SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXIX Thường Niên Năm A và Chẵn
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Is 45, 1. 4-6

"Ta đã cầm tay hữu của Cyrô để bắt các dân suy phục trước mặt nó".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán cùng Cyrô, kẻ xức dầu của Chúa mà Ta đã cầm tay hữu nó, để bắt các dân suy phục trước mặt nó, bắt các vua quay lưng lại, mở các cửa trước mặt nó, và các cửa không được đóng lại:

Nhân vì Giacóp tôi tớ Ta, và Israel kẻ Ta kén chọn, Ta đã gọi đích danh ngươi: Ta đã kêu gọi ngươi khi ngươi không nhận biết Ta. Ta là Chúa, và chẳng còn chúa nào khác: ngoài Ta ra, không có Thiên Chúa nào nữa. Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta, để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa, và chẳng có chúa nào khác.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 95, 1 và 3. 4-5. 7-8. 9-10a và c

Ðáp: Hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang (c. 7b).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.

2) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. - Ðáp.

3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa. - Ðáp.

4) Mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Tx 1, 1-5b

"Tôi hằng nhớ đến đức tin, đức cậy và đức mến của anh em".

Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Phaolô, Silvanô và Timôthêu kính gửi giáo đoàn thành Thêxalônica trong Thiên Chúa Cha và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an.

Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em, trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng; tôi nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta. Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần và với lòng xác tín.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 22, 15-21

"Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho ông Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: "Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế". Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: "Hình tượng và danh hiệu này là của ai?" Họ thưa rằng: "Của Cêsarê". Bấy giờ Người bảo họ rằng: "Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".

Ðó là lời Chúa.

Stewardship Reflection on Lectionary Readings: October 19, 2014 - Catholic  Stewardship Consultants, Inc.

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Đừng có mà tưởng bở ...

 

Lịch sử và thực tế cho thấy, con người nói chung và con người vô thần nói riêng, kể cả thành phần nhận mình là hữu thần mà sống như vô thần, thì họ có nhiều lầm tưởng lắm. Họ cho mình làm được những gì họ nghĩ theo khả năng tự nhiên hay trau dồi của họ và được làm những gì họ muốn liên quan đến luân thường đạo lý. Chẳng hạn, theo lập luận  của con người văn minh tân tiến về nhân bản tột đỉnh hiện nay, họ lấy lý thân xác là của họ và cái mầm thai hoặc cái thai còn non trong tử cung của họ chỉ là một cục thịt nên họ có quyền trên thân xác của họ (như luật nhân tạo cho phép) để trục xuất cục thịt ấy ra khỏi thân xác độc quyền của họ. 

Thế nhưng, thử hỏi họ nhé: 1- thân xác của họ từ đâu mà có, hay họ tự nhiên mà có không cần ai dựng nên và không cần phải được sinh ra, và 2- nếu họ chính là cục thịt mầm thai hay cái thai non bị trục xuất ấy thì họ có muốn bị mẹ của họ phá thai hủy hoại họ như họ phá đi cái thai họ cưu mang hay chăng? 3- họ có biết rằng nếu cục thịt ấy không phải "là" người thì nó sẽ không bao giờ phát triển thành hình thể của một con người, (chứ phải thành hình thể của một con vật hay một đồ vật), trong tử cung là người của họ, 4- bởi thế họ trục xuất cục thịt là người ấy họ đã sát hại một con người, dù bấy giờ mầm thai ấy hay cái thai non ấy chưa thành hình dạng con người, nhưng nếu không có cục thịt người ấy thì không thể nào thành hình dạng của một con người như họ. 

Trong lịch sử cũng thế, các chính trị gia cũng cứ tưởng mình có quyền là do khả năng và thế giá của mình, nên muốn làm gì thì làm, bất chấp công ích hay quần chúng. Thế nhưng, như thực tế cho thấy, để được bầu làm tổng thống, trong thời gian tranh cử, họ đã làm hết cách để mị dân, làm tôi dân chúng, cho dù gian trá, hầu chiếm được phiếu bầu của dân. Thậm chí có những Kitô hữu bất chấp đức tin của mình để giữ lấy vị thế chính trị đang lên của mình hay cần được tái đắc cử của mình, bằng cách phò phá thai, phò đồng tính hôn nhân, phò triệt sinh an tử hay triệt sinh trợ tử v.v. 

Đó là lý do trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXIX Thường Niên Năm A hôm nay, để trả lời cho thành phần công chính kiểu đạo theo (theo ý nghĩ, ý thích và ý riêng của mình) hơn là theo đạo (là tinh thần luật, là lòng thương xót, là phục vụ hơn hưởng thụ, là cho đi phúc hơn nhận lãnh v.v.) đã đặt vấn đề với Chúa Giêsu, âm mưu "bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói": "Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?", Chúa Giêsu liền trả lời khiến họ cứng họng, đang khôn ngoan sáng suốt trở thành lẩn thẩn như thể đã bị một tay cao thủ giáng cho một đón chí tử làm họ choáng váng cả mặt mày: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa". 

Đối với họ, với thành phần biệt phái và kinh sư mà trong số họ có nhiều người đóng vai trưởng tế và kỳ lão trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái thì cho dù tận đáy lòng muốn lật đổ đế quốc Roma đấy, vẫn mong muốn có một vị cứu tinh thiên sai nào đó như thời các quan án hậu xuất hành để cứu đất nước và dân tộc của họ, nhưng vì căm thù ghen ghét Chúa Giêsu Kitô đến tận xương tủy và không đội trời chung mà họ thà làm tôi cho Cesa còn hơn làm tôi cho Thiên Chúa trong việc chấp nhận Con Thiên Chúa làm Người là Đức Giêsu Kitô: "Chúng tôi không có một vua nào khác ngoài Cesar" (Gioan 19:15). 

Họ đã không trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa là công nhận Đấng Ngài sai đến với họ, trái lại, họ lại trả về cho Cesar những gì không thuộc về Cesar là lòng thần phục của họ, coi Cesar hơn Thiên Chúa làm người ở giữa họ. Thật ra, trong câu Chúa Giêsu nói: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa" không phải là một tách biệt trần tục là trần tục, thế quyền là thế quyền, cái gì thần linh là thần linh, thần quyền là thần quyền, không dính dáng gì với nhau, trái lại, cả hai đều từ Chúa và đều phải cùng nhau qui về Ngài.  

Bởi thế, để áp dụng nguyên tắc này: "cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa", Kitô hữu nói riêng, trước hết, cần phải công nhận quyền bính thế tục và tuân phục quyền bính thế tục, như "trả về cho Cesar những gì của Cesar", tuy nhiên, việc công nhận và tuân phục quyền bính thế tục này nơi họ cần phải được tỏ ra và thực hiện bằng một tinh thần đức tin siêu nhiên, ở chỗ vì Chúa là Đấng ban quyền bình thế tục mà công nhận và tuân phục, có thế họ mới "trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa", trong khi họ  "trả về cho Cesar những gì của Cesar".  

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng tiên tri isaia, Thiên Chúa cũng đã nhắc nhở cho Vua Cyrô, "kẻ xức dầu của Chúa", về thân phận cùng vai trò của ông là người được Ngài tuyển chọn và sử dụng "để bắt các dân suy phục trước mặt nó", nhờ đó ông nhận thức được bản thân mình mà đừng tỏ ra ta đây khi thấy các dân nước thuần phục ông, vì Ngài muốn tỏ mình ra cả nơi ông nữa, như chính Ngài phán cùng ông rằng:  

"Nhân Giacóp tôi tớ Ta, và Israel kẻ Ta kén chọn, Ta đã gọi đích danh ngươi: Ta đã kêu gọi ngươi khi ngươi không nhận biết Ta. Ta là Chúa, và chẳng còn chúa nào khác: ngoài Ta ra, không có Thiên Chúa nào nữa. Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta, để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa, và chẳng có chúa nào khác". 

Copn người nói chung và cách riêng thành phần được Thiên Chúa sử dụng trong lãnh vực chính trị hay tôn giáo mà biết "trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa", thì họ sẽ cảm nhận được sâu xa thấm thía tâm thức và tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay: 

1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.

2) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh.

3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa.

4) Mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.

 

Trong đoạn mở đầu bức Thư thứ nhất gửi Giáo Đoàn Thessalonica, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã cho biết rằng đời sống của các Kitô hữu thuộc thành phần dân ngoại trở lại này đã "trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa" ở "sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta", vì chính họ đã được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn: "Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần và với lòng xác tín".


 


Thứ Hai

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 2, 1-10

"Người làm cho chúng ta sống lại trong Ðức Kitô, và đồng ngự trị trên nước trời".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, khi anh em đã chết vì những lỗi lầm và tội lỗi anh em, thì trong những tội lỗi đó, xưa kia anh em đã từng sống theo dòng thời gian của thế giới này, theo thủ lãnh chủ quyền của không khí này, tức là tà thần hiện giờ còn hoạt động trong những con người không vâng phục. Trong những tội lỗi đó, cả chúng tôi nữa, xưa kia tất cả chúng tôi cũng sống theo dục vọng xác thịt của chúng tôi, làm theo những thèm muốn xác thịt và những tư tưởng gian tà, và tự nhiên bấy giờ chúng tôi cũng là những con người đáng giận ghét như các người khác.

Nhưng Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến đỗi khi tội lỗi làm chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Ðức Kitô. Nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời trong Ðức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô.

Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Ðiều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải là do việc làm, để không ai được tự phụ. Vì chúng ta là thụ tạo của Người, đã được tạo thành trong Ðức Giêsu Kitô, để làm các việc lành mà Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 99, 2. 3. 4. 5

Ðáp: Chính Chúa đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người (c. 3b).

Xướng: 1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan phấn khởi. - Ðáp.

2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người; ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. - Ðáp.

3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui, hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.

4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 13-21

"Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi". Người bảo kẻ ấy rằng: "Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?" Rồi người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".

Người lại nói với họ thí dụ này rằng: "Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: "Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?" Ðoạn người ấy nói: "Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi, mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi!" Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?" Vì kẻ tích trữ của cải cho mình, mà không làm giàu trước mặt Chúa, thì cũng vậy".

Ðó là lời Chúa.

 

IL MIO AMICO GESÙ: Dal Vangelo secondo Luca - Lc 12, 13-21 - Quello che hai  preparato, di chi sarà?

Suy Nghiệm Lời Chúa

 


Đồ ngu...

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXIX Thường Niên, là bài Phúc Âm tiếp ngay sau bài Phúc Âm của Thứ Bảy tuần trước, và cả 2 bài Phúc Âm, cùng với Bài Đọc 1 của từng ngày, đều nhắm đến vấn đề người công chính sống bởi đức tin. 

Thật vậy, chính đức tin mới chứng tỏ ai là người công chính và ai là người không công chính hay chưa công chính. Mà đức tin không thể tách rời với thử thách, tức những thử thách liên quan tới bản tính tự nhiên, tới giác quan thực nghiệm, tới ý nghĩ phàm nhân cho dù là hợp lý, tới ý muốn tự do cho dù là tốt lành v.v. 

Đề tài người công chính sống bởi đức tin cũng được chính Chúa Giêsu áp dụng trong bài Phúc Âm hôm nay, qua dụ ngôn Người huấn dụ về khuynh hướng tự nhiên nơi con người thường tham lam vô đáy và chỉ muốn hưởng thụ tối đa, chẳng biết đến yêu thương bác ái là gì, đến nỗi họ chỉ biết có thiên đường trần gian mà quên mất linh hồn bất t đời sau của mình:

"Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: 'Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?' Ðoạn người ấy nói: 'Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi, mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi!' Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: 'Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?' Vì kẻ tích trữ của cải cho mình, mà không làm giàu trước mặt Chúa, thì cũng vậy".

"Nếu được lợi lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì" (xem Mathêu 16:26) thì quả thật: "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?". Đó là lý do Chúa Giêsu đã cảnh giác "người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi'" rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình cho khỏi mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".

Ở đây, Chúa Giêsu chẳng những cảnh báo cho người anh tham lam không chịu chia gia tài cho người em mà còn cảnh giác cả người em bị thiệt phần gia tài bị anh lấy mất nữa. Đó là lý do Chúa Giêsu không sử dụng đại danh từ số ít "ngươi" / "bạn" mà là số nhiều "các ngươi" / "quí vị", như thể Người khuyên người em rằng có lấy được phần gia tài của mình chăng nữa cũng chẳng ích lợi gì, cũng không quan trọng bằng phần rỗi đời đời của anh ta, đôi khi còn vì của cải mà mất linh hồn nữa. Trái lại, anh ta có thể lợi dụng chính những bất công và thua thiệt về vật chất ấy để sống đức tin, để sống nghèo khđể sống thiếu thốn, nhờ đó anh ta mới có thể càng thêm lòng trông cậy mọi sự nơi Đấng Quan Phòng Thần Linh. 

 

Người phú hộ "đồ ngu" trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay là một con người tiêu biểu cho con người cũ của Kitô hữu chúng ta, như Thánh Phaolô đã nhắc nhở Kitô hữu Giáo đoàn Ephêsô ở Bài Đọc 1 hôm nay:

 

"Anh em thân mến, khi anh em đã chết vì những lỗi lầm và tội lỗi anh em, thì trong những tội lỗi đó, xưa kia anh em đã từng sống theo dòng thời gian của thế giới này, theo thủ lãnh chủ quyền của không khí này, tức là tà thần hiện giờ còn hoạt động trong những con người không vâng phục. Trong những tội lỗi đó, cả chúng tôi nữa, xưa kia tất cả chúng tôi cũng sống theo dục vọng xác thịt của chúng tôi, làm theo những thèm muốn xác thịt và những tư tưởng gian tà, và tự nhiên bấy giờ chúng tôi cũng là những con người đáng giận ghét như các người khác".

 

Còn những ai thà chịu thua thiệt trên trần gian này, thua thiệt tất cả mọi sự mà được vĩnh phúc còn vô cùng quí báu hơn mọi sự trên đời này, như Chúa Giêsu nhắc nhở trong bài Phúc Âm hôm nay, trực tiếp cho người muốn Người can thiệp về vấn đề chia gia tài cho họ, và gián tiếp cho tất cả những ai nghe Người bấy giờ, ở chỗ "giữ mình cho khỏi mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu", thì lại cảm thấy được dịp sống đức tin cứu rỗi hơn bao giờ hết, nhờ đó, họ chẳng những được thông phần vào "sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô", và còn nhờ đó, họ là thành phần "đã được tạo thành trong Ðức Giêsu Kitô", có thể "làm các việc lành mà Chúa đã dự liệu", như Thánh Phaolô cảm nhận và nhắc nhở Kitô hữu Giáo đoàn Êphêsô trong bài Đọc 1 hôm nay.

 

Đúng thế, chỉ có những tâm hồn Kitô hũu nào chỉ biết "tìm Nước Thiên Chúa trước" (Mathêu 6:33), sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian (xem Gioan 17:14,16), "dùng của đời này như không sử dụng" (1Corinto 7:31), mới có thể cảm thấy được tâm tình hân hoan thanh thản của thánh vịnh gia trong Thánh Vịnh 99 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan phấn khởi.

2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người; ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. .

3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui, hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người.

4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ.

 



Thứ Ba

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 2, 12-22

"Chính Người là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, khi ấy anh em không có Ðức Kitô, anh em bị đặt ra ngoài cộng đồng Israel, anh em là những người xa lạ đối với những giao ước, không được cậy trông lời hứa và cũng không được biết Thiên Chúa ở cõi đời này. Xưa kia anh em là những kẻ ở xa, thì nay trong Ðức Giêsu Kitô, anh em đã nên gần nhờ bửu huyết của Người. Chính Người là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một, đã phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt sự hận thù trong thân xác của Người, tức là bãi bỏ lề luật cũ với những thể lệ, để kiến tạo cả hai nên một người mới, đem lại bình an, dùng thập giá giải hoà hai dân tộc trong một thân thể với Thiên Chúa. Nơi Người, mối thù nghịch đã bị tiêu diệt, và Người đã đến loan báo Tin Mừng bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Và chính nhờ Người mà chúng ta đôi bên được đến gần Cha trong cùng một Thần Trí.

Vì vậy, anh em không còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ và các Tiên tri, có chính Ðức Giêsu Kitô làm đá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa; trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14

Ðáp: Chúa phán bảo về sự bình an cho dân tộc Người (c. 9).

Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. - Ðáp.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.

3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 17, 17b và a

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 35-38

"Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

IL MIO AMICO GESÙ: Dal Vangelo secondo Luca - Lc 12, 39-48 - A chiunque fu  dato molto, molto sarà chiesto.

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 


Chủ mà cũng không có chìa khóa vào nhà... phải gõ cửa chờ mở ra cho

 

 

Trong Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XXIX Thường Niên hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta thấy hình ảnh sống động về một con người công chính sống bởi đức tin như thế nào, qua những gì Người nói với các môn đệ của Người sau đây: 

"Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay c
ho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy". 

Người công chính sống bởi đức tin ở đây, theo lời Chúa dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước hết và trên hết, đó là một con người luôn có thái độ "tỉnh thức", bằng cách "thắt lưng" (hy sinh, bỏ mình, làm chủ bản thân) và "cầm đèn cháy sáng trong tay" (cây đèn đức tin cháy lửa đức mến bằng dầu đức cậy)nhờ đó, họ mới có thể tiếp nhận chủ của họ khi người chủ của họ "đi ăn cưới về".  

Kinh nghiệm sống đạo cho thấy một khi Kitô hữu sống buông thả theo bản tính tự nhiên, không khổ chế, không hãm mình, không "thắt lưng", thì hậu quả bất khả tránh đó là ngọn đèn đức tin của họ không thể hay khó lòng cháy sáng được, vì ngọn đèn này bị đam mê nhục dục và tính mê nết xấu của họ dập tắt mất bằng đủ mọi thứ tội lỗi của họ 

Về thời giờ chủ của họ trở về mà họ không "tỉnh thức" không thể đón nhận Người, là vì thời giờ ấy không dễ đoán trước hay ngay giữa ban ngày, song vào "canh hai hoặc canh ba", (nghĩa là vào khoảng "nửa đêm" như trong dụ ngôn 10 trinh nữ - Mathêu 25:6 - "canh hai" từ 9 giờ tối tới nửa đêm "hay canh ba" từ nửa đêm tới 3 giờ sáng), một thời giờ vừa đêm tối về thời gian vừa buồn ngủ về nhân gian. 

Thời điểm được Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Người phải "tỉnh thức" trong bài Phúc Âm hôm nay đây có thể hiểu về thời điểm Người tái giáng, Người đến lần thứ hai, thời điểm Người "ăn cưới về", nghĩa là thời điểm xẩy ra sau khi Người nhập thể (để hiệp nhất nên một với nhân loại nơi ngôi vị hai bản tính của Người) cũng như sau khi Người cứu thế (nhờ đó đã phát sinh ra một Nhiệm Thể Giáo Hội hiền thê của Người trên cây Thánh Giá).  

Nếu "những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức" để có thể nghênh đón Người và tiếp nhận Người như Người mong muốn, nghĩa là họ còn nhận biết Người, như Người tỏ mình ra cho họ, thì phúc cho họ, bởi vì họ chẳng những gặp lại Người, mà nhất là còn được hiệp nhất nên một với Người, "được thông phần với Thày" (Gioan 13: 8), đến độ: "chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng", như Người cũng đã thực sự thắt lưng và hạ mình xuống rửa chân cho mỗi và mọi tông đồ trong Bữa Tiệc Ly ngày xưa (xem Gioan 13:4-5), nghĩa là được Người "yêu cho tới cùng" (Gioan 13:1) để nhờ đó các môn đệ của Người có thể sinh muôn vàn hoa trái trong họ và qua họ 

Nguyên việc chính chủ cũng không có chìa khóa mà phải "gõ cửa" để đầy tớ của mình mở cửa cho mà vào trong nhà, hay cho dù chủ có chìa khóa chăng nữa mà cũng không tự động mở vào, đã cho thấy người chủ này rất tôn trọng đầy tớ của mình, và hoàn toàn tin tưởng đầy tớ của mình. Đến độ, có thể nói, ông đã cho đầy tớ được quyền làm chủ, thay ông làm chủ trong thời gian ông đi vắng. Phải chăng ở đây bao gồm cả ý nghĩa quyền bính của riêng vị lãnh đạo Phêrô và các vị thừa kế ngài là các vị giáo hoàng trong giòng thời gian được trao cho "chìa khóa Nước Trời" (Mathêu 16:19), cũng như của chung các tông đồ và các vị giám mục thừa kế các ngài trong việc đóng mở (Mathêu 18:18). 

Thật vậy, "chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ" "những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức", thành phần đầy tớ làm công cho chủ, hoàn toàn không xứng đáng được chủ yêu thương quá như vậy, bởi thân phận của họ chẳng những không ngang hàng với chủ như bạn hữu hay thân nhân ruột thịt, mà còn là một tạo vật tội lỗi xấu xa vô cùng hèn hạ trước nhan Người là Thiên Chúa của họ nữa.  

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa thích tới vào lúc đen tối ("canh hai hoặc canh ba"), mà đen tối ám chỉ ma quỉ, gian dối, chết chóc? Trước hết, Chúa không thích đêm tối, một tình trạng chỉ ở nơi loài tạo vật bất toàn, nhất là nơi thành phần hư đi, bao gồm cả thiên thần sa đọa và loài người, Ngài không thích những gì là gian ác, dối trá, phản lại với bản tính chân thật và toàn thiện của Ngài.  

Bởi vậy, sở dĩ Chúa hay đến vào lúc đêm tối là vì để cứu độ con người cho khỏi "quyền lực tối tăm" (Colose 1:13) là tội lỗi và sự chết, bởi "con người thích tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan 3:19), thích đường rộng hơn vào cửa hẹp (xem Mathêu 7:13-14), thích sống theo bản tính tự nhiên buông thả hơn là "thắt lưng" hy sinh hãm mình khổ chế, không dám chấp nhận ánh sáng là tất cả sự thật về mình, không sống theo đức tin như "cầm đèn sáng trong tay".  

Như thế, bất cứ khi nào cuộc đời của Kitô hữu cảm thấy tăm tối nhất, khốn khổ nhất, gian nan nhất, hầu như chẳng còn lối thoát, trước mắt chỉ còn tuyệt vọng, thì chính bấy giờ lại là lúc rất thích thuận để "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5) tỏ mình ra, miễn là Kitô hữu biết mình hoàn toàn bất lực, chẳng còn biết trông cậy vào ai, ngoài một mình Đấng Tối Cao có thể cứu mình, Vị Thiên Chúa hằng sống đã hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và sự chết là hậu quả của tội lỗi nơi Con của Ngài, Đấng đã từ cõi chết sống lại, nghĩa là đã từ tối tăm xuất hiện, chứ không phải từ cuộc biến hình trên Núi Tabor, tức là Người cố ý để tối tăm bao phủ Người, sát hại Người, để từ ngay trong lòng của tối tăm tội lỗi và sự dữ ấy Người bừng sáng lên, khiến tối tăm bao trùm Người bị tan biến mất, như hình ảnh đầy ý nghĩa này nơi nghi thức thắp sáng ngay trong tối tăm trước Lễ Vọng Phục Sinh của Giáo Hội.

Trong Thư gửi Giáo đoàn Epheso ở Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô đã nhắc nhở Kitô hữu dân ngoại tình trạng sống trong bình an, thứ bình an được Chúa Kitô Phục Sinh ban cho các môn đệ của Người sau khi Người từ trong cõi chết sống lại, một thứ bình an phục sinh chẳng những giúp họ có thể làm chủ bản thân mình, mà còn làm chủ thế gian và ma quỉ nữa, làm chủ tất cả mọi sự xẩy ra trong đời mình, chứ không hay hay hơn là bị chúng làm bất an, như thể họ luôn sống trước nhan Thiên Chúa, sống trong bàn tay quan phòng vô cùng thần linh của Thiên Chúa. Đối với họ thì lúc nào Chúa cũng đến, vị Chúa đang ở cùng họ, đồng hành với họ, vì họ luôn biết "tỉnh thức" bằng cách "cầm đèn sáng trong tay".

"Chính Người là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một, đã phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt sự hận thù trong thân xác của Người, tức là bãi bỏ lề luật cũ với những thể lệ, để kiến tạo cả hai nên một người mới, đem lại bình an, dùng thập giá giải hoà hai dân tộc trong một thân thể với Thiên Chúa. Nơi Người, mối thù nghịch đã bị tiêu diệt, và Người đã đến loan báo Tin Mừng bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Và chính nhờ Người mà chúng ta đôi bên được đến gần Cha trong cùng một Thần Trí".

Bình an chính là hoa trái cứu độ của Chúa Kitô Phục Sinh cũng như của "Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống", nghĩa là Thiên Chúa muốn ban cho con người bình an, ngay khi Con của Ngài xuống thế (xem Luca 2:13), nhất là sau khi Con của Ngài sống lại từ trong kẻ chết. Và đó là lý do câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay mới có câu: "Chúa phán bảo về sự bình an cho dân tộc Người". Thế nhưng, tình trạng hay tâm trạng bình an là hoa trái của ơn cứu độ đây chỉ cảm nghiệm thấy bởi những ai biết kính sợ Chúa và trung tín mà thôi, đúng như những ý thức của Thánh Vịnh 84 trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.

3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài.

 

 

Ngày 19: 1. Thánh Gioan Brébeuf; thánh Isaac Jogues và các bạn tử đạo

                2. Thánh Phaolô Thánh Giá, linh mục


Thánh Phaolô Thánh Giá

ĐẤNG SÁNG LẬP DÒNG THƯƠNG KHÓ CHÚA GIÊSU

Saint-Paul-of-theCross.jpg

1694 – 1775

Ngay thuở niên thiếu, Thánh Giá là cuốn sách gối đầu của ngài và việc Chúa chịu đóng đinh là khuôn mẫu ngài muốn noi theo

Để tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh

Trích từ những lá thư của Thánh Phaolô Thánh Giá

Hơn nữa, cha ước ao rằng mãi này về sau con sẽ là người chài lưới. Bằng cách nào ư? Hãy theo cách này. Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu là một biển sầu, nhưng đồng thời đó cũng là một đại dương tình yêu. Hãy khẩn cầu Đức Chúa để Ngài hướng dẫn con cách thả lưới trong đại dương này. Con hãy đắm mình vào trong đó, và chớ đặt nặng việc con lặn sâu được bao nhiêu, bởi con sẽ không bao giờ chạm tới đáy. Hãy để tình yêu và sầu khổ thấm nhập vào thân con. Qua cách thế này, con sẽ biến những đau khổ của Chúa Giêsu hiền lành thành của chính con. Con hãy tìm những viên ngọc nhân đức của Chúa Giêsu. Việc tìm kiếm thánh thiêng sẽ được dẫn lối bằng đức tin và tình yêu chứ không bằng lời nói. Những người thả lưới khiêm nhường nhất chính là những người giỏi nhất.

Thánh Phaolô Thánh Giá

Ngày mùng 8 tháng 4 năm 1758

Hãy xua đi những nỗi u sầu nơi trái tim của con, và dẫu con có làm điều gì sai thì cũng đừng nản chí, bởi vì nó sẽ làm hại cho con hơn chính hành vi sai trái. Thay vào đó, con hãy khiêm nhu, hãy van nài sự tha thứ tha của Thiên Chúa, hãy quyết tâm làm điều tốt hơn trong tương lai và hãy hân hoan dấn bước trên hành trình của con

Thánh Phaolô Thánh Giá

Lời nguyện cùng Thánh Phaolô Thánh Giá

Lạy cha Thánh Phaolô,

Là cha và là người anh em của chúng con,

Giờ đây, chúng con đang cùng ngài đứng trước Thập Giá Đức Kitô. Xin tình yêu được thể hiện cho chúng con nơi thập giá của Đức Kitô chiếm lấy khối óc, con tim và đời sống chúng con. Ngài đã noi gương Chúa Giêsu chịu đóng đinh, thì xin cho chúng con cũng gạt bỏ mọi sự, mà khao khát mỗi thánh ý của Thiên Chúa và làm cho sự tưởng niệm về cuộc Thương Khó và sự Chết của Chúa Giêsu Kitô, Đấng là hy vọng duy nhất của chúng con, luôn sống mãi. Amen.

Thánh Phaolô Thánh Giá

Khoảng những năm 1715 – 1716, với niềm khát khao phục vụ Đức Kitô, Thánh Phaolô Thánh Giá đã đến Venice để đăng ký nhập ngũ. Từ nguồn cảm hứng về lý tưởng Thập Tự Chinh, ngài ước ao đấu tranh chống lại quân Đạo Hồi đang đe dọa cả Châu Âu thời đó. Ngày nọ, trong khi Chầu Thánh Thể, ngài nhận ra lý tưởng Thập Tự Chinh không phải là ơn gọi của ngài. Khi đó, ngài xuất ngũ nhưng vẫn ở lại Venice một thời gian để chăm sóc gia đình một người quen. Sau đó, Thánh nhân trở về nhà. Dẫu người chú linh mục đã để lại cho ngài thừa hưởng khối tài sản lớn với mong muốn ngài lập gia đình nhưng Thánh nhân đã từ chối ý định đó.

Thánh Phaolô Thánh Giá sinh ngày 3 tháng 1 năm 1694 tại Ovada, nước Ý. Sau đó, gia đình ngài dời đến Castellazzo Bormida, cách nơi ngài sinh ra không xa. Từ thuở bé, người mẹ đã dạy ngài tìm thấy sức mạnh từ cuộc Thương khó Chúa Giêsu để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Được đốt cháy bởi tình yêu dành cho Chúa Giêsu chịu đóng đinh từ lúc còn nhỏ, Thánh Phaolô Thánh Giá ước mong dâng hiến trọn đời cho Người. Một lần, khi bị ốm, Thánh nhân có một thị kiến về hỏa ngục khiến ngài khiếp sợ. Sau đó không lâu, ngài đã được Chúa linh hứng về tình yêu của Chúa Giêsu chịu đóng đinh qua một bài giảng. Ngài xem khoảnh khắc đó như là thời điểm của “sự trở lại” của mình.

Liên quan việc tưởng nhớ sự kiện Chúa Giêsu chịu đóng đinh, theo một nhân chứng, qua một thị kiến về Đức Nữ Đồng Trinh, Thánh Phaolô Thánh Giá đã nhận ra áo dòng, huy hiệu và lối sống mà ngài phải bước đi. Đó là một cuộc sống hoàn toàn dâng hiến cho Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Sau khi tham vấn một số vị giải tội khôn ngoan, ngài được Đức Giám Mục Gattinara thành Alessandria khoác lên người chiếc tu phục của Dòng Thương Khó Chúa Giêsu ngày 22 tháng 11 năm 1720. Sau đó, ngài đã dành 40 ngày tiếp theo để làm một cuộc tĩnh tâm trong phòng thánh của nhà thờ Thánh Chales tại Castellazzo. Những kinh nghiệm và cảm nghiệm về đời sống tâm linh của ngài trong suốt 40 ngày mà ngày nay chúng ta được biết đến qua cuốn “Nhật Ký Thiêng Liêng”. Cũng trong khoảng thời gian tĩnh tâm 40 ngày đó, ngài đã soạn thảo tu luật dành cho những anh em tu sĩ tương lai. Họ là những người mà Thánh nhân gọi là “Người Nghèo của Chúa Giêsu”. Trong một cuộc thăm viếng, em ngài là John Baptist xin chia sẻ đời sống cùng ngài nhưng Thánh nhân đã từ chối lời yêu cầu ấy, chí ít trong khoảng thời gian này.

Sau trải nghiệm 40 ngày, Đức Giám mục đã cho phép Thánh nhân được sống trong môi trường ẩn tu tại nhà thờ Thánh Stephen thuộc giáo xứ Castellazzo và cộng tác vào công việc mục vụ với tư cách là một giáo dân. Trong suốt mùa hè năm 1721, Thánh Phaolô Thánh Giá đi tới Rôma với ý định trình bày với Đức Thánh Cha về những linh hứng liên quan đến hội dòng tương lai. Những người gác cổng điện Quirinal (nơi ở của Đức Giáo Hoàng thời đó) đã không cho phép Thánh nhân vào vì nghĩ rằng ngài là kẻ ăn xin.

Lời Khấn Đầu Của Dòng Thương Khó Chúa Giêsu. Chấp nhận việc xỉ nhục vừa rồi, theo gương Chúa Giêsu chịu đóng đinh, Thánh Phaolô Thánh Giá đi đến Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả và đứng trước ảnh Thánh, Đức Bà Salus Populi Romani (Sự cứu rỗi dân Rôma), ngài đã khấn dâng mình cho việc loan truyền sự tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô.

Trên hành trình trở về nhà, ngài dừng chân một thời gian ở Orbetello, tại tu viện của Dòng Truyền Tin trên núi Argentario. Khi đến Castellazzo, Thánh nhân hội ngộ cùng em ngài là John Baptist. Ngay sau đó, cả hai rời nơi ấy đi lên núi Argentario và sống như những vị ẩn tu. Sau đó, Đức Giám mục Pignatelli mời họ đến tu viện tại Madonna della Catena, Giáo phận Gaeta. Đức Giám mục Cavalieri tiếp tục cho phép họ sống ở Troia trong một thời gian. Sau đó, hai anh em trở về đền thờ Đức Mẹ Civita thuộc Giáo phận Gaeta. Họ đã nỗ lực rất nhiều để thành lập một cộng đoàn nhưng thất bại. Để rao giảng về Cuộc Thương Khó, họ cần phải thụ phong linh mục, vì thế cả hai cùng tới Rôma. Trong khi học thần học, họ đã chăm sóc các bệnh nhân da liễu tại bệnh viện San Gallicano. Hai anh em có cơ hội được nói chuyện với Đức Thánh Cha khi ngài thăm nhà thờ Navicella trên đồi Celian. Qua lời hứa, ngài đã cho phép hai anh em thành lập cộng đoàn trên Núi Argentario. Năm 1727, sau khi thụ phong linh mục, hai anh em rời Rôma đến sống tại núi Argentario.

Rao truyền Cuộc Thương Khó Chúa Kitô. Lúc đầu, hai anh em thi hành mục vụ cho những ngư dân, các tiều phu và những người chăn chiên. Không lâu sau, nhiều anh em khác đã gia nhập với các ngài. Trong số đó, Antonio là em của ngài và một vài người khác đã được thụ phong linh mục. Đức Giám mục đã yêu cầu họ giảng đại phúc tại cho các xứ trong vùng. Khi chiến tranh xảy ra trong bang Garrison, Thánh Phaolô Thánh Giá đã chăm sóc các thương binh của cả hai bên. Mọi người luôn chào đón sự hiện diện của ngài

Nhà tĩnh tâm đầu tiên đã khánh thành vào năm 1737 và được dâng hiến cho Đức Mẹ Dâng Mình. Sau đó, Thánh Phaolô Thánh Giá đệ trình hiến luật mới của hội dòng lên Rôma.  Sau khi điều chỉnh, Đức Giáo Hoàng Benedicto XIV đã phê duyệt luật dòng vào năm 1741.

Đấng Sáng Lập Dòng Thương Khó Chúa Giêsu là một trong những nhà giảng thuyết nổi bật thời bấy giờ như Thánh Leonard vùng Maurica và Thánh Alphonsus Liguori. Họ là những người mà Thánh nhân đã từng gặp. Vì tình yêu dành cho  Đức Giêsu chịu đóng đinh, Thánh Phaolô Thánh Giá cũng như những vị thánh ấy đã nhiệt tâm cho việc rao giảng đại phúc.

Mặc dù Thánh Phaolô Thánh Giá giữ chức vụ Bề trên Tổng quyền từ năm 1747 trở đi, ngài không ngừng rao giảng hoặc viết thư đồng hành thiêng liêng. Hội dòng phải đối diện với nhiều sự chống đối từ một số thành phần trong hội thánh. Chính vì thế, một số hoạch định thành lập bị trì hoãn cho tới khi Ủy ban Giáo Hoàng thông qua những đánh giá thuận lợi cho Dòng Thương Khó Chúa Giêsu.

Qua những tham vấn và chính mẫu gương của John Baptist, Thánh Phaolô Thánh Giá đã cố gắng không ngừng nhằm giữ tinh thần cô tịch, nghèo khó và cầu nguyện. Năm 1767, trước cái chết của John Baptist, Thánh Phaolô Thánh Giá cảm thấy lạc lõng như một đứa trẻ mồ côi.

Nữ Tu Dòng Thương Khó Chúa Giêsu. Lucia Burlini, một thôn nữ, từng nói chuyện với Thánh Phaolô Thánh Giá về “những chú chim bồ câu trên đồi Canvê”. Hình ảnh này được sử dụng rộng rãi trong giới đan sĩ và tu sĩ. Mặc dầu, Thánh Phaolô Thánh Giá đã nỗ lực trong suốt 40 năm để hiện thực hóa việc thành lập dòng nữ. Nhưng mãi đến 1771, Đan Viện Nữ Thương Khó Chúa Giêsu mới được thành lập tại in Corneto-Tarquinia. Ngài đã bổ nhiệm Mẹ Mary Crocifissa Costantini, một Nữ Đan sĩ Biển Đức, làm Mẹ Bề trên đầu tiên. Đức Giáo Hoàng Clemente XIV đã cho phép mẹ được chuyển đến đan viện mới.

Sau khi Dòng Tên bị giải thể, Đức Giáo Hoàng Clemente XIV đã chuyển các tu sĩ dòng Lazarists (the Fathers of the Missions) đến nhà thờ Sant’Andrea trên đồi Quirinal. Ngài trao cơ sở sinh hoạt và Vương Cung Thánh Đường Gioan và Phaolô (Giovanni e Paolo) trên đồi Celian cho Thánh Phaolô Thánh Giá. Nơi này cách đấu trường Coliseum không xa và đây cũng là nơi Thánh Phaolô Thánh Giá sống những năm tháng cuối đời. Cũng chính nơi đây, Đức Giáo Hoàng Clemente XIV và Đức Giáo Hoàng Pi-ô VI đã tới thăm ngài trong năm 1774 và 1775. Vài tháng sau chuyến thăm viếng của Đức Thánh Cha, Thánh nhân đã qua đời. Thánh tích của Thánh Phaolô Thánh Giá được cất giữ và tôn kính trong Nhà nguyện. Nó được hoàn thành và dâng hiến cho ngài, năm 1880.

https://www.passionists.com/vi/about-the-passionists/st-paul-cross/

 

 


Thứ Tư

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 3, 2-12

"Hiện nay mầu nhiệm của Ðức Kitô đã được mạc khải, các Dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa".

Trích thư Thánh Phaolô Tồng đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, anh em đã nghe biết Thiên Chúa ban phát ân sủng để cho tôi mưu ích cho anh em: vì nhờ ơn mạc khải mà tôi biết được sự mầu nhiệm, như tôi vừa mới viết ra trong ít lời trên kia. Ðọc những lời đó, anh em có thể nhận thức được sự am hiểu của tôi trong mầu nhiệm Ðức Kitô. Mầu nhiệm đó chưa hề tỏ ra cho con cái loài người ở các thế hệ khác được biết, nhưng hiện nay, đã được mạc khải cho các thánh Tông đồ và các tiên tri của Người, trong Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các Dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể, và đồng thông phần lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.

Tôi đã được nên người phục vụ Tin Mừng đó, do ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, bằng cách thi thố sức mạnh của Người. Tôi là kẻ hèn nhất trong các thánh, nhưng đã được ơn này là rao giảng cho Dân ngoại những sự giàu có không thể thấu hiểu được của Ðức Kitô, và soi sáng cho mọi người biết cách thức phân phát mầu nhiệm đã được ẩn giấu từ muôn thuở trong Thiên Chúa, Ðấng tạo thành vạn vật: khiến các chủ thần và quyền thần thiên quốc đều phải nhờ Hội Thánh mới biết được sự khôn ngoan muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa, thể theo dự định từ trước muôn đời mà Ngài đã thi hành trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Người, chúng ta được cậy trông và nhờ lòng tin vào Ngài, chúng ta mạnh dạn đến cùng Ngài.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Is 12, 2-3. 4bcd-5. 5-6

Ðáp: Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng Cứu Ðộ (c. 3).

Xướng: 1) Ðây Thiên Chúa là Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không khiếp sợ: vì Chúa là sức mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi phần rỗi. - Ðáp.

2) Hãy ca tụng Chúa và kêu cầu danh Người, hãy công bố cho các dân biết kỳ công của Chúa, hãy nhớ lại danh Chúa rất cao sang. - Ðáp.

3) Hãy ca tụng, vì Chúa làm nên những việc kỳ diệu, hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn cầu. Hỡi người cư ngụ tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng Thánh Israel ở giữa ngươi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 18

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều kỳ diệu trong luật Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 39-48

"Người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".

Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".

Ðó là lời Chúa.

Il Vangelo del Giorno, 21 ottobre 2015 - Lc 12, 39-48 -

19º DOMINGO DO TEMPO COMUM – ANO C | Raios Luminosos


Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Bao giờ "Con Người sẽ đến"?

Phải chăng không bao giờ vào lúc chúng ta tỉnh thức... mà chỉ vào chính lúc chúng ta vô thức!?!

 

Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXIX Thường Niên, bài Phúc Âm được Thánh ký Luca ghi lại tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua về lời Chúa Kitô khuyên các môn đệ của Người "tỉnh thức" chờ Người đến.  

Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô nói cho các môn đệ của Người biết lý do tại sao các vị cần phải "tỉnh thức": "Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến". 

Đúng thế, chính vì không biết giờ nào "Con Người sẽ đến" mà thành phần môn đệ của Chúa Kitô mới cần phải đợi chờ, mới cần phải nhẫn nại, mới cần phải trông mong. Đời sống trần gian của Kitô hữu quả thực là một mùa vọng, mùa đợi trông ơn cứu chuộc, dù đã được cứu chuộc, nơi Phép Rửa, nhưng lại là một ơn cứu chuộc cần phải bền đỗ đến cùng nữa (xem Mathêu 24:13) mới được, mới hoàn thành, mới nên trọn 

Chính vì thế mà trong Mùa Vọng đợi trông của cuộc đời người Kitô hữu như thế, thành phần môn đệ của Chúa Kitô còn cần phải sống tinh thần của Mùa Chay hướng về Mùa Phục Sinh nữa mới được. Tinh thần của Mùa Chay hướng đến Mùa Phục Sinh này chính là tinh thần "thắt lưng" (tiêu biểu cho Mùa Chay) và "cầm đèn cháy sáng trong tay" (tiêu biểu cho Mùa Phục Sinh) như được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm qua.  

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng vẫn lập lại với các môn đệ tinh thần Mùa Chay hướng về Mùa Phục Sinh này khi Người cảnh báo các vị về một đời sống hưởng thụ vô trách nhiệm đối với vai trò phục vụ của các vị như sau: "nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: 'Chủ tôi về muộn', nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung". 

Như đã suy diễn trong bài Phúc Âm hôm qua, thời điểm trở về của chủ là thời điểm Chúa Kitô tái giáng, tức là thời điểm Người "ăn cưới về". Và vì thế, thành phần "đầy tớ" của người chủ này không ai khác hơn là thành phần môn đệ của Chúa Kitô nói chung và các vị lãnh đạo trong Giáo Hội của Người nói riêng, như Người đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay để trả lời cho câu hỏi của tông đồ Phêrô "Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?": 

"Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình.... Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn". 

Tuy Chúa Kitô không trả lời thẳng cho tông đồ Phêrô là "Thày nói dụ ngôn ấy chỉ về các con đấy chứ còn ai nữa", nhưng nội dung của câu Người trả lời đã ám chỉ về các vị cũng như về thành phần thừa kế các vị là hàng giáo phẩm sau này, qua mọi thời đại, chứ không phải chỉ vào thời tận thế, vì không ai biết lúc nào Người trở lại, nên ai cũng phải tỉnh thức, bằng việc làm theo ý chủ mình qua phần nhiệm được Người trao phó, được Người "đặt" lên thay Người phục vụ, đó là "coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ". 

Ở đây, qua câu này, chúng ta thấy 3 sứ vụ chính yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly của hàng giáo phẩm: sứ vụ quản trị ở chỗ "coi sóc gia nhân mình", sứ vụ rao giảng Lời Chúa và sứ vụ thánh hóa bằng việc ban phát các Bí Tích Thánh, ở chỗ "phân phát phần lúa thóc cho h". Mà phân phát khi "đến giờ" nữa. Hai chữ "đến giờ" này không phải chỉ hiểu theo kiểu hành chính và quan lại, cứ phải xưng tội hằng tuần vào trước giờ lễ chẳng hạn, mà là đáp ứng nhu cầu khẩn trương và ngoại lệ của tín hữu nữa, chẳng hạn họ sắp chết cần xức dầu ngay.  

Tuy nhiên, cũng còn có thể hiểu là có thời Giáo Hội "đến giờ" phải bênh vực chân lý, như sau thời kỳ 300 năm Giáo Hội bị bách hại có những lạc thuyết sai lầm nguy hiểm về Chúa Kitô, qua các Công Đồng Chung như Nicea năm 325, Epheso năm 431 và Contantinople năm 481 v.v. Và có thời Giáo Hội "đến giờ" phải đối thoại với thế giới, phải trở thành men muối trong đời và cho đời, theo tinh thần của Công Đồng Chung thứ 21 là Vaticanô II (11/10/1962 - 8/12/1965), với văn kiện tiêu biểu nhất là Hiến Chế Gaudium et Spes - Vui Mừng và Hy Vọng được ban hành ngày 7/12/1965.

Hơn thế nữa, còn có thời Giáo Hội "đến giờ" phải tỏ lòng thương xót hơn bao giờ hết, một thời điểm kể từ Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II từ Đại Năm Thánh 2000, qua việc ngài phong hiển thánh cho nữ tu Faustina, Sứ Giả của Lòng Thương Xót Chúa, nhất là thời điểm của Đức Thánh Cha Phanxicô, vị giáo hoàng chủ trương nghèo hèn và phục vụ những người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô, cũng là vị giáo hoàng đã bất ngờ mở Năm Thánh Tình Thương (8/12/2015 - 20/11/2016). 

Ở bài Phúc Âm hôm qua, các môn đệ của Chúa Kitô đóng vai "đầy tớ" đối với chủ, nghĩa là mang thân phận làm theo ý chủ chứ không phải làm theo ý riêng mình, thân phận phục vụ chủ chứ không phải hưởng thụ, còn ở bài Phúc Âm hôm nay, các vị lại đóng vai "quản lý" đối với "gia nhân" của chủtuy có quyền "coi sóc gia nhân" của chủ và có quyền "phân phát phần lúa thóc cho họ" khi "đến giờ", nhưng vẫn với tư cách là "đầy tớ" của chủ, được chủ chọn để thay Người phục vụ như Người và với Người, chứ họ thực sự không phải là chủ, không có toàn quyền như chủ

Thành phần sống thân phận "đầy tớ", thân phận lệ thuộc chẳng khác gì thân phận của những kẻ "nô lệ", trong vai trò "quản lý trung tín khôn ngoan" này, như lời Thánh Phaolô Tông Đồ nói trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, quả thực đã "biết rằng: hễ anh em hiến thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của kẻ anh em vâng phục đó sao? hoặc là nô lệ của tội lỗi để rồi phải chết, hoặc là nộ lệ của đức vâng lời để rồi được nên công chính? Nhưng cảm tạ Thiên Chúa, vì xưa kia anh em là nô lệ của tội lỗi, mà nay anh em đã hết lòng vâng theo khuôn mẫu đạo lý đã truyền cho anh em noi giữ. Một khi anh em đã được giải phóng khỏi ách tội lỗi, anh em đã được nhận vào phục vụ đức công chính". 

Đúng thế, chính vì biết phận mình là "đầy tớ" chỉ biết phục vụ theo ý của chủ như thế, nghĩa là "đã hết lòng vâng theo khuôn mẫu đạo lý đã truyền cho anh em noi giữ", mà họ mới đích thực là quản lý của chủ và thay chủ: "Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình": "Một khi anh em đã được giải phóng khỏi ách tội lỗi, anh em đã được nhận vào phục vụ đức công chính". 

Câu Chúa Giêsu hỏi ở trong Bài Phúc Âm hôm nay là: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ?", có thể tìm thấy ngay câu trả lời ở trong Bài Đọc 1 hôm nay về vị tông đồ dân ngoại Phaolô, vị trong Thư gửi Kitô hữu Giáo đoàn Epheso, đã trần tình cùng họ về những gì ngài đã làm cho họ theo ơn gọi và sứ vụ ngài được ủy thác bởi chính Đấng đã hoán cải ngài, kêu gọi ngài, tỏ mình ra cho ngài và sai ngài đi đến tận cùng trái đất để loan truyền "tin mừng" về "mầu nhiệm Đức Kitô", liên quan đến ơn cứu độ của Người, hoàn toàn xuất phát từ chính lòng thương xót Chúa.

 

"Anh em đã nghe biết Thiên Chúa ban phát ân sủng để cho tôi mưu ích cho anh em: vì nhờ ơn mạc khải mà tôi biết được sự mầu nhiệm... Anh em có thể nhận thức được sự am hiểu của tôi trong mầu nhiệm Ðức Kitô. Mầu nhiệm đó chưa hề tỏ ra cho con cái loài người ở các thế hệ khác được biết, nhưng hiện nay, đã được mạc khải cho các thánh Tông đồ và các tiên tri của Người, trong Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các Dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể, và đồng thông phần lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô. Tôi đã được nên người phục vụ Tin Mừng đó, do ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, bằng cách thi thố sức mạnh của Người. Tôi là kẻ hèn nhất trong các thánh, nhưng đã được ơn này là rao giảng cho Dân ngoại những sự giàu có không thể thấu hiểu được của Ðức Kitô, và soi sáng cho mọi người biết cách thức phân phát mầu nhiệm đã được ẩn giấu từ muôn thuở trong Thiên Chúa, Ðấng tạo thành vạn vật..."

 

Bài Đáp Ca hôm nay, trích từ Sách Tiên Tri Isaia đoạn 12 cũng theo chiều hướng của Bài Đọc 1 hôm nay, liên quan đến ơn cứu độ của Thiên Chúa, "Đấng Cứu Chuộc" liên tục tỏ mình ra, bằng tất cả những gì hợp với con người và nhờ đó có thể giúp cho con người tin vào Ngài để được cứu độ:

 

1) Ðây Thiên Chúa là Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không khiếp sợ: vì Chúa là sức mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi phần rỗi.

2) Hãy ca tụng Chúa và kêu cầu danh Người, hãy công bố cho các dân biết kỳ công của Chúa, hãy nhớ lại danh Chúa rất cao sang.

3) Hãy ca tụng, vì Chúa làm nên những việc kỳ diệu, hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn cầu. Hỡi người cư ngụ tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng Thánh Israel ở giữa ngươi.

 

 

 

Thứ Năm


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 3, 14-21

"Anh em đâm rễ sâu và lập nền kiên cố trong đức mến, để anh em được sung mãn trong mọi sự viên mãn của Thiên Chúa".

Trích thư Thánh Phalô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, tôi quỳ gối trước mặt Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là nguồn gốc mọi danh phận làm cha trên trời dưới đất. Xin Người chiếu theo sự giàu có vinh quang của Người và nhờ Thánh Thần của Người, thêm sức mạnh cho anh em được nên người thiêng liêng, và nhờ đức tin, anh em được Ðức Kitô ngự trong lòng anh em, làm cho anh em đâm rễ sâu và lập nền kiên cố trong đức mến, để anh em được hiệp cùng các thánh mà hiểu biết chiều rộng, dài, cao, sâu, và cũng được biết lòng mến của Ðức Kitô vượt quá trí hiểu loài người, để anh em được sung mãn trong mọi sự viên mãn của Thiên Chúa.

Nguyện cho Ðấng toàn năng ban cho chúng ta mọi sự, dư đầy quá sự chúng ta cầu xin hay hoài bão, theo như quyền lực Người thi thố trong chúng ta: nguyện cho Người được vinh quang trong Hội Thánh và trong Ðức Giêsu Kitô, qua mọi thế hệ muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 1-2. 4-5. 11-12. 18-19

Ðáp: Ðịa cầu đầy ân sủng Chúa (c. 5b).

Xướng: 1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa. Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. - Ðáp.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.

3) Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. - Ðáp.

4) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 49-53

"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".

Ðó là lời Chúa.


Ánh sáng Đức Kitô không của riêng ai | Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Chúa Kitô cũng chủ trương bạo lực như những thành phần cực đoan khủng bố....?

 "Thày đến không phải để đem bình an mà là gươm giáo!"

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XXIX Thường Niên, tuy có 4 câu ngắn ngủi nhưng chất chứa nhiều ý nghĩa sâu xa liên quan đến chính bản thân của Chúa Kitô, hơn là đến các môn đệ của Người như 2 bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia, nhưng lại là những gì được Người "phán cùng các môn đệ" chứ không với ai khác, với chung dân chúng hay với riêng thành phần biệt phái và luật sĩ như thường thấy. Nguyên văn của Bài Phúc Âm hôm nay như sau: 

"Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng". 

Có ít là 3 vấn đề chính yếu cần phải tìm hiểu trong bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến bản thân của Chúa Kitô, thứ tự ở ngay 3 câu đầu tiên như sau: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên" (1); "Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất" (2); và "Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ" (3).  

1- "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên".  

"Lửa" đây là gì, nếu không phải là Thánh Thần!?! Vì Người là Đấng "làm phép rửa bằng Thánh Thần" (Gioan 1:33), một phép rửa Người sẽ thực hiện cho thành phần môn đệ tông đồ của Người khi sau khi Người thăng thiên về cùng Cha để sai Thánh Thần từ Cha xuống trên các tông đồ cũng là trên Giáo Hội của Người: "Gioan làm phép rửa bằng nước nhưng trong vòng ít ngày nữa các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần" (Tông Vụ 1:5), Đấng khi hiện xuống vào Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem trên các tông đồ cũng như từng tông đồ, đã mặc lấy hình lưỡi lửa (xem Tông Vụ 2:3). 

2- "Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất". 

"Phép rửa" Chúa Giêsu cần phải chịu đây là gì, như Người cũng đã đề cập với cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIX Thường Niên Năm B đầu tuần này, nếu không phải là chính cuộc khổ giá của Người, một cuộc khổ giá bất khả thiếu mà Người không thể nào tránh được với tư cách là một Đấng Thiên Sai Cứu Thế, một cuộc khổ giá vì thế Người không thể nào không "khắc khoảidấn thân thực hiện "cho đến khi hoàn tấttheo ý của Đấng đã sai Người, và là một "phép rửakhổ giá vô cùng cần thiết cho "phép rửa bằng Thánh Linh" mà Nhiệm Thể Giáo Hội của Người sẽ lãnh nhận. Như thế, Thánh Giá chính là cây đuốc bốc lửa yêu thương và Thánh Linh được chính Chúa Kitô tử giá thắp lên trên thế gian này, bắt đầu ở nơi các tông đồ và trong suốt giòng lịch sử của Giáo Hội qua các chứng từ của Kitô hữu về Người cho đến tận thế.

3- "Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ". 

Nếu chỉ căn cứ vào duy câu nói này thôi của Chúa Kitô thì chắc chắn sẽ không một ai còn lương tâm chân chính trên thế gian này có thể chấp nhận Người là giáo tổ Kitô giáo, trái lại, trong trào lưu bạo loạn và khủng bố khắp nơi ngày nay, họ sẽ cho Người là một tên chúa tể hung ác bạo tàn, chẳng khác gì như những tay lãnh đạo nhóm khủng bố Al Queda hay IS hiện nay, hay những tên chuyên chế độc tài diệt chủng ở thế kỷ 20, và Người sẽ bị cơ quan mật vụ FBI của Mỹ theo dõi sát nút 

Thế nhưng dù sao vẫn không thể nào phủ nhận được sự thật bất khả chối cãi của lời Người khẳng định như thế. Bởi vì, chính Người xuống thế gian là để đem lại bình an cho nhân loại, ở chỗ Người đã tái lập lại mối liên hệ đã bị nguyên tội làm lũng đoạn giữa con người với Thiên Chúa cũng như giữa con người với thiên nhiên tạo vật và với nhau, bằng chính cuộc Vượt Qua của Người.  

Tuy nhiên, tinh thần Phúc Âm trọn lành theo con đường hẹp rất ít người đi của Người và như Người như thế, tự bản chất của mình, đã gây "chia rẽ" nơi xã hội loài người, ở chỗ, tinh thần trọn lành cùng con đường hẹp Phúc Âm của Người đã làm đảo lộn khuynh hướng vị kỷ của trần gian, bằng đường lối "bỏ mình và vác thập giá" (Mathêu 16:24), và đã cách mạng văn hóa hưởng thụ của con người tự nhiên, bằng tinh thần "không để được phục vụ nhưng phục vụ làm giá chuộc nhiều người" (Mathêu 20:28), khiến cho những ai dấn thân theo Người bị cả chính thân nhân ruột thịt của họ phản kháng và chống phá, như chính Chúa Kitô đã khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay:  

"Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng". 

Những tâm hồn nào được Lời Chúa tác động, nhờ đó đã sống theo Lời Chúa và rao giảng Lời Chúa, đều chứng tỏ họ là thành phần môn đệ đích thực của Chúa Kitô, và một trong những dấu hiệu cho thấy họ thật sự là môn đệ của Người là ở chỗ họ cũng bị thế gian, (bao gồm cả người thân sống theo tinh thần thế gian), thù ghét, bách hại và sát hại, như chính Chúa Kitô đã báo trước cho các môn đệ của Người biết về số phận nghiệt ngã khốn khổ của họ (xem Gioan 15:18-20). Chính vì theo bản tính tự nhiên không ai có thể theo Chúa mà sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian, nhất là khi bị thế gian tấn công và sát hại, nên cần phải có ơn Chúa cho đức tin bất khuất của họ. Đó là lý do trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô đã phải cầu nguyện cho Kitô hữu Giáo đoàn Epheso như thế này:

 

"Anh em thân mến, tôi quỳ gối trước mặt Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là nguồn gốc mọi danh phận làm cha trên trời dưới đất. Xin Người chiếu theo sự giàu có vinh quang của Người và nhờ Thánh Thần của Người, thêm sức mạnh cho anh em được nên người thiêng liêng, và nhờ đức tin, anh em được Ðức Kitô ngự trong lòng anh em, làm cho anh em đâm rễ sâu và lập nền kiên cố trong đức mến, để anh em được hiệp cùng các thánh mà hiểu biết chiều rộng, dài, cao, sâu, và cũng được biết lòng mến của Ðức Kitô vượt quá trí hiểu loài người, để anh em được sung mãn trong mọi sự viên mãn của Thiên Chúa. Nguyện cho Ðấng toàn năng ban cho chúng ta mọi sự, dư đầy quá sự chúng ta cầu xin hay hoài bão, theo như quyền lực Người thi thố trong chúng ta: nguyện cho Người được vinh quang trong Hội Thánh và trong Ðức Giêsu Kitô, qua mọi thế hệ muôn đời. Amen".

 

Đó cũng là lý do, chính thành phần môn đệ của Chúa Kitô cũng phải luôn "kính sợ Người" và "cậy trông ân sủng của Người" để có thể chẳng những bất khuất và thắng vượt tất cả mọi quyền lực chống đối mình, mà còn tiếp tục loan truyền "ân sủng Chúa" nữa, như Thánh Vịnh 32 ở Bài Đáp Ca hôm nay kêu gọi họ:

 

1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa. Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.

3) Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình.

4) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.

 

 

THÁNH GIOAN PHAOLÔ II

22-10

 


26 Năm Dẫn Dắt Giáo Hội 

 

Vị GH Vui Mừng và Hy Vọng: 'Đừng Sợ'

 

Thời Điểm Gioan Phaolô II 

 

 

 


Thứ Sáu

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 4, 1-6

"Chỉ có một thân thể, một Chúa, một đức tin và một phép rửa".

Trích thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, tôi là tù nhân trong Chúa, tôi khuyên anh em hãy ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh em đã lãnh nhận. Anh em hãy hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng nhau trong đức ái: hãy lo bảo vệ sự hợp nhất tinh thần, lấy bình an hoà thuận làm dây ràng buộc: Chỉ có một thân thể và một tinh thần, cũng như anh em đã được kêu gọi đến cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Ðấng vượt trên hết mọi người, hoạt động nơi mọi người, và ở trong mọi người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6

Ðáp: Lạy Chúa, đó là dòng dõi người tìm kiếm long nhan Chúa (x. c. 6).

Xướng: 1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Người xây dựng nó trên biển cả, và Người giữ vững nó trên chỗ nước nguồn. - Ðáp.

2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Người? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. - Ðáp.

3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 54-59

"Các ngươi biết tìm hiểu diện mạo trời đất? Còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán bảo dân chúng rằng: "Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế. Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều gì phải lẽ? Thế nên, khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn thoả với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước quan toà, và quan toà trao ngươi cho lý hình và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi đó cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng".

Ðó là lời Chúa.

Holy Mary: The Mysteries of the Kingdom of Heaven

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Nạn Nhân Bản Thân 

 

Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXIX Thường Niên, tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm hôm qua về chính bản thân của Chúa Kitô, bài Phúc Âm hôm nay, với 7 câu cuối cùng của đoạn 12, Thánh ký Luca đã thuật lại cho chúng ta những gì "Chúa Giêsu phán bảo dân chúng" về việc họ biết xem điềm trời mà không biết suy đoán dấu chỉ thời đại, cũng như việc họ cần phải thanh toán với đối phương khi còn có thể.  

 

Trước hết, về việc họ biết xem điềm trời mà không biết suy đoán dấu chỉ thời đại: "Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế. Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều gì phải lẽ?" 

 

Sau nữa, về việc họ cần phải thanh toán với đối phương bao lâu khi còn có thể: "Thế nên, khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn thoả với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước quan toà, và quan toà trao ngươi cho lý hình và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi đó cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng". 

 

Vấn đề được đặt ra ở đây là việc họ biết xem điềm trời mà không biết suy đoán dấu chỉ thời đại và việc họ cần phải thanh toán với đối phương bao lâu khi còn có thể có liên hệ gì với nhau hay chăng, nếu có thì ở chỗ nào, vì thật sự là giữa hai sự việc này, về mạch văn, được nối kết với nhau bằng liên từ "thế nên" ở sự việc thứ hai, ngay sau sự việc thứ nhất, tức là có liên quan đến sự việc thứ nhất?  

 

Thật vậy, lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay có thể hiểu về lương tâm nơi con người, được biểu hiệu qua hình ảnh của "quan toà", một thẩm quyền phán xét nơi con người có thể ra tay hành hạ con người như những tay "lý hình", và đồng thời cũng có thể "tống" con người "vào ngục" là chính thâm tâm khổ ải bất an của con người, "cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng" là chấp nhận lỗi lầm của họ, những lỗi lầm mà trước đó, lúc còn "đang lúc đi dọc đường", lúc đang còn được lương tâm nhắc nhở đừng làm, đừng vấp phạm, tức nếu biết tránh né, đã không bị lương tâm trở thành "quan tòa" phán xét họ đến độ họ cảm thấy bị hành hạ bởi những áy náy, lo sợ, khổ tâm và bất an v.v. 

 

Dấu chỉ thời đại để họ có thể giải quyết vấn đề lương tâm của họ là chính những nhắc nhở của lương tâm trước khi họ liều mình vấp phạm theo đam mê nhục dục của họ, bằng việc họ trấn an lương tâm theo những lý lẽ chủ quan nông cạn đầy tham vọng nhất thời của họ. Hay dấu chỉ thời đại để họ có thể giải quyết vấn đề lương tâm của họ thậm chí còn là chính những cắn rứt sau khi họ đã lỡ vấp phạm, để nhờ đó họ có thể được giải thoát "ra khỏi" ngục tù thâm tâm của họ, bằng cách "tự mình phê phán điều gì phải lẽ?" theo lời Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ chấp nhận lỗi lầm của mình, trả lại cho công lý những gì mình đã qua mặt và cướp quyền: "trả xong đồng xu cuối cùng". 

Thực tế phũ phàng cũng cho thấy, trong đời sống đạo, có những tâm hồn rất đạo đức, đọc kinh xem lễ rước lễ hằng ngày, xưng tội hằng tháng, tĩnh tâm hằng năm, chay tịnh trường kỳ, dạy đạo liên miên v.v., nhưng vẫn liên tục lỗi đức bác ái một cách trầm trọng và công khai, gây gương mù gương xấu cho những ai sống quanh mình và với mình, như cho con cái và bạn bè ngoại đạo.  

Thậm chí trong những lúc bối rối, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta biết được ý định của Ngài để mà làm theo. Thế nhưng, khi đã rõ ràng biết được ý muốn của Thiên Chúa, như qua vị linh hướng, chúng ta liền trốn mất, hay vội vàng chối bỏ, vì ý Chúa ấy không đúng như ý của chúng ta, hay là những gì phản lại với đời sống tự nhiên của chúng ta, bắt chúng ta phải bỏ mình!  

Tình trạng chối bỏ chân lý và lấn át chân lý này vẫn thường xẩy ra trong đời sống hằng ngày của tất cả mọi người trên thế gian này nói chung và của Kitô hữu chúng ta nói riêng, khi chúng ta liên tục chối bỏ tiếng lương tâm của chúng ta, liên quan đến việc làm lành lánh dữ được lương tâm nhắc nhủ hay cảnh báo, bằng việc chúng ta trấn an lương tâm hay lèo lái lương tâm theo sở thích tự nhiên của mình hay theo ý riêng vị kỷ của mình. 

Theo ý nghĩa của lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay thì khi nào chúng ta thấy được điềm trời đây, tức là thấy lương tâm của chúng ta cắn rứt, áy náy thì chúng ta hãy liệu giải quyết đi, nhất là đối với những kẻ chúng ta coi là kẻ thù, chấp nhất họ, và tính lôi họ ra tòa, nghĩa là đòi họ phải trả lại công bằng cho cho chúng ta đến cùng, chứ không tự động tha thứ cho họ, và cũng chính vì chúng ta không tự tha thứ cho họ, nghĩa là trên đường lôi họ ra tòa án công bằng của chúng ta, mà chúng ta, ngược lại, bị họ "lôi đến trước quan tòa" lòng thương xót Chúa, Đấng đã tha thứ cho chúng ta một món nợ kếch sù không thể trả, khiến Ngài thịnh nộ tống chúng ta vào ngục và bắt chúng ta phải "trả cho đến đồng xu cuối cùng" (xem Mathêu 18:31-34).

Theo chiều hướng giáo huấn làm hòa và tự động quảng đại tha thứ của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Phaolô, trong Bài Đọc 1 hôm nay, cũng khuyên Kitô hữu Giáo đoàn Epheso, như thế này: "Anh em hãy hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng nhau trong đức ái: hãy lo bảo vệ sự hợp nhất tinh thần, lấy bình an hoà thuận làm dây ràng buộc: Chỉ có một thân thể và một tinh thần, cũng như anh em đã được kêu gọi đến cùng một niềm hy vọng".

Chỉ có thế và chỉ nhờ thế mà họ mới "là dòng dõi người tìm kiếm long nhan Chúa", như câu họa của bài Đáp Ca hôm nay, một câu họa theo sau từng câu xướng liên quan đến chính thành phần này như sau:

1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Người xây dựng nó trên biển cả, và Người giữ vững nó trên chỗ nước nguồn.

2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Người? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa.

3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp.

Chẳng những thế, họ còn phần nào được phản ảnh và có thể phản ảnh "long nhan" vô cùng từ bi nhân hậu của Chúa nữa, Đấng luôn chỉ biết tha thứ, và tha thứ trước khi con người xin lỗi Chúa, như Ngài đã thực hiện nơi Chúa Giêsu Kitô khổ nạn và tử giá Con của Ngài. Nghĩa là, hai nguyên tổ dù không xin lỗi Chúa sau nguyên tội, Chúa vẫn hứa ban cứu độ cho họ, và những ai chưa được sinh ra sau biến cố Vượt Qua cứu độ của Chúa Kitô, thì họ cũng đã được cứu độ và tội của họ dù chưa phạm cũng đã được tha thứ, chỉ cần họ chấp nhận ơn tha thứ, ơn cứu độ của Người thôi.

 

 

Ngày 23: 1. Thánh Gioan Capistranô, linh mục

stjohncapistrano.jpg

 

Người ta thường nói các thánh là những người lạc quan nhất thế giới. Các ngài không bị mù quáng bởi sự dữ hay hậu quả của nó, nhưng các ngài luôn đặt niềm tin vào quyền năng ơn cứu độ của Ðức Kitô. Sức mạnh hoán cải của Ðức Kitô không chỉ ảnh hưởng đến người có tội, mà còn ảnh hưởng cả đến các tai họa.
Thế kỷ 14 là thời kỳ hỗn loạn về đạo cũng như đời. Một phần ba dân số và gần 40 phần trăm giáo sĩ bị tiêu diệt bởi bệnh dịch hạch. Cuộc Ðại Ly Giáo Tây Phương đã phân tán Giáo Hội đến độ Tòa Thánh không chỉ có một giáo hoàng mà đến hai, ba giáo hoàng một lúc. Nước Anh và nước Pháp đang giao chiến với nhau. Thủ đô nước Ý luôn luôn có tranh chấp. Hiển nhiên sự u ám đó đã bao trùm cả thời đại, và khống chế tinh thần văn hóa.
Thánh Gioan sinh ở Capistrano, nước Ý năm 1385. Ngài là con của một cựu hiệp sĩ người Ðức sống trong thành phố.

 

 

Cha của Gioan là một nhà quí tộc người Pháp đã theo bá tước Anjon trong cuộc chinh vương quốc Naples. Để ân thưởng cho lòng can đảm, ông đã được chiếm những lãnh điạ rộng lớn. Ông định cư tại Caoistranô và qua đời sớm sau khi cưới một thiếu nữ người Y. Gioan con của ông theo học tại Perugia đã gia nhập ngành thẩm phán. Ngài học luật ở Ðại Học Perugia, và hành nghề luật sư ở các tòa án Naples.

 

Các tài năng của thánh nhân đã khiến cho thánh nhân được coi như hoàng tử của các luật gia. Được đặt làm nhà cầm quyền, thánh nhân hiểu rõ sự cao trọng trong sứ mạng của mình: dửng dưng với những đe dọa của các lãnh chúa, Ngài quyết nâng đỡ những người nghèo khó. Một cư dân quí phái giàu có muốn gả con cho Ngài. Tương lai rực rỡ trước mắt Gioan khi bất ngờ định mệnh đổi khác. Khi 26 tuổi, ngài được Hoàng Ðế Ladislas của Naples bổ nhiệm làm thủ hiến xứ Perugia. Ngài bị tố cáo là đã thiên tư. Trong cuộc chiến tranh với người Malatestas ở lân cận, ngài bị phản bội và bị bắt giam ở Rimini... trong một tháp canh.

 

Gioan muốn tẩu thoát, bị gãy chân và nằm bẹp nhưng một hầm gia dưới đất. Trong tận cùng đau khổ, một tu sĩ dòng Phanxicô xuất hiện mời gọi Ngài sống đời sống nghèo khó và bác ái. Gioan đã nhiệt thành đáp lời. Vừa khi được phóng thích, Ngài bán mọi của cải, từ hôn và đến với các tu sĩ dòng Phanxicô ở Perugia. Chân phước Marcô thành Bergame nghi ngờ ơn gọi như vậy và đón nhận Ngài với những lời chẳng hoà nhã chút nào: "các tu viện không phải nơi trú chân của những kẻ lang thang hay chán đời. Phải có những thử thách khác để gia nhập một dòng tu. Tôi chỉ nhận anh khi anh nói lời từ giã những phù vân thế tục mà tôi sẽ chỉ cho anh".

Sau khi được thả về, ngài quyết tâm thay đổi cuộc đời, và gia nhập dòng Phanxicô ở Perugia năm ngài 31 tuổi.

 

Đây là một lời giã từ lừng danh, một thử thách nổi tiếng thánh nhân phải chịu. Perugia được chiêm ngưỡng nhà cầm quyền của họ riễu qua đường phố, quay ngược lại trên lưng lừa ăn mặc rách rưới, đầu đội nón có ghi những tội của mình bằng chữ lớn. Dân chúng nhạo cười, nhưng Gioan can đảm đón nhận mắng nhiếc.

 

Tại nhà dòng, Gioan có một bậc thầy chỉ là trợ sĩ, anh Onuphre, người nghiêm khắc lột bỏ con người cũ của Ngài cách vĩnh viễn. Thêm vào những lời quở trách là những nghiêm nghị. Nhưng những bất công dày và phải được bỉnh thản lãnh nhận, chẳng hạn ngày kia anh em giặt đồ đang đợi cho nước bớt nóng. Bỗng anh Onuphre đi tới. Bỏ qua mọi anh em khác, anh giận dữ phạt Gioan vì biếng nhác và lấy áo dài từ nước nóng bỏng ra thải vào mặt Gioan. Đáp lại, Gioan khiêm tốn đến quì trước mặt anh.

 

lòng nhiệt thành của Ngài còn tăng gấp đôi trong những công việc thấp hèn nhất, đồng thời vẫn học thần học thánh Bernadinô thành Sienua là thầy dạy, thán phục vì những buớc tiến ngoại hạng của Người đã nói: "Gioan ngủ mà học những điều mà người khác ngày đêm nỗ lực mới học được" Dường như Ngài có sự hiểu biết thiên phú, là nhà thần học sâu sắc và sắp thành nhà truyền giáo lớn của thời Ngài.

Sau khi được thụ phong linh mục vào bốn năm sau, ngài đi rao giảng khắp các nước Ý, Ðức, Bohemia, Áo, Hung Gia Lợi, Ba Lan và Nga. Vào lúc người ta thờ ơ và nghi ngờ tôn giáo, thì ngài đã lôi cuốn được nhiều người trở về với Giáo Hội. Các quốc gia miền trung Âu Châu đã tiếp đón ngài, cùng với các tu sĩ Phanxicô như các thiên thần của Thiên Chúa. Họ là những khí cụ để hồi phục niềm tin đang dẫy chết.
Chính dòng Phanxicô cũng trong tình trạng xáo trộn, về việc giải thích và tuân giữ quy luật của Thánh Phanxicô. Qua các nỗ lực không ngừng của Cha Gioan Capistrano, và nhờ kinh nghiệm luật pháp của ngài, tà giáo Fraticelli bị cấm hoạt động và Linh Ðạo Thánh Phanxicô tinh tuyền lại được nêu cao.

 

Gioan rảo qua các tỉnh thuộc nước Ý và dẫn về cho Chúa hàng triệu những kẻ lạc giáo và những tội nhân, Ngài đã thăm các dòng tu ở Đông phương, góp phần hiệp nhất với người Armenia. Trở về Ngài nổi bật tại cộng đồng Florentinô và được đặt làm sứ thần tại Sicile. Giữa những thành công rực rỡ. Gioan vẫn là con người cầu nguyện và sám hối. Ngài xây dựng các tu viện, chống lại lạc giáo. Các bài giảng của Ngài thật phi thường. Thiên Chúa rõ ràng bao bọc Ngài. Những người rối đạo lân la để biết chỗ Ngài ở đâu. Giọng điệu của họ đủ cho thấy rõ số phận họ muốn dành cho Ngài như thế nào. Gioan giản dị và êm ái trả lời: "Tôi đây". Những người theo bè rối sững sờ và không làm gì hại Ngài.

 

Một huyền thoại bình dân kể rằng: thánh nhân khi giã từ Assisiô với các bạn để hoàn thành một sứ mệnh, bị từ chối không được chở qua sông gần Trévise vì người lái xe đoán rằng: đám người nghèo này sẽ không trả tiền. Thánh nhân trải áo của Bernađiô thầy mình trên sông. Nước rẽ ra và các tu sĩ qua bờ bên kia sông.

 

Đức giáo hoàng đã sai Gioan qua Đức, Hungari, Bohemia, Balan. Cả thành ra đón Ngài, lão già nhỏ bé khô khan kiệt sức nhưng vui tươi không mệt mỏi. Cả đoàn thính giả đã nghe Ngài mỗi ngày. Sau đó người ta công khai đốt các cỗ bài, những hình ảnh dâm ô, những đồ trang sức, mọi cái có hại cho tâm hồn.

 

Đây là lửa hỏa thiêu lâu đài của quỉ dữ. Ở Bohemia sau một trong những bài giảng về sự phán xét, thánh nhân đã gây hứng khởi cho hơn 100 thanh niên ôm ấp đời sống tu trì. Các Đức giáo hoàng nối tiếp liên tiếp trao cho Ngài những sứ mệnh đặc biệt.

 

Người Hồi vừa mới xâm chiếm Constantinople. Mahomet tin rằng: mình là thủ lãnh Kitô giáo. Không ông hoàng nào xem ra có thể ngăn cản nổi cuộc xâm lăng. hi vua Hồi Giáo là Mohammed II đe dọa tấn công Vienna và Rôma, Cha Gioan Capistrano, dù đã bảy mươi tuổi, được Ðức Giáo Hoàng Callistus II giao cho công việc rao giảng và chỉ huy thập tự quân chống với sự xâm lăng của người Thổ Nhĩ Kỳ. Gioan Capistranô nhận được lệnh của Đức giáo hoàng để cổ động đoàn quân thánh giá, Ngài liên kết được 40 ngàn người và chọn Hunyade là một anh hùng làm thủ lãnh của họ. Quân hung bạo bốn lần đông hơn chế nhạo. Belgrade đã bị chiếm. Mọi sự xem ra đã mất hết. Gioan lao lên hàng đầu, tay cầm kỳ hiệu và một thánh giá, khuyên các binh sĩ hoặc thắng hoặc chết. Địch quân rút lui, thành lũy được cứu thoát. Cùng với đoàn quân bảy mươi ngàn Kitô hữu, ngài đã chiến thắng người Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc chiến sau cùng ở Belgrade năm 1456.

 

Vài tuần sau, Hunyade qua đời trong tay Gioan, người sống sót đã được lâu hơn ông ta một chút. Ngài tiến tới gần cái chết với sự bình thản hoàn toàn và các ông hoàng đã thán phục sự can đảm của Ngài, bấy giờ phải bối rối trước sự khiêm tốn của vị thánh khi hấp hối, công khai thú nhận các lỗi lầm của mình. Ba tháng sau ngài từ trần ở Illok, Hung Gia Lợi ngày 23.10.1456. Ngài được đặt làm quan thầy của các luật gia.

Lời Bàn
John Hofer, người viết tiểu sử Thánh Gioan Capistrano, nhắc lại một tổ chức ở Bỉ lấy tên của thánh nhân, nhằm mục đích giải quyết các vấn đề của đời sống trong một tinh thần hoàn toàn Kitô Giáo. Châm ngôn của tổ chức ấy là: “Sáng Kiến, Tổ Chức, Hành Ðộng”. Những lời này thực sự là đặc tính của cuộc đời Thánh Gioan. Ngài không phải là người ngồi không. Sự lạc quan Kitô Giáo đã thúc đẩy ngài chiến đấu với các vấn đề thuộc đủ mọi tầng lớp với niềm tin sâu xa nơi Ðức Kitô.

Lời Trích
Trên mộ của thánh nhân ở làng Villach, Hung Gia Lợi, quan đầu tỉnh đã cho khắc những hàng chữ sau: “Ngôi mộ này là nơi chôn cất Thánh Gioan, sinh ở Capistrano, một người đáng được ca tụng, người biện hộ và cổ võ đức tin, người bảo vệ Giáo Hội, người hăng say che chở nhà dòng, niềm vinh dự cho cả thế giới, người yêu quý sự thật và công bình, gương sáng cho đời sống, vững chắc trong giáo lý; được bao người đời ca tụng, ngài đang sung sướng ngự trên thiên đàng”. Văn mộ chí ấy thật xứng đáng cho một người lạc quan chân chính và thành công.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ Công Giáo Info và Hội Dòng Đaminh Việt Nam

 


Thứ Bảy

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 4, 7-16

"Ðức Kitô là đầu, nhờ Người mà toàn thân thể được lớn lên".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô,

Anh em thân mến, mỗi người trong chúng ta đã được ban ơn tuỳ theo lượng Ðức Kitô ban cho. Vì thế có lời rằng: "Người lên nơi cao điệu tù nhân về, Người đã ban ân huệ cho mọi người". Nói rằng "Người lên" nghĩa là gì nếu không phải là trước Người đã xuống những miền hạ tầng trái đất sao? Ðấng đã xuống cũng chính là Ðấng đã vượt lên trên mọi tầng trời, để làm viên mãn vạn vật.

Và chính Người đã ban cho kẻ làm Tông đồ, người làm Tiên tri, còn kẻ khác thì rao giảng Tin Mừng, kẻ khác nữa làm chủ chăn và thầy dạy, để tổ chức các thánh nhân nên hoàn bị hầu chu toàn chức vụ, xây dựng thân thể Ðức Kitô, cho đến khi mọi người chúng ta hợp nhất trong đức tin, và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, trở nên người trưởng thành, đạt đến tầm tuổi người của Ðức Kitô viên mãn, để chúng ta không còn là trẻ nhỏ bị lắc lư và lôi cuốn theo mọi chiều gió học thuyết, nghiêng theo sự lừa dối của người đời, và mưu mô xảo trá làm cho lạc lõng trong sự sai lầm.

Nhưng chúng ta hãy thực hiện chân lý theo đức ái, hãy tấn tới bằng mọi phương tiện trong Ðức Kitô là đầu. Do nơi Người mà toàn thân thể được hoà hợp với nhau, kết cấu với nhau bằng những dây liên lạc cung cấp sinh lực tuỳ theo phận sự của mỗi phần, làm cho thân thể lớn lên và tự xây dựng lấy mình trong đức mến.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5

Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa" (c. 1).

Xướng: 1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng tôi sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. - Ðáp.

2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên. - Ðáp.

3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavít. - Ðáp.

Alleluia: Tv 118, 18

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều kỳ diệu trong luật Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 13, 1-9

"Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Người lên tiếng bảo: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê đó bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế; nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".

Người còn nói với họ dụ ngôn này: "Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: Kìa, đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!" Nhưng anh ta đáp rằng: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân: may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi".

Ðó là lời Chúa.

Xét mình – Đừng xét người: Chúa nhật 3 Mùa Chay Lc 13, 1-9 – huyha.net

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Những bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXIX Thường Niên hôm nay là bài Phúc Âm chất chứa lời Chúa Giêsu cảnh giác "những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu của họ hoà lẫn với máu của các vật họ tế sinh". 

Người cảnh giác họ những gì, nếu không phải cảnh giác họ về hình phạt tương tự như thế nếu họ không ăn năn hối cải, mà cứ tưởng mình tốt lành hơn các nạn nhân được họ thuật lại cho Chúa Giêsu biết.  

Ở đây, qua ý nghĩa của lời Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Người dường như vừa không công nhận đau khổ là hậu quả hay hình phạt của tội lỗi lại vừa công nhận. 

Chúa Giêsu dường như không công nhận đau khổ là hình phạt của tội lỗi hay hậu quả của tội lỗi: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê đó bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế... Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế". 

Chúa Giêsu đồng thời lại khẳng định đau khổ là hình phạt của tội lỗi và là hậu quả của tội lỗi"Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy... nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy". 

Trong trường hợp của người mù từ lúc mới sinh, Chúa Giêsu cũng dường như phủ nhận đau khổ là hậu quả của tội lỗi khi khẳng định sự kiện anh ta bị mù từ lúc mới sinh: "không phải do tội của anh ta hay của cha mẹ anh ta" (xem Gioan 9:3). Thật ra, Chúa Giêsu không phủ nhận đau khổ là hậu quả của tội lỗi, nhưng Người gán cho đau khổ một ý nghĩa quí giá hơn và cao cả hơn, như trong trường hợp người mù từ lúc mới sinh như nó là một cơ hội để Thiên Chúa tỏ mình ra: "Chính là để cho các công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh ta" (xem Gioan 9:3). 

Trong bài Phúc Âm hôm nay cũng thế, Chúa Giêsu cũng không phủ nhận đau khổ là hình phạt của tội lỗi hay là hậu quả của tội lỗi, nhất là trong trường hợp con người không biết thống hối ăn năn. Tuy nhiên, cũng qua bài Phúc Âm hôm nay, Người còn gán cho đau khổ một ý nghĩa cảnh báo cho những ai tự phụ cho mình là lành thánh nên không bị đau khổ như người khác là những người tội lỗi chứ không vô tội như mình. 

Chưa hết, cũng theo chiều hướng ấy, Chúa Giêsu dường như còn ngầm cho thấy rằng đau khổ cho dù là và chính là hậu quả của tội lỗi mà nó đã được Thiên Chúa sử dụng như gậy ông đập lưng ông, như của độc giải độc, trong việc đánh động con người tội lỗi, để nhớ đó họ có thể nhận lỗi, hối lỗi và sửa lỗi mà quay về cùng Người.  

Đó là lý do ở phần cuối bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu còn nói thêm một dụ ngôn liên quan đến việc cải thiện đời sống, qua hình ảnh cây vả không sinh hoa kết trái "đã 3 năm" liền, đáng bị đốn đi cho đỡ "choán đất", nhưng nó vẫn còn được kéo dài chờ thêm "một năm nữa":  

"Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: 'Kìa, đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!' Nhưng anh ta đáp rằng: 'Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân: may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi'". 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu chẳng những nhắc nhở chúng ta về việc cải thiện đời sống ở mặt tiêu cực, mà còn về việc làm cho ơn Chúa ban sinh hoa kết trái ở mặt tích cực nữa. Bởi thế mà trong Bài Đọc 1 hôm nay, thành phần Kitô hữu Giáo đoàn Epheso đã nghe vị tông đồ dân ngoại Phaolô về những ơn Chúa ban cho họ, nhờ bởi và thông qua Đức Giêsu Kitô: "mỗi người trong chúng ta đã được ban ơn tuỳ theo lượng Ðức Kitô ban cho", tùy theo mỗi người: "kẻ làm Tông đồ, người làm Tiên tri, còn kẻ khác thì rao giảng Tin Mừng, kẻ khác nữa làm chủ chăn và thầy dạy", để nhắm đến việc xây dựng nhiệm thể Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập: "để tổ chức các thánh nhân nên hoàn bị hầu chu toàn chức vụ, xây dựng thân thể Ðức Kitô".

Một khi được lãnh nhận ơn Chúa, Kitô hữu cần phải làm sao để thực hiện được những gì Đấng ban ơn cho họ nhắm tới. Do đó nên Thánh Phaolô tiếp tục khuyên Kitô hữu Epheso hãy đáp ứng một tích chủ động và tích cực như thế này: "chúng ta hãy thực hiện chân lý theo đức ái, hãy tấn tới bằng mọi phương tiện trong Ðức Kitô là đầu". Nghĩa là làm gì thì làm, Kitô hữu cũng phải "nhờ Người, với Người và trong Người", như phụng vụ Thánh Thể nhắc nhở trong phần tế lễ sau truyền phép. Bởi vì, như Thánh Phaolô xác tín cũng trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "Do nơi Người mà toàn thân thể được hoà hợp với nhau, kết cấu với nhau bằng những dây liên lạc cung cấp sinh lực tuỳ theo phận sự của mỗi phần, làm cho thân thể lớn lên và tự xây dựng lấy mình trong đức mến".

Thánh phần Kitô hữu biết đáp ứng ơn Chúa, làm cho ơn Chúa ban cho mình sinh hoa kết trái thì ngay trong cuộc hành trình đức tin trần thế này của mình, họ như thể đang hân hoan "vui mừng ... tiến vào nhà Chúa", thậm chí như thể "đang đứng nơi cửa thành rồi", đúng như những gì được Thánh Vịnh 121 diễn tả trong bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng tôi sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi.

2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên.

3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavít.

 

 

Ngày 24: 1. Antôn Maria Claret, Giám Mục

 

THÁNH ANTON MARIA CLARET: MỘT CUỘC ĐỜI

Nời cha tinh thần của Cuba” là một nhà truyền giáo, người sáng lập dòng, người cải cách xã hội, tuyên uý của hoàng hậu, nhà văn và nhà xuất bản, là đức tổng giám mục và cũng

là người tị nạn. Thánh nhân là người Tây Ban Nha mà vì công việc người đã đặt chân đến các nơi như quần đảo Canary, Cuba, Madrid, Paris và Công Ðồng Vatican I.

Thánh Antôn Claret sinh ở làng Salient, tỉnh Catalonia, năm 1807 tại Sallent Bắc Tây Ban Nha, trong một gia đình khiêm tốn làm nghề dệt. Đó là năm hoàng đế Napôlêôn đem quân xâm lược đất nước này. Có lẽ đó là dấu chỉ của sự kiện náo động sẽ theo Antôn suốt cả cuộc đời.

Là con thứ 5 trong 10 anh em, thánh nhân tỏ ra nhanh nhẹn thông minh có khiếu đối với nghề nghiệp của cha anh và được gởi đi Barcelone trong một xưởng máy lớn. Trong khi làm thợ dệt cũng như vẽ kiểu cho một xưởng tơ sợi ở Barcelona, người dùng thời giờ rảnh rỗi để học tiếng Latinh và học cách in ấn: quả thật Chúa đang chuẩn bị người để trở nên một linh mục và nhà xuất bản tương lai. Ơn gọi đi tu sống sâu trong đáy lòng ngài, kèm theo mọi hành động và sắp trở thành mạnh mẽ nhất : cuối cùng ngài đã bước qua cổng chủng viện ở Vich năm 1829. 

Ðược thụ phong linh mục lúc 28 tuổi, vì sức khỏe yếu kém nên ước mơ trở nên một tu sĩ dòng Tên hay dòng Thánh Brunô không thành tựu, người đã trở nên một linh mục triều nổi tiếng về rao giảng ở Tây Ban Nha. Người dành 10 năm để đi giảng tuần đại phúc, và luôn luôn nhấn mạnh đến bí tích Thánh Thể và sự sùng kính Trái Tim Mẹ Maria. Người ta nói, chuỗi mai khôi không bao giờ rời khỏi tay người. Khi 42 tuổi, cùng với năm linh mục trẻ, người thành lập tu hội truyền giáo, mà ngày nay được gọi là tu sĩ Dòng Claret.

Trước tâm hồn phong phú của thánh nhân, Đức Cha Corcuera đã rút ngắn chương trình thần hoc. Ngài thụ phong linh mục 6 năm sau và cử hành thánh lễ đầu tiên tại giáo xứ ngài đã được rửa tội. Được cử làm cha sở, ngài đã thánh hóa địa hạt của mình. Nhưng việc tông đồ của ngài cần một điạ hạt rộng lớn hơn. Ngài đi Rôma, muốn gia nhập dòng Tên nhưng một vết thương ở chân buộc ngài từ bỏ ý định trở về Tây Ban Nha. Bản chất nóng nảy của ngài tỏ lộ những ân huệ siêu nhiên mới, tài hùng biện thánh của ngài tăng bội số những cuộc trở lại, chủ đề được ưa chuộng của ngài là : “đường thẳng và chắc để về trời" và ngày càng thêm nhiều người dấn thân vào đường hẹp sỏi đá mở ra ánh sáng. Đức Trinh Nữ hình như hiện diện khi ngài trình bày các bổn phận của bậc sống nhạt nhẽo nhưng có nét đẹp ẩn giấu trước mặt Chúa, các từ bỏ liên tiếp ..

Trong thời gian làm linh mục, Antôn Maria Claret là giám đốc đại chủng viện ở Marid. Ngài đã thiết lập trường thánh Micael để bảo vệ công trình nghiên cứu nghệ thuật và văn chương. Thậm chí cha còn cố gắng thiết lập một trường học để nghiên cứu nông nghiệp. Cha Antôn Maria Claret cũng có một năng lực viết lách đặc biệt. Ngài đã viết 144 cuốn sách và rất nhiều những tập sách nhỏ; Antôn thuyết giảng trên 25000 bài! Quyển sách danh tiếng nhất của Antôn Maria Claret, Lẽ phải, đã vươn tới với hàng triệu độc giả.

Ngài đã đi giảng như vậy qua một tỉnh với hành trang gồm có cuốn sách Thánh Kinh và sách nguyện gói trong khăn, ngài từ chối tất cả tiền bạc, ngủ dưới vòm trời, giải tội ngày đêm và dâng lễ khi ánh sao cuối cùng vừa lặn. Ngài đã đặt tay chữa bệnh, chiêm ngắm các cuộc hiện ra. Antôn rất gần gũi tự do đến nỗi đã gây nên những ghen tương, những lời chế nhạo ngắt ngang bài giảng của ngài. Mạng sống bị đe dọa, ngài phải giã từ quê hương thân yêu để rồi chỉ trở lại 15 năm sau để được đề cử và tấn phong Tổng Giám mục Santiago, Cuba, tại nhà thờ chính toà Vich, ngài đã dùng khoảng thời gian giao thời này để Phúc âm hoá các đảo Camari. Đây là lúc ngài thêm danh hiệu MARIA vào tên mình. Vào năm 1849, Antôn Maria Claret thiết lập một hội dòng mới gọi là dòng Thừa Sai Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ, cũng gọi là dòng Claret. Hội dòng có sứ vụ giảng các tuần đại phúc tại các giáo xứ.

Nữ hoàng Isabella II nước Tây Ban Nha đánh giá rất cao về cha Antôn Maria Claret. Bà đã đề nghị cha làm tổng giám mục giáo phận Santiagô, Cuba. Từ năm 1850 đến 1857, người được bổ nhiệm về làm tổng giám mục của giáo phận bị quên lãng từ lâu là Tổng Giáo Phận Santiago ở Cuba. Việc tông đồ của Antôn tại Cuba lại mở ra bảy năm thú vị nữa. Đức tổng giám mục Antôn Maria Claret thăm viếng các xứ đạo, chống lại các thói xấu xã hội, nhất là tội buôn bán nô lệ. Ngài chúc lành cho bậc hôn nhân gia đình và ban bí tích Thanh tẩy cho các trẻ em.

Người bắt đầu cải cách bằng việc rao giảng không ngừng và giải tội. Dĩ nhiên người phải chịu nhiều chống đối cay đắng -- phần lớn là vì người kịch liệt lên án vấn đề vợ lẽ và vì dạy giáo lý cho các người nô lệ da đen. Một tù nhân mà ĐGM Antôn chuộc ra khỏi tù đã được thuê để giết người, nhưng đức giám mục thoát chết và chỉ bị thương ở mặt và tay. Cũng chính ĐGM Antôn giúp người này thoát án tử hình. Người giúp thay đổi sự nghèo nàn của dân Cuba bằng cách giúp họ trồng trọt những thực phẩm khác nhau, cần cho thị trường. Ðiều này khiến các điền chủ tức giận, vì họ chỉ muốn dân chúng trồng mía để thu hoa lợi. Trong các văn bản về tôn giáo của người còn có hai quyển người viết khi ở Cuba: Suy Tư về Canh Nông và Lợi Nhuận Quốc Gia.

Vị Tổng Giám mục truyền giáo cập bến, ngài sắp gặp thấy một giáo xứ đầy thương tâm gồm một ít linh mục thiếu học nghèo túng, ngài thiết lập một nhóm học hiểu biết và tiếp tục vai trò người bao bọc vì Chúa Kitô, ngài mất 6 năm để rảo qua các điạ phận mênh mông của mình, những con số sau đây nói lên hoạt động của ngài: 11.000 bài giảng, 120.000 lễ Thêm sức, 40.000 phép rửa tội, 12.000 lễ hôn phối. Còn mệt nhọc hơn cả những khó khăn trên đường, thánh nhân hòa mình với các bệnh nhân ngã gục vì dịch tả. Các chủ nhân buôn bán nô lệ tố cáo ngài đã xúi giục các người bị tàn phá nổi loạn. Mười lăm lần ngài đã thoát chết. Ngài mơ lập một trường nông nghiệp nhưng gặp những chống đối mạnh mẽ. 

Người được gọi về Tây Ban Nha với một công việc mà người không ưa thích gì -- làm tuyên uý cho nữ hoàng. Người đồng ý trở về với ba điều kiện: người sẽ ở ngoài hoàng cung, người chỉ đến nghe nữ hoàng xưng tội và dạy giáo lý cho con cái họ, và người không bị dính líu gì đến sinh hoạt triều đình. Từ Madrid, ngài tiếp tục cai quản Cuba. Nhưng sự ghen tương không dứt. Sự vu khống đã đưa đến chỗ các kẻ thù ký tên khả kính của ngài dưới những danh sách bần tiện, trong khi chính ngài đã là tác giả xây dựng của 150 pho sách hay những tập rời. 

Cả cuộc đời Thánh Antôn, người chỉ mơ ước việc xuất bản sách báo Công Giáo. Người sáng lập Nhà In Công Giáo, một cơ sở xuất bản Công Giáo mạo hiểm kinh doanh ở Tây Ban Nha, và người đã viết cũng như xuất bản khoảng 200 cuốn sách lớn nhỏ.

Cuộc cách mạng đã xua đuổi hoàng hậu tới Panu, rồi Paris là nơi cha giải tội đã theo bà và lo lắng cho thuộc điạ Tây ban Nha và vẫn theo đuổi phát triển của tu hội truyền giáo, ngài dự cộng đồng bàn về giáo thuyết bất khả ngộ của Tòa Thánh. Trong Công Ðồng Vatican I, người trung thành bảo vệ tín điều bất khả ngộ của đức giáo hoàng, người được sự thán phục của các giám mục bạn. Ðức Hồng Y Gibbons của Baltimore nhận xét về người, “Ðây thực sự là vị thánh. ”Sự ghen ghét của những thù địch người Tây ban Nha theo đuổi ngài mãi. Thánh nhân một thời rút lui về một trong những nhà dòng của ngài ở Prades, rồi ở L'Audes, nơi các thầy dòng Xitô ở Fontfroide là nơi ngài đã qua đời lúc 63 tuổi, sau những đau khổ dữ dội mà không hề phàn nàn kêu trách năm 1870. Antôn Maria Claret được đức thánh cha Piô XII tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1950.

Antôn Maria Claret vị thánh rất tân thời đã tỏ ra là nhà tiên phong với nhà sách đạo của ngài. Trước khi có các tu hội triều ngày nay, ngài đã sáng nghĩ ra "các nữ tu tại gia" là học giả uyên bác, ngài đã xếp các văn sĩ có giá trị, các nghệ sĩ Công giáo vào "hàn lâm viện thánh Micae". 

Lời Bàn

Ðức Giêsu đã nói trước cho những ai muốn theo Người là họ sẽ bị bách hại như chính Người. Ngoài những cám dỗ trong đời, Thánh Antôn còn phải chịu đựng biết bao vu khống xấu xa đến độ tên Claret của người đồng nghĩa với nhục nhã và bất hạnh. Ma quỷ không dễ gì buông tha con mồi của chúng.

Chúng ta không cần phải đi tìm sự bách hại. Tất cả những gì chúng ta cần là sẵn sàng chịu đau khổ vì đức tin chân thật nơi Ðức Kitô, chứ không phải vì những bất cẩn và tính khí bất bình thường của chúng ta.

Lời Trích

Có lần Nữ Hoàng Isabella II nói với Thánh Antôn, “Không ai có thể nói cho tôi nghe một cách rõ ràng và thành thật như cha.” Sau này hoàng hậu nói với cha, “Mọi người đều xin tôi ban cho họ những ơn huệ này nọ, nhưng chưa bao giờ thấy cha làm như vậy. Cha có muốn xin điều gì không?” Người trả lời, “Thưa có, xin cho tôi từ chức.” Từ đó trở đi hoàng hậu không còn đề nghị gì khác. 

claret

THÁNH ANTON MARIA CLARET: NHỮNG MẨU TRUYỆN.

 

THÁNH ANTHONY MARY CLARET XIN ƠN CHẾT LÀNH CHO 4 TỬ TÙ

Khi Thánh Anthony Mary Claret sắp sửa rời Tây ban Nha để nhận chức Tổng Giám Mục ở nước Cuba xa xôi, ngài đã cứu được 4 tử tội khỏi sa hỏa ngục.

Trước đó, 4 tử tội đã bị kết án xử tử vào ngày thứ hai sắp đến. Cả 4 người đều không muốn ăn năn thống hối và không muốn chịu các bí tích sau cùng, dù cho nhiều linh mục khuyên răn và năn nỉ.

Sáng hôm ấy, tình cờ Cha Claret đi ngang qua vùng Villafranca ấy nhưng thật ra đó là chương trình của Chúa. Đưọc tin ngài đi qua đó, các linh mục năn nỉ xin ngài hãy cứu 4 tử tội khỏi hỏa ngục.

Ngài vội vàng đến ngục thất và thấy có 3 tử tội còn trẻ và người tử tội thứ 4 khoảng 40 tuổi.

Khi ngài vào phòng giam và khuyên răn thì có 3 tử tội chịu xưng tội. Trước khi cho 3 người này chịu Mình Thánh Chúa thì Thánh Claret hỏi xem liệu họ đã tha thứ cho tất cả mọi người chưa, thì một người tù trẻ hét to:

“Con tha thứ cho hết mọi người, trừ mẹ con.”

Lời nói ấy làm ngạc nhiên tất cả mọi người đang hiện diện.

“Con không tha thứ cho mẹ con bởi chính vì bà mà con bị tử hình ngày hôm nay. Nếu mẹ con chịu sửa sai con và trừng phạt con thì ngày nay còn đâu phải bị xử tử hình. Vì thế, con sẽ không tha thứ cho mẹ con.”

Nghe những lời này, Cha Claret xúc động, ngài quỳ trước kẻ tử tội và năn nỉ hắn:

“Con ơi, hôm nay con sẽ ra trước Tòa Chúa là Đấng Thẩm Phán Chí Công! Con hãy tha thứ cho mẹ con đi!”

“Không, bà ấy là nguyên nhân của việc con bị xử tử!”

“Con ơi, con sẽ bị xuống hỏa ngục nếu con không tha thứ cho mẹ con. Cha xin con, vì Danh Chúa và vì cha, xin con tha thứ cho bà ấy!”

“Không, không bao giờ con tha thứ cho mẹ con.”

Mọi người xôn xao. Một số người cầu nguyện cho hắn, một số người khóc, và đôi mắt mọi người gắn chặt vào cha Claret. Cha Thánh bèn quay sang nói với vị linh mục rằng:

“Xin cha đừng cho hắn chịu Mình Thánh Chúa.”

Sau đó, cả 4 tử tù đi ra pháp trường, đàng sau họ là Thánh Claret, ngài vừa đi vừa đọc kinh Mân Côi cầu nguyện cho họ, nhất là cầu cho hai người cứng đầu nhất, một người không chịu xưng tội, một người không chịu tha thứ. Giờ lên đoạn đầu đài đã điểm. Bỗng dưng, người trẻ kia lên tiếng:

“Từ trái tim của con, con tha thứ cho mẹ con. Xin mọi người cầu nguyện cho con!”

Rồi sau đó, người lớn tuổi trong đám là kẻ đã từng từ chối không xưng tội nay vội xin cha giải tội cho hắn. Cha Claret giải tội cho hắn. Mọi người la lên:

“Chúc tụng Chúa đã gửi Cha Claret đến đây!”

Về sau, Chúa tỏ lộ cho cha Claret biết rằng cả 4 tử tội đã được ơn cứu độ. Ngài họp mọi người lại và tuyên bố điều ấy, và ai ai cũng vui mừng.
 

THÁNH ANTHONY CLARET TRỪ QUỶ

Lời kể của Thánh Anthony Mary Claret:

"Có một loại bịnh làm cho tôi mất nhiều thì giờ để chữa trị, đó là bịnh quỷ ám. Trong khi tôi đi các thành phố để rao giảng Lời Chúa thì có nhiều người bị quỷ ám được gia đình đem đến gặp tôi. Họ xin tôi trừ quỷ cho người thân của họ. Vì được phép của giáo hội để trừ quỷ nên tôi đã trực tiếp trừ quỷ cho hàng ngàn vụ.

Việc trừ quỷ làm cho tôi rất tốn thì giờ hơn là việc giải tội và rao giảng Tin Mừng của Chúa. Tôi rút ra một kết luận là:

“Điều quan trọng hơn là hãy trừ quỷ tội trọng ra khỏi linh hồn người ta hơn là trừ quỷ ra khỏi thế xác.”

Khi có ai xin tôi trừ quỷ thì tôi ra lệnh cho người ấy làm 3 điều sau:

Thứ nhất, tất cả những người ấy phải kiên nhẫn và từ bỏ chính mình.

Thứ hai, không được uống rượu hay bất cứ một thứ nước giải khát nào bởi vì tôi biết có một số người uống quá nhiều rượu, rồi say sưa, và để tránh phiền toái, họ cứ đổ lỗi của mình cho kẻ dữ ám hại họ.

Thứ ba, tôi bảo họ mỗi ngày đọc 7 Kinh Lạy Cha và 7 Kinh Kính Mừng để suy nhớ đến 7 sự Thương Khó của Đức Mẹ Maria.

Tôi khuyên họ nên xưng tội một cách kỹ càng, xưng các tội đã phạm từ khi mới có trí khôn cho đến lúc ấy, tức là xưng tội trọn đời, rồi rước lễ với lòng sùng kính và tôn thờ Chúa.

Sau đó có một số người đến cám ơn tôi và nói rằng họ được giải thoát và tự do. Có một số người được ơn hoán cải và nói rằng họ không phải bị quỷ ám nhưng họ bị ảo ảnh và họ giả vờ bị quỷ ám để mọi người chú ý, thương hại và giúp đỡ họ."

GƯƠNG SỐNG ĐẠO ANH HÙNG CỦA THÁNH ANTHONY MARY CLARET

Vì đức vâng lời tuyệt đối nên Thánh Anthony Mary Claret đã viết tác phẩm Tự Thuật về cuộc sống của ngài. Đọc xong chúng ta nhận thấy ngài có trái tim và linh hồn của một vị thánh. Thánh Anthony Mary Claret nêu ra những điều minh chứng cho sự thành công trong việc cứu rỗi các linh hồn. Ngài nhấn mạnh đến 5 đức tính tiên quyết cần thiết để cho mục vụ truyền giáo có kết quả, đó là:

1. Khiêm nhường,
2. Sống khó nghèo,
3. Lòng nhân hậu,
4. Sự đơn sơ,
5. Sự từ bỏ chính mình, tức là chết đi cho cái tôi của mình.

Chúa Giêsu thường hiện ra và nói với ngài rằng:

“Con hãy cho Ta máu(từ bỏ chính mình) và Ta sẽ ban cho con Thần Trí.”

Trong lúc làm công tác truyền giáo, Thánh Anthony Mary Claret không bao giờ nhận tiền, và ngài đi bộ đến khắp mọi nơi, từ thành phố này đến làng mạc kia. Ngài chỉ có một đôi giầy, một bộ quần áo và vài cuốn sách trong người.

Ngài chỉ đi giảng đạo ở những nơi nào mà Đức Giám mục sai ngài đi. Ngài thâm tín rằng Thiên Chúa đụng chạm đến những trái tim khi một nhà truyền giáo làm việc với đức vâng lời thánh thiện hơn là với ý riêng của mình. Ngài không bao giờ ăn thịt hay uống rượu, và ngài chỉ ngủ từ 3 đến 5 tiếng đồng hồ mỗi đêm.

Ngài trở thành vị Tổng Giám Mục của vùng Santiago, nước Cuba. Ngài đến viếng thăm mỗi giáo xứ trong địa phận của ngài 4 lần. Có những nơi từ trước đến lúc ấy chưa hề được thấy một vị giám mục trong suốt 60 năm. Ngài làm việc truyền giáo ở khắp mọi nơi, ban phép thêm sức cho 300 ngàn người, và hợp thức hóa hôn nhân cho 9 ngàn đôi vợ chồng. Tất cả những điều ngài làm chỉ vỏn vẹn trong 6 năm và 2 tháng.

Ngài là cha giải tội của vị hoàng hậu nước Tây Ban Nha và khi ngài quyết định đi nơi khác, ngài không hề nhận bất cứ một vật gì mà Hoàng hậu muốn tặng cho ngài, dù chỉ là một cây kim. Suốt cuộc đời, ngài chỉ muốn làm việc truyền giáo mà thôi.

Ngài không bao giờ bỏ phí thì giờ. Trong 35 năm làm linh mục, ngài viết được 144 cuốn sách và giảng khỏang 25 ngàn bài giảng. Trong một chuyến đi, ngài giảng 205 bài giảng trong 48 ngày, tức là khoảng 12 bài trong một ngày.

Để biện minh cho việc làm của mình, ngài viết:

“Nếu bạn thấy một người mù sắp rớt xuống hố, liệu bạn có cảnh cáo người ấy không? Vì thế tôi cũng làm như vậy và tôi phải làm vì đó là bổn phận của tôi. Tôi phải cảnh cáo những kẻ tội lỗi và cho họ thấy trước những gì sẽ dẫn họ đến lửa hỏa ngục không bao giờ tắt, bởi vì họ sẽ đến nơi ấy nếu họ không hoán cải. Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng và cảnh cáo họ, bởi vì tôi sẽ chịu trách nhiệm nếu họ bị án phạt."

Trong cuôc đời linh mục, ngài làm nhiều phép lạ, ngài có ơn tiên tri và hiểu những bí mật của tâm hồn người khác. Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria thường hiện ra với ngài. Có lần Chúa bảo ngài rằng có 3 án phạt sẽ giáng xuống trần gian, đó là:

1. Thệ Phản và Cộng sản.

2. Lòng ham muốn lạc thú và tiền bạc, và sự độc lập của tư tưởng và ý muốn.

3. Chiến tranh và hậu quả của chiến tranh.

Theo ngài, sự khiếm khuyết của xã hội thời nay là:


“Tất cả mọi nguời trong thế gian đều thích giàu có, thích nổi danh và ham muốn lạc thú. Lý do mà xã hội hư mất vì họ đã từ chối không nghe lời Giáo hội, đó là lời Hằng Sống, Lời của Thiên Chúa. Tất cả những chương trình cứu độ sẽ trơ trụi nếu như Lời vĩ đại của giáo hội Công Giáo không được khôi phục một cách sung mãn.”

“Quyền giảng đạo và dạy dỗ con người là quyền mà giáo hội nhận từ chính Thiên Chúa qua các thánh tông đồ, nhưng đã bị đảo lộn vì truyền thông và những kẻ ngu dốt. Mục vụ rao giảng lời Chúa là một điều quan trọng nhất và thăng hoa nhất bởi vì nhờ đó là trái đất chiến thắng. Các linh mục cần rao giảng và phát hành những tài liệu, sách báo tốt và những mục vụ bác ái để sinh hoa quả tốt lành.”

“Lạy Thiên Chúa của con, con dâng lên Ngài lời hứa của con rằng con sẽ lao động, rao giảng, viết lách, và tặng thật nhiều sách báo tốt cho mọi người để nhờ đó mà tẩy trừ những sự dữ bằng việc làm tốt.”
 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp tứ Người Tín Hữu, Theo Vết Chân Người, Tin Mừng, TGP Sài Gòn, Hội Dòng Đaminh Thánh Linh