SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa Tuần Thánh

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL





Chúa Nhật Lễ Lá



 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa - Chúa Nhật Thương Khó

 

(Nếu cần xin bấm vào cái link trên đây để xem lại PVLC Lễ Lá Đầu Tuần Thánh)

 

 


Ba Ngày Đầu Tuần Thánh
Từ Thứ Hai đến Thứ Tư 




Ph
ụng vụ Lời Chúa cho 3 ngày trước Tam Nhật Thánh dường như có một liên hệ với nhau một cách liên tục bất khả phân ly. Thật vậy, ở bài đọc một, được trích từ Sách Tiên Tri Isaia, cả 3 ngày, đều
 nói về Người Tôi Tớ Chúa, và ở bài Phúc Âm, cả 3 ngày, luôn nhắc đến người môn đệ phản nộp Thày là Giuđa Íchca.

Thứ Hai 

V
ề Người Tôi Tớ Chúa

(Isaia 42:1-7): "Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần trí Ta trên người. Người sẽ xét xử chư dân. Người sẽ không lớn tiếng, không thiên vị ai, không ai nghe tiếng người ở công trường. Người không bẻ gãy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói. ... Ta là Chúa, Ta đã gọi con trong công lý, đã cầm lấy tay con, đã gìn giữ con, đã đặt con thành giao ước của dân, và nên ánh sáng của chư dân, để con mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm".

V
ề Người Môn Đệ 
Phản Thày

(Gioan 12:1-11): "Một môn đệ là Giuđa Iscariô, kẻ sẽ phản nộp Người, liền nói: 'Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo khó?' Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó". 

Thứ Ba 

Về Người Tôi Tớ Chúa 

(Isaia 49:1-6): "Chúa phán: 'Người là Ðấng đã tác tạo tôi thành tôi tớ Người, khi tôi còn trong lòng mẹ, để đem Giacóp về cho Người, và quy tụ Israel chung quanh Người. Tôi được vinh hiển trước mặt Chúa, và Thiên Chúa là sức mạnh tôi. Người đã phán: 'Con là tôi tớ Ta, để tái lập các chi họ Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; này đây Ta làm cho con nên ánh sáng các dân tộc, để con trở thành ơn cứu độ Ta ban cho đến tận bờ cõi trái đất'". 

Về Người Môn Đệ Phản Thày 

(Gioan 13, 21-33. 36-38): "Khi ấy, (Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ), tâm hồn Người bị xao xuyến, nên Người tuyên bố: 'Thật, Thầy nói thật cho các con biết, một người trong các con sẽ nộp Thầy'. Các môn đệ nhìn nhau phân vân không biết Người nói về ai. Có một môn đệ được Chúa Giêsu yêu quý, đang ở bàn ăn gần lòng Chúa Giêsu. Vậy Phêrô làm hiệu cho môn đệ ấy và nói: 'Hỏi xem Thầy nói về ai đó'. Môn đệ ấy nghiêng mình sát ngực Chúa Giêsu và hỏi Người: 'Thưa Thầy, ai vậy?' Chúa Giêsu trả lời: 'Thầy chấm miếng bánh trao cho ai là người đó'. Và Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn. Chúa Giêsu nói với hắn: 'Con tính làm gì thì làm mau đi'. Nhưng những người đang ngồi ăn không một ai hiểu được vì sao Người lại nói với hắn như vậy. Có nhiều người tưởng tại Giuđa giữ túi tiền, nên Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy mua những gì chúng ta cần dùng trong dịp lễ, hoặc Người bảo hắn bố thí cho người nghèo. Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối..." 

Thứ Tư 

Về Người Tôi Tớ Chúa 

(Isaia 50:4-9a): "Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu, tôi đã không che mặt giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Ðấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được, chúng ta hầu toà. Ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?"

V
ề Người Môn Đệ 
Phản Thày

(Mathêu 26, 14-25): "Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: 'Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?' Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người... Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: 'Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy'. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: 'Thưa Thầy, có phải con không?' Người trả lời: 'Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ sẽ nộp Thầy. Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!' Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, có phải con chăng?' Chúa đáp: 'Ðúng như con nói'".
 

Nhận định riêng: 

Về Người Tôi Tớ Chúa

Theo thứ tự của bài đọc 1, từ Thứ Hai tới Thứ Tư Tuần Thánh, thì Người Tôi Tớ Chúa được cho thấy như sau:  

Trước hết là thái độ vô cùng nhân hậu của Người Tôi Tớ Chúa: "Người sẽ không lớn tiếng, không thiên vị ai, không ai nghe tiếng người ở công trường. Người không bẻ gy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói".  

Sau nữa là sứ vụ cứu độ của Người Tôi Tớ Chúa: "Con là tôi tớ Ta, để tái lập các chi họ Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; này đây Ta làm cho con nên ánh sáng các dân tộc, để con trở thành ơn cứu độ Ta ban cho đến tận bờ cõi trái đất". 

Sau hết là số phận thảm thương để hoàn thành sứ vụ cứu độ của Người Tôi Tớ Chúa: "Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu, tôi đã không che mặt giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi" 

Về Người Môn Đệ Phản Thày

Theo thứ tự của bài Phúc Âm, từ Thứ Hai tới Thứ Tư Tuần Thánh, thì Người Môn Đệ Phản Thày được cho thấy như sau:  

Trước hết khởi đầu là lòng tham lam tiền bạc: "Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó". 

Sau nữa là từ lòng tham lam đến độ trở nên mù quáng: "Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn. Chúa Giêsu nói với hắn: 'Con tính làm gì thì làm mau đi'... Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối..." 

Sau hết là từ tình trạng mù quáng đến hành động gian ác một cách cố chấp hay đến độ bất chấp: "Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: 'Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?' Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người... Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, có phải con chăng?' Chúa đáp: 'Ðúng như con nói'". 

 

Nhận định chung:

Căn cứ vào Phụng vụ Lời Chúa của 3 Ngày đầu Tuần Thánh, từ Thứ Hai đến Thứ Tư, chúng ta thấy Giáo Hội cố ý nêu lên hai hình ảnh hoàn toàn tương phản nhau giữa Người Tôi Tớ Chúa và Người Môn Đệ Phản Thày, để chẳng những từ từ, nhất là qua các bài Phúc Âm, dẫn đến cuộc khổ giá và phục sinh của Chúa Kitô vào Tam Nhật Vượt Qua từ chiều Thứ Năm đến nửa đêm Thứ Bảy, mà còn cho thấy tất cả những gì về Người Tôi Tớ Chúa trong sách Tiên Tri Isaia đều được hoàn toàn ứng nghiệm, nhất là liên quan đến cuộc khổ giá của Người, một ứng nghiệm lại có liên quan đến Người Môn Đệ Phản Thày: "Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!" 

Cho dù sự gian ác, được biểu hiện nơi Người Môn Đệ Phản Thày, có âm mưu bí mật đến đâu chăng nữa và có xấu xa tội ác đến thế nào chăng nữa, vẫn không thể nào phá hủy hay làm lũng đoạn được tất cả những gì vô cùng tốt lành thiện hảo theo dự án thần linh cứu độ của Thiên Chúa, trái lại, Ngài vẫn có thể sử dụng chính những mưu đồ và hành động gian ác của con người để thực hiện dự án cứu độ của Ngài, đúng như Ngài muốn: vào thời điểm Ngài muốn và theo cách thức Ngài muốn.  

Trong việc cứu chuộc nhân loại, không phải bóng tối sự dữ thắng thế mà là "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12): "Ánh sáng chiếu soi trong tăm tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng" (Gioan 1:5). Ở chỗ, như Chúa Kitô đã khẳng định: "Cha Tôi yêu tôi vì điều này, đó là Tôi bỏ mạng sống mình để rồi lấy nó lại. Không ai lấy được mạng sống của Tôi. Tôi tự nguyện bỏ nó đi. Tôi có quyền bỏ nó đi và có quyền lấy nó lại. Tôi được lệnh này từ Cha Tôi" (Gioan 10:17-18). 

Đó là lý do, bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho Thứ Ba Tuần Thánh đã ghi lại sự kiện liên kết giữa Người Tôi Tớ Chúa và Người Môn Đệ Phản Thày như sau: "khi Giuđa đi rồi" thì "Bây giờ Con Người được vinh hiển, và Thiên Chúa đã được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính Mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển! Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa. Các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do-thái: 'Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được', nay Thầy cũng nói với các con như vậy". 

Đúng vậy, "nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được" đây nghĩa là gì, nếu không phải họ không thể nào hiểu được, không chấp nhận được. Vì nơi đó chính là Thánh Giá. Nếu các người Do Thái nói chung và thành phần Đầu Mục Do Thái nói riêng chẳng những không đến được, không hiểu được, không chấp nhận được mà còn vì thế mà chết trong tội lỗi của họ nữa, còn vì Người mà vấp phạm nữa (xem Gioan 8:21), thì chính các môn đệ của Người cũng vậy, cũng chẳng những không đến được, không hiểu được, không chấp nhận được, mà còn vì Người mà vấp phạm nữa, điển hình nhất là vị lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô, như Người đã báo trước cho người môn đệ này ở cuối bài Phúc Âm Thứ Ba Tuần Thánh. 

Như thế, chính Người Môn Đệ Phản Thày cũng không ngoại lệ, cũng không biết việc mình làm, cũng tác hành một cách mù quáng theo lòng tham lam tự nhiên của mình đến độ bất chấp tất cả, nhưng không ngờ trong khi Người Môn Đệ Phản Thày này cứ làm theo ý đồ gian ác của mình thì Người Tôi Tớ Chúa lại càng được dịp để hoàn thành sứ vụ cứu độ của mình: "Khi Giuđa đi rồi... Bây giờ Con Người được vinh hiển". 

Nếu "Con Người được vinh hiển" trong Bài Phúc Âm Thứ Ba Tuần Thánh đây là Người chịu khổ nạn và tử giá để tỏ tất cả sự thật về Cha là Đấng đã sai Người ra, nhờ đó con người nhận biết bản tính là tình yêu vô cùng bất tận của Cha, thì giây phút khổ nạn và tử giá của Con Người Giêsu Kitô được bắt đầu từ ngay giây phút "khi Giuđa đi rồi", tức giây phút được Thánh ký Gioan liên kết với "đêm tối": "Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối". Có nghĩa là chính lúc đêm tối và trong đêm tối mà Thiên Chúa "ánh sáng thực" (Gioan 1:9) của Ngài ra là Con của Ngài để xua tan bóng tối tội lỗi và chết chóc của con người và cho con người.

Con người được tự do làm theo những gì mình muốn, dù là gian ác xấu xa nhất, nhưng vẫn chẳng những không thế nào tác hại đến dự án thần linh vô cùng huyền diệu và toàn năng của Ngài mà còn làm cho dự án thần linh ấy được nên trọn nữa, một dự án thần linh cứu tất cả nhân loại, bao gồm cả thành phần theo khách quan như thể phá hoại dự án thần linh của Ngài.

Chi tiết "Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn... Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối..." , cũng trong Bài Phúc Âm Thứ Ba Tuần Thánh, cho chúng ta thấy một khi chúng ta đã phạm tội trọng, như Giuđa có ý định bán Thày mình (dù mới ở trong tư tưởng), mà còn rước lễ thì chỉ thêm tẩu hỏa nhập ma: "Satan nhập vào hắn", và bị Satan chiếm đoạt và sai khiến làm tất cả những gì xấu xa, đen tối và gian ác nhất theo ý của hắn: "Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối..."

Hình ảnh về môn đệ Giuđa phản nộp Thày mình trong ba bài Phúc Âm đầu Tuần Thánh, từ Thứ Hai đến Thứ Tư, chưa kể ở cả bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần Thánh, ngay đầu bài, vẫn còn nhắc đến người môn đệ đáng thương này: "Sau nữa ăn tối, ma quỉ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người", đã chứng thực những gì Người khẳng định với chung dân chúng, bao gồm cả thành phần lãnh đạo Do Thái giáo bấy giờ, lời Người nhắc lại với các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly ở cuối bài Phúc Âm Thứ Tư Tuần Thánh: "Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa. Các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do-thái: 'Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được', nay Thầy cũng nói với các con như vậy".

Trong các bài Phúc Âm suốt hai tuần lễ liền trước Tuần Thánh, Tuần IV và V Mùa Chay, của Thánh ký Gioan được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho các ngày thường trong tuần, Chúa Giêsu càng chứng thực về mình, đầu tiên bằng chứng từ bởi Cha, bởi Tiền Hô Gioan và bởi Mạc Khải Thánh Kinh (Tuần IV), sau đó bằng chính bản thân Người (Tuần V), như ánh sáng càng trở nên rạng ngời thì càng khiến dân chúng và thành phần lãnh đạo tôn giáo của họ càng bị chói mắt đến mù quáng, tới độ họ đã bảo Người bị quỉ ám và ném đá Người (Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay) và sau cùng tìm cách bắt Người (Phúc Âm Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay).

Trong 3 bài Phúc Âm đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội lại cố ý chọn đọc những bài Phúc Âm liên quan đến chính nội bộ môn đệ Chúa Kitô, một nội bộ cũng bị khủng hoảng kinh hoàng trước mầu nhiệm của Người, từ chân lên đầu. Từ chân đây là từ môn đệ Giuđa Íchca (có tên được liệt kê cuối cùng trong danh sách tông đồ) và lên tới đầu đây là môn đệ Phêrô (bao giờ cũng đứng đầu trong danh sách 12 tông đồ ở bộ Phúc Âm Nhất Lãm).

Cái chân "Giuđa" thì bỏ Thày mà "đi" theo đối phương để điều đình phản nộp Thày, như bài Phúc Âm Thứ Ba và Thứ Tư cho thấy: "sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối..."  (Thứ Ba); "Trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: 'Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?' Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người" (Thứ Tư).

Còn cái "đầu" Phêrô cho dù có không bỏ Thày mà đi, trái lại, còn cố gắng bám sát theo Thày "xa xa" (Bài Phúc Âm Chúa Nhật trong Lễ Lá), cuối cùng cũng vẫn "chối bỏ" Thày, một tác động hoàn toàn ngược lại với chính ý thức đức tin trong đầu não của ngài: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), một vấp phạm vô cùng nặng nề đúng như Chúa Giêsu đã cảnh báo ngài trong Bài Phúc Âm Thứ Tư Tuần Thánh: "Thầy nói thật cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần".

Cái "chân" Giuđa đã "đi" phản nộp Thày mình, và kể cả cái đầu Phêrô cũng chối bỏ Người, mà vì thế đã ứng nghiệm lời Thánh Vịnh (41:9): "Ngay cả bạn hữu thân tình của tôi, người tôi tín cẩn, cùng ăn bánh của tôi đã giơ gót đạp tôi" , một lời Thánh Vịnh đã được chính Chúa Giêsu lập lại sau khi rửa chân cho các môn đệ của Người (Gioan 13:18)!

Vậy sự kiện Chúa Giêsu rửa chân vào Chiều Tối Thứ Năm Tuần Thánh cho các tông đồ nói chung, nhất là cho riêng Giuđa Íchca là cái chân của tông đồ đoàn (bởi tên Giuđa bao giờ cũng ở cuối danh sách 12 tông đồ), là một cử chỉ cho thấy "Người yêu thương những kẻ thuộc về mình (yêu đến cả người môn đệ Giuđa ở cuối danh sách 12 tông đồ, dù người môn đệ này có giơ gót chân đạp lại Người) thì yêu thương họ đến cùng (đến con chiên lạc duy nhất trong đàn chiên Người cần phải tìm kiếm cho bằng được mới thôi)" (Gioan 13:1; Luca 15:4).

Cho dù chỉ có cái chân của tông đồ đoàn là tông đồ Giuđa Íchca là bẩn mới cần rửa, như Thánh ký Gioan đã chú thích trong Bài Phúc Âm Rửa Chân chiều Thứ Năm Tuần Thánh: "Người nào đã tắm thì không cần rửa nữa (trừ cái chân của họ); họ đã hoàn toàn sạch sẽ như các con đây, nhưng không phải là tất cả các con. (Lý do Người nói rằng 'Không phải tất cả cần rửa sạch' vì Người biết kẻ phản bội Người)" (Gioan 13:10-11).

Nguyên hành vi Người rửa chân chung cho các tông đồ chứ không phải chỉ rửa cho riêng môn đệ Giuda Íchca đã chứng tỏ Người muốn cho toàn thể Nhiệm Thể Giáo Hội của Người, từ chân đến đầu, đều phải thanh sạch, để nhờ đó Giáo Hội Nhiệm Thể của Người mới xứng đáng "dự phần với Thày" (Gioan 13:8), và vì thế, việc Người rửa chân trong Bữa Tiệc Ly Chiều Tối Thứ Năm Tuần Thánh đây ám chỉ việc "Con tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19), bằng cuộc khổ nạn và tử giá của Người trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, "để làm cho Giáo Hội nên thánh hảo" (Epheso 5:26).

 

Thánh thi (Giờ Kinh Phụng Vụ sáng và tối trong suốt Tuần Thánh - bản dịch theo Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)

 

Cờ Vua Cả tung bay phất phới

Thánh giá Người chói lọi oai phong,

Ai ngờ chính Ðấng Hóa Công

Thân treo thập giá lạ lùng xiết bao! 

Người chịu đóng đinh vào khổ giá

Mũi giáo đâm thấu cả cạnh sườn,

Máu đào cùng nước chảy tuôn

Rửa ta sạch hết ngàn muôn tội tình. 

Cây tô điểm đôi cành rực rỡ

Thấm máu Vua thắm đỏ cẩm bào,

Lựa từ gốc rễ thanh cao

Xứng cho Thánh Thể tựa vào thân ngươi! 

Phúc thay giá chuộc đời treo sẵn

Trên cành ngươi trĩu nặng giờ đây,

Thân hình Chúa Tể quyền oai

Cứu người dương thế khỏi tay tử thần. 

Ôi tế phẩm tế đàn cao sáng

Ðã chung phần khổ nạn quang vinh,

Chúa Trời hằng sống dâng mình

Chết đi để phúc trường sinh cho đời. 

Lạy thánh giá, người người hy vọng

Trong mùa này, mở rộng thiên ân:

Tôi trung, phúc đức tăng phần

Khoan hồng tha thứ tội nhân quy hồi. 

Xin tán tụng Ba Ngôi một Chúa

Chính là nguồn cứu độ trào dâng,

Nhờ ơn thập giá đỡ nâng

Ðoàn con khải thắng hát mừng thiên thu. 

 

 

Tam Nhật Thánh
Từ chiều Thứ Năm đến tối Chúa Nhật

 

Tam Nhật Thánh là tột đỉnh của chẳng những mạc khải thần linh của Thiên Chúa mà còn là tột đỉnh của cả phụng niên của Giáo Hội, bắt đầu từ Lễ Rửa Chân Chiều Thứ Năm cho tới sau Kinh Tối Chúa Nhật Phục Sinh. 

Thứ Năm Tuần Thánh Giáo Hội cử hành phụng vụ Thánh Thể để tưởng nhớ đến việc Chúa Kitô rửa chân cho các môn đệ và thiết lập Bí Tích Thánh Thể, rồi sau đó Người rút lui vào Vườn Cầu Nguyện. 

 

Thứ Sáu Tuần Thánh Giáo Hội (không cử hành phụng vụ Thánh Thể, mà chỉ) cử hành các nghi thức phụng vụ để tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn và tử giá vô cùng bất công, nhục nhã, khốn nạn và đau thương của Chúa Kitô.

 

Thứ Bảy Tuần Thánh được coi là ngày Chúa đang yên nghỉ trong ngôi mồ thánh chờ cho đến giây phút phục sinh đúng như lời Người đã tiên báo, tức là giây phút Giáo Hội cử hành Lễ Nửa Đêm Vọng Phục Sinh.

 

Tam Nhật Vượt Qua, có thể nói, về hình thức, bao gồm các biến cố cứu chuộc loài người, nhưng về nội dung và tinh thần, chất chứa tình yêu trọn hảo của một Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu, một tình yêu "cho đến cùng".

 

Thứ Năm Tuần Thánh- "Tình Yêu đến cùng" - Giuđa

 

Nguyên trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh, mở đầu Tam Nhật Vượt Qua, chúng ta đã thấy Chúa Kitô, qua hành động Người làm, bao gồm việc rửa chân cho các môn đệ và thiết lập Bí Tích Thánh Thể, đã bao gồm cả Mầu Nhiệm Vượt Qua và hướng về Mầu Nhiệm Vượt Qua của hai ngày sau đó rồi, ở chỗ:


Việc Người rửa chân cho các môn đệ như một người hầu hạ phục vụ chủ nhân của mình là biểu hiệu cho cuộc khổ nạn và tử giá của Người: "Con Người đến không phải để được hầu hạ mà là để hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28);


Việc Người thiết lập Bí Tích Thánh Thể để "các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày" (Luca 22:19) chính là để hoàn tất lời Người đã hứa "Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sự sống" (Gioan 6:51), và Người đã hoàn tất lời hứa này khi chính "Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho họ mà phán..." (Luca 22:19).


Trước hết, về việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể, một truyền thống mà chính bản thân của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô cũng đã lãnh nhận và tiếp tục truyền lại, như ngài đã thú nhận và đã viết về cách thức Bí Tích Thánh Thể được Chúa Giêsu thiết lập trong Thư 2 Giáo Đoàn Corinto (11:23-26): 


"Anh em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: 'Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta'. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, và phán: 'Chén này là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta'. Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến".


Thời điểm Chúa Giêsu muốn thiết lập Bí Tích Thánh Thể này là thời điểm sửa soạn dọn mừng Lễ Vượt Qua của người Do Thái, vì mỗi khi Giáo Hội cử hành phụng vụ Thánh Thể cũng là cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, và truyền thống hằng năm cho đến muôn đời phải cử hành Lễ Vượt Qua này của Người Do Thái cũng rất quan trọng bởi vì họ cần phải nhớ đến công cuộc giải phóng họ khỏi thân phận làm nô lệ bên Ai Cập để nhờ đó họ có thể sống tự do trong Đất Hứa.


Bài đọc 1 được trích từ Sách Xuất Hành (12, 1-8. 11-14), nhà giải phóng Moisen đã ghi lại lời Chúa phán như thế này, ám chỉ về Chúa Kitô là Con Chiên Vượt Qua sau này, bao gồm cả món ăn, cách ăn và thời điểm ăn Lễ Vượt Qua: 


"Mùng mười tháng này, ai nấy phải bắt một chiên con, mỗi gia đình, mỗi nhà một con... Chiên đó không được có tật gì, phải là chiên đực, được một năm... Vậy phải để dành cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi vào lúc chập tối, toàn thể cộng đồng con cái Israel sẽ giết nó, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Ðêm ấy sẽ ăn thịt nướng với bánh không men và rau đắng. Phải ăn như thế này: Phải thắt lưng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã: vì đó là ngày Vượt Qua của Chúa. Ðêm ấy Ta sẽ đi qua xứ Ai-cập, sẽ giết các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến súc vật, và Ta sẽ trừng phạt chư thần xứ Ai-cập: vì Ta là Chúa".


Có một điều rất đặc biệt liên quan đến phụng vụ Lời Chúa của ngày Thứ Năm Tuần Thánh này. Đó là việc Chúa Kitô lập Bí Tích Thánh Thể quan trọng như vậy mà không có một Phúc Âm nào, từ bộ Phúc Âm Nhất Lãm, được Giáo Hội sử dụng để đọc lên trong ngày này, mà chỉ dùng bài đọc 2, được trích từ Thư 2 của Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Côrintô (11:23-26).


Cho dù Giáo Hôi đã bù đắp lại điều này vào Thứ Năm sau Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi trong dịp Lễ Kính Mình Thánh Máu Thánh Chúa Kitô hằng năm rồi, nhưng phải có lý do chính đáng Giáo Hội mới chọn đọc Bài Phúc Âm của Thánh Ký Gioan về biến cố Người rửa chân cho các môn đệ của Người thay vì việc Người thiết lập Thánh Thể (biến cố không được Thánh ký Gioan ghi lại).


Phải chăng việc lập Bí Tích Thánh Thể vẫn không phải hay chưa phải là tất cả những gì được chính vị Thánh ký Gioan cảm nhận về Chúa Giêsu, như ngài trong câu đầu tiên ngài viết như để giới thiệu về ý nghĩa sâu xa và mục đích của việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, đó là: "Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng"?


Tại sao "Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng" ở đây được Thánh ký Gioan thuật lại là việc Chúa Kitô rửa chân cho các môn đệ chứ không phải việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể? Vậy thì việc Người rửa chân cho các môn đệ còn cao trọng và quan trọng hay cần thiết hơn cả việc Người thiết lập Bí Tích Thánh Thể hay sao?? 


Đúng như Thánh ký Gioan cảm nhận: "Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng", nghĩa là đến con chiên lạc cuối cùng là người môn đệ Giuđa Íchca đang có âm mưu phản nộp Người. Thật vậy, trong danh sách các tông đồ thì người môn đệ Giuđa Íchca được liệt kê cuối cùng và Phêrô được liệt kê đầu tiên (xem Mathêu 10:1-4; Marco 3:16-19; Luca 6:13-16). Và trong chính bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Gioan đã nhắc đến người môn đệ vô cùng đáng thương này 2 lần, lần nào cũng liên quan trực tiếp đến việc Chúa Giêsu rửa chân cho chung các tông đồ và cho riêng Giuđa: 


Lần 1: "Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau" (13:2-3). 


Lần 2: "Chúa Giêsu nói: 'Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu'. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: 'Không phải tất cả các con đều sạch đâu'" (13:10-11). Nghĩa là Chúa Giêsu cố ý nói về người môn đệ gian ác Giuđa (là chân) trong tông đồ đoàn (là "cả mình đã sạch") vô cùng đáng thương vẫn cần phải được cứu vớt - "chỉ cần rửa chân", như người chủ chiên nhân lành chỉ cần đi tìm cho bằng được con chiên lạc duy nhất trong đàn đã bỏ tất cả 99 con chiên khác lại một chỗ vậy (xem Luca 15:4), để chứng tỏ mình "yêu cho đến cùng".

Nếu kể đến hết câu 30 của đoạn 13 này, nghĩa là bao gồm cả phần hậu rửa chân, ngay sau bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta còn thấy Chúa Giêsu nhắc đến người môn đệ Giuđa Íchca này 4 lần nữa, thứ tự như sau:

Lần 3: "Điều Thày nói là không phải tất cả, vì Thày biết loại người Thày đã chọn. Thày cố ý nói ở đây là để cho thấy Thánh Kinh nên trọn: 'Kẻ ăn bánh cùng Ta đã giơ gót chân lên đạp Ta'" (câu 18);

Lần 4: "Thày nghiêm trọng cho các con biết rằng một người trong các con sẽ phản bội Thày" (câu 21);

Lần 5: "Kẻ mà Thày trao miếng bánh nhúng vào đĩa cho. Người đã nhúng miếng bánh, đoạn cầm đưa cho Giuđa con Simon Iscariô" (câu 25-26);

Lần 6: "Ngay sau đó Satan đã nhập vào lòng hắn, Chúa Giêsu đích thân nói cùng hắn rằng: 'Những gì con muốn làm thì hãy làm mau lên'" (câu 27).

 

Câu cuối cùng kết thúc bài phúc âm của Thánh ký Gioan sau khi Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ cũng chất chứa một ý nghĩa rất sâu xa: "Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: 'Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con'".


Trước hết, "Nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau" ở đây Chúa Kitô muốn nói gì vậy, nếu không phải Người muốn kêu gọi các môn đệ của Người rằng các con hãy yêu thương nhau "cho đến cùng", nhất là "những người anh chị em hèn mọn nhất của Ta" (Mathêu 25:40,45), như Người đã rửa chân cho Giuđa, người môn đệ cuối cùng, đáng thương trên hết các tông đồ, chứ Người không có ý nói "cũng phải rửa chân cho nhau", mà bấy giờ ở đó chỉ toàn là các tông đồ thôi, là chỉ rửa chân cho các đấng bậc trong Giáo Hội, tức các vị giám mục thừa kế các tông đồ rửa chân cho nhau, không được bao gồm cả linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân. 

 

Đức Thánh Cha Phanxicô - Nghi Thức Rửa Chân bao gồm chung Cộng Đồng Dân Chúa

 

 

Sau nữa, câu cuối cùng của bài phúc âm hôm nay "vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con", phải chăng sau đó Người đã nói rõ hơn về "tấm gương" của Người cho các môn đệ "bắt chước" khi Người chính thức ban bố giới răn mới, giời răn "trọn lành như Cha của các con trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), ở chỗ, "Các con hãy xót thương như Cha của các con thương xót" (Luca 6:36), tức là mức độ yêu thương không phải chỉ yêu nhau như bản thân mình - ái nhân như kỷ, mà còn yêu nhau hơn mình, yêu như Thày yêu, "yêu cho đến cùng": "Như Thày đã yêu thương các con thế nào, các con cũng hãy yêu nhau như vậy" (Gioan 13:34;15:12). 

Thánh Thi (Giờ Kinh Phụng Vụ Chiều Thứ Năm Tuần Thánh - bản dịch theo Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)

 

Ôi kỷ vật lưu dấu ngày Chúa chết,

Hỡi bánh trường sinh nuôi dưỡng người trần,

Ước chi Ngài nên lương thực con ăn,

Ðầy hương vị thỏa lòng con mãi mãi!

Muôn lạy Chúa Giêsu đầy lân ái,

Xin bửu huyết Ngài thanh tẩy con đi!

Một giọt thôi, là đủ sức diệu kỳ

Rửa sạch cả trần gian nên thanh tịnh.

Con mong mỏi giữa hội vui thần thánh

Hát mừng Ngài và chiêm ngưỡng Tôn Nhan,

Cùng tán dương Thánh Phụ với Thánh Thần

Trên cõi phúc ngàn vinh quang rực rỡ.

Lời nguyện (Giờ Kinh Phụng Vụ Chiều Thứ Năm Tuần Thánh - bản dịch theo Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)

 

Lạy Chúa, Chúa đã tấn phong Ðức Kitô làm Thượng Tế muôn đời để danh Chúa được tôn vinh và nhân loại hưởng nhờ ơn cứu độ. Người đã đổ máu ra chuộc chúng con về làm dân riêng của Chúa. Ngày hôm nay chúng con cử hành thánh lễ tưởng niệm Người, thì xin cho chúng con được tràn đầy sức sống mãnh liệt, tuôn tràn từ mầu nhiệm thập giá và phục sinh. Chúng con cầu xin...


Thứ Sáu Tuần Thánh: Khổ Giá - "Tình Yêu đến cùng" - Giáo Hội

The Cross of Jesus Christ

 

Theo chiều hướng từ tối Thứ Năm Tuần Thánh: "Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng", hôm nay, Thứ Sáu Tuần Thánh, Thánh ký Gioan, qua bài phúc âm của mình về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, một cuốn phúc âm đặc biệt liên quan đến thần tính của Chúa Kitô cũng như đến Giáo Hội Nhiệm thể của Người, ngài vẫn cho thấy một Giáo Hội, như tân Evà, xuất phát từ cạnh sườn bị đâm của Chúa Kitô Tử Giá (xem Gioan 19:34), một Giáo Hội Người "đã tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19).  


Và đó là lý do, trong cả 3 Phúc Âm Nhất Lãm và Phúc Âm Thánh Gioan, khi được hỏi "ngươi có phải là vua dân Do Thái hay chăng?" (Mathêu 27:11; Marco 15:2; Luca 23:3; Gioan 18:33), một câu hỏi có lẽ liên quan đến việc Người mới vinh quang tiến vào Thành Thánh Giêrusalem với tiếng hoan hô chúc tụng vang trời của đám đông dân chúng bấy giờ "Hoan hô Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Hoan hô trên chốn cao sang" (Mathêu 21:9), Chúa Giêsu chỉ trả lời một cách gẫy gọn như gián tiếp chấp nhận câu hỏi của vị tổng trấn này là đúng, ở trong 3 Phúc Âm Nhất Lãm. 


Thế nhưng chỉ ở trong Phúc Âm Thánh Gioan, câu trả lời dài hơn của Chúa Kitô mới cho thấy hình ảnh về một Giáo Hội tương lai đã được Người thiết lập (xem Mathêu 16:18) và sắp sửa được hạ sinh trên Đồi Canvê, và câu trả lời của Chúa Giêsu cho vấn nạn được tổng trấn đế quốc Rôma đặt ra xem Người có phải là vua dân Do Thái hay chăng, đó là: "Vương quốc của Tôi không thuộc về thế gian này... Thực sự là Vương Quốc của Tôi không phải là ở nơi đây" (Gioan 18:36), một câu khẳng định phản ảnh trung thực những gì Người đã xin Cha ở vào cuối Bữa Tiệc Lý cho các tông đồ là nền tảng của Giáo Hội sau này: "Họ không thuộc về thế gian như Con không thuộc về thế gian" (Gioan 17:14,16). 


Bởi vậy, chiều hướng của toàn bộ phụng vụ Lời Chúa cho Thứ Sáu Tuần Thánh này dường như chỉ hướng về nội bộ Giáo Hội mà thôi. Chẳng hạn ở bài đọc 2, trích từ Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái (4, 14-16; 5, 7-9) và bài đọc 1, trích từ Sách Tiên Tri Isaia (52:13 - 53:12), đều chất chứa những ý hướng một chiều này.


Trước hết, trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái, Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã nói đến vai trò thượng tế của Chúa Kitô (với vai trò thánh hóa trong nội bộ Giáo Hội) cũng như đến thành phần được cứu độ bởi tin vào Người (phần tử thuộc về Giáo Hội):


"Anh em thân mến, chúng ta có một thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi". 


"Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người".


Sau nữa, trong Sách Tiên Tri Isaia, vị tiên tri này nói đến đàn chiên (ám chỉ Dân Do Thái Cựu Ước và hướng đến Giáo Hội Tân Ước), theo chiều hướng sẵn sàng chấp nhận mọi sự vì chiên "tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19):


"Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta".


"Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ. Bởi đó, Ta trao phó nhiều dân cho người, người sẽ chia chiến lợi phẩm với người hùng mạnh. Bởi vì người đã hiến thân chịu chết và đã bị liệt vào hàng phạm nhân, người đã mang lấy tội của nhiều người, và đã cầu bầu cho các phạm nhân".


Trong bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan còn một chi tiết nữa liên quan đến Giáo Hội, đó là việc Chúa Giêsu trăn trối Tông Đồ Gioan cho Mẹ của Người, như xác nhận Mẹ là Mẹ của Giáo Hội, và trao Mẹ của Người cho Tông Đồ Gioan, như mẫu gương Trinh Mẫu của Giáo Hội. Đó là lý do Thánh ký Gioan, tiêu biểu cho Giáo Hội đứng dưới chân thập giá của Chúa Kitô với Mẹ Maria và như Mẹ Maria, đã viết ngay sau khi được Thày trao Mẹ của Người cho rằng: "Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình", ám chỉ vào chính tâm hồn của vị tông đồ này nói riêng và vào nhà Chúa là Giáo Hội nói chung. 

Tông Đồ Gioan quả thực là "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" (Gioan 19:26; 20:2; 21:7), người môn đệ đã có được cảm nghiệm thần linh tuyệt vời siêu việt về Thiên Chúa qua câu định nghĩa "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16), và là người môn đệ nhấn mạnh đến giới răn mới rất nhiều, và có thể nhờ vậy mà ngài đã không cần phải tử đạo bằng máu như các tông đồ khác, bởi vì một mình ngài trong số 12 tông đồ và là tông đồ duy nhất trung thành theo Thày tới cùng đã tử đạo bằng lửa khi chứng kiến thấy cảnh Thày mình bị khổ nhục vô cùng bất tận, như chính Mẹ Maria không tử đạo về thể lý nhưng đã được chính Giáo Hội tôn vinh là "Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo".

Tông Đồ Gioan, tiêu biểu cho Giáo Hội và đại diện của Giáo Hội bấy giờ đã được chịu khổ với Thày và như Thày, như đã được Người báo trước cho các tông đồ vào cuối biến cố rửa chân: "không nô lệ nào hơn được chủ của mình; không sứ giả nào hơn được vị đã sai mình" (Gioan 13:16). Tức là Chúa Kitô đã "yêu đến cùng" thế nào thì Giáo Hội cũng phải "yêu cho đến" cùng như vậy, như Tông Đồ Gioan đã "theo Con Chiên tới bất cứ nơi nào Con Chiên tới" (Khải Huyền 14:4) là thập giá của Người trên Đồi Canvê Thứ Sáu Tuần Thánh vậy. 

 

 

xin xem thêm:  Thứ Sáu Tuần Thánh - Bản Án Giêsu

 

Thánh Thi (Giờ Kinh Trưa Thứ Bảy Tuần Thánh - bản dịch theo Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)

 

Ôi thập tự, phước lành thế giới,

Nguồn cậy trông cứu rỗi tràn lan,

Xưa nên hình khổ nhục nhằn,

Nay thành ngưỡng cửa thiên đàng quang vinh!

Này Tế Phẩm trên mình ngươi đó

Ðã dang tay quy tụ người trần,

Mặc cho thủ lãnh thế gian

Tấn công cũng chẳng được phần lợi chi!

Giêsu hỡi, con quỳ tạ Chúa

Và Thánh Thần, Thánh Phụ cao tôn

Giúp con chiến đấu chẳng sờn

Theo cờ thập tự thiên môn khải hoàn.

 

 

Thứ Bảy Tuần Thánh: Mồ trống - "Tình Yêu đến cùng" - Sự Sống

 

Nếu Chúa Kitô khổ nạn và tử giá không sống lại thì tất cả đều là chuyện hoang đường, cho dù các Phúc Âm có thuật lại về tất cả những lời Người nói khôn ngoan nhất, không thể có một giáo tổ nào đã nói đến và nói được, về cả lãnh vực thần học cũng như đạo lý và luân lý, và có thuật lại về tất cả những dấu kỳ và phép lạ cả thể phi thường Người đã thực hiện cho dân chúng và trong dân chúng khi Người còn sống giữa họ chăng nữa. 

 

Nếu vậy thì Người chỉ là một trong những vị giáo tổ như mọi giáo tổ, cùng lắm Người chỉ là một vị đại tiên tri và là đệ nhất tiên tri trong dân Do Thái, được Chúa sai đến và có quyền năng phi thường từ Thiên Chúa, nhưng vẫn không thể nào cứu chuộc được ai, chứ chưa nói đến cả loài người, nếu Người không sống lại từ trong cõi chết, nghĩa là Người không bị sự chết làm chủ, mà đã chiến thắng sự chết, chứng tỏ Người quả thực là Thiên Chúa, là Hằng Hữu, "là Sự Sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25), là Tình Yêu mạnh hơn sự chết. 

 

Thánh Thi (Giờ Kinh Chiều Thứ Bảy Tuần Thánh - bản dịch theo Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)

 

Muôn lạy Ðấng cứu nhân độ thế

Vua Kitô hiển trị muôn nơi,

Vinh quang thập giá rạng ngời

Dủ thương ban tặng mọi người thần dân.

Ngài chết để diệt tan thần chết,

Ngài phục sinh mở kiếp trường sinh

Mưu mô ác quỷ tung hoành

Rắc gieo tử khí cũng đành chịu thua.

Tình yêu Chúa đã thừa diệu kế:

Trong mộ phần như thể ngủ say,

Âm ty Ngài phá liền tay

Cứu tiền nhân được thoát ngay ngục tù.

Xin Tế Phẩm đầy dư thánh đức

Bửu huyết Ngài cứu chuộc sinh linh,

Ngự bên Thánh Phụ quang vinh

Ðoái nghe tiếng nguyện lời kinh khẩn nài.

Giúp chúng con ngày ngày theo Chúa

Sống cuộc đời vẹn chữ tín trung

Cho dầu muôn ngả tấn công

Lá cờ thập giá oai hùng vẫn mang.

Giêsu hỡi, con hằng trông Chúa

Và Thánh Thần, Thánh Phụ cao tôn,

Giúp con chiến đấu chẳng sờn

Theo cờ thập giá thiên môn khải hoàn!

 

Phụng vụ Lời Chúa dài nhất trong phụng niên của Lễ Đêm Vọng Phục Sinh, với tất cả là 9 bài đọc: 7 bài Cựu Ước (3 bài có tính cách lịch sử và 4 bài có tính cách ngôn sứ) liên quan đến Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái, và 2 bài Tân Ước liên quan đến Chúa Kitô là tột đỉnh mạc khải thần linh của Thiên Chúa vào "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4), đã chứng thực như thế, đã cho thấy Thiên Chúa từ từ tỏ mình ra là Tình Yêu đối với dân Ngài tuyển chọn nói riêng và nhân loại nói chung để họ được “sự sống và là sự sống viên mãn” (Gioan 10:10), như thứ tự ý nghĩa các bài đọc Cựu Ước và Tân Ước được Giáo Hội cố ý chọn đọc trong Lễ Đêm Vọng Phục Sinh

 

Bài đọc 1 (Khởi Nguyên 1:1 - 2:2): 

 

Tình Yêu của Thiên Chúa trước hết bao giờ cũng nhưng không, được tỏ ra qua việc Ngài t ý muốn dựng nên tất cả mọi sự trên trời dưới đất, trong đó có một loài duy nhất được Ngài dựng nên theo hình ảnh thần linh của Ngài đó là loài người, để nhờ đó họ có thể hiệp thông thần linh với Ngài.

 

-"Từ nguyên thủy Thiên Chúa đã tạo thành trời đất... Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa, Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ... Thế là trời đất và mọi trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa đã hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi".

 

Bài đọc 2 (Khởi Nguyên 22:1-18): 

 

Tình Yêu của Thiên Chúa bao giờ cũng khởi động, được tỏ ra qua việc Ngài tự ý muốn thiết lập giao ước với tổ phụ Abraham, một giao ước liên quan đến Đất Hứa và nhất là đến giòng dõi tuyển chọn được chúc phúc của ông bao gồm toàn thể nhân loại  

 

"Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi. Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".

 

Bài đọc 3 (Xuất Hành 14:15 - 15:1): 

 

Tình Yêu của Thiên Chúa là một quyền lực cứu độ toàn năng, được tỏ hiện qua việc Ngài đã sai nhân vật Moisen đến để giải phóng họ khỏi bị sống thân phận nô lệ cho người Ai Cập hùng mạnh đang muốn ngăn chặn họ phát triển về dân số và càng ngày càng đầy đọa họ sống khốn khổ hơn bao giờ hết, nhất là việc Ngài vừa ra tay tiêu diệt người Ai Cập vừa cứu họ trong cuộc Vượt Qua Biển Đỏ của họ. 

 

- "Chúa phán bảo Môsê: 'Hãy giơ tay trên biển để nước trở lại vùi dập người Ai-cập, chiến xa và kỵ binh của chúng'. Môsê giơ tay trên biển, và lúc tảng sáng, biển trở lại như cũ. Người Ai-cập chạy trốn, gặp ngay nước biển ập lại. Chúa xô chúng ngã giữa lòng biển. Nước trở lại, vùi dập chiến xa và kỵ binh. Toàn thể quân lực của Pharaon đã theo dân Israel xuống biển, không còn tên nào sống sót. Còn con cái Israel đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước dựng như bức thành hai bên tả hữu. Ngày đó Chúa cứu Israel khỏi tay Ai-cập. Và họ thấy xác người Ai-cập trôi dạt đầy bờ, và thấy cánh tay oai hùng của Thiên Chúa đè bẹp Ai-cập. Toàn dân kính sợ Chúa, tin vào Chúa và vào Môsê tôi tớ người".

 

Bài đọc 4 (Isaia 54: 5-14)

 

Tình Yêu của Thiên Chúa bao giờ cũng thủy chung, đến độ, cho dù dân của Ngài chẳng những không nhận biết Tình Yêu nhưng không khởi động của Ngài mà còn liên lỉ phản bội Tình Yêu toàn năng của Ngài, khiến họ trở thành "như người thiếu phụ bị bỏ rơi và sầu muộn, và như người vợ bị bỏ rơi lúc còn xuân xanh", thế nhưng, Vị "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Gioan 4:8,16) này vẫn không bao giờ bỏ rơi họ, vẫn tha thứ cho họ, vẫn trung thành ở với họ, yêu thương họ cho tới cùng:

 

- "Trong một thời gian ngắn, Ta đã bỏ ngươi, nhưng Ta sẽ lấy lượng từ bi cao cả mà tụ họp ngươi lại. Trong lúc nóng giận, Ta tạm ẩn mặt Ta, nhưng vì lòng nhân từ vô biên, Ta thương xót ngươi, Chúa là Ðấng cứu chuộc ngươi đã phán như vậy.... Dù núi có dời, đồi có di chuyển, tình yêu của Ta đối với ngươi không thay đổi, và giao ước bình an của Ta cũng sẽ không lay chuyển, Chúa nhân từ của ngươi đã phán như vậy".

 

Bài đọc 5 (Isaia 55: 1-11)

 

Tình Yêu của Thiên Chúa là sự sống thông ban cho những ai tìm kiếm, tức "những ai khát nước", những ai cởi mở và đón nhận, tức "lắng tai nghe, đến ăn đồ bổ", một sự sống sẽ trở thành viên mãn đến độ qua chứng từ của những ai sống tình yêu Thiên Chúa còn có thể truyền đạt sự sống trong mình cho các dân nước nữa:

 

- "Hãy lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Ðavít: Ðây Ta đặt ngươi làm nhân chứng cho các dân, làm tướng lãnh tôn sư cho các dân tộc. Này ngươi sẽ kêu gọi dân mà trước ngươi không biết, và các dân trước chưa biết ngươi, sẽ chạy đến cùng ngươi, vì Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng Thánh Israel, bởi vì Chúa làm cho ngươi được hiển vinh".

 

Bài đọc 6 (Barúc 3: 9-15. 32 - 4, 4)

 

Tình Yêu của Thiên Chúa là tất cả những gì khôn ngoan nhất, một thứ khôn ngoan được chất chứa trong và bày tỏ qua lề luật của Ngài và là một thứ khôn ngoan làm cho con người đưc sự sống và bình an. Điển hình là trường hợp của dân Do Thái, thành phần có thể đã cảm nghiệm thấy được chân lý này khi bị đầy ải: "Hỡi Israel, bởi đâu ngươi ở trong đất nước quân thù, ngươi mòn mỏi trên đất khách, nhiễm lây nhơ bẩn của người chết, bị liệt vào kẻ phải xuống địa ngục? Ngươi đã lìa bỏ nguồn khôn ngoan. Vì chưng nếu ngươi theo đường lối Chúa, thì ngươi đã luôn sống trong bình an...". Thế nhưng, khôn ngoan thần linh là một kho tàng chỉ có ở nơi Thiên Chúa và được tỏ ra cho những ai yêu mến Ngài mà thôi:

 

- "Ai là người sẽ tìm được nơi cư ngụ của sự khôn ngoan, ai đi vào trong kho tàng của nó? Chính Ðấng thấu suốt mọi sự, Người biết nó: Người thấu suốt nó do đức khôn ngoan của Người... Người là Ðấng đã an bài vũ trụ đến muôn đời, và cho các gia súc và các thú bốn chân sống đầy mặt đất. Người sai ánh sáng đi thì nó đi, gọi nó lại thì nó run sợ vâng lời Người... Người là Thiên Chúa chúng ta, và không có chúa nào khác sánh được với Người. Người đã biết mọi đường lối khôn ngoan, đã ban nó cho Giacóp tôi tớ Người và cho Israel kẻ người yêu mến. Sau đó, Người xuất hiện trên mặt đất và sống giữa loài người".

 

Bài đọc 7 (Êzêkiên 36: 16-17a. 18-28)

Tình Yêu của Thiên Chúa là yếu tố thánh hảo tối hậu và là động lực để Ngài làm hết mọi sự. Chẳng hạn, trong Lịch Sử của dân do Thái, họ bị Ngài đầy ải ra khỏi Đất Hứa là vì "họ đã làm dơ bẩn đất ấy bằng đời sống và việc làm của họ. Và Ta đã nổi giận họ, vì họ đã đổ máu trên phần đất ấy, và vì các thần tượng họ thờ làm dơ bẩn phần đất ấy", để rồi, khi Ngài mang họ về lại, cũng hoàn toàn chỉ vì Ngài hơn là vì họ: "Hỡi nhà Israel, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, nhưng vì thánh danh Ta đã bị các ngươi xúc phạm nơi các dân tộc mà các ngươi đi đến cư ngụ". Đúng hơn, Ngài lợi dụng chính lỗi lầm của họ để tỏ tình yêu nhân hậu của Ngài ra cho họ, bằng cách chính Ngài canh tân đổi mới tâm hồn và cuộc sống của họ theo đúng lòng mong ước của Ngài:

- "Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi từ các nước, và dẫn dắt các ngươi trên đất các ngươi. Ta sẽ dùng nước trong sạch mà rảy trên các ngươi, và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ. Ta sẽ thanh tẩy các ngươi sạch mọi vết nhơ các bụt thần. Ta sẽ ban cho các ngươi quả tim mới, đặt giữa các ngươi một thần trí mới, cất khỏi xác các ngươi quả tim bằng đá và ban cho các ngươi quả tim bằng thịt. Ta đặt thần trí Ta giữa các ngươi, làm cho các ngươi thực thi các huấn lệnh Ta, làm cho các ngươi tuân giữ và thực hành các lề luật Ta. Các ngươi sẽ cư ngụ trong xứ Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi; các ngươi sẽ là dân Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi".

Bài đọc 8 (Rôma 6: 3-11):

 

Tình yêu của Thiên Chúa là quyền lực thần linh biến đổi con người nhờ Phép Rửa. Đúng thế, từ bài đọc 8 được trích trong Cựu Ước, nhãn quan con người dù tội lỗi khốn nạn và yếu hèn như hay hơn dân Do Thái chăng nữa này, đã được mạc khải cho thấy rồi: "các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ. Ta sẽ thanh tẩy các ngươi sạch mọi vết nhơ các bụt thần. Ta sẽ ban cho các ngươi quả tim mới... Ta đặt thần trí Ta giữa các ngươi...". Và việc biến đổi như "từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng" (1Phêrô 2:9), "vượt qua từ sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24) ấy đã thực sự xẩy ra nơi Phép Rửa Kitô Giáo:

 

- "Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi. Mà nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Ðức Kitô, một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã chết, tức là chết một lần dứt khoát đối với tội lỗi, mà khi Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Cả anh em cũng thế, anh em hãy tự kể như mình đã chết đối với tội lỗi, nhưng sống cho Thiên Chúa, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".

 

Bài đọc 9 (Luca 24:1-12 - Năm C):

 

Tình yêu của Thiên Chúa mạnh hơn sự chết, hay là chính sự sống bất diệt. Nếu "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16), và tất cả tình yêu của Thiên Chúa được mạc khải nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, nhất là trên thập giá, ở chỗ Người "đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá" (Philiphe 2:8), đã "yêu cho tới cùng", thì quả thực "Người đã trở nên căn nguyên cứu độ đời đời cho những ai tín phục Người" (Do Thái 5:9), khi Người sống lại từ trong cõi chết.

 

 ""Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không có ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói. Các bà hãy đến mà coi nơi đã đặt Người và đi ngay bảo các môn đệ Người rằng: Người đã sống lại, và kìa Người đến xứ Galilêa trước các ông: Ở đó các ông sẽ gặp Người". 

 

Về biến cố Chúa Kitô Phục Sinh thì, trong Lễ Đêm Vọng Phục Sinh, bao gồm cả 3 chu kỳ phụng niên A, B và C, (thậm chí kể cả trong Thánh Lễ Ban Ngày, với bài phúc âm theo Thánh ký Gioan), bài phúc âm nào cũng chưa cho thấy Chúa Giêsu thực sự hiện ra với các tông đồ, (vì Người hiện ra với các vị "vào buổi tối của ngày thứ nhất trong tuần" - Gioan 20:19, câu đầu tiên của bài Phúc Âm cho Chúa Nhật II Phục Sinh, Lễ Lòng Thương Xót Chúa), mà chỉ cho thấy những dấu hiệu Người đã phục sinh mà thôi, chẳng hạn ngôi mồ trống, đất rung chuyển, với tảng đá khổng lồ bị lăn sang một bên bởi một vị thiên thân sáng láng chứng thực, cùng lắm mới hiện ra với thành phần phụ nữ giáo dân không thuộc hàng ngũ giáo phẩm tông đồ đoàn, như ở trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (28:1-10) Năm A:

 

"Qua chiều ngày Sabbat, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ. Bỗng chốc đất chuyển mạnh vì Thiên Thần Chúa từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Vì thế những lính canh khiếp đảm run sợ và hầu như chết. Nhưng Thiên Thần lên tiếng và bảo các người nữ rằng: "Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không có ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói. Các bà hãy đến mà coi nơi đã đặt Người và đi ngay bảo các môn đệ Người rằng: Người đã sống lại, và kìa Người đến xứ Galilêa trước các ông: Ở đó các ông sẽ gặp Người. Đây Ta đã báo trước cho các bà hay". Hai bà vội ra khỏi mồ, vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta". Đó là lời Chúa".

 

 

Như thế, nếu liên kết 2 chi tiết của bài đọc 1 và bài đọc 9 trong Lễ Đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta thấy Ngày Thứ Bảy Thiên Chúa Hóa Công, ở bài đọc 1, đã ngưng mọi hoạt động về tạo dựng của Ngài, vì Ngài đã hoàn thành nó một cách tốt đẹp: "Thế là trời đất và mọi trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa đã hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi", và phải chăng ý nghĩa nghỉ ngơi này cũng có liên hệ mật thiết với và ám chỉ về sự kiện Chúa Kitô nghỉ ngơi trong ngôi mộ đá trong Thứ Bảy Tuần Thánh? 

 

Tuy nhiên, nếu ngày thứ bảy trong 7 ngày tạo dựng của Thiên Chúa thực sự có liên quan đến Thứ Bảy Tuần Thánh, thời điểm Chúa Kitô được an táng và đang nghỉ ngơi trong mồ, nhưng Người không vĩnh viễn "an nghỉ" như tất cả mọi phàm nhân tội lỗi phải chịu hậu quả chết chóc của nguyên tội, mà chờ thời điểm sống lại từ trong cõi chết, thì quả thực ngày thứ bảy trong tiến trình tạo dựng của Thiên Chúa chính là thời điểm Ngài muốn dùng để thánh hóa loài tạo vật đã được Ngài dựng nên theo hình ảnh của Ngài, bằng cách tỏ tình yêu của Ngài ra cho họ để họ nhờ đó mà được hiệp thông thần linh với Ngài bằng đức tin tuân phục của họ, theo đúng mục đích tối hậu Ngài đã tạo dựng nên họ, như chính Chúa Kitô đã mạc khải cho thấy về cái nghỉ hằng làm việc luôn của Cha Người cũng như của Người vì "yêu cho tới cùng" như sau: "Cha Tôi hằng làm việc luôn cho tới nay, Tôi cũng làm việc như vậy" (Gioan 5:17) - "Công việc của Thiên Chúa đó là hãy tin vào Đấng Ngài sai" (Gioan 6:29). 

 

Thánh Thi (Giờ Kinh Sách Phụng Vụ trong suốt Tuần Thánh - bản dịch theo Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)

 

Vang khúc khải hoàn ca, mừng đại thắng

Con Chúa Trời đã hiển hách thành công,

Vị Cứu Tinh bày chiến tích oai hung:

Cây thập tự, nơi chính Người tự hiến!

 

Xưa nguyên tổ nghe Xatan ngụy biện

Trái cấm vừa ăn, án tử mắc vào,

Hóa Công liền quyết định sẽ trồng cao

Cây thập tự thế vào cây nguyền rủa.

 

Mưu độc dữ sánh làm sao mưu Chúa!

Trong chương trình Người cứu độ sinh linh

Ðã tìm ra thần dược rất tài tình

Là cây gỗ chính quỷ dùng giết hại.

 

Chúa Ngôi Cha, khi đến thời đến buổi

Gửi Chúa Con, Ðấng sáng tạo vũ hoàn,

Tự cõi trời xuống thế giữa phàm nhân

Ngôi Thiên Tử sinh làm con Trinh Nữ.

 

Người đã muốn ba mươi năm cứu độ

Kết thúc bằng Mùa Khổ Nạn Vượt Qua,

Và này đây, trên thập tự chói lòa

Chiên Thiên Chúa đã dâng mình tế lễ.

 

Câu tán tụng hòa muôn kinh trọng thể

Con khấu đầu thượng tiến Chúa Ba Ngôi

Ðã đổ hồng ân cứu chuộc loài người,

Muôn muôn thuở xin dâng lời vinh chúc!


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, biên soạn và chia sẻ