SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XVII Thường Niên A - Chẵn

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: 1 V 3, 5. 7-12

"Xin ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, tại Gabaon, ban đêm, Chúa hiện ra cùng Salomon trong giấc mộng và phán rằng: "Ngươi muốn gì thì hãy xin, Ta sẽ ban cho ngươi". Salomon thưa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Ðavít thân phụ con. Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống giữa dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể đếm và ước lượng được. Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này?"

Ðiều Salomon kêu xin như trên đã đẹp lòng Chúa, nên Chúa phán cùng Salomon rằng: "Vì ngươi đã xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù, lại xin cho được khôn ngoan để biết xét đoán, thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 57 và 72. 76-77. 127-128. 129-130

Ðáp: Lạy Chúa, con yêu chuộng luật pháp của Chúa biết bao! (c. 97a)

Xướng: 1) Lạy Chúa, con xưng thực kỷ phần của con là tuân giữ những lời ban dạy của Ngài. Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.

2) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu uỷ lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. Nguyện Chúa xót thương cho con được sống, vì luật pháp Ngài là sự sung sướng của con. - Ðáp.

3) Bởi thế nên con yêu quý chỉ thị Ngài hơn vàng, và hơn cả vàng ròng tinh khiết. Bởi thế nên con tự chọn tất cả huấn lệnh của Ngài; hết thảy đường lối gian tà con đều ghét bỏ. - Ðáp.

4) Kỳ diệu thay những lời Ngài nghiêm huấn, bởi thế linh hồn con vẫn tuân theo. Sự mạc khải lời Ngài soi sáng và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 8, 28-30

"Người đã tiền định cho chúng ta trở nên giống hình ảnh Con Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, chúng ta biết rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa thì Người giúp họ được sự lành, họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. Vì chưng, những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính?, thì Người cũng cho họ được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: 1 Pr 1, 25

Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 13, 44-46 {hoặc 44-52}

"Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.

{"Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Trong ngày tận thế cũng vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa rằng: "Có".

Người liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới, cũ trong kho mình".}

Ðó là lời Chúa.


Suy nghiệm Lời Chúa

 

Kho tàng khôn ngoan nơi những kẻ yêu mến Thiên Chúa

 

 

Tiếp theo hai Chúa Nhật trước về dụ ngôn Nước Trời, Chúa Nhật XVII Năm A tuần này Giáo Hội chọn đọc dụ ngôn khác về Nước Trời. Nếu hai dụ ngôn chính về Nước Trời của hai Chúa Nhật trước liên quan đến "người gieo giống ra đi gieo giống" (Chúa Nhật XV) và "người kia gieo giống tốt trong ruộng của mình" (Chúa Nhật XVI), thì dụ ngôn về Nước Trời của Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm A tuần này, bao gồm 2 dụ ngôn liền,  (còn dụ ngôn sau đó về "lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá" không buộc đọc), và hai dụ ngôn ngắn gọn về Nước Trời của Chúa Nhật tuần này bất khả phân ly: dụ ngôn đầu liên quan đến một "kho tàng chôn giấu trong ruộng" và dụ ngôn sau liên quan đến một "người buôn nọ đi tìm ngọc quý".

Hai dụ ngôn về Nước Trời này thật sự có một liên hệ mật thiết bất khả phân ly với nhau như nội tâm với hoạt động vậy. Dụ ngôn "kho tàng chôn giấu trong ruộng" có tính cách nội tâm và dụ ngôn "người buôn nọ đi tìm ngọc quý" có chiều kích hoạt động. Nội tâm bao giờ cũng phải có trước, như nguồn mạch cho mọi hoạt động bề ngoài của con người Kitô hữu, và hoạt động phải theo nội tâm, phản ảnh nội tâm của họ. Thế nhưng, thực ra "kho tàng chôn giấu trong ruộng" đây là gì và "người buôn nọ đi tìm ngọc quí" đây là ai? Chúa Giêsu không hề giải thích hai dụ ngôn này như Người đã giải thích về hai dụ ngôn "người gieo giống" trước đó. Tuy nhiên, căn cứ vào chung Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta có thể thấy được ngay ý nghĩa của chúng.

Trước hết, "kho tàng chôn giấu trong ruộng" đây, theo Sách Các Vua Quyển Thứ 1 ở Bài Đọc 1 hôm nay, đó là một "tâm hồn khôn ngoan" mà Vua Salomon xin cùng Chúa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Ðavít thân phụ con. Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống giữa dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể đếm và ước lượng được. Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này?"

Thật vậy, nếu "kho tàng chôn giấu trong ruộng" "tâm hồn khôn ngoan" mà Vua Salomon "người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy" "dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể đếm và ước lượng được", ở chỗ, vua đã "không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù", nhờ đó vua đã chiếm được thửa ruộng ấy: "Đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi".

Sau nữa, "người buôn nọ đi tìm ngọc quý"
đây, theo Thư Thánh Phaolô gửi Giáo đoàn Rôma ở Bài Đọc 2 hôm nay, đó là "những kẻ yêu mến Thiên Chúa", "viên ngọc quí" đây là gì nếu không phải, cũng căn cứ vào lời Thánh Phaolô trong Bài Đọc 2 hôm nay, đó "hình ảnh Con Người", một "viên ngọc quí" trên hết mọi sự, đến độ họ phải đánh đổi tất cả những gì họ có, như lời Chúa Giêsu trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm cho biết, "anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy".

Đúng thế, để "nên giống hình ảnh Con Người", nghĩa là để "mặc lấy con người mới" (Epheso 4:24) cũng chính là "mặc lấy Chúa Giêsu Kitô" (Roma 13:14), Kitô hữu nói chung và thành phần được Thánh Phaolô đề cập đến trong Bài Đọc 2 là "những kẻ Chúa đã biết trước", cần phải "cởi bỏ con người cũ" (Epheso 4:22) thật bất xứng và đầy tương phản của mình, hay nói đúng hơn, là để cho "con người mới" "Chúa Giêsu Kitô" sống trong họ, làm chủ họ, "để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc", theo đúng ý định tối hậu của Thiên Chúa, Đấng mà, như Thánh Phaolô xác tín và tuyên xưng trong Bài Đọc 2 hôm nay: "Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang".

Áp dụng hai dụ ngôn này vào cơ cấu siêu nhiên và tu đức Kitô giáo thì "kho tàng chôn giấu trong ruộng" đây còn được hiểu là Thánh Sủng, là "quyền được làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), một Thánh Sủng hay quyền làm con Thiên Chúa được chôn giấu trong thửa ruộng Giáo Hội là những gì cần phải phải được trao đổi bằng niềm tin tưởng (vượt trên mọi khuynh hướng và đòi hỏi của bản tính tự nhiên) chấp nhận vào Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai. "Viên ngọc quí" đây là đức ái trọn hảo đối với tha nhân, một đức ái trọn hảo chỉ có thể trở thành hiện thực bằng đời sống hy sinh bỏ mình và chịu đựng cùng tha thứ cho tha nhân.

Trong cả hai dụ ngôn đều qui tụ lại một chỗ là việc trao đổi hay đánh đổi, chứ không phải tự nhiên mà có được, bởi vì đó là kho tàng và ngọc quí chứ không phải thứ đồ bỏ, đồ bị sa thải, đồ bị hư hại cần mang for sale rẻ tiền. Chính vì thế kinh nghiệm sống đạo mới cho thấy việc "cởi bỏ con người cũ" để "mặc lấy con người mới" "Chúa Giêsu Kitô" một tiến trình khó khăn chứ không dễ dàng. Khó khăn ở chỗ làm sao tự mình có thể biến đổi những gì là tầm thường hèn yếu thành cao quí thu hút, những gì là nhạt nhẽo như nước lã trở thành say đắm như rượu ngon (xem Gioan 2:7-10)?

Nếu thành phần phục vụ tiệc cưới ở Cana là yếu tố then chốt trong sự lạ nước lã hóa thành rượu ngon ở chỗ họ ngoan ngoãn và mau mắn đáp ứng "những gì Người bảo" (Gioan 2:5,7) thế nào, thì những ai muốn được biến đổi cũng cần phải có một "tâm hồn khôn ngoan" như vậy, ở chỗ hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tác động thần linh vô cùng mãnh lực và hiệu nghiệm của duy một mình Thiên Chúa, qua việc tuân thủ tất cả "những gì Người bảo" theo tinh thần của Thánh Vịnh 18 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa, con xưng thực kỷ phần của con là tuân giữ những lời ban dạy của Ngài. Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn.

2) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu uỷ lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. Nguyện Chúa xót thương cho con được sống, vì luật pháp Ngài là sự sung sướng của con.

3) Bởi thế nên con yêu quý chỉ thị Ngài hơn vàng, và hơn cả vàng ròng tinh khiết. Bởi thế nên con tự chọn tất cả huấn lệnh của Ngài; hết thảy đường lối gian tà con đều ghét bỏ.

4) Kỳ diệu thay những lời Ngài nghiêm huấn, bởi thế linh hồn con vẫn tuân theo. Sự mạc khải lời Ngài soi sáng và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm.


Vâng: "Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia".


 



Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 13, 1-11

"Dân này sẽ như chiếc đai lưng không còn có thể xài được nữa".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Ðây Chúa phán cùng tôi rằng: "Ngươi hãy đi mua sắm một dây đai lưng, rồi thắt vào lưng, và ngươi đừng nhúng vào nước". Và tôi đi mua dây đai theo lệnh Chúa, rồi tôi thắt vào lưng.

Lời Chúa phán cùng tôi lần thứ hai rằng: "Ngươi hãy cởi dây đai ngươi đã mua sắm và đang thắt ngang lưng, rồi chỗi dậy đi đến Êuphratê, giấu nó trong hốc đá". Và tôi ra đi giấu nó trong hốc đá như lời Chúa truyền dạy.

Sau nhiều ngày, Chúa lại phán cùng tôi rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy, đi đến Êuphratê mà lấy dây đai lưng Ta đã truyền ngươi đem giấu ở đó". Tôi ra đi đến Êuphratê, và lấy dây đai lưng ngay chỗ tôi đã giấu. Nhưng kìa, dây đai lưng đã mục nát cả, không còn xài được nữa.

Và có lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Ðây Chúa phán: Ta sẽ khiến cho lòng kiêu căng của Giuđa và lòng kiêu căng tột độ của Giêrusalem ra mục nát như vậy. Dân xấu xa này không còn muốn nghe lời Ta, cứ chạy theo lòng gian tà của nó, và chạy theo các thần ngoại lai để phụng sự và thờ lạy các thần đó, nên chúng sẽ như chiếc đai lưng này không còn xài được nữa". Và Chúa phán tiếp: "Như đai lưng bám sát vào lưng người ta thế nào, Ta cũng đã làm cho nhà Israel và nhà Giuđa bám Ta như vậy, để chúng trở thành dân Ta, cao rao thánh danh, vinh dự và vinh quang của Ta, nhưng chúng đã không chịu nghe".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Ðnl 32, 18-19. 20. 21

Ðáp: Ngươi đã bỏ Chúa, Ðấng đã sinh ra ngươi (c. 18a).

Xướng: 1) Ngươi đã bỏ Chúa, Ðấng đã sinh ra ngươi; đã quên Chúa, Ðấng đã tạo thành ngươi. Chúa đã thấy, và Người đã nổi cơn thịnh nộ: vì con trai con gái Người đã trêu chọc Người. - Ðáp.

2) Chúa phán: Ta sẽ che giấu mặt Ta khỏi chúng, và nhìn xem tương lai chúng sẽ ra sao: vì là dòng giống ngỗ nghịch và là con bất hiếu. - Ðáp.

3) Chúng đã trêu chọc Ta bằng thứ chẳng phải là Chúa, đã lấy sự dối trá mà chọc giận Ta: Ta sẽ trêu chúng bằng thứ không phải là dân tộc, và sẽ dùng dân tộc dại dột làm cho chúng tức giận. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 17, 17b và a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là chân lý, xin hãy thánh hoá chúng con trong sự thật. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 13, 31-35

"Hạt cải trở thành cây đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".

Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian".

Ðó là lời Chúa.

 

Parable Of The Mustard Seed Listening Faithfully: The Sin Series ...



Suy Niệm Cảm Nghiệm

Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay, Thứ Hai Tuần XVII Thường Niên tiếp tục loạt bài Phúc Âm về các dụ ngôn Nước Trời của Chúa Giêsu ở đoạn 13. 

Dụ ngôn đầu tiên (trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước) trong loạt dụ ngôn này là dụ ngôn người gieo giống ra đi gieo giống liên quan đến 4 loại môi trướng tiếp nhận hạt giống, và dụ ngôn thứ hai (trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước) cũng về người gieo giống nhưng là giống tốt trong ruộng của mình liên quan đến cỏ lùng. Dụ ngôn hôm nay, dụ ngôn thứ ba cũng liên quan đến hạt giống, nhưng là loại hạt cải, được Chúa Giêsu sử dụng để ám chỉ về Nước Trời như sau:

"Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".

Ngoài ra, song song với dụ ngôn này, như là một cặp dụ ngôn bất khả phân ly về Nước Trời, một dụ ngôn được Chúa Giêsu đề cập đến ngay sau đó, đó là dụ ngôn: "Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".

Cặp dụ ngôn hôm nay đây và cặp dụ ngôn vào Thứ Tư tuần này về Nước Trời không được Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa ám chỉ của những gì trong dụ ngôn, như Người đã dẫn giải dụ ngôn thứ 1 (trong bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước) và như Người đã dẫn giải dụ ngôn thứ 2 (trong bài Phúc Âm ngày mai). 

Thế nhưng, không phải vì thế mà 2 cặp dụ ngôn này tự chúng là những gì dễ hiểu, trái lại, như các dụ ngôn được Người dẫn giải, chúng vẫn là những điều bí ẩn, sâu nhiệm, như câu kết của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy về chung các dụ ngôn:

"Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: 'Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian'".

Dầu sao tính tò mò của con người vẫn muốn biết được ý nghĩa ám chỉ của các cặp dụ ngôn về Nước Trời không được Chúa Giêsu giải thích ấy, không phải chỉ thỏa tính tò mò mà nhất là để nắm bắt được thực tại của Nước Trời hầu có thể hưởng ứng và đáp ứng một cách xứng đáng.

Trước hết, "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình" - Phải chăng "hạt cải" ở đây Chúa Giêsu ám chỉ đến mầu nhiệm nhập thể của Người: "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14)? "Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống" - Phải chăng, Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến mầu nhiệm khổ giá, ở chỗ Người chẳng những đã "tự hạ ra như không" (Philiphê 2:6) mà còn "vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá" (xem Philiphê 2:8)? "Nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó" - Phải chăng Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến mầu nhiệm phục sinh và thăng thiên của Người, ở chỗ "Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..."(Philiphê 2:9).
 
Sau nữa, "Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men". Phải chăng "nắm menChúa Giêsu muốn ám chỉ đến sự sống thần linh nói chung và mầu nhiệm Thánh Thể cùng với các bí tích chất chứa sự sống nói riêng? Phải chăng "người đàn bà" trong dụ ngôn Người muốn ám chỉ đến Giáo Hội đóng vai trò làm mẹ có nhiệm vụ ban phát sự sống thần linh này bằng việc ban các bí tích nhất là việc cử hành Thánh Thể? Phải chăng "ba đấu bột" cần phải "dậy men" ở đây, tức cần phải "được sống và sống dồi dào hơn" (Gioan 10:10), Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến đấu bột thứ nhất là từng Kitô hữu, chi thể của Chúa Kitô, đấu bột thứ hai là chung Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô, và đấu bột thứ ba là toàn thể xã hội loài người?

Hình ảnh hạt cải và nắm men trong cặp dụ ngôn được Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, được tiêu biểu nơi chiếc "đai lưng" của Tiên Tri Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay, một dây đai lưng, trước hết được thắt vào lưng của vị tiên tri này, sau đó cởi ra đem giấu đi, (như men được vuì trong bột), và sau hết là lấy lại cái giây thắt lưng đã giấu đi đó, thì thấy nó đã bị mục nát mất rồi, (như hạt cải trong lòng đất cần phải mục nát đi như hạt lúc miến - xem Gioan 12:24 - mới phát triển trọn vẹn tầm vóc của mình và mới sinh hoa trái). Tuy nhiên, chính cái giây thắt lưng bị mục nát đi này có một ý nghĩa lưỡng diện, như chính Lời Chúa mạc khải trong Bài Đọc 1 hôm nay:

Một đàng, tự nó đã bị mục nát, trở thành đồ bỏ: "Dân xấu xa này không còn muốn nghe lời Ta, cứ chạy theo lòng gian tà của nó, và chạy theo các thần ngoại lai để phụng sự và thờ lạy các thần đó, nên chúng sẽ như chiếc đai lưng này không còn xài được nữa". Bởi: "Ngươi đã bỏ Chúa, Ðấng đã sinh ra ngươi" (câu họa của bài Đáp Ca hôm nay).

Đàng khác, lại nhờ đó mới đáng và càng đáng Thiên Chúa xót thương, khi không bỏ họ, vẫn gắn bó với họ, đến độ họ nhận ra LTXC mà trở về với Ngài: "Như đai lưng bám sát vào lưng người ta thế nào, Ta cũng đã làm cho nhà Israel và nhà Giuđa bám Ta như vậy, để chúng trở thành dân Ta, cao rao thánh danh, vinh dự và vinh quang của Ta, nhưng chúng đã không chịu nghe".

 



Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 14, 17-22

"Lạy Chúa, xin hãy nhớ lại, xin Chúa chớ huỷ bỏ giao ước giữa Ngài và chúng con".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Ngày đêm mắt ta rơi lệ không ngừng, vì trinh nữ con gái dân ta bị trọng thương, vết tích quá trầm trọng. Nếu ta đi ra đồng, thì đây những kẻ bị giết bằng gươm; nếu ta vào thành phố, thì đây những kẻ chết đói. Tiên tri và tư tế đều đi đến đất nước mình chẳng quen biết.

Chớ thì Chúa ruồng bỏ Giuđa sao? Hay lòng Chúa ghê tởm Sion rồi sao? Vậy tại sao Ngài đánh phạt chúng con đến nỗi không chữa được nữa? Chúng con mong đợi sự hoà bình mà không gặp sự lành; và chúng con mong đợi kỳ lành bệnh, thì đây toàn là xui xẻo.

Lạy Chúa, chúng con nhìn nhận những sự độc dữ của chúng con và sự gian ác của cha ông chúng con, vì chúng con đã phạm đến Chúa. Vì thánh danh Chúa, xin đừng để chúng con phải nhục nhã; vì toà vinh quang của Chúa, xin đừng để chúng con nhuốc hổ; xin Chúa nhớ lại, xin đừng huỷ bỏ giao ước giữa Chúa với chúng con.

Trong các tượng thần dân ngoại, chớ thì có vị nào làm cho mưa xuống chăng? Hay là tầng trời có thể đổ mưa xuống chăng? Nào Ngài chẳng phải là Thiên Chúa chúng con mong đợi sao? Vì chính Chúa tạo thành tất cả những sự đó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 78, 8. 9. 11 và 13

Ðáp: Lạy Chúa, vì vinh quang danh Chúa, xin giải thoát chúng con (c. 9bc).

Xướng: 1) Xin đừng nhớ lỗi tiền nhân để trị chúng con; xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi! - Ðáp.

2) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa; xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài. - Ðáp.

3) Xin cho tiếng tù binh rên xiết vọng tới thiên nhan; xin ra tay thần lực giải thoát người mang án tử. Phần chúng con là thần dân Chúa, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi, chúng con sẽ ca tụng Chúa tới muôn đời, đời nọ sang đời kia, chúng con loan truyền lời ngợi khen Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Dt 4, 12

Alleluia, alleluia! - Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, phân rẽ tư tưởng và là ý muốn của tâm hồn. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 13, 36-43

"Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, sau khi giải tán dân chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe". Người đáp lại rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".

Ðó là lời Chúa. 

What are the Weeds in Matt 13:24-30, 36-43? A Case of Jesus ...
Evangelho de hoje (Mt 13,36-43) – Egídio Serpa | Leitura e Fé em deus


 Suy Niệm Cảm Nghiệm

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XVII Thường Niên hôm nay chất chứa những lời Chúa Giêsu dẫn giải về dụ ngôn người gieo giống tốt trong thửa ruộng của mình trong bài Phúc Âm hôm Thứ Bảy tuần trước, để đáp lại lời yêu cầu của các môn đệ: "Khi ấy, sau khi giải tán dân chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: 'Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe'".

Theo thứ tự các hình ảnh trong dụ ngôn, Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của từng hình ảnh hay sự việc được Người ám chỉ trong dụ ngôn này như sau:

"Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình".

Ở đây chúng ta thấy những điều cần chú ý sau đây: 

1- Nếu "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước Trời" thì có nghĩa là Chúa Kitô Thiên Sai đã cứu độ thế gian hay cứu độ loài người khỏi tội lỗi và sự chết bằng cuộc Vượt Qua của Người, nhờ đó Người đã ban cho họ sự sống thần linh, như thể Người đã gieo giống tốt trong thửa ruộng thế gian của Người, nơi Người đã hóa thân làm người để nhờ Người mà thế gian được cứu độ (xem Gioan 3:16-17). 

2-  Nếu "Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ" thì có nghĩa là Satan và bọn ngụy thần của hắn nhất định tàn phá công nghiệp của Chúa Kitô nơi các tâm hồn nói riêng và Giáo Hội nói chung. Bởi thế, chúng ta không lạ gì Giáo Hội của Chúa Kitô liên lỉ trở thành mục tiêu tấn công của thần dữ suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, và thành phần Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội luôn bị bách hại và sát hại, càng ngày càng dữ dội hơn. 

3-  Nếu "Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần" thì có nghĩa là tất cả sẽ có cùng, và mọi sự sẽ được giải quyết công minh đúng như dự án thần linh của Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng Thần Linh làm chủ lịch sử loài người, cho dù trong thời gian hiện tại thành phần kẻ lành lúa tốt chỉ là một thiểu số và bao giờ cũng chịu thua thiệt tất cả mọi sự trước áp lực hung hăng tàn bạo của thành phần kẻ dữ lùng vực hầu như bất khả khống chế.

Như thế, dụ ngôn người gieo giống tốt trong thửa ruộng của mình đây bao gồm từ "thời điểm viên trọn"(Galata 4:4) của Chúa Kitô Thiên Sai, qua suốt giòng lịch sử của Giáo Hội Chúa Kitô, cho đến tận thế là thời điểm cánh chung. Dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng này là một dụ ngôn Chúa dẫn giải chẳng những để giúp cho chúng ta hiểu biết về thực tại Nước Trời mà còn khuyến dụ chúng ta hãy sống thực tại Nước Trời này nữa, ở chỗ hãy nhẫn nhục chịu đựng gian nan khốn khó trong cuộc hành trình đức tin của mình và luôn chờ đợi bằng lòng tin tưởng vào Đấng "sẽ xuất hiện lần thứ hai để mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha mong đợi Người" (Do Thái 9:28).


Dụ ngôn này đồng thời cũng cho chúng ta thấy một Vị Thiên Chúa nhẫn nại cho tới cùng, đối với cả kẻ dữ, và làm tất cả mọi sự cho lợi ích của kẻ lành là lúa tốt, thậm chí bằng chính kẻ dữ là cỏ lùng. Chính tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài cuối cùng sẽ thắng vượt tất cả trong Chúa Kitô Thiên Sai, Đấng đã vượt qua từ khổ giá đến phục sinh, và nếu kẻ dữ bị trừng phạt xứng với tội ác của họ thì không phải là Ngài ra tay, cho bằng chính họ bị day dứt quằn quại trước tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài.


Tuy nhiên, nếu thực sự cảm nghiệm được LTXC thì mới thấy được rằng:

1- Thiên Chúa không bao giờ trừng phạt con người, mà con người tự trừng phạt mình, bởi chính họ ngoan cố, nhất định, cho tới cùng, vẫn cương quyết không chịu chấp nhận tình yêu cho tới cùng của Ngài (xem Gioan 13:1);

2- Bởi vì, dù con người có bất trung, Thiên Chúa vẫn trung thành, vì Ngài không thể chối bỏ chính mình Ngài, tuy nhiên, nếu con người chối bỏ Ngài (xem 2Timôthêu 2:12-13), thì họ như bị vạ tuyệt thông tiền kết với Ngài vậy (xem Gioan 3:16-18, nhất là 18);

3- Nếu con người khi còn sống có trải qua đau khổ và sự chết là hậu quả của nguyên tội nói chung và tư tội nói riêng, thì do chính họ gây ra, tuy nhiên, nếu biết lợi dụng sự dữ phải chịu, họ có thể biến dữ thành lành là phần rỗi của họ.


Bài Đọc 1 hôm nay, qua tâm tình của Tiên Tri Giêrêmia đại diện dân Do Thái bấy giờ, và Bài Đáp Ca từ Thánh Vịnh 78 hôm nay, chúng ta thấy được lòng ăn năn thống hối của dân Chúa, ở chỗ, họ chẳng những nhận biết lỗi lầm của mình (Bài Đọc 1), mà còn cầu khẩn Chúa bằng tất cả lòng tin tưởng của họ (Bài Đáp Ca), một điều kiện thiết yếu bất khả thiếu để được thương xót và chắc chắn được xót thương:

"Lạy Chúa, chúng con nhìn nhận những sự độc dữ của chúng con và sự gian ác của cha ông chúng con, vì chúng con đã phạm đến Chúa. Vì thánh danh Chúa, xin đừng để chúng con phải nhục nhã; vì toà vinh quang của Chúa, xin đừng để chúng con nhuốc hổ; xin Chúa nhớ lại, xin đừng huỷ bỏ giao ước giữa Chúa với chúng con" (Bài Đọc 1).

1) Xin đừng nhớ lỗi tiền nhân để trị chúng con; xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi!

2) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa; xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài.

3) Xin cho tiếng tù binh rên xiết vọng tới thiên nhan; xin ra tay thần lực giải thoát người mang án tử. Phần chúng con là thần dân Chúa, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi, chúng con sẽ ca tụng Chúa tới muôn đời, đời nọ sang đời kia, chúng con loan truyền lời ngợi khen Chúa.





Thứ Tư

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 15, 10. 16-21

"Tại sao tôi cứ buồn sầu mãi? Nếu ngươi quay trở về, ngươi sẽ hiên ngang

trước mặt Ta".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Mẹ hỡi, khốn cho con, tại sao mẹ đã sinh ra con là kẻ hay tranh luận và cãi vã trong khắp xứ? Con không cho vay mượn và cũng không ai cho con vay mượn, thế mà mọi người đều nguyền rủa con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, con lấy lời Chúa làm của ăn. Lời của Chúa trở nên sự vui mừng và hân hoan cho lòng con, vì danh Chúa được kêu cầu trên con.

Con không ngồi trong đám người chơi bời; con hãnh diện vì các việc tay Chúa làm. Con chỉ ngồi một mình, vì Chúa đã khiến con đầy lời Chúa đe phạt. Tại sao con cứ buồn sầu mãi, và vết thương con trở thành hiểm nghèo bất trị? Nó trở nên như nước giả dối chóng cạn.

Vì vậy, Chúa phán thế này: "Nếu ngươi quay trở về, Ta sẽ cho ngươi về đứng trước mặt Ta: nếu ngươi phân biệt được vật quý với vật hèn, ngươi sẽ nên như miệng Ta, người ta sẽ quay về với ngươi, và ngươi không phải quay về với họ. Ta sẽ khiến ngươi nên tường đồng kiên cố cho dân này. Họ sẽ giao chiến với ngươi, nhưng họ không thắng được, vì Chúa phán: Ta ở cùng ngươi để giải thoát và cứu chữa ngươi. Ta sẽ giải phóng ngươi khỏi tay kẻ độc dữ, và sẽ cứu chữa ngươi khỏi tay kẻ hung bạo".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 58, 2-3. 4-5a. 10-11. 17. 18

Ðáp: Thiên Chúa là chỗ con nương thân trong ngày cơ khổ (c. 17d).

Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, xin cứu con thoát lũ địch nhân; bảo vệ con khỏi bọn người nổi lên chống đối! Xin giải gỡ con khỏi những kẻ chuyên làm điều ác, và cứu con xa thoát bọn sát nhân. - Ðáp.

2) Kìa chúng đang gài bẫy để sát hại con; âm mưu chống đối con là bọn người quyền thế. Lạy Chúa, con không vương tội ác lỗi lầm; dầu con vô tội, chúng cũng ùa tới tấn công. - Ðáp.

3) Lạy Chúa là sức mạnh con, con hướng thân tìm về Chúa, vì lạy Chúa, Chúa là đồn lũy bảo vệ con. Thân lạy Chúa, Chúa là Ðấng xót thương con; lạy Chúa, xin Ngài ra tay nâng đỡ, khiến cho con được vui nhìn quân nghịch phải thua. - Ðáp.

4) Phần con, con sẽ ca ngợi quyền năng Chúa, và mỗi buổi sáng, con hoan hỉ vì đức từ bi của Chúa, vì Chúa đã trở nên đồn lũy bảo vệ con, và chỗ con nương thân trong ngày cơ khổ. - Ðáp.

5) Lạy Chúa là sức mạnh con, con ca ngợi Chúa; vì lạy Chúa, Chúa là đồn lũy bảo vệ con, thân lạy Chúa, Chúa là Ðấng xót thương con. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 13, 44-46

"Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.

Ðó là lời Chúa.







Suy Niệm Cảm Nghiệm

Hôm nay, Thứ Tư Tuần XVIIThường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu tiếp tục ghi lại một cặp dụ ngôn nữa về Nước Trời được Chúa Kitô diễn tả để mạc khải cho dân Do Thái nói chung và cho các môn đệ của Người nói riêng biết. 

"Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy".


"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy".


Hai dụ ngôn về Nước Trời này có liên hệ hết sức mật thiết với nhau bất khả phân ly, có tính cách tu đức hơn là thần học. Ở chỗ, một đàng thì "kho báu trong ruộng" được tìm thấy, một đàng thì đi tìm được: "viên ngọc quí". Một đàng thụ động: "kho báu trong ruộng" và một đàng chủ động: "đi tìm ngọc đẹp".

Cặp dụ ngôn thứ hai về Nước Trời này, như cặp dụ ngôn thứ nhất trong bài Phúc Âm Thứ Hai tuần này, không được Chúa Giêsu giải thích cho biết. Tuy nhiên, căn cứ vào đường lối suy diễn như ở cặp dụ ngôn thứ nhất, nhờ căn cứ vào Chúa Kitô như là chính Nước Trời thì cặp dụ ngôn thứ hai về Nước Trời hay về Chúa Kitô có thể suy diễn như sau. 

Dầu sao cũng cần phải nhớ rằng cặp dụ ngôn thứ hai này Chúa Giêsu nói riêng với các tông đồ chứ không phải chung cho dân chúng như cặp dụ ngôn thứ nhất. Vì Người nói ngày sau khi dẫn giải dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng lúa tốt cho các môn đệ là thành phần xin Người giải thích "sau khi giải tán dân chúng, Người đã về nhà...".

Trước hết, "Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng" - Phải chăng Chúa Giêsu có ý nói rằng Người chính là kho báu được chôn giấu trong ruộng, mà "ruộng là thế gian" (theo chính lời Chúa Giêsu giải thích trong bài Phúc Âm hôm qua), nên Chúa Giêsu vẫn là những gì quí báu nhất trên trần gian này mà ít người biết tới, như thể kho tàng quí báu ấy bị chôn giấu đi vậy? 
"Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy" - Nghĩa là cho dù kho tàng ấy ít ai biết đến, như bị che giấu đi như thế, ai mà gặp được, chẳng hạn thành phần bé mọn được Cha tỏ ra cho (xem Mathêu 11:25), thì họ chẳng còn tiếc gì nữa, sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà mua thửa ruộng có kho tàng này, chứ không phải mua chính kho tàng, vì mua cả thửa ruộng thì tất nhiên có được kho báu trong đó nữa. 
Đúng thế, nếu Chúa Kitô đã cứu chuộc thế gian, thì ai tìm gặp Người cũng quí chuộng ơn cứu chuộc của Người, và tìm hết cách để cứu lấy thế gian, và khi họ đã dám hy sinh tất cả mọi sự của họ cho phần rỗi của tha nhân trên thế gian này, là họ có được tất cả Chúa Kitô là kho tàng chôn trong thửa ruộng được họ tậu lấy vậy. Theo ý nghĩa ấy thì quả thực dụ ngôn kho tàng trong ruộng này liên quan đến ơn gọi theo Chúa của các tông đồ, thành phần môn đệ chứng nhân tiên khởi của Người.
"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy". Phải chăng "một thương gia đi tìm ngọc đẹp" đây chính là Chúa Kitô, Đấng đã "đến để tìm kiếm và cứu với những gì hư hoại" (Luca 19:10), nhưng đối với Người "những gì hư hoại" ấy, như con chiên lạc thứ 100 hay đồng tiền thất lạc (xem Luca 15:4,8) lại rất quí báu, đến độ Người đã phải từ trời xuống thế để tìm kiếm. 

Như thế ám chỉ con người ta nói chung, và linh hồn của con người nói riêng, là "một viên ngọc quí", đã được Thiên Chúa tìm thấy, và đã thực sự "mua viên ngọc ấy", bằng chính máu thánh vô giá của Người, bằng chính sự sống hy hiến của Người (xem Gioan 17:19; Mathêu 20:28)? Dụ ngôn này cũng liên quan đến vai trò của các tông đồ, chẳng những trong sứ vụ thừa sai nhân chứng, mà còn trong cả thừa tác vụ ban phát ân sủng và sự sống thần linh cho các linh hồn nữa. 

Nếu con người là viên ngọc quí được Thiên Chúa lìa bỏ trời cao xuống trần gian để tìm mua cho bằng được như trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, trong khi đó tự mình, con người chẳng xứng đáng, với đầy những tội lỗi xấu xa, nhưng chính vì thế mới trở nên viên ngọc quí của LTXC, và vì thế, Ngài chẳng bao giờ vĩnh viễn bỏ rơi hay loại trừ họ, miễn là họ nhận biết LTXC mà trở lại với Ngài và tin vào Ngài, như Bài Đọc 1 và bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:

"Nếu ngươi quay trở về, Ta sẽ cho ngươi về đứng trước mặt Ta: nếu ngươi phân biệt được vật quý với vật hèn, ngươi sẽ nên như miệng Ta, người ta sẽ quay về với ngươi, và ngươi không phải quay về với họ. Ta sẽ khiến ngươi nên tường đồng kiên cố cho dân này. Họ sẽ giao chiến với ngươi, nhưng họ không thắng được, vì Chúa phán: Ta ở cùng ngươi để giải thoát và cứu chữa ngươi. Ta sẽ giải phóng ngươi khỏi tay kẻ độc dữ, và sẽ cứu chữa ngươi khỏi tay kẻ hung bạo". (Bài Đọc)

1) Ôi Thiên Chúa, xin cứu con thoát lũ địch nhân; bảo vệ con khỏi bọn người nổi lên chống đối! Xin giải gỡ con khỏi những kẻ chuyên làm điều ác, và cứu con xa thoát bọn sát nhân.

2) Kìa chúng đang gài bẫy để sát hại con; âm mưu chống đối con là bọn người quyền thế. Lạy Chúa, con không vương tội ác lỗi lầm; dầu con vô tội, chúng cũng ùa tới tấn công.

3) Lạy Chúa là sức mạnh con, con hướng thân tìm về Chúa, vì lạy Chúa, Chúa là đồn lũy bảo vệ con. Thân lạy Chúa, Chúa là Ðấng xót thương con; lạy Chúa, xin Ngài ra tay nâng đỡ, khiến cho con được vui nhìn quân nghịch phải thua.

4) Phần con, con sẽ ca ngợi quyền năng Chúa, và mỗi buổi sáng, con hoan hỉ vì đức từ bi của Chúa, vì Chúa đã trở nên đồn lũy bảo vệ con, và chỗ con nương thân trong ngày cơ khổ.

5) Lạy Chúa là sức mạnh con, con ca ngợi Chúa; vì lạy Chúa, Chúa là đồn lũy bảo vệ con, thân lạy Chúa, Chúa là Ðấng xót thương con.

 



Thứ Năm

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 18, 1-6

"Như hòn đất nơi tay thợ gốm thế nào, thì các ngươi ở trong tay Ta cũng như vậy".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Có lời Chúa phán cùng Giêrêmia rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy, đi xuống nhà thợ gốm, và ở đấy ngươi sẽ nghe lời Ta". Tôi liền xuống nhà thợ gốm, và đây anh đang nắn đồ trên bàn quay. Cái bình đất do tay anh nắn đã vỡ nát, anh lại nắn cái khác theo như ý anh muốn làm. Và có lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Chúa phán: Hỡi nhà Israel, nào Ta chẳng làm được cho các ngươi như người thợ gốm này sao? Hỡi nhà Israel! Ðây, như hòn đất trong tay người thợ gốm thế nào, thì các ngươi ở trong tay Ta cũng như vậy".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 145, 2abc. 2d-4. 5-6

Ðáp: Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ (c. 5a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy khen ngợi Thiên Chúa; tôi sẽ khen ngợi Thiên Chúa trong cả cuộc đời; bao lâu còn có thân tôi, tôi còn ca ngợi Chúa. - Ðáp.

2) Ðừng tin cậy vào những vị quân vương, vào con người phàm không thể ban ơn cứu độ. Lúc y tắt thở, y sẽ trở về bụi đất; bấy giờ những lời bàn của y cũng tiêu tan. - Ðáp.

3) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng. Người là Ðấng giữ trung tín muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 13, 47-53

"Người ta lựa cá tốt bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Ðến ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa: "Có".

Người liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái cũ, mới trong kho mình". Khi Chúa Giêsu phán các dụ ngôn đó xong, thì Người rời khỏi nơi ấy.

Ðó là lời Chúa.

 


The New Emangelization | Drawing Men to Jesus Christ and His ...

Evangelho do dia - 03/08/2017 Quinta Feira - MT 13 47-53 - YouTube


Suy Niệm Cảm Nghiệm


Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XVII Thường Niên hôm nay ghi lại dụ ngôn cuối cùng của Chúa Giêsu về Nước Trời trong Phúc Âm Thánh Ký Mathêu ở đoạn 13. 

"Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Đến ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng"
Dụ Ngôn lưới cá dưới biển là dụ ngôn cuối cùng trong bộ 7 dụ ngôn về Nước Trời được Thánh Mathêu gom lại ở Đoạn Phúc Âm 13 của ngài. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy 7 dụ ngôn này có một mối liên hệ bất khả phân ly và được sắp xếp rất ư là hợp tình hợp lý, như sau:

1- Nếu dụ ngôn đầu tiên thứ nhất về Mầu Nhiệm Nhập Thể, vì hạt giống là Lời Chúa, là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), thì dụ ngôn thứ 7 cuối cùng về Mầu Nhiệm Cánh Chung, liên quan đến chung thẩm, phân kẻ lành người dữ.

2- Tất cả có 3 cặp dụ ngôn đầu và chỉ có 1 dụ ngôn lẻ kết thúc cuối cùng là dụ ngôn về lưới thả xuống biển bắt đủ mọi thứ cá, tốt cũng như xấu, liên quan Mầu Nhiệm Chung Thẩm của bài Phúc Âm hôm nay. Như chúng ta sẽ thấy, qua suy diễn và ghép nối, các cặp dụ ngôn đều có liên hệ đến các vai trò: cặp dụ ngôn đầu, 1 và 2, về Thiên Chúa và ma quỉ, cặp dụ ngôn thứ hai, 3 và 4, về Chúa Kitô và Thần Linh, cặp dụ ngôn thứ ba, 5 và 6, về Giáo Hội và chứng nhân, dụ ngôn đơn lẻ cuối cùng thứ 7 về cặp kẻ lành và kẻ dữ, về thiên đáng và hỏa ngục.

3- Cặp dụ ngôn đầu tiên 1 và 2: Nếu dụ ngôn thứ nhất về hạt giống được chủ ruộng là Thiên Chúa gieo xuống 4 loại môi trường khác nhau, thì dụ ngôn thứ hai về cỏ lùng mọc lên chung với lúa tốt, như được vị Thiên Chúa chủ ruộng cho phép kẻ thù của ông lén lút gieo vào.

4- Cặp dụ ngôn tiếp theo thứ 3 và thứ 4: Nếu dụ ngôn thứ 3 về hạt cải nhỏ nhất, ám chỉ Chúa Kitô Giáng Sinh mọc lên thành cây vĩ đại, ám chỉ Chúa Kitô Vượt Qua để cứu độ toàn thể nhân loại, thì dụ ngôn thứ 4 về chút men là Thần Linh, được người đàn bà là Mẹ Maria vùi vào trong 3 đấu bột là Giáo Hội, nhân loại và dân Chúa, để tất cả được dậy men sự sống.

5- Cặp dụ ngôn cuối cùng thứ 5 và thứ 6: Nếu dụ ngôn thứ 5 về kho tàng Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô chôn giấu trong ruộng Giáo Hội, mà người thiện tâm tìm được, cần phải mua cả  thửa ruộng Giáo Hội này, bằng cách gia nhập Giáo Hội, qua Phép Rửa, thì dụ ngôn thứ 6 về người thương gia là Giáo Hội cần phải tìm chiếm viên ngọc quí là các linh hồn cho ơn cứu độ.

6- Cặp dụ ngôn thứ nhất về Thiên Chúa là người gieo giống và ma quỉ là kẻ thù gieo cỏ lùng trong ruộng thế gian; cặp dụ ngôn thứ hai về Chúa Kitô nhập thể là hạt cải nhỏ nhất thành cây sự sống vĩ đại và về Thần Linh là chút men làm cho ba đấu bột Giáo Hội, nhân loại và dân Chúa hiệp thông thần linh; và cặp dụ ngôn thứ ba về Ơn Cứu Độ là kho tàng chôn trong ruộng Giáo Hội mà ai muốn được cứu phải gia nhập, để nhờ đó, trở thành môn đệ của Chúa Kitô, trong sứ vụ thương gia tông đồ tìm kiếm viên ngọc quí là phần rỗi cho các linh hồn tại thế.

7- Nếu 3 cặp dụ ngôn đầu, từ 1 tới 6, nói chung, về Ơn Cứu Độ, từ Thiên Chúa gieo giống Lời Chúa là Con của Ngài nhập thể giáng thế, cho dù có bị ma quỉ phá hoại bằng thành phần cỏ lùng gian ác, vẫn mang lại ơn cứu độ cho các chim trời là linh hồn của nhân loại, nhờ men Thần Linh hiệp thông sự sống được ban cho Giáo Hội để canh tân bộ mặt trái đất, bao gồm cả dân Do Thái;

Tuy nhiên, để được hiệp thông thần linh là Ơn Cứu Độ được Chúa Kitô ký gửi trong thửa ruộng Giáo Hội, con người thiện tâm cần phải mua thửa ruộng Giáo Hội này, bằng cách lãnh nhận Phép Rửa bởi Giáo Hội, nhờ đó, trở thành những thương gia tông đồ, cho dù có phải bán đi tất cả những gì mình có, kể cả mạng sống của mình như các vị tông đồ tử đạo, cho phần rỗi là viên ngọc quí của nhân loại, một nhân loại đã được Chúa Kitô cứu chuộc, nhưng vẫn cần phải được bắt bằng lưới thả xuống biển, là việc truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội, qua các chi thể Kitô hữu tông đồ chứng nhân của mình, cho đến tận thế, thời điểm chung thẩm để phân loại thành phần cá tốt và cá xấu trong việc chấp nhận Ơn Cứu Độ, được loan truyền cho họ, như dụ ngôn lẻ thứ bảy cuối cùng cho thấy, dụ ngôn kết thúc trọn bộ 7 dụ ngôn Nước Trời, hết sức mật thiết liên hệ với nhau, về ý nghĩa từ đầu đến cuối như vậy.

Cũng như cặp dụ ngôn thứ hai trong bài Phúc Âm hôm qua, dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này cũng không được Chúa Giêsu giải thích gì hết về những hình ảnh Người sử dụng. Lý do Người không giải thích gì hết là vì, các môn đệ của Người không yêu cầu Người giải thích như ở dụ ngôn người gieo giống ra đi gieo giống, và người gieo giống tốt trong ruộng của mình. Thậm chí khi được Người hỏi: "'Các con có hiểu những điều đó không?' Họ thưa: 'Có'".

Sở dĩ các môn đệ nói "" hiểu dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này, có thể là vì nội dung của dụ ngôn này cũng giống như dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng. Đúng thế, dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này cũng liên quan đến hai loại tốt và xấu. Nếu dụ ngôn người gieo giống tốt trong ruộng của mình, bao gồm lúa tốt và cỏ xấu, thì dụ ngôn cuối cùng này liên quan đến cá tốt và cá xấu. 

Tuy nhiên, không biết các môn đệ của Chúa Giêsu bấy giờ đã hiểu dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này như thế nào, chẳng hạn "lưới thả dưới biển" ám chỉ những gì, và ý nghĩa chính yếu của dụ ngôn này là chi, phần chúng ta, vẫn cần tìm hiểu xem những gì còn mập mờ trong dụ ngôn này. Vậy, dựa theo đường hướng Nước Trời ám chỉ Chúa Kitô, và dụ ngôn cuối cùng trong loạt dụ ngôn được Thánh ký Mathêu ghi lại ở Đoạn 13 này, là dụ ngôn Chúa Giêsu nói riêng với các môn đệ, thì chúng ta có thể suy diễn như sau:

"Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá".

Nếu đây là dụ ngôn cuối cùng trong loạt dụ ngôn về Nước Trời được Thánh ký Mathêu thuật lại ở đoạn 13, và cũng là dụ ngôn được Chúa Giêsu nói riêng với các tông đồ, thì dụ ngôn này gợi lại hình ảnh 7 tông đồ đi đánh cá ở Biển Hồ Tibêria sau 2 lần Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện ra với các vị (xem Gioan 21:1-14). 

Nếu "ruộng" là nơi có cả "lúa tốt" lẫn "cỏ lùngtrong dụ ngôn "người gieo giống tốt trong ruộng của mình" là "thế gian" thì "biển" trong dụ ngôn này cũng có thể ám chỉ "thế gian", nơi có cả "cá tốt" là "người lànhlẫn "cá xấu" là "kẻ dữ". Vậy "lưới thả dưới biển" đây phải chăng chính là thành phần thừa sai được Chúa Kitô Phục Sinh truyền lệnh: "Thày được toàn quyền trên trời dưới đất. Bởi vậy các con hãy đi tuyển mộ môn đồ thuộc tất cả mọi dân nước. Hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh thần. Hãy dạy cho họ thi hành tất cả những gì Thày đã truyền cho các con" (Mathêu 28:19)?

"Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài". 

Nếu "lưới thả dưới biển" đây ám chỉ thành phần thừa sai truyền giáo của Giáo Hội Chúa Kitô, tức là liên quan đặc biệt đến dân ngoại, thành phần chính yếu làm nên Giáo Hội Chúa Kitô, không phải dân Do Thái, thì "lưới đầy" ở đây phải chăng có nghĩa là "đủ số dân ngoại" (Roma 11:25), và chỉ khi nào "đủ số dân ngoại" bấy giờ mới có chuyện "người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài", đúng như ấn định cứu độ của Chúa Kitô: "Các con hãy đi khắp thế gian mà loan báo tin mừng cho tất cả mọi tạo vật. Ai chấp nhận tin mừng và chịu phép rửa thì được cứu độ; người nào không chấp nhận tin mừng thì sẽ bị luận phạt" (Marco 16:15-16).

"Đến ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng"

Như thế thì vấn đề "đủ số dân ngoại" là dấu hiệu ngày cùng tháng tận, là dấu hiệu ến ngày tận thế", thời điểm chung thẩm cho số phận đời đời giữa chiên và dê (xem Mathêu 25:31-46), thời điểm "các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng", cũng như các vị ở trong dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng đã làm vậy: "Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình".

Đúng thế, việc thanh lọc cuối cùng chính yếu là để "tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành", nhờ đó, thành phần đã từng là nạn nhân của kẻ dữ, đã trải qua gian nan khốn khó trên đời "bấy giờ sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình", thành phần ngay trong cuộc hành trình đức tin của họ đã phản ảnh được Vị Thiên Chúa là Đấng luôn ở cùng họ. 

Ở đây, trong dụ ngôn cánh chung này, thời điểm phân chia người lành kẻ dữ, thời điểm, theo dụ ngôn này, khác với dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng, không đề cập đến số phận vinh phúc của người lành "sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình", mà chỉ đề cập đến số phận bất hạnh đời đời của kẻ dữ mà thôi: "các thiên thần sẽ đến mà... ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". 

Ngụ ý sâu xa của việc kết thúc bằng thân phận bất hạnh của kẻ dữ, có liên quan đến mầu nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm cuối cùng Thiên Chúa làm chủ tất cả mọi sự, không một sự dữ nào, kể cả tội lỗi và sự chết, có thể tồn tại trước Lòng Thương Xót Chúa vô cùng khôn ngoan và tuyệt đối toàn năng, Đấng có thể hoàn tất mọi sự đúng như dự án cứu độ của Ngài.


Đó là lý do, trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng tiên tri Giêrêmia, Chúa đã phán với dân của Chúa như thế này: "Hỡi nhà Israel, nào Ta chẳng làm được cho các ngươi như người thợ gốm này sao? Hỡi nhà Israel! Ðây, như hòn đất trong tay người thợ gốm thế nào, thì các ngươi ở trong tay Ta cũng như vậy".


Và đó cũng là lý do, Thánh Vịnh gia, qua Thánh Vịnh 145, đã thúc giục con người hãy tin tưởng vào Thiên Chúa cứu độ đầy lòng thương xót, ở Bài Đáp Ca hôm nay như sau:

 

1) Linh hồn tôi ơi, hãy khen ngợi Thiên Chúa; tôi sẽ khen ngợi Thiên Chúa trong cả cuộc đời; bao lâu còn có thân tôi, tôi còn ca ngợi Chúa.

2) Ðừng tin cậy vào những vị quân vương, vào con người phàm không thể ban ơn cứu độ. Lúc y tắt thở, y sẽ trở về bụi đất; bấy giờ những lời bàn của y cũng tiêu tan.

3) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng. Người là Ðấng giữ trung tín muôn đời.



Thánh Phêrô Kim Ngôn, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh
(+450)

Thánh Phêrô có biệt hiệu là Chrysôlôgô (kim ngôn) bởi tài hùng biện đặc biệt của Ngài. Ngài sinh vào khoảng năm 405, tại miền Imola, nước Ý. Đức Giám mục giáo phận Imola là Cornêlliô phong chức phó tế cho Ngài. Dưới sự hướng dẫn của Đức giám mục, Ngài thực hiện những bước tiến lạ lùng trên con đường trong tu viện.
Năm 430, Đức tổng giám mục Gioan của giáo phận Ravenna từ trần. Trong khi tìm vị chủ chăn mới, hàng giáo sĩ và giáo dân đã xin Đức giám mục Iomola nhập đoàn phải họ để đi Roma yết kiến Đức giáo hoàng Sixtô III coi Phêrô như người được tiền định để làm giám mục Ravenna. Ngài liền đặt Phêrô làm giám mục Ravenna, kế vị Đức giám mục Gioan năm 433. Các đại biểu của Giáo phận này lúc đầu tỏ ý bất bình, nhưng rồi đã đổi thái độ khi được đức giáo hoàng Sixtô III cho biết thị kiến của mình.
Vâng theo ý Chúa, Phêrô thụ phong giám mục và trở về Ravenna. Trong bầu khí tiếp đón nồng nhiệt, Ngài nói:
- Tôi đến với anh chị em như một y sĩ đến chữa trị, như một mục tử để dẫn dắt, như một người mẹ để nuôi dưỡng, như một người cha để bảo vệ và chăm sóc phần rỗi đời đời của anh chị em. Vậy anh chị em hãy mau mắn vâng phục cách thích đáng đối với tác vụ rất thánh của tôi.
Đầy nhiệt thành bứng rễ các việc thờ ngẫu tượng còn rớt lại, cũng như lên án sự giả tạo của giáo dân. Trong một cuộc lễ vào đầu năm, Ngài đã phá những cuộc diễn hành đáng tội trên đường phố:
- Ai muốn vui chơi với ma quỉ thì không thể vui hưởng với Chúa Kitô.
Ngài đã nhiệt tâm rao giảng. Ngày nay chúng ta còn giử lại được khoảng 180 bài giảng của Ngài. Lời lẽ đơn sơ nhưng đầy nhiệt huyết. Người ta không thể quên được những lời như:
- Nằm trong thói hư tính xấu, chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Chúng ta sẽ thực sự đứng thẳng khi biết chỗi dậy để tiến thẳng tới bằng các việc lành.
- Ai biết tìm kiếm trong đức tin, sẽ thấy ngay rằng là Cha đang ở đó, vì họ.
- Mọi sự dữ cha mẹ làm cho con cái, Thiên Chúa là Cha hết người sẽ trả lại cho họ.
- Các tiền nhân sống cho chúng ta. Chúng ta sống cho thế hệ mai sau. Không ai sống cho mình cả.
Người ta cũng còn nhớ lời Ngài kêu gọi sống bác ái:
- Biết nói sao về niềm tin lễ Giáng sinh, nếu người nghèo than khóc tù nhân rên siết, dân tị nạn than thở, người lưu đày thổn thức, người Do thái mừng lễ bằng thuế thập phân, còn người Kitô hữu nghĩ sao khi họ không mừng bằng một phần trăm của cải ? Tôi đau buồn, phải, tôi đau buồn vì các đạo sĩ trải vàng trên nôi Chúa Kitô trong khi các Kitô hữu để cho thân thể Chúa Kitô trống trải, khi mà những người nghèo than khóc. Đừng nói rằng tôi không có gì. Thiên Chúa muốn xin cái anh em có chứ không phải cái anh chị em không có, khi mà Ngài thương nhận hai đồng tiền của bà góa. Hãy tận tâm với Đấng tạo thành và tạo vật cũng sẽ tận tâm với anh chị em.
Thánh Phêrô Chrysôlôgô đã trở thành danh tiếng, đến nỗi Đức giáo hoàng Lêo I đã trao cho Ngài đọc tại công đồng Chalcedonia một luận án chống lại lạc thuyết của Eutychèr, Ngài cũng còn viết một bức thư cho kẻ lạc giáo này để khuyên ông ta vâng phục Giáo hội.
Sau cùng, sau khi cai quản giáo phận Ravenna trong 18 năm, thánh giám mục biết rằng mình sắp tới hồi kết thúc các nỗ lực. Ngài muốn lui về Imola để dọn mình chết. Ngày 3 tháng 12 năm 450 Ngài đã từ trần và năm 1729 được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh.



Thứ Sáu

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 26, 1-9

"Toàn thể dân chúng tập họp trước Thiên Chúa".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Khi Gioakim, con của Giosia vua nước Giuđa mới lên cai trị, thì Chúa phán rằng: "Ðây Chúa phán: Ngươi hãy đứng giữa tiền đàng đền thờ Chúa, và bảo mọi thành phố nước Giuđa đến thờ lạy trong đền thờ Chúa, hãy nói cho họ biết tất cả những lời Ta truyền cho ngươi nói với họ: ngươi chớ bớt một lời; may ra ai nấy nghe mà trở lại, và bỏ đàng tội lỗi của mình, mong Ta hối tiếc tai hoạ Ta định giáng xuống họ, vì sự gian ác họ ưa thích. Và ngươi hãy bảo họ rằng: Ðây Chúa phán: Nếu các ngươi không nghe Ta để bước đi trong lề luật Ta đã ban cho các ngươi, để nghe lời các tiên tri tôi tớ Ta mà ban đêm Ta chỗi dậy và điều động sai đến các ngươi, và các ngươi không nghe, thì Ta sẽ để đền thờ này như Silô, sẽ khiến thành này bị hết thảy các dân trên địa cầu nguyền rủa".

Các tư tế, các tiên tri, toàn dân đều nghe Giêrêmia nói những lời ấy trong đền thờ Chúa. Khi Giêrêmia nói hết những lời Chúa truyền cho ông nói với toàn dân, thì các tư tế, các tiên tri, và toàn dân bắt ông và nói rằng: "Ngươi phải chết! Tại sao ngươi nhân danh Thiên Chúa mà nói tiên tri rằng: 'Ðền thờ này sẽ như Silô, thành này sẽ hoang vu không ai cư ngụ'?" Và toàn dân tập họp phản đối Giêrêmia trong đền thờ Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 68, 5. 8-10. 14

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi (c. 14c).

Xướng: 1) Những kẻ thù ghét con vô cớ, chúng nhiều hơn số tóc trên đầu con. Chúng thực là mạnh thế hơn con, những con người phản hại con trái lẽ: điều mà con không lấy, con cũng phải đền ư? - Ðáp.

2) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi; điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình con. - Ðáp.

3) Nhưng lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa con. Ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 13, 54-58

"Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: "Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?" Và họ vấp phạm đến Người.

Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: "Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình". Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin.

Ðó là lời Chúa.


Friday of the Seventeenth Week in Ordinary Time Scripture Reading
MEMÓRIA DE SÃO JOSÉ OPERÁRIO...


Suy Niệm Cảm Nghiệm

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XVII Thường Niên, được Thánh ký Mathêu thuật lại về sự kiện: "Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên"
Thế nhưng, cái ngạc nhiên của họ mang tích cách tiêu cực (ngờ vực) hơn là tính cách tích cực (nhận biết), bởi thế, họ đã tỏ ra hết sức thắc mắc với đầy những nghi vấn như sau
"'Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?' Và họ vấp phạm đến Người".

Thái độ tiêu cực gần như tẩy chay Chúa Giêsu của dân làng Người cũng là chuyện dễ hiểu theo tâm lý tự nhiên, vì họ đã từng biết Người từ hồi còn nhỏ, một con người ra sao trong làng, có cha mẹ và thân thuộc như thế nào. Bởi thế, "Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: 'Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình'".

Nếu căn cứ vào 1 trong 4 loại môi trường ở dụ ngôn "người gieo giống ra đi gieo giống" nơi Bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước (xem Mathêu 13:18-23), thì dân làng của Người không thuộc loại "hạt rơi trên vệ đường", vì họ cũng hào hứng nghe Người chứ không đến nỗi hững hờ chẳng để ý hay thiết tha gì; họ cũng không phải là "hạt rơi trên đá sỏi" vì họ đâu có chấp nhận Người nên không đâm rễ tí nào hết, mà là "hạt rơi vào bụi gai" đã bị chết nghẹt gây ra bởi các lo âu ngờ vực của họ. Do đó bài Phúc Âm mới kết luận: "Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin".
Thật ra, theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan thì "là ánh sáng thế gian" (8:12) mà đã là ánh sáng thì không thể không soi chiếu mà còn là ánh sáng, Chúa Kitô cần phải tự động tỏ mình ra để nhờ đó người ta mới có thể nhận biết người và tin tưởng Người, hơn là cứ phải có đức tin mới làm phép lạ, mới tỏ mình ra sau. 
Tuy nhiên, trong trường hợp dân làng của Người trong bài Phúc Âm hôm nay đã được Người tỏ mình ra cho họ rồi, đến nỗi đã khiến họ phải bàng hoàng ngỡ ngàng: "Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy?", thế mà họ vẫn không tin. Chính thành kiến tự nhiên về Người đã là một trở ngại khổng lồ chắn lối đức tin của dân làng Người.

Thực tế sống đạo cũng cho thấy, chính thành kiến về nhau đã ngăn cản nhau trong việc chấp nhận nhau, chấp nhận những cái hay cái tốt của nhau, đúng hơn chấp nhận các đặc sủng Thần Linh nơi nhau, trái lại, đã không ưa ai, thì tất cả những gì con người đó làm dù có tốt đến đâu, có hay đến mấy, cũng không đáng lưu ý tới, thậm chí nghe thấy ai khen họ thì tìm cách hạ bệ họ... 
Có một người chị em chẳng có kiến thức về đạo là bao, chỉ mải miết say mê đọc Sứ Điệp Từ Trời, theo chiều hướng bảo thủ cực đoan, đã công khai lên tiếng chống Đức Thánh Cha Phanxicô đến độ dám nói với nhóm của chị ta trên email (mà người viết này đọc thấy) rằng cho dù vị giáo hoàng này có làm phép lạ chăng nữa cũng là giáo hoàng giả, có được người ta khâm phục đến đâu chăng nữa cũng là giả hình v.v. 
Tuy nhiên, Lòng Thương Xót Chúa vẫn không bỏ rơi bất cứ một ai, kể cả những tâm hồn như người chị em cực đoan này, hay những ai quá nặng thành kiến đến độ không còn nhận ra chân lý, hay bất chấp chân lý, chủ trương chỉ có một chân lý duy nhất và trên hết đó là những gì họ nghĩ tưởng hay suy diễn, dù chủ quan đến đâu, và chân lý chủ quan theo óc suy tưởng của họ bao giờ cũng tuyệt đối đúng, không bao giờ sai lầm... 

Dân làng Nazarét đã bị thành kiến bịt mắt họ lại nên họ đã không nhận ra Chân Lý, nhận biết Chúa Kitô, một con người tầm thường đã từng sống giữa họ, với họ và gần họ. Nói theo kiểu trần gian thì cái khổ của Thiên Chúa là ở chỗ nếu Ngài không tỏ hết mình ra nơi Lời nhập thể là Chúa Giêsu Kitô thì con người ta tiếp tục tôn thờ ngẫu tượng hay tà thần, chứ không phải là chính Ngài, nhưng nếu Ngài thật sự tỏ mình ra nơi Người Con giáng thế của Ngài thì loài người lại không chấp nhận Ngài nơi Con của Ngài, không chấp nhận Con Ngài là Thiên Sai, là Thiên Chúa
Vậy thì Thiên Chúa phải làm sao đây... để có thể làm cho loài người nhận biết Người để được cứu độ, để được hiệp thông thần linh với Ngài...? Chính cái nan giải này mới chứng tỏ Thiên Chúa là Đấng vô cùng khôn ngoan và toàn năng trong dự án thần linh của Ngài cũng như trong công cuộc mạc khải thần linh của Ngài trong lịch sử loài người, cho đến khi mọi sự được nên trọn như ý Ngài muốn.

Số phận của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đối với dân làng Nazarét của Người, thật ra, đã được tiên báo nơi số phận của các vị tiên tri trong Cựu Ước, điển hình là Tiên Tri Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị tiên tri đã trung thực loan báo chính xác từng lời Chúa truyền cho ông, nhưng dân chúng lại bất chấp, vì không hợp với quan niệm của họ về Thiên Chúa, ở chỗ, Đền Thờ là nơi Thiên Chúa ngự trị không thể nào lại trở thành một chốn hoang vu suy tàn như vị tiên tri tiên đoán, một tình trạng gây ra bởi họ bất xứng với Thiên Chúa, nghĩa là lời tiên báo của vị tiên tri này gián tiếp đụng đến họ, cho họ là bất xứng với Thiên Chúa, nên bị họ

 

"'Nếu các ngươi không nghe Ta để bước đi trong lề luật Ta đã ban cho các ngươi, để nghe lời các tiên tri tôi tớ Ta mà ban đêm Ta chỗi dậy và điều động sai đến các ngươi, và các ngươi không nghe, thì Ta sẽ để đền thờ này như Silô, sẽ khiến thành này bị hết thảy các dân trên địa cầu nguyền rủa'. Các tư tế, các tiên tri, toàn dân đều nghe Giêrêmia nói những lời ấy trong đền thờ Chúa. Khi Giêrêmia nói hết những lời Chúa truyền cho ông nói với toàn dân, thì các tư tế, các tiên tri, và toàn dân bắt ông và nói rằng: 'Ngươi phải chết! Tại sao ngươi nhân danh Thiên Chúa mà nói tiên tri rằng: Ðền thờ này sẽ như Silô, thành này sẽ hoang vu không ai cư ngụ'? Và toàn dân tập họp phản đối Giêrêmia trong đền thờ Chúa".

 

Tuy nhiên, cái chứng cớ cho thấy những lời tiên báo của các vị tiên tri là chính xác đúng như những gì Thiên Chúa muốn cho các vị nói, chẳng những, trước hết và trên hết, ở chính Lời Chúa, lời tiên báo, mà còn ở thái độ của các vị bất khuất tất cả mọi chống đối, phản kháng và sát hại các vị nữa. Vì là tiên tri đích thực nên các vị đã có sẵn một tâm tình như Thánh Vịnh 68 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Những kẻ thù ghét con vô cớ, chúng nhiều hơn số tóc trên đầu con. Chúng thực là mạnh thế hơn con, những con người phản hại con trái lẽ: điều mà con không lấy, con cũng phải đền ư?

2) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi; điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình con.

3) Nhưng lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa con. Ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa.

 


Ngày 31: 1. Thánh Ignatiô Loyola, linh mục sáng lập dòng Tên

Thánh Inhaxiô Loyola


Đôi nét về thánh Ignatius Loyola

Sưu tầm

Thánh Ignatius sinh tại Loyola vào năm 1491, và sau đó theo đuổi binh nghiệp. Ngài bị thương trong cuộc chiến bảo vệ thành Pamplona và được chuyển về hậu tuyến để dưỡng thương. Trong thời gian ấy, ngài đã đọc về cuộc đời của Chúa Kitô và hạnh tích các thánh, và nhờ đó mà đến chỗ hoán cải.

Thánh Ignatius lên đường sang Paris để học thần học. Tại đó, ngài qui tụ được một số anh em đồng chí nguyện. Sau đó, cùng với nhóm anh em ấy, ngài đã thành lập dòng Tên tại Roma. Thánh nhân qua đời tại kinh thành Muôn Thuở vào năm 1556.

8.1 Sách thiêng liêng tác động đến việc hoán cải của thánh Ignatius.

Thánh Ignatius Loyola ghi lại trong quyển Tự Thuật: Cho mãi đến năm hai mươi sáu tuổi, tôi vẫn mê mải những sự phù phiếm thế gian. Tôi tìm được niềm vui đặc biệt trong binh nghiệp và trong các hoạt động của mình, tôi rất thèm khát danh giá.1 Sau khi bị thương ở chân trong cuộc chiến bảo vệ thành Pamplona, Ignatius đã được chuyển về quê hương và nằm liệt tưởng chừng sắp chết. Sau thời gian dài dưỡng thương, ngài hồi phục sức lực. Trong thời gian này, vì rất thích đọc những tiểu thuyết thế tục hư cấu về giới hiệp sĩ, Ignatius yêu cầu đem đến cho ngài những thứ sách ấy để giải khuây. Vì không còn tìm được một quyển sách nào thuộc loại ấy, nên người ta đã đem quyển ‘Cuộc Đời Chúa Kitô’ và một quyển hạnh tích các thánh đến cho ngài.2 Ignatius rất xúc động khi đọc những quyển sách này, và đã suy nghĩ rất nhiều trong thời gian dưỡng thương trên giường bệnh. Trong khi đọc biết về cuộc đời Chúa Giêsu và hạnh tích các thánh, Ignatius đã ngưng lại để suy tư về bản thân: ‘Điều gì sẽ xảy ra nếu như tôi cũng thực hiện những điều mà thánh Phanxicô hoặc thánh Đaminh đã làm?’ Và rồi, ngài để tâm suy nghĩ thật lâu và thấu đáo về tất cả những công việc lành thánh của các vị thánh ấy.3

Ignatius cảm thấy hạnh phúc khi sống theo gương các thánh, và phiền sầu khi bỏ ngang những soi động này. Được soi sáng từ bài học ấy, Ignatius đã bắt đầu suy nghĩ chân thành hơn và sám hối về cuộc đời dĩ vãng.4 Như thế, Thiên Chúa đã dần dần đi vào tâm hồn của ngài. Từ một hiệp sĩ liều mình vì một lãnh chúa trần gian, Ignatius đã trở thành một hiệp sĩ anh dũng vì Đức Vua Vĩnh Cửu là Chúa Giêsu Kitô. Vết thương tại Pamplona, việc đọc sách thiêng liêng, thời gian dưỡng thương lâu dài tại Loyola, việc suy nghĩ và suy gẫm trong sự cộng tác với ơn thánh, và những trạng huống linh hồn ngài đã phải trải qua trong thời gian này đã thực hiện cuộc hoán cải triệt để trong cuộc sống của ngài. Từ những giấc mộng về cuộc đời trần tục đến với sự tận hiến quyết liệt cho Chúa Kitô dưới chân Đức Mẹ Montserrat, Ignatius đã đạt đến sự trưởng thành hoàn toàn trong kỳ tĩnh tâm tại Manresa.5



Bài đọc 2

Hãy cân nhắc các thần khí
xem có phải bởi Thiên Chúa hay không

Trích tự thuật của thánh I-nha-xi-ô do linh mục Lu-y Gon-xan-ve ghi lại.

Lúc bấy giờ, I-nha-xi-ô rất say mê đọc những sách vô bổ và dối trá ; những sách này thuật lại những việc phi thường của các danh nhân. Khi cảm thấy khoẻ, I-nha-xi-ô xin người ta đem lại cho mình vài quyển để đọc giết thời giờ. Nhưng ở trong nhà ấy, người ta không tìm được quyển nào như vậy. Vì thế người ta đưa cho anh cuốn sách nhan đề “Cuộc đời Đức Ki-tô”, và một cuốn khác nhan đề “Bông hoa các thánh”, cả hai đều được viết bằng tiếng mẹ đẻ.

Nhờ năng đọc các sách này, anh bắt đầu có cảm tình với những điều viết trong đó. Đôi lần anh ngưng đọc để suy nghĩ những điều mình mới đọc ; hoặc đôi khi anh nghĩ đến những điều vô bổ anh đã quen suy nghĩ trước đây, và nhiều điều tương tự khác xuất hiện trong trí anh.

Thiên Chúa đã rủ lòng thương giúp anh loại trừ khỏi tâm trí anh những gì anh vừa đọc. Quả vậy, khi anh đọc cuộc đời Đức Ki-tô, Chúa chúng ta và cuộc đời các thánh, thì anh đã suy nghĩ nhiều và tự hỏi : “Vậy giả như tôi làm điều mà thánh Phan-xi-cô đã làm, thì sao ? Giả như tôi làm điều mà thánh Đa-minh đã làm, thì sao ?” Và như thế anh để tâm suy nghĩ rất nhiều điều. Nhưng các tư tưởng ấy chỉ tồn tại một thời gian. Và rồi vì anh bận rộn với các công việc khác, nên những chuyện vô bổ và trần tục ấy lại xen vào ; những chuyện này kéo dài một thời gian khá lâu. Hết tư tưởng này đến tư tưởng kia tiếp nối nhau cầm giữ anh rất lâu.

Tuy nhiên có sự khác biệt giữa những tư tưởng ấy : khi nghĩ đến những tư tưởng phàm tục, anh cảm thấy rất thích thú ; nhưng khi mỏi mệt không suy nghĩ, anh cảm thấy buồn bã và khô khan. Còn khi nghĩ đến việc theo đuổi những chuyện khắc khổ mà anh biết các vị thánh đã quen sống, thì không những lúc đang nghĩ đến những chuyện ấy, anh cảm thấy tâm hồn vui thú, và ngay cả lúc thôi nghĩ đến, anh vẫn thấy mình sung sướng. Nhưng chính anh không nhận ra, cũng không nghĩ đến sự khác biệt này, cho đến một ngày kia, khi mắt tâm trí anh được mở ra, anh ngạc nhiên nhận ra sự khác biệt này ; nhờ kinh nghiệm, anh hiểu rằng có loại tư tưởng để lại buồn rầu, có loại tư tưởng để lại niềm vui. Và đó là suy luận đầu tiên anh thu lượm được về những điều thuộc về Thiên Chúa. Sau này, khi làm linh thao, anh bắt đầu được soi sáng để hiểu biết về sự cân nhắc các thần khí và dạy các môn đệ của mình.

  

Dòng Tên (còn gọi là Dòng Chúa Giêsutiếng LatinhSocietas Iesu, viết tắt: SJ) là một dòng tu của Giáo hội Công giáo có trụ sở tại Roma. Dòng do Inhaxiô nhà Loyolangười Basque Tây Ban Nha, cùng một số bạn hữu sáng lập và được Giáo hoàng Phaolô III phê chuẩn năm 1540.

Dòng Tên dấn thân vào hoạt động tông đồ và truyền giảng Phúc Âm trên khắp thế giới: ÂuÁPhiMỹ. Từ lâu đời, Dòng Tên đã nổi bật với công việc giáo dụcnghiên cứu, và thăng tiến văn hóa. Sang thế kỷ 21 Dòng Tên hoạt động trên 100 quốc gia với 19.200 tu sĩ (năm 2007). Bề trên Tổng quyền của Dòng hiện nay là linh mục Arturo Sosa.

Sau thời gian tuổi trẻ đầy tham vọng và với binh nghiệp sáng chói, Inhaxiô (tên gốc: Ignacio López), một quý tộc xứ Loyola (Tây Ban Nha), đã đi tìm các trải nghiệm về tôn giáo Thiên chúa. Sau nhiều cuộc mò mẫm tìm tòi, ông tuyên bố đã tìm thấy tiếng gọi thiêng liêng cứu các linh hồn (chính lời của ông) và phụng sự chúa Kitô. Ông bắt đầu học thần học tại Đại học Paris rồi dần dần tập hợp quanh mình các bạn hữu trong Chúa, sẵn sàng làm việc để vinh danh Chúa (khẩu hiệu tiếng latin Ad maiorem Dei gloriam trong Giáo hội Công giáo).

Thánh Inhaxiô thành Loyola, người thành lập dòng Tên

Ngày 15 tháng 8 năm 1534, Inhaxiô cùng 6 bạn sinh viên khác trong đó có François Xavier và Pierre Favre (người được thụ phong linh mục đầu tiên của Dòng Tên) họp lại ở Montmartre và quyết định hiến thân cho Chúa, lập ra Đoàn Giêsu, khấn hứa giữ khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục (bề trên). Inhaxiô đã gợi ý cho các bạn tên Đoàn Giêsu để nhắc nhở các tu sĩ dấn thân triệt để làm chiến sĩ phục vụ Chúa. Tên Societas Iesu được ghi trong Sắc chỉ Giáo hoàng công nhận Dòng năm 1539.

Từ Tu sĩ dòng Tên (Jésuite) hay "Giêsu hữu" xuất hiện sau năm 1545, khi đó người theo Tin Lành gán cho với nghĩa xấu là "Người đạo đức giả"[3].

Năm 1537, Inhaxiô cùng các bạn sang Ý để xin Giáo hoàng Phaolô III công nhận Dòng và đã được Giáo hoàng công nhận trong sắc chỉ Regimini militantis ecclesiae năm 1539. Ngày 21 tháng 7 năm 1550, Giáo hoàng Julius III tái công nhận Dòng trong sắc chỉ "Exposcit debitum".

Khi Cải cách Kháng nghị đang lan tràn, Giáo hội Công giáo thấy cũng cần phải có một cuộc nội cải cách, do đó Giáo hoàng Phaolô III đã triệu tập Công đồng Tridentinô (ở Trento, Ý từ 1545-1563), trong đó các tu sĩ Dòng Tên đã góp phần quan trọng trong Phong trào Phản Cải cách.

Ban đầu, dòng Tên hoạt động chủ yếu trong lãnh vực truyền giáo, nhưng từ năm 1547, dòng đã quay sang tập trung vào lãnh vực giáo dục cho tới cuối thế kỷ 16. Năm 1551, Dòng đã mở 1 trường trung học ở Rôma, trong khi các tu sĩ của Dòng đã có mặt ở CongoBrasilAngola và cả Đế quốc Ottoman với trường trung học thánh Benoît lập năm 1583.

Khi Inhaxiô qua đời năm 1556), Dòng đã có trên 1.000 tu sĩ và 60 năm sau, Dòng có trên 13.000 tu sĩ trên toàn châu Âu. Inhaxiô được Giáo hoàng Paul V tôn phong Chân phước năm 1609 và được Giáo hoàng Gregory XV phong Thánh năm 1622.

Trong suốt lịch sử của Dòng Tên, họ đã phải trải qua những năm tháng gian khổ.[4] Các năm 1704 và 1742, Giáo hoàng ra lệnh cấm các nghi lễ Trung Hoa, mang nét của thuyết hỗn hợp (syncretism) mà các nhà truyền giáo dòng Tên đã tôn trọng.

Quốc gia châu Âu đầu tiên nỗ lực trục xuất Dòng Tên là Bồ Đào Nha. Vào năm 1758, các tu sĩ Dòng Tên bị quan Tổng trưởng Đế quốc (tương đương Thủ tướngSebastião José de Carvalho e Melo gán cho cái tội mưu sát vua José I. Không những thế, Melo còn tiến hành tuyên truyền bài trừ Dòng Tên trên khắp châu Âu, để các nước khác ủng hộ ông ta. Cuối cùng, vào năm 1759, ông ta ban bố sắc lệnh đuổi Dòng Tên ra khỏi Bồ Đào Nha. Không lâu sau, Pháp theo chân Bồ Đào Nha, quan Tổng trưởng Ngoại giao là Công tước Choiseul và ái thiếp của vua Louis XV là Nữ Hầu tước Pompadour chống đối ảnh hưởng của Dòng Tên. Họ gán cho Dòng tội mưu sát vua Louis XV, dù không phải là chủ mưu.[4] Họ bị những người theo thuyết Giansêniô (Jansénisme) và các triều thần tấn công, rồi bị cấm và bị trục xuất khỏi Pháp năm 1763-1764, khoảng 200 trường của họ bị đóng cửa. Theo gót Pháp, vua Tây Ban Nha là Carlos III đã trục xuất Dòng Tên ra khỏi đất nước (1767), không những thế, ông ta còn đuổi các tu sĩ Dòng Tên ra khỏi ra khỏi xứ Napoli (1767) và xứ Parma (1768) - những xứ nằm dưới quyền thống trị của thân quyến của ông ta.[4]

Cuối cùng, vào năm 1773, Giáo hoàng Clêmentê XIV - trước áp lực quá lớn của các nền quân chủ Pháp, Tây Ban Nha và Napoli, phải quyết định bãi bỏ Dòng Tên. Nữ hoàng Áo là Maria Theresia bất đắc dĩ thi hành mệnh lệnh.[4] Lệnh của Giáo hoàng chỉ không có hiệu lực ở hai nước Phổ và Nga - các nền quân chủ phi Công giáo và không chịu ảnh hưởng của thế lực Giáo hoàng. Vua Phổ là Friedrich II Đại Đế đang thực hiện chính sách khoan dung tôn giáo,[6] không những thế ông còn đề cao nền tri thức của Dòng Tên. Vị vua này đã gây bất ngờ đối với trào lưu triết học Khai sáng tiến bộ thời đó.[7] Tương tự, Nữ hoàng Nga là Ekaterina II Đại Đế cũng tôn trọng tài năng xuất sắc của các tu sĩ Dòng Tên, bà cho rằng họ sẽ giúp ích cho nền văn hóa nước nhà.[4]

Nhờ có Quốc vương Friedrich II Đại Đế và Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế mà Dòng Tên vẫn còn tồn tại được. Dòng Tên được Giáo hoàng Piô VII tái lập vào năm 1814,[4] tuy nhiên các cuộc công kích họ vẫn tiếp tục suốt thế kỷ 19:

·        Tại Pháp, các tu sĩ dòng Tên[8] bị trục xuất lần nữa vào năm 1880 và lần nữa năm 1901.

·        Tại Thụy Sĩ, mãi tới năm 1973 mới bãi bỏ luật cấm các tu sĩ dòng Tên hoạt động. Luật này được ban hành từ năm 1848.

Tuy nhiên các ngăn cấm và chống đối nói trên cũng không ngăn cản được Dòng Tên. Họ đã tái lập các phái bộ truyền giáo ở Bắc Mỹ hoặc ở Madagascar. Họ đã lập các trường đại học trong thế kỷ thứ 19. Họ cũng đã xuất bản các tạp chí tinh thần như "Études", "Christus" và "Projet" ở Pháp, "Relations" ở Quebec (Canada), "la Civiltà Cattolica" ở Ý, "La Nouvelle Revue Théologique" ở Bỉ[9], tuần san "America" ở Hoa Kỳ (từ năm 1909).[10] . Dòng cũng có nhiều cơ sở giáo dục ở Pháp và có cả các đại học riêng về thần học và triết học ở Centre SèvresParis và ở Brussel[11]. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai họ cũng tới Tchad và trở lại Nhật Bản.

Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2005, Dòng có 19.850 tu sĩ ở rải rác tại 112 quốc gia trên thế giới[12], so với khoảng 35.000 năm 1964. Cũng giống như các dòng khác của Giáo hội Công giáo, Dòng Tên cũng bị giảm ơn gọi (đi tu). Ngày nay phần lớn các tu sĩ dòng Tên có mặt tại châu Á (khoảng 3.500 ở Ấn Độ), ở châu Mĩ Latin và châu Phi. Hiện dòng có khoảng 900 người dự tu.

Bề trên Tổng quyền của Dòng hiện nay là Arturo Sosa, người Venezuela, được bầu trong Đại Công nghị dòng lần thứ 36 ngày 14 tháng 10 năm 2016,[13] thay thế cho linh mục Adolfo Nicolás người Tây Ban Nha. Đặc biệt, vào ngày 13 tháng 3 năm 2013, Hồng y Jorge Mario Bergoglio người Argentina thuộc Dòng Tên được bầu làm giáo hoàng thứ 266 của Giáo hội Công giáo, ông lấy tông hiệu là Giáo hoàng Phanxicô.

https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%B2ng_T%C3%AAn

 



Thứ Bảy


Ph
ụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 26, 11-16. 24

"Thật Chúa đã sai tôi đến nói với các ngươi những lời đó".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Trong những ngày ấy, các tư tế và các tiên tri nói cùng các đầu mục và toàn dân rằng: "Người này đáng xử tử, vì nó đã nói tiên tri chống lại thành này, như tai các ngươi đã nghe". Giêrêmia nói cùng tất cả các đầu mục và toàn dân rằng: "Chúa đã sai tôi đến nói tiên tri về đền thờ này và về thành này tất cả những lời các ngươi đã nghe. Vậy giờ đây, các ngươi hãy cải thiện đời sống và những điều các ngươi ưa thích, hãy nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa các ngươi, thì Chúa sẽ hối tiếc tai hoạ Người đã phán chống lại các ngươi. Phần tôi đây, tôi ở trong tay các ngươi, các ngươi cứ đối xử với tôi điều mà các ngươi cho là tốt là phải. Nhưng các ngươi hãy hiểu biết rằng: nếu các ngươi giết tôi, thì các ngươi sẽ đổ máu vô tội lên chính các ngươi, lên thành này và dân cư của nó. Vì thật Chúa đã sai tôi đến với các ngươi để nói vào tai các ngươi tất cả những lời đó".

Những đầu mục và toàn dân nói cùng các tư tế và các tiên tri rằng: "Không được xử tử người này, vì ông đã nhân danh Chúa là Thiên Chúa chúng ta mà nói với chúng ta". Vậy Ahica con của Sapha ra tay bảo vệ Giêrêmia, để ông khỏi bị nộp vào tay dân chúng định giết ông.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 68, 15-16. 30-31. 33-34

Ðáp: Ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương, xin nhậm lời con (c. 14).

Xướng: 1) Nguyện cứu con thoát nơi bùn nhơ kẻo bị chìm; xin giải thoát con khỏi tay những người ghen ghét, và thoát khỏi những đầm nước thẳm sâu. Xin đừng để cho ba đào lôi cuốn; xin đừng để cho vực thẳm nuốt trửng, cũng đừng để cho giếng ngậm miệng nhốt con. - Ðáp.

2) Phần con, con đau khổ cơ hàn, lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân. - Ðáp.

3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ; các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 14, 1-12

"Hêrôđê sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy quận vương Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: "Người này là Gioan Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới làm được các phép lạ như vậy". Tại vì Hêrôđia vợ của anh mình mà vua Hêrôđê đã bắt trói Gioan tống ngục, bởi Gioan đã nói với vua rằng: "Nhà vua không được lấy bà ấy làm vợ". Vua muốn giết Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi Gioan như một tiên tri. Nhân ngày sinh nhật của Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy múa trước mặt mọi người, và đã làm cho Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề hứa sẽ ban cho nó bất cứ điều gì nó xin. Ðược mẹ nó dặn trước, nên nó nói: "Xin vua đặt đầu Gioan Tẩy Giả trên đĩa này cho con". Vua lo buồn, nhưng vì đã trót thề rồi, và vì các người đang dự tiệc, nên đã truyền làm như vậy. Ông sai người đi chặt đầu Gioan trong ngục, và để đầu Gioan trên đĩa đem trao cho cô gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan đến lấy xác thầy và chôn cất, rồi đi báo tin cho Chúa Giêsu.

Ðó là lời Chúa.

 

Thứ Tư Tuần XXI Thường Niên B - GKGĐ Giáo Phận Phú Cường

GOSPEL REFLECTIONS DAILY: HEROD THE PRIDE– JULY 31ST SATURDAY (Mt ...

 



Suy Niệm Cảm Nghiệm

Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XVII Thường Niên, Thánh Ký Mathêu ghi lại một sự kiện đó là "Thời ấy, tiểu vương Hêrôđê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: 'Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ". 

Sau đó vị thánh ký đã thuật lại lý do tại sao đã thúc đẩy vị tiểu vương này đã ra tay sát hại nhân vật mà ông cho là đã sống lại từ cõi chết và đang sống động nơi Chúa Giêsu Kitô:

"Số là vua Hêrôđê đã bắt trói ông Gioan và tống ngục vì bà Hêrôđia, vợ ông Philípphê, anh của nhà vua. Ông Gioan có nói với vua: 'Ngài không được phép lấy bà ấy'. Vua muốn giết ông Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi ông là ngôn sứ. Vậy, nhân ngày sinh nhật của vua Hêrôđê, con gái bà Hêrôđia đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua vui thích. Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa rằng: 'Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông Gioan Tẩy Giả đặt trên mâm'. Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gioan. Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem đến cho mẹ. Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi báo cho Đức Giêsu".

Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao vị quận vương này cho rằng nhân vật Gioan Tẩy Giả có thể tự mình sống lại cho dù bị ông ta sát hại, và tại sao ông ta lại ghép việc sống lại của vì Tẩy Giả này vào trường hợp của Chúa Giêsu, bởi nghe thấy Người "có quyền năng làm phép lạ"Ông ta có ý nghĩ Gioan Tẩy Giả có thể sống lại trước khi ông ta ra lệnh lấy đầu của ngài, hay sau khi nghe thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ mới có ý nghĩ Gioan sống lại như vậy?

Phải chăng vị quận vương này có ý muốn nói rằng chính nhờ ông ta hành quyết Gioan Tẩy Giả mà Chúa Giêsu mới có quyền năng làm phép lạ như thế, bằng không Người không thể nào có thể làm phép lạ như vậy? Qua câu nói này của ông ta, cũng có thể là ông ta đã bị ám ảnh về cái chết của nhân vật Gioan Tẩy Giả, là nhân vật ông rất kính nể, nhưng đã ra lệnh hành quyết, bởi lỡ miệng hứa với đứa con gái của người vợ bất chính, và muốn giữ thể diện của mình trước mặt bá quan văn võ trong triều đình của ông bấy giờ? 

Có nghĩa là ông ta đang tìm cách vừa đánh trống vừa ăn cướp, ở chỗ, muốn xoa dịu lương tâm bị áy náy của mình, là người đã lỡ sát hại một kẻ công chính, bằng cách gán ghép quyền năng làm phép lạ của Chúa Giêsu cho nạn nhân của mình là kẻ đã bị mình hành quyết, nhờ đó mình chẳng những vô tội mà còn nổi tiếng nữa, qua các phép lạ Chúa Giêsu làm. Nếu vậy thì vị quận vương này đúng là một thứ "cáo già" (Luca 13:32), gian manh không thể nào tượng tưởng nổi! 

Không biết có phải vì thế mà ít lâu sau, khi gặp lại ông ta trong thân phận của một tử tội, được Tổng Trấn Philatô chuyển đến cho thẩm quyền của ông ta, Chúa Giêsu đã không hề lên tiếng nói gì với ông ta (xem Luca 23:9). Chắc chắn thái độ im lặng của Chúa Giêsu không phải là thái độ coi thường thẩm quyền của ông ta, hay khinh bỉ con người tồi bại của ông ta, cho bằng, Người muốn tỏ ra thái độ nhẫn nhục nhân ái với con người đầy gian ác hết sức đáng thương ấy, một con người đầy sắc dục, chỉ biết có quyền lực, và chỉ mong gặp Chúa Giêsu để xem Người làm phép lạ (xem Luca 23:8), hơn là để tìm hiểu chân lý như tổng trấn Philatô, một thủ hiến dân ngoại đã tìm hết cách để tha Chúa Giêsu, do đó, ông vua băng hoại đáng thương này đã không được toại nguyện, vì Chúa Giêsu đến thế gian này không phải như một cứu tinh xuất chúng về quyền lực, nhưng là để giải thoát con người, điển hình là vị quận vương Hêrôđê này, khỏi tội lỗi và sự chết. 


Chúng ta không biết quận vương Hêrôđê, sau khi được trực tiếp gặp Vị Thiên Chúa Làm Người, lần đầu tiên cũng là một cuối cùng, lần duy nhất trong đời của ông, một cuộc đời bề ngoài có thể sung sướng, với địa vị của một ông vua, đầy quyền lực, giấu sang và tăm tiếng, là những gì phàm nhân ai cũng tìm kiếm và muốn được hoan hưởng, nhưng vẫn cứ cảm thấy bất an, nhưng cũng có thể nhờ đó mà cuối cùng ông nhận ra chân lý hay chăng, nếu ông cởi mở và không cứng lòng cho tới cùng?


Tuy nhiên, trong Bài Đọc 1 hôm nay, những lời bày giải rất chân thành của tiên tri Giêrêmia, sau khi bị thành phần tư tế và tiên tri lên án tử, đã có tác dụng nơi thành phần đầu mục và dân chúng, đến độ, tất cả mọi sự đã được hoàn toàn đảo ngược: "Những đầu mục và toàn dân nói cùng các tư tế và các tiên tri rằng: 'Không được xử tử người này, vì ông đã nhân danh Chúa là Thiên Chúa chúng ta mà nói với chúng ta'. Vậy Ahica con của Sapha ra tay bảo vệ Giêrêmia, để ông khỏi bị nộp vào tay dân chúng định giết ông".

Sự kiện tiên tri Giêrêmia thoát khỏi thành phần tư tế và tiên tri ghen hờn chứng tỏ Thiên Chúa luôn ở với những ai là thừa sai của Ngài, được Ngài sai đi, và bảo vệ họ khi cần, để Ngài tiếp tục sử dụng họ cho tới cùng, có thể là cho tới khi Ngài không bảo vệ họ nữa, để biến chính cái chết của họ bù đắp lại cho những ai sát hại họ, nhờ đó cứu lấy phần hồn của những con người ghen ghét họ đáng thương ấy. Trong trường hợp họ còn được Thiên Chúa giải cứu, như tiên tri Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị tiên tri nạn nhân này như có một tâm tình của Thánh Vịnh 68 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Nguyện cứu con thoát nơi bùn nhơ kẻo bị chìm; xin giải thoát con khỏi tay những người ghen ghét, và thoát khỏi những đầm nước thẳm sâu. Xin đừng để cho ba đào lôi cuốn; xin đừng để cho vực thẳm nuốt trửng, cũng đừng để cho giếng ngậm miệng nhốt con.

2) Phần con, con đau khổ cơ hàn, lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân.

3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ; các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù.

 


ĐTC Biển Đức XVI nói về Vị Sáng Lập Dòng Chúa Cứu Thế, được Giáo Hội cử hành Lễ Nhớ vào 1/8 hằng năm này ngày 30/3/2011, trong bài 136/138 cho loạt bài giáo lý về Giáo Hội Tông Truyền

 Thánh Alphonsus of Ligouri