SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

2015

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXV Thường Niên 

Năm C (Chúa nhật)  Năm Lẻ (Trong tuần)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Am 8, 4-7

"Chống lại những kẻ lấy tiền mua người nghèo".

Trích sách Tiên tri Amos.

Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp kẻ nghèo khó, và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong cả nước. Các ngươi bảo: "Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát". Vì Giacóp kiêu căng, Chúa đã thề rằng: "Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 112, 1-2. 4-6. 7-8

Ðáp: Hãy ngợi khen Chúa, Ðấng nâng cao kẻ túng thiếu (c. 1a & 7b).

Xướng: 1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.

2) Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời là vinh quang của Chúa... và Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất. - Ðáp.

3) Người nâng cao kẻ túng thiếu từ chỗ bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ nơi phẩn thổ, hầu cho họ ngồi với những bậc quân vương, với những bậc quân vương của dân Người. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Tm 2, 1-8

"Cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho mọi người. Ngài muốn cho mọi người được cứu độ".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gởi Timôthêu.

Trước tiên, cha khuyên hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch. Ðó là điều tốt lành và đẹp lòng Ðấng Cứu Ðộ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý.

Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Ðấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Ðức Giêsu Kitô, cũng là con người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người, mà vì chứng tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao giảng, làm Tông đồ (cha nói thật chứ không nói dối), và làm Thầy dạy dân ngoại trong đức tin và chân lý. Vậy cha muốn rằng những người đàn ông cầu nguyện trong mọi nơi, hãy giơ lên hai tay thanh sạch, không oán hờn và cạnh tranh.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 17, 17b và a

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 16, 10-13 {hoặc 1-13}

"Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: {"Một người phú hộ kia có một người quản lý, và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: 'Tôi nghe nói anh sao đó? Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa'. Người quản lý nghĩ thầm rằng: 'Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào, để khi mất chức quản lý, thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ'.

"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: 'Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm thùng dầu'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại: năm mươi'. Rồi anh hỏi người khác rằng: 'Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm giạ lúa miến'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi'. Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng.

"Phần Thầy, Thầy bảo các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.}

"Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con?

"Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".

Ðó là lời Chúa. 

 

Image result for Lc 16, 10-13


Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C hôm nay thật ra Giáo Hội chỉ buộc đọc một số câu vắn gọn như sau (3 câu cuối trong 13 câu đầu tiên của đoạn 16 Phúc Âm Thánh Luca):  

“Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: ‘Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con? Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được’". 

Căn cứ vào đoạn Phúc Âm chính yếu buộc phải đọc cho Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C này thì chúng ta thấy nếu Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm C liên quan đến thành phần lầm lạc đáng được xót thương, thì Phụng Vụ tuần này liên quan đến thành phần đầy tớ đối với những gì được trao phó cần hoàn thành theo ý chủ.  

Mối liên hệ giữa Phụng Vụ Lời Chúa tuần trước và tuần này, như trên đây nhận định và phân tích, dường như theo chiều hướng là một khi con người được thương xót thế nào thì cũng phải thương xót như vậy, không được lạm dụng hay hưởng thụ, nghĩa là phải chia sẻ, phải áp dụng lòng thương xót mình đã lãnh nhận cho những đối tượng đáng thương như mình.

Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay chúng ta thấy có 2 loại đầy tớ, 2 thành phần hoàn toàn phản nghịch nhau: một bất trung gian dối và một trung tín phục vụ. Thành phần bất trung gian dối ở Bài Đọc 1 và thành phần trung tín phục vụ ở Bài Đọc 2. 

Đúng thế, trước hết là thành phần bất trung gian dối ở Bài Đọc 1, được Tiên Tri Amos diễn tả về chính mưu gian của họ như sau: 

"Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát".  

Thành phần đầy tớ bất trung gian ác này là ai, nếu không phải là chung dân Do Thái, thành phần được Thiên Chúa tuyển chọn và tỏ mình ra cho họ, để họ nhận biệt lòng thương xót của Ngài, nhờ đó họ sống lòng thương xót như Ngài, nhất là khi đối xứ với tha nhân đồng hương của mình. Và đó là lý do, dân Do Thái đã bị chính vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu của họ nghiêm chỉnh cảnh báo ở cuối Bài Đọc 1 hôm nay rằng: “Vì Giacóp kiêu căng, Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng’". 

Sau nữa là thành phần đầy tớ trung tín phục vụ, được điển hình nhất nơi trường hợp của Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, vị tông đồ đã cảm nhận được lòng thương xót Chúa đối với bản thân tội lỗi lầm lạc của mình, nhưng vẫn được tin tưởng sai đi làm chứng cho ân sủng thần linh, là tất cả sự thật về ơn cứu độ và lòng thương xót Chúa, như Thư gửi môn đệ Timôthêu của ngài ở Bài Đọc 2 hôm nay cho thấy: 

“Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Ðấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Ðức Giêsu Kitô, cũng là con người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người, mà vì chứng tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao giảng, làm Tông đồ (cha nói thật chứ không nói dối), và làm Thầy dạy dân ngoại trong đức tin và chân lý”.  

Đúng thế, chân lý được vị tông đồ dân ngoại Phaolô này rao giảng liên quan đến ơn cứu độ của vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu muốn cho hết mọi người được cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô là dấu chứng của lòng thương xót thần linh, nhờ việc họ chấp nhận chứng từ là Đức Giêsu Kitô ấy, nghĩa là nhận biết chân lý nơi Đấng Trung Gian duy nhất này, như vị tông đồ dân ngoại đã khẳng định nơi phần đầu Bức Thư gửi môn đệ Timôthêu ở Bài Đọc 2 hôm nay: 

“Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý. Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Ðấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Ðức Giêsu Kitô, cũng là con người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người”. 

Chính vì ơn cứu độ do lòng thương xót Chúa có tính cách phổ quát cho chung loài người và cho riêng những ai tin tưởng, nhờ nhận biết chân lý cũng là chấp nhận Đấng Thiên Sai Cứu Thế Giêsu Kitô Trung Gian Duy Nhất, nghĩa là những ai cảm thấy nghèo hèn trước nhan Thiên Chúa và chỉ còn biết hy vọng vào Ngài, mà Bài Đáp Ca hôm nay mới vang lên những lời kêu gọiHãy ngợi khen Chúa, Ðấng nâng cao kẻ túng thiếu” (câu họa), chất chứa đầy niềm chúc tụng ngợi khen của con người, kèm theo những ý thức thần linh chân thực nhất về Thiên Chúa ở những câu xướng như sau:.

 1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời.

2) Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời là vinh quang của Chúa... và Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất.

3) Người nâng cao kẻ túng thiếu từ chỗ bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ nơi phẩn thổ, hầu cho họ ngồi với những bậc quân vương, với những bậc quân vương của dân Người.

 

 

Ngày 21 tháng 9

Lễ Thánh Matthêu, Tông Ðồ

Lễ kính vị thánh Tông đồ nhưng không thể át Chúa Nhật

 

Catholic Faith Warriors ~ Fighting the Good Fight +: St. Matthew, Apostle  September 21

 

Sở dĩ trong hình Thánh Mathêu trên đây có cả hình con sư tử, là vì Phúc Âm của ngài là 1 trong 4 Phúc Âm,được vì trong thị kiến của Sách Khải Huyền 4:6-7 và Ezekien 1:10, là 1 trong 4 Con Vật "đầy mắt" (thần linh khôn ngoan):

Cuốn phúc âm đầu tiên ấy được ví như con sư tử, phúc âm thứ 2 của Thánh Marco được ví như con bò tơ, phúc âm thứ 3 của Thánh Luca được vì như Con Vật có mặt con người, và phúc âm thứ 4 của Thánh Gioan như phượng hoàng,

 

 

Bài Ðọc I: Ep 4, 1-7. 11-13

"Chu toàn chức vụ, xây dựng thân thể Chúa Kitô".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, tôi là tù nhân trong Chúa, tôi khuyên anh em hãy ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh em đã lãnh nhận. Anh em hãy hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng nhau trong đức ái; hãy lo bảo vệ sự hợp nhất tinh thần, lấy bình an hoà thuận làm dây ràng buộc: Chỉ có một thân thể và một tinh thần, cũng như anh em đã được kêu gọi đến cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Ðấng vượt trên hết mọi người, hoạt động nơi mọi người, và ở trong mọi người.

Nhưng mỗi người trong chúng ta đã được ban ơn tuỳ theo lượng Ðức Kitô ban cho. Và chính Người đã ban cho kẻ làm Tông đồ, người làm Tiên tri, còn kẻ khác thì rao giảng Tin Mừng, kẻ khác nữa làm chủ chăn và thầy dạy, để tổ chức các thánh nhân nên hoàn bị hầu chu toàn chức vụ, xây dựng thân thể Ðức Kitô, cho đến khi mọi người chúng ta hợp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, trở nên người trưởng thành, đạt đến tầm vóc của Ðức Kitô viên mãn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5

Ðáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).

Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Ðáp.

2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúng con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa; chúng con tuyên xưng Chúa là chúa tể. Lạy Chúa, ca đoàn vinh quang các Tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 9-13

"Hãy theo Ta". - Và ông ấy đứng dậy đi theo Người.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải hy lễ. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Dẫn Nhập 

 

(Đaminh Maria cao tấn tĩnh)

 

 

Mỗi vị thánh đều phản ánh 1 tia sáng nào đó từ Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), một "Ánh Sáng đã chiếu trong tăm tối..." (Gioan 1:5) là thế gian tội lỗi này, khi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), và "ánh sáng thật đã chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian này" (Gioan 1:9) vẫn còn tiếp tục phản chiếu nơi thành phần môn đệ của Chúa Kitô: "Các con là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14).


Trong số các thánh, quan trọng nhất phải kể đến các Thánh Tông Đồ, được Giáo Hội cử hành từng vị ở bậc Lễ Kính (feast, có kinh vinh danh và phụng vụ Lời Chúa hợp với chung các vị hay từng vị), vì các tông đồ được Chúa Kitô tuyển chọn để làm chứng nhân tiên khởi của Người, và làm nền tảng của Giáo Hội Người thiết lập (Epheso 2:20). Đức tin của Kitô hữu hậu sinh chúng ta là đức tin tông truyền từ các tông đồ, những người môn đệ tiên khởi của Chúa Kitô, được sống cận kề với Người từ đầu đến cuối, nhờ đó các vị mới tận mắt thấy, tận tai nghe và chính tay được đụng chạm đến Người (xem 1Gioan 1:1-3).


Trong số các Thánh Tông Đồ, thì chỉ có 2 vị được tặng thêm danh hiệu Thánh Sử thôi, đó là 2 vị thánh viết 2 cuốn Phúc Âm: Thánh Mathêu và Thánh Gioan, còn Thánh Phêrô, Thánh Giacôbê và Thánh Giuđa (không phải Giuđa phản bội) chỉ viết các thư còn lưu lại trong sổ bộ Tân Ước, cũng không được tước hiệu Thánh Sử. Thánh Mathêu viết Phúc Âm bằng tiếng Do Thái (Hebrew) và viết cho dân Do Thái, (trong khi Thánh Gioan viết cho Giáo Hội và Thánh Luca cho Dân ngoại, bởi đó gia phải về Chúa Giêsu được Thánh Luca liệt kê về tới tận 2 nguyên tổ của chung loài người), nên Thánh Mathêu liệt kê Gia Phả về Chúa Giêsu từ Abraham trở xuống, và hay trích dẫn Thánh Kinh Cựu Ước để chứng thực Chúa Kitô chính là Thiên Sai của dân Do Thái. Thánh Mathêu có khuynh hướng tổng hợp, nên chúng ta thấy trong Phúc Âm của ngài có Bài Giảng Trên Núi (đoạn 5-7), Bảy Dụ Ngôn Nước Trời (đoạn 13), Khiển Trách biệt phái và luật sĩ (đoạn 23), Tận Thế (đoạn 24-25) v.v.

 

 

 

ĐTC Biển Đức XVI: Thứ Tư 30/8/2006 - Bài 17

 

 

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Để tiếp tục loạt chân dung về 12 Tông Đồ, loạt chân dung được bắt đầu một ít tuần trước đây, hôm nay chúng ta suy niệm về Thánh Mathêu.

 

Phải chân nhận rằng hầu như không thể mô tả trọn vẹn hình ảnh của ngài, vì tín liệu về ngài hiếm có và không đầy đủ. Những gì chúng ta có thể làm đó là mô tả không nhiều lắm về tiểu sử của ngài nhưng những gì được Phúc Âm cống hiến cho chúng ta.

 

Ngài bao giờ cũng có tên trong danh sách 12 vị được Chúa Giêsu tuyển chọn (x Mt 10:3; Mk 3:18; Lk 6:15; Acts 1:13). Tên của ngài, theo tiếng Do Thái, có nghĩa là ‘tặng ân của Chúa’. Cuốn Phúc Âm đầu tiên trong sổ bộ thánh kinh là cuốn phúc âm mang tên của ngài, cho chúng ta thấy trong danh sách 12 Vị ngài có một tính chất rất đặc biệt, đó là ‘viên thu thế’ (Mt 10:3).

 

Đó là lý do ngài được đồng hóa với con người ngồi ở phòng thuế, kẻ được Chúa Giêsu kêu gọi theo Người. ‘Khi Chúa Giêsu đi ngang qua đó Người thấy một người tên là Mathêu đang ngồi ở phòng thuế, và Người nói cùng anh rằng: ‘Hãy theo Tôi’. Và ngài đã chỗi dạy theo Người’ (Mt 9:9).

 

Thánh Marcô (x 2:13-17) và Luca (x 5:27-30) trình thuật lời kêu gọi con người ngồi ở phòng thuế, nhưng các vị gọi ngài là ‘Levi’. Việc tưởng tượng ra cảnh được diễn tả trong Phúc Âm Thánh Mathêu 9:9 cũng đủ để nhớ đến bức họa vĩ đại của Carabaggio, được giữ ở Rôma đây, nơi Thánh Đường Thánh Louis của Pháp.

 

Một chi tiết mới về thân thế của ngài được các Phúc Âm nhắc tới, đó là, trong đoạn Phúc Âm, trước trình về về lời Chúa Giêsu kêu gọi ngài, có nói tới chi tiết về phép lạ Chúa Giêsu đã làm ở Capernaum (x Mt 9:1-8; Mk 2:1-12), liên quan tới Hồ Tibêria, gần Biển Galilêa (x. Mk 2:13-14).

 

Người ta có thể suy diễn là Thánh Mathêu đã thực hiện nhiệm vụ của một viên thu thuế ở Capernaum, ở ngay ‘bên biển’ (Mt 4:13), nơi Chúa Giêsu là một vị khách thường xuyên của gia đình Thánh Phêrô.

 

Căn cứ vào những nhận định sơ sài từ Phúc Âm này, chúng ta có thể thực hiện một số chia sẻ như sau. Trước hết là Chúa Giêsu đã đón nhận trong nhóm bạn hữu thân thiết của mình một con người, theo quan niệm ở Do Thái thời ấy, được coi là một tội nhân công khai.

 

Thật ra Mathêu chẳng những là nhân viên quản trị về tiền bạc, một việc được coi là không tinh sạch vì nó xuất phát từ con người xa lạ với thành phần dân Chúa, mà còn hợp tác với thẩm quyền ngoại bang, tham lam bẩn thỉu, có thể ấn định việc cống nộp một cách tùy tiện.

 

Vì những lý do đó, có vài lần các Phúc Âm đã đề cập chung ‘thành phần thu thuế và tội lỗi’ (Mt 9:10; Lk 15:1), ‘thành phần thu thuế và gái điếm’ (Mt 21:31). Ngoài ra, các Phúc Âm còn thấy nơi thành phần thu thuế một mẫu gương tham lam nữa (x Mt 5:46: họ chỉ yêu thương những ai thương yêu họ) và đã đề cập đến một người trong họ là Gia Kêu, như ‘người trưởng ban thu thuế, và giầu có’ (Lk 18:11).

 

Căn cứ vào những chi tiết ấy vấn đề cần phải chú ý là Chúa Giêsu không loại trừ một ai ra khỏi tình thân hữu của Người. Hơn thế nữa, chính lúc Người ngồi ở bàn ăn trong nhà viên Thu Thuế Mathêu, trả lời những ai cảm thấy ngứa mắt trước sự kiện qui tụ thường xuyên song bất xứng của Người, Người đã tuyên bố điều quan trọng này là ‘Những ai khỏe mạnh thì không cần đến thày thuốc, chỉ có những ai yếu bệnh mới cần; Tôi đến không phải để kêu gọi thành phần công chính mà là tội nhân’ (Mk 2:17).

 

Lời loan báo tốt đẹp này của Phúc Âm thực sự là ở chỗ đó, ở chỗ Thiên Chúa cống hiến ân sủng của Ngài cho thành phần tội nhân! Ở một đoàn khác, bằng một dụ ngôn nổi tiếng về người Pharisiêu và người thu thuế cùng lên đền thờ cầu nguyện, Chúa Giêsu thậm chí cho thấy một người thu thuế vô danh nêu gương khiêm nhượng tin tưởng vào tình thương thần linh: Trong khi người Pharisiêu ngạo nghễ về tình trạng trọn lành luân lý của mình, thì ‘người thu thuế, đứng ở đằng xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ biết đấm ngực mà rằng: Lạy Chúa, xin thương đến tôi là kẻ tội lỗi!’

 

Và Chúa Giêsu nhận định rằng: ‘Thày cho các con biết người này về nhà được công chính chứ không phải người kia; vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên’ (Lk 18:13-14).

 

Bởi thế, qua hình ảnh Mathêu, các Phúc Âm cho chúng ta thấy một cái ngược đời thực sự, đó là ai có vẻ xa vời nhất với thánh đức lại có thể trở thành một mô phạm trong việc chấp nhận lòng thương xót Chúa, giúp họ có thể thoáng thấy được những hiệu năng của lòng xót thương này nơi cuộc sống của họ.

 

Về vấn đề này, Thánh Gioan Chrysostom đã có một nhận định đáng kể. Ngài nhận định rằng nơi trình thuật về ơn gọi thì chỉ có một vài người được kêu gọi là có liên quan tới công việc họ đang hành sự. Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đã được kêu gọi khi các vị đang đánh cá; Mathêu được kêu gọi khi anh đang thu thuế.

 

Chúng là những công việc có tầm vóc không quan trọng là bao, Thánh Chrysostom nhận định: ‘không còn gì đáng ghê tởm hơn là viên thu thuế và không gì tầm thường hơn là việc đánh cá’ ("In Matth. Hom": PL 57, 363).

 

Bởi thế, lời kêu gọi của Chúa Giêsu cũng vươn tới cả thành phần ở tầm cấp thấp kém, thành phần làm những việc tầm thường của mình.

 

Một ý tưởng khác cũng xuất phát từ trình thuật Phúc Âm, đó là việc Mathêu tức khắc đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: ‘Ông đã đứng lên đi theo Người’. Lời vắn gọn của câu này nhấn mạnh đến tính cách tức khắc nơi việc Mathêu đáp lại lời kêu gọi.

 

Đối với ông thì điều này có nghĩa là từ bỏ hết mọi sự, nhất là một nguồn lợi tức vững chắc, mặc dù thường bất chính và bất xứng. Hiển nhiên là Mathêu hiểu rằng mối thân tình với Chúa Giêsu không cho phép anh tiếp tục những hoạt động không đẹp lòng Chúa.

 

Người ta có thể dễ dàng trực giác thấy rằng vấn đề này cũng có thể được áp dụng cho hiện nay nữa, ở chỗ, ngày nay người ta cũng không thể chấp nhận việc gắn bó với những gì bất xứng hợp với việc theo Chúa Giêsu, như những thứ giầu sang gian dối. Có lần Người đã công khai phán rằng: ‘Nếu anh muốn nên trọn lành thì hãy về bán những gì mình có mà cho kẻ khó để có được nước trời; rồi hãy đến mà theo Tôi’ (Mt 19:21).

 

Đó chính là những gì Mathêu đã làm: Anh đã chỗi dậy đi theo Người! Nơi việc ‘đứng dậïy’ này người ta có thể thấy được việc ly thoát với tình trạng tội lỗi, đồng thời, thấy được cả việc ý thức gắn bó với một sự sống mới, chính trực, hiệp thông với Chúa Giêsu.

 

Sau hết, chúng ta nhớ lại rằng truyền thống của Giáo Hội sơ khai đồng ý với việc gán tác giả quyền của cuốn Phúc Âm thứ nhất cho Mathêu. Việc này được bắt đầu với Papias, vị giám mục của Gerapolis ở Phrygia, vào khoảng năm 130.

 

Vị giám mục này viết rằng: ‘Mathêu đã viết những lời của Chúa Giêsu bằng tiếng Do Thái, và mỗi người giải thích những lời ấy tuỳ họ có thể’ (in Eusebius of Caesarea, "Hist. eccl.", III, 39, 16). Sử gia Eusebius còn thêm chi tiết là: ‘Mathêu, vị trước đó đã giảng dạy cho người Do Thái, khi quyết định đi đến với cả các dân tộc khác nữa, thì đã viết bằng tiếng mẹ đẻ của mình Phúc Âm ngài đã loan truyền: Nhờ đó ngài đã thay thế, bằng bản viết của mình, những gì họ, thành phần ngài lìa bỏ, bị mất mát đi bởi việc ra đi của ngài’ (Ibid., III, 24, 6).

 

Chúng ta không còn bản Phúc Âm được Thánh Mathêu viết bằng tiếng Do Thái hay Aramaic, mà là bản Phúc Âm bằng tiếng Hy Lạp là bản được lưu lại cho tới chúng ta, chúng ta vẫn tiếp tục nghe, ở một nghĩa nào đó, tiếng nói thuyết phục của người thu thuế Mathêu, vị mà khi trở thành tông đồ đã tiếp tục loan truyền cho chúng ta tình thương cứu độ của Thiên Chúa.

 

Chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp này của Thánh Mathêu, chúng ta hãy suy niệm sứ điệp ấy luôn mãi để chúng ta có thể cương quyết dứt khoát chỗi dạy theo Chúa Giêsu.


 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/8/2006  

 

Bài đọc 2

Đức Giê-su đã nhìn thấy ông, yêu thương và tuyển chọn ông

Trích bài giảng của thánh Bê-đa Khả Kính, linh mục.

Đức Giê-su thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi ở bàn thu thuế. Người bảo ông : Anh hãy theo tôi. Người thấy không phải với con mắt thể xác, cho bằng với cái nhìn đầy tình thương sâu xa. Đức Giê-su thấy người thu thuế ; Người nhìn ông với tình thương và có ý chọn ông, nên bảo ông : Anh hãy theo tôi ! Nhưng hãy theo có nghĩa là hãy bắt chước, không phải chỉ theo bằng bước chân mà nhất là bằng cách ăn thói ở. Quả thật, ai nói mình ở lại trong Đức Ki-tô thì phải đi trên con đường Người đã đi.

Và ông đứng dậy đi theo Người. Chẳng có gì lạ khi thoạt nghe tiếng Chúa truyền, người thu thuế từ bỏ ngay những lợi lộc trần gian ông đang quản lý, và một khi đã coi thường sự giàu sang, ông dấn thân bước theo Đấng mà ông thấy chẳng có chút của cải nào. Thật vậy, chính Chúa, Đấng bên ngoài dùng lời nói để gọi ông, thì bên trong dùng sự thúc đẩy vô hình mà dạy ông bước theo Người, vì Người tuôn đổ vào lòng trí ông ánh sáng của ơn thiêng khiến ông hiểu được rằng Đấng kêu gọi ông từ bỏ của cải tạm bợ trên trần gian, cũng có quyền ban kho tàng chẳng hư nát trên trời.

Đức Giê-su đang dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến cùng ăn với Người và các môn đệ. Như thế, một người thu thuế trở lại đã nêu gương cho nhiều người thu thuế và tội lỗi biết sám hối và được ơn tha tội. Đây thật là một điềm tốt : vì thoạt khi vừa trở lại, người sau này sẽ trở thành tông đồ và thầy dạy đức tin đã kéo theo mình một đoàn tội nhân đến lãnh ơn cứu độ, và ngay khi đức tin của ông còn phôi thai, ông đã bắt đầu làm công việc loan báo Tin Mừng, công việc mà sau này ông sẽ hoàn thành mỹ mãn, khi đã tiến bộ trên đường nhân đức. Nếu chúng ta muốn tìm hiểu sâu xa hơn câu chuyện trên đây, thì nên biết rằng không phải Mát-thêu chỉ thết Chúa một bữa tiệc vật chất trong ngôi nhà của ông ở trần gian, mà còn dọn cho Người một bữa tiệc trong ngôi nhà tâm hồn ông với tất cả niềm tin yêu, điều đó còn quý hơn nhiều, bởi chính Chúa đã phán : Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.

Chúng ta nghe tiếng Người và mở cửa ra đón Người, khi chúng ta sẵn sàng vâng theo những lời khuyên nhủ kín đáo hay rõ ràng của Người, và ra sức chu toàn những điều ta biết mình phải thi hành. Người vào nhà để Người cùng với chúng ta và chúng ta cùng với Người ăn bữa tối, vì Người ngự trong tâm hồn những kẻ được tuyển chọn, nhờ hồng ân tình yêu của Người. Nhờ đó, Người luôn nuôi dưỡng họ bằng sự hiện diện quang minh của Người, để họ ngày càng vươn tới những ước vọng cao siêu và để chính Người được thưởng thức những khát vọng cao cả của họ như một thứ cao lương mỹ vị.

Lạy Chúa, Chúa đã mở lượng từ bi khôn tả chọn một người thu thuế là Mát-thêu làm tông đồ rao giảng Tin Mừng. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con biết noi gương người, luôn hết tình gắn bó với Chúa Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

 

Đức Thánh Cha Phanxicô trả lời cuộc phỏng vấn của đại diện các tạp chí trên thế giới của Dòng Tên Cuộc phỏng vấn dài này kéo dài 3 buổi khác nhau, tại chính phòng trọ của ngài ở Casa Santa Marta trong Tháng 8/2013. 

 

Jorge Mario Bergoglio là ai? 

 

Tôi hỏi thẳng Đức Giáo Hoàng Phanxicô rằng: "Jorge Mario Bergoglio là ai?" Ngài chăm chăm nhìn vào tôi một cách trầm lặng. Tôi hỏi ngài xem tôi có được hỏi ngài câu này hay chăng. Ngài gật đầu và trả lời rằng: "Tôi không biết phải diễn tả làm sao cho thích đáng nhất đây... Tôi là một tội nhân. Đó là một định nghĩa chính xác nhất. Nó không phải là một lời nói bóng gió, một thứ văn chương. Tôi là một tội nhân".

 

Đức Giáo Hoàng tiếp tục chia sẻ và tỏ ra tập trung vào vấn đề như thể ngài không ngờ về một câu hỏi như thế, như thể ngài bị bắt buộc phải chia sẻ thêm. "Đúng thế, có lẽ tôi có thể nói rằng tôi hơi khéo léo một chút, rằng tôi có thể thích ứng với các hoàn cảnh mà nói, thế nhưng tôi cũng thật sự là hơi ngây ngô thẳng thắn. Phải đấy, thế nhưng cái tóm gọn đúng nhất, cái xuất phát từ trong lòng và tôi cảm thấy đúng nhất là thế này: Tôi là một tội nhân được Chúa đoái thương". Và ngài lập lại rằng: "Tôi là một kẻ được Chúa đoái thương. Tôi luôn cảm thức được câu tâm niệm của mình, Miserando atque Eligendo (vì thương mà chọn) là những gì rất đúng với tôi".

 

Câu tâm niệm này được lấy từ các Bài Giảng của tác giả Bede the Venerable, vị viết trong phần dẫn giải của mình về câu truyện Phúc Âm liên quan đến việc Thánh Mathêu được Chúa Giêsu kêu gọi: "Chúa Giêsu đã trông thấy một người thu thuế, và vì Người nhìn anh ta bằng những cảm xúc yêu thương nên đã chọn anh ta, Người đã nói cùng anh ta rằng: 'Hãy theo Ta'". Đức Giáo Hoàng còn thêm: "Tôi nghĩ động danh từ Latinh miserando này không thể dịch sang cả tiếng Ý lẫn tiếng Tây Ban Nha. Tôi thích dịch nó bằng một động danh từ (gerund) khác vốn không có, đó là misericordiando ('mercy-ing' - việc thương xót)".

 

Đức Giáo Hoàng tiếp tục chia sẻ mà nói, khi nhẩy qua một đề tài khác: "Tôi không biết rõ về Rôma. Tôi biết một ít điều thôi. Những điều này bao gồm Đền Thờ Đức Bà Cả; tôi thường đến đó. Tôi biết Đền Thờ Đức Bà Cả, Đền Thờ Thánh Phêrô... thế nhưng khi tôi cần phải đến Rôma thì tôi bao giờ cũng ở (vùng lân cận) của Via della Scrofa. Từ đó, tôi thường viếng thăm Nhà Thờ Thánh Louis Pháp Quốc và tôi đến đó để chiêm ngưỡng bức họa liên quan đến 'Ơn Gọi của Thánh Mathêu' của Caravaggio.

 

"Ngón tay của Chúa Giêsu chỉ vào Thánh Mathêu. Tức là tôi. Tôi cảm thấy như ngài". Đến đây Đức Giáo Hoàng trở nên quyết liệt, như thể ngài cuối cùng đã thấy được hình ảnh ngài đã tìm kiếm: "Chính cử chỉ của Thánh Mathêu đã tác động tôi: Ngài giữ lấy tiền của ngài như muốn nói rằng 'Không, không phải là tôi! Không, tiền bạc này là của tôi'. Đấy, tôi đó, một tội nhân đã được Chúa hướng nhìn tới. Và đó là những gì tôi đã nói khi các vị hỏi tôi rằng tôi có chấp nhận được tuyển bầu làm giáo hoàng hay chăng". Bấy giờ vị giáo hoàng này đã thầm thĩ bằng tiếng Latinh rằng: "Tôi là một tội nhân, nhưng tôi tin vào tình thương vô biên và nhẫn nại của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng tôi, và tôi chấp nhận bằng tinh thần thống hối".

 

 


Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Esd 1, 1-6

"Ai thuộc dân Chúa, hãy lên Giêrusalem và xây cất nhà Chúa".

Khởi đầu sách Esdra.

Năm thứ nhất triều đại Kyrô vua nước Ba-tư, để ứng nghiệm lời Chúa đã phán bởi miệng Giêrêmia, Chúa giục lòng Kyrô vua nước Ba-tư, và ông truyền công bố bằng lời rao và sắc chỉ trong khắp nước rằng: "Ðây là lệnh của Kyrô vua nước Ba-tư: Chúa là Chúa Trời đã ban cho ta mọi nước trên mặt đất, chính Người truyền dạy ta phải xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong nước Giuđêa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Người? Xin Thiên Chúa của nó ở cùng nó. Nó hãy lên Giêrusalem trong xứ Giuđêa, và xây cất nhà của Chúa là Thiên Chúa Israel, chính Người là Thiên Chúa ngự ở Giêrusalem. Và tất cả những người khác đang cư ngụ bất kỳ nơi nào, thì từ nơi mình ở, hãy giúp họ bằng vàng bạc, của cải và súc vật, đừng kể những gì tình nguyện dâng cho đền thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem.

Các trưởng tộc thuộc chi họ Giuđa, Bêngiamin, các tư tế, các thầy Lêvi và mọi người được Chúa thúc giục trong lòng, đều vùng dậy tiến lên, để xây cất đền thờ Chúa ở Giêrusalem. Toàn thể dân chúng sống trong vùng lân cận cũng tiếp tay giúp họ vàng bạc, của cải, súc vật, những đồ quý, không kể những gì họ tự ý dâng cúng.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi (c. 3a).

Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ; bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Gc 1, 21

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng; lời đó có thể cứu thoát linh hồn anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 8, 16-18

"Ðặt đèn trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy sự sáng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm giường: nhưng đặt nó trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì kín nhiệm mà không bị tỏ ra, và không có gì ẩn giấu mà không bị lộ ra cho người ta biết. Vậy các ngươi hãy ý tứ xem các ngươi nghe thế nào! Vì ai có, sẽ được cho thêm; còn ai không có, cả điều mình tưởng có cũng sẽ bị lấy đi".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 8, 16-18

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXV Thường Niên, là bài Phúc Âm tiếp liền với bài Phúc Âm Thứ Bảy Tuần trước, Tuần XXIV Thường Niên.

Thật vậy, ngay sau khi nói với đám đông dân chúng tuốn đến nghe Người và Người đã giảng dạy họ bằng dụ ngôn người gieo giống trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay, liền giảng tiếp vỏn vẻn trong 3 câu Phúc Âm như là những gì liên hệ với nhau bất khả phân ly trong cùng một bài giảng của Người, đó là:


"Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng. Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất."

Đúng thế, dụ ngôn người gieo giống trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước liên quan đến 4 loại thính giả, và 3 câu Phúc Âm hôm nay có liên hệ hết sức mật thiết với nhau ở chỗ: "Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe". Thế nhưng tại sao Chúa Giêsu lại ghép cách thức nghe lời Chúa với việc thắp đèn lên cho sáng tỏ chứ? 

 

Phải chăng ở đây Chúa Giêsu có ý nói rằng Chúa là người gieo giống, là Đấng rao giảng hạt giống lời Chúa, chẳng còn muốn gì hơn là làm sao cho lời của Người sinh hoa kết trái nơi con người, nơi những người nghe lời của Người, mà "lời Chúa là đèn soi chân con bước, là ánh sáng dẫn lối con đi" (Thánh Vịnh 119:105), thì cũng có nghĩa là Người muốn thắp lên trong mỗi một con người ngọn đèn lời của Người, nếu họ biết lắng nghe và đáp ứng lời của Người, nhờ đó, lời của Người cho dù đầy sâu nhiệm "bí ẩn" cũng sẽ "trở nên hiển hiện", dù lời của Người như có vẻ "che giấu" trong tâm hồn của mỗi một người nghe lời của Người, cũng sẽ trở nên cụ thể trước mặt mọi người qua đời sống chứng nhân của họ, như "được đưa ra ánh sáng" vậy. 

 

Nếu biết lắng nghe, chấp nhận và đáp ứng lời của Chúa, như một mảnh đất tốt, thì mảnh đất nhân tính tốt của con người lắng nghe ấy sẽ trổ sinh hoa trái, như thể "ai đã có (lời Chúa), thì được cho thêm (hoa trái)", trái lại, thành phần nghe lời Chúa như một vệ đường hay như sỏi đá hoặc như bụi gai, thì lời Chúa Giêsu kết luận ở cuối bài Phúc Âm hôm nay đã khẳng định: "còn ai không có (ám chỉ lời Chúa chẳng công hiệu gì nơi họ như thể họ chẳng có lời Chúa, chẳng hề nghe lời Chúa), thì ngay cái họ tưởng là có (như đức tin họ lãnh nhận khi lãnh nhận Phép Rửa, như việc lành phúc đức họ làm là những gì họ tưởng là có), cũng sẽ bị lấy mất (như người đầy tớ đưc trao cho một nén chẳng sinh lợi nên bị tước luôn - xem Mathêu 25:28-29)". 


Đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "chẳng có gì kín nhiệm mà không bị tỏ ra, và không có gì ẩn giấu mà không bị lộ ra cho người ta biết". Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Esdra đã chứng thực điều đó. Ở chỗ, những gì Thiên Chúa đã ấn định một cách "kín nhiệm" thì Ngài đã "tỏ ra" cho chính vị vua dân ngoại, như được thuật lại như sau:

 

"Năm thứ nhất triều đại Kyrô vua nước Ba-tư, để ứng nghiệm lời Chúa đã phán bởi miệng Giêrêmia, Chúa giục lòng Kyrô vua nước Ba-tư, và ông truyền công bố bằng lời rao và sắc chỉ trong khắp nước rằng: "Ðây là lệnh của Kyrô vua nước Ba-tư: Chúa là Chúa Trời đã ban cho ta mọi nước trên mặt đất, chính Người truyền dạy ta phải xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong nước Giuđêa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Người? Xin Thiên Chúa của nó ở cùng nó. Nó hãy lên Giêrusalem trong xứ Giuđêa, và xây cất nhà của Chúa là Thiên Chúa Israel, chính Người là Thiên Chúa ngự ở Giêrusalem. Và tất cả những người khác đang cư ngụ bất kỳ nơi nào, thì từ nơi mình ở, hãy giúp họ bằng vàng bạc, của cải và súc vật, đừng kể những gì tình nguyện dâng cho đền thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem".

 

Chưa hết, những gì Thiên Chúa "ẩn dấu" thì Ngài cũng đã "lộ ra" cho dân của Ngài biết khi tới thời điểm ấn định của Ngài, như được cùng Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy: "Các trưởng tộc thuộc chi họ Giuđa, Bêngiamin, các tư tế, các thầy Lêvi và mọi người được Chúa thúc giục trong lòng, đều vùng dậy tiến lên, để xây cất đền thờ Chúa ở Giêrusalem. Toàn thể dân chúng sống trong vùng lân cận cũng tiếp tay giúp họ vàng bạc, của cải, súc vật, những đồ quý, không kể những gì họ tự ý dâng cúng".

 

Đó là lý do, khi Thiên Chúa ẩn mặt đi, vì tội lỗi của dân Ngài, hay vì Ngài muốn thử thách dân Ngài, thì Ngài cũng chỉ làm vì lợi ích thiêng liêng cho chính họ mà thôi, để rồi, nhờ đó, khi họ nhận ra tội lỗi mình và nhận biết Thiên Chúa của họ, khi Ngài tỏ mình ra cho họ, bằng cách cứu độ họ cho khỏi cảnh vừa cùng cực vừa bất lực của họ, họ sẽ càng cảm thấy hân hoan vui sướng hơn bao giờ hết, như Thánh Vịnh 125 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:

 

1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ; bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.

 

 

 


Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Esd 6, 7-8. 12b. 14-20

"Họ hoàn tất việc xây cất nhà Chúa và mừng lễ Vượt Qua".

Bài tích sách Esdra.

Trong những ngày ấy, (Vua Ðariô viết thư cho các vị tư lệnh vùng ở bên kia sông Euphrate mà nói rằng:) "Hãy để cho vị thủ lãnh người Do-thái và các kỳ lão của họ xây cất đền thờ của Thiên Chúa, để đền thờ của Thiên Chúa được xây cất chính nơi cũ. Ta cũng ra lệnh về việc các ngươi phải làm với các bậc Kỳ cựu Do-thái, để tái thiết nhà Thiên Chúa: là phải lấy của trong kho nhà vua, nghĩa là tiền nộp thuế của miền bên kia sông Euphrate, và cẩn thận phân phát cho những người ấy, để công việc không bị trì hoãn. Ta là Ðariô ra sắc chỉ này, ta muốn mọi người ân cần tuân giữ".

Các kỳ lão người Do-thái xây cất đền thờ và công việc tiến hành nhanh chóng, nhờ lời sấm của tiên tri Khác-gai và tiên tri Dacaria, con ông Ađđô: họ xây cất và hoàn thành theo lệnh Chúa Israel truyền dạy, và theo lệnh các vua nước Ba-tư là Kyrô, Ðariô và Artaxerxê. Họ hoàn tất việc xây cất nhà Thiên Chúa ngày mồng ba tháng Ađar, năm thứ sáu triều vua Ðariô. Vậy con cháu Israel, các tư tế, các thầy Lêvi, và những người lưu đày còn sống sót, đều vui mừng hiến thánh nhà Thiên Chúa. Trong lễ cung hiến nhà Thiên Chúa, họ dâng một trăm con bò, hai trăm con cừu, bốn trăm con chiên, và để làm lễ đền tội cho cả dân Israel, họ cũng dâng mười hai con dê theo số các chi tộc Israel. Rồi họ cắt đặt các thầy tư tế theo phẩm trật và các thầy Lêvi theo cấp bậc, để giúp việc đền thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem, như đã chép trong sách của Môsê.

Những con cái Israel lưu đày về mừng lễ Vượt Qua ngày mười bốn tháng thứ nhất. Các thầy tư tế và Lêvi, tất cả như một, đều được thanh tẩy, tất cả đều trong sạch, để sát tế mừng lễ Vượt Qua cho toàn thể dân lưu đày và cho anh em tư tế của họ và chính mình họ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5

Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa" (c. 1).

Xướng: 1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. - Ðáp.

2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc của Chúa tiến lên. - Ðáp.

3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavit. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 18

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 8, 19-21

"Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu đến tìm Người, nhưng vì đám đông, nên không thể đến gần Người được. Người ta báo tin cho Người rằng: "Có mẹ và anh em Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy". Người trả lời với họ rằng: "Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".

Ðó là lời Chúa.

Gospel of the Day | Luke 8:19-21 Jesus' Mother and Brothers 19 Now Jesus'  mother and brothers came to see him, but they were not able to get near him  because of

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

m nay, Thứ Ba Tuần XXV Thường Niên, bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cũng rất ngắn ngủi, chỉ có 3 câu, tiếp ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua về chiều hướng lời Chúa nơi con người thắp sáng trần gian, và có liên hệ với bài Phúc Âm hôm qua về ý nghĩa của nó, về mối liên hệ đích thực giữa Người với những ai giữ lời Chúa, đó là bài Phúc Âm trong đó Chúa Kitô khẳng định về mối liên hệ thiêng liêng với Người:

"Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu đến tìm Người, nhưng vì đám đông, nên không thể đến gần Người được. Người ta báo tin cho Người rằng: 'Có mẹ và anh em Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy'. Người trả lời với họ rằng: 'Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành'".

Đúng thế, qua câu khẳng định về tình nghĩa thiêng liêng với Người này, Chúa Giêsu chẳng những không phủ nhận mối liên hệ tự nhiên về huyết nhục, nhất là đối với Người Mẹ của Người, mà còn đề cao Mẹ của Người hơn nữa, như muốn nhấn mạnh rằng Mẹ Maria của Người chẳng những có phúc vì đã được thụ thai và cưu mang Người (xem Luca 11:27) là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), là "Con Thiên Chúa", là "Con Đấng Tối Cao" (Luca 1:32,35), mà còn "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45), tin phục những gì đã truyền đạt cho Mẹ. 

Chính "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) của Mẹ mới làm và đã làm cho Mẹ nên một với Con của Mẹ, mới làm cho Mẹ xứng đáng đồng công cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Con Mẹ và với Con Mẹ, nhất là khi Mẹ đứng kề bên Thánh Giá của Người (xem Gioan 19:25). Mẹ là đệ nhất môn đệ của Con Mẹ, là môn đệ tuyệt hảo nhất của Con Mẹ đúng như Con Mẹ mong muốn, ở chỗ Mẹ là "người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành". 

Mẹ không thể nào có thể "đem ra thực hành" lời Chúa nếu không "nghe lời Thiên Chúa", như khi Mẹ nghe thấy câu trả lời của Thiếu Nhi Giêsu Con Mẹ 12 tuổi trong đền thờ sau 3 ngày lạc mất, một lời mà Mẹ không nắm bắt được ý nghĩa của nó (xem Luca 2:50), nhưng Mẹ vẫn lấy "đức tin tuân phục" để "xin vâng" như trong Biến Cố Truyền Tin (xem Luca 1:38), hay như khi Mẹ chứng kiến thấy những dấu lạ Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nhưng Mẹ vẫn lưu giữ tất cả những sự ấy mà suy niệm trong lòng, chẳng hạn như sự kiện ba chiêm tinh vương gia đông phương đến bái thờ Hài Nhi Giêsu Con Mẹ (xem Luca 1:19). 

Bởi thế, Mẹ thật sự là Mẹ của Chúa Kitô, Lời Nhập Thể cả về phương diện thể lý lẫn phương diện thiêng liêng. Nếu về phương diện tự nhiên, Mẹ đã hạ sinh nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét thuộc giòng dõi Đavít, thì về phương diện siêu nhiên, nhờ đức tin tuân phục của Mẹ, Mẹ đã thụ thai Lời Nhập Thể và Lời Nhập Thể đã chiếm đoạt Mẹ, biến Mẹ thành phương tiện thông ban ơn cứu độ, một ơn cứu độ trước tiên được thông ban cho thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, qua lời chào đầy Thánh Linh của Mẹ (xem Luca 1:41-44), và sau đó, cũng nhờ lời chuyển cầu thần thế của Mẹ, bằng vai trò trung gian môi giới, Chúa Giêsu lần đầu tiên đã tỏ mình ra cho các môn đệ của Người ở tiệc cưới Cana làm cho các vị tin vào Người (xem Gioan 2:1-11).

Chính nhờ tâm hồn đầy "đức tin tuân phục" của Mẹ mà chẳng những tâm hồn đầy ân phúc của Mẹ thực sự là Đền Thờ cho Chúa Thánh Thần ngự trị, mà nhờ đó cả thân xác trọn đời trinh nguyên của Mẹ nữa cũng đã hoàn toàn trở thành Đền Thờ vô cùng xứng đáng cho Lời Nhập Thể ẩn ngự trong suốt 9 tháng mở đầu cho cuộc sống trần gian của Người. 

Đúng thế, chỉ có những tâm hồn nào, như Mẹ Maria, trở thành Đền Thờ của Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa ngự, mới thật sự là thân nhân ruột thịt thiêng liêng của Chúa Giêsu và với Chúa Kitô, Vị Thiên Chúa Làm Người - Emmanuel. Dân Do Thái là dân được Thiên Chúa tuyển chọn làm sản nghiệp của Ngài giữa muôn dân trên thế gian này cũng thế, họ chỉ xứng đáng với Ngài khi họ trở thành nơi cho Thiên Chúa ngự giữa họ, như Đền Thờ Giêrusalem ở trong Thành Giêrusalem vậy.

Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Esdra, đã cho chúng ta thấy dân Do Thái, sau thời gian lưu đầy bởi tội lỗi của mình cho tới thời kỳ ấn định thì được hồi hương đúng như thời hạn Thiên Chúa đã báo trước qua tiên tri Giêrêmia (như Bài Đọc 1 hôm qua đã nhắc đến ngay ở đầu bài), và nhờ được cứu độ như thế, dân Chúa càng nhận biết Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình hơn và cố gắng sống xứng đáng với Ngài hơn, ở chỗ đã tái thiết Đền Thờ của Ngài và cho Ngài, như một dấu hiệu chứng thực lòng họ trở về với Ngài và gắn bó với Ngài, một việc tái thiết đền thờ đã được Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại như sau:

 

"Các kỳ lão người Do-thái xây cất đền thờ và công việc tiến hành nhanh chóng, nhờ lời sấm của tiên tri Khác-gai và tiên tri Dacaria, con ông Ađđô: họ xây cất và hoàn thành theo lệnh Chúa Israel truyền dạy, và theo lệnh các vua nước Ba-tư là Kyrô, Ðariô và Artaxerxê. Họ hoàn tất việc xây cất nhà Thiên Chúa ngày mồng ba tháng Ađar, năm thứ sáu triều vua Ðariô. Vậy con cháu Israel, các tư tế, các thầy Lêvi, và những người lưu đày còn sống sót, đều vui mừng hiến thánh nhà Thiên Chúa. Trong lễ cung hiến nhà Thiên Chúa, họ dâng một trăm con bò, hai trăm con cừu, bốn trăm con chiên, và để làm lễ đền tội cho cả dân Israel, họ cũng dâng mười hai con dê theo số các chi tộc Israel. Rồi họ cắt đặt các thầy tư tế theo phẩm trật và các thầy Lêvi theo cấp bậc, để giúp việc đền thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem, như đã chép trong sách của Môsê. Những con cái Israel lưu đày về mừng lễ Vượt Qua ngày mười bốn tháng thứ nhất. Các thầy tư tế và Lêvi, tất cả như một, đều được thanh tẩy, tất cả đều trong sạch, để sát tế mừng lễ Vượt Qua cho toàn thể dân lưu đày và cho anh em tư tế của họ và chính mình họ".

 

Đối với dân Do Thái thì Đền Thờ là tâm điểm của Do Thái giáo và là biểu hiệu cho đức tin của họ vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, giống như Tòa Thánh Rôma là trung tâm điểm của Kitô giáo và là vị trí có di tích lịch sử về đức tin Kitô giáo, hay Mecca đối với Hồi giáo cũng vậy. Và đó là lý do tín đồ Do Thái giáo luôn hướng về Đền Thờ Giêrusalem với tất cả niềm tin tưởng và hân hoan của mình, đúng như Thánh Vịnh 121 ở bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:

1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi.

2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc của Chúa tiến lên.

3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavit.

 

Ngày 23 tháng 9

Thánh Pi-ô Pi-ết-ren-si-na, linh mục

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Thánh nhân sinh tại làng Pi-ết-ren-si-na gần Bê-nê-ven-tô nước Ý năm 1887. Người vào tu dòng Anh Em Hèn Mọn, ngành Ca-pút-xi-nô, và sau khi thụ phong linh mục đã tận tình lo việc mục vụ nhất là tại tu viện ở thị trấn Xan Gio-van-ni Rô-tôn-đô miền Pu-li-a. Trong tinh thần cầu nguyện và khiêm nhường, người phục vụ dân Chúa qua việc linh hướng, bí tích Hoà Giải và việc săn sóc giúp đỡ những người ốm đau, nghèo khổ. Người đã được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô chịu đóng đinh và ngày 23 tháng 9 năm 1968, người kết thúc cuộc hành trình ở thế gian này.

Padre Pio had wounds on the hands, feet, side, shoulder, and an invisible  crown of thorns. Examinations

 

Bài đọc 2

Những viên đá xây nên đền thờ vĩnh cửu

Trích thư của thánh Pi-ô Pi-ết-ren-si-na, linh mục.

Thiên Chúa là nhà Nghệ Sĩ đã tìm cách chuẩn bị những viên đá để xây nên ngôi đền vĩnh cửu, bằng những nhát đục đẽo miệt mài và gọt giũa chuyên cần, tài khéo. Đó là điều mẹ rất dịu hiền của chúng ta là Hội Thánh Công Giáo ca ngợi trong bài thánh thi lễ cung hiến thánh đường. Và thật như vậy.

Bất cứ linh hồn nào được dành cho vinh quang vĩnh cửu có thể được coi cách rất đúng như viên đá, để xây nên ngôi đền vĩnh cửu. Kiến trúc sư xây nhà trước hết phải gọt đẽo những viên đá xây ngôi nhà đó. Ông phải dùng búa dùng đục mà làm. Cha trên trời cũng làm như thế đối với các linh hồn được tuyển chọn. Những linh hồn này, do sự khôn ngoan và quan phòng tuyệt vời của Người, đã được dành riêng từ thuở đời đời để xây dựng ngôi đền vĩnh cửu.

Vậy linh hồn được dành cho hưởng vinh quang vĩnh cửu để trị vì cùng Đức Ki-tô, cũng phải được gọt giũa bằng những nhát búa nhát đục. Thiên Chúa là nhà Nghệ Sĩ dùng những thứ đó để chuẩn bị đá là những tâm hồn được tuyển chọn. Những nhát búa, những nhát đục đẽo đó là gì ? Chị ơi, đó là các bóng tối, những sự sợ hãi, những cám dỗ, những sự buồn phiền trong tâm trí, những nỗi sợ hãi về đường thiêng liêng, với chút sầu não, và cả những đau đớn trong thân xác.

Vậy, chị em hãy tạ ơn lòng lành vô cùng của Cha muôn đời, vì Người đối xử như vậy đối với linh hồn chị em, linh hồn đã được dành sẵn cho ơn cứu độ. Tại sao không hãnh diện vì cách cư xử đầy tình nghĩa của người cha tốt nhất trong các người cha ? Chị em hãy mở tâm hồn ra cho Thiên Chúa là vị lương y của các linh hồn và phó thác mình vào cánh tay chí thánh của Người, với đầy lòng tin cậy. Người xử với chị em như những người được tuyển chọn để theo sát Đức Giê-su trên con đường dốc lên đồi Can-va-ri-ô. Tôi vui mừng và vô cùng cảm động, khi nhìn thấy ân sủng hoạt động nơi chị em thế nào.

Chị em đừng hoài nghi rằng mọi sự xảy đến cho linh hồn chị em là do Chúa xếp đặt. Vì thế đừng sợ rằng mình sa vào sự dữ hoặc xúc phạm đến Thiên Chúa. Chị em chỉ cần biết rằng : trong toàn bộ cách sống, chị em đã không bao giờ xúc phạm đến Chúa, trái lại Người đã được tôn vinh mỗi ngày một hơn.

Nếu Đấng Phu Quân vô cùng nhân hậu của linh hồn chị em ẩn mình, thì, không phải như chị em nghĩ, là vì Người muốn trả thù sự bất trung của chị em, mà chỉ là vì Người thử thách sự trung thành và kiên trì của chị em và chữa trị chị em cho khỏi một số bệnh tật, mà con mắt xác thịt không nhìn thấy, là những bệnh tật và sai lỗi ngay cả người công chính cũng không thoát khỏi. Thật vậy, Sách Thánh nói : Người công chính ngã bảy lần.

Chị em hãy tin tôi : giả như tôi không biết là chị em buồn sầu như vậy, thì tôi sẽ kém vui, vì tôi sẽ hiểu là Chúa ban cho chị em ít viên ngọc hơn. Hãy xua đuổi như những cám dỗ các hoài nghi ngược lại... Cũng hãy xua đuổi những hoài nghi về cách sống của chị em, nghĩ rằng chị em không nghe tiếng Chúa kêu gọi và bỏ ngoài tai những lời mời ngọt ngào của Đấng Phu Quân. Tất cả những điều đó không phát xuất từ thần khí tốt mà là từ thần khí xấu. Đó là những mưu ma chước quỷ nhằm làm cho chị em rời xa sự hoàn thiện, hay ít là chậm bước trên con đường tiến về đó. Chị em đừng nản lòng !

Khi Đức Giê-su tỏ mình ra, chị em hãy tạ ơn Người ; nếu Người ẩn mình, cũng cứ tạ ơn Người : đó là những trò vui của tình yêu. Tôi muốn chị em cùng Đức Giê-su trao phó mạng sống trên thập giá và cùng Đức Giê-su kêu lên : Đã hoàn tất.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Pi-ô, linh mục, ơn đặc biệt là được chung phần thập giá với Con Chúa, và nhờ thừa tác vụ của thánh nhân, Chúa đã tái thực hiện những kỳ công của lòng Chúa thương xót. Nhờ lời thánh nhân chuyển cầu, xin cho chúng con luôn được kết hợp với cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô để mai sau đạt tới vinh quang phục sinh. Chúng con cầu xin

 

(xin xem tiếp một số phụ bản về vị thánh này ở phần cuối tuần 25 Thường Niên này, sau PVLC Thứ Bảy và Tiểu Sử Thánh Vincent Phaolo)


 


Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Esd 9, 5-9

"Thiên Chúa không bỏ rơi chúng tôi trong cảnh nô lệ".

Trích sách Esdra.

Tôi là Esdra, khi dâng lễ tế ban chiều, tôi vùng dậy khỏi cơn âu sầu, áo trong áo ngoài đều rách hết, tôi quỳ gối xuống, giơ tay lên Chúa là Thiên Chúa tôi mà thưa rằng: "Lạy Chúa, con hổ ngươi thẹn thuồng không dám ngước mặt lên cùng Chúa: vì những sự gian ác của chúng con chồng chất trên đầu chúng con, và tội lỗi chúng con cao lên tới trời. Kể từ thời cha ông chúng con cho tới ngày nay, tội lỗi chúng con đã quá nhiều, và vì sự gian ác của chúng con, nên chúng con, vua chúa, tư tế của chúng con, bị trao vào tay vua các dân ngoại, bị gươm đao, bị lưu đày, bị cướp bóc và bị thẹn mặt như ngày nay.

"Và hiện giờ đây, Chúa vừa tạm ban cho chúng con một chút lòng thương xót, là để cho chúng con sống sót phần nào, và cho chúng con một nơi ẩn náu trong chốn thánh của Chúa, để soi sáng mắt chúng con, và ban cho chúng con một chút sự sống trong cảnh nô lệ của chúng con, vì chúng con là nô lệ mà Thiên Chúa không bỏ rơi chúng con trong cảnh nô lệ, nhưng Chúa đã khiến các vua Ba-tư thương xót chúng con, mà cho chúng con còn sống để chúng con xây cất nhà Thiên Chúa chúng con, tu bổ những nơi hoang tàn, và cho chúng con một chỗ ở trong xứ Giuđêa và tại Gierusalem".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tb 13, 2. 3-4. 6. 7. 8.

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa cao cả muôn đời (c. 1b).

Xướng: 1) Chúa trừng phạt, rồi lại tha thứ. Chúa đẩy xuống âm phủ, rồi lại đem ra; và không một ai thoát khỏi tay Chúa. - Ðáp.

2) Bởi vì thế, Chúa đã phân tán các ngươi giữa các dân tộc không nhìn biết Chúa, để các ngươi tường thuật các việc kỳ diệu của Người, để các ngươi làm cho họ biết rằng ngoài Người ra, không có Thiên Chúa toàn năng nào khác. - Ðáp.

3) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm cho chúng ta, hãy tuyên xưng Người với lòng cung kính và run sợ, hãy suy tôn vua muôn đời trong những việc làm của các ngươi. - Ðáp.

4) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu đày, vì Người tỏ ra uy quyền trước dân phạm tội. - Ðáp.

5) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn, hãy thực hiện sự công chính trước mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng từ bi với các ngươi. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Ga 2, 5

Alleluia, alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 1-6

"Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật. Ðoạn Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người bảo các ông rằng: "Khi đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ". Các ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao giảng Tin Mừng, và chữa lành bệnh tật khắp nơi.

Ðó là lời Chúa.


Image result for Lc 9, 1-6

Suy Nghiệm Lời Chúa


Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XXV Thường Niên, không tiếp nối bài Phúc Âm hôm qua, mà bỏ qua hết 34 câu còn lại của đoạn 8 Phúc Âm Thánh ký Luca, một khúc phúc âm bao gồm 3 sự kiện chính yếu sau đây: 

1- Chúa Giêsu dẹp yên bão tố khi được các môn đệ đánh thức lúc Người ngủ trên thuyền 
(câu 22-25), một sự kiện đã được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cho ngày Thứ Ba Tuần XIII Thường Niên; 

2- Người ra tay trừ quỉ cho m
ột người trần truồng ở Gerasene (câu 26-39), một sự kiện cũng đã được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cho ngày Thứ Tư Tuần XIII Thường Niên; và 

3- Ng
ười chữa lành người đàn bà loạn huyết 12 năm và hồi sinh đứa con gái của vị trưởng hội đường (40-56), một sự kiện cũng đã được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cho ngày Thứ Hai Tuần XIV Thường Niên.

B
ài Phúc Âm hôm nay bao gồm 6 câu đầu của đoạn 9 Phúc Âm Thánh Luca, liên quan đến biến cố Chúa Giêsu sai 12 tông đồ "đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân", một biến cố cũng đã được Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại cho Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên

Tuy nhi
ên, nếu bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên liên quan đến bài đọc 1 được trích từ Sách Khởi Nguyên (44:18-21,23-29;45:1-5): Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XIV Thường Niên, thì bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay liên quan đến Sách Esdra / Ezra

Nguyên văn n
ội dung của bài Phúc Âm hôm nay như thế này: "Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật. Ðoạn Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người bảo các ông rằng: 'Khi đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ'. Các ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao giảng Tin Mừng, và chữa lành bệnh tật khắp nơi".

Sách Ezra ở Bài Đọc 1 hôm nay liên quan đến ước vọng muốn tái thiết Đền Thờ Giêrusalem của nhân vật tác giả, một đền thờ đã bị tàn phá và bỏ hoang trong thời gian dân Do Thái Xứ Giuđêa bị đi đầy ở Babylon: "
Chúa đã khiến các vua Ba-tư thương xót chúng con, mà cho chúng con còn sống để chúng con xây cất nhà Thiên Chúa chúng con, tu bổ những nơi hoang tàn, và cho chúng con một chỗ ở trong xứ Giuđêa và tại Gierusalem".

Nếu Giáo Hội là Đền Thờ của Thiên Chúa thì các vị tông đồ quả thực là nền móng của Đền Thờ Giáo Hội (xem Epheso 2:20), thành phần tông đồ được Con Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi làm chứng nhân cho Người, nhưng được Người ban cho các quyền năng tương xứng, với vai trò đại diện Người và thay cho Người là Đấng đã thiết lập Giáo Hội, một Giáo Hội cần phải được các vị xây dựng trở nên một Đền Thờ xứng đáng là Nhiệm Thể của Người.

Phải chăng chính vì hàng giáo phẩm là thừa kế của các vị tông đồ, một hàng giáo phẩm có 3 vai trò chính yếu đó là quản trị, rao giảng và thánh hóa, mà các vị tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm nay, khi được Chúa Kitô sai đi, đã được Người "ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật. Ðoạn Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân".

"Sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật"
đây ám chỉ quyền năng thánh hóa của các tông đồ và những ai kế nhiệm các vị, một quyền năng thánh hóa bằng các phép bí tích: Bí tích Rửa Tội bao gồm cả quyền năng trừ tà và Bí tích Giải tội cùng Bí tích Xức Dầu bao gồm quyền năng chữa lành về phần hồn, liên quan đến cả phần xác. "Ðoạn Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa" là chi tiết cho thấy quyền năng giảng dạy của các tông đồ.

Tuy nhiên, cho dù được quyền năng thay cho Chúa Kitô để thực hiện việc giảng dạy và thánh hóa như Đấng đã tuyển chọn mình, tin tưởng mình, thánh hóa mình và truyền sai mình, các tông đồ còn phải sống làm sao để có thể chứng thực mình thực sự từ Thiên Chúa mà đến, là chứng nhân sống động của Người nữa, thì nhân loại nói chung và những ai giao tiếp với các vị, lắng nghe các vị, mới có thể nhận biết Chúa Kitô trong các vị và qua các vị mà trở về với Người.

Đó là lý do các vị còn được Chúa Kitô căn dặn thêm về tinh thần cần phải có của một chứng nhân đích thực và sống động của Người, đó là tinh thần khó nghèo tín thác, hành vi cử chỉ bình dân hòa đồng, thái độ không đòi hỏi hay nghi kỵ thành kiến hoặc oán hờn: "khi đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ".

Lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho thấy, cho dù họ có thất trung với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ đến thế nào chăng nữa, thậm chí ra tay sát hại các tiên tri là ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến nhắc nhở họ, đến độ máu của các vị đổ ra kêu thấu đến trời cao, một tình trạng bất chấp thành phần ngôn sứ của Thiên Chúa, có thể so sánh với tác động phủi bụi chân của các tông đồ được Chúa Kitô sai đi trong Bài Phúc Âm hôm nay. Tuy nhiên, trong tình trạng cùng khốn của mình do tội lỗi của mình gây ra, một khi họ biết lỗi và kêu van Thiên Chúa là Đấng đã sử dụng chính tội lỗi của họ để làm cho họ tỉnh thức để Ngài ra tay cứu độ họ, Ngài sẽ lại ra tay cứu độ họ, một nhận thức được tác giả của Bài Đọc 1 hôm nay tỏ lộ:

"Lạy Chúa, con hổ ngươi thẹn thuồng không dám ngước mặt lên cùng Chúa: vì những sự gian ác của chúng con chồng chất trên đầu chúng con, và tội lỗi chúng con cao lên tới trời. Kể từ thời cha ông chúng con cho tới ngày nay, tội lỗi chúng con đã quá nhiều, và vì sự gian ác của chúng con, nên chúng con, vua chúa, tư tế của chúng con, bị trao vào tay vua các dân ngoại, bị gươm đao, bị lưu đày, bị cướp bóc và bị thẹn mặt như ngày nay.... chúng con là nô lệ mà Thiên Chúa không bỏ rơi chúng con trong cảnh nô lệ, nhưng Chúa đã khiến các vua Ba-tư thương xót chúng con, mà cho chúng con còn sống để chúng con xây cất nhà Thiên Chúa chúng con, tu bổ những nơi hoang tàn, và cho chúng con một chỗ ở trong xứ Giuđêa và tại Gierusalem".

Thánh Vịnh 13 ở bài Đáp Ca hôm nay quả thực đã nhận thức như thế, nhận thức được yếu điểm của lòng thương xót Chúa, lòng thương xót của một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình, không bao giờ bỏ rơi mình, dù mình có tội lỗi đến đâu, miễn là mình biết nhận lỗi, hối lỗi và xin lỗi Ngài, để xứng đáng được Ngài xót thương và để Ngài được dịp tỏ lòng thương xót vô cùng bất tận của Ngài hơn nữa:

 1) Chúa trừng phạt, rồi lại tha thứ. Chúa đẩy xuống âm phủ, rồi lại đem ra; và không một ai thoát khỏi tay Chúa.

2) Bởi vì thế, Chúa đã phân tán các ngươi giữa các dân tộc không nhìn biết Chúa, để các ngươi tường thuật các việc kỳ diệu của Người, để các ngươi làm cho họ biết rằng ngoài Người ra, không có Thiên Chúa toàn năng nào khác.

3) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm cho chúng ta, hãy tuyên xưng Người với lòng cung kính và run sợ, hãy suy tôn vua muôn đời trong những việc làm của các ngươi.

4) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu đày, vì Người tỏ ra uy quyền trước dân phạm tội.

5) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn, hãy thực hiện sự công chính trước mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng từ bi với các ngươi.

 

 

 


Thứ Năm


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Kg 1, 1-8

"Các ngươi hãy xây cất đền thờ và như thế sẽ đẹp lòng Ta".

Khởi đầu sách Tiên tri Khác-gai.

Ngày mồng một tháng sáu năm thứ hai triều đại vua Ðariô, có lời Chúa sai tiên tri Khác-gai đến nói với Giorôbabel, con trai ông Giosêđec, thầy cả thượng phẩm những lời sau đây: "Ðây Chúa các đạo binh phán: Dân này nói: "Chưa đến lúc xây cất đền thờ Chúa". Và có lời Chúa dùng tiên tri Khác-gai phán rằng: "Chớ thì đến lúc các ngươi cư ngụ trong nhà ấm cúng, và để đền thờ này hoang vu sao?" Giờ đây Chúa các đạo binh phán như thế này: "Các ngươi hãy lưu tâm đến đường lối các ngươi. Các ngươi đã gieo nhiều mà thu vào ít: các ngươi đã ăn không no, đã uống không say, đã mặc không ấm, kẻ nhận tiền công lại bỏ vào túi lủng". Chúa các đạo binh phán như thế này: "Các ngươi hãy lưu tâm đến đường lối các ngươi: Hãy lên núi mang gỗ về xây cất đền thờ, như thế sẽ đẹp lòng Ta và Ta sẽ được tôn vinh". Chúa phán như vậy.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b

Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.

2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con, bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.

3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 7-9

"Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu rồi, ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: "Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại"; còn kẻ khác lại nói: "Ông Êlia đã hiện ra"; kẻ khác nữa nói rằng: "Một tiên tri thời xưa đã sống lại". Nhưng Hêrôđê thì nói: "Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế?" và vua tìm cách gặp Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

Suy Nghiệm Lời Chúa


Thứ Bảy Tuần XVII Thường Niên Giáo Hội đã chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu 
có nội dung về biến cố Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị chém đầu với lời mở đầu của quận vương Hêrôđê liên quan đến danh tiếng của Chúa Giêsu:  Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XVII Thường NiênHôm nay, Thứ Năm Tuần XXV Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cũng lập lại lời của vị quận vương này về danh tiếng của Chúa Giêsu liên quan đến cái chết của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả. 

Tuy nhiên, trong khi Phúc Âm Thánh Mathêu bao gồm cả tiến trình xẩy ra việc lấy thủ cấp của vị thánh này và chỉ nói vỏn vẻn đến cảm nhận của quận vương Hê
rôđê, thì Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay lại không thuật lại tất cả diễn tiến xẩy ra biến cố ấy, nhưng bao gồm cả các cảm nhận khác cùng với cảm nhận của chính quận vương Hêrôđê về Chúa Giêsu:

"Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: 'Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại'; còn kẻ khác lại nói: 'Ông Êlia đã hiện ra'; kẻ khác nữa nói rằng: 'Một tiên tri thời xưa đã sống lại'. Nhưng Hêrôđê thì nói: 'Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế?' và vua tìm cách gặp Người".


Tr
ước hết, chúng ta thấy rằng, nhờ Phúc Âm của Thánh ký Luca chúng ta có thể suy ra là cảm nhận của quận vương Hêrôđe trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu có thể đã bị ảnh hưởng bởi cảm nhận của một vị quần thần nào đó của vua: "vì có kẻ nói rằng: 'Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại'", và vua chỉ lập lại cảm nhận ấy như là cảm nhận của vua về Chúa Giêsu thôi: "Thời ấy, tiểu vương Hêrôđê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ" (14:2)

Qua cảm nhận này của quận vương Hêrôđê, người ta có cảm tưởng là vị quận vương này vừa đánh trống vừa ăn cướp, đúng là một "con cáo" (Luca 13:32) muốn "tìm giết" cả Người nữa, như Người đã được một số người biệt phái mật báo cho biết sau này (xem Luca 13:31). Còn trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, ông ta lại có vẻ khách quan hơn, thiện chí hơn và 
tỏ ra thân thiện hơn với Chúa Giêsu: "Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân... 'Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế?' và vua tìm cách gặp Người".

Ở đây, trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca, vị 
quận vương Hêrôđê này chỉ tỏ ra thắc mắc mà thôi, chứ không suy diễn rồi đi đến quả quyết chủ quan một cách hống hách ngang tàng như trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, và chính vì thắc mắc nên ông mới muốn "tìm cách gặp Người". 

Kh
ông ngờ, ước nguyện muốn được gặp Người của ông cuối cùng cũng đã được đáp ứng, khi tổng trấn Philatô, nghe biết Chúa Giêsu gốc gác thuộc về miền Galilêa là vùng thuộc thẩm quyền của ông, đã giải giao Người cho ông, và khi nghe thấy thế ông đã tỏ ra "hết sức vui mừng để gặp Người", nhưng ông đã hoàn toàn thất vọng khi gặp Người, bởi ông chỉ muốn "xem Người làm một phép lạ nào đó", mà không được toại nguyện nên ông cùng đám vệ binh của ông đã tỏ ra khinh chê nhạo báng Người (xem 23:6-12). 

Ph
ải chăng Kitô hữu chúng ta đôi khi cũng chỉ muốn "tìm cách gặp Người" như quận vương Hêrôđê này để được "xem Người làm một phép lạ nào đó", ở chỗ Người ban cho chúng ta những điều chúng ta xin Người, nhất là trong cơn gian nan khốn khó hoạn nạn của chúng ta, cần được cứu vớt nhanh bao nhiêu có thể, lạ bao nhiêu có thể theo lòng mong ước chủ quan thiển cận của chúng ta, nhưng xin mãi mà Người vẫn im lìm chẳng nhúc nhích gì, khiến chúng ta cảm thấy chán ngán Người, xa lánh Người và thậm chí chối bỏ Người cùng nguyền rủa Người?

Thái độ và lòng mong ước của quận vương Hêrôđê muốn tìm cách gặp Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay chỉ vì muốn được "xem Người làm một phép lạ nào đó" thì cũng chẳng khác gì như tâm trạng của dân Do Thái ở Bài Đọc 1 hôm nay, trích từ Lời Chúa phán trong Sách Tiên Tri Khác-gai: "Các ngươi hãy lưu tâm đến đường lối các ngươi. Các ngươi đã gieo nhiều mà thu vào ít: các ngươi đã ăn không no, đã uống không say, đã mặc không ấm, kẻ nhận tiền công lại bỏ vào túi lủng".

Bởi thế, cũng qua Tiên Tri Khác-gai ở Bài Đọc 1 hôm nay, Chúa mới truyền dạy cho dân của Ngài phải làm sao mới đẹp lòng Ngài, như sau: "Các ngươi hãy lưu tâm đến đường lối các ngươi: Hãy lên núi mang gỗ về xây cất đền thờ, như thế sẽ đẹp lòng Ta và Ta sẽ được tôn vinh". Chính vì dân của Ngài đã đáp ứng lời truyền dạy của Ngài mà họ mới có được tâm tình hân hoan như trong Thánh Vịnh 149 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:

 

1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ.

2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con, bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang.

3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.

 

 


Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Kg 2, 1b-10

"Còn một ít lâu nữa, Ta sẽ làm cho đền thờ này đầy vinh quang".

Trích sách Tiên tri Khác-gai.

Năm thứ hai triều đại vua Ðariô, đến ngày hai mươi mốt tháng bảy, có lời Chúa dùng tiên tri Khác-gai mà phán rằng: "Ngươi hãy nói với Giorôbabel, con trai tướng lãnh Giuđa, là Saluthiel, nói với Giosua, con trai thượng tế Giosêđec, và với những kẻ sống sót lại trong dân rằng: "Ai trong các ngươi là kẻ sống sót lại đã nhìn thấy vinh quang thuở xưa của đền thờ này: và giờ đây các ngươi xem thấy nó thế nào? Chớ thì nó chẳng là không trước mắt các ngươi sao? Và Chúa lại phán: Hỡi Giorôbabel, giờ đây hãy can đảm. Hỡi Giosua, con trai thượng tế Giosêđêc, hãy can đảm; và toàn dân trên lãnh thổ, hãy can đảm, đây Chúa các đạo binh phán: Các ngươi hãy khởi công, vì Ta ở cùng các ngươi, Chúa các đạo binh phán như vậy. Có lời Ta đã giao ước với các ngươi, khi các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, là thần linh Ta sẽ ở giữa các ngươi, nên các ngươi đừng sợ".

Vì Chúa các đạo binh phán như thế này: "Còn ít lâu nữa, Ta sẽ khiến trời đất, biển khơi và đất cạn chuyển động. Ta cũng sẽ khiến mọi dân tộc chuyển động; và Ðấng mọi dân tộc trông đợi sẽ đến: Ta sẽ làm cho đền thờ đầy vinh quang, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vàng bạc đều là của Ta, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vinh quang đền thờ sau hết này sẽ cao trọng hơn vinh quang đền thờ trước, Chúa các đạo binh phán như vậy: trong nơi này, Ta sẽ ban hoà bình, Chúa các đạo binh phán như vậy".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 42, 1. 2. 3. 4

Ðáp: Hãy cậy trông Ðức Chúa Trời, vì con còn ca tụng Chúa, Ðấng cứu thể diện và là Thiên Chúa của con (c. 5bc).

Xướng: 1) Xin Chúa minh xét cho con, ôi Thiên Chúa, xin bênh vực quyền lợi con đối nghịch với dân vô đạo, xin cứu con khỏi tay người độc ác, điêu gian! - Ðáp.

2) Vì lạy Chúa, Chúa là sức mạnh con, cớ chi Chúa bỏ con? Cớ chi con phải sống ngậm ngùi vì bị quân thù áp bức? - Ðáp.

3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thật của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.

4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 18-22

"Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì Người hỏi các ông rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông thưa rằng: "Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại". Người lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa". Và Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lc 9, 18-22

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXV Thường Niên, trùng với bài Phúc Âm của Thánh ký Marco của Chúa Nhật XXV đầu tuần vừa rồi, cũng như trùng với bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Thứ Năm Tuần XVIII Thường Niên. 

Cả 3 bài Phúc Âm đều thuật lại sự kiện dân chúng nói chung và các môn đệ nói riêng cảm nhận về căn tính của Chúa Giêsu: "Phần
 các con, các con bảo Thày là ai?". Ở Phúc Âm của Thánh ký Marco thì câu trả lời của vị đại diện tông đồ đoàn bấy giờ là Thánh Phêrô đã thưa ngắn nhất: "Thày là Đức Kitô" (8:29), và ở Phúc Âm của Thánh ký Mathêu câu trả lời của ngài lại dài nhất: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (16:16), còn ở bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay câu trả lời của ngài vừa phải, hòa hợp giữa 2 câu trả lời ngắn dài trên đây: "Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa".

Câu trả lời tuyên xưng đức tin của Thánh Phêrô được 3 Phúc Âm trong bộ Phúc Âm Nhất lãm thuật lại hơi khác nhau về văn tự, nhưng nội dung vẫn như nhau. Ở chỗ "Thày là Đức Kitô" (Phúc Âm Thánh Marco), cho dù
 "Đức Kitô" ấy "của Thiên Chúa" (Phúc Âm Thánh Luca) hay là "Con Thiên Chúa hằng sống" (Phúc Âm Thánh Mathêu). Bởi vì, tự bản chất "Đức Kitô" phải là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, bằng không, không phải là "Đức Kitô". 

Tuy nhiên, theo mạc khải thần linh, "Đức Kitô" này, "Đức Kitô" được chung dân chúng cảm nhận như 
là một vị đại tiên tri, như Gioan Tẩy Giả hay như Elia, cũng như được riêng các tông đồ tuyên xưng đúng như căn tính của Người, đúng như sự thật nơi nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét này, lại có một dung nhan lưỡng diện, chẳng những có mặt phải mà còn có cả mặt trái nữa.

Vậy nếu mặt phải của dung nhan lưỡng diện này của "Đức Kitô" là gì, nếu không phải 
là "Con Thiên Chúa hằng sống" (Phúc Âm Thánh Mathêu), thì mặt trái của dung nhan Người là gì, nếu không phải là Đấng Vượt Qua, như cả 3 Phúc Âm Nhất lãm này cho thấy, hay trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay thuật lại: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại". 

Ch
ính mặt trái nơi dung nhân của "Đức Kitô" này đã khiến cho chung dân Do Thái, đặc biệt là thành phần thày dạy lề luật của họ là luật sĩ và biệt phái, nhất là Hội Đồng Đầu Mục Do Thái lãnh đạo trong dân, thậm chí bao gồm cả thành phần môn đệ thân tín nhất của "Đức Kitô" là các tông đồ, tất cả đều vấp phạm vì Người, tức không nhận ra Người, đến độ phản nộp Người, chối bỏ Người, lên án Người, thách đố nhạo báng Người xuống khỏi thập giá để họ tin Người quả thực là Đấng Thiên Sai (xem Mathêu 27:39-42; Marco 15:29-32; Luca 23:35).

Th
ật vậy, làm sao dân Do Thái nói chung và các tông đồ môn đệ của Người nói riêng có thể nhận ra Người và chấp nhận Người được, nếu qua lời tiên báo về cuộc vượt qua của Người lần thứ nhất này trở thành hiện thực, khi mà một "Đức Kitô" khôn ngoan giảng dạy và quyền năng chữa lành ấy lại có một dung nhan thật trái khuấy, hoàn toàn bị biến dạng trông vô cùng ghê rợn, đến độ Người không còn dung nhan hình hài gì nữa (xem Isaia 52:14), thậm chí Người còn trở nên như sâu bọ đất không còn là người (xem Thánh Vịnh 22:7), một sự thật quá ư là phũ phàng và vô cùng bất xứng với danh phận vô cùng uy nghi cao cả và thiện hảo của một Đấng Thiên Sai, "Con Thiên Chúa hằng sống".

Trong đời sống tu đức cũng thế, theo bản tính và khuynh hướng tự nhiên, không ai trong loài người nói chung và Kitô hữu nói riêng lại yêu thích đau khổ thử thách, trái lại, còn tìm cách xa lánh và tiêu diệt nó bao nhiêu có thể. Bởi thế, ai cũng sung sướng khi được may lành và chúc phúc trong cuộc sống, cũng như 
nơi mọi việc mình làm, nhất là khi được ơn an ủi lúc mới bước chân vào đường trọn lành hay khi mới tĩnh tâm xong v.v. Thế nhưng khi đụng độ với đau khổ, tức khi giáp mặt với một "Đức Kitô" khổ nạn và tử giá đầy thương tích vô cùng khủng khiếp và ghê rợn, mới biết được cường độ đức tin của chúng ta mạnh mẽ tới đâu, mức độ đức cậy của chúng ta vững chắc tới chừng nào, và nhiệt độ đức mến của chúng ta sốt nóng tới bao nhiêu!

Ngay sau lời tuyên xưng của tông đồ Phêrô bấy giờ, Chúa Kitô đã tỏ cho các tông đồ biết thâm cung bí sử của Đấng được các vị, qua tông đồ Phêrô, tuyên xưng, Đấng sẽ Vượt Qua, tức sẽ phải chịu khổ giá rồi mới tới vinh quang phục sinh thế nào, thì Thiên Chúa, qua Sách Tiên Tri Khác-gai ở Bài Đọc 1 hôm nay, cũng tiên báo về Vị Thiên Sai của Ngài qua hình ảnh một Đền Thờ Giêrusalem sau khi bị quân ngoại tàn phá trở thành vinh quang hơn trước như thế này:

"Còn ít lâu nữa, Ta sẽ khiến trời đất, biển khơi và đất cạn chuyển động. Ta cũng sẽ khiến mọi dân tộc chuyển động; và Ðấng mọi dân tộc trông đợi sẽ đến: Ta sẽ làm cho đền thờ đầy vinh quang, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vàng bạc đều là của Ta, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vinh quang đền thờ sau hết này sẽ cao trọng hơn vinh quang đền thờ trước, Chúa các đạo binh phán như vậy: trong nơi này, Ta sẽ ban hoà bình, Chúa các đạo binh phán như vậy".

Thánh Vịnh 42 ở bài Đáp Ca hôm nay có thể nói là chính tâm tình của Vị Thiên Sai Kitô Cứu Thế, tuy là "Con Thiên Chúa hằng sống" nhưng, mang thân phận làm người, thân phận gánh tội trần gian, mà Người cũng hướng về Cha là Đấng đã sai Người mà nguyện xin Cha hãy tỏ vinh quang của Cha ra qua Người như sau:

1) Xin Chúa minh xét cho con, ôi Thiên Chúa, xin bênh vực quyền lợi con đối nghịch với dân vô đạo, xin cứu con khỏi tay người độc ác, điêu gian!

2) Vì lạy Chúa, Chúa là sức mạnh con, cớ chi Chúa bỏ con? Cớ chi con phải sống ngậm ngùi vì bị quân thù áp bức?

3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thật của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài.

4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con.

 

 

Ngày 26-09

Thánh COSMA và Thánh ĐAMIANÔ
 tử đạo

 

Theo truyền thuyết, thánh Cosma và Đamianô là hai anh em sinh đôi. Sinh tại Ả rập. Các Ngài sớm mồ côi cha. Mẹ các Ngài là một góa phụ nhân đức, đã không tiếc gì để giáo dục con cái về tri thức và đạo đức. Bà gửi hai con theo học ở Syria. Tại đây Cosma và Đamianô nổi tiếng là lương thiện, vô vị lợi và trong trắng. Vì thế, người ta đã đặt cho hai ngài một danh xưng bằng tiếng Hy Lạp là “những người nghèo khó.”  Với cách thức đó, các ngài đã hoán cải được nhiều người trở thành tín hữu Công giáo.

Nhiệt thành với đức tin, các Ngài dự tính học nghề thuốc. Khoa này vào thời ấy bị coi rẻ. Nhưng các Ngài tin rằng khi chữa lành thể xác con người các Ngài có thể góp phần vào việc chữa trị tật bệnh linh hồn. Mỗi khi có dịp, cả hai vị thánh đều kể cho các bệnh nhân của mình nghe biết về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Và vì yêu mến cặp bác sĩ song sinh này, họ đã rất sẵn lòng lắng nghe hai ngài. Cosma và Đamianô thường mang lại sức khỏe cả phần xác lẫn phần hồn cho những người đến xin các ngài giúp đỡ.

Thiên Chúa đã chúc lành cho dự tính của các Ngài và ban cho các Ngài được thông thạo về nghề thuốc. Chữa bệnh hoàn toàn miễn phí, các Ngài càng ngày càng trở nên danh tiếng vì những cuộc chữa lành nhờ lời cầu nguyện. Những cuộc chữa lành lạ lùng này lôi cuốn được nhiều người, kể cả các lương dân đến với các Ngài. Tuy nhiên, chính vì tiếng tăm lừng lẫy này đã đưa tới cái chết vì đạo của các Ngài.

Các hoàng đế Điôclêtianô và Maximianô quyết tận diệt Kitô giáo, đã sai tổng trấn Lysias đến Ege để ép buộc các Kitô hữu phải dâng hương tế thần. Ai không tuân lệnh sẽ bị sát hại. Các lương dân tố cáo với quan tổng trấn rằng có hai người rất thạo nghề thuốc nhưng lại là thù địch chí tử của các thần minh. Nếu họ tiếp tục hành nghề các đền thờ sẽ trống vắng và cả nước sẽ theo Kitô giáo hết. Nghe tin này quan tổng trấn truyền bắt giam hai Ngài. Sau khi bắt các Ngài phải dâng hương tế thần mà không được, ông ra lệnh hành hạ các Ngài. Nhờ ơn Chúa, hai thánh Cosma và Đamianô đã nhẫn nại chịu đựng, lại còn tỏ ra hân hoan nữa. Quan lính trói các Ngài rồi bỏ xuống biển, nhưng các thiên thần đã đến tháo cởi xiềng xích và cứu các Ngài bình an vô sự.

Chứng kiến phép lạ tỏ tường ấy, thêm nhiều người được ơn trở lại. Sau khi Cosma và Đamianô qua đời, có nhiều chứng bệnh được chữa lành qua lời chuyển cầu của các ngài. Đôi khi hai vị còn hiện ra trong giấc mơ để mách bảo cho bệnh nhân phương pháp chữa bệnh. Nghe tin này, quan tổng trấn truyền lập giàn thiêu. Nhưng giữa ngọn lửa cháy bừng, hai thánh nhân vẫn không hề hấn gì. Cuối cùng quan tổng trấn ra lệnh xử trảm. Hai thánh Cosma và Đamianô khẩn khoản nài xin Chúa thương nhận lễ dâng của các Ngài và cầu xin Chúa tha tội cho những kẻ đã hành hạ mình. Sau những nhát chém đầu tiên, đầu các Ngài lìa xác và nhận phúc tử vì đạo. Hôm ấy là ngày 26-09-297.

Danh tiếng của hai thánh Cosma và Đamianô lan rộng khắp Giáo hội vì những cuộc chữa lành bệnh các Ngài đã thực hiện. Hoàng đế Justinô I khuyến khích lòng sùng kính hai thánh nhân. Một nguyện đường được xây dựng ở Aege miền Cilicia để ghi nhớ nơi các Ngài chịu chết vì đạo. Tại Roma, Đức Thánh Cha Symmachô (498 - 514) đã cho xây nguyện đường kính hai thánh, và Đức Thánh Cha Felix IV (526 - 530) đã cho xây một đại giáo đường kính các Ngài. Tại Brazil, Cosma và Đamianô được coi là người bảo vệ trẻ em, vào ngày lễ kính, tín hữu Brazil tặng các trẻ em những túi kẹo có in hình các ngài. Cùng với thánh Luca, hai thánh Cosma và Đamianô được đặt làm thánh bổn mạng các y sĩ và các nhà giải phẫu.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ websites của TGP Sài Gòn, Dòng Tên và CGVDT

 

Dẫn Nhập

(Đaminh Maria cao tấn tĩnh)

Đọc hay nghe truyện 2 Thánh Cosma và Đamianô hôm nay, chúng ta thấy được rằng bất cứ dân nước nào trên thế giới trên thế giới đều có thể nên thánh, đều có người tốt, dù chủng tộc của họ có thế nào chăng nữa. Theo lịch sử của Giáo Hội, thì Phi Châu, một châu lục vốn bị coi là chậm tiến nhất thế giới, thua cả Á Châu, thế mà ngay từ đầu đã có những vị thánh đặc biệt và nổi tiếng, như Thánh Giám Mục Cypriano thế kỷ thứ 3, hay Thánh Âu Quốc Tinh, Thánh Monica thế kỷ thứ 5 v.v.

Kể từ sau khi Kitô giáo được chính Con Thiên Chúa xuống thế làm người thành lập, tức là kể từ sau khi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) là Chúa Giêsu Kitô, "ánh sáng chân thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:12), thì kể như không còn một đạo giáo nào khác trên thế giới có vẻ mê tín dị đoan và đa thần xuất hiện nữa, như trước thời Kitô giáo này. Tuy nhiên, vào thế kỷ thứ 7, một tôn giáo hoàn toàn mới mẻ đã xuất hiện, mang tính cách pha trộn giữa Do Thái giáo và Kitô giáo, cũng tôn thờ một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất như Do Thái giáo và Kitô giáo, tuy nhiên, lại qua một vị trung gian khác, đó là vị đại tiên tri Mohammed của họ, hơn là Moisen của Do Thái giáo, hay Đức Giêsu Kitô của Kitô giáo.

 Thứ đạo mới này được gọi là Hồi giáo (Islam), và tín đồ của tôn giáo này được gọi là Muslim, có nghĩa là thành phần thuận phục Thiên Chúa. Vị giáo tổ Mohammed của họ được cho là đã đọc toàn bộ Thánh Kinh Kitô giáo, (kỹ đến đâu thì không biết), nên đã biết lịch sử dân Do Thái trong Cựu Ước, và cả Chúa Giêsu lẫn Đức Maria cùng Tổng Thần Gabriel trong Tân Ước; nhưng ông chỉ công nhận tổ phụ Abraham, vì có liên quan đến cả dân Do Thái (từ Isaac là con thứ của vị tổ phụ) lẫn Ả Rập (liên quan đến người con Ismael được sinh ra theo xác thịt từ nữ đầy tớ Ai Cập, tỳ nữ của Sara, vợ của tổ phụ Abraham). Còn Chúa Giêsu cũng chỉ là vị tiên tri ngang hàng với ông, thậm chí còn thua ông.

Ông đã viết Kinh Koran, được tín đồ coi như "thánh kinh" của họ, vị vị đại tiên tri giáo tổ của họ được Thần Gabiên mạc khải cho, trong đó, ông chủ trương tất cả những gì hợp với Cựu Ước hơn là Tân Ước, chẳng hạn, 2 điều điển hình nhất là chủ trương đa thê của Cựu Ước, hơn là đơn thê của Tân Ước, và chủ trương tính cách có vẻ bạo lực của Cựu Ước, vì ông thấy Vị Thiên Chúa của Cựu Ước rất công thẳng, động một tí là trừng phạt nghiêm minh, hơn là lòng nhân từ của Cha Trên Trời là Đấng Xót Thương (xem Luca 6:36) nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô trong Tân Ước v.v. Từ đầu thế kỷ 21, thế giới đã liên tục xẩy ra các cuộc khủng bố tự sát gây ra bởi những con người hay những nhóm khủng bố quốc tế, nổi tiếng nhất là Al-Queda, một tổ chức đã công khai tấn công khủng bố Hoa Kỳ sáng ngày 11/9/2001, và từ năm 2014, một nhóm khủng bố khác xuất hiện ở Iraq, được gọi là ISIS, còn kinh khủng dữ tợn hơn nữa, đã gây ra biết bao chết chóc và kinh hoàng trên khắp thế giới, nhất là thế giới Tây Phương, với các cuộc khủng bố đã xẩy ra ở Pháp, Anh, Tây Ban Nha v.v., và ngay cả trong vùng thế giới riêng của họ, bao gồm cả Iraq và Syria, đến độ họ đã làm cho dân chúng phải thoát thân, tràn sang Âu Châu qua ngả Thổ Nhĩ Kỳ, khiến Âu Châu vẫn còn chới với tới bây giờ....

Hôm nay, nhân lễ hai vị thánh người Ả Rập, chúng ta cũng nên đọc thêm về một người Ả Rập khác, một người Ả Rập Hồi giáo nhưng rất thành tâm và rất can đảm, dám lên tiếng kêu gọi và nhắc nhở chính đồng đạo Hồi giáo của mình, về chính đạo giáo của mình, một thứ đạo, như chúng ta thấy, ngay từ ban đầu, ngay từ thời vị giáo tổ của họ, đã chủ trương canh tân xã hội bằng vũ lực, bằng các cuộc thánh chiến, thậm chí bằng cả các cuộc tấn công khủng bố, bất chấp là ai, kể cả chính đồng đạo của họ, và tôn giáo hóa chính trị, bắt mọi người không phải Hồi giáo, đều bị họ cho là bọn bất trung infidels, nghĩa là không thuận phục Thiên Chúa như họ, thành phần mang danh Muslim với ý nghĩa như thế, phải cải đạo trở về thuận phục vị Thiên Chúa Allah Vĩ Đại chân thực duy nhất của Hồi giáo, qua Mohammed là vị đại tiên tri trung gian đích thực duy nhất của Ngài. Tạ ơn Chúa còn cho thế giới thấy có những tia sáng phát ra từ một thứ thế giới đã từng liên tục ôm mộng thống chiếm Âu Châu, và đã liên tục bách hại cùng sát hại Kitô giáo chưa từng thấy như hiện nay.

 


"Từ đáy lòng của một người Hồi giáo chân thực"

Tác giả là bác sĩ Tawfik Hamid, một nhà thông thái Ai cập, với bằng cấp Y sĩ nội khoa và bằng Cao học tâm lý nhận thức và kỷ thuật giáo dục.

 

 
image


 
Tôi được sinh ra là người Hồi Giáo và đã sống suốt cuộc đời như một tín đồ Hồi Giáo. Sau những cuộc tấn công khủng bố man rợ khắp nơi trên thế giới của hành tinh này qua bàn tay của những anh em hồi giáo của tôi, và sau quá nhiều hành vi bạo lực của những tín đồ hồi giáo ở nhiều nơi trên thế giới, tôi - một người hồi giáo và là một con người, cảm thấy có trách nhiệm nói lên và kể ra sự thật để bảo vệ cho thế giới, kể cả người hồi giáo, tránh khỏi một tai họa có thể thấy trước và một trận chiến giữa các nên văn minh.
Tôi phải thừa nhận rằng giáo huấn hiện hành của hồi giáo kích động bạo lực và sự thù ghét đối với những người không phải là tín đồ hồi giáo.

 
image

Chúng ta, những người hồi giáo là những kẻ cần phải thay đổi.

 
Cho đến nay, chúng ta vẫn chấp nhận chế độ đa thê, sự bạo hành thể xác của bọn đàn ông đánh đập người phụ nữ và sự tử hình đối với những người bỏ đạo hồi để qua các tôn giáo khác.
Chúng ta chưa từng bao giờ có được một lập trường rõ ràng và vững chắc chống lại quan niệm về nạn nô lệ hoặc chiến tranh, chống lại phương thức truyền bá đạo chúng ta bằng cách chế ngự những kẻ khác vào đạo hồi và buộc họ phải trả một loại thuế nhục nhã gọi là Jizia. Chúng ta đòi người khác phải tôn trọng tôn giáo của chúng ta, trong khi chúng ta lúc nào cũng chưởi lớn (bằng tiếng Ả Rập) những kẻ ngoại đạo trong những buổi cầu nguyện vào ngày thứ sáu trong các thánh thất hồi giáo.

 
image
Chúng ta phát ra thông điệp nào cho con cháu của chúng ta khi chúng ta gọi những người Do Thái là “đồ hậu sinh của loài heo khỉ” ? (dù rằng người Ả Rập và người Do Thái đều là hậu duệ của ông Abraham) ! Phải chăng đó là một thông điệp của tình thương và hòa bình, hay là một thông điệp của sự thù hận ?
Tôi đã từng đi vào nhà thờ và các hội đường ở đó họ đang cầu nguyện cho những người hồi giáo. Trong khi đó thì mọi lúc chúng ta đều nguyền rủa họ, và dạy cho những thế hệ con cháu chúng ta phải gọi họ là “bọn bất trung” và thù ghét họ.

 
image
Chúng ta lập tức nhảy cửng lên theo “phản xạ của đầu gối” một cách tự động để bào chữa cho Tiên Tri Mohammed khi có ai đó tố giác ông ta là kẻ thích ấu dâm trong khi chúng ta lại hãnh diện về câu chuyện trong sách đạo hồi của chúng ta kể rằng ông ấy đã cưới một bé gái bảy tuổi (tên là Aisha) làm vợ khi ông ta đã ngoài 50 tuổi.

 
image
Tôi cảm thấy buồn khi nói rằng nhiều người, nếu không phải là hầu hết chúng ta, đều hân hoan trong vui sướng sau vụ 9/11 và sau nhiều vụ tấn công khủng bố khác. Trước mặt truyền thông thì người Hồi giáo tố giác những vụ tấn công đó, nhưng chúng ta lại khoan dung cho những kẻ khủng bố hồi giáo đó và có thiện cảm với lý tưởng của họ. Đến nay thì những vị đỉnh cao “lừng danh” trong giáo quyền đã không hề ban bố một Fatwa hay là một thông báo tôn giáo nào để tuyên bố rằng Bin Laden là một tên lạc đạo, trong khi đó thì nhà văn Rushdie lại bị tuyên bố là tên lạc đạo cần phải giết chết chiếu theo luật Sharia của hồi giáo chỉ vì ông ta viết ra một cuốn sách chỉ trích đạo hồi.

 
image
Những người hồi giáo đã biểu tình để đòi quyền được đạo đức hơn là những gì họ đã có tại Pháp, biểu tình đó là để chống lại lịnh cấm choàng khăn trùm đầu Hejab, nhưng chúng ta đã không biểu tình với một niềm đam mê như thế đối với một số quá lớn những vụ ám sát khủng bố. Chính sự im lặng tuyệt đối của chúng ta đối với những kẻ khủng bố đã khiến chúng có thêm năng lực để tiếp tục thực hiện những hành vi xấu xa của chúng.
Chúng ta, những người hồi giáo phải chấm dứt mang cái nguyên nhân gây ra các khó khăn của chúng ta gán lên đầu người khác hoặc lên sự xung đột giữa Do Thái và Palestine. Đây là một vấn đề lương thiện khi xác nhận rằng nước Do Thái là ánh sáng duy nhất của sự dân chủ, của văn minh, của nhân quyền trong khối các quốc gia Trung Đông.

 
image
Chúng ta đã xua đuổi những người Do Thái ra khỏi hầu hết các xứ ả rập mà không chút bồi thường hoặc thương xót để biến họ thành những “người Do Thái vô quê hương” trong khi đó thì nước Do Thái đã chấp nhận cho hơn một triệu người ả rập được sống trong lòng của họ, xem họ như những công dân Do Thái để họ được hưởng đầy đủ quyền lợi của con người.
Ở nước Do Thái, những phụ nữ ả rập không thể bị đánh đập một cách hợp pháp bởi bọn đàn ông, và mọi người đều có thể thay đổi niềm tin của họ mà không sợ bị kết án tử hình bởi luật “lạc đạo” của hồi giáo, trong khi đó trong thế giới của hồi giáo, không một ai được hưởng một cái gì trong những quyền lợi đó.
Tôi đồng ý là những người dân Palestine đang đau khổ, nhưng họ đau khổ là vì những kẽ lãnh đạo của họ hư hỏng chứ không phải vì Do Thái.
Thật hiếm thấy những người Ả Rập đang sống tại Do Thái bỏ ra đi để về sống trong những nước ả rập. Ngược lại chúng tôi thấy hàng ngàn người dân Palestine vui sướng đi lao động tại nước Do Thái là “kẻ thù của họ”. Nếu nước Do Thái đối xử tàn tệ với người Ả Rập như có kẻ đã rêu rao, thì hẳn chúng ta sẽ thấy được một hiện tượng trái ngược lại.

 
image
Chúng ta, những người Hồi Giáo, cần phải gánh vác những nan đề của chúng ta và đối mặt với chúng. Chỉ có lúc đó chúng ta mới có thể giải quyết được vấn nạn để bắt đầu một kỷ nguyên mới sống trong hòa hợp với tình nhân loại của con người.
Những vị lãnh đạo tôn giáo phải chứng minh một lập trường rõ ràng và vững chắc chống lại việc đa thê, ấu dâm, nô lệ, kết án tử hình đối với những kẻ bỏ đạo Hồi qua các tôn giáo khác, họ phải kết án những sự bạo hành thể xác của bọn đàn ông lên phụ nữ, và khuynh hướng tuyên chiến với những kẻ ngoại đạo để bành trướng Hồi Giáo.

 
image
Khi đó, và chỉ có khi đó thì chúng ta mới có quyền đòi hỏi những kẻ khác tôn trọng tôn giáo của chúng ta. Thời điểm đã đến để chúng ta chấm dứt sự giả đạo đức của chúng ta và công khai nói : “Chúng tôi, những người Hồi Giáo phải thay đổi.”

Tawfik Hamid

 
image

Chúng ta hãy tiếp tục cầu cho họ, cũng như cho dân Chúa Do Thái, để cuối cùng tất cả được ứng nghiệm những gì đã được chính Chúa Kitô đã tiên báo: "Sẽ chỉ có một đàn chiên theo một chủ chiên" (Gioan 10:16).


Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Dcr 2, 1-5. 10-11a

"Này đây Ta đến và ngự giữa ngươi".

Trích sách Tiên tri Dacaria.

Tôi đã ngước mắt lên và đã nhìn thấy: Kìa, có người cầm dây đo trong tay. Tôi đã hỏi rằng: "Ông đi đâu?" Người ấy đáp: "Tôi đi đo Giêrusalem, coi nó rộng bao nhiêu và dài bao nhiêu". Và đây vị thiên thần đang nói chuyện với tôi ra đi, một thiên thần khác đến đón người và nói: "Hãy chạy lại nói với đứa trẻ ấy rằng: Giêrusalem là nơi trú ngụ không có tường thành, vì trong đó có đông dân cư và súc vật. Chúa phán: "Phần Ta, Ta sẽ nên tường thành lửa đỏ chung quanh nó, và Ta sẽ tỏ vinh quang Ta giữa nó". Chúa lại phán: "Hỡi thiếu nữ Sion, hãy ca tụng và hân hoan: vì này đây Ta đến ngự giữa ngươi. Trong ngày ấy, sẽ có nhiều dân tộc quy phục Chúa, họ sẽ là dân Ta, và Ta sẽ ngự giữa ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Gr 31, 10. 11-12ab. 13

Ðáp: Chúa sẽ gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).

Xướng: 1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: Ðấng đã phân tán Israel sẽ quy tụ nó lại, và sẽ giữ nó như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình. - Ðáp.

2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người. - Ðáp.

3) Bấy giờ người trinh nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng thành niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 114, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 44b-45

"Con Người sẽ phải bị nộp. Các ông không đám hỏi Người về lời ấy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: "Phần các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời". Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy.

Ðó là lời Chúa.


Related image

 

Suy Nghiệm Lời Chúa


Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXV Thường Niên hôm nay về hình thức cũng không tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua ở cùng đoạn 9 của Phúc Âm Thánh ký Luca, nhưng về nội dung lại có tính cách liên tục và đồng nhất

Thật vậy, Giáo Hội đã không chọn đọc đoạn Phúc Âm về điều kiện làm môn đệ của Chúa Kitô (9:23-27), về biến cố biến hình trên núi (9:28-36), và về sự kiện Người trừ quỉ cho một bé trai (9:37-43a), tương tự như Giáo Hội đã bỏ 2 trong 3 biến cố này ở Phúc Âm Thánh ký Marco trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Thường Niên đầu tuần này, mà chỉ lấy đoạn Phúc Âm về lời Chúa Giêsu tiên báo lần hai cuộc vượt qua của Người. 

Đúng thế, bài Phúc Âm hôm nay của Thánh ký Luca là bài Phúc Âm ghi lại lời Chúa Giêsu tiên báo lần thứ hai về cuộc vượt qua của Người: 

"Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: 'Phần các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời'. Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy".

Như đã cảm nhận về dung nhan lưỡng diện của "Đức Kitô" trong bài Phúc Âm hôm qua, một dung nhan có bộ mặt trái rất ư là kinh hoàng khiến cho chính vị trưởng tông đồ đoàn là Thánh Phêrô cũng phải vấp phạm. Bởi thế, sau khi tiết lộ về mầu nhiệm vô cùng bí mật này, Người chỉ dám tiết lộ sau khi đã thấy được đức tin thật chính xác của thành phần môn đệ tông đồ của Người, và Người cũng đã phải tìm cách củng cố cho đức tin của các vị nữa, bằng cách Người đã tỏ vinh quang của Người ra cho các vị một cách rạng ngời, qua việc Người biến hình trên núi cao,  ám chỉ cuộc phục sinh khải hoàn của Người, như cả 3 Phúc Âm Nhất lãm đều thuật lại sau lần tiết lộ đầu tiên ấy.

Trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay cũng thế, trước khi Người báo trước cuộc vượt qua của Người lần thứ hai, một mầu nhiệm chưa thể nào thấu hiểu và chấp nhận được đối với trí khôn phàm nhân của các tông đồ, cũng như nhất là đối với tâm thức của các vị về một Đấng Thiên Sai đầy quyền năng giải phóng vẫn thường thấy trong Lịch sử Cứu Độ của Dân Do Thái, Người cũng phải lợi dụng: "Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ..." v mầu nhiệm ấy, một mầu nhiệm quan trọng đến độ Người đã nhấn mạnh với các tông đồ rằng: "các con hãy ghi vào lòng những lời này...".

Phần các tông đồ, thành phần đã từ bỏ mọi sự mà theo Người, không biết có phải hoàn toàn vì lý do trần tục hay chăng, ở chỗ các vị hy vọng sau này có thể được vẻ vang bởi các vị đã trở thành chân tay thân tín của chính Đấng Thiên Sai đầy uy quyền của Thiên Chúa, như các vị đã có lần tranh nhau ngôi thứ, được Thánh ký Marco thuật lại trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Thường Niên đầu tuần này? Cho dù không hoàn toàn như thế, nhưng đứng trước một mầu nhiệm siêu việt ấy, Phúc Âm hôm nay đã cho biết: "các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy".

Phụng Vụ Lời Chúa nói chung và các bài Phúc Âm nói riêng (nhất là hôm qua và hôm nay đều về lời tiên báo cuộc vượt qua liền nhau) cho ngày thường trong Tuần XXV Thường Niên này, từ Thứ Hai tới hôm nay cuối tuần, dường như đều hướng về chung nhân tính của Chúa Kitô và riêng thân xác của Người.

Trong lời tiên báo lần thứ hai của Chúa Giêsu ở bài Phúc Âm hôm nay: "Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời", hoàn toàn chỉ liên quan đến cuộc khổ nạn của Người mà thôi, không hề đả động gì tới sự kiện phục sinh của Người, như lần đầu tiên Người tiên báo (ở bài Phúc Âm hôm qua). Sự kiện "Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời" dường như đã được Tiên Tri Giacaria ở Bài Đọc 1 hôm nay, diễn tả liên quan đến kích thước của Thành Thánh Giêrusalem: "Tôi đã ngước mắt lên và đã nhìn thấy: Kìa, có người cầm dây đo trong tay. Tôi đã hỏi rằng: 'Ông đi đâu?' Người ấy đáp: 'Tôi đi đo Giêrusalem, coi nó rộng bao nhiêu và dài bao nhiêu'".

Nếu Đền Thánh Giêrusalem là biệu hiệu ám chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân của Ngài thì Thành Giêrusalem là biểu hiệu ám chỉ chính dân của Ngài, một thành phần dân mà Ngài muốn ở với họ và ngự giữa họ, bằng việc Ngài liên tục tỏ mình ra cho họ qua giòng lịch sử cứu độ của họ, cũng như bằng việc họ nhận biết Ngài. Chính vì Chúa Kitô Thiên Sai Cứu Thế đến là "để hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28) mà Thành Giêrusalem ám chỉ dân Chúa nói riêng và những ai tin Chúa Kitô nói chung mới cần phải được cân đo kích thước.

Đúng thế, Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái và đồng thời cũng chính vì thế còn là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại nữa. Do đó nên vì Thành Giêrusalem ám chỉ tất cả thành phần dân được cứu chuộc tin vào Chúa Kitô, chứ không phải chỉ có dân Do Thái, mà thành này mới "không có tường thành", trái lại, theo lời Chúa phán trước trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "Trong ngày ấy, sẽ có nhiều dân tộc quy phục Chúa, họ sẽ là dân Ta, và Ta sẽ ngự giữa ngươi".

Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Thánh Vịnh 31, bao gồm cả 2 vai trò của Chúa Giêsu Kitô: vai trò Thiên Sai đối với dân Do Thái lẫn vai trò Cứu Thế đối với toàn thể nhân loại, một Bài Đáp Ca chất chứa lời kêu gọi liên quan đến dân ngoại: "Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: Ðấng đã phân tán Israel sẽ quy tụ nó lại, và sẽ giữ nó như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình" (câu xướng 1).

Tại sao? (liên quan đến dân Do Thái) - "Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó" (câu xướng 2). Về những gì? (liên quan đến cả dân ngoại lẫn dân Do Thái) - "Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người" (câu xướng 2); "Bấy giờ người trinh nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng thành niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ" (câu xướng 3).

 

 

27/9

THÁNH VINH-SƠN PHAOLÔ

(1581-1660)

 

 

The Saint's Death: St. Vincent de Paul | Hour of Our Death

 

1. Đôi dòng tiểu sử

 

Gia đình Phaolô là những nông dân tại Pouy, gần Dax. Vinhsơn sinh năm 1581 ngày 24 tháng 4, là con thứ ba trong gia đình 6 người con. Trong những ngày còn thơ ấu, ngài lo chăn cừu cho cha. Giữa miền đồi lộng gió này, Vinhsơn đã trải qua nhiều giờ trong ngày để chiêm ngắm cảnh đồng quê và hướng lòng lên cùng Chúa. Thời gian này cũng cho ngài những kinh nghiệm đầu tiên về số phận của người dân quê. Từ đó, lòng bác ái sớm nảy nở trong tâm hồn Vinhsơn. Có lần thu góp được 30 xu, số tiền đáng kể đối với ngài, nhưng ngài đã tặng tất cả cho những người cùng khốn. Lần khác trên đường tới nhà máy xay, ngài âm thầm lấy một số bột bố thí cho người nghèo.

Thấy con mình có lòng bác ái lại thông minh, ông Gioan Phaolô quyết hy sinh cho Vinhsơn theo ơn gọi làm giáo sĩ. Vinhsơn theo học các cha dòng Phanxicô tại Dax. Nhưng để tiếp tục chương trình đại học của Vinhsơn, cha ngài đã phải bán bầy cừu lo cho tương lai của con. Dầu vậy, khi học thần học tại Toulouse, Vinhsơn cũng vừa lo học vừa lo dạy kèm tư gia kiếm tiền bớt gánh nặng cho gia đình.

 

Sau khi thụ phong linh mục vào năm 20 tuổi, trong 2 năm, Vincentê biến mất. Cho đến ngày nay người ta vẫn không biết rõ trong thời gian này Vinhsơn ra sao. Người ta kể lại rằng có một goá phụ tại Toulouse đã tặng cho ngài tất cả tài sản của bà. Trên đường từ Marseille tới Narbonne vào tháng 7 năm 1605 để nhận gia tài, ngài đã bị bọn cướp bắt bán cho một ngư phủ. Không quen nghề, ngài lại bị bán cho một người Hồi giáo làm thợ kim hoàn. Sau cùng, ngài lại bị rơi vào tay một người phản đạo tên là Gautier. Nhờ đời sống thánh thiện ngài đã cải hoá được ông. Chính ông đã đưa ngài trở lại đất Pháp. Năm sau, ông theo ngài đi Roma và vào hội bác ái để đền tội cho đến ngày qua đời.

 

Từ đây, Cha Vinhsơn bắt đầu thi hành chức vụ linh mục của ngài, phục vụ cho một xứ đạo gần Paris. Cha nhiệt thành với các linh hồn và được nhiều người tín nhiệm. Nhìn cảnh một người hầu hấp hối xưng tội trên giường bệnh như đã mở mắt cha Vincent để nhìn thấy nhu cầu tâm linh của vùng quê nước Pháp thời bấy giờ. Ðó là giây phút quan trọng trong cuộc đời của một người xuất thân từ nông trại nhỏ ở Gascony, nước Pháp, mà việc đi tu làm linh mục không có gì lớn lao hơn là có được một cuộc sống tiện nghi. Khi được vua Louis XIII bổ nhiệm làm Tổng Tuyên úy của những tù nhân khổ sai chèo thuyền chiến, ngài có cơ hội để cải thiện đời sống những tù nhân ở Pháp.

 

Ngài được chỉ định làm tuyên úy cho nữ hoàng Marguerrite de Valois. Lúc này, Cha Vinhsơn có dịp quen biết Cha Phêrô Berulle, đấng sáng lập dòng giảng thuyết và sau này làm Hồng y. Dưới ảnh hưởng của Cha Phêrô Bérulle, Cha Vinhsơn bắt đầu nhiệt tình sống đời hy sinh nhiệt tình. Theo lời khuyên của Ngài, Cha Vinhsơn nhận làm tuyên uý cho gia đình Gondi. Hướng dẫn một số một nông dân trong vùng này, Cha Vinhsơn đã khám phá ra tình trạng phá sản về tôn giáo và luân lý. Chính sự dốt nát và biếng nhác của nhiều giáo sĩ là duyên cớ gây nên tình trạng này. Ngài quyết tâm sửa đổi thực trạng.

 

Cha Vinhsơn đã trở nên bạn của người nghèo và dùng mọi phương tiện khả năng có được để hoạt động nhàm tái tạo cuộc sống luân lý và tôn giáo của họ. Một thử nghiệm nhỏ như một linh mục quản sở tại Chatillon les Dober cho ngài thấy rõ vấn đề còn rộng lớn hơn nhiều. Dầu nỗ lực cải tiến họ đạo, ngài vẫn ưu tư cho công cuộc được bành trướng rộng rãi hơn. Trở lại Paris ngài được sự trợ giúp của nữ Bá Tước de Gondi, (có người đầy tớ được cha Vincent giúp đỡ), đã thúc giục chồng bà cung cấp tiền bạc và hỗ trợ một nhóm truyền giáo có khả năng và hăng say muốn hoạt động cho người nghèo, người hầu và tá điền. Ngay lúc đầu cha Vincent thừa khiêm tốn để nhận làm người lãnh đạo cho nhóm này.

Ngài bắt đầu công cuộc nâng đỡ cảnh khốn cùng bất cứ ở nơi đâu, ngài tổ chức “hội bác ái” trên khắp đất Pháp cung cấp áo xống thuốc men cho người nghèo khổ hết sức rợ giúp những nô lệ bị bắt chèo thuyền từ Paris tới Marseille. Sau một thời gian hoạt động cho các tù nhân khổ sai ở Balê, ngài trở nên nhà lãnh đạo thực sự của tổ chức mà bây giờ được gọi là Hội Thừa Sai hay tu sĩ Dòng Thánh Vinh Sơn (the Congregation thành Priests thành the Mission – Lazarists). Các linh mục này, với các lời thề khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục và bền vững, tận tụy làm việc cho dân chúng ở các thành phố nhỏ hay làng mạc. Ngài thành lập một hội dòng Lazarits với mục đích truyền đạo cho dân quê và đào tạo giáo sĩ. Từ hội dòng bác ái ấy còn mọc lên hội nữ tử bác ái mà y phục của họ toàn thế giới biết đến như là biểu tượng của lòng bác ái nối liền với danh hiệu Vinhsơn.

Sau này cha Vincent tổ chức các nhóm bác ái để chữa trị tinh thần cũng như thể xác của những người nghèo trong mỗi xứ đạo. Từ sinh hoạt này, với sự trợ giúp của thánh nữ Louis de Marillac, xuất phát tổ chức Nữ Tử Bác Ái (the Congregation thành the Daughters thành Charity) “mà tu viện là bệnh xá, nhà nguyện là nhà thờ của giáo xứ và khuôn viên là đường phố.” Ngài huy động các bà giầu có ở Paris để quyên góp tài chánh cho chương trình truyền giáo, xây bệnh viện, giúp đỡ nạn nhân chiến tranh và chuộc lại khoảng 1,200 người nô lệ da đen. Ngài hăng hái tổ chức tĩnh tâm cho giới tu sĩ khi sự sao nhãng, lộng hành và ngu dốt lan tràn trong giới này. Ngài là người tiên phong trong việc huấn luyện tu sĩ và thúc đẩy sự thiết lập các chủng viện.

Ðáng để ý nhất, cha Vincent là một người hay cáu kỉnh — ngay cả bạn hữu của ngài cũng công nhận điều ấy. Ngài cho biết, nếu không có ơn Chúa ngài sẽ “rất khó khăn và lạnh lùng, cộc cằn và gắt gỏng.” Nhưng ngài trở nên một người dịu dàng và dễ mến, rất nhạy cảm trước nhu cầu của người khác.

 

Một linh mục nhà quê đã trở nên quan trọng đối với toàn quốc từ căn phòng tại xứ thánh Lazane, ảnh hưởng của ngài lan rộng ra khắp nước Pháp, tới Ba Lan, Ý, Hebrider Madagascar và nhiều nơi khác nữa. Nữ hoàng Anne d'Austria nhiếp chính cho tới khi vua Luy lên cầm quyền đã hỏi ý ngài trong việc đặt giám mục chống lại Mazania, ngài đã không ảnh hưởng được tới đường lối của vị giám mục này, lại còn bị khổ vì ông khi nội chiến xảy ra.

Ngài quyên góp để hàn gắn những tàn phá do cuộc chiến xảy ra tại Loraine. Ngài lo chuộc các nô lệ tại Bắc Phi. Các nỗ lực trên cùng với các nhu cầu và việc quản trị hội dòng ngày càng mở rộng đã giam ngài tại phòng riêng xứ thánh Lazane. Ngày lại ngày bận bịu viết thư cho các giám mục lẫn linh mục nghèo khổ, cho biến cố vị vọng lẫn nhu cầu nghèo khổ trong nước. Các thư tín của ngài hợp thành một tuyển tập làm say mê người đọc vì trong đó pha trộn những ưu tư cho nước Chúa lẫn đức bác ái ngập tình người.
     Các thư tín và các bài giảng thuyết của Vinhsơn cho thấy ngài là một trong những nhà phục hưng của Giáo hội Pháp thế kỷ XVI. Những cuộc tĩnh tâm ngài tổ chức tại St. Lazane cho các tiến chức và những cuộc tĩnh tâm hằng tháng ngài tổ chức cho các giáo sĩ tại Paris (có cả những khuôn mặt lớn tham dự như De Rotz, Bossuet...) cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của ngài trong cuộc chấn hưng đạo đức .
      Năm 1660, Cha Vinhsơn ngã bệnh liệt giường và dù đau đớn vì bệnh tật, ngài vẫn vui tươi tin tưởng: Chúa còn phải chịu hơn tôi gấp bội. Đối diện với cái chết, ngài bình tĩnh: 18 năm qua, mỗi tối tôi vẫn dọn mình chết. Cha Vincent qua đời ngày 27 tháng 9 năm 1660 tại Paris, nước Pháp, thọ 80 tuổi. Vào năm 1705 tu viện trưởng Tu hội Truyền giáo Lazarists đề nghị tiến hành hồ sơ phong thánh cho đấng sáng lập. Đức Giáo Hoàng Benedictus XIII đã tôn phong Chân Phước cho cha Vincent đệ Phaolô ngày 13 tháng 8 năm 1729. Tám năm sau, Đức Giáo Hoàng Clement XII đã nâng cha Vincent đệ Phaolô – vị tông đồ của lòng bác ái lên hàng hiển thánh ngày 16 tháng 6 năm 1737. Ðức Giáo Hoàng Leo XIII ngày 12 tháng 5 năm 1885 đã đặt ngài làm quan thầy của mọi tổ chức bác ái. Nổi bật nhất trong các tổ chức này, dĩ nhiên, là Dòng Thánh Vinh Sơn, được thành lập năm 1833 bởi Chân Phước Frederic Ozanam, là người rất ái mộ thánh Vinh Sơn.

 

Sau nhiều cuộc di dời, hài cốt thánh nhân được đặt trong một bức tượng bằng sáp để trong một chiếc hòm xinh đẹp tại nguyện đường nhà mẹ dòng thánh Vinh Sơn đường Rue de Sèvres, thành phố Paris. Phần đầu của pho tượng giống hệt như đầu thánh nhân.

Tuy nhiên trái tim còn toàn vẹn của ngài được đặt trong một chiếc hòm bằng vàng được bày kính trên bàn thờ đài vị kính ngài trong nguyện đường trụ sở nhà mẹ của dòng Nữ Tử Bác Ái tại số 140 đường Rue du Bac, Paris. Cách xa thánh tích thánh Vinh Sơn một chút, bên dưới bàn thờ cạnh là thi hài nguyên vẹn của người con thiêng liêng của ngài là thánh nữ Catherine Labouré, người được Đức Mẹ hiện ra và ban cho chiếc ảnh Đức Mẹ Hay Làm Phép Lạ. Cũng trong nguyện đường này, trên bàn thờ cạnh còn có một chiếc hòm kính có tượng sáp trong có xương của thánh nữ Louise de Marillac, vị đồng sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái.

Lời Bàn

Giáo Hội là của mọi con cái Thiên Chúa, dù giầu hay nghèo, nông dân hay trí thức, thượng lưu hay bình dân. Nhưng hiển nhiên điều Giáo Hội lưu tâm nhất là những người cần sự giúp đỡ – đó là những người trở nên cô thế bởi bệnh tật, nghèo đói, ngu dốt và sự tàn ác. Thánh Vinhsơn Phaolô rất thích hợp là quan thầy cho mọi Kitô Hữu ngày nay, khi người đói ngày càng nhiều, và lối sống xa hoa của người giầu ngày càng đối chọi với tình trạng sa sút về thể chất và tâm linh của con cái Thiên Chúa.

Lời Trích

Hãy cố gắng vui lòng chấp nhận sống với những điều kiện khiến bạn bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí mình khỏi những điều làm bạn phiền hà, Thiên Chúa sẽ lo lắng mọi sự. Khi bạn vội vàng lựa chọn bạn sẽ làm buồn lòng Thiên Chúa, vì Ngài thấy bạn không tôn kính Ngài đầy đủ với sự tin tưởng thánh thiêng. Hãy tin tưởng vào Ngài, tôi nài xin bạn, và bạn sẽ được no đầy những gì mà tâm hồn bạn khao khát” (Thánh Vinhsơn Phaolô, Thư Từ).

 

 

Xác thánh Vincent ở đằng sau bàn thờ tại Nhà Nguyện Nhà Mẹ Dòng Nữ Tử Bác Ái,

gần ngay đó là xác còn nguyên của nữ tu dòng này là Thánh Catarina Labuaré

 

 

(hai tấm hình trên do TĐCTT Đaminh Maria cao tấn tĩnh, đã chụp dịp Nhóm TĐCTT Hành Hương Thánh Mẫu - Thời Điểm Maria 2017, ghé kính viếng địa điểm Mẹ Ban Ơn hiện ra năm 1830 vào ngày 21/5/2017)

 

 

2. Những nét nổi bật trong đời sống

+ Đầu tiên là việc phục vụ cho những người nghèo khó: Cuộc đời của Ngài, ngay từ hồi còn thơ ấu đã nổi rõ nét là một con người đầy vị tha, bác ái và hay thương xót những kẻ nghèo khó. Chính vì thế, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn rao giảng lòng thương xót của Chúa và sống chứng nhân tình yêu của Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Dù với bất cứ chức vụ nào: Bề trên Dòng Thăm Viếng, Bề Trên Tu Hội triều hay trong cương vị của một mục tử, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn chu toàn trách vụ cách hết sức khôn ngoan. Ngài yêu thương các người nghèo khó, những kẻ đau khổ, những kẻ lao động vất vả, đặc biệt Ngài lưu tâm đến việc giáo dục các thiếu nữ. Lời Chúa trong bài giảng tám mối phúc thật (x. Mt chương 5), đã được Ngài thực hiện cách tận căn: đi và dậy người ta bước đi trên con đường hiến chương nước trời. Ngài đã sống tận cùng lời Chúa: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ bị tù đầy v.v...(x. Mt chương 25).

Chúa đã dậy mọi người bài học yêu thương. Yêu thương tận cùng và yêu thương không ngừng. Chính Chúa đã sống tận cùng sự yêu thương bằng cái chết trên thập hình. Chết mới nói lên lời. Trên thập giá, Chúa đã nói lên tất cả: yêu thương và tha thứ. Chúa đã trở nên nghèo, để sống với người nghèo. Thánh Vinh Sơn Phaolô đã yêu thương người nghèo, những kẻ bơ vơ vất vưởng, đầu đường xó chợ, không nhà không cửa. Theo gương Chúa, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn cứu giúp người nghèo, sống như người nghèo trong việc phục vụ, lao động để gần gũi Chúa. Phục vụ người nghèo là phục vụ Chúa. Sống như người nghèo là sống như Chúa. Gặp gỡ người nghèo là gặp gỡ Chúa.

+ Thứ đến là lo cho họ, những người nghèo khó có các mục tử coi sóc họ. Chính vì thế mà năm 1625, ngài đã sáng lập ra Tu hội “Linh mục thừa sai” để giúp đào tạo các giáo sỹ theo tinh thần công đồng Trente, và nâng đỡ những người nghèo, đặc biệt là những người nghèo ở vùng quê. Như vậy, công việc giúp đỡ người nghèo của thánh nhân đã hội tụ được những nguồn lực có tính quyết định cho cả lộ trình đồng hành với người nghèo của ngài. Việc phục vụ những người nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng đã trở thành một linh đạo sống cho những ai muốn hiến thân phục vụ người nghèo trong Chúa Kitô.

Theo Ngài, con đường nên thánh phải được khởi đi từ việc nhận ra hiện thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo: “… Chính chúng ta phải cảm nghiệm được điều đó, cũng như phải xử sự như Đức Kitô là quan tâm đến những người nghèo túng, an ủi, giúp đỡ và bảo lãnh cho họ… Quả thật, Đức Kitô đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp những người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, nên đã chia sẻ thân phận của họ…”

Việc phục vụ người nghèo đối với Thánh nhân, không phải theo một vài hình thức ban ơn phô trương, mà phải được xuất phát từ chính con tim biết hiểu hoàn cảnh của họ mà thông cảm với họ. Sao cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như Thánh Phaolô tông đồ, khi Người nói: "Tôi trở nên tất cả cho mọi người…”

Đức ái với những người nghèo trong linh đạo của thánh Vinh Sơn Phaolô còn hệ tại ở việc hành động phục vụ và nhận biết những nhu cầu cấp thiết nơi những người nghèo: “phải ưu tiên phục vụ người nghèo, không được trì hoãn… Vậy khi chị em bỏ đọc kinh nguyện để giúp đỡ người nghèo thì hãy nhớ rằng, đó là chị em phục vụ Thiên Chúa” (Kinh Sách, Các bài đọc).

Chúng ta cùng nhau đọc lại giáo huấn về thực thi bác ái của ngài sau đây được trích từ bút ký của thánh Vinh-Sơn Phao-lô cho các Nữ tử Bác ái, và được Giáo Hội chọn đọc trong Phụng Vụ Giờ Kinh Sách.

 

PHẢI ƯU TIÊN PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO

Chúng ta không được nhìn một nông dân nghèo hay một phụ nữ nghèo theo dáng vẻ bên ngoài của họ, hay cảm nghĩ của chúng ta về trình độ hiểu biết của những người ấy, nhất là nhiều khi hầu như họ không có bộ mặt và khối óc của những người được ăn học. Nhưng nếu nhìn những người đó dưới ánh sáng của đức tin, chị em sẽ thấy rằng họ là hiện thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo, Đấng chẳng còn dáng vẻ của một con người trong cuộc thương khó, Đấng đã bị lương dân coi là điên rồ, bị người Do-Thái coi là cớ vấp phạm; với tất cả những điều đó, Người tự xưng là Đấng loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo: Đức Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chính chúng ta cũng phải cảm nghiệm điều đó, và phải xử sự như Đức Ki-tô là quan tâm đến người nghèo túng, an ủi, giúp đỡ và bảo lãnh cho họ.  

Quả thật, Đức Ki-tô đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp những người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, nên đã chia sẻ thân phận của họ; vì thế, bất cứ điều gì tốt hay xấu làm cho kẻ nghèo, Người cũng coi như làm cho chính mình. Khi Thiên Chúa yêu thương những người nghèo túng thì cũng yêu thương cả những ai yêu thương họ, vì khi ai thân thiết với một người nào thì cũng yêu thương cả bạn hữu của người ấy hoặc những kẻ giúp đỡ người ấy. Bởi thế, chúng ta hy vọng, vì người nghèo, Thiên Chúa sẽ thương yêu chúng ta. Vậy khi thăm nom người túng thiếu hay nghèo khổ, chúng ta hãy cố gắng hiểu hoàn cảnh của họ mà thông cảm với họ sao cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như thánh Phao-lô tông đồ, khi người nói: Tôi trở nên tất cả cho mọi người. Vì thế, một khi thực sự rung cảm trước những ưu tư và khốn cùng của tha nhân, chúng ta hãy cố gắng nài xin Thiên Chúa tuôn đổ tình lân tuất và lòng xót thương vào tâm hồn chúng ta. Và xin Người giữ mãi cho luôn đầy tràn. 

Phải ưu tiên phục vụ người nghèo, không được trì hoãn. Nếu trong giờ nguyện ngắm ban mai, chị em phải đi phát thuốc hay giúp một người nghèo túng nào đó, thì cứ yên tâm mà đi đến với họ, và dâng cho Thiên Chúa việc phải làm như lo nguyện ngắm vậy. Đừng băn khoăn hay mặc cảm là mình có tội vì đã bỏ nguyện ngắm mà giúp người nghèo. Quả thật, Thiên Chúa không bị lơ là nếu vì Thiên Chúa mà người ta tạm rời xa Người, nghĩa là bỏ công việc của Thiên Chúa là cầu nguyện mà làm một công việc khác tương đương.  

Vậy khi chị em bỏ đọc kinh cầu nguyện để giúp đỡ người nghèo thì hãy nhớ rằng chị em phục vụ Thiên Chúa. Chắc hẳn đức ái cao trọng hơn bất cứ lề luật nào và tất cả đều phải hướng về đức ái. Vì đức ái là bà chúa tuyệt vời, nên phải chu toàn điều bà truyền dạy. Vậy chúng ta hãy phục vụ người nghèo với một tâm tình đổi mới, và hãy ra sức tìm kiếm những kẻ bị bỏ rơi, vì họ đã được ban cho chúng ta như để làm chủ chúng ta.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp tài liệu của Dòng tên, TGP Sài Gòn, Theo Vết Chân Người / Chân Dung Các Thánh Nhân và Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 27/9

 

 

 

3 Phụ Bản về Thánh Piô Năm Dấu:

(tiếp theo ngày Thứ Ba là ngày lễ kính ngài ở đầu tuần trên đây)

Các phép lạ đầy hài hước của Cha Pio

 2341

fr.aleteia.org, 2017-04-24

Chúng ta biết Thánh Dòng Capuxinô của San Giovanni Rotondo không tránh được thử thách nhưng ngài cũng có rất nhiều ơn lớn đền bù lại. Tuy nhiên ít ai biết tính hài hước của ngài!

San Giovanni Rotondo là một thành phố của bang Foggia trong vùng Pouilles miền Nam nước Ý. Cha Thánh Pio đã sống ở đây từ năm 1916 cho đến khi ngài qua đời năm 1968. Trước đây San Giovanni Rotondo là thành phố sống về chăn nuôi, trồng trọt nhưng bây giờ San Giovanni Rotondo là thành phố du lịch trù phú nhờ khách đi hành hương về thăm Cha Pio kể từ những năm 1930.

Đi đứng cẩn thận nghe!

Một ông đi đến tận San Giovanni Rotondo để gặp Cha Pio, nhưng có rất đông người ở đó nên ông phải đi về nhà mà không gặp được ngài. Trong lúc ông đi xa tu viện, thì ông ngữi thấy một mùi hương từ các thánh tích của cha và ông cảm thấy mình được an ủi.

Vài tháng sau, khi ông đi qua một vùng núi, ông cũng ngữi thấy một mùi hương như vậy. Ông ngừng lại và ông ngây ngất trong một lúc khi ngữi thấy mùi hương thơm ngát. Khi sực tỉnh lại thì ông thấy mình ở bên bờ vực thẳm, không có mùi hương của Cha Pio thì e ông đã tiếp tục đi tới.

Ông quyết định đi về San Giovanni Rotondo ngay lập tức để cám ơn Cha Pio. Khi ông đến tu viện, Cha Pio từ trước đến giờ chưa bao giờ gặp ông, ngài gọi ông lại vừa cười vừa nói: “Con của ta, lần sau đi đứng cẩn thận nghe!”.

Dưới tấm nệm

Một phụ nữ bị bệnh nhức đầu kinh khủng đến mức bà quyết định để một tấm hình của Cha Pio dưới gối, hy vọng cơn đau sẽ hết. Sau nhiều tuần, cơn nhức đầu vẫn còn; tính khí nóng nảy của người Ý làm bà than lên: “Này Cha Pio, cha không làm cho con hết bệnh, con phạt cha, con để cha dưới tấm nệm”.

Vài tháng sau bà đến San Giovanni Rotondo để xưng tội với Cha Pio. Bà vừa quỳ vào tòa giải tội thì cha nhìn bà chăm chăm, cha đóng cánh cửa tòa giải tội một cái rầm. Bà hoảng người, bà không hiểu tại sao cha phản ứng như vậy, bà không thốt nên lời. Vài phút sau, cánh cửa tòa giải tội mở ra, Cha Pio vừa cười vừa nói với bà: “Đúng là con không hài lòng phải không? Để thế cho con biết, cha cũng không hài lòng khi con để cha dưới nệm!”.

Các lời khuyên của Cha Pio

Một linh mục Argentina nghe tiếng các lời khuyên của Cha Pio, linh mục quyết định đi đến tận Ý với mục đích duy nhất là xin lời khuyên quý báu của ngài để ngài hướng dẫn mình trong đời sống thiêng liêng. Khi đến nơi, linh mục đi xưng tội với cha và về nhà mà không nhận một lời khuyên nào.

Về lại Argentina, linh mục rất thất vọng, cha thấy có nhu cầu phải nói cho mọi người biết. Linh mục lấy làm tiếc: “Tôi không hiểu tại sao Cha Pio không nói gì với tôi. Vậy mà tôi đi từ Argentina qua Ý để chỉ muốn nghe lời khuyên của ngài… Cha Pio đọc được trong tư tưởng người khác, ngài biết là tôi đến chỉ để xin ngài lời khuyên”. vv và vv…

Cha than phiền đến mức mà các giáo dân bắt đầu hỏi cha: “Cha, cha có chắc là Cha Pio không nói gì không? Cha Pio có làm cử chỉ gì khác thường không?”.

Vị linh mục từ từ suy nghĩ và cuối cùng cha nhớ lại Cha Pio có làm một cử chỉ hơi là lạ. Cha giải thích cho các giáo dân: “Ngài ban phép lành cuối cùng cho tôi, ngài làm dấu thánh giá cực kỳ chậm, đến mức tôi nghĩ, e chẳng khi nào xong?” Nghe xong, các giáo dân kêu lên: “Vậy là Cha Pio đã cho cha lời khuyên! Cha, cha ban phép lành quá nhanh, giống như cha làm nguệch ngoạc cho xong chứ không phải làm dấu thánh gia!ù”. Nghe xong, vị linh mục vui mừng vì cuối cùng cha biết được lời khuyên đặc biệt của Cha Pio.

Người giữ nhà và các tên trộm

Các tên trộm hoành hành ở một khu phố Rôma làm cho một người dân ở đó không đi thăm Cha Pio được. Nhưng cuối cùng ông đi, ông khóa cửa kỹ và “ra điều kiện” cho Cha Pio: “Cha, bây giờ con đi thăm cha nhưng cha giữ nhà cho con…”.

Khi đến San Giovanni Rotondo, ông xưng tội với Cha Pio. Ngày hôm sau, ông đến chào cha để đi về, cha trách ông: “Con, con còn ở đây à? Cha đang toát mồ hôi giữ cửa cho con!”.

Ông đi về nhà ngay lập tức, lòng chưa hiểu ngài muốn nói gì với mình. Về đến nhà, ông nhận ra bọn trộm đã đến, chúng đã bẻ ống khóa nhưng trong nhà không mất gì hết”.

Trẻ con và kẹo bánh

Một phụ nữ đã lâu không đến thăm Cha Pio, bà khổ sở nghĩ cha đã quên mình. Như thường lệ, một buổi sáng nọ, sau khi phó giao con gái mình cho cha che chở, bà đi lễ. Khi về nhà, bà thấy con mình đang ăn kẹo ca-ra-men. Ngạc nhiên bà hỏi con “ai cho con kẹo?”. Đứa bé vui vẻ chỉ hình Cha Pio treo bên trên cái “cũi em bé” mà mỗi lần bà đi vắng chốc lát bà để con vào đó. Nghe con kể, bà mẹ không lấy làm quan trọng gì.

Sau một thời gian, lại lo không biết Cha Pio đã quên mình chưa, bà đến thăm cha. Sau khi xưng tội, bà hôn tay cha. Khi đó cha vừa cười vừa hỏi bà: “Con, con cũng muốn cây kẹo ca-ra-men phải không?”.

Một người sói tóc

Một người bị rụng tóc nhưng dứt khoát không muốn mình bị sói. Một ngày nọ ông đến gặp Cha Pio và xin cha: “Xin cha cầu nguyện để tóc của con đừng rụng nữa”.

Chính lúc đó thì Cha Pio đi xuống cầu thang. Ông lo lắng nhìn cha mong cha trả lời cho mình. Khi đến gần cha, ông thấy nét mặt của cha thay đổi, và với một cái nhìn như đề nghị một cái gì với ông, ngài chỉ một người đang ở sau lưng ngài, ngài nói với ông: “Con giới thiệu con với ông ấy đi”. Ông quay lại thì thấy một linh mục sói tóc hoàn toàn, cái đầu láng bóng như tấm gương. Và mọi người cười ngất.

Ném giày

Một giáo dân của Cha Pio bị đau răng khủng khiếp, đau đến mức không chịu nổi, vợ của ông đề nghị: “Tại sao anh không cầu nguyện với Cha Pio để cha chữa cho bớt đau? Đây, hình của cha đây, anh cầu nguyện với cha đi”. Ông chồng giận dữ la hét: “Đau răng như thế này, em không có thuốc men gì mà bắt anh cầu nguyện hả?”. Ông cầm chiếc giày ném hết sức mình vào hình của Cha Pio.

Vài tháng sau bà vợ thuyết phục được chồng đi xưng tội với Cha Pio ở San Giovanni Rotondo. Ông quỳ trong tòa giải tội và ông đọc một dọc các tội của mình. Nghe ông đọc xong, cha Pio nói với ông: “Có tội nào con quên không?”.  “Dạ hết rồi!”. “Hết thật rồi à? Vậy còn tội con ném chiếc giày ngay mặt cha thì sao?!”

Một lời chào “lớn thật lớn!”

Cô con gái thiêng liêng của Cha Pio ở lại San Giovanni Rotondo ba tuần với mục đích duy nhất là được xưng tội với cha. Không xưng được, cô chưa muốn về lại Thụy Sĩ vì cô quá buồn. Bỗng cô nhớ, mỗi ngày cha thường ra cửa sổ ở căn phòng nhỏ của ngài để ban phép lành.

Lòng đầy hy vọng, cô nghĩ, ít nhất là mình có thể nhận phép lành của cha trước khi về. Cô đi nhanh về phía tu viện. Trên đường đi, cô mong: “Mong sao cha chào cho riêng mình một lời chào “lớn thật lớn”. Khi đến tu viện, cô chỉ thấy còn vài người rải rác. Cha Pio đã ban phép lành. Cha đã chào tất cả mọi người, cha dùng khăn tay trắng phất phất để chào và cha đã về phòng nghỉ ngơi.

Một nhóm phụ nữ lần hạt mân côi ở đó cho cô biết như vậy, cô đừng hoài công chờ. Cô không thất vọng, cô quỳ xuống cùng với các bà khác, trong lòng thầm thì: “Không sao, con chỉ mong có được lời chào “lớn thật lớn” cha dành riêng cho con. Vài phút sau, cửa sổ căn phòng Cha Pio mở ra và cha ban phép lành lại, cha dùng tấm khăn trải giường phất phất thay vì dùng khăn tay trắng như thường lệ. Ai cũng cười, một bà còn nói: “Nhìn kìa, hôm nay cha điên rồi!”.

Người con gái thiêng liêng của cha cảm động, nước mắt tuôn trào vì cô biết, đó là lời chào “lớn thật lớn” mà cô đã xin cha chào cô.

Đứa con trai và các viên kẹo

Từ lâu đứa con trai của một ông đội dân vệ mơ có chiếc xe lửa bằng điện. Ngày Lễ Ba Vua sắp đến, em đến trước ảnh Cha Pio treo trên tường hứa: “Cha Pio nghe con nè, nếu cha làm sao cho con có một chiếc xe lửa bằng điện, con sẽ cho cha một túi kẹo”.

Ngày Lễ Ba Vua đến, đứa con trai nhận được chiếc xe lửa em mong chờ lâu nay. Sau đó, em theo dì đến Giovanni Rotondo thăm cha. Cha Pio âu yếm cười hỏi em: “Còn túi kẹo của cha đâu?”.

Vì hai trái vả!

Một ngày nọ, một bà rất sùng kính Cha Pio đã ăn quá hai trái vả. Bị dày vò vì nghĩ mình tham ăn, bà hứa là sẽ đi xưng tội với cha khi có dịp.

Và dịp may đến, bà đi San Giovanni Rotondo. Sau khi xưng tội xong, bà lo lắng xưng thêm: “Thưa cha, con có cảm tưởng con đã quên một tội và có thể đây là một tội khá khá nặng”. Cha trả lời: “Con đừng lo, hai trái vả thì chẳng có gì là nặng!”.

Con nghĩ là cha sẽ lấy nàng sao?

Cha Pio cử hành một thánh lễ hôn phối. Khi đến lúc quan trọng của buổi lễ, vì quá xúc động, chú rể không tài nào nói “vâng” theo nghi thức được.

Cha Pio chờ một lúc, rồi cha cười khuyến khích anh, nhưng cố gắng bằng mấy anh cũng không nói được, cuối cùng cha la lên: “Con muốn nói “vâng” hay con nghĩ chính cha sẽ lấy… cô dâu?!”.

Cha, xin cha cầu nguyện cho các con còn nhỏ của con

Một bà rất mộ đạo, bà không cách nào ngủ được nếu không giao phó tất cả con mình cho Cha Pio. Chiều nào bà cũng quỳ trước ảnh của Cha Pio và xin: “Cha Pio, con xin giao phó các con của con cho cha”.

Trong ba năm trường, tối nào cũng lặp lại một lời cầu nguyện này, cuối cùng bà đến được San Giovanni Rotondo. Khi bà gặp cha, bà nói: “Thưa cha, con xin giao phó các con của con cho cha”. Cha trả lời: “Con của cha, cha biết. Đã ba năm nay, ngày nào con cũng lặp lại cùng một chuyện, mỗi ngày!”.

Còn con thì con cười chế nhạo phải không?

Một phụ nữ ngưỡng mộ Cha Pio, mỗi ngày bà đều có thói quen quỳ cầu nguyện trước ảnh Cha Pio để xin cha ban phép lành cho mình. Chồng của bà cũng rất ngưỡng mộ cha, nhưng ông không thể nào nhịn cười vì ông thấy vợ mình làm quá. Tối nào cũng lặp lại cảnh này giữa hai vợ chồng.

Có dịp hai vợ chồng cùng đi thăm Cha Pio. Ông chồng nói với cha: “Thưa cha, tối nào vợ con cũng xin cha ban phép lành”, Cha Pio trả lời: “Còn con thì con cười chế nhạo phải không?”.

Marta An Nguyễn dịch

San Giovanni Rotondo là một thành phố của bang Foggia trong vùng Pouilles miền Nam nước Ý. Cha Thánh Pio đã sống ở đây từ năm 1916 cho đến khi ngài qua đời năm 1968. Trước đây San Giovanni Rotondo là thành phố sống về chăn nuôi, trồng trọt nhưng bây giờ San Giovanni Rotondo là thành phố du lịch trù phú nhờ khách đi hành hương về thăm Cha Pio kể từ những năm 1930.

 

Các phép lạ hiện đại ít được biết của Cha Piô

By
  phanxicovn
  -
 2003

catholicnewsagency.com, Elise Harris, 2016-09-22

Nổi tiếng trên thế giới với tên ngắn gọn “Cha Piô”, Cha Thánh Piô Pietrelcina được xem là một trong “các thánh tích cực nhất” của Giáo hội. Ngài tiếp tục làm phép lạ cho những ai cầu bàu đến ngài.

Trong cuộc phỏng vấn với hãng tin AIIC, linh mục John Paul Zeller, Dòng Phanxicô Truyền giáo ở Birmingham, Alabama, nước Mỹ đã tuyên bố: “Cha Thánh Piô là một trong những người cầu bàu rất mạnh … Một linh mục nói với tôi, có thể đây là một trong các thánh tích cực nhất của Giáo hội”.

Linh mục Zeller có được thánh tích Cha Piô, cha cho biết chính mình đã là chứng nhân của nhiều phép lạ sau khi cầu bàu với thánh tích của ngài trong tay.

Mới đầu cha Zeller không sốt sắng đặc biệt gì với Cha Piô, nhưng một năm sau khi đi San Giovanni Rotondo về và sau lần phong thánh Đức Gioan-Phaolô II năm 2014, thì cha có một lòng sốt sắng với Cha Piô. San Giovanni Rotondo là nơi Cha Piô đã ở suốt đời và phục vụ tại đó.

Sau khi tìm hiểu cuộc đời của Cha Piô, cha Zeller rất xúc động, cha lấy hết can đảm để xin một trong các bề trên ở San Giovanni Rotondo thánh tích của Cha Piô. Bề trên cho không những một mà hai thánh tích, đó là mẫu băng có dính máu Cha Piô trong các dấu thánh của ngài.

Cha Piô sinh ngày 25 tháng 5-1887 trong một gia đình mộ đạo ở Pietrelcina, nước Ý. Cha có tên thật là Francesco Forgionele. Năm 15 tuổi cha vào Dòng Capuxinô. Cha nhận dấu thánh suốt 50 năm trong cuộc đời của mình. Cha đã làm rất nhiều điều kỳ diệu và phép lạ, chữa lành, soi thấu tâm hồn, bay lên khỏi mặt đất, ở hai nơi cùng một lúc.

Linh mục Zeller cho biết, sau khi nhận hai thánh tích, cha trao lại cho cộng đoàn của mình do Mẹ Angelica thành lập một thánh tích và mình được phép giữ một thánh tích.

Cha nói: “Tôi luôn giữ thánh tích này trong người, vì tôi là Giám đốc tổ chức hành hương của trụ sở EWTN ở Birmingham, nên tôi có dịp cầu nguyện với nhiều người”.

Cha giải thích: “Tôi cầu nguyện với nhiều người và có những trường hợp được chữa lành. Nhiều người đến sau một tháng, có khi sau một năm cho tôi biết họ đã được lành nhờ cầu nguyện với thánh tích”.

Một kinh nghiệm như vậy đã xảy ra các đây vài tháng trong lần chữa lành ở đền thánh Trái Tim Cực Thánh ở Hanceville nhân ngày lễ Đức Mẹ Fatima, cha và hai linh mục khác cầu nguyện với hai thánh tích của Cha Piô, cùng với chiếc găng của Cha Piô thuộc về Mẹ Angelica. Khi cầu nguyện, một phụ nữ bị đau thần kinh tọa đến xin cầu nguyện cho bà. Sau này bà đến nói với cha, khi về chỗ ngồi, bà nói với chồng “tôi đã được lành”.

Chứng thần kinh tọa là bệnh đau lưng, rất đau và thường không dứt hẳn nhưng phụ nữ này đã được lành hẳn sau khi cầu nguyện với thánh tích.

Một trường hợp khác, sau một thời gian không lâu nhận thánh tích, cha Zeller có dịp nói chuyện với bạn của mình và biết con gái 12 tuổi của họ bị đau tai lâu năm. Cha hỏi em bé xem cha có được cầu nguyện với thánh tích cho em không, em đồng ý, “tôi cho mẹ em và cho em thấy thánh tích và tôi hỏi em đau tai nào!”

Cha kể, khi cha vừa đặt thánh tích vào tai và bắt đầu cầu nguyện thì em té xuống đất. “Em hoàn toàn tuột khỏi tay tôi. Tôi có thể níu em lại, nhưng tôi không biết chuyện gì xảy ra, tôi rất sợ có chuyện gì xảy đến cho em, nhưng em hoàn toàn vuột khỏi tay tôi và té xuống đất. Cha cho biết khi mình đang lo thì mẹ của em bình tĩnh và nói ‘có thể là được chữa trong Thần Khí’”.

Cha nói: “Nhiễm trùng tai hoàn toàn khỏi hẳn, từ lúc đó theo những gì tôi biết thì em không còn bị nhiễm trùng lại”.

Trong một trường hợp khác, có một phụ nữ bị đau tim trong vòng 40 năm, bà đau suốt đời, cha cho biết mình không có thì giờ để biết thêm nhiều chi tiết nhưng bà khỏi hẳn sau khi cầu nguyện với thánh tích của Cha Piô.

Cha giải thích: “Đây là câu chuyện dài hơn thế, nhưng bà lành hẳn”. Cha cũng nhắc đến một trường hợp khác, một bà vừa đến nói với cha, bà được lành bệnh nhờ cầu nguyện với thánh tích.

Nhắc đến các việc chữa lành lành, cha Zeller nhấn mạnh, không phải cha chữa lành nhưng nhờ lời cầu bàu với Cha Piô.

Cha cho biết, cách đây vài năm mình không có một lòng sốt sắng đặc biệt với Cha Piô, linh mục nói, cha cảm nhận có một nối kết bất ngờ đến với mình vì Cha Piô chọn cha chứ không phải ngược lại.

Cha tuyên bố: “Một trong các giáo sư chủng viện thường hay nói với chúng tôi, chúng ta không chọn các thánh, chính các thánh chọn chúng ta. Nếu chúng ta có một cảm tính đặc biệt với thánh nào… Tôi nghĩ thật sự các thánh đã chọn chúng ta, chứ không phải chúng ta chọn các ngài”.

Cha Thánh Piô là “ người anh em vui vẻ”, cha Zeller giải thích mình luôn nghĩ Cha Piô “rất nghiêm” và sợ cầu bàu với cha, sợ Cha Piô nghiêm với mình. Tuy nhiên trong chuyến đi đến San Giovanni Rotondo, cha hiểu Cha Piô hơn, theo cha Zeller, bề ngoài Cha Piô có vẻ nghiêm là vì “ngài biết khi giáo dân không ăn năn hối cải”.

Cha nói: “Cha Piô lo cho sự cứu rỗi các tâm hồn. ngài quan tâm và mang lòng thương xót Chúa, mang sự tha thứ của Chúa đến cho giáo dân”.

Hàng năm vào tháng 9, nhân kỷ niệm ngày Cha Piô qua đời, giáo dân khắp nơi tụ về giáo xứ Rôma San Salvatore ở Lauro, bên cạnh Piazza Navona, Rôma, một trung tâm dành cho các sinh hoạt liên hệ đến ngày lễ của Cha Piô. Tại đây có rất nhiều thánh tích của Cha Thánh Piô, áo măng-tô, găng tay, khăn các phép và khăn thấm máu trong các dấu thánh cha mang suốt 50 năm đời mình.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch 

Tượng Cha Piô giúp Chúa Giêsu vác thánh giá ở nhà thờ Rôma San Salvatore

Các lời nói hóm hỉnh của Cha Piô

 692

Trích sách “Lời hay ý đẹp của Cha Piô”, Pascal Cataneo, Nxb Médiaspaul

Carlo Campanini là một trong các người con thiêng liêng được Cha Piô yêu mến, ông cũng là một diễn viên nổi tiếng, một ngày nọ ông nói với chúng tôi: “Cha Piô thích kể chuyện đùa, về chuyện này cha giỏi hơn tôi. Cha nắm được nghệ thuật làm ngắn gọn và đối đáp như một diễn viên lớn”.  Trên lãnh vực này, chúng ta có thể tin ở ông. Một ký giả nổi tiếng viết: “Cha Piô là người có tài kể chuyện, sống động và xuất sắc. Đặt cha vào chân tường, cha có thể dụ dỗ rất giỏi để thoát ra. Nếu chưa thoát ra được, cha sẽ làm cho người đối diện lạc hướng bằng những lối đi kỳ quái, những lời nói châm biếm. Cha có thể viện đến tài bắt chước của nghệ sĩ mà một thính giả thông minh, dù đã cảnh giác cũng không thể không mến chuộng. Nhưng nhất là nghệ thuật ăn nói hóm hỉnh, một năng khiếu hiếm hoi không ai là không thấy”.

Hơn nữa nghệ thuật ăn nói hóm hỉnh của cha không bao giờ là ngẫu nhiên, cha dùng nó trong sứ vụ chức thánh của mình. Những câu chuyện hài của Cha Piô thì nhiều vô số kể. Tôi chỉ ghi lại một số chuyện để độc giả có một khái niệm về tính hài hước của cha. 

Một tân binh chuẩn bị đón vua

Một trung sĩ chuẩn bị cho một tân binh để anh này trả lời các câu hỏi của vua khi vua đến thăm trại. Ông trung sĩ dạy cho anh học thuộc lòng các câu vấn đáp sau:

– Anh mấy tuổi?

– Hai mươi hai tuổi.

– Anh phục vụ được bao nhiêu năm rồi?

– Hai năm.

– Anh nguyện phục vụ ai nhất: vua hay tổ quốc?

– Cả hai!

Ông vua đến, và xui xẻo cho anh, ông vua không hỏi theo thứ tự mà anh tân binh học, nhưng hỏi như sau:

– Anh phục vụ được bao nhiêu năm rồi?

– Hai mươi hai năm.

– Anh mấy tuổi?

– Hai.

Ông vua sốt ruột kêu lên:

– Hoặc là anh ngu, hoặc tôi ngu!

Anh tân binh trả lời:

– Cả hai!

Cha Piô cười trong khi nghe giảng

Một trong các bạn tu của Cha Piô thấy cha cười đang khi nghe giảng. Người bạn hỏi thẳng cha: “Cha, vì sao hôm qua cha cười khi nghe giảng về cái chết?”

Cha Piô trả lời bằng tiếng địa phương vùng Napoli: “Tôi phải làm gì bây giờ? Tôi không thể nhịn được: một vài người giảng làm cho mình cười bất cứ cái gì, kể cả cái chết!” 

Cha Piô không sợ sét đánh

Một ngày nọ, Cha Piô và một bạn đồng tu ở trong hành lang khi có cơn giông bảo sấm sét lớn. Bạn của cha thấy sét đánh rất gần. Sợ hãi, ông nói với cha và lưu ý cha vì họ ở gần cột điện, ông nói: “Cha, ít nhất mình đi xa cột điện này. Ngày hôm qua, sét đánh chết mười người!” Cha Piô trả lời: “Vậy thì sao phải sợ, mình không bị hiểm nguy này, mình chỉ có hai!”

Cha Piô… chỉ có hai mươi xu

Một ngày nọ, Cha Piô kể cho các bạn nghe câu chuyện những ngày đầu cha nhận năm dấu thánh. Đó là năm 1922 hoặc 1923.

Một thợ chụp hình muốn khai thác sự kiện này, ông chụp vài tấm hình Cha Piô. Trên thực tế, nó không thành công cho mấy nhưng ông cũng in ra, ông giao cho một chú bé và nói nó đi bán hai mươi xu một tấm. Chú bé không khôn ngoan, lảng vảng ở khu vực gần tu viện, em thấy cha nghiêng người qua cửa sổ, vẻ mặt dễ sợ hét to: “Thằng bé kia! Ta sẽ trừng trị con, con đã bán ta vì hai mươi xu!” Đứa bé sợ quá bỏ chạy.

Cha Piô quay lại với các bạn và nói: “Dù vậy, ít nhất người ta có thể bán tôi đắt hơn!”

“Đi nói với giáo sư Lunedei…”

Một diễn viên nổi tiếng kể một trong những người bạn của anh được một giáo sư bác sĩ rất giỏi ở Florence săn sóc, người bạn kể với bác sĩ là ông muốn đến San Giovanni Rotondo để gặp Cha Piô. Vị giáo sư than trời: “Sao! Bạn đi gặp ông cuồng loạn đó sao? Về mặt khoa học, đó là người cuồng loạn! Cứ nghĩ đến Chúa Giêsu bị đóng đinh thì dấu thánh sẽ đến!”

Các lời nói này không làm lung lay ông, ông lên đường. Khi gặp Cha Piô và xưng tội xong, ông kể cho Cha Piô nghe lời ông bác sĩ nói. Cha trả lời: “Khi con về gặp giáo sư bác sĩ, con nói ông nên nghĩ nhiều về con bò để xem mình có mọc sừng không!”

Tổng thống nước Cộng hòa đến thăm…

Một ngày nọ, Tổng thống nước Cộng hòa Antonio Segni đến thăm Cha Piô. Ông giới thiệu phái đoàn đi cùng, trong đó có dân biểu Russo. Khi Cha Piô nghe chữ “Russo” (Nga) Cha Piô hỏi: “Trọng kính Đức Vua, vì sao Ngài chỉ mang đến một người Nga đến? Xin Ngài mang nhiều người Nga đến cho tôi!”

“Với cái đầu của con…”

Một trong các bà được cho là người làm “say đắm”, theo năm tháng bà già đi, xấu đi và chỉ còn là cái bóng của mình.

Bà bắt đầu suy nghĩ đến những chuyện phù du của cuộc đời và cảm thấy cần bám vào các giá trị vững bền. Bà quyết định đi xưng tội với Cha Piô.

Nhưng để đến gần cha, bà phải ghi tên và chờ đến lượt mình. Bà không nản lòng, ngược lại là đàng khác, để chắc ăn được gặp cha, bà ghi tên hai lần. Bà kiên nhẫn chờ và khi đến lượt mình, bà đi xưng tội. Ngày hôm sau đến lần thứ nhì, nhưng khi cha thấy bà, cha nói: “Con mới xưng tội hôm qua, con cần gì ở cha nữa?”

– Nhưng từ hôm qua đến nay, con có thể có thêm tội!

– Đi đi! Với cái đầu của con, không phải dễ phạm tội như con nghĩ đâu!”

Một sự tiếp đón trớ trêu

Một ngày nọ có hai nghệ sĩ đến thăm Cha Piô. Khi cha thấy họ ở hành lang, cha kêu lên: “Nhìn kìa các vẻ mặt này!”

Sau đó, người tháp tùng giới thiệu họ với cha: “Thưa cha, các nghệ sĩ này bây giờ quyết định không làm việc với cái chân của họ nữa, họ bắt đầu làm việc với cái đầu”, Cha Piô cắt gọn: “Thì họ cứ làm! Quan trọng là họ sửa sai”.

Rồi khi từ giã họ, cha nói: “Quý vị tiếp tục hạ mình nhé! Tóm lại, quý vị chưa bao giờ được vinh dự! Quý vị thay đổi ngay, nếu không tôi đuổi quý vị!”

“Nào, đã đến lúc!”

Linh mục Costantino Capobianco kể, với thời gian cha không còn nghe gì và cha rất khổ vì bị như vậy. Để giúp cha, cha Bề trên mua cho cha máy trợ thính, cha nghe được hơn.

Một ngày nọ, trong một buổi trò chuyện, Cha Piô hỏi xem nếu không có máy trợ thính cha Costantino có nghe được không. Cha trả lời mình sẽ không nghe được gì. Cha Piô xin cha rút máy ra một lúc, và khi cha Costantino rút máy ra, Cha Piô nói với các bạn: “Nào, bây giờ mình có thể nói xấu cha Costantino!”

“Vậy thì lỗi ở ai?!”

Cha Carmelo da Sessano là cha Bề trên tu viện khi cha nhận lệnh của Rôma, cho phép một nhóm nhân viên đài truyền hình đến quay phim một vài sinh hoạt hàng ngày của Cha Piô. Cha Piô phải chịu vì cha Bề trên xin Cha Piô để cho họ làm. Cha nghĩ là họ sẽ không quay lâu.

Khi cha rời phòng để xuống nhà nguyện dâng thánh lễ thì cha thấy nhóm quay phim đang chuẩn bị quay. Rồi cha đến dâng lễ ở bàn thờ Thánh Phanxicô nơi cha dâng lễ thời đó. Nhưng khi nghe tiếng máy quay phim kêu rè rè thì cha bực mình, quay phắt lại và kêu lên: “Hoặc là quý vị ngừng, hoặc là tôi ngừng! Tôi đi và tôi không làm lễ!”

Và thế là họ phải ngưng quay phim như dự trù, nhưng sau đó họ cũng quay lại, lúc được lúc không các sinh hoạt trong ngày của Cha Piô, ngài thì cố gắng không để ý nhiều chừng nào hay chừng đó và cũng giảm quay phim nhiều nhất có thể. Khi quay xong, cha Bề trên cho Cha Piô biết, tất cả nhân viên quay phim muốn cám ơn cha và muốn được cha ban phép lành. Cha Piô chấp nhận và tiếp nhóm quay phim, họ xin lỗi đã làm phiền cha; rồi họ cũng nói không phải lỗi của họ, họ chỉ tuân hành lệnh của cấp trên.

Khi đó Cha Piô cha phản hồi với giọng yếu ớt: “Quý vị nhận lệnh và đó không phải là lỗi của quý vị. Cha bề trên tu viện nhận lệnh và đó không phải lỗi của cha. Các cha bề trên Tỉnh Dòng nhận lệnh và đó không phải lỗi của họ. Vậy thì… lỗi của ai?…” 

“Cha phải ban phép lành như thế nào đây? Đổ một xô nước trên đầu con sao?”

Cô Grazia, một nông dân 29 tuổi bị mù từ bẩm sinh, cô thường hay đi lễ ở ngôi nhà thờ nhỏ của tu viện San Giovanni Rotondo. Một ngày nọ Cha Piô hỏi cô Grazia cô có muốn thấy không. Cô trả lời rất muốn, miễn là ơn này không làm cho cô phạm tội. Cha nói cô sẽ lành và cha gởi cô đến bác sĩ Durante, một bác sĩ giải pháp rất giỏi ở Bari.

Khi khám cho cô, bác sĩ nói giải phẫu cũng sẽ không làm cho cô thấy.. Ông khuyên cô nên xin Cha Piô làm phép lạ… Nhưng vợ của ông bác sĩ có mặt ở đó, bà nói nếu Cha Piô gởi bệnh nhân này đến là dấu hiệu bác sĩ có thể làm một cái gì. Vì sao mình không thử? Được thuyết phục, ông bác sĩ mổ cho bệnh nhân.

Ông mổ một con mắt… và cô Grazia thấy được với con mắt này. Ông mổ con mắt thứ nhì và Grazia thấy cả hai mắt. Ông bàng hoàng và không thể tìm được một lời giải thích nào đứng vững! Khi về lại San Giovanni Rotondo, cô Grazia chạy như bay đến cám ơn Cha Piô. Cô quỳ gối xuống trước mặt cha, người lần đầu tiên cô thấy, cô nói cho cha biết niềm vui, sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn của mình. Cha Piô đứng bất động nhìn cô, im lặng và mỉm cười. Cô Grazia xin cha ban phép lành, cha làm dấu thánh giá trên trán cô. Nhưng cô Grazia cứ nài nỉ: “Xin cha ban phép lành cho con, xin cha ban phép lành cho con!”

Rốt cùng Cha Piô phải kêu lên: “Cha phải ban phép lành như thế nào đây? Đổ một xô nước trên đầu con sao?!”

Marta An Nguyễn dịch

Ngày 16/11/2021, giữa đại dịch toàn cầu vẫn còn hoành hành, trong chuyến Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh 12 ngày 8-19/11/2021,

phái đoàn TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương) đã đến San Giovanni Rotondo để kính viếng Cha Thánh Piô Năm Dấu

vào một buổi sáng mưa duy nhất trong suốt thời gian hành hương, và đã chụp được một số hình ảnh sau đây:

 

 

Một ngày kia, người con gái thiêng liêng của Cha Thánh Piô 5 dấu thưa cùng ngài rằng: "Bởi thế mà Cha là tất cả mọi sự của mọi người" (Tu dunque, sei tutto de tutti"), ngài liền trả lời rằng:

"Tôi không là tất cả của mọi người. "Mỗi người trong các con có thể nói rằng: Cha Piô là của tôi" (No, sono tutto di ognuno. Ognuno di voi può dire: “Padre Pio è mio!“). Câu tiếng Ý trước bệ chân tượng của ngài là như thế.

 

 

Bàn thờ này đã từng là nơi cử hành Thánh lễ rất sốt sắng của Cha Thánh Piô 5 Dấu

 

 

Tòa giải tội đã từng được Cha Thánh Piô 5 Dấu bỏ ra nhiều giờ mỗi ngày để cho LTXC có thể gặp gỡ và băng bó nhiều bao nhiêu có thể các tâm hồn "tan nát khiêm cung" của tội nhân tìm về với LTXC.





Biết bao nhiêu là thư tù linh hướng ngài viết. Có lẽ chỉ vì mất giờ đọc từng bức thư này trong tiến trình điều tra phong thánh cho ngài mà đã phải mất 15 năm (1982-1997) ngài mới được ĐTC GP II phong á thánh.



Chính số thư từ khổng lồ chưa từng thấy này tự chúng đã là một sự lạ cả thể về vị thánh rồi, ở chỗ, cả ngày ngài giải tội và dâng lễ hằng giờ đồng hồ, thì còn giờ đâu mà ngài đã viết vô vàn thư từ như thế chứ?!

Thân thể của ngài trước đây được trưng bày trong ngôi mộ ở Nhà Thờ Đức Mẹ Ban Ơn này, nhưng nay đã được dời về Đền Thánh Piô 5 Dấu, không còn ở ngay chỗ này nữa.

 

Ngày nay có khoảng 7 triệu khách hành hương hằng năm đến hành hương, Nhà Thờ Đức Mẹ Ban Ơn không thể nào đáp ứng nhu cầu hành hương của số lượng người khổng lồ như thế,

mới xuất hiện Nhà Thờ Thánh Piô, nơi có thể chứa được 7 ngàn người ở bên trong, chưa kể bên ngoài quảng trường dọc theo nhà thờ còn có thể chứa được thêm cả ngàn người nữa.

Các đau khổ không lúc nào từ bỏ Cha Pio. Vào cuối năm 1966, Cha không thể đứng để cử hành thanh lễ, bắt buộc phải ngồi trong suốt thánh lễ. Cha cũng không thể đi từ phòng ở đến Tòa giải tội đặt trong nhà thờ. Ngày 20 tháng 9 năm 1968, kỷ niệm 50 năm lãnh nhận dấu thánh.  Trong dịp này,  Ðại hội quốc tế các nhóm cầu nguyện được tổ chức; nhưng Cha Pio không thể tham dự, vì ngài sắp qua đời. Lúc 2g30 ngày 23 tháng 9 năm 1968,  Cha đã tắt thở. Lúc các Bác sĩ và các Tu sĩ mặc áo  lễ cho Cha, các vết thương biến mất hoàn toàn, không để lại dấu vết nào cả.