngày cha thường ra
cửa sổ ở căn phòng nhỏ của ngài để ban phép lành.
Lòng đầy hy vọng, cô nghĩ, ít nhất là mình có thể nhận phép lành của cha
trước khi về. Cô đi nhanh về phía tu viện. Trên đường đi, cô mong: “Mong
sao cha chào cho riêng mình một lời chào “lớn thật lớn”. Khi đến tu
viện, cô chỉ thấy còn vài người rải rác. Cha Pio đã ban phép lành. Cha
đã chào tất cả mọi người, cha dùng khăn tay trắng phất phất để chào và
cha đã về phòng nghỉ ngơi.
Một nhóm phụ nữ lần hạt mân côi ở đó cho cô biết như vậy, cô đừng hoài
công chờ. Cô không thất vọng, cô quỳ xuống cùng với các bà khác, trong
lòng thầm thì: “Không sao, con chỉ mong có được lời chào “lớn thật lớn”
cha dành riêng cho con. Vài phút sau, cửa sổ căn phòng Cha Pio mở ra và
cha ban phép lành lại, cha dùng tấm khăn trải giường phất phất thay vì
dùng khăn tay trắng như thường lệ. Ai cũng cười, một bà còn nói: “Nhìn
kìa, hôm nay cha điên rồi!”.
Người con gái thiêng liêng của cha cảm động, nước mắt tuôn trào vì cô
biết, đó là lời chào “lớn thật lớn” mà cô đã xin cha chào cô.
Đứa con trai
và các viên kẹo
Từ lâu đứa con trai của một ông đội dân vệ mơ có chiếc xe lửa bằng điện.
Ngày Lễ Ba Vua sắp đến, em đến trước ảnh Cha Pio treo trên tường hứa:
“Cha Pio nghe con nè, nếu cha làm sao cho con có một chiếc xe lửa bằng
điện, con sẽ cho cha một túi kẹo”.
Ngày Lễ Ba Vua đến, đứa con trai nhận được chiếc xe lửa em mong chờ lâu
nay. Sau đó, em theo dì đến Giovanni Rotondo thăm cha. Cha Pio âu yếm
cười hỏi em: “Còn túi kẹo của cha đâu?”.
Vì hai trái
vả!
Một ngày nọ, một bà rất sùng kính Cha Pio đã ăn quá hai trái vả. Bị dày
vò vì nghĩ mình tham ăn, bà hứa là sẽ đi xưng tội với cha khi có dịp.
Và dịp may đến, bà đi San Giovanni Rotondo. Sau khi xưng tội xong, bà lo
lắng xưng thêm: “Thưa cha, con có cảm tưởng con đã quên một tội và có
thể đây là một tội khá khá nặng”. Cha trả lời: “Con đừng lo, hai trái vả
thì chẳng có gì là nặng!”.
Con nghĩ là
cha sẽ lấy nàng sao?
Cha Pio cử hành một thánh lễ hôn phối. Khi đến lúc quan trọng của buổi
lễ, vì quá xúc động, chú rể không tài nào nói “vâng” theo nghi thức
được.
Cha Pio chờ một lúc, rồi cha cười khuyến khích anh, nhưng cố gắng bằng
mấy anh cũng không nói được, cuối cùng cha la lên: “Con muốn nói “vâng”
hay con nghĩ chính cha sẽ lấy… cô dâu?!”.
Cha, xin cha
cầu nguyện cho các con còn nhỏ của con
Một bà rất mộ đạo, bà không cách nào ngủ được nếu không giao phó tất cả
con mình cho Cha Pio. Chiều nào bà cũng quỳ trước ảnh của Cha Pio và
xin: “Cha Pio, con xin giao phó các con của con cho cha”.
Trong ba năm trường, tối nào cũng lặp lại một lời cầu nguyện này, cuối
cùng bà đến được San Giovanni Rotondo. Khi bà gặp cha, bà nói: “Thưa
cha, con xin giao phó các con của con cho cha”. Cha trả lời: “Con của
cha, cha biết. Đã ba năm nay, ngày nào con cũng lặp lại cùng một chuyện,
mỗi ngày!”.
Còn con thì
con cười chế nhạo phải không?
Một phụ nữ ngưỡng mộ Cha Pio, mỗi ngày bà đều có thói quen quỳ cầu
nguyện trước ảnh Cha Pio để xin cha ban phép lành cho mình. Chồng của bà
cũng rất ngưỡng mộ cha, nhưng ông không thể nào nhịn cười vì ông thấy vợ
mình làm quá. Tối nào cũng lặp lại cảnh này giữa hai vợ chồng.
Có dịp hai vợ chồng cùng đi thăm Cha Pio. Ông chồng nói với cha: “Thưa
cha, tối nào vợ con cũng xin cha ban phép lành”, Cha Pio trả lời: “Còn
con thì con cười chế nhạo phải không?”.
Marta An Nguyễn dịch
San Giovanni Rotondo là một thành
phố của bang Foggia trong vùng Pouilles miền Nam nước Ý. Cha Thánh Pio
đã sống ở đây từ năm 1916 cho đến khi ngài qua đời năm 1968. Trước đây
San Giovanni Rotondo là thành phố sống về chăn nuôi, trồng trọt nhưng
bây giờ San Giovanni Rotondo là thành phố du lịch trù phú nhờ khách đi
hành hương về thăm Cha Pio kể từ những năm 1930.


