SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXI Thường Niên 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Is 22, 19-23

"Ta sẽ để chìa khoá nhà Ðavít trên vai nó".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán cùng Sobna, quan cai đền thờ rằng: "Ta sẽ trục xuất ngươi ra khỏi địa vị ngươi, và Ta sẽ cách chức ngươi; trong ngày đó, Ta sẽ gọi đầy tớ Ta là Êliaqim, con trai Helcia. Ta sẽ lấy áo choàng của ngươi mà mặc cho nó, lấy đai lưng của ngươi mà thắt cho nó, sẽ trao quyền ngươi vào tay nó, nó sẽ nên như cha các người cư ngụ ở Giêrusalem và nhà Giuđa. Ta sẽ để chìa khoá nhà Ðavít trên vai nó: nó sẽ mở cửa và không ai đóng lại được; nó đóng cửa lại và không ai mở ra được. Ta sẽ đóng nó vào nơi kiên cố như đóng đinh, và nó sẽ trở nên ngai vinh quang nhà cha nó".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 137, 1-2a. 2bc-3. 6 và 8bc

Ðáp: Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa (8).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa; con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. - Ðáp.

2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. - Ðáp.

3) Quả thực Chúa cao cả và thường nhìn kẻ khiêm cung, còn người kiêu ngạo thì Ngài ngó tự đàng xa. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời; xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 11, 33-36

"Mọi sự đều do Người, nhờ Người và trong Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Ôi thẳm sâu thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa: sự phán quyết của Người làm sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được! Vì chưng, nào ai biết được ý Chúa? Hoặc ai đã làm cố vấn cho Người? Hay ai đã cho Người trước để Người sẽ trả lại sau? Vì mọi sự đều do Người, nhờ Người và trong Người: nguyện Người được vinh quang đến muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 13-20

"Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Ðức Kitô.

Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".

Ðó là lời Chúa.

A Distinction Without a Difference or a Distinction to Die For ...

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Thiên Chúa tin tưởng vào con người hơn là con người tin tưởng vào Thiên Chúa,

hay đúng hơn để con người tin vào Thiên Chúa, Đấng tỏ mình ra cho họ

 

Căn cứ vào chiều hướng chung của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật XXI Thường Niên Năm A, có thể nói nội dung của Phụng Vụ Lời Chúa đó là việc Thiên Chúa tin tưởng vào con người hơn là con người tin tưởng vào Thiên Chúa, hay đúng hơn để con người tin vào Thiên Chúa, Đấng tỏ mình ra cho họ. Đó là cả một huyền nhiệm. Đáng lẽ, theo tự nhiên, kẻ yếu và khờ phải tin tưởng vào một vị nào mạnh hơn mình và khôn hơn mình. Nhưng đằng này kẻ yếu và khờ lại được vị mạnh hơn và khôn hơn tin tưởng. Đó là lý do Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong Thư gửi Rôma của mình ở Bài Đọc 2 đã phải than lên rằng:

"Ôi thẳm sâu thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa: sự phán quyết của Người làm sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được! Vì chưng, nào ai biết được ý Chúa? Hoặc ai đã làm cố vấn cho Người? Hay ai đã cho Người trước để Người sẽ trả lại sau? Vì mọi sự đều do Người, nhờ Người và trong Người: nguyện Người được vinh quang đến muôn đời. Amen".

Ở Bài Đọc 1 hôm nay trích Sách Tiên Tri Isaia cũng thế, chính Thiên Chúa là Đấng đã tuyển chọn một nhân vật mà cũng chính Ngài sau đó lại đích thân ra tay truất phế: "Ðây Chúa phán cùng Sobna, quan cai đền thờ rằng: 'Ta sẽ trục xuất ngươi ra khỏi địa vị ngươi, và Ta sẽ cách chức ngươi'". Vậy thì chẳng lẽ Ngài đã chọn sai người hay sao? Trước khi "sai lầm" chọn nhân vật này chẳng lẽ Ngài không biết trước rằng sau đó chính nhân vật ấy sẽ bị Ngài loại trừ hay sao? Vậy thì tại sao Ngài không chọn ngay nhân vật sau nhân vật ấy đi chứ, như Ngài đã báo trước cho nhân vật bị Ngài truất phế:

"Ta sẽ gọi đầy tớ Ta là Êliaqim, con trai Helcia. Ta sẽ lấy áo choàng của ngươi mà mặc cho nó, lấy đai lưng của ngươi mà thắt cho nó, sẽ trao quyền ngươi vào tay nó, nó sẽ nên như cha các người cư ngụ ở Giêrusalem và nhà Giuđa. Ta sẽ để chìa khoá nhà Ðavít trên vai nó: nó sẽ mở cửa và không ai đóng lại được; nó đóng cửa lại và không ai mở ra được. Ta sẽ đóng nó vào nơi kiên cố như đóng đinh, và nó sẽ trở nên ngai vinh quang nhà cha nó".

Thật ra, theo quyền hạn tuyệt đối của mình trên tất cả mọi tạo vật, Thiên Chúa muốn làm gì thì làm, với một mục đích duy nhất đó là làm sao để Ngài có thể tỏ mình ra cho nhân loại nói chung và cho những ai được Ngài tuyển chọn nói riêng, nhờ đó họ tin vào Ngài mà được sống. Bởi thế, cho dù Ngài có tuyển chọn ai rồi sau đó loại trừ họ cũng chỉ là cách để họ nhờ đó nhận thức được vai trò chủ tể tối thượng của Ngài trong lịch sử loài người, chứ không phải họ muốn làm gì thì làm. Ngài không thể để cho bất cứ một con người nào hủy hoại công cuộc của Ngài, làm hư hại dự án của Ngài. Đó là lý do câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay mới nguyện xin cùng Ngài rằng: "Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa".

Vẫn biết ai được Ngài chọn thay thế cho kẻ bị Ngài truất phế cũng chẳng hơn gì nhau, bởi họ cũng chỉ là loài người yếu hèn lại dại khờ như ai, với đầy những bất toàn và khiếm khuyết, nhiều khi về tự nhiên lại còn bất tài và vụng về hơn cả nhân vật tiền nhiệm của họ. Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tin tưởng vào thụ tạo của Ngài, vì nhờ đó Ngài mới có dịp tỏ ra bản tính toàn thiện của Ngài nơi những gì Ngài làm đầy khôn ngoan và quyền năng. Nhất là Ngài tin tưởng vào thành phần khiêm hạ, biết mình và tin tưởng vào Ngài, như câu xướng 3 của Bài Đáp Ca hôm nay chân nhận: "Quả thực Chúa cao cả và thường nhìn kẻ khiêm cung, còn người kiêu ngạo thì Ngài ngó tự đàng xa".

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã thấy trước và biết trước hơn ai hết và hơn bao giờ hết con người được Người tuyển chọn để "trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Đến độ, quả thực ngay sau đó Người đã phải thậm tệ lên tiếng quở trách nhân vật ấy như sau: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".

Tại sao Chúa Giêsu lại tuyển chọn một con người mà chính Người đã biết trước một cách đích xác là vừa ngớ ngẩn về lãnh vực thiêng liêng: "con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa", hoàn toàn chiều theo tinh thần trần tục: "mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người", nên đã tác hành và phản ứng chẳng khác nào như một tên phản kitô theo tinh thần của satan: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm"?

Theo nguyên tắc Thiên Chúa mới là chủ tể mọi sự và con người chỉ là phương tiện được Ngài sử dụng, và theo đường lối Thiên Chúa muốn tỏ mình ra nơi công cuộc của Ngài để ai tin vào Ngài thì được sống, nhất là những ai nhận biết mình yếu hèn và khờ dại mà hoàn toàn tin tưởng cậy trông nơi Ngài. Có thể nói, cách Thiên Chúa tỏ mình ra tuyệt diệu nhất đó là Ngài tin tưởng vào những phương tiện loài người bất toàn và bất lực, nhưng đồng thời Ngài vẫn có thể hoàn thành dự án thần linh bất diệt đầy yêu thương của Ngài nơi/qua những con người bất xứng ấy.

Điển hình nhất là trường hợp của Tông Đồ Phêrô ở Bài Phúc Âm hôm nay. Chính vì đã biết đích xác bản chất nhanh nhảu nhưng hơi đoảng và hăng hái nhưng nông cạn của vị tông đồ đầu đàn tông đồ đoàn này, vị tông đồ dầu sao cũng rất chân thành và rất gắn bó với mình mà Chúa Giêsu đã nhất định tuyển chọn ngài và đổi tên cho ngài từ "Simon" (biểu hiệu cho con người tự nhiên bẩm sinh của ngài) thành "Phêrô" (nghĩa là "Đá", tiêu biểu cho đức tin vững chắc và bất khuất của ngài, cương quyết theo Thày là Đá Góc Tường của ngài cho đến cùng), tới độ vận mạng thiêng liêng của toàn thể tòa nhà Giáo Hội của Người được xây trên nền "Đá" ngài, và tới độ quyền lực chết chóc của hỏa ngục cũng không thể nào làm rung chuyển được tính chất vững chắc kiên cố của nó:

"Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được".

Chính bản thân của vị tông đồ, cho dù đã được chọn là nền đá của Giáo Hội như thế chăng nữa cũng đã chối Thày 3 lần, nên ngài lại càng biết mình hơn và tin vào Lòng Thương Xót Chúa hơn, ngài có làm được gì thì hoàn toàn bởi Thày và nhờ Thày: "Chúng con còn biết theo ai? Thày mới có lời vban sự sống đời đời" (Gioan 6;68), đúng như lời Thày đã khẳng định trong câu xướng trước Phúc Âm hôm nay: "Alleluia, alleluia! - Chúa phán: 'Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: không ai đến được với Cha mà không qua Thầy'. - Alleluia".

Với tất cả ý thức bản thân và cảm nghiệm thần linh ấy trong vai trò và thân phận làm "Đá" nền của mình, Tông Đồ Phêrô mới có thể thực sự âm vang câu xướng 1 và 2 trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa; con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài.

2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh.


Ngày 23/08: Thánh Rosa Lima, Đồng trinh

 

Ngày 23/08: Thánh Rosa Lima, Đồng trinh

 

Suy niệm về cuộc đời các thánh là phương thuốc có tác dụng chống lại tâm hồn yếu đuối. Các thánh dạy chúng ta rằng: trong mọi thời đại, trên mọi quốc gia, trong mọi hoàn cảnh chúng ta có thể nên thánh. Chúa Giêsu Kitô hôm nay hôm qua và mãi mãi vẫn là một. Sự hiện diện sống động của Người trong nhà tạm và trong trái tim mỗi Người, làm cho các đóa hoa của đức hạnh thiên đàng nở ra tươi thắm và trổ sinh hoa trái trong thời đại của chúng ta cũng như trong những ngày bắt bớ và trong thời đại của đức tin. Tựa như sự khai sáng của sự thật an ủi này, chúng ta hãy suy tư cuộc đời thánh Rosa, một vị thánh vĩ đại của dòng Ba Đa Minh, vị thánh Bổn Mạng của Nam Mỹ (Bổn mạng của Hội Dòng).

Tên của ngài, chúng ta được nghe kể về việc đặt tên như một phép lạ. Mẹ của ngài khi đang đứng bên cạnh nôi ngắm nhìn em bé với một tình yêu trìu mến, thì thấy một đóa hồng tuyêt đẹp trên má của em khi bé đang ngủ. Thấy rằng đây là dấu hiệu của Thiên Chúa, bà đã bất chấp mọi chống đối không gọi em bé là Isabella nữa, tên này em bé nhận được trong ngày Rửa Tội, và từ đó về sau bà gọi em là Rosa. Khi Thiên Chúa ban cho ai một cái tên thì cái tên đó có một ý nghĩa sâu sắc, nó biểu hiện tính cách và sứ vụ của người đó. Thánh Rosa là “một Hoa Hồng mầu nhiệm” là Hoa Hồng của Thánh Tâm, được trồng, lớn lên và nở hoa giữa những gai nhọn; rồi sinh xôi nảy nở đầy mảnh đất mới đang bị tha hóa bởi tội lỗi ngập tràn và bởi lòng tham, với sự ngọt ngào thiên đàng.

Đọc tiểu sử cuộc đời ngài nếu chú ý một chút thôi chúng ta có thể học cách diễn tả vẻ đẹp của đóa hoa, hoa hồng mầu nhiệm. Trong ngày lễ kính ngài, Giáo Hội dùng lời sách Khôn Ngoan và Diễm Ca để miêu tả về ngài. Thiên Chúa toàn năng phán rằng: “Ta đã yêu nàng và đã chọn nàng từ thuở Ta còn niên thiếu, và Ta ước chọn nàng làm ái nữ của Ta: và Ta trở thành người yêu kiều diễm của nàng.” Từ ngày còn thơ thánh Rosa đã cảm thấy tình yêu Thiên Chúa chiếm đoạt tâm hồn mình. Tình yêu này đã khiến ngài khấn hứa dồng trinh lúc mới chỉ có 5 tuổi. Nó khiến ngài quyến luyến đến không thể kháng cự lại việc nhận chiếc áo dòng trắng của thánh Đa Minh; nó làm cho ngài đeo chiếc nhẫn vàng có khắc dòng chữ: “Rosa của Lòng Ta, hãy cho Ta trái tim của con.” Lời ca trong thánh lễ kính ngài diễn tả rằng: “Rosa có bàn tay trong sạch và tâm hồn trắng trong, đã trèo lên núi thánh của Chúa và đứng trên nơi thánh của Người.” Giống như hoa huệ trong các bụi gai thì ngươi là người ta yêu dấu giữa các trinh nữ.”

Câu hỏi thực tế và quan trọng để chúng ta tìm hiểu là: Làm cách nào thánh Rosa lên được ngọn núi cao của hoàn thiện? Làm cách nào ngài nảy chồi đâm bông bên dòng sông? Làm cách nào để ngài trở nên hoa huệ trong sạch giữa bụi gai? Một số người nghĩ rằng đó là công trình của ơn huệ mà không cần bất cứ nỗ lực hoặc cộng tác của con người; rằng ngài là thiên thần mang hình dáng người, được đặc ân và được bảo toàn bởi Đấng Phu Quân tối cao qua những cách tuyệt vời nào đó mà ngài hoàn toàn không phải trải qua thử thách và cám dỗ; rằng lúc nào ngài cũng có thể đáp trả tình yêu Chúa, cũng có thể hát lên bài hát trong sách Diễm Ca: “Người dành tình yêu Người cho tôi. Người đổ trên tôi đầy hoa, người nâng đỡ tôi khỏi vấp ngã bởi tôi kiệt sức vì tình yêu. Cánh tay trái của Người tôi gối đầu và cánh tay phải của Người ấp ủ tôi.”

Tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời thánh Rosa, ta nhận thấy sự thật là Hoa Hồng này mọc lên và đơm hoa giữa những gai nhọn. Bông hoa hồng đỏ tượng trưng cho tình yêu nồng thắm, sự ngọt ngào và tràn đầy sự hoàn thiện của vị thánh; những gai nhọn là biểu tượng của sự đau khổ triền miên của ngài.

Các thánh phải chịu đau khổ; đây là điểm ưu tiên thánh trên hết mọi sự. Chúa Giêsu đã bị đội mão gai và bị đóng đinh. Trái tim của Mẹ Người, trong trắng và đầy ơn phúc, đã bị đâm thâu bởi sầu khổ và buồn đau. Tất cả những ai muốn theo chân Chúa và Mẹ Maria phải chọn đội mão gai và vác thánh giá của mình. Linh hồn nào càng khao khát tình Chúa và càng yêu Chúa thì linh hồn đó càng phải hi sinh nhiều hơn. Luật của Chúa trên trần gian là sự hi sinh làm cho các thánh thật gần gũi và thân thương đối với chúng ta. Rosa của chúng ta sẽ không là thánh Rosa yêu quí nếu không có gai nhọn. Các gai nhọn giữ ngài khỏi những tì vết trần gian và thanh luyện linh hồn ngài giống như vàng thử lửa.

Phần tiểu sử liên quan đến sự đau khổ của vị thánh đơn sơ này thì quá dài. Ngài đã không bao giờ cố tình làm phiền lòng Chúa hay tha nhân, ngài đã yêu mến tất cả và được tất cả mến yêu, ngài có thể cảm thông không chỉ với loài người nhưng cả đối với những con vật câm điếc, và cả với các côn trùng hay gây khó chịu.

Một số đau khổ của ngài là do tự nguyện; ngài ăn chay hầu như suốt đời, chỉ trộn một ít thức ăn nuôi sống thân xác với một ít rau đắng. Ngài bôi trên bàn tay và bàn chân nhỏ bé của mình với vỏ cây và bột tiêu Ấn Độ để làm cho chúng trở nên xấu xí, bỏng rộp, xưng tấy. Trong  suốt 15 năm trên đầu ngài luôn đội một vòng đóng 99 chiếc đinh nhọn bên trong để nhắc nhở ngài về chiếc vòng gai của Đấng Tình Quân. Chung quanh thắt lưng ngài mang một chiếc dây sắt ba, nó cấn vào trong da thịt và gây ra những cơn đau khủng khiếp. Ngài yêu mến kỉ luật nên dùng nó thường xuyên khi được cha giải tội cho phép. Trong vườn ngài cất giữ một cây thánh giá gỗ mà ngài dùng để vác trên đôi vai tiều tụy trong suốt thời gian yên lặng của đêm tối, và đây là cách tốt để suy niệm và bắt chước vác Thánh Giá. Ngài ngủ rất ít, và gối đầu trên một tảng đá. Do vậy, cơ thể ứa máu, bàn tay và bàn chân xưng rộp, cái trán thương tích, nhưng bằng một tâm hồn trong trắng Rosa đã trèo lên tới đỉnh núi hoàn thiện.

Lớn hơn cả những thương tích trên cơ thể là sự đấu tranh trong tâm hồn. những cái gai nhọn đâm thâu không chỉ da thịt mà đến cả con tim ngài. Ngài yêu mến cha mẹ mình vô cùng; niềm vui của họ là của ngài, và đau buồn của họ là của ngài. Để giúp họ, ngài quyết định ở nhà và làm việc chăm chỉ, chăm sóc và bán hoa. Ngài thêu những chiếc thảm tuyệt đẹp và nghệ thuật. Ngài vâng phục cha mẹ một cách vui vẻ cho đến khi ngài được lệnh phải kết hôn, điều này trái với ý hướng và lời thề ước của ngài. Cha mẹ ngài không hiểu ơn gọi và món quà đặc biệt của ngài, và lầm tưởng là ngài đã không vâng phục. Họ quở trách, lăng mạ và trừng phạt ngài một cách nghiêm khắc. Ngài đã cảm thấu điều này, nó đau nhói trong tim ngài. Ngài đã khóc ròng nhiều đêm liền. Tuy nhiên, ngài vẫn vững dạ trong đau khổ của mình và sống chân thật trước mặt Chúa.

Là một thành viên của dòng Ba Đa Minh, thánh Rosa cảm nhận được sự quan trọng của thinh lặng và cô tịch, nó là nhân đức cần thiết của Kitô giáo. Ngài không được hưởng phúc lành và lợi ích của một tu viện; chính vì thế ngài nhờ em trai làm cho mình một cái lều nhỏ trong góc vườn. Nơi này trở thành căn phòng, một tu viện nhỏ xinh của ngài. Hiếm hoi lắm mới có những dịp, hoặc với những lý do đặc biệt mà một số rất ít người được vào trong, phá vỡ sự thinh lặng thánh thiêng của căn phòng. Ngài không bao giờ rời phòng trừ khi phải làm nhiệm vụ hay làm tông đồ. Trong căn phòng nhỏ đó các thiên thần trên thiên đàng chứng kiến nhiều cuộc chiến đấu và nhiều lần chiến thắng vinh quang.

Có những lúc sự an ủi tuyệt diệu đến với ngài để thêm sức và lòng can đảm cho ngài, nhưng ngài cũng rất thường xuyên cảm nghiệm sự khô khan và chán nản. Thiên Chúa cho phép ma quỷ cám dỗ và quấy nhiễu ngài. Ngài cảm thấy mình bị chia cắt với Thiên Chúa và bị khinh miệt; ngài sợ đi lạc vĩnh viễn. Vào những dịp như vậy chúng ta biết được rằng ngài đã đau nỗi đau của luyện ngục. Sự đau khổ của ngài trong căn phòng nhỏ sánh với sự đau buồn của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Ngài thường dùng lời Chúa mà kêu lên, “Lạy Cha, xin cất chén đắng khỏi con, nhưng đừng theo ý con mà theo ý Cha! Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, sao Người bỏ mặc con?” Ngài đã trải qua nỗi đau đớn này 2 tiếng mỗi ngày trong suốt 15 năm. Một lần nữa chúng ta thấy được bức họa về cách mà thánh nữ trèo lên núi Chúa như thế nào. Qua việc đau nỗi đau của Thánh Tâm Chúa, Rosa đã trở nên “Ái nữ của Lòng Ta”.

Sau khi kiểm chứng những chiếc lá và gai nhọn của Hoa Hồng Mầu Nhiệm, chúng ta bắt đầu xem xét đến hương thơm của bông hoa, nó thật ngọt ngào dưới mắt Thiên Chúa và con người. Cuộc đời của Đóa Hoa này đẹp từng chi tiết; đẹp và hoàn hảo trong từng cánh hoa.

Mỗi trang sách về tiểu sử của thánh Rosa có tính chất hướng dẫn và khai trí, không trang nào đầy đủ bằng trang cuối cùng. Cái chết của Đóa Hồng này không phải là sự tàn úa của các cánh hoa, chúng rơi xuống đất và trở thành đất, nhưng chúng lại mở ra một chiếc nụ mới, phơi bày dưới ánh sáng những chiếc lá mỏng manh được giấu kín, nó tỏa ra mùi hương ngọt ngào bay tới thiên cung. Cái chết giải thoát tử thần và tỏa sáng phi thường; nó mang lại một thứ hương thơm ngát tỏa “trước tôn nhan Thiên Chúa.”

Thánh Catarina nói rằng: “Người công chính sống khoan dung nhân hậu và chết trong tình yêu, nếu họ sống trọn vẹn các đức hạnh và với trọn niềm hi vọng vào giá máu cứu chuộc của Con Chiên, thì sẽ nhìn thấy điều tốt lành mà ta đã chuẩn bị cho họ. Ta sẽ ôm ấp nó bằng cánh tay tình yêu, giữ nó thật chặt bằng tình yêu của Ta, là đấng tốt lành tối cao và vĩnh cửu. Vì vậy họ nếm trải sự sống vĩnh cửu trước khi từ bỏ thân xác hay chết của mình, tức là trước khi linh hồn lìa khỏi xác.” Thánh Rosa được hưởng ân huệ to lớn này. Khi ngài được 31 tuổi, gần đạt tới tuổi của Đấng Tình Quân, ngài cảm thấy cái chết đang dần đến, ngài không sợ nhưng chào đón nó bằng niềm hân hoan tựa như đây là giây phút hạnh phúc nhất trong đời mình. Ngài coi đó giống như là trở về nhà, là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa và Đấng Cứu Chuộc của mình, sự mở đầu của niềm hân hoan không bao giờ tàn lụi.

Ba ngày trước cơn bạo bệnh cuối cùng, ngài bắt đầu cuộc hành hương đến các nhà thờ và nhà nguyện ở Lima để tạ ơn Chúa vì những hồng ân ngài đã nhận được ở đó. Sau một thời gian chuẩn bị, khi ngài lãnh Bí tích Sức Dầu Bệnh Nhân ngài đã xuất thần, lúc tỉnh lại ngài quay qua cha giải tội và nói rằng: “Thưa cha, con có thể nói gì về những sự sung sướng và an ủi mà Thiên Chúa đổ tràn vĩnh cửu trên các thánh! Con ra đi với lòng thỏa mãn khôn tả để chiêm niệm khuôn mặt đáng tôn thờ của Đức Kitô, Người mà con đã sống trọn cuộc đời mình để chiếm hữu.”

Ngài nói trong trạng thái hoàn toàn bình tĩnh và vui tươi với các bà con và bạn bè đang đứng quanh giường mình rằng: “Giêsu ở với con,” lời của ngài như Hoa Hồng ngọt ngào và mầu nhiệm bay tới thiên đàng.

Sự thánh thiện này là hương thơm ngọt ngào trước tòa Chúa, mang đến phúc lành cho loài người như Kinh Thánh đã nói. Trong Cựu Ước chúng ta đọc thấy rằng Thiên Chúa sẵn sàng không phá hủy cả thành phố chỉ vì trong đó có 4 người công chính. Mặc dù chỉ là một nhà thần bí sống ẩn dật, thánh Rosa đã ảnh hưởng trực tiếp đến những người chung quanh. Hương thơm ngọt ngào về đức hạnh của ngài đã tràn lan trên thành phố và trên đất nước, hương thơm ấy đã đi vào con tim mọi người.

Yêu Chúa, Rosa cũng yêu tha nhân, là con cái của Chúa bằng một tình yêu nồng cháy, tình yêu thiêng liêng. Ngài giúp người nghèo và như một thiên thần nhân từ, ngài viếng thăm người đau yếu, sự hiện diện của ngài mang lại niềm an ủi và sự chịu đựng. Mỗi ngày ngài cầu nguyện, khóc than và đánh đập thân xác để cầu xin cho tội nhân trở lại. Ngài không bao giờ chỉ nhìn ngắm các ngọn núi bao quanh thành phố, nhưng ngài khao khát đi vào trong các khu vực của người nghèo da đỏ để dạy dỗ họ về Chúa Giêsu chịu đóng đinh.

Cái chết của ngài đã tiết lộ bí mật và sự ảnh hưởng thiêng liêng của những khát vọng rực cháy nơi ngài. Đời sống cầu nguyện và việc ăn chay hãm mình triền miên của ngài cho các linh hồn mà ngài chưa bao giờ gặp mặt. Tin về cái chết của ngài làm rung động thành phố và đất nước lân cận. Người giàu lẫn người nghèo, hàng giáo sĩ và giáo dân, ngay cả những người da đỏ từ các vùng đồi núi xung quanh, tất cả chạy đến để ngắm nhìn lần cuối khuôn mặt trẻ thơ của vị thánh, không bị biến dạng hoặc biến đổi bởi cái chết.

Đám tang của con người nhỏ bé đơn giản này long trọng nhất mà thành phố Lima chưa từng có. Đức tổng giám mục và các vị phụ tá, chính quyền và những người dưới quyền, tất cả các dòng tu, các cộng đoàn, các tín hữu thuộc mọi tầng lớp hiện diện để đưa tiễn thi thể ngài đến nhà thờ thánh Đa Minh. Họ yêu mến Hoa Hồng của mình và tôn kính ngài như một vị thánh, trong suốt hai ngày nhà thờ chật ních người đến nỗi thi thể ngài không thể di chuyển được.

Có bao nhiêu bài học mà cuộc đời đơn sơ này không dạy chúng ta? Tình yêu nồng cháy của Thiên Chúa, tình yêu của Thánh Tâm thay đổi mọi sự và mạnh mẽ hơn cái chết là ý niệm trước nhất và trung tâm. Tình yêu của Thiên Chúa đưa tâm hồn ra khỏi thế giới, làm thay đổi các giác quan và đóng đinh thân xác, rửa sạch và thánh hóa những ai tìm kiếm nó, nó đưa linh hồn vào nơi thanh tịnh để gặp Chúa Giêsu, để chuyện trò với Người, để đau khổ với Người, và đem ơn cứu độ cho các linh hồn. Để cứu các linh hồn không nhất thiết phải đi giảng dạy và làm phép lạ. Một cuộc sống tĩnh lặng, trong sạch và sốt sắng với Chúa là một ngọn lửa chiếu sáng, tình yêu và sự sống. Thánh Rosa loan truyền cách sống này. Còn tôi, tại sao không?

Minh Thùy (theo tài liệu)

Thánh Rosa - Rosa của LòngTa, hãy cho Ta trái tim của con

 

 

 

Thứ Hai

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Tx 1, 1-5. 11b-12

"Ðể danh Chúa được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người".

Khởi đầu thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Phaolô, Silvanô, và Timôthêu kính gửi lời thăm Giáo đoàn Thêxalônica trong Thiên Chúa là Cha chúng ta, và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện xin ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô ở cùng anh em. Anh em thân mến, tôi phải luôn luôn cảm tạ ơn Thiên Chúa vì anh em, đó là điều phải lẽ, bởi vì anh em ngày càng thêm lòng tin và hết thảy anh em đều đầy lòng thương yêu nhau, đến nỗi chính chúng tôi cũng được hãnh diện trong các giáo đoàn của Chúa, vì anh em hằng kiên nhẫn và giữ lòng tin trong những cơn bắt bớ gian truân anh em phải chịu. Ðó là dấu chỉ về sự phán xét công minh của Thiên Chúa, để anh em xứng đáng vào nước Thiên Chúa, bởi anh em phải chịu khốn khó vì nước ấy.

Xin Thiên Chúa chúng ta đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng ơn Chúa kêu gọi anh em, và xin Người dùng quyền phép mà kiện toàn những ý định ngay lành do lòng tốt của anh em và công việc của lòng tin anh em, để danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người, do ân sủng của Thiên Chúa chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 4-5

Ðáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa muôn dân (c. 3).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới. Hãy ca mừng Chúa đi, toàn thể địa cầu! Hãy ca mừng Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.

3) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen. Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Cr 5, 19

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian với Người, và đã đặt lời giải hoà trên môi miệng chúng tôi. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 13-22

"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài sản của các bà goá, bởi thế, các ngươi sẽ chịu phán xét nặng hơn.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi rảo khắp biển khơi và lục địa, để tìm cho được một người tòng giáo, nhưng khi đã cho người đó tòng giáo, các ngươi làm cho nó trở thành con cái hoả ngục gấp hai lần các ngươi.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù! Vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề, thì không có giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi kẻ ngu ngốc và đui mù, chớ thì vàng hay là đền thờ thánh hoá vàng, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn bảo rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không giá trị gì, nhưng ai lấy của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ thì của lễ hay là bàn thờ thánh hoá của lễ, cái nào trọng hơn?

"Vậy ai lấy bàn thờ mà thề, thì lấy cả bàn thờ và mọi sự để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà thề, thì lấy cả đền thờ và Ðấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà thề, thì lấy ngai toà Thiên Chúa và Ðấng ngự trên ngai toà ấy mà thề".

Ðó là lời Chúa.

 

Woes of the Pharisees - Wikipedia

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

coi cái trọng thành cái hèn và coi cái hèn thành cái trọng

 

Tiến trình của Phúc Âm cho ngày thường trong Mùa Thường Niên được phân chia như sau: 9 tuần lễ đầu (từ tuần 1 đến hết tuần 9, và là 9 tuần thường niên Hậu Mùa Giáng Sinh) theo Phúc Âm của Thánh ký Marcô, sau đó là 12 Tuần (từ tuần 10 sang Mùa Phục Sinh đến hết tuần 21) theo Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, và cuối cùng là 13 tuần (từ tuần 22 đến hết tuần 34) theo Phúc Âm của Thánh ký Luca. Còn Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho ngày thường trong tuần được Giáo Hội chọn đọc cho các mùa đặc biệt như Mùa Giáng Sinh (cả tuần trước lễ Hiển Linh) Mùa Chay (cả tuần 4 và 5) và Mùa Phục Sinh (liên tục từ Tuần 2 trở đi).

Tuần XXI Thường Niên này là tuần cuối cùng theo Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho ngày thường trong tuần. Ba ngày đầu là những bài Phúc Âm ở đoạn 23, liên quan đến những lời Chúa Giêsu thậm tệ khiển trách thành phần luật sĩ và biệt phái, theo chiều hướng của bài Phúc Âm của Thứ Bảy tuần trước, chiều hướng giả hình của 2 thành phần đóng vai trò làm thày dạy trong dân này
Trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, Chúa Giêsu chưa trực tiếp khiển trách 2 thành phần này, mà chỉ mới nói về họ với dân chúng và các môn đệ của Người thôi, về thái độ ham danh vọng của họ, và khuyên dân chúng và các môn đệ của Người đừng bắt chước họ liên quan đến 3 danh xưng họ thích được gọi là "cha", là "thày", là "xếp". Trong bài Phúc Âm hôm nay và 2 ngày tới, Người trực tiếp nói thẳng vào mặt họ, vạch trần những sai lầm của họ ra, không phải để bôi xấu họ cho bằng để bênh vực dân chúng cho khỏi chẳng những khuynh hướng ham danh của họ mà còn giáo huấn sai lầm của họ nữa, như Phúc Âm hôm nay cho thấy: 

 

"Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: 'Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc'. Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? Các người còn nói: 'Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc'. Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề".
Cái sai lầm lệch lạc nơi giáo huấn của hai thành phần sư phụ trong dân này là ở chỗ họ coi cái trọng thành cái hèn và coi cái hèn thành cái trọng, lấy cái chính làm cái phụ và lấy cái phụ làm cái chính, theo quan niệm thiển cận và phán đoán duy vật của họ, như Chúa Giêsu đã thẳng thắn phân tích cho họ biết một cách nặng lời không kiêng nể như sau: "Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn?.... Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn?" 
Chính vì giáo huấn sai lầm như thế của họ mà Chúa Giêsu đã cảnh báo cho họ biết về hậu quả tại hại liên quan đến nguy hiểm cho thành phần được họ dẫn dắt chỉ bảo:

"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào... Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người".

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao thành phần chỉ đạo cho dân chúng là luật sĩ và biệt phái giả hình này sai lầm cả trong giáo huấn của họ như thế mà Chúa lại bảo cứ nghe họ như trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước? Theo Thánh Maximilian Kolbe thì chỉ có người ban hành mới có thể sai lầm, còn người tuân hành không bao giờ sai lầm. Nếu vì lòng ngay không biết, do đó nếu thành phần tuân hành có sai trái cũng không bị phán xét và luận phạt.

Việc Chúa Kitô thậm tệ quở trách thành phần luật sĩ và biệt phái giả hình trong Bài Phúc Âm hôm nay quả thực, như Thánh Phaolô viết cho Kitô hữu giáo đoàn Thessalonica ở thư thứ 2 trong Bài Đọc 1 hôm nay là "sự phán xét công minh của Thiên Chúa, để anh em xứng đáng vào nước Thiên Chúa", nhờ đó, họ mới "nên xứng đáng ơn Chúa kêu gọi" ..., như Thánh Phaolô ước nguyện cuối bài đọc 1: "để danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người, do ân sủng của Thiên Chúa chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô".

Nếu thành phần luật sĩ và biệt phái trong Bài Phúc Âm hôm nay chỉ tìm vinh quanh Thiên Chúa, hơn là vinh danh bản thân, thì, theo Thánh Vịnh 95 ở Bài Đáp Ca hôm nay, họ mới có thể cảm nhận và chúc tụng Chúa đúng như tâm tình của Bài Đáp Ca này:

 

1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới. Hãy ca mừng Chúa đi, toàn thể địa cầu! Hãy ca mừng Chúa, hãy chúc tụng danh Người.

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.

3) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen. Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh.

 



Ngày 24 tháng 8

Lễ Thánh Bartôlômêô, Tông Ðồ

Lễ Kính

 

Bài Ðọc I: Kh 21, 9b-14

"Trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên".

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Thiên Thần nói với tôi rằng: "Ngươi hãy đến, ta sẽ chỉ cho ngươi xem phu nhân, bạn của Con Chiên".

Thiên Thần đem tôi lên một núi cao chót vót khi tôi ngất trí, và chỉ cho tôi thấy thành thánh Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng của nó toả ra như đá quý, giống như ngọc thạch, óng ánh tựa pha lê. Thành có tường luỹ cao lớn, trổ mười hai cổng, trên các cổng có mười hai thiên thần, và có khắc tên mười hai chi họ con cái Israel. Phía đông có ba cổng, phía bắc có ba cổng, phía nam có ba cổng, và phía tây có ba cổng. Tường thành xây trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên. Còn đền thờ, tôi không thấy có trong thành, vì Thiên Chúa toàn năng và Con Chiên là đền thờ của thành. Thành không cần mặt trời mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó và đèn của nó chính là Con Chiên.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 10-11. 12-13ab. 17-18

Ðáp: Lạy Chúa, các bạn hữu Chúa nhận biết vinh quang nước Chúa (c. 12a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.

2) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Chúa là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Chúa tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.

3) Chúa công minh trong mọi đường lối của Người, và yêu thương mọi kỳ công Người tác tạo. Chúa ở gần những kẻ kêu cầu Người, những kẻ kêu cầu Người với lòng thành thật. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 1, 49b

Alleluia, alleluia! - Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 1, 45-51

"Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Philipphê gặp Nathanael và nói với ông: "Ðấng đã được Môsê ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nadarét". Nathanael đáp: "Bởi Nadarét nào có cái chi hay?" Philipphê nói: "Hãy đến mà xem".

Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông: "Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối". Nathanael đáp: "Sao Ngài biết tôi?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Nathanael thưa lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel". Chúa Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin, ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa". Và Người nói với ông: "Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Thứ Tư  4/10/2006 - Bài 20 của ĐTC Biển Đức XVI trong loạt 138 bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

Saint Bartholomew, Apostle - My Catholic Life!

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Trong một loạt các vị tông đồ được Chúa Giêsu kêu gọi trong cuộc sống trần gian của Người, hôm nay chú trọng tới Tông Đồ Bartholomew. Trong các bản liệt kê danh sách 12 Vị thì ngài bao giờ cũng đứng trước Thánh Mathêu, trong khi tên của một vị đứng trước ngài được thay đổi: trong một vài trường hợp đó là Thánh Philiphê (x Mt 10:3; Mk 3:18; Lk 6:14) hay Thánh Tôma (x Acts 1:13).

 

Tên của ngài hiển nhiên là theo tên cha, như nó liên quan tới tên gọi của người cha này. Nó là tên gọi có lẽ mang những đặc tính Aramic, “bar Talmay”, tức là “con của Talmay”.

 

Chúng ta không có những chi tiết quan trọng về Tông Đồ Bartholomew. Thật vậy, tên gọi của ngài bao giờ cũng ở trong và chỉ trong các danh sách của 12 Vị được tôi đề cập tới trước đây; bởi vậy, ngài không phải là nhân vật chính trong bất cứ một trình thuật nào. Tuy nhiên, theo truyền thống, ngài được đồng hóa với Nathanael: một danh xưng có nghĩa là “được Thiên Chúa ban”. Nathanael này là người bản xứ ở Cana (x Jn 21:2); bởi vậy, có thể ngài đã chứng kiến thấy “dấu lạ” cả thể được Chúa Giêsu thực hiện ở nơi đó (x Jn 2:1-11).

 

Việc đồng hóa của hai nhân vật này có lẽ là ở chỗ Nathanael được đặt cạnh Tông Đồ Philiphê, trong bối cảnh liên quan tới ơn kêu gọi được Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại, tức là ở vị trí Tông Đồ Bartholomew có trong các bản danh sách tông đồ được các Phúc Âm đề cập tới. Chính với Tông Đồ Nathanael này mà Tông Đồ Philiphê đã nói rằng ngài “da94 gặp Đấng được Moisen viết trong lề luật, cũng như được các vị tiên tri nói rới, đó là Đức Giêsu, con ông Giuse, ở Nazarét” (Jn 1:45).   

 

Như chúng ta đều biết, Nathanael đã có một thành kiến sâu nặng đối với Người: “Ở Nazarét chẳng lẽ lại có gì tốt hay sao?” (Jn 1:46a). Lời phát biểu này đối với chúng ta là những gì hệ trọng. Nó khiến chúng ta thấy rằng, theo những niềm trông đợi của người Do Thái thì Đấng Thiên Sai không thể xuất phát từ một thứ làng mạc vô danh tiểu tốt như thế, như ở Nazarét ấy (cũng xem Jn 7:42).

 

Tuy nhiên, nó cũng cho thấy quyền tự do của Thiên Chúa, Đấng làm cho những niềm đợi trông của chúng ta bị ngỡ ngàng, khi tỏ mình ra ở chính nơi đó, nơi chúng ta ít trông mong Người xuất hiện. Ngoài ra, chúng ta biết rằng, thực sự Chúa Giêsu không phải hoàn toàn xuất thân “từ Nazarét”, thế nhưng Người đã được hạ sinh ở Bêlem (x Mt 2:1; Lk 2:4). Bởi thế, việc cự nự của Tông Đồ Nathanael không có gía trị gì cả, vì nó được căn cứ vào chi tiết không trọn vẹn như thường xẩy ra.

 

Trường hợp của Nathanael cống hiến cho chúng ta một ý tưởng khác, đó là, trong mối liên hệ với Chúa Giêsu, chúng ta không được chỉ chấp nhận ngôn từ mà thôi.  Qua việc trả lời của mình, Tông Đồ Philiphê đã nêu lên một lời mời gọi gợi ý cho Nathanael là: “Hãy đến mà xem” (Jn 1:46b). Kiến thức của chúng ta về Chúa Giêsu trước hết cần phải có một cảm nghiệm sống động: Chứng từ của người khác là những gì thực sự quan trọng, như cuộc sống Kitô hữu của chúng ta nói chung được bắt đầu bằng việc được một hay vài chứng nhân loan báo cho chúng ta. Thế nhưng, chính chúng ta tự mình cần phải tham dự vào mối liên hệ thân mật và sâu xa với Chúa Giêsu nữa.

 

Cũng một cách thức như thế, những người dân làng Samaritanô, sau khi nghe thấy chứng từ của một người đồng quê được gặp gỡ Chúa Giêsu ở bờ giếng Giacóp, đã trực tiếp nói với Người, và sau cuộc nói chuyện ấy, họ nói cùng người phụ nữ rằng “Chúng tôi không tin vì lời của chị; vì đích thân chúng tôi đã nghe, và chúng tôi biết đó thật là vị cứu tinh của thế giới” (Jn 4:42).

 

Trở về với cảnh ơn gọi trên đây, vị thánh ký nói cho chúng ta hay rằng, khi Chúa Giêsu thấy Nathanael tiến đến với Người thì Người kêu lên rằng: “Đây thật là một người Yến Duyên. Nơi người này không có gì là giả dối” (Jn 1:47). Đó là lời ca ngợi nhắc lại câu nói của một bài thánh vịnh: “Phúc thay những ai Chúa không trách tội, lòng trí không có gì là gian dối” (Ps 32:2), thế nhưng đó là lời lại gợi tính tò mò của Nathanael, người cảm thấy ngỡ ngàng đáp lại rằng: “Làm sao Ngài lại biết tôi?” (Jn 1:48a). Trước tiên, câu trả lời của Chúa Giêsu mới đầu chẳng hiểu được. Người nói với ngài rằng: “Trước khi Philiphê gọi anh thì Tôi đã thấy anh ở dưới cây vả rồi” (Jn 1:48b).

 

Ngày nay, khó có thể nhận thức được một cách chính xác ý nghĩa của những lời vừa rồi. Theo những gì được các chuyên gia nói thì có thể như thế này, nếu vào thời ấy các cây vả được đề cập tới như thứ cây được các vị tiến sĩ luật ngồi bên dưới gốc để đọc và giảng dạy Thánh Kinh, thì Người có ý ám chỉ loại công việc được Nathanael thi hành ở lúc ngài được kêu gọi.

 

Dù sao, điều đáng kể nhất trong trình thuật này của Thánh Gioan đó là lời tuyên xưng được Nathanael phát biểu một cách minh bạch vào lúc cuối cùng: “Thưa Thày, Thày là Con Thiên Chúa; Thày là Vua Yến Duyên!” (Jn 1:49). Mặc dù lời tuyên xưng này không đạt tới mức hệ trọng như lời tuyên xưng của Tông Đồ Tôma là những gì kết thúc Phúc Âm Thánh Gioan: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi!” (Jn 20:28), lời tuyên xưng của Nathanael có nhiệm vụ mở ra lãnh giới cho Phúc Âm thứ bốn này.

 

Ở lời tuyên xưng của Tông Đồ Nathanael bước đầu tiên và quan trọng đã được thực hiện trên con đường gắn bó với Chúa Kitô. Những lời của Tông Đồ Nathanael cho thấy một khía cạnh dưỡng diện và bổ xung về căn tính của Chúa Giêsu: Người được nhìn nhận bởi mối liên hệ đặc biệt giữa Người với Thiên Chúa Cha mà Người là Con duy nhất của Ngài, cũng như bởi mối liên hệ với dân Yến Duyên là thành phần gọi Người là Vua, một phẩm tính xứng hợp với Đấng Thiên Sai được đợi trông.

 

Chúng ta không bao giờ được làm mất đi một trong hai yếu tố ấy, vì nếu chúng ta chỉ tuyên xưng chiều kích thiên quốc của Chúa Giêsu là chúng ta có nguy cơ làm cho Người thành một hữu thể siêu việt và phù du, trong khi đó, nếu chúng ta chỉ nhìn nhận vai trò cụ thể của Người trong lịch sử thì chúng ta có nguy cơ lơ là với chiều kích thần linh của Người, một chiều kích là dung diện xứng hợp của Người.

 

Chúng ta không có tài liệu chính xác về hoạt động tông đồ sau này của Tông Đồ Bartholomew-Nathanael. Theo tài liệu được sử gia Eusebius đề cập đến ở thế kỷ thứ 4, thì có những dấu vết hiện diện của Tông Đồ Bartholomew ở Panteno Ấn Độ (cf. "Ecclesiastical History," V, 10,3).

 

Theo một hậu truyền thống thì vào đầu Thời Trung Cổ, trình thuật về việc ngài qua đời vì bị lột da là những gì sau đó đã hết sức phổ thông trong dân chúng. Chỉ cần nghĩ đến cảnh tượng rất nổi tiếng trong Cuộc Chung Thẩm ở Nguyện Đường Sistine là cảnh được đại điêu khác gia Michelangelo trình bày cho thấy Thánh Batholomew cầm da của ngài nơi bàn tay trái, nơi nhà nghệ sĩ đã để bức chân dung của ngài ở đó.

 

Các di tích của ngài được tôn kính ở đây, ở Rôma này, ở nhà thờ được cung hiến cho ngài trên Đảo Tiber đây, nơi những dấu tích thánh ấy được Hoàng Đế Đức quốc là Otto III mang về từ năm 983. 

 

Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng hình ảnh của Thánh Bartholomew, bất chấp tình trạng thiếu tài liệu, cũng nói với chúng ta rằng có thể cảm nghiệm được việc sống gắn bó với Chúa Giêsu và có thể làm chứng cho việc sống gắn bó này thậm chí không cần phải có các việc làm theo cảm giác. Chúa Giêsu là một Đấng siêu việt, là Đấng mỗi một người trong chúng ta được kêu gọi hy hiến sự sống và sự chết của mình vậy.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 4/10/2006

.

 

Thứ Ba

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 Tx 2, 1-3a. 13-16

"Anh em hãy nắm giữ truyền thống anh em đã học biết".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, nhân vì sự Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta sẽ đến, và sự tập họp của chúng ta trong Người, chúng tôi nài xin anh em chớ vội thay lòng đổi dạ, chớ kinh hãi vì linh ứng, lời giảng hay thư từ nào, dường như của chúng tôi gởi tới loan báo ngày Chúa gần đến. Ðừng để ai lừa dối anh em cách nào.

Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng của chúng tôi mà kêu mời anh em đến lãnh nhận vinh quang của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu Kitô. Anh em thân mến, vì vậy anh em hãy đứng vững, hãy nắm giữ truyền thống anh em đã học biết hoặc bằng lời giảng dạy, hoặc bằng thư từ chúng tôi đã viết. Nguyện xin Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ðấng đã thương yêu chúng ta và dùng ân sủng của Người mà ban cho chúng ta sự an ủi đời đời và lòng cậy trông tốt lành, xin Người khuyên bảo và làm cho lòng anh em bền vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 95, 10. 11-12a. 12b-13

Ðáp: Chúa ngự tới cai quản địa cầu (c. 13ab).

Xướng: 1) Hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người giữ vững địa cầu cho nó khỏi lung lay, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Ðáp.

2) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan, biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên, đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. - Ðáp.

3) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. - Ðáp.

 

Alleluia: Ep 1, 17-18

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 23-26

"Phải làm những điều này, và không bỏ các điều kia".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, hồi hương và thì là, còn những điều quan trọng hơn trong lề luật, là đức công bình, lòng nhân từ và lòng tin thì các ngươi lại bỏ qua; đáng lẽ phải làm những điều này và không bỏ các điều kia.

"Hỡi những kẻ dẫn đường đui mù, các ngươi gạn lọc một con muỗi ra, nhưng lại nuốt trửng cả con lạc đà. Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, vì các ngươi rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong, các ngươi đầy gian tham và nhơ bẩn. Hỡi những người biệt phái đui mù, hãy rửa bên trong chén đĩa trước đã, để bên ngoài cũng được sạch".

Ðó là lời Chúa.

The Gospel of the day: 26th March – Archdiocese of Malta

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

"Coi trọng cái thường và coi thường cái trọng"

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XXI Thường Niên vẫn tiếp tục những lời Chúa Giêsu khiển trách nặng nề thành phần luật sĩ và biệt phái. Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua Người khiển trách họ đặc biệt về giáo huấn sai lầm của họ thì hôm nay Người khiển trách họ về khuynh hướng của họ, hoàn toàn phản ảnh thứ giáo huấn lệch lạc họ chủ trường và truyền dạy cho người khác, đó là coi trọng cái thường và coi thường cái trọng, đó là coi trọng bên ngoài mà lại coi thường bên trong:

 

Hai thành phần thày dạy trong dân này đã bị Chúa khiển trách là vì họ tỏ ra coi trọng cái thường và coi thường cái trọng:

"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà. 

Cái trọng đây là gì, nếu không phải "công lý, lòng nhân và thành tín", những điều thuộc về tinh thần, làm nên nhân phẩm cùng nhân cách của con người, nhưng lại là những điều bị họ coi nhẹ, không bằng những cái thường hơn là "nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng". 
Thế nhưng, chính Chúa cũng không coi nhẹ cái thường ấy. Bởi thế, Người còn nhấn mạnh thêm với họ để tránh thái độ thái quá bất cập rằng: "Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ". Dầu sao những gì được coi là thường cũng không thể thiếu bởi nó chứng tỏ hay cho thấy sự thực hữu và chân chính của cái chính yếu, của cái quan trọng hơn. 
Hai thành phần thày dạy trong dân này còn bị Chúa khiển trách là vì họ tỏ ra coi trọng những gì là bên ngoài mà lại coi thường những thứ ở bên trong:

"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. Hỡi người Pharisiêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch".
"Bên ngoài chén đĩa" thì họ rửa làm sao cho sạch còn "bên trong" chén đĩa thì hôi thối bẩn thỉu. Nếu "bên trong đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ" thì ở đây Chúa muốn nói đến "bên trong" lòng người là nơi xuất ra những gì xấu xa tội lỗi làm cho con người ra ô uế (Marcô 7:20-23; Mathêu 15:19-20). Và như thế, "bên ngoài chén đĩa" đây có thể hiểu là dáng vẻ đàng hoàng, ăn mặc tề chỉnh, điệu bộ tử tế.... Cả ở đây, cho dù nhấn mạnh đến bề trong, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến cả bên trong lẫn bên ngoài: "hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch".
Đối với Chúa, căn cứ vào câu hay vào nguyên tắc Người vừa khẳng định thì bên ngoài lệ thuộc vào bên trong và bên trong chi phối bên ngoài: "hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch". Có nghĩa là một khi tinh thần của con người lành mạnh thì đời sống của họ cũng lành thánh, một khi tâm trí của con người chân thành thì hành động của họ cũng ngay thẳng, một khi bản chất của con người đơn sơ thì đời sống của họ dễ dạy v.v.

Đối với loài người thì không được coi thường cái trọng và coi trọng cài thường theo tinh thần của giáo huấn Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay. Nếu con người là tạo vật không thể hành ác để đạt được mục đích tốt, theo đường lối phương tiện biện minh cho cứu cánh của cộng sản, nhưng không thể áp dụng nguyên tắc này vào trường hợp của Thiên Chúa. Với tư cách là Thiên Chúa Hóa Công vô cùng khôn ngoan thượng trí và toàn năng đầy yêu thương, Ngài có thể sử dụng hay lạm dụng sự dữ để làm ra một sự lành hay mang lại sự lành cho tạo vật của Ngài vì lợi ích tối hậu của họ. Thậm chí Ngài còn có thể biến dữ thành lành.

Cũng thế, cho dù con người tạo vật không được coi thương cái trọng và coi trọng cái thường, nhưng không thể áp dụng nguyên tắc ấy vào trường hợp của Thiên Chúa, Đấng đã thực sự coi thường cái trọng và coi trọng cái thường vì lợi ích tối đa và tối hậu cho tạo vật của Ngài chỉ vì Ngài là Đấng Toàn Hảo, là Tình Yêu Thương Xót. Lịch sử cứu độ của riêng dân Do Thái cũng như của chung loài người đã chứng thực như vậy. Ở chỗ Thiên Chúa là Tình yêu Thương Xót đã coi thường cái trọng (là Con Ngài, là chính bản thân của Ngài) và coi trọng cái thường (là loài người tạo vật vô cùng khốn nạn tội lỗi chúng ta), khi "Thiên Chúa không dung tha cho Con Một mình, một đã phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32), và "Thiên Chúa đã biến Đấng không biết1 đến tội lỗi trở thành tội lỗi, để trong Người chúng ta được nên chính sự công chính của Thiên Chúa" (2Corinto 5:21).

Chúng ta có thể noi gương bắt chước Thiên Chúa trong việc coi thường cái trọng và coi trọng cái thường ở chỗ đó, ở chỗ coi thường bản thân mình là những gì chúng ta vẫn coi trọng hơn tha nhân và coi trọng tha nhân, nhất là những người anh chị em hèn kém nhất của Chúa Kitô là thành phần thường bị xã nói nói chung và chúng ta nói riêng khinh thường, bao gồm nhất là những người anh chị em phạm đến chúng ta, khiến họ trở thành đối tượng bị chúng ta chẳng những khinh thường mà còn ghen ghét hận thù họ.

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô khuyên nhủ Kitô hữu thuộc Giáo đoàn Thessalonica, trong Thư Thứ 2, rằng: "hãy đứng vững, hãy nắm giữ truyền thống anh em đã học biết hoặc bằng lời giảng dạy, hoặc bằng thư từ chúng tôi đã viết", tức là những gì xuất phát từ mạc khải thần linh, và cũng là những gì tông truyền, tức được các vị tông đồ truyền lại, như trường hợp của Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô truyền lại cho các giáo đoàn dân ngoại, trong đó có giáo đoàn Thessalonica, nhờ đó, thành phần Kitô hữu sống giả hình lầm lạc như các luật sĩ và biệt phái trong Bài Phúc Âm hôm nay, mới có thể, như Thánh Phaolô khẳng định ở cuối bài đọc: "bền vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành".

Và cũng nhờ đó, họ mới có thể loan báo Vị Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho họ một cách xứng đáng và chính đáng, cho muôn dân và trước toàn thể địa cầu, như được Thánh Vịnh 95 ở Bài Đáp Ca hôm nay vang lên:

1) Hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người giữ vững địa cầu cho nó khỏi lung lay, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.

2) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan, biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên, đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. 

3) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành.


Thánh Louis IX vua nước Pháp
(1226-1270)

 

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã trả lời những người hỏi chị về con đường nhỏ thiêng liêng là con đường nào. Thánh nhân không ngần ngại trả lời :”…Đó là con đường thơ ấu thiêng liêng, đó là con đường của niềm tín thác và sống hoàn toàn tín thác. Con muốn chỉ cho họ những cách thế nho nhỏ rất thành công đối với con. Con sẽ bảo họ rằng ở trần gian này chỉ có một việc phải làm : hãy tặng Chúa Giêsu những bông hoa của các việc hy sinh nho nhỏ, hãy làm Chúa vui thích bằng những sự vuốt ve. Chính đó là cách con đã làm Chúa vui thích, và nhờ đó mà con luôn được Chúa đón nhận “. Các thánh là những con người đã biết tín thácnơi Chúa, đã biết trông cậy ở nơi Ngài thật nhiều, nên các Ngài nhận được nhiều. Thánh Luy, Vua nước Pháp cũng không nằm ngoài thông lệ ấy.

 

Khi đăng quang làm vua nước Pháp, Louis thề hứa sẽ sống như một người được Thiên Chúa xức dầu, đối xử với người dân như một hiền phụ và là tướng công của Vua Hòa Bình. Dĩ nhiên, các vua khác cũng phải thi hành như vậy. Nhưng Thánh Louis khác biệt ở chỗ ngài thực sự nhìn đến bổn phận làm vua dưới con mắt đức tin. Sau những xáo trộn của hai triều đại trước, ngài đã đem lại hoà bình và công bằng trong nước.

 

Vua Louis sinh ngày 25 tháng 4 năm 1214 tại Poissy, nước Pháp, con của vua Louis VIII và hoàng hậu Blanche ở Castile. Nhờ sống trong một gia đình đạo đức, cho dù Cha Mẹ của Ngài là Vua, là Hoàng Hậu nước Pháp. Sống trong cảnh giầu sang, phú quí và có quyền hành. Nhưng chính đời sống của Mẹ Ngài đã gây ấn tượng lớn lao trong đời sống của Luy. Mẹ Ngài đã uốn nắn, dậy bảo Luy bằng đời sống thánh thiện của bà. Thánh nhân đã được Mẹ gieo vào tâm hồn những mầm mống đạo đức, thánh thiện suốt cả đời niên thiếu. Đến lúc trưởng thành, vào đời, thánh nhân luôn luôn nhắc đi nhắc lại lời Mẹ nhắn nhủ, bảo ban :” Mẹ thà thấy con chết trước mặt Mẹ, còn hơn thấy con Mẹ phạm tội trọng”.

 

Ngài được tôn vương lúc 12 tuổi, khi cha ngài từ trần. Mẹ ngài cầm quyền trong thời gian khi ngài còn nhỏ. Năm 19 tuổi, thánh nhân kết hôn với Marguerite, con gái quận công miền Provence. Ðó là một hôn nhân hạnh phúc, bất kể tính tình kiêu căng và náo động của bà hoàng hậu. Hai ông bà sinh hạ cả thảy 11 người con. Với cương vị Vua lãnh đạo, trị vì nước Pháp, Luy luôn tỏ ra công chính, liêm khiết, ngay thẳng, hết mực thương dân chúng, đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Giáo Hội lên trên những lợi ích cá nhân và danh vọng riêng tư. Thánh nhân dù là Vua nhưng đời sống lại không khác gì một thầy Dòng khổ tu : sáng tham dự thánh lễ, đọc kinh nguyện, xưng tội và đánh tội mỗi tuần. Đời sống của Vua Luy thật sự là một đời sống tín thác, trông cậy và yêu mến Chúa. Để thể hiện lòng yêu mến, thánh nhân đã hiểu rõ lời Chúa trong Tin Mừng của thánh Matthêu 25,31-46, Ngài đã tìm dịp để giúp đỡ những kẻ nghèo, thăm viếng và nâng đỡ những người đau yếu tật nguyền.

 

Khi 30 tuổi, vua Louis “vác thập giá”. Thánh nhân đã lập Đạo Binh Thánh Giá đi chiến đấu với quân phá đạo ở Giêrusalem. Ðạo quân của ngài chiếm Damietta ở sông Nile nhưng sau đó không lâu, vì bệnh kiết lị và thiếu tiếp viện, họ bị bao vây và bị bắt. Vua Louis và đạo quân được trả tự do bằng cách giao lại thành phố Damietta và nộp một số tiền chuộc. Ngài ở lại Syria trong bốn năm. Ngài đã xây một đền thờ sau khi chinh chiến trở về để tôn kính mão gai Chúa Giêsu do Vua Constantin trao lại cho Ngài.

Mọi người thán phục ngài với tư cách của một thập tự quân, nhưng có lẽ công trạng lớn lao hơn của ngài là những lưu tâm về sự công bằng trong nền hành chính. Ngài đặt ra các quy tắc cho các viên chức chính quyền, mà sau đó trở thành những chuỗi luật cải tổ. Ngài thay thế hình thức xét xử đầy bạo lực bằng việc điều tra các nhân chứng, và nhờ ngài thúc giục, việc ghi chép lại các chi tiết trong toà được bắt đầu.

Vua Louis luôn luôn tôn trọng quyền bính của đức giáo hoàng, nhưng ngài bảo vệ quyền lợi của hoàng gia chống với các giáo hoàng và từ chối không công nhận bản án của Ðức Innôxentê IV chống với hoàng đế Frederick II.

Vua Louis là người tận tụy cho dân chúng, ngài thành lập các bệnh viện, thăm viếng người đau yếu, và cũng giống như quan thầy của ngài là Thánh Phanxicô, ngài chăm sóc ngay cả những người bị bệnh cùi. Bởi sự thánh thiện và cá tính của ngài, vua Louis đã đoàn kết nước Pháp thời bấy giờ, với đủ loại người — tướng công, dân thành thị, nông dân, linh mục và các hiệp sĩ. Trong nhiều năm, quốc gia này sống trong an bình.

Vào năm 1267, lo lắng vì những cuộc tấn công mới của người Hồi Giáo vào Syria, vua Louis dẫn đầu cuộc thập tự chinh khác, khi ấy ngài đã 41 tuổi. Năm 1270, thánh nhân còn thiết lập một Đạo Binh Thánh Giá mới để chống lại quân Hồi Giáo đang hung hăng tàn sát đạo. Tuy nhiên một cơn dịch nặng nề đã khiến Đạo Binh của Ngài tan rã và thánh Luy đã lâm trọng bệnh, trở về nhà Cha vào ngày 25 tháng 8 năm 1270.Chỉ trong vòng một tháng, đạo quân bị tiêu hao nhiều vì bệnh tật, và chính vua Louis đã từ trần ngày 25 tháng 8 năm 1270 tại Tunis, Algeria khi 44 tuổi.; thánh tích của ngài để tại nhà Saint Denis, Paris, nước Pháp; bị tiêu hủy năm 1793 trong thời cách mạng Pháp. Hai mươi bảy năm sau, ngài được Đức Giáo Hoàng Bonifacius VIII phong thánh năm 1297.

Thánh Louis là người có ý chí mạnh mẽ và kiên quyết. Lời của ngài thực sự đáng tin, và sự can trường của ngài thật đáng kể. Ðiều đặc biệt nhất là ngài tôn trọng bất cứ ai mà ngài gặp, nhất là những “người bé mọn của Thiên Chúa.” Ðể chăm sóc dân chúng, ngài xây dựng nhà thờ, thư viện, nhà thương và cô nhi viện. Ngài cũng đối xử với các hoàng tử một cách thành thật và công bằng. Ngài hy vọng cũng sẽ được đối xử tương tự bởi Vua các vua, là Người mà ngài đã dâng hiến cuộc đời, gia đình và quê hương.

Chúa mời gọi mọi người nên thánh. Đường nên thánh không chỉ dành riêng cho giới tu sĩ được đặc tuyển, nhưng con đường nên thánh dành cho mọi người. Từ thứ dân đến Vua Chúa thế trần đều được Chúa mời gọi sống thánh thiện và trở nên thánh. Thánh Luy IX, Vua nước Pháp đã cậy trông nơi Chúa hết lòng, nên Ngài cũng được Chúa cho lãnh nhận thật nhiều những ơn huệ cao quí. Thánh nhân đã lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa: Hoàng Hậu và các con của Ngài quả thực là những tặng phẩm cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho Ngài để Ngài làm vinh danh Chúa và cứu vớt các linh hồn.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, tổng hợp từ website dòng tên và cộng đoàn dũng lạc

 

Thứ Tư

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 Tx 3, 6-10. 16-18

"Nếu ai không muốn làm việc, thì đừng có ăn".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, nhân danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, chúng tôi truyền cho anh em hãy lánh xa khỏi bất cứ người anh em nào sống lười biếng, không theo truyền thống đã nhận lãnh nơi chúng tôi. Vì chưng, chính anh em biết phải noi gương chúng tôi thể nào, bởi chúng tôi đã không lười biếng lúc ở giữa anh em, cũng không ăn bám của ai, nhưng chúng tôi làm lụng khó nhọc vất vả đêm ngày, để không trở nên gánh nặng cho người nào trong anh em. Không phải chúng tôi không có quyền, nhưng là để nêu gương cho anh em, để anh em bắt chước chúng tôi. Bởi vì khi chúng tôi còn ở với anh em, chúng tôi đã truyền dạy anh em rằng: "Nếu ai không muốn làm việc, thì đừng có ăn".

Nguyện xin Chúa bình an ban cho anh em được bình an luôn mãi trong mọi nơi. Xin Chúa ở cùng tất cả anh em. Chính tay Phaolô này viết lời chào anh em: đó là dấu riêng trong các thư tôi gửi: Tôi viết như vậy đó. Nguyện chúc ân sủng của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu Kitô, ở cùng tất cả anh em! Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 4-5

Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa (c. 1a).

Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.

2) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con. - Ðáp.

 

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 27-32

"Các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: vì các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi thứ dơ nhớp. Các ngươi cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác. Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công chính, và các ngươi nói rằng: "Nếu chúng tôi sống thời cha ông chúng tôi, ắt chúng tôi không thông đồng với các ngài trong việc đổ máu các tiên tri". Vì thế, các ngươi tự chứng thực các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri. Vậy các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi".

Ðó là lời Chúa.

Scholars Now Believe Jesus Called Pharisees 'Dog-Faced Pony ...

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Cảnh giác thành phần tố đầu hở đuôi

 

 

Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXI Thường Niên, Giáo Hội tiếp tục bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu liên quan đến thành phần sư phụ trong dân Do Thái là luật sĩ và biệt phái, như trong 2 bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia. 

Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục khiển trách hai thành phần sư phụ trong dân này về thái độ giả hình chính yếu của họ, bề ngoài có vẻ đạo mạo tốt lành còn bề trong thì xấu xa ghê tởm, và bề ngoài có vẻ ta đây tốt lành chứ không giống như cha ông của mình đã từng sống bê bối tồi tàn.

Trước hết, về thái độ giả hình chính yếu của họ, bề ngoài có vẻ đạo mạo tốt lành còn bề trong thì xấu xa ghê tởm:

"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: vì các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi thứ dơ nhớp. Các ngươi cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác".  

Đúng thế, "các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác", ở chỗ họ chủ trương công chính là tuân giữ trọn vẹn lề luật, nhưng một cách vị luật hơn là vị nhân, nghĩa là thà giữ luật hơn là làm lành và cứu giúp tha nhân khi cần trong ngày hưu lễ (xem Mathêu 12:10-12), như có bao nhiêu lần họ đã cự lại Chúa Giêsu vì Người đã chữa lành trong ngày hưu lễ. Bởi thế, đã có lần Người đã nhắc nhở họ rằng: "Hãy đi mà học ý nghĩa của câu 'Ta muốn tình thương chứ không phải tế vật'" (Mathêu 9:13;12:7). 

Họ đã chẳng coi lễ vật hơn tình thương là gì, đúng như giáo huấn và chủ trương lệch lạc của họ ở trong hai bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia về việc coi thường cái trọng và coi trọng cái thường, coi thường cái chính và coi trọng cái phụ. Họ quả thực đã không nắm bắt được nguyên tắc và mục đích của luật lệ họ nắm giữ đó là "ngày hưu lễ được thiết lập vì con người hơn là con người vì ngày hưu lễ" (Marco 2:27).

Sau nữa, về thái độ giả hình có vẻ ta đây tốt lành chứ không giống như cha ông của mình đã từng sống bê bối tồi tàn trong quá khứ:

"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công chính, và các ngươi nói rằng: 'Nếu chúng tôi sống thời cha ông chúng tôi, ắt chúng tôi không thông đồng với các ngài trong việc đổ máu các tiên tri'. Vì thế, các ngươi tự chứng thực các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri. Vậy các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi".

Thật vậy, "các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi", ở chỗ họ là hậu sinh của cha ông họ đã đích thân tố cáo tội lỗi của cha ông họ trong việc cha ông họ sát hại các tiên tri và những người công chính được Thiên Chúa sai đến với dân tộc họ trong giòng lịch sử cứu độ của họ. 

Và họ đã đích thân tố cáo tội lỗi cha ông của họ, đã "đong cho đầy đấu của cha ông" họ, bằng cách đã "xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công chính" là thành phần bị cha ông họ bách hại và sát hại. Thế nhưng, như Chúa Giêsu cho biết, chính việc làm này của họ lại tố cáo họ "là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri", chứ chẳng hơn gì cha ông của họ, một giòng dõi còn phạm tội nặng hơn cha ông mình nữa khi tìm cách sát hại chính Con Thiên Chúa làm người là bản thân Người, Đấng Thiên Sai của họ. 

 

 

Nếu thành phần luật sĩ và biệt phái trong Bài Phúc Âm hôm nay sống giả hình ở chỗ họ làm như họ ngon lành hơn cha ông của họ, trong việc họ không chịu trách nhiệm về tội giết các tiên tri của các vị, nhưng không ngờ, chính vì họ chối bỏ mà họ lại chất thêm trách nhiệm cho cha ông của họ, ở chỗ, cha ông của họ phải gánh chịu hết những gì các vị đã gây ra, không mắc mớ gì tới họ là những kẻ khôn ngoan và công chính hơn các vị nhiều, và như thế, họ không muốn chia sẻ trách nhiệm chung đó với các vị, vì họ chẳng những không hơn gì các vị, thậm chí còn sát hại chính Chúa Kitô là vị đại tiên tri của họ nữa. Và đó là lý do mới có lời khuyên của Thánh Phaolô, một Saolê biệt phái nhiệt thành ngày xưa, ngỏ cùng Kitô hữu giáo đoàn Thessanolica trong Thư Thứ 2, ở Bài Đọc 1 hôm nay rằng: "không trở nên gánh nặng cho người nào".

 

Và cũng chính vì thế mà Thánh Vịnh 127 mới khen tặng những ai tôn sợ Chúa, vì chỉ có kẻ nào tôn sợ Chúa mới tìm kiếm Chúa và sống công chính theo ý muốn cùng đường lối của Ngài, như được Bài Đáp Ca hôm nay cảm nhận và nguyện cầu như sau:

1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.

2) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con.

 


Thứ Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 1, 1-9

"Trong mọi sự, anh em hãy nên giàu có trong Người".

Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Phaolô, do thánh ý Chúa, được kêu gọi làm Tông đồ của Chúa Giêsu Kitô, và Sôtênê, anh em chúng tôi, kính chào Hội Thánh Chúa ở Côrintô, những người được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi nên thánh, làm một với tất cả mọi người khắp nơi đang kêu cầu thánh danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: Nguyện xin ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô, ở cùng anh em.

Tôi hằng cảm tạ Chúa thay cho anh em, vì ơn đã ban cho anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Vì chưng, trong Người, anh em được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ và ơn hiểu biết, đúng như Chúa Kitô đã minh chứng nơi anh em, khiến anh em không còn thiếu ơn nào nữa trong khi mong chờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta tỏ mình ra. Cũng chính Người sẽ ban cho anh em bền vững đến cùng, không có gì đáng khiển trách trong ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến. Thiên Chúa là Ðấng Trung Tín, đã kêu mời anh em hiệp nhất với Con của Người, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời (c. 1b).

Xướng: 1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời, Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.

2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.

3) Người ta nói tới quyền năng trong những việc đáng sợ, và kể ra sự vĩ đại của Ngài. Người ta lớn tiếng khen ngợi lòng nhân hậu bao la, và hân hoan vì đức công minh của Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Cl 3, 16a và 17c

Alleluia, alleluia! - Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em; anh em hãy nhờ Ðức Kitô mà tạ ơn Thiên Chúa Cha. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 24, 42-51

"Các con hãy sẵn sàng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.

"Vậy các con nghĩ ai là đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ? Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ nó đến thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người ấy lên coi sóc tất cả gia sản ông. Nhưng nếu đầy tớ ấy xấu, nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", rồi nó đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa: chủ đầy tớ ấy trở về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ xé xác nó ra, và cho nó chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".

Ðó là lời Chúa. 

Wave of light' expected tonight | Bailiwick Express

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Cảnh giác thành phần đầy tớ vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm


Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Năm Tuần XXI Thường Niên hôm nay, những ngày cuối cùng của tuần cuối cùng theo Phúc Âm Thánh Mathêu cho ngày thường trong tuần, bao gồm những câu cuối của đoạn 24, đoạn mà phần trên nói về ngày tận thế, một sự kiện cánh chung Giáo Hội chưa muốn nhắc đến ở đây và vào thời điểm phụng vụ giữa mùa thường niên này, mà là ở vào tuần lễ cuối cùng của phụng niên là tuần thứ 34, với các bài Phúc Âm của Thánh ký Luca đoạn 21, cho 3 ngày Thứ Ba, Thứ Tư và Thứ Năm trong tuần lễ cuối cùng này. 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu không còn nói với cả dân chúng lẫn các môn đệ của Người nữa, như 4 bài Phúc Âm trước đây, về thành phần thày dạy trong dân là luật sĩ và biệt phái, mà nói riêng với các môn đệ của Người về chính phận sự phục vụ của các vị trong việc "coi sóc gia nhân để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ?" như là những người "đầy tớ trung tín và khôn ngoan" được chủ đã tuyển chọn. 

Thật vậy, các môn đệ của Chúa Kitô đã được Người tuyển chọn để phục vụ Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người để "phân phát lương thực" là Lời Chúa và Bí Tích Thánh, nhất là Bí Tích Thánh Thể để đáp ứng nhu cầu sống đức tin của Kitô hữu là thành phần "gia nhân" thuộc nhiệm thể Giáo Hội.

Trong câu "coi sóc gia nhân để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ?" này của Chúa Giêsu ở bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy bao gồm 3 sứ vụ hay chức năng chính yếu của hàng giáo phẩm trong Giáo Hội là thành phần thừa kế các tông đồ: 1- "coi sóc": vai trò quản trị của hàng giáo phẩm nói chung và của từng vị giám mục ở địa phương nói riêng, 2- "phân phát": vai trò giảng dạy ("phân phát" Lời Chúa) và 3- thánh hóa (ban phát Bí Tích).

Những vị nào chu toàn 3 sứ vụ chính yếu này của mình thì là những người "đầy tớ trung tín và khôn ngoan", bằng không, họ là những người đầy tớ bất trung và bất khôn. 

Nếu thành phần "đầy tớ trung tín và khôn ngoanđược chủ tưởng thưởng ở chỗ: "đặt người ấy lên coi sóc tất cả gia sản ông" thì thành phần đầy tớ bất trung (với phận sự phục vụ chính yếu của mình) và bất khôn (vì hưởng thụ hơn phục vụ theo gương chủ là Đấng đã tuyển chọn mình), họ sẽ bị trừng phạt xứng đáng, như Chúa Giêsu nói đến ở cuối bài Phúc Âm:

"Nếu đầy tớ ấy xấu, nghĩ trong lòng rằng: 'Chủ tôi về muộn', rồi nó đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa: chủ đầy tớ ấy trở về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ xé xác nó ra, và cho nó chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".

Trong câu cảnh giác về thành phần đầy tớ bất trung và bất khôn này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy hình như vẫn còn lảng vảng đâu đây hình ảnh của thành phần thày dạy trong dân Do Thái là luật sĩ và biệt phái, khi Người bao gồm cụm từ: "chung số phận với những kẻ giả hình", thành phần mới bị Người thậm tệ quở trách trong 3 bài Phúc Âm đầu tuần này. 

Đáng lẽ đoạn nói về hạng sư phụ luật sĩ và biệt phái này ở đoạn 23 của Phúc Âm Thánh Mathêu còn được tiếp tục 6 câu nữa, từ câu 33 đến hết câu 39, nhưng Giáo Hội đã không chọn đọc, trong đó, Chúa Giêsu đã sử dụng đến những từ ngữ kinh hoàng chưa từng thấy liên quan đến hậu quả vô cùng khủng khiếp gây ra bởi cuộc đời giả hình mù quáng của họ: "Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục ch?" (Mathêu 23:33). 


Bởi vậy, ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ các môn đệ của Người, cũng như những ai được Thiên Chúa tuyển chọn đóng vai trò thừa kế các tông đồ là các vị giám mục (kể cả các vị linh mục được giám mục truyền chức để thi hành thừa tác vụ thay giám mục và với giám mục) như một đầy tớ phục vụ cộng đồng Giáo Hội mà không sống trọn thánh chức của mình rằng: 

 

"Các con hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến".

"Tỉnh thức" ở đây là ở chỗ sống đức tin hơn là sống theo tự nhiên, hứng thì làm không hứng thì bỏ, lúc sốt sắng thì làm cẩn thận, làm một cách có hồn còn lúc khô khan thì làm như cái máy, buông bỏ được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu, chưa kể gây ra những gương mù gương xấu khác, như đã và đang giết chiên  ăn thịt (lạm dụng tình dục trẻ em), hay trường hợp cưỡi lên chiên bằng đời sống xa xỉ sang trọng, và trường hợp các vị giành đất chiếm lấy chiên của nhau, hoặc trường hợp nấp bóng chiên để chống đối hay bất tuân giáo quyền của mình v.v.

Thay vì họ phải là thành phần "đi trước chiên và chiên theo họ" (Gioan 10:4), trong việc làm gương sáng và biết trước nhu cầu của chiên và đáp ứng, sẵn sàng hy sinh cho chiên, thì lại rụt rè đi sau chiên, sẵn sàng bỏ chiên mà chạy lấy thân khi vừa thấy sói xuất hiện, khi vừa thấy những gì bất lợi cho bản thân mình, nên họ chẳng bao giờ có thể nói như Chúa Kitô rằng: "Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi" (Gioan 10:27).

 

 

Có thể nói "Người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ" đây là vị tông đồ dân ngoại "Phaolô, do thánh ý Chúa, được kêu gọi làm Tông đồ của Chúa Giêsu Kitô", vị ngài hằng quan tâm đến lợi ích thiêng liêng của các giáo đoàn được ngài thành lập, ở chỗ, luôn cầu "xin ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô, ở cùng anh em", và "hằng cảm tạ Chúa thay cho anh em", cùng nhắc nhở họ sống ơn gọi "hiệp nhất với Con của Người, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".

 

Đúng thế, "Người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân", phải là con người đầu tiên "hiệp nhất với Con của Người, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta", thì lúc nào họ cũng ở với chủ, và chủ ở với họ, họ liên lỉ tri ân cảm tạ Ngài, chúc tụng ngợi khen Ngài và làm cho Ngài được nhận biết, qua ngôn hành xứng hợp của họ, như những gì được chất chứa trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời, Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được.

2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa.

3) Người ta nói tới quyền năng trong những việc đáng sợ, và kể ra sự vĩ đại của Ngài. Người ta lớn tiếng khen ngợi lòng nhân hậu bao la, và hân hoan vì đức công minh của Chúa.

 

 

 

 

THÁNH MONICA, MỘT BÀ MẸ THÁNH KIÊN TRÌ VÀ CAN ĐẢM
Kính ngày 27-8, Bổn Mạng Các Bà Mẹ

August 27 - Saint Monica — The Augustinians

 

Thánh Monica sinh vào năm 332 tại một thành phố nhỏ thuộc vùng Bắc Phi. Tại quê hương của Ngài lúc đó vẫn còn rất nhiều người ngoại giáo, và các Ki-tô hữu ở đây chỉ là một nhóm nhỏ. Thật hạnh phúc cho Monica vì cha mẹ của Ngài là những Ki-tô hữu thánh thiện.

Khi Monica đến tuổi trưởng thành, cô đã được gả cho một viên chức trong thành phố tên là Patrik. Nhưng Patrik lại là người ngoại. Việc một nữ Ki-tô hữu kết hôn với một người ngoại là điều không mấy phổ biến hồi ấy, vì các Ki-tô hữu thời ấy thường chỉ kết hôn với nhau chứ không bao giờ có những cuộc hôn nhân hỗn hợp giữa người Ki-tô hữu và người ngoại giáo. Nhưng dẫu vậy thì trường hợp của Monica cũng có thể giải thích được. Tại quê của Ngài lúc đó có rất ít các Ki-tô hữu, nên cô gái Monica hầu như không có chọn lựa nào khác ngoài việc phải kết hôn với một người ngoại. Nhưng sự chọn lựa này đã trở thành nguyên cớ để sau này Monica phải hối tiếc với rất nhiều nước mắt, vì chồng của bà rất dễ dàng nảy đóa. Và với tư cách là người ngoại đạo, ông ta không hề biết đến giới luật Ki-tô giáo, nên ông ta rất dễ dàng cáu tức với những sự việc dù đó là những điều nhỏ nhoi nhất. Ông ta thường xuyên đánh đập vợ mình. Đó là một nỗi cay nghiệt đối với Monica, nhưng Monica coi Thánh Giá này còn nhẹ hơn cả nỗi khổ đau khác mà một người mẹ Ki-tô hữu phải mang, đó là việc trong số những đứa con của bà, có một kẻ vô cùng mất dậy.

Monica có ba người con, hai cậu con trai và một cô con gái. Ngay từ lúc Thánh Monica còn sinh thời, cô con gái này đã là ánh sáng mặt trời đối với Bà. Cậu con thứ của Bà cũng rất ngoan ngoãn và tốt lành. Nhưng đứa con trai cả của bà tên là Augustinô thì lại là một kẻ lười biếng thực thụ.

Dù là kẻ biếng nhác đúng nghĩa, nhưng Augustinô lại luôn mang về nhà những kết quả tốt đẹp trong việc học tập. Tuy vậy, bà Monica vẫn phải thường xuyên nghe các thầy cô giáo than phiền về đứa con trai của bà, vì đứa con này thường xuyên trốn học, thiếu tập trung trong lớp, hay nói leo và thường xuyên kích động bạn bè. Người mẹ tội nghiệp Monica không thể cãi được bất cứ một lời nào trước những than phiền đó, vì bà biết rất rõ rằng, những lời than phiền đó quá thực. Chưa hết, Augustinô còn thường xuyên nói dối mẹ mình. Đã vậy, anh ta còn đánh cắp nhiều đồ đạc của mẹ. Không chỉ thiếu vâng lời với mẹ, Augustinô còn tỏ ra là một đứa con ngỗ nghịch và bướng bỉnh theo đúng nghĩa đen nữa.

Monica còn phải đối diện với một chuyện tồi tệ hơn, vì khi Augustinô tới tuổi trưởng thành, anh đã sa vào nhóm những đồng nghiệp xấu. Ngay lập tức toàn thành phố xì xèo về anh, và vì thế mẹ anh đã cảm thấy vô cùng xấu hổ và mất mặt, bởi con của bà là một đứa con đồi bại. Nhưng Augustinô còn tỏ ra tai quái và khốn nạn ở chỗ là, vì sự cuồng vọng, anh không ngừng khoe khoang về những hành vi đáng xấu hổ của mình, và anh muốn chứng tỏ với mọi người rằng, anh là kẻ đồi bại nhất trong nhóm những người bạn vốn đã vô cùng xấu xa của anh.

Hồi đó, bà Monica thường xuyên nhắc nhở đứa con trai ngỗ ngược của bà phải làm điều lành, phải sống nghiêm túc và tốt lành, nhưng Augustinô chỉ phản ứng lại với một cái nhún vai trước những lời trách móc đầy từ mẫu của mẹ. Và khi Augustinô coi những lời nhắc nhở của mẹ là sự quấy nhiễu càng ngày càng quá sức chịu đựng đối với mình, anh đã trốn khỏi nhà. Vào năm 370, Augustinô đã trốn nhà và đi đến Carthago, tức Tunisie ngày ngay. Sau đó anh đi tới Rô-ma và tới Milan.

Từ khi Augustinô trốn nhà ra đi, cuộc đời của Thánh Monica không còn có điều chi đặc biệt ngoài việc dành trọn thời gian để cầu nguyện cho đứa con ngỗ ngược đó. Trong lúc cầu nguyện, nước mắt đắng cay của bà không ngừng tuôn rơi, và chỉ mong sao đứa con trai cả của mình mau sám hối quay về. Càng không thấy Augustinô quay về, bà càng cầu nguyện thiết tha hơn cũng như càng than khóc nhiều hơn, đến độ một lần kia vị Giám mục Giáo phận đã phải an ủi và nói với bà rằng:

Này bà mẹ Monica! Giờ của Chúa chưa điểm đối với con bà. Bà hãy tiếp tục cầu nguyện cho nó và hãy tin tưởng hy vọng, vì một đứa con của quá nhiều nước mắt và lời cầu nguyện sẽ không thể hư đi mất.

Vị Giám Mục trên đã có lý. Tuy nhiên, Thánh Monica đã phải mất tới 18 năm trời để khóc và cầu nguyện cho con trai của bà. Thiên Chúa đã để cho bà phải chờ đợi trong cầu nguyện và nước mắt suốt 18 năm trời rồi Ngài mới chấp nhận chịu thua trước sức tấn công như vũ bão của bà. 

Cuối cùng, những lời cầu nguyện đầy tin tưởng và tín tác trong một cách thức quá ư tuyệt hảo của người mẹ này đã được lắng nghe. Vào năm 385, khi biết được Augustinô đang ở Milan, bà đã đến đó để cùng đồng hành với con. Dưới sự ảnh hưởng tích cực của Thánh Ambrosiô Giám Mục Milan hồi đó, Augustinô đã trở lại và xin lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy. Vào ngày 15 tháng 08 năm 386, Augustinô đã được lãnh nhận các Bí Tích khai tâm Ki-tô giáo từ chính tay Đức Giám Mục Ambrosiô. Augustinô đã tỏ ra hoán cải một cách thực sự cũng như đã hoán cải một cách hoàn toàn, đến độ Ngài đã trở thành một vị đại Thánh. Có thể nói được rằng, nếu không nhờ vào lời cầu nguyện liên lỷ và kiên tâm của Thánh Nữ Monica thì cuộc trở lại của Augustinô, trong chừng mực nào đó, hầu như đã không xảy ra. Sau khi đạt được ước nguyện với việc trở lại của con trai mình, vào Lễ Phục Sinh năm 387, Thánh Monica đã lên đường trở về quê hương với sự đồng hành của chính Augustinô. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 387 khi vừa mới chỉ đến được thành phố cảng Ostia của Ý, Thánh Nữ Monica đã bị lên cơn sốt và qua đời ở đó. Thánh Nữ đã qua đời trước niềm vui bởi ước nguyện lớn nhất của đời bà đã xảy ra trước đó không lâu: bà đã được tận mắt chứng kiến cảnh đứa con trai cả của mình hoán cải và làm hòa với Thiên Chúa. Và việc đứa con mà bà đã phải vô cùng lo lắng và chăm lo cho nó, giờ đây đã trở thành một vị Thánh, đó chính là một niềm hạnh phúc không gì sánh bằng đối với bà, vì đối với một người Mẹ, không có vinh dự nào lớn lao nơi Thiên Chúa và nơi con người cho bằng việc bà có một đứa con thánh thiện.Tất cả những gì tôi là, tôi đều phải biết ơn Mẹ tôi” – Thánh Augustinô đã thừa nhận một cách công khai như thế. Và đó cũng là lời khen tuyệt vời nhất mà một người con trai có thể dâng lên người mẹ tuyệt trần của mình!

Sau khi Thánh Nữ Monica qua đời, con trai của bà là Augustinô đã an táng Thân Mẫu mình ngay tại nơi bà qua đời, tức tại thành phố cảng Ostia của Ý.

Vào năm 1162, các Thánh Tích của Thánh Monica đã được cung nghinh tới Arras thuộc khu vực miền Bắc nước Pháp. Kể từ đó việc tôn kính Thánh Nữ Monica mới được lan rộng. Vào năm 1430, Đức Thánh Cha Martin V đã ra lệnh cung nghinh các Thánh Cốt của Thánh Monica từ Ostia về Rô-ma, và đặt các Thánh Cốt đó trong một nhà thờ được gọi tên theo tên của con trai bà, đó là nhà thờ S. Agostino tại Rô-ma.

Vào năm 1945 người ta đã phát hiện ra một phần di tích của ngôi mộ Thánh Monica tại Ostia.

Từ thế kỷ thứ XIII tới năm 1969, Thánh Monica được Giáo hội cử hành Lễ mừng vào ngày mồng 04 tháng 05. Nhưng kể từ cuộc cải tổ lịch Phụng Vụ vào năm 1969, Lễ kính Thánh Monica được dời sang ngày 27 tháng 08, ngay ngày hôm trước Lễ kính Thánh Augustinô, con trai của Bà. Giáo hội Công giáo mừng kính Thánh Nữ Monica với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III. Và Giáo đặt Thánh Monica làm Nữ Bổn Mạng của giới phụ nữ cũng như của các bà mẹ Công giáo.

Lm. Đa-minh Thiệu

https://daminhtamhiep.net/2016/08/thanh-monica/

 

Bài đọc 2

Ta hãy tìm cách đạt tới sự khôn ngoan vĩnh cửu

Trích sách Tự thuật của thánh Âu-tinh, giám mục.

Hôm ấy, gần tới ngày mẹ con ra khỏi đời này -ngày mà Chúa biết rõ, còn chúng con thì không-, đã xảy ra một chuyện mà bây giờ con tin là đã do Chúa sắp đặt theo đường lối nhiệm mầu của Chúa : lúc đó chỉ có hai mẹ con chúng con đứng tựa cửa sổ quay ra thửa vườn bên cạnh ngôi nhà chúng con đang ở, gần Ốt-ti-a, bên bờ sông Ti-be. Nơi đây xa chỗ đông người, chúng con muốn nghỉ ngơi cho khoẻ lại sau những ngày đường xa mệt nhọc, hầu có thể lên tàu tiếp tục chuyến đi. Chỉ có hai mẹ con chúng con trò chuyện rất thân mật. Chúng con muốn quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước. Đứng trước Chân Lý là chính Chúa, chúng con cùng nhau tìm hiểu xem cuộc sống vĩnh cửu của các thánh sẽ ra sao, cuộc sống mà mắt không hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới. Chúng con nao nức mở rộng tâm hồn hớp lấy những dòng nước từ trời cao đổ xuống, nước suối nguồn của Chúa, suối ban sự sống bắt nguồn từ nơi Chúa.

Con đã nói những điều như trên đây, cho dầu cách nói có khác, từ dùng có khác. Nhưng lạy Chúa, Chúa biết là hôm ấy, đang khi chúng con nói với nhau những chuyện như thế, và đúng lúc thế gian này cùng với tất cả những khoái lạc của nó không còn chút giá trị gì nữa đối với chúng con qua những lời chúng con trao qua đổi lại, thì mẹ con nói : “Con ơi, riêng phần mẹ, mẹ chẳng còn lấy chi làm vui thích trên trần gian này nữa, chẳng còn biết làm gì nơi đây, cũng chẳng biết còn lý do nào mà ở lại đây. Mẹ chẳng còn trông mong gì trên đời này nữa. Trước đây, lý do duy nhất khiến mẹ ước mong được nán lại thêm một chút trong cuộc sống này là để nhìn thấy con thành một Ki-tô hữu trong Hội Thánh Công Giáo trước khi mẹ nhắm mắt lìa đời. Thiên Chúa đã ban cho mẹ quá lòng mẹ mong ước : mẹ còn đang được thấy con khinh chê hạnh phúc trần gian mà làm tôi tớ phụng sự Người. Bây giờ mẹ ở đây làm gì nữa ?”

Con cũng chẳng nhớ rõ đã trả lời mẹ con thế nào, nhưng hơn kém năm ngày sau thì mẹ con ngã bệnh. Người bị sốt rét. Trong cơn bệnh ấy, một ngày kia, có lúc người bị ngất đi trong giây lát, không còn biết có ai đứng xung quanh nữa. Chúng con chạy cả lại, nhưng người hồi tỉnh ngay. Thấy hai anh em con đứng bên, người lên tiếng nói như thể đang tìm kiếm một cái gì : “Hồi nãy mẹ ở đâu thế ?”

Rồi thấy chúng con đứng chết lặng vì buồn phiền, người bảo : “Chôn cất mẹ ở đây, chúng con nhé !” Con nín thinh và cố cầm nước mắt. Em con thì nói câu gì đó tỏ ý ước mong mẹ con đừng bỏ thân nơi đất khách quê người, nhưng nên nhắm mắt tại quê hương xứ sở. Được như vậy thì hạnh phúc hơn. Nghe thấy thế, nét mặt lo âu, người nhìn em con, trách chú ấy sao lại thích những chuyện như vậy. Rồi người nhìn con mà bảo : “Con xem nó nói gì vậy ?” Lát sau, người bảo cả hai chúng con : “Xác này, cứ chôn chỗ nào cũng được. Đừng bận tâm lo lắng gì chuyện đó. Mẹ chỉ xin hai con một điều, là dù chúng con ở đâu, thì cũng nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa.” Sau khi đã cố tìm lời giải thích điều đó, người im tiếng luôn và chịu đau đớn nhiều vì cơn bệnh trở nên trầm trọng.

 

 

Thứ Sáu

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 1, 17-25

"Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm đối với người đời, nhưng là sự khôn ngoan đối với những người Thiên Chúa kêu gọi".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, Ðức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Ðức Kitô ra hư không.

Vì chưng lời rao giảng về thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ hư mất; nhưng đối với những người được cứu độ là chúng ta, thì điều đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì như đã chép rằng: "Ta sẽ phá huỷ sự khôn ngoan của những kẻ khôn ngoan, sẽ chê bỏ sự thông sáng của những người thông sáng". Người khôn ngoan ở đâu? Người trí thức ở đâu? Người lý sự đời này ở đâu? Nào Thiên Chúa chẳng làm cho sự khôn ngoan của thế gian này trở nên ngu dại sao? Vì khi thế gian tự phụ là khôn, không theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà nhận biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã muốn dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu độ những kẻ tin. Vì chưng, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo, nhưng đối với những người được kêu gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 1-2. 4-5. 10ab và 11

Ðáp: Ðịa cầu đầy ân sủng của Chúa (c. 5b).

Xướng: 1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. - Ðáp.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng của Chúa. - Ðáp.

3) Chúa phá tan ý định của các nước, làm cho vô hiệu tư tưởng của chư dân. Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Tx 2, 13

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy đón nhận lời Chúa, không phải như lời của loài người, mà là như lời của Thiên Chúa, và đích thực là thế. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 25, 1-13

"Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.

"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn". Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi". Vậy hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào".

Ðó là lời Chúa.

The Parable of the Ten Virgins – St. John and Trinity Lutheran Parishh e a d j a n i t o r: the ten virgins

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Nửa Đêm Nghênh Đón

 

 

 

Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Sáu Tuần XXI Thường Niên hôm nay, cũng như cho ngày mai, ở đoạn 25 của Thánh ký Mathêu, nhưng không bao gồm phần cuối của đoạn này về sự kiện chung thẩm, mà chỉ liên quan đến 2 dụ ngôn cuối cùng liên quan đến thời cánh chung của Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu


Sở dĩ 2 dụ ngôn cuối cùng trong bài Phúc Âm hôm nay và ngày mai có thể nói và dám nói là liên quan đến mầu nhiệm cánh chung là vì, theo cấu trúc và diễn tiến của Phúc Âm Thánh ký Mathêu, thì chẳng những đoạn 24 ngay trước đó là đoạn Phúc Âm về ngày tận thế, mà phần cuối của đoạn 25 ngay sau 2 dụ ngôn này là cảnh chung thẩm. 

 


Thật thế, một trong 2 dụ ngôn cánh chung ấy là dụ ngôn về "10 trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rểở trong bài Phúc Âm cho Th Sáu Tuần XXI Thường Niên hôm nay, nhưng "trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả. Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: 'Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả'. Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: 'E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn'".


Trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, muốn hiểu được phần nào ý nghĩa của dụ ngôn này, cần phải tìm hiểu ý nghĩa của ít là 4 hình ảnh ẩn dụ sau đây: trinh nữ đón (1), chàng rể đến (2), tiếng hô to (3), và dầu đốt đèn (4)


1- Trinh nữ đón"Trinh nữ" đây ám chỉ ai, nếu không phải là Kitô hữu, vì họ là thành phần nhờ phép rửa đã được nên tinh tuyền và thánh hiến cho Chúa Kitô (xem Epheso 5:26-27). Có bản dịch là "phù dâu", cũng không sai, ở chỗ, ám chỉ thành phần tu sĩ và giáo sĩ, thành phần nhờ đời sống thánh hiến càng làm đẹp thêm cho cô dâu. Trong 10 cô này có 5 cô khôn và 5 cô dại, và khôn hay dại nơi các cô là ở chỗ có mang theo đèn và cả dầu nữa hay chăng. Chúng ta sẽ suy diễn về đèn và dầu sau, ở chi tiết thứ 4 cuối cùng.


2- Chàng r đến: Thời điểm chàng rể tới chính vào lúc "nửa đêm", chứ không phải giữa thanh thiên bạch nhật ban ngày. Nghĩa là chàng rể đến vào lúc người ta buồn ngủ nhất về tâm linh và đen tối nhất về môi sinhĐến độ, không phải chỉ có các cô khờ dại mới gục ngủ mà cả những cô trinh nữ khôn ngoan cũng thiếp ngủ nữa: "Thật vậy, nếu giai đoạn ấy không được rút ngắn lại thì không một con người nào được cứu độ" (Mathêu 24:22).

 

 

Tức là vào lúc Chúa đến lần thứ hai "không biết có còn đức tin trên thế gian này nữa hay chăng?" (Luca 18:8), một thời điểm "vì sự dữ gia tăng mà lòng người hầu hết trở nên nguội lạnh" (Mathêu 24:12), một thời điểm đầy như tối tăm gian dối nơi hiện tượng tiên tri giả và kitô giả đánh lừa được nhiều người (xem Mathêu 24:24).


3- Tiếng hô to: Thời điểm chàng rể đến chẳng những vào "nửa đêm" mà còn được kèm theo bằng một "tiếng hô to" nữa. Vậy thì "tiếng hô to" này xuất phát từ đâu, hay ai là người đã phát ra "tiếng hô toấy? Nếu Giáo Hội là cô dâu, chàng rể là Chúa Kitô, và thành phần trinh nữ là Kitô hữu, hay thành phần phù dâu là tu sĩ giáo sĩ, thì ai là người đã vang lên "tiếng hô to" ấy, nếu không phải là chính Đức Mẹ Maria.

 

 

Thật vậy, "tiếng hô to" ấy đã xuất phát từ Mẹ Maria qua những lần Mẹ hiện ra đây đó, đặc biệt nhất và "to" nhất là vào lần Mẹ hiện ra ở Linh Địa Fatima năm 1917, trong giai đoạn thế giới của thành phần "trinh nữ" Kitô giáo bị khủng hoảng đức tin hơn bao giờ hết, đến độ đã đi đến chỗ mất hết đức ái, và dữ dội sát hại nhau bằng các trận thế chiến ở tiền bán thế kỷ 20, cũng như bằng nạn diệt chủng phá thai và nạn ly dị ở hậu bán thế kỷ 20, những hiện tượng quái gở chưa từng có trong lịch sử loài người nơi một thế giới Tây phương càng văn minh con người càng bạo loạn và càng trở thành trung tâm của nền văn hóa chết chóc ti tăm.


4- Dầu đốt đèn: Nếu đèn ám chỉ đức tin, và ngọn lửa cháy sáng nơi cây đèn ám chỉ đức mến, thì dầu đèn đây có thể hiểu là đức cậy. Bởi vì, giai đoạn Chúa Kitô chàng rể tới "bị trì hoãn hay chậm trễ - delayed", như trong bài Phúc Âm hôm nay cho biết, mà thành phần trinh nữ hay phù dâu đợi chờ chàng cần phải nhẫn nại và hy vọng hơn bao giờ hết, bằng không, một khi tắt mất đức mến mà lại không còn đức cậy, mà lại mất hết hy vọng thì ngọn lửa đức mến sẽ không bao giờ có thể thắp lại được bởi thiếu dầu đức cậy. Thực tế cũng chứng thực như vậy, một khi con người thất vọng đến chỗ tuyệt vọng (như ngọn đèn hết dầu) thì chẳng còn muốn sống nữa, nên đã có những cuộc tử tử là như vậy. Hy vọng chính là sức sống của con người, trong con người và cho con người.

Trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay có đề cập đến 5 cô khôn ngoan, ở chỗ mang dầu theo với đèn để đón chàng rể, mà đèn đây ám chỉ đức tin và dầu ám chỉ đức cậy, thì tác động hay lòng tin tưởng cậy trông chính là tất cả những gì là khôn ngoan nhất của con người để được cứu độ, bởi họ không thể cứu được mình, ngoài Đấng có thể cứu mình bới chính Thánh Giá có vẻ điên rồ của Người, thứ Thánh Giá là lý lẽ siêu vượt của Thiên Chúa mà trần gian không thể nào hiểu được và chấp nhận được nên cho là điên rồ, như cảm nhận của Thánh Tông Đồ Dân Ngoại trong Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy, về cả hai khuynh hướng trần gian, đó là khuynh hướng thích dấu lạ của người Do Thái, và khuynh hướng thích triết lý khôn ngoan của người Hy Lạp. Các cô nghênh đón chàng rể khôn ngoan ở chỗ chấp nhận mọi gian nan khốn khó, khi nhẫn nại chờ đợi chàng rể đến muộn, vì chàng muốn thử thánh lòng tin tưởng cậy trông của "những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28), một thái độ thiết tha trông đợi cho dù gian nan khốn khó, như thể sẵn sàng vác thập giá mình mà theo chàng rể vậy.

Và lòng tin tưởng cậy trông không bao giờ bị thất vọng, trái lại, chính những gì được tin tưởng cậy trông, nghĩa là những gì vượt trên hiện tượng hữu hình và khả giác, hợp với cảm quan tự nhiên, hợp tình theo lý lẽ lập luận của loài người, tức những gì là thực tại thần linh mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, và trí khôn hạn hẹn không thể nghĩ tới cùng tưởng tượng được, sẽ trở thành bất tận mà họ được hoan hưởng, như chính chàng rể trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, một hoan hưởng mà họ có thể cùng với Thánh Vịnh 32 trong Bài Đáp Ca hôm nay xướng lên như sau:

 

1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng của Chúa.

3) Chúa phá tan ý định của các nước, làm cho vô hiệu tư tưởng của chư dân. Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia.

 

Đây là lúc tin vui
Lan rộng khắp nơi rồi,
Đức Lang Quân sẽ tới,
Đấng tác tạo Nước Trời.

Muôn thánh nữ đồng trinh
Ra gặp Chúa thiên đình,
Đèn trên tay rực sáng,
Mặt hớn hở cung nghinh.

Còn những cô khờ dại,
Đèn tắt cạn khô dầu,
Đập cửa không người đoái,
Hoàng cung khoá từ lâu.

Sống từ đây tiết độ,
Hồn hãy thức chong đèn,
Sẵn sàng ra đón Chúa,
Dẫu Người tới nửa đêm.

Xin Vua Cả Nước Trời
Thương chuẩn bị bầy tôi
Đáng vào nơi vĩnh phúc
Ca tụng Chúa muôn đời.

 

 

 

 

LỄ (nhớ) THÁNH ÂU QUỐC TINH 28/8

 

 

 

Hình chính giữa: Thánh Augustino được tấn phong giám mục Hippo Regius (là nước Algeria hiện nay)

Hình trên bên trái, ngài được thụ phong linh mục; hình dưới bên trái ngài đang giảng có mẹ ngài ngồi bên cạnh;

Hình trên bên phải, ngài đang nói với em nhỏ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi khó hiểu hơn là việc đổ nước biển vào lỗ cát;

Hình dưới bên phải ngài đang giảng dạy.

 

 

 

Thánh Âu Quốc Tinh

"Vị Giáo Phụ cả thể nhất của Giáo Hội Latinh"

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 9/1/2008

Bài Giáo Lý 63 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

Anh chị em thân mến,

 

Sau những ngày mừng Lễ Giáng Sinh tôi xin trở lại với những bài suy niệm về các Vị Giáo Phụ và hôm nay nói về vị Giáo Phụ cả thể nhất của Giáo Hội Latinh, đó là Thánh Âu Quốc Tinh: một con người hăng say và tin tưởng, một con người rất thông minh và đầy nhiệt tình mục vụ. Vị đại thánh và tiến  sĩ của Giáo Hội này thường nổi tiếng, ít là về tên tuổi, ngay cả bởi những người coi thường Kitô Giáo, hay bởi những người ít  quen  thuộc với Kitô Giáo, vì ngài đã sâu xa ảnh hưởng tới đời sống văn  hóa của thế giới Tây phương, và của thế giới nói chung.

 

Vì tầm quan trọng phi thường của mình, Thánh Âu Quốc Tinh đã gây một ảnh hưởng khổng lố, lớn lao đến nỗi có thể nói, một đàng, tất cả mọi đường nẻo văn chương Latinh Kitô Giáo đều dẫn tới Hippo (ngày nay là Annaba, ở miền duyên hải xứ Algeria), nơi ngài làm giám mục, đàng khác, từ tỉnh lỵ này của Phi Châu Rôma, nơi Thánh Âu Quốc Tinh làm giám mục từ năm 395 đến 430, đã tuôn ra nhiều nẻo đường của tương lai Kitô Giáo cũng như của chính văn hóa Tây Phương.

 

Ít khi nào thấy một nền văn hóa đã gặp gỡ một nhân vật quá vĩ đại đến nỗi có khả năng bao gồm những thứ giá trị của nó cũng như có khả năng truyền bá sự phong phú nội tại của nó, khi hình thành những ý nghĩ cùng với các phương pháp giúp vào việc dinh dưỡng các thế hệ mai hậu, như Đức Phaolô VI cũng đã nhấn mạnh: “Người ta có thể nói là tất cả mọi thứ triết lý cổ thời đều qui tụ lại nơi công cuộc của ngài, và từ đó xuất phát ra những luồng tư tưởng thấm đẫm truyền thống tín lý của các thế kỷ về sau” (AAS, 62, 1970, trang 426).

 

Ngoài ra, Thánh Âu Quốc Tinh là vị Giáo Phụ của Hội Thánh đã để lại số lượng tác phẩm nhiều nhất. Tiểu sử gia của ngài là Possidius nói rằng: hầu như không thể nào mà một người có thể viết quá nhiều trong đời sống của mình như thế. Chúng ta sẽ nói về các tác phẩm khác nhau của ngài trong một buổi khác sau này. Hôm nay, chúng ta tập trung vào đời sống của ngài, một đời sống chúng ta có thể tái cấu trúc theo các tác phẩm của ngài, nhất là từ cuốn  “Tự Thú”, một tác phẩm tự thuật về mặt thiêng liêng nổi bật của ngài được viết để chuúc tụng ngợi khen Thiên C húa và là tác phẩm phổ biến nhất của ngài.

 

Chính vì chú trọng tới tính chất nội tâm và tâm lý mà cuốn “Tự Thú” của Thánh Âu Quốc Tinh mới là một mô thức đặc thù n ơi văn chương Tây phương lẫn ngoài Tây phương, thậm chí bao gồm cả văn  chương vô đạo, ngay cả tới thời đại tân tiến ngày nay. Vấn đề tập trung vào đời sống thiêng liêng, vào mầu nhiệm về bản thân mình, vào mầu nhiệm của Thiên Chúa â 3n nấp trong bản thân  mình, là một điều phi thường vô tiền, và vẫn còn có thể nói là “tột đỉnh” về phương diện tâm linh.

 

Thế nhưng, trở lại với đời sống của ngài, Thánh Âu Quốc Tinh được sinh ra tại Tagaste – tại một địa hạt thuộc đế quốc Rôma ở Phi Châu – vào ngày 13/11/354, con của ông Patrick, một người ngoại sau trở thành một người dự tòng, và bà Monica, một Kitô hữu nhiệt thành. Người phụ nữ nhiệt thành này, được tôn kính như một vị thánh, đã ảnh hưởng rất nhiều nơi người con trai của bà và đã giáo dục người con này theo niềm tin Kitô Giáo. Thánh Âu Quốc Tinh cũng đã lãnh nhận muối, như dấu hiệu đón nhận vào thành phần dự tòng. Ngài bao giờ cũng cảm thấy bị thu hút bởi hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô; ngài nói rằng ngài đã luôn luôn mến yêu Chúa Giêsu, thế nhưng càng lớn ngài càng xa lìa đức tin và việc thực hành của Giáo Hội, như vẫn thường xẩy ra cho nhiều giới trẻ ngày nay. 

 

Thánh Âu Quốc Tinh cũng có một người anh em là Navigius, và một người chị em mà chúng ta không biết tên, và là người khi góa bụa đã làm đầu của một nữ đan viện.

 

Bổ túc thêm theo Wikipedia (với một chút điều chỉnh về từ ngữ):

 

"Lúc 11 tuổi, Augustinô đến học tại một ngôi trường ở Madaurus, 19 dặm phía nam Tagaste, Madaurus là một thành phố nhỏ, nổi tiếng với nền văn hóa ngoại giáo. Khi còn trẻ, Augustinô bị cuốn vào cuộc sống phóng túng, buông thả, khi còn ở Carthage, trong hơn 15 năm chàng quan hệ với một cô nhân tình trẻ, và có một con trai với cô, được chàng đặt tên cho con là Adeodatus, nghĩa là Thiên Ân".

 

Thánh Âu Quốc Tinh có một trí thông minh sắc sảo và được giáo dục tốt đẹp, mặc dù ngài không phải lúc nào cũng là một học sinh gương mẫu. Ngài đã học văn phạm, đầu tiên ở tỉnh nhà của mình rồi ở Madaurus, và bắt đầu vào năm 370 ngài đã lấy môn ngữ học ở Carthage, thủ đô của đế quốc Rôma ở Phi Châu. Ngài đã thông thạo tiếng Latinh, nhưng không bằng tiếng Hy Lạp hay Punic, ngôn ngữ người đồng hương của ngài.

 

Chính ở Carthge ngài đã đọc cuốn “Hortesius” lần đầu tiên, một tác phẩm của Cicero – sau này bị thất lạc – và là cuốn sách khiến ngài bắt đầu con đường hoán cải. Cuốn sách này khơi lên trong ngài một lòng mến yêu sự khôn ngoan, như được ngài xác nhận trong các bản văn là giám mục của mình trong cuốn “Tự Thú”: “Cuốn sách này đã làm thay đổi cảm thức của tôi” sâu mạnh đến nỗi “đột nhiên, hết mọi thứ hy vọng hão huyền đều chẳng còn là gì đối với tôi nữa, và tôi ước mong được đức khôn ngoan bất tử bằng một nhiệt tình không thể nào tưởng tưởng nổi nơi tôi” (III, 4, 7).

 

Thế nhưng, vì ngài tin tưởng rằng nếu không có Chúa Giêsu thì cũng không thể nào thực sự tìm thấy được chân  lý, và vì trong cuốn sách đó thiếu mất tên tuổi của ngài nên  ngài liền tìm đọc Thánh Kinh, Sách Thánh. Song ngài đã cảm thấy chán nản. Chẳng những bản dịch Latinh Thánh Kinh không đầy đủ mà còn chính nội dung của Thánh Kinh cũng dường như không làm cho ngài được thỏa nguyện.

 

Trong các tường thuật về chiến  tranh cùng với những biến cố khác của con người, ngài không thể tìm thấy những gì tột đỉnh của triết học, tím thấy ánh rạng ngời của việc tìm kiếm sự thật của nó. Tuy nhiên,  ngài lại không muốn thiếu vắng Thiên Chúa, và vì thế ngài đã tìm kiếm một tôn giáo ăn khớp với ước muốn sự thật của ngài cũng như ước mong được sống gần gũi với Chúa Giêsu.

 

Ngài đã rơi vào màng lưới của những người theo phái Nhị Nguyên Thuyết, thành phần cho mình là Kitô hữu và hứa hẹn về một thứ tôn giáo hoàn toàn theo lý trí. Họ khẳng định rằng thế giới này được chia làm hai nguyên  lý: nguyên lý thiện và nguyên lý ác. Đó là những gì giải thích cho thấy tính cách phức tạp rắc rối của lịch sử loài người. Thánh Âu Quốc Tinh cũng thích thứ luân lý lưỡng diện này, vì nó bao gồm một thứ luân lý rất cao đối với những kẻ được tuyển chọn: và đối với những người, như ngài, những người thiết tha với nó, có thể sống một đời sống xứng hợp với các thời điểm, nhất là đối với một con người trẻ. Bởi thế ngài đã thành một thành viên của phái Nhị Nguyên Thuyết, tin tưởng rằng ngài đã tìm thấy được sự tổng hợp giữa lý trí, việc tìm kiếm chân lý và tình yêu mến Chúa Giêsu Kitô.

 

Và đời sống riêng tư của ngài cũng có lợi nữa, ở chỗ, đóng vai trò một người Nhị Nguyên Thuyết thì dễ có những cơ hội về nghề nghiệp. Việc gắn bó với thứ đạo giáo này, một đạo giáo bao gồm nhiều nhân vật tiếng tăm, đã khiến ngài bắt đầu theo đuổi mối liên hệ với một người nữ, và tiếp tục nghề nghiệp của ngài. Ngài đã có một người con trai tên là Adeodatus với người đàn bà ấy, nó rất thân thương đối với ngài, rất ư là thông minh, và là người sau đó hiện diện trong cuộc dọn mình lãnh nhận Phép Rửa của Thánh Âu Quốc Tinh ở Lake Como, trở thành yếu tố cho “những Cuộc Đối Thoại” được Thánh Âu Quốc Tinh lưu lại cho chúng ta. Tiếc thay, người con trai này đã bị chết yểu.

 

Sau khi dạy văn phạm ở tỉnh nhà của mình vào tuổi 20, ngài đã sớm trở lại Carthage là nơi ngài đã trở thành một bậc thày khôn ngoan và nổi danh về ngôn ngữ học. Tuy nhiên, qua giòng thời gian, Thánh Âu Quốc Tinh đã xa rời niềm tin tưởng của phái Nhị Nguyên Thuyết. Nó làm cho ngài không được thỏa mãn về lý trí vì nó thực sự không giải quyết được những ngờ vực của ngài. Ngài đã di chuyển tới Rôma, rồi tới Milan, nơi ngài đã chiếm được vị trí thế giá trong triều đình của hoàng đế, nhờ những lời khuyên dụ của vị thống đốc Rôma là một con người ngoại đạo tên là Symmachus, nhân vật hận thù vị giám mục ở Milan là Thánh Ambrôsiô.

 

Bổ túc thêm theo Wikipedia (với một chút điều chỉnh về từ ngữ): 

"Chàng trai tỉnh lẻ kiếm được việc làm và đi lên phương bắc để nhận việc vào cuối năm 384. Ở tuổi ba mươi, Augustinô đã chiếm được một vị trí hàn lâm danh giá trong thế giới Latinh, được xem là sự khởi đầu tốt tạo đà cho những thăng tiến trong sự nghiệp chính trị.

"Dù vậy, Augustinô đã sớm cảm nhận được những áp lực trên chốn quan trường, có lần đang trên đường đến diễn thuyết trước hoàng đế, khi xe chàng đi ngang qua một người hành khất say khướt bên đường, và chàng đã than thở rằng cuộc sống của chàng còn nặng gánh lo âu hơn con người khốn khổ này.

"Khi mẹ chàng đến Milan với chàng, chàng đồng ý để cho bà sắp xếp một cuộc hôn nhân, theo đó chàng sẽ bỏ cô nhân tình. Nhưng trong thời gian hai năm chờ đợi hôn thê đến tuổi kết hôn, Augustinô lại tìm đến dan díu với một phụ nữ khác. Trong thời gian này, Augustinô đã thốt lên câu nói trứ danh khi cầu nguyện, đó là "Xin hãy ban cho con sự trinh khiết và tiết chế, nhưng xin đừng vội" [da mihi castitatem et continentiam, sed noli modo] (Tự Thú, VIII. vii (17)).

"Mùa hè năm 386, sau khi đọc biết và chịu cảm động bởi cuộc đời của Thánh Anthony ở Sa mạc, Augustinô trải nghiệm một cuộc khủng hoảng tâm linh sâu sắc và quyết định đến với Kitô giáo, từ bỏ sự nghiệp hùng biện, chức nghiệp giảng dạy ở Milan, chấm dứt dự định kết hôn, cung hiến cuộc đời của chàng để phục vụ Thiên Chúa bằng việc mục vụ, kể cả việc theo đuổi cuộc sống độc thân.

"Nhân tố quyết định cho trải nghiệm trở lại của Augustinô là tiếng hát của một bé gái mà chàng tình cờ nghe được, trong lúc chàng đang phải chiến đấu nội tâm để tìm kiếm cho mình sự cứu rỗi, tolle lege (hãy cầm lấy mà đọc), chàng đã làm theo, và khi chàng mở Kinh Thánh ra thì nhắm đúng vào một đoạn trong thư của Tông đồ Phao-lô gởi tín hữu ở Roma, đó là câu. 'Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng' (Roma 13. 13-14)".

 

Thoạt tiên, vì muốn trau dồi thêm khả năng vốn liếng về ngữ từ học của mình, Thánh Âu Quốc Tinh đã bắt đầu tham dự các bài diễn thuyết hùng hồn của Giám Mục Ambrose, vị đã từng là đại diện của hoàng đế ở miền Bắc Ý quốc; ngài đã cảm thấy bị thu hút bởi những lời lẽ của thánh nhân, chẳng những vì tính cách lợi khẩu của chúng, mà còn vì nó đánh động lòng của ngài nữa. Vấn đề chính yếu của Cựu Ước – ở chỗ thiếu tính cách hùng biện và cao độ triết học – đã tự giải tỏa nơi các bài nói của Thánh Ambrôsiô nhờ những dẫn giải theo khoa biểu tượng học của Cựu Ước, ở chỗ Thánh Âu Quốc Tinh đã hiểu được rằng Cựu Ước là một cuộc hành trình tiến đến với Chúa Giêsu Kitô. Bởi thế ngài đã thấy được cái then chốt để hiểu vẻ đẹp, chiều sâu triết lý nơi Cựu Ước, và ngài đã hiểu được mối hiệp nhất về mầu nhiệm của Chúa Kitô trong lịch sử, cùng với sự tổng hợp giữa triết học, lý trí và đức tin nơi LỜi, nơi Chúa Kitô, Lời hằng hữu đã hóa thành nhục thể.

 

Thánh Âu Quốc Tinh đã mau chóng nhận ra được cách đọc Thánh Kinh theo kiểu ẩn dụ và triết lý tân Plato như  cách của vị giám mục thành Milan đã giúp ngài giải quyết được những khó khăn về trí óc ngài gặp phải vào thời còn trẻ khi ngài mới chạm tới các bản văn thánh kinh mà ngài cho rằng bất khả khắc phục.

 

Thánh Âu Quốc Tinh đã tiếp tục đọc các tác phẩm của những vị triết gia cùng với Thánh Kinh, nhất là những thư của Thánh Phaolô. Việc trở lại với Kitô Giáo của ngài, ngày 15/8/386, bởi thế xẩy ra ở tột đỉnh của một cuộc hành trình nội tâm lâu dài và trăn trở sẽ được chúng ta nói tới ở một bài giáo lý khác; con người Phi Châu này đã di chuyển tới xứ sở ở phía bắc Thành Milan gần Lake Como – với người mẹ của ngài là Monica, với người con trai của ngài là Adeodatus, và một nhóm nhỏ bạn hữu – để sửa soạn lãnh nhận phép rửa. Vào năm 32 tuổi, Thánh Âu Quốc Tinh đã trở thành Kitô hữu bởi Thánh Ambrose ngày 24/4/387, trong thánh lễ vọng Phục Sinh ở Vương Cung Thánh Đường thành Milan.

 

Sau biến cố rửa tội của mình, Thánh Âu Quốc Tinh quyết định trở về Phi Châu với bạn bè của ngài, với ý định là sẽ thực hành một đời sống đan tu chung để phục vụ Thiên Chúa. Thế nhưng, ở Ostia, trong khi chờ đợi lên đường thì mẹ của ngài đột nhiên lâm trọng bệnh và qua đời ít lâu sau, làm cho tâm can của người con trai của bà quằn quại nhức nhối.

 

Trở về quê hương xứ sở của mình, ngài đã lưu ngụ ở Hippo để lập một đan viện. Ở tỉnh lỵ miền duyên hải Phi Châu này ngài đã được thụ phong linh mục vào năm 391, bất chấp việc chối từ của ngài, và bắt đầu một đời sống đan tu với một số bạn hữu, chia giờ giấc của mình ra để nguyện cầu, học hỏi và giảng dạy. Ngài chỉ muốn phục vụ chân lý mà thôi, chứ ngài không cảm thấy được kêu gọi sống đời mục vụ; thế rồi ngài đã hiểu rằng ơn gọi của Thiên Chúa đó là trở thành một vị mục tử giữa con người và cống hiến cho họ tặng ân chân lý.

 

Bốn  năm sau, vào năm 395, ngài được tấn phong giám mục ở Hippo. Sâu xa học hỏi Thánh Kinh và các bản văn của truyền thống Kitô Giáo, Thánh Âu Quốc Tinh đã là một vị giám mục gương mẫu trong việc dấn thân mục vụ không ngừng của ngài: Ngài đã giảng dạy tín hữu mấy lần một tuần, ngài đã giúp kẻ nghèo khổ và mồ côi, ngài đã theo dõi việc giáo huấn hàng giáo sĩ và tổ chức các đan viện nữ giới cũng như nam giới.

 

Tóm lại, ngài quyết tâm trở thành một trong con người đại diện quan trọng nhất của Kitô Giáo trong thời của ngài, ở chỗ, khi tỏ ra rất năng động trong việc cai quản giáo phận của ngài – với những thành quả đáng kể cả về dân sự nữa – trên 30 năm thuộc hàng giáo phẩm, vị giám mục thành Hippo này đã gây được một ảnh hưởng lớn lao to tát trong vai trò lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo ở Phi Châu Rôma, nói chung ở Kitô Giáo vào thời của ngài, đối đầu với Manichaeism, Donatism và Pelagianism, là những bè rối đang tác hại đức tin Kitô Giáo cũng như đến Vị Thiên Chúa duy nhất đầy ân sủng. Thánh Âu Quốc Tinh đã phó thác bản thân kình cho Thiên Chúa hằng ngày, cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời ngài. Ngài đã bị lên cơn sốt, trong khi thành Hippo đang bị các kẻ xâm chiếm công hãm. Vị giám mục này – như người bạn của ngài là Possidius cho chúng ta biết ở cuốn “Cuộc Đời Âu Quốc Tinh – Vita Augustini” – đã xin sao chép thành những chữ lớn các bài thánh vịnh thống hối, “và ngài đã cắm những tờ giấy ấy lên tường, để trong khi bị bệnh, ngài có thể đọc chúng đang khi nằm trên giường, và ngài đã không ngừng kêu khóc bằng những giọt lệ nồng” (31,2); đó là cách Thánh Âu Quốc Tinh đã sống những ngày cuối đời của ngài. Ngài đã chết vào ngày 28/8/430, hưởng thọ 75 tuổi. Chúng ta sẽ giành các buổi tới để chia sẻ về những tác phẩm của ngài, sứ điệp của ngài và cảm nghiệm nội tâm của ngài.

  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 9/1/2008

 

 

Thánh Giáo Phụ Âu Quốc Tinh: 3 Giai Đoạn Hoán Cải

 

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 26/2/2008 

Bài Giáo Lý 67 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

Anh chị em thân mến,

 

Hôm nay chúng ta kết thúc việc trình bày về Thánh Âu Quốc Tinh. Sau khi nói đến cuộc đời của ngài, đến các hoạt động của ngài, và đến  một số khía cạnh trong các tác phẩm của ngài, hôm nay tôi muốn trở lại với tiến trình hoán cải nội tâm của ngài, một trong những cuộc hoán cải trọng đại nhất trong lịch sử Kitô giáo.

 

Chính vị cuộc hành trình đặc biệt này mà tôi đã cống hiến những cia sẻ của tôi trong cuộc viếng thăm Pavia năm ngoái, để kính viếng hài cốt của vị Giáo Phụ Giáo Hội này. Làm như vậy là tôi muốn biểu lộ việc ca ngợi và lòng trọng kính của toàn thể Giáo Hội Công Giáo đối với Thánh Âu Quốc Tinh, cũng như lòng mộ mến và việc biết ơn của riêng tôi đối với một nhân vật tôi cảm thấy rất gần gũi vì ngài đã đóng một vai trò trong đời sống thần học của tôi, trong đời sống làm linh mục và mục tử của tôi.

 

Thậm chí ngay cả cho đến ngày nay vẫn có thể tái cảm nhận thấy những cảm nghiệm của Thánh Âu Quốc Tinh; trước hết điều này có được là nhờ cuốn “Tự Thú” được viết để ca tụng Thiên Chúa, và là tác phẩm nền tảng cho một hình thức văn chương Tây phương chuyên biệt – hình thức tự truyện. Đó là một bày tỏ riêng tư về việc hiểu biết bản thân mình. 

 

Ai đọc kỹ cuốn sách ngoại thường và hấp dẫn này, một cuốn sách ngày nay còn được nhiều người đọc, sẽ sớm nhận thấy rằng, cuộc trở lại của Thánh Âu Quốc Tinh không phải xẩy ra đùng một cái, hay được hoàn tất cách mau chóng, đúng hơn là một cuộc hành trình vẫn còn nêu gương thực sự cho mỗi một người chúng ta.

 

Cuộc hành trình này đạt đến  tột đỉnh của nó nơi việc ngài trở lại, và sau đó lãnh nhận phép rửa, thế nhưng nó vẫn không được kết thúc vào lễ vọng Phục Sinh năm 387, khi nhà hùng biện người Phi Châu này được Giám Mục Thành Milan là Ambrose rửa tội cho.

 

Thật vậy, cuộc hành trình của Thánh Âu Quốc Tinh đã được tiếp tục với lòng khiêm nhượng cho đến cuối đời của ngài. Chúng ta có thể nói rằng tất cả mọi đoàn đời của ngài – và chúng ta có thể dễ dàng phân ra làm 3 giai đoạn – đều làm thành một cuộc hoán cải duy nhất kéo dài.

 

Từ đầu, Thánh Âu Quốc Tinh là một con người say mê tìm kiếm sự thật: Ngài vẫn cứ thế suốt cả cuộc sống của ngài. Giai đoạn hành trình đầu tiên của ngài hướng tới cuộc trở lại được thể hiện qua việc ngài từ từ tiến đến  Kitô giáo.

 

Thật thế, ngài đã được mẹ ngài là Monica giáo dục về Kitô giáo, một người mẹ ngài rất thân thương. Cho dù ngài sống cuộc đời lạc loài vào thời trẻ trung, ngài vẫn sâu xa gắn bó với danh xưng của Chúa Kitô, như chính ngài đã nhấn mạnh (cfr. "Confessions," III, 4, 8).

 

Triết lý, đặc biệt là triết lý của Plato, đã dẫn ngài đến  gần Chúa Kitô hơn khi cho ngài thấy được sự hiện hữu của Logos – Lời hay của lý trí sáng tạo. Các tác phẩm của những triết gia đã cho ngài thấy được sự hiện hữu của ‘lý trí’ làm xuất phát ra cả hoàn vũ này, thế nhưng những tác phẩm ấy không nói cho ngài biết cách làm thế nào để vươn tới Logos này, một Logos dường như bất khả đạt thấu.

 

Chính nhờ đọc được những thư của Thánh Phaolô, theo đức tin của Giáo Hội Công Giáo, mà ngài đã tiến đến  chỗ hoàn toàn thấu hiểu. Kinh nghiệm này được Thánh Âu Quốc Tinh tóm gọn ở một trong những đoạn nổi tiếng nhất của cuốn “Tự Thú”. Ngài nói với chúng ta rằng trong cơn day dứt của những gì ngài suy niệm, ngài đã lui vào một khu vườn, lúc mà đột nhiên ngài nghe thấy tiếng của một em bé hát ru con mà ngài chưa hế nghe trước đó: "Tolle, lege, tolle, lege," – hãy cầm lấy mà đọc, hãy cầm lấy mà đọc (VIII, 12,29).

 

Lúc bấy giờ ngài nhớ đến cuộc trở lại của Thánh Antôn, tổ phụ của đời sống đan tu. Ngài đã vội vã trở về với những bản văn của Thánh Phaolô, những bản văn ngài đã tìm kiếm trước đó ít lâu. Đôi mắt của ngài đã đọc ngay phải đoạn Thư gửi giáo đoàn Rôma, trong đó, vị tông đồ này thôi thúc hãy vì Chúa Kitô mà từ bỏ những khoái lạc xác thịt (13:13-14).

 

Ngài đã hiểu rằng những lời ấy là những lời đặc biệt ám chỉ về ngài. Chúng đã từ Thiên Chúa mà đến, qua Vị Tông Đồ ấy,  để tỏ cho ngài biết những gì ngài phải làm vào lúc bấy giờ. Thánh Âu Quốc Tinh đã cảm thấy một đám mây mù ngờ vực buông tỏa, và đã hoàn toàn tự hiến mình cho Chúa Kitô: “Chúa đã hoán cải con người con cho Chúa”, ngài đã ghi nhận như thế (Tự Thú, VIII, 12,30). Đó là giai đoạn trở lại đầu tiên và quyết liệt.

 

Chính nhờ đam mê của ngài đối với con người, cũng như đối với chân lý, mà nhà hùng biện Phi Châu này đã tiến đến một giai đoạn rất quan trọng của cuộc hành trình lâu dài của mình; một đam mê đưa ngài đến chỗ tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng cao cả và bất khả đạt thấu. Đức tin của ngài nơi Chúa Kitô làm cho ngài hiểu được rằng Thiên Chúa, Đấng dường như quá xa vời, thật sự lại chẳng xa vời gì hết. Đúng thế, Người đã đến gần với chúng ta, trở nên một người trong chúng ta. Theo chiều hướng ấy, đức tin vào Chúa Kitô đã giúp cho Thánh Âu Quốc Tinh hoàn thành cuộc lâu dài tìm kiếm chân lý. Chỉ có vị Thiên Chúa làm cho Người ‘có thể chạm tới được’, làm cho Người trở thành một người trong chúng ta, mới là vị Thiên Chúa chúng ta cầu nguyện với, mới là vị Thiên Chúa chúng ta sống cho và sống với.

 

Đó là con đường cần phải can đảm và khiêm nhượng tiến bước, con đường dẫn đến một cuộc thanh tẩy vĩnh viễn mà mọi người cần đến. Tuy nhiên, Lễ vọng Phục Sinh năm 387 ấy vẫn chưa phải là tận điểm của việc Thánh Âu Quốc Tinh hành trình. Ngài đã trở về Phi Châu và đã thành lập một đan viện nhỏ, nơi ngài sống tĩnh tâm với một số ít bạn bè, và dấn thân chiêm niệm cùng học hỏi. Đó là mơ ước của đời sống ngài. Ngài đã được kêu gọi hoàn toàn hiến  đời mình cho chân lý, trong mối thân tình với Chúa Kitô, Đấng là sự thật. Ước mơ này đã kéo dài 3 năm, cho đến khi ngài được thụ phong linh mục ở Hippo và có ý muốn phục vụ tín hữu, tiếp tục sống với Chúa Kitô và cho Chúa Kitô, thế nhưng bằng việc phục vụ hết mọi người.

 

Điều này rất khó đối với ngài, thế nhưng, từ ban đầu ngài đã hiểu rằng chỉ khi nào sống cho người khác, chứ không phải chỉ biết chiêm niệm tư riêng, ngài mới có thể sống với Chúa Kitô và cho Chúa Kitô. Bởi thế, nhờ việc từ bỏ một cuộc đời chỉ biết suy niệm, Thánh Âu Quốc Tinh đã không khó khăn gì trong việc lấy kiến thức của mình để phục vụ người khác. Ngài đã biết truyền đạt đức tin của ngài cho thành phần bình thường, và sống cho họ nơi những gì trở thành bản phố của ngài. Ngài đã không ngừng mang vác một gánh nặng và quảng đại hoạt động  như được ngài diễn tả ở một trong những bài giảng tuyệt vời của ngài: “Liên tục giảng dạy, bàn luận, lập lại, khai tâm, phục vụ mọi người – đó là một trách nhiệm cả thể, một gánh nặng lớn lao, một nỗ lực muôn vàn” (Bài Giảng 339,4). Thế nhưng ngài đã chấp nhận gánh nặng này, biết rằng nhờ cách đó ngài có thể gần gũi Chúa Kitô hơn. Cuộc trở lại thực sự thứ hai của ngài là việc hiểu được rằng người ta vươn đến với người khác bằng lòng chân tình và khiêm tốn.

 

Còn một giai đoạn cuối cùng – một cuộc trở lại thứ ba – nơi cuộc hành trình của Thánh Âu Quốc Tinh: Cuộc trở lại dẫn ngài đến chỗ xin Thiên Chúa thứ tha cho hết mọi ngày trong đời sống của ngài. Thoạt tiên ngài tưởng rằng một khi đã trở thành Kitô hữu, bằng một đời sống hiệp thông với Chúa Kitô, bằng các bí tích và bằng việc cử hành Thánh Thể, thì ngài sẽ đạt được một đời sống được đề ra ở Bài Giảng Trên  Núi, một đời sống trọn lành nhờ phép rửa và được vững mạnh nhờ Thánh Thể.

 

Vào giai đoại đời sau đó, ngài đã hiểu rằng những gì ngài đã nói trong các bài giảng đầu tiên của ngài về Bài Giảng Trên Núi – mà Kitô hữu chúng ta vĩnh viễn sống cuộc đời lý tưởng ấy – đều sai lầm. Chỉ có một mình Chúa Kitô mới là Đấng thực sự và hoàn toàn hiện thực Bài Giảng Trên Núi mà thôi. Chúng ta liên lỉ cần được Chúa Kitô thanh tẩy, Đấng rửa chân cho chúng ta, và được Người canh tân. Chúng ta cần phải mãi mãi hoán cải. Để đạt được mục đích này, chúng ta cần tỏ một lòng khiêm nhượng nhìn nhận rằng chúng ta là những tội nhân, đang hành trình cho tới khi Chúa giơ tay của Người ra dẫn chúng ta tới sự sống đời đời. Với thái độ khiêm nhượng này, Thánh Âu Quốc Tinh đã sống những ngày cuối cùng của mình cho tới khi qua đời.

 

Lòng khiêm nhượng sâu xa này, trước nhan một Chúa Giêsu duy nhất ấy, đã dẫn ngài tới một thứ khiêm nhượng về tri thức nữa. Vào những ngày cuối cùng của mình, Thánh Âu Quốc Tinh, vị thực sự là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất trong lịch sử triết học, đã muốn kiểm điểm số tác phẩm rất nhiều của ngài một cách nghiêm chỉnh. Đó là nguyên do xuất hiện cuốn “Retractationes” – Duyệt Lại – một tác phẩm đặt ý nghĩ thần học của ngài, thực sự là cao cả, trong đức tin khiêm nhượng và thánh đức của những gì được ngài nói đến như thuần túy Công Giáo tức là Giáo Hội.

 

Trong cuốn sách rất độc đáo này ngài đã viết: “Tôi đã hiểu rằng chỉ có một vị duy nhất thực sự là trọn lành,  những lời của Bài Giảng Trên Núi hoàn toàn được hiện thực nơi một vị duy nhất – nơi chính Chúa Giêsu Kitô. Trái lại, toàn thể Giáo Hội – tất cả chúng ta, bao gồm cả các vị Tông Đồ – cần phải cầu nguyện  hằng ngày là xin tha cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (I, 19, 1-3).

 

Hoán cải trở về với Chúa Kitô, Đấng là sự thật và là tình yêu, Thánh Âu Quốc Tinh đã theo Người suốt cuộc đời của ngài, và đã trở thành một mẫu gương cho hết mọi người, vì tất cả mọi người chúng ta đang tìm kiếm Thiên Chúa.

 

Đó là lý do tại sao tôi muốn kết thúc cuộc hành trình của tôi đến Pavia, bằng việc cống hiến cho Giáo Hội và thế giới, trước mộ của vị đại tình nhân của Thiên Chúa này, bức thông điệp đầu tiên của tôi – “Deus Caritas Est”. Bức thông điệp này nặng nợ tư tưởng của Thánh Âu Quốc Tinh, nhất là ở phần thứ nhất.

 

Ngày nay, cũng như bấy giờ, nhân loại đang cần nhận biết và sống thực tại nền tảng này: Thiên Chúa là tình yêu, và việc gặp gỡ Người là giải đáp duy nhất cho những nỗi lo sợ của tâm can con người. Một trái tim chất chứa niềm hy vọng, có thể vẫn còn tăm tối, và không minh thức gì đối với nhiều người đương thời của chúng ta, nhưng, đối với Kitô hữu chúng ta, nó lại là những gì mở lối vào tương lai, đến nỗi, Thánh Phaolô đã viết, “chúng ta được cứu độ bằng niềm hy vọng” (Rm 8:24). Tôi muốn giành bức thông điệp thứ hai của tôi cho niềm hy vọng – “Spe Salvi” – bức thông điệp này cũng nặng nợ Thánh Âu Quốc Tinh và cuộc gặp gỡ của ngài với Thiên Chúa nữa.

 

Trong một bản văn tuyệt vời, Thánh Âu Quốc Tinh đã định nghĩa cầu nguyện như là một bày tỏ lòng ước mong, và khẳng định rằng Thiên Chúa đáp ứng, bằng việc tác động lòng chúng ta đến gần Người hơn. Về phần mình, chúng ta cần phải thanh tẩy những ước muốn của mình, và các niềm ước vọng của chúng ta, để lãnh nhận lòng nhân lành của Thiên Chúa (cfr. "In I Ioannis," 4, 6). Thật vậy, chỉ có điều này – cởi mở bản thân  mình cho người khác – mới có thể cứu chúng ta.

 

Bởi thế chúng ta hãy cầu nguyện để chúng ta có thể theo gương của con người cao cả này mỗi ngày trong đời sống của chúng ta, cũng như mỗi giây phút chúng ta sống trong việc gặp gỡ Chúa Giêsu – Đấng duy nhất có thể cứu độ chúng ta, thanh tẩy chúng ta, và là Đấng ban cho chúng ta niềm vui chân  thực và sự sống đích thực.

 

(Sau bài giáo lý, trong phần tóm tắt bằng Anh ngữ, ở cầu áp cuối, Đức Thánh Cha còn khẳng định rằng:)

 

Thánh Âu Quốc Tinh đã có một ảnh hưởng sâu xa nơi cuộc đời và thừa tác vụ của tôi. Tôi hy vọng rằng tất cả chúng ta có thể học được từ con người hoán cải cao cả và khiêm tốn này, vị đã thấy được rõ ràng Chúa Kitô là chân lý và là tình yêu!

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/2/2008
(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 

Ôi, Chúa là chân lý vĩnh cửu, là tình yêu chân thật
và là sự vĩnh cửu dấu yêu !

Trích sách Tự thuật của thánh Âu-tinh, giám mục.

 

Con yêu Chúa quá muộn, lạy Chúa là vẻ đẹp vừa rất xưa vừa mới mãi, con yêu Chúa quá muộn ! Này Chúa vẫn ở trong con, mà hồi ấy con cứ ở ngoài và cứ tìm Chúa bên ngoài ! Con thật xấu khi mải chạy theo vẻ đẹp nơi các thụ tạo của Chúa. Chúa từng ở với con mà con chẳng ở với Chúa. Những sự vật vẫn giữ con xa Chúa, nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng làm sao hiện hữu được ? Chúa gọi con, Chúa la to, và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng, Chúa chiếu toả và đã xua tan sự mù loà của con. Chúa toả hương thơm, con hít lấy và con khao khát Chúa. Con đã nếm thử và bây giờ con đói, con khát Chúa. Chúa đã chạm đến con và con nóng lòng tìm bình an của Chúa.

 


Thứ Bảy

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 1, 26-31

"Thiên Chúa đã chọn những điều hèn hạ đối với thế gian".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy xem ơn kêu gọi của anh em: vì không có mấy người khôn ngoan theo xác thịt, không có mấy người quyền thế, không có mấy người sang trọng. Nhưng điều mà thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi. Thiên Chúa đã chọn những điều hèn hạ đối với thế gian, những điều bị khinh chê, những điều không không, để phá huỷ những điều hiện hữu, hầu mọi xác thịt không thể vinh danh trước mặt Người. Chính do Người mà anh em ở trong Chúa Giêsu Kitô, Ðấng do Thiên Chúa, đã trở nên sự khôn ngoan, sự công chính, sự thánh hoá và sự cứu rỗi cho chúng ta, ngõ hầu, như đã chép: "Ai khoe khoang, thì hãy khoe khoang trong Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 12-13. 18-19. 20-21

Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

Xướng: 1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta. - Ðáp.

2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người; nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.

3) Linh hồn chúng tôi mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng tôi. Bởi vậy, lòng chúng tôi hân hoan trong Chúa, chúng tôi tin cậy ở thánh danh Người. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Tx 2, 14

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được chiếm lấy vinh quang của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 25, 14-30

"Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy theo khả năng mỗi người, đoạn ông ra đi. Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Cũng vậy, người lãnh hai nén cũng làm lợi ra hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc, đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".

"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo và thu nơi không phát, nên tôi khiếp sợ đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Ðây của ông, xin trả lại ông". Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra ngươi phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc, nghiến răng".

Ðó là lời Chúa.

Is the everlasting fire of Matthew 25:41 a warning about hell?

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Một thứ nguyên vẹn ... hoàn toàn băng hoại

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXI Thường Niên hôm nay tiếp theo bài Phúc Âm về 10 trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể hôm qua

Thật vậy, nếu bài Phúc Âm hôm qua về 10 trinh nữ, ám chỉ chung Kitô hữu trong thời cánh chung, như đã suy diễn, thì bài Phúc Âm hôm nay về thành phần "đầy tớ" được chủ "sắp đi xa... giao phó của cải mình cho", ám chỉ những vị lãnh đạo trong Giáo Hội. 

Sở dĩ cả 2 bài Phúc Âm hôm nay và hôm qua ở đoạn 25 liên quan đến thời cánh chung là vì, như đã nhận định, theo diễn tiến và cấu trúc của Phúc Âm Thánh Mathêu, thì đoạn 24 đã được Chúa Giêsu nói về ngày tận thế và cuối đoạn 25 ngay sau 2 bài Phúc Âm này là cảnh chung thẩm.

Đúng vậy, nếu bài Phúc Âm hôm qua về các cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể liên quan đến thời cánh chung vì trong bài Phúc Âm này bao gồm sự kiện chàng rể đến, đến lần thứ hai: "Kìa chàng rể đến, ra ra nghênh đón chàng", thì cũng thế, cũng liên quan đến thời cánh chung, bài Phúc Âm hôm nay về thành phần đầy tớ được chủ trao phó của cải cho để sinh lợi trong thời gian ông đi vắng, ám chỉ Chúa Kitô thăng thiên về cùng Cha, nhưng Người sẽ lại đến lần thứ hai, như trong bài Phúc Âm cho thấy: "Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ", có nghĩa là các vị lãnh đạo cộng đồng dân Chúa sẽ phải trả lẽ trước mặt Người 


Nếu đoạn 25 của Phúc Âm Thánh Ký Mathêu bao gồm 3 dụ ngôn: dụ ngôn thứ nhất về 10 trinh nữ cần đèn đi nghênh đón chàng rể, ám chỉ chung Kitô hữu, ở bài Phúc Âm hôm qua, và dụ ngôn thứ hai về thành phần đầy tớ được trao tài sản để sinh lợiám chỉ các vị lãnh đạo cộng đồng dân Chúa, ở bài Phúc Âm hôm nay, thì dụ ngôn thứ 3 về cuộc chung thẩm giữa chiên và dê ám chỉ toàn thể nhân loại, và dụ ngôn chung thẩm này được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật 34 Thường Niên Năm A, Lễ Chúa Kitô Vua. Như thế, đoạn Phúc Âm 25 của Thánh ký Mathêu về thời điểm cánh chung bao gồm đủ mọi thành phần: từ riêng Kitô hữu và các vị lãnh đạo Giáo Hội đến chung toàn thể nhân loại

Nếu thành phần Kitô hữu trinh nữ được cứu rỗi hay chăng là ở lòng tin tưởng cậy trông của họ, được ám chỉ nơi dầu đèn họ cần có, như đã chia sẻ hôm qua, và nếu chung toàn thể nhân loại được xét xử và cứu rỗi là nhờ "đức tin thể hiện qua đức ái" của họ (xem Galata 5:6; xem Mathêu 25:37-40,42-46), thì thành phần lãnh đạo cộng đồng dân Chúa sẽ bị xét xử và cứu độ nhờ các vị có biết trung tín sinh lợi cho chủ hay chăng. 

Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, thành phần lãnh đạo cộng đồng dân Chúa được gọi là "đầy tớ", tức là những người phục vụ, những người được gọi là "thừa tác viên - minister", thay Chúa Kitô là Đấng đã đến để phục vụ (xem Mathêu 20:28), mà đã là "đầy tớ" phục vụ thì phải làm theo ý chủ và đúng ý chủ mới thật sự chu toàn nhiệm vụ đầy tớ của mình, bằng không, sẽ lỗi trách nhiệm và sẽ bị trừng phạt. 

Đúng thế, "tùy khả năng riêng mỗi người", ông chủ đã khôn ngoan và công bằng trao cho "người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến"Trong khi "người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ". 


Thế rồi những gì đã xẩy ra cho 2 đầy tớ 5 yến và 2 yến, Phúc Âm hôm nay kể tiếp: 

"Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói : 'Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây'. Ông chủ nói với người ấy: 'Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!' Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: 'Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây'. Ông chủ nói với người ấy: 'Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!'"

Còn người đầy tớ được trao cho một yến thì sao, Phúc Âm cũng cho biết số phận bất hạnh không may của người đầy tớ cuối cùng này như sau: 

"Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: 'Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!' Ông chủ đáp: 'Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng".

Vấn đề được đặt ra ở đây về trường hợp người đầy tớ được trao cho một yến bị trừng phạt này đó là tại sao người đầy tớ này trả lại cho chủ nguyên những gì được chủ trao cho, không hề bị mất mát đi một chút nào, mà vẫn bị trừng phạt dữ dội và khủng khiếp như thế?
Xin thưa, người đầy tớ được giao cho một yến này không bị trừng phạt xứng với tội mình không phải bởi không sinh lợi cân xứng với những gì được chủ trao phó cho bằng tinh thần và thái độ của người đầy tớ này. Vấn đề then chốt là ở chỗ tại sao người đầy tớ này không chịu sinh lợi cho chủ? Nếu không phải tại vì con người này không muốn làm "đầy tớ" cho chủ: "tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi", nghĩa là cho rằng chủ lợi dụng sức lực của mình để hưởng thụ, nên không muốn phục tùng, không muốn đáp ứng, không làm theo ý chủ, nghĩa là ngấm ngầm chống đối chủ, truất phế chủ, và gián tiếp tự cho mình là chủ, ở chỗ làm theo ý mình hơn là ý chủ. 
Tất cả vấn đề là ở chỗ đó, và người đầy tớ được trao cho một yến này bị trừng phạt cũng là vì vậy, chẳng khác gì như trường hợp của Luxiphe, con khủng long, ngay từ ban đầu đã dám cả gan chống lại ý định nhập thể Thiên Chúa, không chịu phục tùng ý định tối thượng của Ngài, coi ý mình hơn ý Chúa, như thể truất phế Thiên Chúa, cho mình mới là Thiên Chúa, nên hắn cùng 1/3 ngụy thần theo hắn đã bị trừng phạt vậy (xem Khải Huyền 12:4,9).
Cốt lõi của vấn đề ở đây là có nhận biết Thiên Chúa và kính mến Thiên Chúa mới gắn bó với Ngài và làm theo ý của Ngài, như hai người đầy tớ 5 yến và 2 yến. Mà tình yêu Thiên Chúa bất khả phân ly với tình yêu tha nhân, ở chỗ có kính mến Thiên Chúa thì mới phục vụ tha nhân, hay ngược lại việc phục vụ tha nhân được thúc đẩy và chi phối bởi tình yêu Thiên Chúa. Người đầy tớ được trao cho một yến trong bài Phúc Âm hôm nay không muốn sinh lợi cho chủ cũng có nghĩa là không muốn làm tôi phục vụ anh chị em của mình, trái lại, muốn người khác phải phục vụ mình

Nếu người đầy tớ được trao cho 1 yến trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay tưởng mình khôn ngoan, còn những người được trao cho 2 yếu hay 5 yến là dại khờ, ở chỗ, họ chỉ làm tôi cho chủ và mang lại lợi ích cho chủ, chứ chính họ chẳng được gì hết, không như chính đương sự, khôn ngoan hơn người, ở chỗ chỉ muốn những gì mang lại lợi lộc cho mình mà thôi, hơn là cho chủ, tuyệt đối không muốn và không thể làm tôi phục vụ chủ, thì không ngờ những lý lẽ khôn ngoan nhất của hắn lại là cái dại hơn ai hết và dại hơn bao giờ hết, đến độ, bản thân kh6n ngoan của hắn và cuộc đời chỉ muốn hưởng thụ của hắn, cuối cùng, bị hư đi đời đời, đúng như triết lý khôn ngoan bất diệt của Thiên Chúa, đó là ai giữ sự sống mình sẽ bị mất nó, còn ai mất sự sống mình vì Ngài thì lại giữ được nó muôn đời (xem Gioan 12:25). Thánh Phaolô đã thực sự cảm nhận được cái khôn ngoan của Thiên Chúa trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Điều mà thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi. Thiên Chúa đã chọn những điều hèn hạ đối với thế gian, những điều bị khinh chê, những điều không không, để phá huỷ những điều hiện hữu, hầu mọi xác thịt không thể vinh danh trước mặt Người".

       

Người đầy tớ trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay được chủ tưởng thưởng vì đã nỗ lực sinh gấp trăm những gì chủ trao cho mình, 2 sinh 2, 5 sinh 5, chắc chắn sẽ là những con người thấm thía cảm nghiệm thấy tâm tình của bài Thánh Vịnh 32 ở Bài Đáp Ca hôm nay như sau:

 

1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta. 

2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người; nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.

3) Linh hồn chúng tôi mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng tôi. Bởi vậy, lòng chúng tôi hân hoan trong Chúa, chúng tôi tin cậy ở thánh danh Người.

 

Từ tấm bé đã vào hoang địa
Lánh cuộc đời đô thị phồn hoa,
Cốt sao phòng bị ngăn ngừa
Hồn thiêng vương vấn uế nhơ bụi trần.

Lông dã thú quấn thân làm áo,
Bện da chiên chế tạo dây lưng,
Đồ ăn thức uống thường dùng :
Cào cào, châu chấu, mật rừng, nước khe.

Các ngôn sứ muốn bì sao đặng,
Họ chỉ loan ánh sáng đến thôi,
Gio-an Tẩy Giả riêng ngài
Trỏ cho thấy Đấng đền thay tội đời.

Tìm xem khắp mọi nơi mọi nước,
Thánh trẻ nào sánh được Gio-an,
Mình ngài đáng tới Gio-đan,
Rửa cho Đấng rửa muôn dân tội tình.

Toàn thiên quốc tôn vinh cảm tạ,
Trước ngai vàng một Chúa Ba Ngôi,
Chúng con khẩn nguyện lòng trời
Ban ơn xá tội cho đời an vui.

Bài đọc 2

Vị tiền hô loan báo Đức Ki-tô sinh ra và chịu chết

Trích bài giảng của thánh Bê-đa Khả Kính, linh mục.

Vị thánh tiền hô loan báo Chúa sẽ sinh ra, rao giảng và chịu chết, đã tỏ ra là người có sức chiến đấu can đảm, xứng đáng được trời cao đoái nhìn. Đúng như Kinh Thánh nói, thiên hạ nghĩ rằng thánh nhân đã bị hành hạ, còn người lại vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử. Chúng ta có lý để vui mừng và long trọng tưởng nhớ sinh nhật của người. Ngày ấy, chính người đã làm cho thành trọng thể do cuộc khổ nạn người chịu. Ngày ấy, chính người đã làm cho nên tươi đẹp bằng máu hồng sáng chói người đổ ra. Chúng ta có lý, để trong niềm vui thiêng liêng, kính nhớ con người đã lấy ấn tử đạo đóng lên chứng từ làm chứng cho Chúa.

Thật vậy, không thể nghi ngờ gì nữa, thánh Gio-an đã chịu tù tội xiềng xích để làm chứng cho Đấng cứu chuộc chúng ta, Đấng mà người đi trước làm tiền hô. Người đã hy sinh cả mạng sống mình vì Đấng ấy. Tuy kẻ bách hại người không đòi người chối bỏ Đức Ki-tô, mà chỉ đòi người đừng nói lên sự thật, nhưng người đã nằm xuống vì Đức Ki-tô.

Đức Ki-tô nói : Chính Thầy là sự thật, nên thánh nhân đổ máu vì sự thật thì cũng là đổ máu vì Đức Ki-tô. Người sinh ra, rao giảng, làm phép rửa trước để làm chứng cho Đấng sẽ sinh ra, rao giảng và làm phép rửa sau. Chính người cũng chịu khổ nạn trước để báo hiệu về Đấng sẽ chịu khổ nạn sau.

Con người cao quý vĩ đại dường ấy, sau một thời gian dài chịu khốn khổ vì xiềng xích, đã chấp nhận đổ máu, chấm dứt cuộc đời trần gian. Con người từng loan báo tin mừng về tự do, thứ tự do từ bình an của trời cao đem tới, lại bị kẻ bất lương giam cầm. Con người đến để làm chứng về ánh sáng, xứng đáng cho chính ánh sáng là Đức Ki-tô gọi là ngọn đèn cháy sáng lại bị nhốt trong bóng tối ngục tù. Chính con người được vinh dự làm phép rửa cho Chúa Cứu Thế, được nghe tiếng Chúa Cha phán về Người, được thấy Thánh Thần ngự xuống trên Người, lại được rửa bằng chính máu đào của mình. Nhưng đối với những người như thánh Gio-an, chịu cực hình nhất thời vì sự thật không những không nặng nề, mà còn nhẹ nhàng và đáng ước ao là đàng khác, vì biết rằng mình sẽ được niềm vui vĩnh cửu làm phần thưởng.

Cái chết mà bản tính nhân loại không tài nào tránh khỏi, thì những người như thánh Gio-an lại ước mong nhận được cùng với cành thiên tuế là sự sống vĩnh cửu nhờ tuyên xưng danh Đức Ki-tô. Do đó, thánh Tông Đồ nói một cách chí lý : Nhờ Đức Ki-tô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. Vậy thánh nhân nói đó là ân huệ của Đức Ki-tô để những người được Thiên Chúa tuyển chọn có thể chịu đau khổ vì Đức Ki-tô, như thánh nhân cũng nói : Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta ?

Gio-an Tẩy Giả siêu quần bạt chúng,
Đời trinh trong như tuyết trắng mỹ miều,
Tay anh hùng tử đạo thích cô liêu,
Vị ngôn sứ đứng đầu trong Cựu Ước.

Xin Đấng Thánh quyền năng dầy công đức
Uốn cho mềm lòng dạ chúng tôi đây,
Nẻo quanh co, ngài uốn lại thẳng ngay,
Đường lồi lõm, ngài san cho bằng phẳng.

Để khi thấy hồn chúng tôi trong trắng,
Chúa Giê-su, Đấng chuộc tội gian trần
Sẽ vui lòng rời gót ngọc viếng thăm
Và ban thưởng muôn hồng ân cứu độ.

Cả thiên quốc dâng Ba Ngôi một Chúa
Lời tôn vinh câu chúc tụng sum hoà,
Kẻ phàm trần mong được Chúa thứ tha
Hầu chung hưởng phúc vinh cùng Đấng Thánh.

 

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho thánh Gio-an Tẩy Giả báo trước mầu nhiệm Con Chúa sinh ra và chịu chết. Xưa thánh nhân đã anh dũng hy sinh vì chân lý và chính đạo thế nào, thì nay xin Chúa cũng cho chúng con biết xả thân làm chứng cho Tin Mừng như vậy. Chúng con cầu xin