SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

2020

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXV Thường Niên Năm A và Chẵn
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa

 

  

Bài Ðọc I: Am 8, 4-7

"Chống lại những kẻ lấy tiền mua người nghèo".

Trích sách Tiên tri Amos.

Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp kẻ nghèo khó, và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong cả nước. Các ngươi bảo: "Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát". Vì Giacóp kiêu căng, Chúa đã thề rằng: "Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 112, 1-2. 4-6. 7-8

Ðáp: Hãy ngợi khen Chúa, Ðấng nâng cao kẻ túng thiếu (c. 1a & 7b).

Xướng: 1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.

2) Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời là vinh quang của Chúa... và Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất. - Ðáp.

3) Người nâng cao kẻ túng thiếu từ chỗ bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ nơi phẩn thổ, hầu cho họ ngồi với những bậc quân vương, với những bậc quân vương của dân Người. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Tm 2, 1-8

"Cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho mọi người. Ngài muốn cho mọi người được cứu độ".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gởi Timôthêu.

Trước tiên, cha khuyên hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch. Ðó là điều tốt lành và đẹp lòng Ðấng Cứu Ðộ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý.

Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Ðấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Ðức Giêsu Kitô, cũng là con người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người, mà vì chứng tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao giảng, làm Tông đồ (cha nói thật chứ không nói dối), và làm Thầy dạy dân ngoại trong đức tin và chân lý. Vậy cha muốn rằng những người đàn ông cầu nguyện trong mọi nơi, hãy giơ lên hai tay thanh sạch, không oán hờn và cạnh tranh.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 17, 17b và a

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 16, 10-13 {hoặc 1-13}

"Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: {"Một người phú hộ kia có một người quản lý, và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: 'Tôi nghe nói anh sao đó? Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa'. Người quản lý nghĩ thầm rằng: 'Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào, để khi mất chức quản lý, thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ'.

"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: 'Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm thùng dầu'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại: năm mươi'. Rồi anh hỏi người khác rằng: 'Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm giạ lúa miến'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi'. Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng.

"Phần Thầy, Thầy bảo các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.}

"Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con?

"Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".

Ðó là lời Chúa. 

 

Image result for Lc 16, 10-13


Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C hôm nay thật ra Giáo Hội chỉ buộc đọc một số câu vắn gọn như sau (3 câu cuối trong 13 câu đầu tiên của đoạn 16 Phúc Âm Thánh Luca):  

“Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: ‘Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con? Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được’". 

Căn cứ vào đoạn Phúc Âm chính yếu buộc phải đọc cho Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C này thì chúng ta thấy nếu Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm C liên quan đến thành phần lầm lạc đáng được xót thương, thì Phụng Vụ tuần này liên quan đến thành phần đầy tớ đối với những gì được trao phó cần hoàn thành theo ý chủ.  

Mối liên hệ giữa Phụng Vụ Lời Chúa tuần trước và tuần này, như trên đây nhận định và phân tích, dường như theo chiều hướng là một khi con người được thương xót thế nào thì cũng phải thương xót như vậy, không được lạm dụng hay hưởng thụ, nghĩa là phải chia sẻ, phải áp dụng lòng thương xót mình đã lãnh nhận cho những đối tượng đáng thương như mình.

Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay chúng ta thấy có 2 loại đầy tớ, 2 thành phần hoàn toàn phản nghịch nhau: một bất trung gian dối và một trung tín phục vụ. Thành phần bất trung gian dối ở Bài Đọc 1 và thành phần trung tín phục vụ ở Bài Đọc 2. 

Đúng thế, trước hết là thành phần bất trung gian dối ở Bài Đọc 1, được Tiên Tri Amos diễn tả về chính mưu gian của họ như sau: 

"Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát".  

Thành phần đầy tớ bất trung gian ác này là ai, nếu không phải là chung dân Do Thái, thành phần được Thiên Chúa tuyển chọn và tỏ mình ra cho họ, để họ nhận biệt lòng thương xót của Ngài, nhờ đó họ sống lòng thương xót như Ngài, nhất là khi đối xứ với tha nhân đồng hương của mình. Và đó là lý do, dân Do Thái đã bị chính vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu của họ nghiêm chỉnh cảnh báo ở cuối Bài Đọc 1 hôm nay rằng: “Vì Giacóp kiêu căng, Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng’". 

Sau nữa là thành phần đầy tớ trung tín phục vụ, được điển hình nhất nơi trường hợp của Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, vị tông đồ đã cảm nhận được lòng thương xót Chúa đối với bản thân tội lỗi lầm lạc của mình, nhưng vẫn được tin tưởng sai đi làm chứng cho ân sủng thần linh, là tất cả sự thật về ơn cứu dộ và lòng thương xót Chúa, như Thư gửi môn đệ Timôthêu của ngài ở Bài Đọc 2 hôm nay cho thấy: 

“Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Ðấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Ðức Giêsu Kitô, cũng là con người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người, mà vì chứng tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao giảng, làm Tông đồ (cha nói thật chứ không nói dối), và làm Thầy dạy dân ngoại trong đức tin và chân lý”.  

Đúng thế, chân lý được vị tông đồ dân ngoại Phaolô này rao giảng liên quan đến ơn cứu độ của vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu muốn cho hết mọi người được cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô là dấu chứng của lòng thương xót thần linh, nhờ việc họ chấp nhận chứng từ là Đức Giêsu Kitô ấy, nghĩa là nhận biết chân lý nơi Đấng Trung Gian duy nhất này, như vị tong đồ dân ngoại đã khẳng định nơi phần đầu Bức Thư gửi môn đệ Timôthêu ở Bài Đọc 2 hôm nay: 

“Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý. Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Ðấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Ðức Giêsu Kitô, cũng là con người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người”. 

Chính vì ơn cứu dộ do lòng thương xót Chúa có tính cách phổ quát cho chung loài người và cho riêng những ai tin tưởng, nhờ nhận biết chân lý cũng là chấp nhận Đấng Thiên Sai Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô Trung Gian Duy Nhất, ngh ĩa l à những ai cảm thấy nghèo hèn trước nhan Thiên Chúa và chỉ còn biết hy vọng vào Ngài, mà Bài Đáp Ca hôm nay mới vang lên những lời kêu gọi Hãy ngợi khen Chúa, Ðấng nâng cao kẻ túng thiếu” (câu họa), chất chứa đầy niềm chúc tụng ngợi khen của con người, kèm theo những ý thức thần linh chân thực nhất về Thiên Chúa ở những câu xướng như sau:.

 1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời.

2) Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời là vinh quang của Chúa... và Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất.

3) Người nâng cao kẻ túng thiếu từ chỗ bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ nơi phẩn thổ, hầu cho họ ngồi với những bậc quân vương, với những bậc quân vương của dân Người.

 

 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Cn 3, 27-34 {hoặc 27-35}

"Chúa ghê tởm những kẻ lừa dối".

Trích sách Châm Ngôn.

Hỡi con, con chớ ngăn cấm người có thể làm việc lành; nếu con làm được việc lành, thì chính con hãy làm. Con chớ nói với người bạn của con rằng: "Hãy đi rồi trở lại, mai ta sẽ cho ngươi", khi con có thể cho ngay.

Con chớ mưu toan gây ác cho bạn hữu của con, khi nó tin tưởng vào con. Con chớ cạnh tranh với người ta cách vô cớ, khi chính người đó không làm điều gì ác cho con. Con chớ ganh tị với người bất chính, và chớ noi theo đường lối của nó. Vì Chúa ghê tởm những kẻ lừa dối, và Chúa ở thân mật với những kẻ đơn sơ. Chúa gửi đến nhà kẻ gian ác sự khó nghèo, còn nhà người công chính sẽ được chúc phúc. Chính Chúa nhạo báng những kẻ gian dối, và ban ơn cho những kẻ hiền lành. [Người khôn ngoan sẽ thừa hưởng vinh quang, nhưng phường ngu xuẩn sẽ chuốc lấy ô nhục.]

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 5

Ðáp: Lạy Chúa, người công chính sẽ cư ngụ trên núi thánh Chúa (c. 1b).

Xướng: 1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống. - Ðáp.

2) Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.

3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. - Ðáp.

 

Alleluia: Gc 1, 21

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng; lời đó có thể cứu thoát linh hồn anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 8, 16-18

"Ðặt đèn trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy sự sáng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm giường: nhưng đặt nó trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì kín nhiệm mà không bị tỏ ra, và không có gì ẩn giấu mà không bị lộ ra cho người ta biết. Vậy các ngươi hãy ý tứ xem các ngươi nghe thế nào! Vì ai có, sẽ được cho thêm; còn ai không có, cả điều mình tưởng có cũng sẽ bị lấy đi".

Ðó là lời Chúa.

My Reflections...: Reflection for September 23, Monday; Saint Pius of  Pietrelcina, Priest: Luke 8:16-18

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Đã có càng thêm - không có càng mất

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXV Thường Niên, là bài Phúc Âm tiếp liền với bài Phúc Âm Thứ Bảy Tuần trước, Tuần XXIV Thường Niên.

Thật vậy, ngay sau khi nói với đám đông dân chúng tuốn đến nghe Người và Người đã giảng dạy họ bằng dụ ngôn người gieo giống trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay, liền giảng tiếp vỏn vẻn trong 3 câu Phúc Âm như là những gì liên hệ với nhau bất khả phân ly trong cùng một bài giảng của Người, đó là:


"Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng. Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất."


Đúng thế, dụ ngôn người gieo giống trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước liên quan đến 4 loại thính giả, và 3 câu Phúc Âm hôm nay có liên hệ hết sức mật thiết với nhau ở chỗ: "Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe". Thế nhưng tại sao Chúa Giêsu lại ghép cách thức nghe lời Chúa với việc thắp đèn lên cho sáng tỏ chứ? 

Phải chăng ở đây Chúa Giêsu có ý nói rằng Chúa là người gieo giống, là Đấng rao giảng hạt giống lời Chúa, chẳng còn muốn gì hơn là làm sao cho lời của Người sinh hoa kết trái nơi con người, nơi những người nghe lời của Người, mà "lời Chúa là đèn soi chân con bước, là ánh sáng dẫn lối con đi" (Thánh Vịnh 119:105), thì cũng có nghĩa là Người muốn thắp lên trong mỗi một con người ngọn đèn lời của Người, nếu họ biết lắng nghe và đáp ứng lời của Người, nhờ đó, lời của Người cho dù đầy sâu nhiệm "bí ẩn" cũng sẽ "trở nên hiển hiện", dù lời của Người như có vẻ "che giấu" trong tâm hồn của mỗi một người nghe lời của Người, cũng sẽ trở nên cụ thể trước mặt mọi người qua đời sống chứng nhân của họ, như "được đưa ra ánh sáng" vậy.  

 

"Chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng" ở đây còn có nghĩa là con người ta không thể che giấu được những gì ở trong lòng mình là nguồn mạch tất cả những gì là xấu xa tội lỗi mà họ muốn giấu nhưng lại cứ lộ ra bởi lòng đầy nên mới trào ra ngoài miệng. Người ta có thể căn cứ vào lời nói và việc làm hay phản ứng của chúng ta để biết chúng ta thuộc hạng người nào, trình độ tu đức đức tin tới đâu, có thực sự sống lời Chúa hay chăng, thuộc thành phần theo đạo hay đạo theo v.v. 

 

Đó là lý do cũng trong cùng Bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau đó, Chúa Giêsu đã vừa nhắc nhở vừa cảnh giác thành phần Kitô hữu môn đệ của Người rằng "hãy để ý tới cách thức anh em nghe". Nếu chúng ta coi trọng lời Chúa, đặt lời của Người trên hết mọi sự ở thế gian này, không có gì quan trọng như Lời Người, giành thời giờ hằng ngày để nghiền gẫm, thưởng thức Lời của Người, nhờ đó Lời Người sẽ biến đổi con người chúng ta nơi những gì chúng ta phán đoán, chọn lựa, phát biểu, tác hành và phản ứng, và như thế, chúng ta trở nên thành phần "đã có lại được cho thêm", càng trở nên dồi dào với các hoa trái thiêng liêng bất diệt vô cùng phong phú xuất phát từ Lời Chúa.  

 

Trái lại, nếu chúng ta để cho các công việc hằng ngày của chúng ta úp lên trên Lời Chúa là ánh sáng cần soi tỏ trong cuộc đời của chúng ta, để cho các lo toan bận bịu phụ thuộc (cho dù cần đến đâu chăng nữa) của chúng ta (so với Lời Chúa) lấn át Lời Chúa, ưu tiên hơn Lời Chúa, thì chúng ta sẽ chẳng biết đâu mà phán đoán cho đúng, chọn lựa cho khôn, tác hành cho khéo và phản ứng cho đẹp, để rồi tất cả những gì chúng ta làm cho dù được lợi lãi cả mà mất linh hồn thì không phải chúng ta thực sự là thành phần mà "ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất" đúng như lời Chúa Giêsu cảnh báo trong câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay hay sao? 

Nếu biết lắng nghe, chấp nhận và đáp ứng lời của Chúa, như một mảnh đất tốt, thì mảnh đất nhân tính tốt của con người lắng nghe ấy sẽ trở sinh hoa trái, như thể "ai đã có (lời Chúa), thì được cho thêm (hoa trái)", trái lại, thành phần nghe lời Chúa như một vệ đường hay như sỏi đá hoặc như bụi gai, thì lời Chúa Giêsu kết luận ở cuối bài Phúc Âm hôm nay đã khẳng định: "còn ai không có (ám chỉ lời Chúa chẳng công hiệu gì nơi họ như thể họ chẳng có lời Chúa, chẳng hề nghe lời Chúa), thì ngay cái họ tưởng là có (như đức tin họ lãnh nhận khi lãnh nhận Phép Rửa, như việc lành phúc đức họ làm là những gì họ tưởng là có), cũng sẽ bị lấy mất (như người đầy tớ đưc trao cho một nén chẳng sinh lợi nên bị tước luôn - xem Mathêu 25:28-29)". 

 

Nếu hiểu câu Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay: "Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng", và nếu thành phần "đốt đèn" được Chúa Giêsu ám chỉ trong Bài Phúc Âm là những ai, trong đám "dân chúng" là đối tượng nghe Người bấy giờ, làm lành, hay nói đúng hơn, là làm gương sáng qua các việc lành họ làm, thì Sách Châm Ngôn trong Bài Đọc 1 hôm nay rất chí lý khi có lời huấn dụ rằng:

 

"Hỡi con, con chớ ngăn cấm người có thể làm việc lành; nếu con làm được việc lành, thì chính con hãy làm. Con chớ nói với người bạn của con rằng: 'Hãy đi rồi trở lại, mai ta sẽ cho ngươi', khi con có thể cho ngay". Trái lại, họ còn tránh gây ra gương mù bằng các hành động tiêu cực của họ nữa, như cùng Bài Đọc 1 hôm nay cảnh giác: "Con chớ mưu toan gây ác cho bạn hữu của con, khi nó tin tưởng vào con. Con chớ cạnh tranh với người ta cách vô cớ, khi chính người đó không làm điều gì ác cho con. Con chớ ganh tị với người bất chính, và chớ noi theo đường lối của nó".

 

Thành phần "đốt đèn" bằng các việc lành trong đời sống gương sáng của mình, và tránh đi tất cả những gì là gương mù gương xấu của mình như thế, phải được gọi là "người công chính", những con người, như Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay cho biết "cư ngụ trên núi thánh Chúa". Thật vậy, Thánh Vịnh 14 ở Bài Đáp Ca hôm nay đã diễn tả về những con người công chính, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực, trong đời sống của họ như sau:

 

1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống.

2) Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa.

3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay.

 

 

 

 

Ngày 21 tháng 9

Lễ Thánh Matthêu, Tông Ðồ

Lễ Kính

 

Catholic Faith Warriors ~ Fighting the Good Fight +: St. Matthew, Apostle  September 21

 

Sở dĩ trong hình Thánh Mathêu trên đây có cả hình con sư tử, là vì Phúc Âm của ngài là 1 trong 4 Phúc Âm,được vì trong thị kiến của Sách Khải Huyền 4:6-7 và Ezekien 1:10, là 1 trong 4 Con Vật "đầy mắt" (thần linh khôn ngoan):

Cuốn phúc âm đầu tiên ấy được ví như con sư tử, phúc âm thứ 2 của Thánh Marco được ví như con bò tơ, phúc âm thứ 3 của Thánh Luca được vì như Con Vật có mặt con người, và phúc âm thứ 4 của Thánh Gioan như phượng hoàng,

 

 

Bài Ðọc I: Ep 4, 1-7. 11-13

"Chu toàn chức vụ, xây dựng thân thể Chúa Kitô".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, tôi là tù nhân trong Chúa, tôi khuyên anh em hãy ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh em đã lãnh nhận. Anh em hãy hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng nhau trong đức ái; hãy lo bảo vệ sự hợp nhất tinh thần, lấy bình an hoà thuận làm dây ràng buộc: Chỉ có một thân thể và một tinh thần, cũng như anh em đã được kêu gọi đến cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Ðấng vượt trên hết mọi người, hoạt động nơi mọi người, và ở trong mọi người.

Nhưng mỗi người trong chúng ta đã được ban ơn tuỳ theo lượng Ðức Kitô ban cho. Và chính Người đã ban cho kẻ làm Tông đồ, người làm Tiên tri, còn kẻ khác thì rao giảng Tin Mừng, kẻ khác nữa làm chủ chăn và thầy dạy, để tổ chức các thánh nhân nên hoàn bị hầu chu toàn chức vụ, xây dựng thân thể Ðức Kitô, cho đến khi mọi người chúng ta hợp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, trở nên người trưởng thành, đạt đến tầm vóc của Ðức Kitô viên mãn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5

Ðáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).

Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Ðáp.

2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúng con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa; chúng con tuyên xưng Chúa là chúa tể. Lạy Chúa, ca đoàn vinh quang các Tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 9-13

"Hãy theo Ta". - Và ông ấy đứng dậy đi theo Người.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải hy lễ. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Dẫn Nhập (Đaminh Maria cao tấn tĩnh:)

 

 

Mỗi vị thánh đều phản ánh 1 tia sáng nào đó từ Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), một "Ánh Sáng đã chiếu trong tăm tối..." (Gioan 1:5) là thế gian tội lỗi này, khi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), và "ánh sáng thật đã chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian này" (Gioan 1:9) vẫn còn tiếp tục phản chiếu nơi thành phần môn đệ của Chúa Kitô: "Các con là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14).


Trong số các thánh, quan trọng nhất phải kể đến các Thánh Tông Đồ, được Giáo Hội cử hành từng vị ở bậc Lễ Kính (feast, có kinh vinh danh và phụng vụ Lời Chúa hợp với chung các vị hay từng vị), vì các tông đồ được Chúa Kitô tuyển chọn để làm chứng nhân tiên khởi của Người, và làm nền tảng của Giáo Hội Người thiết lập (Epheso 2:20). Đức tin của Kitô hữu hậu sinh chúng ta là đức tin tông truyền từ các tông đồ, những người môn đệ tiên khởi của Chúa Kitô, được sống cận kề với Người từ đầu đến cuối, nhờ đó các vị mới tận mắt thấy, tận tai nghe và chính tay được đụng chạm đến Người (xem 1Gioan 1:1-3).


Trong số các Thánh Tông Đồ, thì chỉ có 2 vị được tặng thêm danh hiệu Thánh Sử thôi, đó là 2 vị thánh viết 2 cuốn Phúc Âm: Thánh Mathêu và Thánh Gioan, còn Thánh Phêrô, Thánh Giacôbê và Thánh Giuđa (không phải Giuđa phản bội) chỉ viết các thư còn lưu lại trong sổ bộ Tân Ước, cũng không được tước hiệu Thánh Sử. Thánh Mathêu viết Phúc Âm bằng tiếng Do Thái (Hebrew) và viết cho dân Do Thái, (trong khi Thánh Gioan viết cho Giáo Hội và Thánh Luca cho Dân ngoại, bởi đó gia phải về Chúa Giêsu được Thánh Luca liệt kê về tới tận 2 nguyên tổ của chung loài người), nên Thánh Mathêu liệt kê Gia Phả về Chúa Giêsu từ Abraham trở xuống, và hay trích dẫn Thánh Kinh Cựu Ước để chứng thực Chúa Kitô chính là Thiên Sai của dân Do Thái. Thánh Mathêu có khuynh hướng tổng hợp, nên chúng ta thấy trong Phúc Âm của ngài có Bài Giảng Trên Núi (đoạn 5-7), Bảy Dụ Ngôn Nước Trời (đoạn 13), Khiển Trách biệt phái và luật sĩ (đoạn 23), Tận Thế (đoạn 24-25) v.v.

 

 

 

 

ĐTC Biển Đức XVI: Thứ Tư 30/8/2006 - Bài 17

 

 

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Để tiếp tục loạt chân dung về 12 Tông Đồ, loạt chân dung được bắt đầu một ít tuần trước đây, hôm nay chúng ta suy niệm về Thánh Mathêu.

 

Phải chân nhận rằng hầu như không thể mô tả trọn vẹn hình ảnh của ngài, vì tín liệu về ngài hiếm có và không đầy đủ. Những gì chúng ta có thể làm đó là mô tả không nhiều lắm về tiểu sử của ngài nhưng những gì được Phúc Âm cống hiến cho chúng ta.

 

Ngài bao giờ cũng có tên trong danh sách 12 vị được Chúa Giêsu tuyển chọn (x Mt 10:3; Mk 3:18; Lk 6:15; Acts 1:13). Tên của ngài, theo tiếng Do Thái, có nghĩa là ‘tặng ân của Chúa’. Cuốn Phúc Âm đầu tiên trong sổ bộ thánh kinh là cuốn phúc âm mang tên của ngài, cho chúng ta thấy trong danh sách 12 Vị ngài có một tính chất rất đặc biệt, đó là ‘viên thu thế’ (Mt 10:3).

 

Đó là lý do ngài được đồng hóa với con người ngồi ở phòng thuế, kẻ được Chúa Giêsu kêu gọi theo Người. ‘Khi Chúa Giêsu đi ngang qua đó Người thấy một người tên là Mathêu đang ngồi ở phòng thuế, và Người nói cùng anh rằng: ‘Hãy theo Tôi’. Và ngài đã chỗi dạy theo Người’ (Mt 9:9).

 

Thánh Marcô (x 2:13-17) và Luca (x 5:27-30) trình thuật lời kêu gọi con người ngồi ở phòng thuế, nhưng các vị gọi ngài là ‘Levi’. Việc tưởng tượng ra cảnh được diễn tả trong Phúc Âm Thánh Mathêu 9:9 cũng đủ để nhớ đến bức họa vĩ đại của Carabaggio, được giữ ở Rôma đây, nơi Thánh Đường Thánh Louis của Pháp.

 

Một chi tiết mới về thân thế của ngài được các Phúc Âm nhắc tới, đó là, trong đoạn Phúc Âm, trước trình về về lời Chúa Giêsu kêu gọi ngài, có nói tới chi tiết về phép lạ Chúa Giêsu đã làm ở Capernaum (x Mt 9:1-8; Mk 2:1-12), liên quan tới Hồ Tibêria, gần Biển Galilêa (x. Mk 2:13-14).

 

Người ta có thể suy diễn là Thánh Mathêu đã thực hiện nhiệm vụ của một viên thu thuế ở Capernaum, ở ngay ‘bên biển’ (Mt 4:13), nơi Chúa Giêsu là một vị khách thường xuyên của gia đình Thánh Phêrô.

 

Căn cứ vào những nhận định sơ sài từ Phúc Âm này, chúng ta có thể thực hiện một số chia sẻ như sau. Trước hết là Chúa Giêsu đã đón nhận trong nhóm bạn hữu thân thiết của mình một con người, theo quan niệm ở Do Thái thời ấy, được coi là một tội nhân công khai.

 

Thật ra Mathêu chẳng những là nhân viên quản trị về tiền bạc, một việc được coi là không tinh sạch vì nó xuất phát từ con người xa lạ với thành phần dân Chúa, mà còn hợp tác với thẩm quyền ngoại bang, tham lam bẩn thỉu, có thể ấn định việc cống nộp một cách tùy tiện.

 

Vì những lý do đó, có vài lần các Phúc Âm đã đề cập chung ‘thành phần thu thuế và tội lỗi’ (Mt 9:10; Lk 15:1), ‘thành phần thu thuế và gái điếm’ (Mt 21:31). Ngoài ra, các Phúc Âm còn thấy nơi thành phần thu thuế một mẫu gương tham lam nữa (x Mt 5:46: họ chỉ yêu thương những ai thương yêu họ) và đã đề cập đến một người trong họ là Gia Kêu, như ‘người trưởng ban thu thuế, và giầu có’ (Lk 18:11).

 

Căn cứ vào những chi tiết ấy vấn đề cần phải chú ý là Chúa Giêsu không loại trừ một ai ra khỏi tình thân hữu của Người. Hơn thế nữa, chính lúc Người ngồi ở bàn ăn trong nhà viên Thu Thuế Mathêu, trả lời những ai cảm thấy ngứa mắt trước sự kiện qui tụ thường xuyên song bất xứng của Người, Người đã tuyên bố điều quan trọng này là ‘Những ai khỏe mạnh thì không cần đến thày thuốc, chỉ có những ai yếu bệnh mới cần; Tôi đến không phải để kêu gọi thành phần công chính mà là tội nhân’ (Mk 2:17).

 

Lời loan báo tốt đẹp này của Phúc Âm thực sự là ở chỗ đó, ở chỗ Thiên Chúa cống hiến ân sủng của Ngài cho thành phần tội nhân! Ở một đoàn khác, bằng một dụ ngôn nổi tiếng về người Pharisiêu và người thu thuế cùng lên đền thờ cầu nguyện, Chúa Giêsu thậm chí cho thấy một người thu thuế vô danh nêu gương khiêm nhượng tin tưởng vào tình thương thần linh: Trong khi người Pharisiêu ngạo nghễ về tình trạng trọn lành luân lý của mình, thì ‘người thu thuế, đứng ở đằng xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ biết đấm ngực mà rằng: Lạy Chúa, xin thương đến tôi là kẻ tội lỗi!’

 

Và Chúa Giêsu nhận định rằng: ‘Thày cho các con biết người này về nhà được công chính chứ không phải người kia; vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên’ (Lk 18:13-14).

 

Bởi thế, qua hình ảnh Mathêu, các Phúc Âm cho chúng ta thấy một cái ngược đời thực sự, đó là ai có vẻ xa vời nhất với thánh đức lại có thể trở thành một mô phạm trong việc chấp nhận lòng thương xót Chúa, giúp họ có thể thoáng thấy được những hiệu năng của lòng xót thương này nơi cuộc sống của họ.

 

Về vấn đề này, Thánh Gioan Chrysostom đã có một nhận định đáng kể. Ngài nhận định rằng nơi trình thuật về ơn gọi thì chỉ có một vài người được kêu gọi là có liên quan tới công việc họ đang hành sự. Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đã được kêu gọi khi các vị đang đánh cá; Mathêu được kêu gọi khi anh đang thu thuế.

 

Chúng là những công việc có tầm vóc không quan trọng là bao, Thánh Chrysostom nhận định: ‘không còn gì đáng ghê tởm hơn là viên thu thuế và không gì tầm thường hơn là việc đánh cá’ ("In Matth. Hom": PL 57, 363).

 

Bởi thế, lời kêu gọi của Chúa Giêsu cũng vươn tới cả thành phần ở tầm cấp thấp kém, thành phần làm những việc tầm thường của mình.

 

Một ý tưởng khác cũng xuất phát từ trình thuật Phúc Âm, đó là việc Mathêu tức khắc đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: ‘Ông đã đứng lên đi theo Người’. Lời vắn gọn của câu này nhấn mạnh đến tính cách tức khắc nơi việc Mathêu đáp lại lời kêu gọi.

 

Đối với ông thì điều này có nghĩa là từ bỏ hết mọi sự, nhất là một nguồn lợi tức vững chắc, mặc dù thường bất chính và bất xứng. Hiển nhiên là Mathêu hiểu rằng mối thân tình với Chúa Giêsu không cho phép anh tiếp tục những hoạt động không đẹp lòng Chúa.

 

Người ta có thể dễ dàng trực giác thấy rằng vấn đề này cũng có thể được áp dụng cho hiện nay nữa, ở chỗ, ngày nay người ta cũng không thể chấp nhận việc gắn bó với những gì bất xứng hợp với việc theo Chúa Giêsu, như những thứ giầu sang gian dối. Có lần Người đã công khai phán rằng: ‘Nếu anh muốn nên trọn lành thì hãy về bán những gì mình có mà cho kẻ khó để có được nước trời; rồi hãy đến mà theo Tôi’ (Mt 19:21).

 

Đó chính là những gì Mathêu đã làm: Anh đã chỗi dậy đi theo Người! Nơi việc ‘đứng dậïy’ này người ta có thể thấy được việc ly thoát với tình trạng tội lỗi, đồng thời, thấy được cả việc ý thức gắn bó với một sự sống mới, chính trực, hiệp thông với Chúa Giêsu.

 

Sau hết, chúng ta nhớ lại rằng truyền thống của Giáo Hội sơ khai đồng ý với việc gán tác giả quyền của cuốn Phúc Âm thứ nhất cho Mathêu. Việc này được bắt đầu với Papias, vị giám mục của Gerapolis ở Phrygia, vào khoảng năm 130.

 

Vị giám mục này viết rằng: ‘Mathêu đã viết những lời của Chúa Giêsu bằng tiếng Do Thái, và mỗi người giải thích những lời ấy tuỳ họ có thể’ (in Eusebius of Caesarea, "Hist. eccl.", III, 39, 16). Sử gia Eusebius còn thêm chi tiết là: ‘Mathêu, vị trước đó đã giảng dạy cho người Do Thái, khi quyết định đi đến với cả các dân tộc khác nữa, thì đã viết bằng tiếng mẹ đẻ của mình Phúc Âm ngài đã loan truyền: Nhờ đó ngài đã thay thế, bằng bản viết của mình, những gì họ, thành phần ngài lìa bỏ, bị mất mát đi bởi việc ra đi của ngài’ (Ibid., III, 24, 6).

 

Chúng ta không còn bản Phúc Âm được Thánh Mathêu viết bằng tiếng Do Thái hay Aramaic, mà là bản Phúc Âm bằng tiếng Hy Lạp là bản được lưu lại cho tới chúng ta, chúng ta vẫn tiếp tục nghe, ở một nghĩa nào đó, tiếng nói thuyết phục của người thu thuế Mathêu, vị mà khi trở thành tông đồ đã tiếp tục loan truyền cho chúng ta tình thương cứu độ của Thiên Chúa.

 

Chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp này của Thánh Mathêu, chúng ta hãy suy niệm sứ điệp ấy luôn mãi để chúng ta có thể cương quyết dứt khoát chỗi dạy theo Chúa Giêsu.


 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/8/2006  

 

Bài đọc 2

Đức Giê-su đã nhìn thấy ông, yêu thương và tuyển chọn ông

Trích bài giảng của thánh Bê-đa Khả Kính, linh mục.

Đức Giê-su thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi ở bàn thu thuế. Người bảo ông : Anh hãy theo tôi. Người thấy không phải với con mắt thể xác, cho bằng với cái nhìn đầy tình thương sâu xa. Đức Giê-su thấy người thu thuế ; Người nhìn ông với tình thương và có ý chọn ông, nên bảo ông : Anh hãy theo tôi ! Nhưng hãy theo có nghĩa là hãy bắt chước, không phải chỉ theo bằng bước chân mà nhất là bằng cách ăn thói ở. Quả thật, ai nói mình ở lại trong Đức Ki-tô thì phải đi trên con đường Người đã đi.

Và ông đứng dậy đi theo Người. Chẳng có gì lạ khi thoạt nghe tiếng Chúa truyền, người thu thuế từ bỏ ngay những lợi lộc trần gian ông đang quản lý, và một khi đã coi thường sự giàu sang, ông dấn thân bước theo Đấng mà ông thấy chẳng có chút của cải nào. Thật vậy, chính Chúa, Đấng bên ngoài dùng lời nói để gọi ông, thì bên trong dùng sự thúc đẩy vô hình mà dạy ông bước theo Người, vì Người tuôn đổ vào lòng trí ông ánh sáng của ơn thiêng khiến ông hiểu được rằng Đấng kêu gọi ông từ bỏ của cải tạm bợ trên trần gian, cũng có quyền ban kho tàng chẳng hư nát trên trời.

Đức Giê-su đang dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến cùng ăn với Người và các môn đệ. Như thế, một người thu thuế trở lại đã nêu gương cho nhiều người thu thuế và tội lỗi biết sám hối và được ơn tha tội. Đây thật là một điềm tốt : vì thoạt khi vừa trở lại, người sau này sẽ trở thành tông đồ và thầy dạy đức tin đã kéo theo mình một đoàn tội nhân đến lãnh ơn cứu độ, và ngay khi đức tin của ông còn phôi thai, ông đã bắt đầu làm công việc loan báo Tin Mừng, công việc mà sau này ông sẽ hoàn thành mỹ mãn, khi đã tiến bộ trên đường nhân đức. Nếu chúng ta muốn tìm hiểu sâu xa hơn câu chuyện trên đây, thì nên biết rằng không phải Mát-thêu chỉ thết Chúa một bữa tiệc vật chất trong ngôi nhà của ông ở trần gian, mà còn dọn cho Người một bữa tiệc trong ngôi nhà tâm hồn ông với tất cả niềm tin yêu, điều đó còn quý hơn nhiều, bởi chính Chúa đã phán : Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.

Chúng ta nghe tiếng Người và mở cửa ra đón Người, khi chúng ta sẵn sàng vâng theo những lời khuyên nhủ kín đáo hay rõ ràng của Người, và ra sức chu toàn những điều ta biết mình phải thi hành. Người vào nhà để Người cùng với chúng ta và chúng ta cùng với Người ăn bữa tối, vì Người ngự trong tâm hồn những kẻ được tuyển chọn, nhờ hồng ân tình yêu của Người. Nhờ đó, Người luôn nuôi dưỡng họ bằng sự hiện diện quang minh của Người, để họ ngày càng vươn tới những ước vọng cao siêu và để chính Người được thưởng thức những khát vọng cao cả của họ như một thứ cao lương mỹ vị.

Lạy Chúa, Chúa đã mở lượng từ bi khôn tả chọn một người thu thuế là Mát-thêu làm tông đồ rao giảng Tin Mừng. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con biết noi gương người, luôn hết tình gắn bó với Chúa Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

 

Đức Thánh Cha trả lời cuộc phỏng vấn của đại diện các tạp chí trên thế giới của Dòng Tên Cuộc phỏng vấn dài này kéo dài 3 buổi khác nhau, tại chính phòng trọ của ngài ở Casa Santa Marta trong Tháng 8/2013. 

 

Jorge Mario Bergoglio là ai? 

 

Tôi hỏi thẳng Đức Giáo Hoàng Phanxicô rằng: "Jorge Mario Bergoglio là ai?" Ngài chăm chăm nhìn vào tôi một cách trầm lặng. Tôi hỏi ngài xem tôi có được hỏi ngài câu này hay chăng. Ngài gật đầu và trả lời rằng: "Tôi không biết phải diễn tả làm sao cho thích đáng nhất đây... Tôi là một tội nhân. Đó là một định nghĩa chính xác nhất. Nó không phải là một lời nói bóng gió, một thứ văn chương. Tôi là một tội nhân".

 

Đức Giáo Hoàng tiếp tục chia sẻ và tỏ ra tập trung vào vấn đề như thể ngài không ngờ về một câu hỏi như thế, như thể ngài bị bắt buộc phải chia sẻ thêm. "Đúng thế, có lẽ tôi có thể nói rằng tôi hơi khéo léo một chút, rằng tôi có thể thích ứng với các hoàn cảnh mà nói, thế nhưng tôi cũng thật sự là hơi ngây ngô thẳng thắn. Phải đấy, thế nhưng cái tóm gọn đúng nhất, cái xuất phát từ trong lòng và tôi cảm thấy đúng nhất là thế này: Tôi là một tội nhân được Chúa đoái thương". Và ngài lập lại rằng: "Tôi là một kẻ được Chúa đoái thương. Tôi luôn cảm thức được câu tâm niệm của mình, Miserando atque Eligendo (vì thương mà chọn) là những gì rất đúng với tôi".

 

Câu tâm niệm này được lấy từ các Bài Giảng của tác giả Bede the Venerable, vị viết trong phần dẫn giải của mình về câu truyện Phúc Âm liên quan đến việc Thánh Mathêu được Chúa Giêsu kêu gọi: "Chúa Giêsu đã trông thấy một người thu thuế, và vì Người nhìn anh ta bằng những cảm xúc yêu thương nên đã chọn anh ta, Người đã nói cùng anh ta rằng: 'Hãy theo Ta'". Đức Giáo Hoàng còn thêm: "Tôi nghĩ động danh từ Latinh miserando này không thể dịch sang cả tiếng Ý lẫn tiếng Tây Ban Nha. Tôi thích dịch nó bằng một động danh từ (gerund) khác vốn không có, đó là misericordiando ('mercy-ing' - việc thương xót)".

 

Đức Giáo Hoàng tiếp tục chia sẻ mà nói, khi nhẩy qua một đề tài khác: "Tôi không biết rõ về Rôma. Tôi biết một ít điều thôi. Những điều này bao gồm Đền Thờ Đức Bà Cả; tôi thường đến đó. Tôi biết Đền Thờ Đức Bà Cả, Đền Thờ Thánh Phêrô... thế nhưng khi tôi cần phải đến Rôma thì tôi bao giờ cũng ở (vùng lân cận) của Via della Scrofa. Từ đó, tôi thường viếng thăm Nhà Thờ Thánh Louis Pháp Quốc và tôi đến đó để chiêm ngưỡng bức họa liên quan đến 'Ơn Gọi của Thánh Mathêu' của Caravaggio.

 

"Ngón tay của Chúa Giêsu chỉ vào Thánh Mathêu. Tức là tôi. Tôi cảm thấy như ngài". Đến đây Đức Giáo Hoàng trở nên quyết liệt, như thể ngài cuối cùng đã thấy được hình ảnh ngài đã tìm kiếm: "Chính cử chỉ của Thánh Mathêu đã tác động tôi: Ngài giữ lấy tiền của ngài như muốn nói rằng 'Không, không phải là tôi! Không, tiền bạc này là của tôi'Đấy, tôi đó, một tội nhân đã được Chúa hướng nhìn tới. Và đó là những gì tôi đã nói khi các vị hỏi tôi rằng tôi có chấp nhận được tuyển bầu làm giáo hoàng hay chăng". Bấy giờ vị giáo hoàng này đã thầm thĩ bằng tiếng Latinh rằng: "Tôi là một tội nhân, nhưng tôi tin vào tình thương vô biên và nhẫn nại của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng tôi, và tôi chấp nhận bằng tinh thần thống hối".

 

 

 


Thứ Ba

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) Cn 21, 1-6. 10-13

"Những câu Cách Ngôn khác nhau".

Trích sách Châm Ngôn.

Lòng vua ở trong tay Chúa, như những dòng nước chảy, Người muốn hướng nó về đâu tuỳ ý Người. Mọi đường lối của người ta đối với họ là ngay thẳng, nhưng Chúa cân nhắc tâm can. Thực hành công bình và bác ái, thì đẹp lòng Chúa hơn là hy lễ. Mắt tự cao là lòng kiêu ngạo: đèn kẻ gian ác là tội lỗi. Toan tính người cần mẫn luôn dẫn tới sự dồi dào, còn mọi kẻ biếng nhác luôn gặp nghèo khó. Ai dùng lưỡi gian dối thu tích kho tàng, là người hư hốt vô tâm, nó sẽ rơi vào lưới sự chết.

Tâm hồn người tội ác mơ ước sự dữ, nó không thương xót người lân cận. Khi kẻ hung bạo bị sửa phạt thì người bé nhỏ sẽ khôn ngoan hơn, và nếu nó theo người khôn ngoan, nó sẽ được thông minh. Người công chính nhìn xem lòng kẻ tội ác, để cứu nó thoát khỏi tai hoạ. Ai bịt tai không nghe tiếng người nghèo khó, thì lúc chính nó kêu cầu, cũng chẳng ai nghe.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 1. 27. 30. 34. 35. 44

Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ thị Ngài (c. 35a).

Xướng: 1) Phúc đức những ai theo đường lối tinh tuyền, họ tiến thân trong luật pháp của Chúa. - Ðáp.

2) Xin cho con am hiểu đường lối huấn lệnh của Chúa, để con suy gẫm các điều kỳ diệu của Ngài. - Ðáp.

3) Con đã chọn con đường chân lý, con quyết tâm theo các thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

4) Xin dạy con, để con vâng theo luật pháp Ngài, và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Ðáp.

5) Xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ thị Ngài, vì chính trong đường lối này con sung sướng. - Ðáp.

6) Con sẽ tuân giữ luật Pháp Chúa luôn luôn, cho tới muôn ngàn đời và mãi mãi. - Ðáp. 

 

Alleluia: Tv 118, 18

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 8, 19-21

"Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu đến tìm Người, nhưng vì đám đông, nên không thể đến gần Người được. Người ta báo tin cho Người rằng: "Có mẹ và anh em Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy". Người trả lời với họ rằng: "Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".

Ðó là lời Chúa.

The Battle Between Family and Ministry | The Bible In Your Hand

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Tình Nghĩa Thần Linh

 

m nay, Thứ Ba Tuần XXV Thường Niên, bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cũng rất ngắn ngủi, chỉ có 3 câu, tiếp ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua về chiều hướng lời Chúa nơi con người thắp sáng trần gian, và có liên hệ với bài Phúc Âm hôm qua về ý nghĩa của nó, về mối liên hệ đích thực giữa Người với những ai giữ lời Chúa, đó là bài Phúc Âm trong đó Chúa Kitô khẳng định về mối liên hệ thiêng liêng với Người: 

"Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu đến tìm Người, nhưng vì đám đông, nên không thể đến gần Người được. Người ta báo tin cho Người rằng: 'Có mẹ và anh em Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy'. Người trả lời với họ rằng: 'Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành'". 

Đúng thế, qua câu khẳng định về tình nghĩa thiêng liêng với Người này, Chúa Giêsu chẳng những không phủ nhận mối liên hệ tự nhiên về huyết nhục, nhất là đối với Người Mẹ của Người, mà còn đề cao Mẹ của Người hơn nữa, như muốn nhấn mạnh rằng Mẹ Maria của Người chẳng những có phúc vì đã được thụ thai và cưu mang Người (xem Luca 11:27) là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), là "Con Thiên Chúa", là "Con Đấng Tối Cao" (Luca 1:32,35), mà còn "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45), tin phục những gì đã truyền đạt cho Mẹ. 

Chính "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) của Mẹ mới làm và đã làm cho Mẹ nên một với Con của Mẹ, mới làm cho Mẹ xứng đáng đồng công cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Con Mẹ và với Con Mẹ, nhất là khi Mẹ đứng kề bên Thánh Giá của Người (xem Gioan 19:25). Mẹ là đệ nhất môn đệ của Con Mẹ, là môn đệ tuyệt hảo nhất của Con Mẹ đúng như Con Mẹ mong muốn, ở chỗ Mẹ là "người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".  

Mẹ không thể nào có thể "đem ra thực hành" lời Chúa nếu không "nghe lời Thiên Chúa", như khi Mẹ nghe thấy câu trả lời của Thiếu Nhi Giêsu Con Mẹ 12 tuổi trong đền thờ sau 3 ngày lạc mất, một lời mà Mẹ không nắm bắt được ý nghĩa của nó (xem Luca 2:50), nhưng Mẹ vẫn lấy "đức tin tuân phục" để "xin vâng" như trong Biến Cố Truyền Tin (xem Luca 1:38), hay như khi Mẹ chứng kiến thấy những dấu lạ Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nhưng Mẹ vẫn lưu giữ tất cả những sự ấy mà suy niệm trong lòng, chẳng hạn như sự kiện ba chiêm tinh vương gia đông phương đến bái thờ Hài Nhi Giêsu Con Mẹ (xem Luca 1:19).  

Bởi thế, Mẹ thật sự là Mẹ của Chúa Kitô, Lời Nhập Thể cả về phương diện thể lý lẫn phương diện thiêng liêng. Nếu về phương diện tự nhiên, Mẹ đã hạ sinh nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét thuộc giòng dõi Đavít, thì về phương diện siêu nhiên, nhờ đức tin tuân phục của Mẹ, Mẹ đã thụ thai Lời Nhập Thể và Lời Nhập Thể đã chiếm đoạt Mẹ, biến Mẹ thành phương tiện thông ban ơn cứu độ, một ơn cứu độ trước tiên được thông ban cho thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, qua lời chào đầy Thánh Linh của Mẹ (xem Luca 1:41-44), và sau đó, cũng nhờ lời chuyển cầu thần thế của Mẹ, bằng vai trò trung gian môi giới, Chúa Giêsu lần đầu tiên đã tỏ vinh quang của Người ra cho các môn đệ của Người ở tiệc cưới Cana, làm cho các vị tin vào Người (xem Gioan 2:1-11). 

Chính nhờ tâm hồn đầy "đức tin tuân phục" của Mẹ mà chẳng những tâm hồn đầy ân phúc của Mẹ thực sự là Đền Thờ cho Chúa Thánh Thần ngự trị, mà nhờ đó cả thân xác trọn đời trinh nguyên của Mẹ nữa cũng đã hoàn toàn trở thành Đền Thờ vô cùng xứng đáng cho Lời Nhập Thể ẩn ngự trong suốt 9 tháng mở đầu cho cuộc sống trần gian của Người. 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã ngấm ngầm và gián tiếp lợi dụng chính gương "nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" của Mẹ Người, như mô phạm lý tưởng nhất cho những gì Người muốn huấn dụ thành phần "đám đông" dân chúng đang nghe Người bấy giờ, để khuyên dạy họ hãy đặt trọng tâm vào Thiên Chúa hơn vào bản thân mình, tức là vào việc "nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" như Mẹ, hơn là chỉ vênh vang được liên hệ với Chúa, là mẹ và là anh em của Chúa, một tâm trạng và thái độ không hề có nơi Mẹ của Người.

Mẹ đã liên lỉ "nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" đến độ chính Lời Chúa làm chủ và điều khiển cõi lòng cùng cuộc đời của Mẹ, một tâm trạng và tình trạng siêu nhiên, có thể nói được Sách Châm Ngôn trong Bài Đọc 1 hôm nay bóng bẩy diễn tả rằng: "Lòng vua ở trong tay Chúa, như những dòng nước chảy, Người muốn hướng nó về đâu tuỳ ý Người". Nhờ đó Mẹ không bao giờ làm theo ý riêng của mình, bằng không, Mẹ đã đánh mất căn tính "đầy ơn phúc" của Mẹ và nơi Mẹ, vì Mẹ quá biết rằng, đúng như Sách Châm Ngôn hôm nay nhận định: "Mọi đường lối của người ta đối với họ là ngay thẳng, nhưng Chúa cân nhắc tâm can. Thực hành công bình và bác ái, thì đẹp lòng Chúa hơn là hy lễ".

Mẹ đã sống đúng với tất cả những gì được Thánh Vịnh 118 ở Bài Đáp Ca hôm nay diễn tả, hay nói đúng hơn, Mẹ là hiện thân và mô phạm của tất cả những ai sống trọn Thánh Vịnh 118 này, những ai như Mẹ, "lưu giữ và suy niệm trong lòng" (Luca 2:19,51), nghĩa là luôn biết chuyên chú đến Thiên Chúa hơn là bản thân, đến Lời Chúa hơn là ý mình, đến mạc khải thần linh của Chúa hơn là ngẫu tượng nhân tạo của loài người, ở chỗ: "Lạy Chúa, xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ thị Ngài" (câu 35a):

 

1) Phúc đức những ai theo đường lối tinh tuyền, họ tiến thân trong luật pháp của Chúa.

2) Xin cho con am hiểu đường lối huấn lệnh của Chúa, để con suy gẫm các điều kỳ diệu của Ngài.

3) Con đã chọn con đường chân lý, con quyết tâm theo các thánh chỉ của Ngài.

4) Xin dạy con, để con vâng theo luật pháp Ngài, và để con hết lòng vâng theo luật đó.

5) Xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ thị Ngài, vì chính trong đường lối này con sung sướng.

6) Con sẽ tuân giữ luật Pháp Chúa luôn luôn, cho tới muôn ngàn đời và mãi mãi.  

 



Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Cn 30, 5-9

"Xin chớ để con ăn mày và cũng đừng để con giàu có: xin chỉ ban cho con ăn dùng vừa đủ".

Trích sách Châm Ngôn.

Mọi lời Thiên Chúa như luyện trong lửa, là thuẫn che chở kẻ nương tựa vào Người. Ngươi chớ thêm điều gì vào lời Chúa, kẻo ngươi bị trách cứ và bị coi là kẻ gian dối. Con xin Chúa hai điều này và xin đừng từ chối trước khi con chết: Xin hãy loại xa con sự giả trá và lời gian dối. Xin chớ để con ăn mày và cũng đừng để con giàu có: xin chỉ ban cho con ăn dùng vừa đủ: kẻo khi no đầy, con bị mê hoặc mà chối Chúa rằng: Chúa là ai? Hoặc vì túng thiếu con đi ăn trộm và làm ố danh Thiên Chúa của con.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 29. 72. 89. 101. 104. 163

Ðáp: Lời Chúa là đèn soi tỏ dưới bước chân con (c. 105a).

Xướng: 1) Xin đưa con xa cách con đường gian dối, và rộng tay ban luật pháp của Ngài cho con. - Ðáp.

2) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.

3) Thân lạy Chúa, cho tới đời đời kiếp kiếp, lời Chúa vẫn còn đó như cõi trời cao. - Ðáp.

4) Con kiềm hãm con xa mọi điều gian ác, để giữ trọn những lời răn dạy của Ngài. - Ðáp.

5) Nhờ huấn lệnh Ngài con trở nên minh mẫn, bởi thế con ghét mọi đường lối gian tà. - Ðáp.

6) Con ghét và ghê tởm điều gian dối, con yêu chuộng luật pháp của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Ga 2, 5

Alleluia, alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 1-6

"Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật. Ðoạn Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người bảo các ông rằng: "Khi đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ". Các ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao giảng Tin Mừng, và chữa lành bệnh tật khắp nơi.

Ðó là lời Chúa.

Real People meet a Real God: The Lost Testimony of the Twelve

Jesus Sends Out the Twelve Two by Two | Christian art, Bible illustrations,  Christian images


Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Thiên Chúa muốn tỏ mình ra qua con người, dù họ là ...



Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XXV Thường Niên, không tiếp nối bài Phúc Âm hôm qua, mà bỏ qua hết 34 câu còn lại của đoạn 8 Phúc Âm Thánh ký Luca, một khúc phúc âm bao gồm 3 sự kiện chính yếu sau đây: 
1- Chúa Giêsu dẹp yên bão tố khi được các môn đệ đáng thức lúc Người ngủ trên thuyền (câu 22-25), một sự kiện đã được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cho ngày Thứ Ba Tuần XIII Thường Niên; 
2- Người ra tay trừ quỉ cho một người trần truồng ở Gerasene (câu 26-39), một sự kiện cũng đã được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cho ngày Thứ Tư Tuần XIII Thường Niên; và 
3- Người chữa lành người đàn bà loạn huyết 12 năm và hồi sinh đứa con gái của vị trưởng hội đường (40-56), một sự kiện cũng đã được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cho ngày Thứ Hai Tuần XIV Thường Niên.
Bài Phúc Âm hôm nay bao gồm 6 câu đầu của đoạn 9 Phúc Âm Thánh Luca, liên quan đến biến cố Chúa Giêsu sai 12 tông đồ "đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân", một biến cố cũng đã được Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại cho Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên
Tuy nhiên, nếu bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên liên quan đến bài đọc 1 được trích từ Sách Khởi Nguyên (44:18-21,23-29;45:1-5): Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XIV Thường Niênthì bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay liên quan đến Sách Esdra / Ezra
Nguyên văn nội dung của bài Phúc Âm hôm nay như thế này: "Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật. Ðoạn Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người bảo các ông rằng: 'Khi đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ'. Các ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao giảng Tin Mừng, và chữa lành bệnh tật khắp nơi".

Chỉ có trong Phúc Âm Thánh Luca mới có hai lần Chúa Kitô sai đi: lần đầu Người sai 12 tông đồ như trong bài Phúc Âm hôm nay (9:1-6) và lần hai Người sai 72 môn đệ (xem Luca 10:1-20). Nếu để ý chúng ta thấy hai thành phần được Người sai đi rất khácx nhau ít là ở mấy điểm chính yếu sau đây: 1- trong khi 72 môn đệ được sai đi cứ từng cặp 2 người một, (phải chăng đó là lý do chúng ta mới thấy 2 môn đề đi về làng Emmau với nhau được Thánh ký Luca thuật lại - 24:13-35), còn 12 tông đồ thì không cần; 2- trong khi các tông đồ được Chúa Giêsu ban cho quyền trừ quỉ và chữa lành thì 72 môn đệ lại không được Người chính thức ban cho quyền này khi các vị được sai đi như các tông đồ.

Về quyền trừ quỉ (liên quan đến phần hồn) và chữa lành (liên quan đến phần xác) là những gì xuất phát từ Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô, Đấng cứu độ con người cả hồn lẫn xác, bằng cuộc Vượt Qua sự chết mà vào sự sống của Người, hoàn toàn chiến thắng tội lỗi (do ma quỉ) và sự chết (do tội lỗi của loài người). Ơn Cứu Độ cả hồn lẫn xác của con người này được Chúa Kitô thông ban cho Giáo Hội của Người để Giáo Hội thay Người ban phát cho các linh hồn qua các Bí Tích Thánh, và quyền ban phát các Bí Tích Thánh cũng là thông ban Ơn Cứu Độ này của Chúa Kitô chỉ ở nơi các tông đồ cùng các vị thừa kế của các ngài là hàng giáo phẩm của Giáo Hội trên khắp thế giới qua giòng thời gian.

Tuy có quyền trừ quỉ đấy nhưng nếu bản thân của chính các vị tông đồ không thánh thiện thì các ngài cũng chẳng trừ được quỉ, như đã từng xẩy ra (xem Marco 9:18-19,28-29). Đúng thế, nếu các tông đồ còn ham mê thế gian trần tục vốn thuộc về vương quốc của ma quỉ, hay còn ham danh tranh giành nhau theo tinh thần kiêu căng tự phụ của ma quỉ, thì các ngài thuộc về ma quỉ và là tay sai của ma quỉ thì làm sao các ngài có thể trừ được chính ma quỉ là chủ tể của các ngài chứ. Đó là lý do, trong Bài Phúc Âm hôm nay, vì việc truyền giáo là việc của Thiên Chúa nên những ai được sai đi truyền giáo phải hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, hơn là vào những cái phụ thuộc vật chất và quá quan tâm đến những gì thứ yếu hơn những cái chính yếu là Nước Chúa.

Đúng thế, những ai được sai đi truyền giáo phải hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, hơn là vào những cái phụ thuộc vật chất và quá quan tâm đến những gì thứ yếu hơn những cái chính yếu là Nước Chúa, nghĩa là hãy để Chúa làm chủ bản thân mình và hoạt động của mình, nhất là các hoạt động thuộc sứ vụ truyền giáo do chính Người chỉ định họ và sai họ đi thực hiện, như Sách Châm Ngôn trong Bài Đọc 1 hôm nay cảm nhận: "Mọi lời Thiên Chúa như luyện trong lửa, là thuẫn che chở kẻ nương tựa vào Người", Đấng quan phòng thần linh chắc chắn sẽ đích thân chẳng những lo việc truyền giáo của Ngài, mà còn lo cho cả chính thành phần thừa tác viên của Ngài nữa, chứ không để "con ăn mày và cũng đừng để con giàu có".

Và một khi "Lời Chúa là đèn soi tỏ dưới bước chân con" nơi bản thân và hoạt động của thành phần thừa sai truyền giáo, như Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay chân nhận vừa rồi, thì tâm tình và nguyện ước của họ không thể không phản ảnh nội dung của Thánh Vịnh 118, với những câu được Giáo Hội sử dụng thích hợp cho Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Xin đưa con xa cách con đường gian dối, và rộng tay ban luật pháp của Ngài cho con.

2) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn.

3) Thân lạy Chúa, cho tới đời đời kiếp kiếp, lời Chúa vẫn còn đó như cõi trời cao.

4) Con kiềm hãm con xa mọi điều gian ác, để giữ trọn những lời răn dạy của Ngài.

5) Nhờ huấn lệnh Ngài con trở nên minh mẫn, bởi thế con ghét mọi đường lối gian tà.

6) Con ghét và ghê tởm điều gian dối, con yêu chuộng luật pháp của Ngài.  




Ngày 23 tháng 9

Thánh Pi-ô Pi-ết-ren-si-na, linh mục

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 

Thánh nhân sinh tại làng Pi-ết-ren-si-na gần Bê-nê-ven-tô nước Ý năm 1887. Người vào tu dòng Anh Em Hèn Mọn, ngành Ca-pút-xi-nô, và sau khi thụ phong linh mục đã tận tình lo việc mục vụ nhất là tại tu viện ở thị trấn Xan Gio-van-ni Rô-tôn-đô miền Pu-li-a. Trong tinh thần cầu nguyện và khiêm nhường, người phục vụ dân Chúa qua việc linh hướng, bí tích Hoà Giải và việc săn sóc giúp đỡ những người ốm đau, nghèo khổ. Người đã được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô chịu đóng đinh và ngày 23 tháng 9 năm 1968, người kết thúc cuộc hành trình ở thế gian này.

Ngày 23.09 Thánh Piô Năm Dấu (Pietrelcina), Linh Mục - DÒNG ĐỨC MARIA NỮ  VƯƠNG HÒA BÌNH

 

Cuộc đời cha thánh Piô

Cha thánh Piô sinh ngày 25-05-1887 tại Pietrelcina, được gọi tên là Francesco Forgione. Ngài lớn lên trong một gia đình Công Giáo đạo đức. Lúc khoảng 6, 7 tuổi, ngài đã có được sự liên kết rất đặc biệt với Thiên Chúa. Ngài thường trò chuyện với Thiên Chúa ở nơi đồng vắng. Từ thuở nhỏ, ngài có thói quen rất tốt lành là sốt mến cầu nguyện. Ngài nhìn ngắm Chúa Giêsu trên Thánh giá và thân thưa cùng Chúa cho mình được chia sẻ những đau đớn với Chúa.

Năm 1903, ngài vào dòng Phanxicô. Một năm sau nhận tu phục Dòng Phanxicô Capucinô và có tên mới là Piô. 

Ngài được phong chức linh mục và được chuyển đến một số nơi. Đến năm 1916, ngài được chuyển đến San Giovanni Rotondo và đã ở đây suốt 52 năm. Cha được mọi người ngưỡng mộ vì lòng yêu mến nhiệt thành đối với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và được coi như là một nhà thần bí vĩ đại thời hiện đại. 

 

Vào ngày 20/9/1918, trong lúc cầu nguyện cảm tạ sau Thánh Lễ, Cha Piô được nhìn thấy Chúa Giêsu. Khi thị kiến ấy chấm dứt, ngài được in các dấu thánh ở tay, chân và cạnh sườn. Sau biến cố ấy, cuộc đời ngài phức tạp hơn. Các bác sĩ y khoa, các giới chức của Giáo Hội và những người tò mò đến xem Cha Piô. Trong năm 1924 và một lần nữa vào năm 1931, vấn đề dấu thánh được đặt ra; Cha Piô không được phép cử hành Thánh Lễ nơi công cộng hay được giải tội. Ngài không than trách về sự cấm cách này, mà sau đó đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, sau năm 1924 ngài không còn viết gì thêm nữa. Những tư liệu của ngài về sự thống khổ của Chúa Giêsu đều được viết trước năm 1924. Sau khi được in dấu thánh, Cha Piô ít khi rời tu viện, nhưng biết bao người đã đến thăm ngài. Mỗi buổi sáng, sau Thánh Lễ 5 giờ đầy nghẹt người, ngài nghe xưng tội cho đến trưa. Ngài dùng thời gian nghỉ trưa để chúc lành cho người đau yếu và tất cả những ai đến gặp ngài. Sau đó ngài lại tiếp tục giải tội. Vào lúc ấy, việc giải tội của ngài thường kéo dài 10 tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy số chờ đợi. Nhiều người nói rằng Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ mà chưa bao giờ họ tiết lộ. (đoạn này trích từ https://dongten.net/2019/09/22/hanh-cac-thanh-23-09-thanh-pio-nam-dau/)


Cha Pio xuất thân từ nhà nghèo nên ngài rất yêu mến người nghèo. Cha ao ước có được bệnh xá để sau cuộc chiến sẽ cứu chữa những thương binh trở về, và cha cũng đã được toại nguyện do tin tưởng mãnh liệt vào Đức Maria ban ơn cứu giúp.

 

Cha Piô nhìn thấy Chúa Giêsu trong tất cả sự bệnh hoạn và đau khổ. Theo sự đốc thúc của ngài, một bệnh viện xinh xắn được xây trên rặng Gargano gần đó. Ý tưởng xây cất bệnh viện được phát khởi năm 1940; một ủy ban gây quỹ được thành lập. Năm 1946, lễ vỡ đất được bắt đầu. Việc xây cất bệnh viện rất khó khăn về kỹ thuật vì khó kiếm được nước và phương tiện chuyên chở vật liệu xây cất. Sau cùng, “Nhà Chữa Trị Người Ðau Khổ” được hình thành với 350 giường bệnh. Nhiều người tin rằng họ được chữa lành qua sự can thiệp của Cha Piô. Những ai được dự Thánh Lễ của ngài đều cảm thấy sốt sắng; còn những người tò mò thì rất xúc động. Như Thánh Phanxicô, đôi khi áo dòng của Cha Piô cũng bị người ta cắt xén để làm kỷ niệm. Một trong những sự đau khổ của Cha Piô là vài lần những người thiếu đạo đức rêu rao những điều tiên tri mà họ gán cho là của ngài. Ngài không bao giờ nói tiên tri về các biến cố trên thế giới, và không bao giờ cho ý kiến về các vấn đề mà ngài cảm thấy thuộc về sự quyết định của các giới chức trong Giáo Hội. (đoạn này trích từ https://dongten.net/2019/09/22/hanh-cac-thanh-23-09-thanh-pio-nam-dau/)


Cha Pio có nhiều kinh nghiệm về những khả năng siêu nhiên với các phép lạ kèm theo: nhìn thấu suốt tâm hồn con người, nói tiên tri, ở hai nơi cùng một thời điểm, hương thơm đời sống thánh thiện, biết biện phân các thần khí, ngủ ít nhưng vẫn sống được, chữa người ta khỏi bệnh cách lạ lùng, được Chúa Giêsu và Mẹ Maria đến thăm, nhất là hằng ngày được rước lễ với Thiên thần bản mệnh của mình. 

Một trong những ân huệ siêu nhiên nổi tiếng nhất của ngài là được Chúa ghi Năm Dấu Thánh trên thân xác vào năm 1918 khi ngài cầu nguyện trước Thánh giá. Những vết thương đã gây cho ngài rất nhiều đau đớn và cũng rất nhiều ân ban kỳ diệu. Trong cuốn sách “Cuộc đời cha Piô” có kể lại rằng: 

“Cái yên tĩnh của ban đêm đã bao trùm tu viện khi Cha Piô còn ngồi giải tội cho các thầy. Đó là ngày 5 tháng Tám 1918, là ngày ngài không thể quên được vì nó bắt đầu sự thống khổ đặc biệt của ngài.

Ngài giật mình kinh hãi khi thấy một người lạ tay cầm thanh kiếm dài và mỏng đứng ngay trước mặt. Thân thể như tê liệt, ngài không thể cựa quậy và mắt trừng trừng theo dõi mũi kiếm mà từ đó phát ra những tia lửa. Đột nhiên, ngài thất thanh kêu lên một tiếng lớn khi thanh kiếm như xuyên qua linh hồn ngài. Không biết làm sao mà ngài lấy lại được bình tĩnh và giải tán các thầy đang chờ xưng tội. Suốt đêm đó và qua một ngày và một đêm hôm sau, thân thể ngài yếu dần vì như có lưỡi kiếm bằng lửa đang cắt thân thể ngài ra từng mảnh.

Hơn một tháng trôi qua, sau khi làm lễ vào sáng thứ Sáu, ngày 20 tháng Chín, sự kinh hoàng và thống khổ của ngài đến tột đỉnh ngoài sức chịu đựng của con người. Tuy nhiên, cơn ác mộng đó bắt đầu trong một giây phút thật bình thản và yên lặng. Ngài cảm thấy buồn ngủ, như thể ngài ngủ say đến độ không còn biết gì cả. Cái cảm giác kỳ lạ thấm dần qua từng sớ thịt và hầu như làm ngài mê đi.

Và rồi, vị khách bí ẩn đã đến trong giấc mộng êm đềm, và chính lúc đó các giọt máu từ tay, chân và cạnh sườn của vị khách bắt đầu chẩy ra và đọng lại thành vũng trên sàn nhà. Ngay lập tức cái êm đềm của Cha Piô tan biến và tim ngài bắt đầu đập mạnh như muốn vỡ tung lồng ngực trong cái thân thể bất động. May mắn thay, tất cả dịu lại một cách thật bất ngờ cũng như khi xuất hiện, và thân thể mềm nhũn của ngài khụy xuống vũng máu.

Ngài mở mắt, những giọt nước lăn dài trên khoé mắt. Cơ thể ngài bắt đầu có cảm giác và ngài nhận thấy tay trái của mình đang run rẩy. Ngài cố nhấc chân lên và ngay lập tức cái đau âm ỉ trở thành nhói buốt đâm vào tay, chân và cạnh sườn ngài. Ngài chống khủy tay ngẩng đầu dậy và nhìn vào đôi tay run lẩy bẩy. Hai bàn tay đầy máu. Nhìn vào thân thể, ngài thấy một bên áo dòng ướt đẫm. Đôi mắt ngài tiếp tục nhìn xuống. Và đôi chân ngài cũng đỏ máu. Toàn thân ngài run lên vì sợ hãi. Ngài muốn cất tiếng kêu cứu nhưng cổ họng như nghẹn lại, và ngài há hốc mồm để thở.

Cơn ác mộng tiếp diễn. Có một động lực nào như giục ngài đứng dậy, đi về phòng trước khi các linh mục trong tu viện trở về và có thể bắt gặp. Ngài cố nhấc mình lên, và thân thể quặn đau theo từng bước. Không hiểu làm sao mà ngài có thể lết qua cái hàng lang dài để về đến phòng. Ngài ngã vật xuống giường trong đau đớn và sợ hãi.

Ngài rên rỉ, "Xin giúp con. Xin Chúa giúp con để hiểu."

Hơi thở ngài đã đều hòa, nhưng cơn đau vẫn mãnh liệt. Khi đưa tay sờ vào cạnh sườn, ngài cảm thấy vết máu trên áo dòng ngày càng lan rộng, như bị xuất huyết tự bên trong. Đôi mắt mở to vì sợ hãi, ngài ngồi dậy và xem xét vết máu trên áo, tự hỏi không biết mình có chết vì vết thương này hay không.

Ngài cầu xin, "Xin đừng để con khiếp sợ."

Những giây phút chậm chạp trôi qua. Từ từ ngài lấy lại bình tĩnh và xem xét các vết thương. Không nghi ngờ gì cả, đó là những vết thương thật. Đó không phải là ác mộng hay ảo giác. Bắt đầu ngài nhận ra sự thật. Ngài được in năm dấu thánh là những vết thương có hình dạng và vị trí giống như các vết thương của Đức Kitô.

Tâm trí ngài từ từ mở ra với thực tại, và cảm thấy khuây khỏa khi biết rằng các vết thương đó không nguy hiểm đến tính mạng. Nước mắt ngài tuôn tràn, và cảm tạ Thiên Chúa…

Giáo Hội ghi nhận có khoảng 290 người được Chúa ban cho năm dấu thánh. Vị thánh nổi tiếng của thời đại là Thánh Phanxicô Assisi, sáng lập dòng Phanxicô. Thánh Phanxicô, khi là thầy sáu, được in năm dấu thánh vào ngày 17 tháng Chín 1224, trên núi Alvernia trong rặng Appenine, hai năm trước khi ngài chết.

Những vết thương của cha Piô có mùi thơm nồng nàn của hoa tím, hoa huệ tây và hoa hồng. Trong lịch sử các thánh, sự kiện có mùi thơm thì không gì mới mẻ. Tay Thánh Đa Minh phát ra mùi thơm khi dân chúng hôn tay ngài, và Thánh Helena phát ra mùi thơm khi ngài rước lễ. Một số thân thể các thánh phát ra mùi thơm sau khi chết, như trường hợp của Thánh Coletta, Thánh Joseph Cupertino, và Thánh Martin de Porres. Bất cứ ai đang trong tình trạng mắc tội trọng, Thánh Philip Rôma đều ngửi thấy mùi hôi thối khi ngài đến gần, mặc dù thân thể người đó rất sạch sẽ.

Trong trường hợp của Cha Piô, mùi thơm nói lên sự hiện diện an ủi của cha. Đó là để khuyến khích, chú ý đến điều nguy hiểm ngay lập tức, hay nhớ đến sự hiện diện, sự khuyên bảo và sự hướng dẫn của cha. Nhiều người nhận ra mùi thơm đó một cách riêng biệt, không phải ai ai cũng nhận thấy cùng một lúc”.

Vì sự thánh thiện và ân huệ lớn lao Chúa ban cho cha Piô, nên ma quỷ đã huy động cuộc chiến dữ dội chống lại cha thánh trong suốt cuộc đời của ngài. Chúng tấn công thân xác ngài bằng những vết cắt, vết thâm tím và những dấu bị thương hữu hình khác.

Tất cả những ai được cha Piô giúp đỡ đều tôn kính ngài. Cha thánh hết sức tận tâm đối với các linh hồn trong luyện ngục, có lần ngài nói: “Nhiều linh hồn đã chết ở trong luyện ngục hơn những linh hồn còn đang sống. Họ đã đến ngọn đồi này để chờ được tham dự thánh lễ và xin tôi cầu nguyện”.

Cả đời cha Piô tận tụy giải tội cho các tín hữu và xin được nhiều ơn lành cho nhiều người. 

Cha thánh qua đời lúc 2 giờ 30 sáng ngày 23-9-1968, đang khi tay vẫn nắm chặt chuỗi Mân Côi và thốt lên tên cực trọng “Giêsu Maria”, trong phòng số một của tu viện San Giovanni Rotonodo, phía nam Italia. Xác cha Pio được bỏ trong một hòm bằng kẽm bọc gỗ sau đó được thay thế bằng một hòm bằng kim loại và có gắn tấm kính để cho giáo dân có thể trông thấy ngài. 

Chiều ngày 26-9-1968, quan tài cha Pio đã được rước qua các đường chính của thị trấn San Giovanni Rotondo với sự tham dự của 100.000 người. 

Ban tối quan tài được đưa xuống hầm nhà thờ Đức Mẹ Ban Ơn để an táng trong huyệt đào ngay trong nền nhà thờ. Phía dưới chiếc quan tài có đề “Francesco Forgione sinh tại Pietrelcina ngày 25-5-1887, qua đời tại San Giovanni Rotondo ngày 23-9-1968”.

Từ ngày đó trở đi, cứ vào ngày 22 tháng 9 hằng năm tín hữu khắp nơi lại hành hương về thị trấn San Giovanni Rotondo để tham dự đêm canh thức kỷ niệm ngày cha Pio qua đời.

Ngày 23-9-1969, Đức Cha Cunial, Tổng Giám Mục Manfredonia cho phép dòng Capucino hèn mọn mở cuộc điều tra liên quan tới vị tôi tớ Chúa. 

Tiến trình án phong chân phước được khởi sự ngày 20-3-1983. 

Trong dịp hành hương San Giovanni Rotondo ngày 25-5-1987, Đức Gioan Phaolô II đã giới thiệu cha Piô với thế giới như là mẫu gương của linh mục. Từ đó trở đi tín hữu đến hành hương đông một cách ngoại thường. Người ta phổ biến sách báo viết về cha Pio, lấy tên cha Pio đặt cho các đài kỷ niệm và đường phố, hay trường học hoặc nhà thương. Năm 1990, kết thúc các tìm hiểu cuộc đời cha Pio. 

Năm 1997, các cố vấn của Bộ Phong Thánh đồng thanh chấp nhận các nhân đức anh hùng của vị tôi tớ Chúa.Và sau khi có phép lạ được thừa nhận, ngày 2-5-1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã phong chân phước cho cha Pio, trong thánh lễ trọng thể cử hành tại thềm đền thờ thánh Phêrô, với sự tham dự của gần 400.000 tín hữu.

Vào năm 2001, ủy ban bác sĩ thừa nhận phép lạ khỏi bệnh tức khắc của em Matteo Coltella, bị sưng màng óc cấp tính là hiện tượng không thể giải thích được trên bình diện khoa học. 

Năm sau đó, Giáo Hội thừa nhận đó là phép lạ và ngày 16-6-2002, Đức Gioan Phaolo II đã chủ sự lễ phong hiển thánh cho cha Pio. Hai năm sau đó đền thánh mới được khánh thành tại San Giovanni Rotondo.

Cha Thánh Piô và các Đẳng Linh Hồn.

Cuộc đời cha Piô là trang sử lạ thường ghi dấu các cuộc hiện ra của Thiên Thần, Các Thánh, Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Các Đẳng Linh Hồn. Có thể nói được rằng, Cha thánh Pio sống cùng lúc ở hai thế giới: một hữu hình và một vô hình, thiêng liêng. 

Xin trích thuật 3 câu chuyện Linh Hồn Luyện Ngục hiện về xin Cha thánh Pio cầu nguyện cho.

Một buổi tối, Cha Pio đang nghỉ ở tầng trệt của Cộng Đoàn nơi căn phòng dành đón tiếp khách lạ. Lúc ấy Cha Pio chỉ có một mình và vừa đặt lưng nằm xuống thì bất thình lình một người đàn ông xuất hiện, mình trùm kín chiếc áo choàng đen. Ngạc nhiên, Cha Pio tức khắc đứng bật dậy và hỏi cho biết ông là ai và muốn gì. Người khách lạ cho biết ông là Linh Hồn nơi Lửa Luyện Tội. Ông nói: Con là Pietro Di Mauro, tức Nicola và có biệt danh “Precoco”. Con bị chết trong trận hỏa hoạn xảy ra vào đêm 18-9-1908, tại chính Tu Viện này, lúc ấy bị truất hữu và biến thành Viện Tế Bần. Con bị cháy giữa các ngọn lửa, ngay trên tấm nệm rơm, lúc đang ngủ say, trong căn phòng số 4. Con hiện về từ Luyện Ngục. Thiên Chúa Nhân Lành cho phép con đến xin Cha dâng một Thánh Lễ với ý chỉ cầu cho con vào sáng ngày mai. Nhờ Thánh Lễ này con mới có thể vào được Thiên Đàng.

Cha Pio hứa sẽ dâng Thánh Lễ cầu cho ông. Chính Cha kể lại như sau. Phần tôi, tôi muốn đích thân tháp tùng Linh Hồn Luyện Ngục ra tận cửa Tu Viện. Và tôi chỉ ý thức rõ ràng mình đã nói chuyện với Linh Hồn Luyện Ngục khi ra tới thềm, bởi vì, người đàn ông đang đi bên cạnh tôi bỗng nhiên biến mất. Tôi thành thật thú nhận lúc ấy tôi cảm thấy hoảng sợ. Tôi đi thẳng đến phòng Bề Trên là Cha Paolino da Casacalenda. Cha Bề Trên nhận ra nét kinh hoảng của tôi. Sau khi nghe tôi giải thích và xin phép dâng Thánh Lễ vào sáng hôm sau cầu cho Linh Hồn Luyện Ngục, Cha Bề Trên hiểu lý do và chấp thuận ngay lời xin.

Vài ngày sau, vì bị tính tò mò thúc đẩy, Cha Bề Trên Paolino muốn làm cuộc kiểm chứng. Cha ra tòa thị chính thành phố San Giovanni Rotondo và xin phép xem Cuốn Sổ Tử của thành phố vào năm 1908. Và đúng như lời tôi kể, trong Sổ Tử tháng 9 năm 1908 có ghi mấy hàng: Ngày 18 tháng 9 năm 1908, trong trận hỏa hoạn Viện Tế Bần có một người bị chết mang tên Pietro di Mauro, tức Nicola.

Cha thánh Pio kể một câu chuyện khác.

Một buổi tối lúc cầu nguyện một mình nơi nhà nguyện bỗng tôi trông thấy một thầy trẻ tuổi đứng nơi bàn thờ chính. Thầy có vẻ như đang lau chùi các chân nến và sửa lại các bình hoa. Lúc ấy là giờ ăn tối. Tôi đinh ninh người lo bàn thánh chính là thầy Leone nên tôi tiến lại gần và nói:

- Thầy Leone à, đang giờ ăn tối, thầy xuống phòng ăn đi, chứ đâu phải giờ lau bụi và sửa soạn bàn thánh!

Nhưng một giọng nói - không phải của thầy Leone - trả lời:

- Con không phải thầy Leone!

Tôi hỏi lại:

- Vậy thầy là ai?

Tiếng nói trả lời:

- Con là tu sĩ cùng dòng với Cha và từng là tập sinh sống ở Tu Viện này. Đức vâng lời dạy con phải luôn luôn giữ gìn bàn thánh thật sạch và thật ngăn nắp. Đáng tiếc, con thường bê trễ trong bổn phận và thiếu lòng tôn kính đối Chúa Giêsu Thánh Thể trong Nhà Tạm. Chính vì tội thiếu tôn thờ cách trầm trọng này mà cho đến nay con vẫn còn bị hình phạt trong Lửa Luyện Hình. Nhưng giờ đây Thiên Chúa Từ Nhân, trong lòng thương xót vô biên của Ngài, cho phép con hiện về với Cha. Chính Cha là người có thể thu ngắn thời gian con phải chịu giam cầm trong Lửa Luyện Ngục. Xin Cha vui lòng giúp con.

Tôi nghĩ mình quả thật quảng đại đối với Linh Hồn đang đau khổ nơi Lửa Luyện Tội khi nhanh nhẹn hứa rằng: “Anh sẽ chỉ còn ở trong Lửa Luyện Tội cho đến sáng mai lúc dâng Thánh Lễ”. Nào ngờ Linh Hồn này thét lên: “Thật là tàn nhẫn!”. Thét xong câu đó Linh Hồn biến đi. Tiếng than khóc kinh khiếp của Linh Hồn như lưỡi gươm đâm xuyên trái tim. Tôi thật đau đớn và mãi mãi như nghe tiếng thét vang vọng bên tai. Tôi, nhờ sự ủy quyền đặc biệt của Thiên Chúa, có thể giúp Linh Hồn đi thẳng về Trời, trái lại, tôi đã kết án giam giữ Linh Hồn ở lại trong Lửa Luyện Ngục thêm một đêm nữa cho tới sáng mai!

Câu chuyện thứ ba xảy ra vào buổi tối tháng 2 năm 1922, nơi Tu Viện San Giovanni Rotondo. Chính Cha Pio kể lại.

Tối hôm ấy tôi xuống phòng chung nơi có đốt lửa để sưởi. Bỗng tôi trông thấy 4 tu sĩ, chưa bao giờ gặp, đang ngồi chung quanh ngọn lửa, đầu phủ mũ cappuccio và giữ thinh lặng. Tôi cất tiếng chào: “Sia lodato Gesù Cristo - Ngợi khen Đức Chúa Giêsu Kitô”, nhưng không ai trả lời. Ngạc nhiên, tôi chăm chú nhìn kỹ 4 tu sĩ để xem họ là ai thì thấy rằng đó là 4 tu sĩ lạ, tôi chưa bao giờ gặp. Cùng lúc, tôi có cảm tưởng các tu sĩ này đang chịu đau khổ. Tôi lập lại lời chào, vẫn không ai trả lời. Tôi trở lên phòng Cha coi nhà khách và hỏi xem có tu sĩ khách nào đến Tu Viện không. Nghe vậy, Cha Bề Trên, lúc ấy là Cha Lorenzo da San Marco in Lamis trả lời ngay:

- Cha Pio à, đâu có tu sĩ khách nào đến đây vào một đêm đông tuyết lạnh như thế này!

Tôi nói với Cha coi nhà khách:

- Cha à, có 4 tu sĩ ngồi sưởi nơi phòng chung. Tôi cất tiếng chào nhưng không ai trả lời. Tôi nhìn kỹ thì thấy đó là các tu sĩ lạ!

Cha coi nhà khách nói:

- Có lẽ khách lạ đến mà tôi không biết chăng? Vậy chúng ta cùng xuống xem!

Khi chúng tôi trở lại phòng chung thì không còn ai. Phòng chung vắng lặng như tờ.

Tôi hiểu ngay đây là 4 tu sĩ quá cố, đang làm việc đền tội nơi xưa kia họ xúc phạm đến Thiên Chúa. Tôi thức trắng suốt đêm đó để cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Chúa cho 4 tu sĩ sớm được giải thoát khỏi chốn Luyện Hình và về Thiên Đàng vui hưởng Nhan Thánh Chúa.... “Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài. Mong đợi Chúa, con hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. Hồn con trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông. Hơn lính canh mong đợi hừng đông, trông cậy Chúa đi, Israel hỡi, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa. Chính Người sẽ cứu chuộc Israel cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn” (TV130). (”Grande Opera Mariana GESÙ E MARIA”, Aprile-Giugno 2007 n.2 Anno VIII, trang 19-20 + P. Alessio Parente, ”Padre Pio e le anime del Purgatorio”, 1999, trang 158; Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt).

 

https://tinvuiviet.net/vi/news/Ton-giao-24/Cha-Thanh-Pio-nam-dau-thanh-518/

Các phép lạ đầy hài hước của Cha Pio

 

Các phép lạ hiện đại ít được biết của Cha Piô

 

Các lời nói hóm hỉnh của Cha Piô

 

Một ngày với Cha Piô

Bài đọc 2

Những viên đá xây nên đền thờ vĩnh cửu

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 23/9 lễ nhớ Thánh Piô 5 Dấu)

Trích thư của thánh Pi-ô Pi-ết-ren-si-na, linh mục.

Thiên Chúa là nhà Nghệ Sĩ đã tìm cách chuẩn bị những viên đá để xây nên ngôi đền vĩnh cửu, bằng những nhát đục đẽo miệt mài và gọt giũa chuyên cần, tài khéo. Đó là điều mẹ rất dịu hiền của chúng ta là Hội Thánh Công Giáo ca ngợi trong bài thánh thi lễ cung hiến thánh đường. Và thật như vậy.

Bất cứ linh hồn nào được dành cho vinh quang vĩnh cửu có thể được coi cách rất đúng như viên đá, để xây nên ngôi đền vĩnh cửu. Kiến trúc sư xây nhà trước hết phải gọt đẽo những viên đá xây ngôi nhà đó. Ông phải dùng búa dùng đục mà làm. Cha trên trời cũng làm như thế đối với các linh hồn được tuyển chọn. Những linh hồn này, do sự khôn ngoan và quan phòng tuyệt vời của Người, đã được dành riêng từ thuở đời đời để xây dựng ngôi đền vĩnh cửu.

Vậy linh hồn được dành cho hưởng vinh quang vĩnh cửu để trị vì cùng Đức Ki-tô, cũng phải được gọt giũa bằng những nhát búa nhát đục. Thiên Chúa là nhà Nghệ Sĩ dùng những thứ đó để chuẩn bị đá là những tâm hồn được tuyển chọn. Những nhát búa, những nhát đục đẽo đó là gì ? Chị ơi, đó là các bóng tối, những sự sợ hãi, những cám dỗ, những sự buồn phiền trong tâm trí, những nỗi sợ hãi về đường thiêng liêng, với chút sầu não, và cả những đau đớn trong thân xác.

Vậy, chị em hãy tạ ơn lòng lành vô cùng của Cha muôn đời, vì Người đối xử như vậy đối với linh hồn chị em, linh hồn đã được dành sẵn cho ơn cứu độ. Tại sao không hãnh diện vì cách cư xử đầy tình nghĩa của người cha tốt nhất trong các người cha ? Chị em hãy mở tâm hồn ra cho Thiên Chúa là vị lương y của các linh hồn và phó thác mình vào cánh tay chí thánh của Người, với đầy lòng tin cậy. Người xử với chị em như những người được tuyển chọn để theo sát Đức Giê-su trên con đường dốc lên đồi Can-va-ri-ô. Tôi vui mừng và vô cùng cảm động, khi nhìn thấy ân sủng hoạt động nơi chị em thế nào.

Chị em đừng hoài nghi rằng mọi sự xảy đến cho linh hồn chị em là do Chúa xếp đặt. Vì thế đừng sợ rằng mình sa vào sự dữ hoặc xúc phạm đến Thiên Chúa. Chị em chỉ cần biết rằng : trong toàn bộ cách sống, chị em đã không bao giờ xúc phạm đến Chúa, trái lại Người đã được tôn vinh mỗi ngày một hơn.

Nếu Đấng Phu Quân vô cùng nhân hậu của linh hồn chị em ẩn mình, thì, không phải như chị em nghĩ, là vì Người muốn trả thù sự bất trung của chị em, mà chỉ là vì Người thử thách sự trung thành và kiên trì của chị em và chữa trị chị em cho khỏi một số bệnh tật, mà con mắt xác thịt không nhìn thấy, là những bệnh tật và sai lỗi ngay cả người công chính cũng không thoát khỏi. Thật vậy, Sách Thánh nói : Người công chính ngã bảy lần.

Chị em hãy tin tôi : giả như tôi không biết là chị em buồn sầu như vậy, thì tôi sẽ kém vui, vì tôi sẽ hiểu là Chúa ban cho chị em ít viên ngọc hơn. Hãy xua đuổi như những cám dỗ các hoài nghi ngược lại... Cũng hãy xua đuổi những hoài nghi về cách sống của chị em, nghĩ rằng chị em không nghe tiếng Chúa kêu gọi và bỏ ngoài tai những lời mời ngọt ngào của Đấng Phu Quân. Tất cả những điều đó không phát xuất từ thần khí tốt mà là từ thần khí xấu. Đó là những mưu ma chước quỷ nhằm làm cho chị em rời xa sự hoàn thiện, hay ít là chậm bước trên con đường tiến về đó. Chị em đừng nản lòng !

Khi Đức Giê-su tỏ mình ra, chị em hãy tạ ơn Người ; nếu Người ẩn mình, cũng cứ tạ ơn Người : đó là những trò vui của tình yêu. Tôi muốn chị em cùng Đức Giê-su trao phó mạng sống trên thập giá và cùng Đức Giê-su kêu lên : Đã hoàn tất.

 

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Pi-ô, linh mục, ơn đặc biệt là được chung phần thập giá với Con Chúa, và nhờ thừa tác vụ của thánh nhân, Chúa đã tái thực hiện những kỳ công của lòng Chúa thương xót. Nhờ lời thánh nhân chuyển cầu, xin cho chúng con luôn được kết hợp với cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô để mai sau đạt tới vinh quang phục sinh. Chúng con cầu xin

 

 

 

 


Thứ Năm


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gv 1, 2-11

"Chẳng có chi mới lạ dưới mặt trời".

Trích sách Giảng Viên.

Giảng viên đã nói: Phù vân trên mọi phù vân: phù vân trên mọi phù vân, và mọi sự đều là phù vân. Ích lợi gì cho con người làm lụng vất vả dưới mặt trời? Một thế hệ qua đi, một thế hệ khác lại đến: nhưng địa cầu vẫn đứng vững muôn đời. Mặt trời mọc lên rồi lại lặn xuống, trở về chỗ cũ nơi nó lại mọc lên. Gió thổi về hướng nam, rồi quay về hướng bắc; nó thổi xoay chiều khắp bốn phương, rồi quay về vòng cũ.

Mọi sông ngòi đều chảy ra biển mà biển không đầy tràn: nước sông trở về chỗ cũ rồi lại chảy đi.

Muôn vật đều phải làm việc vất vả, và không ai có thể cắt nghĩa tại sao. Mắt xem mãi cũng không chán, tai nghe hoài cũng không thoả.

Sự đã qua là gì? Chính nó là sự sẽ có. Sự đã xảy ra là gì? Chính nó là sự sẽ xảy ra. Chẳng có chi mới lạ dưới mặt trời, cũng chẳng ai nói được rằng: "Ðây cái này mới". Vì nó đã có từ lâu đời trước chúng ta. Người ta cũng chẳng còn nhớ đến tổ tiên và những con cháu sau này; cũng chẳng nhớ đến những người sẽ đến sau.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 89, 3-4. 5-6. 12-13. 14 và 17

Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).

Xướng: 1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.

2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.

3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.

4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 7-9

"Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu rồi, ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: "Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại"; còn kẻ khác lại nói: "Ông Êlia đã hiện ra"; kẻ khác nữa nói rằng: "Một tiên tri thời xưa đã sống lại". Nhưng Hêrôđê thì nói: "Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế?" và vua tìm cách gặp Người.

Ðó là lời Chúa.

 

MY TREASURE BOX" : BIBLE PEOPLE: HEROD THE GREATKelsey Grammer and Eoin Macken: The Herods on Killing Jesus | CBN.com

 



Suy Niệm Cảm Nghiệm

Con Cáo Hêrôđê


Thứ Bảy Tuần XVII Thường Niên Giáo Hội đã chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu 
có nội dung về biến cố Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị chém đầu với lời mở đầu của quận vương Hêrôđê liên quan đến danh tiếng của Chúa Giêsu:  Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XVII Thường NiênHôm nay, Thứ Năm Tuần XXV Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cũng lập lại lời của vị quận vương này về danh tiếng của Chúa Giêsu liên quan đến cái chết của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả. 
Tuy nhiên, trong khi Phúc Âm Thánh Mathêu bao gồm cả tiến trình xẩy ra việc lấy thủ cấp của vị thánh này và chỉ nói vỏn vẻn đến cảm nhận của quận vương Hêrôđê, thì Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay lại không thuật lại tất cả diễn tiến xẩy ra biến cố ấy, nhưng bao gồm cả các cảm nhận khác cùng với cảm nhận của chính quận vương Hêrôđê về Chúa Giêsu:
"Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: 'Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại'; còn kẻ khác lại nói: 'Ông Êlia đã hiện ra'; kẻ khác nữa nói rằng: 'Một tiên tri thời xưa đã sống lại'. Nhưng Hêrôđê thì nói: 'Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế?' và vua tìm cách gặp Người".
Trước hết, chúng ta thấy rằng, nhờ Phúc Âm của Thánh ký Luca chúng ta có thể suy ra là cảm nhận của quận vương Hêrôđe trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu có thể đã bị ảnh hưởng bởi cảm nhận của một vị quần thần nào đó của vua: "vì có kẻ nói rằng: 'Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại'", và vua chỉ lập lại cảm nhận ấy như là cảm nhận của vua về Chúa Giêsu thôi: "Thời ấy, tiểu vương Hêrôđê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ" (14:2)
Qua cảm nhận này của quận vương Hêrôđê, người ta có cảm tưởng là vị quận vương này vừa đánh trống vừa ăn cướp, đúng là một "con cáo" (Luca 13:32) muốn "tìm giết" cả Người nữa, như Người đã được một số người biệt phái mật báo cho biết sau này (xem Luca 13:31). Còn trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, ông ta lại có vẻ khách quan hơn, thiện chí hơn và tỏ ra thân thiện hơn với Chúa Giêsu: "Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân... 'Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế?' và vua tìm cách gặp Người".
Ở đây, trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca, vị quận vương Hêrôđê này chỉ tỏ ra thắc mắc mà thôi, chứ không suy diễn rồi đi đến quả quyết chủ quan một cách hống hách ngang tàng như trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, và chính vì thắc mắc nên ông mới muốn "tìm cách gặp Người". 
Không ngờ, ước nguyện muốn được gặp Người của ông cuối cùng cũng đã được đáp ứng, khi tổng trấn Philatô, nghe biết Chúa Giêsu gốc gác thuộc về miền Galilêa là vùng thuộc thẩm quyền của ông, đã giải giao Người cho ông, và khi nghe thấy thế ông đã tỏ ra "hết sức vui mừng để gặp Người", nhưng ông đã hoàn toàn thất vọng khi gặp Người, bởi ông chỉ muốn "xem Người làm một phép lạ nào đó", mà không được toại nguyện nên ông cùng đám vệ binh của ông đã tỏ ra khinh chê nhạo báng Người (xem Luca 23:6-12). 
Phải chăng Kitô hữu chúng ta đôi khi cũng chỉ muốn "tìm cách gặp Người" như quận vương Hêrôđê này để được "xem Người làm một phép lạ nào đó", ở chỗ Người ban cho chúng ta những điều chúng ta xin Người, nhất là trong cơn gian nan khốn khó hoạn nạn của chúng ta, cần được cứu vớt nhanh bao nhiêu có thể, lạ bao nhiêu có thể theo lòng mong ước chủ quan thiển cận của chúng ta, nhưng xin mãi mà Người vẫn im lìm chẳng nhúc nhích gì, khiến chúng ta cảm thấy chán ngán Người, xa lánh Người và thậm chí chối bỏ Người cùng nguyền rủa Người?

Đối với những thứ ước nguyện như thế, như của quên vương Hêrôđê trong Bài Phúc Âm hôm nay, hay các thứ mộng mơ tương tự của phàm nhân, chỉ thuần tự nhiên và trần tục, thì theo Sách Giảng Viên trong Bài Đọc 1 hôm nay, chỉ là "phù vân trên mọi phù vân: phù vân trên mọi phù vân, và mọi sự đều là phù vân. Ích lợi gì cho con người ... Chẳng có chi mới lạ dưới mặt trời".

Trái lại, đối với con người sống trên trần gian này, cái khôn ngoan nhất họ cần phải tìm kiếm nhất, cần phải nhận thức và khát khao cùng ước nguyện trên hết mọi sự và trước hết mọi sự, đó là những gì ở nơi Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay: "Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia". Tại sao vậy? Chính Thánh Vịnh 89, được Giáo Hội trích dẫn một số câu cho Bài Đáp Ca hôm nay, đã trả lời cho họ như sau:

1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".

2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô.

3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.

4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.


 

 

 


Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gv 3, 1-11

"Vạn vật dưới bầu trời đều trải qua thời gian của chúng".

Trích sách Giảng Viên.

Mọi sự đều có thì giờ của chúng. Vạn vật dưới bầu trời đều trải qua thời gian của chúng. Có thời gian sinh, thì cũng có thời gian chết. Có thời gian trồng xuống, thì cũng có thời gian nhổ lên cái đã trồng. Có thời gian giết chết, thì cũng có thời gian chữa lành. Có thời gian phá huỷ, thì cũng có thời gian xây dựng. Có thời gian khóc lóc, thì cũng có thời gian cười vui. Có thời gian than van, thì cũng có thời gian nhảy múa. Có thời gian rải đá, thì có thời gian thu lượm lại. Có thời gian gần gũi, thì cũng có thời gian xa cách. Có thời gian thâu hoạch, thì cũng có thời gian tiêu tán đi. Có thời gian gìn giữ, thì cũng có thời gian loại bỏ. Có thời gian xé rách, thì cũng có thời gian vá lại. Có thời gian thinh lặng, thì cũng có thời gian nói năng. Có thời gian yêu thương, thì cũng có thời gian giận ghét. Có thời gian chinh chiến, thì cũng có thời gian hoà bình.

Con người còn được gì do công lao vất vả của mình? Tôi suy nghĩ về sự khổ cực mà Thiên Chúa đã để cho con cái loài người phải chịu đựng.

Chúa tác tạo vạn vật trong thời gian Chúa muốn, và trao phó thế gian cho loài người tranh giành, nhưng con người không hiểu được việc Thiên Chúa đã làm từ đầu đến cuối.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 143, 1a và 2abc. 3-4

Ðáp: Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa! (c. 1a)

Xướng: 1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa! Chúa là Tình Thương và là chiến lũy, là Ðấng phù trợ và giải phóng con. Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, nhân loại là chi mà Chúa chăm nom, con người là chi mà Chúa thương nghĩ tới? Con người ta như hơi gió thoảng, đời người ta như bóng thoáng qua. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 18-22

"Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì Người hỏi các ông rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông thưa rằng: "Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại". Người lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa". Và Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".

Ðó là lời Chúa.

WHO DO YOU SAY THAT I AM? | A CHRISTIAN PILGRIMAGE

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm


Căn Tính Thần Linh nơi Nhân Vật Lịch Sử Giêsu Nazarét


Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXV Thường Niên, trùng với bài Phúc Âm của Thánh ký Marco của Chúa Nhật XXV đầu tuần vừa rồi, cũng như trùng với bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Thứ Năm Tuần XVIII Thường Niên. 
Cả 3 bài Phúc Âm đều thuật lại sự kiện dân chúng nói chung và các môn đệ nói riêng cảm nhận về căn tính của Chúa Giêsu: "Phần các con, các con bảo Thày là ai?". Ở Phúc Âm của Thánh ký Marco thì câu trả lời của vị đại diện tông đồ đoàn bấy giờ là Thánh Phêrô đã thưa ngắn nhất: "Thày là Đức Kitô" (8:29), và ở Phúc Âm của Thánh ký Mathêu câu trả lời của ngài lại dài nhất: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (16:16), còn ở bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay câu trả lời của ngài vừa phải, hòa hợp giữa 2 câu trả lời ngắn dài trên đây: "Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa".
Câu trả lời tuyên xưng đức tin của Thánh Phêrô được 3 Phúc Âm trong bộ Phúc Âm Nhất lãm thuật lại hơi khác nhau về văn tự, nhưng nội dung vẫn như nhau. Ở chỗ "Thày là Đức Kitô" (Phúc Âm Thánh Marco), cho dù "Đức Kitô" ấy "của Thiên Chúa" (Phúc Âm Thánh Luca) hay là "Con Thiên Chúa hằng sống" (Phúc Âm Thánh Mathêu). Bởi vì, tự bản chất "Đức Kitô" phải là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, bằng không, không phải là "Đức Kitô". 
Tuy nhiên, theo mạc khải thần linh, "Đức Kitô" này, "Đức Kitô" được chung dân chúng cảm nhận như là một vị đại tiên tri, như Gioan Tẩy Giả hay như Elia, cũng như được riêng các tông đồ tuyên xưng đúng như căn tính của Người, đúng như sự thật nơi nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét này, lại có một dung nhan lưỡng diện, chẳng những có mặt phải mà còn có cả mặt trái nữa.
Vậy nếu mặt phải của dung nhan lưỡng diện này của "Đức Kitô" là gì, nếu không phải là "Con Thiên Chúa hằng sống" (Phúc Âm Thánh Mathêu), thì mặt trái của dung nhan Người là gì, nếu không phải là Đấng Vượt Qua, như cả 3 Phúc Âm Nhất lãm này cho thấy, hay trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay thuật lại: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại". 
Chính mặt trái nơi dung nhân của "Đức Kitô" này đã khiến cho chung dân Do Thái, đặc biệt là thành phần thày dạy lề luật của họ là luật sĩ và biệt phái, nhất là Hội Đồng Đầu Mục Do Thái lãnh đạo trong dân, thậm chí bao gồm cả thành phần môn đệ thân tín nhất của "Đức Kitô" là các tông đồ, tất cả đều vấp phạm vì Người, tức không nhận ra Người, đến độ phản nộp Người, chối bỏ Người, lên án Người, thách đố nhạo báng Người xuống khỏi thập giá để họ tin Người quả thực là Đấng Thiên Sai (xem Mathêu 27:39-42; Marco 15:29-32; Luca 23:35).
Thật vậy, làm sao dân Do Thái nói chung và các tông đồ môn đệ của Người nói riêng có thể nhận ra Người và chấp nhận Người được, nếu qua lời tiên báo về cuộc vượt qua của Người lần thứ nhất này trở thành hiện thực, khi mà một "Đức Kitô" khôn ngoan giảng dạy và quyền năng chữa lành ấy lại có một dung nhan thật trái khuấy, hoàn toàn bị biến dạng trông vô cùng ghê rợn, đến độ Người không còn dung nhan hình hài gì nữa (xem Isaia 52:14), thậm chí Người còn trở nên như sâu bọ đất không còn là người (xem Thánh Vịnh 22:7), một sự thật quá ư là phũ phàng và vô cùng bất xứng với danh phận vô cùng uy nghi cao cả và thiện hảo của một Đấng Thiên Sai, "Con Thiên Chúa hằng sống".
Trong đời sống tu đức cũng thế, theo bản tính và khuynh hướng tự nhiên, không ai trong loài người nói chung và Kitô hữu nói riêng lại yêu thích đau khổ thử thách, trái lại, còn tìm cách xa lánh và tiêu diệt nó bao nhiêu có thể. Bởi thế, ai cũng sung sướng khi được may lành và chúc phúc trong cuộc sống, cũng như nơi mọi việc mình làm, nhất là khi được ơn an ủi lúc mới bước chân vào đường trọn lành hay khi mới tĩnh tâm xong v.v. Thế nhưng khi đụng độ với đau khổ, tức khi giáp mặt với một "Đức Kitô" khổ nạn và tử giá đầy thương tích vô cùng khủng khiếp và ghê rợn, mới biết được cường độ đức tin của chúng ta mạnh mẽ tới đâu, mức độ đức cậy của chúng ta vững chắc tới chừng nào, và nhiệt độ đức mến của chúng ta sốt nóng tới độ nào!

Tuy nhiên, sở dĩ dân chúng nói chung và môn đệ thân tín của Chúa Kitô nói riêng chưa thể chấp nhận được phũ phàng ấy: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại", đến độ Người đã phải "ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai", điều được tông đồ Phêrô vừa tuyên xưng: "Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa", là vì chưa tới lúc hay tới độ họ hiểu được, cho tới khi sự thật vô cùng huyện nhiệm này được hiện thực, nhất là khi họ nhận được Thần Chân Lý là Đấng "dẫn họ vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13).

Đó là lý do Sách Giảng Viên trong Bài Đọc 1 hôm nay mới chí lý cảm nhận rằng: "Mọi sự đều có thì giờ của chúng. Vạn vật dưới bầu trời đều trải qua thời gian của chúng...  Có thời gian khóc lóc, thì cũng có thời gian cười vui. Có thời gian than van, thì cũng có thời gian nhảy múa... Có thời gian thinh lặng, thì cũng có thời gian nói năng... con người không hiểu được việc Thiên Chúa đã làm từ đầu đến cuối".

Bởi thế, đối với Thiên Chúa, con người hãy tin tưởng cậy trông vào Đấng Quan Phòng thần linh, không bao giờ bỏ họ, nhưng luôn chăm lo cho họ, vào thời điểm của Ngài và bằng phương thế khôn ngoan của Ngài, đúng như cảm nhận của các câu Thánh Vịnh 143 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa! Chúa là Tình Thương và là chiến lũy, là Ðấng phù trợ và giải phóng con. Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu.

2) Lạy Chúa, nhân loại là chi mà Chúa chăm nom, con người là chi mà Chúa thương nghĩ tới? Con người ta như hơi gió thoảng, đời người ta như bóng thoáng qua.

 

 

 


Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) Gv 11, 9 - 12, 8

"Trong những ngày thanh xuân, ngươi hãy nhớ đến Ðấng Tạo thành ngươi; trước khi tro bụi sẽ trở về đất và hồn sẽ trở về cùng Chúa".

Trích sách Giảng Viên.

Hỡi thiếu niên, hãy hân hoan trong thời niên thiếu và tâm hồn ngươi hãy hưởng hạnh phúc trong những ngày thanh xuân, hãy sống theo đường lối tâm hồn ngươi, và theo cái nhìn của mắt ngươi. Nhưng ngươi hãy biết rằng Thiên Chúa sẽ xét xử ngươi về những điều đó. Ngươi hãy loại bỏ sự giận ghét khỏi lòng ngươi, và hãy khai trừ sự gian ác khỏi xác thịt ngươi: vì tuổi trẻ và khoái lạc đều là hư không.

Trong ngày thanh xuân, ngươi hãy nhớ đến Ðấng Tạo thành ngươi, trước khi thời gian đau khổ tới và trước khi tới thời gian mà ngươi sẽ nói: "Tôi không thích"; trước khi mặt trời, ánh sáng, mặt trăng, tinh tú sẽ ra tối tăm, và trước khi mây đen kéo lại sau trận mưa, khi kẻ giữ nhà run sợ, khi những kẻ anh dũng khiếp nhược, khi còn ít bà xay bột cũng ngưng việc, khi mấy bà nhìn qua cửa sổ mà chẳng thấy gì, khi cửa phố phường khép lại và tiếng cối xay nhỏ dần, khi người ta nghe tiếng chim kêu mà chỗi dậy và tiếng hát của các thiếu nữ tắt dần đi, ở những nơi cao người ta run sợ và trên đường đi người ta cũng khiếp đảm.

Hạnh đào sẽ trổ hoa, châu chấu sẽ béo mập, cây phong điểu sẽ đâm chồi nảy lộc, vì con người sắp đi về nhà vĩnh cửu, và kẻ than khóc rảo quanh mọi phố phường.

Trước khi dây bạc đứt tan, và bình vàng vỡ nát, chiếc vò bể tan bên bờ suối, trục quay nước giếng gãy tan tành, và tro bụi sẽ trở về đất, hồn sẽ trở về cùng Chúa, Ðấng đã tác tạo nó.

Giảng viên đã nói: Phù vân trên mọi phù vân, và mọi sự đều là phù vân.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 89, 3-4. 5-6. 12-13. 14 và 17

Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).

Xướng: 1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.

2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.

3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.

4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con; sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố; xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 114, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 44b-45

"Con Người sẽ phải bị nộp. Các ông không đám hỏi Người về lời ấy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: "Phần các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời". Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy.

Ðó là lời Chúa.

 

Three Years With Jesus, Filmed in Five | Plugged In Blog



Suy Niệm Cảm Nghiệm


Thân phận của một Đức Kitô đích thực


Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXV Thường Niên hôm nay về hình thức cũng không tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua ở cùng đoạn 9 của Phúc Âm Thánh ký Luca, nhưng về nội dung lại có tính cách liên tục và đồng nhất

Thật vậy, Giáo Hội đã không chọn đọc đoạn Phúc Âm về điều kiện làm môn đệ của Chúa Kitô (9:23-27), về biến cố biến hình trên núi (9:28-36), và về sự kiện Người trừ quỉ cho một bé trai (9:37-43a), tương tự như Giáo Hội đã bỏ 2 trong 3 biến cố này ở Phúc Âm Thánh ký Marco trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Năm B Thường Niên đầu tuần này, mà chỉ lấy đoạn Phúc Âm về lời Chúa Giêsu tiên báo lần hai cuộc vượt qua của Người.  

Đúng thế, bài Phúc Âm hôm nay của Thánh ký Luca là bài Phúc Âm ghi lại lời Chúa Giêsu tiên báo lần thứ hai về cuộc vượt qua của Người:  

"Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: 'Phần các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời'. Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy".

Như đã cảm nhận về dung nhan lưỡng diện của "Đức Kitô" trong bài Phúc Âm hôm qua, một dung nhan có bộ mặt trái rất ư là kinh hoàng khiến cho chính vị trưởng tông đồ đoàn là Thánh Phêrô cũng phải vấp phạm. Bởi thế, sau khi tiết lộ về mầu nhiệm vô cùng bí mật này, Người chỉ dám tiết lộ sau khi đã thấy được đức tin thật chính xác của thành phần môn đệ tông đồ của Người, và Người cũng đã phải tìm cách củng cố cho đức tin của các vị nữa, bằng cách Người đã tỏ vinh quang của Người ra cho các vị một cách rạng ngời, qua việc Người biến hình trên núi cao,  ám chỉ cuộc phục sinh khải hoàn của Người, như cả 3 Phúc Âm Nhất lãm đều thuật lại sau lần tiết lộ đầu tiên ấy. 

Trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay cũng thế, trước khi Người báo trước cuộc vượt qua của Người lần thứ hai, một mầu nhiệm chưa thể nào thấu hiểu và chấp nhận được đối với trí khôn phàm nhân của các tông đồ, cũng như nhất là đối với tâm thức của các vị về một Đấng Thiên Sai đầy quyền năng giải phóng vẫn thường thấy trong Lịch sử Cứu Độ của Dân Do Thái, Người cũng phải lợi dụng: "Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ..." v mầu nhiệm ấy, một mầu nhiệm quan trọng đến độ Người đã nhấn mạnh với các tông đồ rằng: "các con hãy ghi vào lòng những lời này...". 

Phần các tông đồ, thành phần đã từ bỏ mọi sự mà theo Người, không biết có phải hoàn toàn vì lý do trần tục hay chăng, ở chỗ các vị hy vọng sau này có thể được vẻ vang bởi các vị đã trở thành chân tay thân tín của chính Đấng Thiên Sai đầy uy quyền của Thiên Chúa, như các vị đã có lần tranh nhau ngôi thứ, được Thánh ký Marco thuật lại trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm B? Cho dù không hoàn toàn như thế, nhưng đứng trước một mầu nhiệm siêu việt ấy, Phúc Âm hôm nay đã cho biết: "các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy".

Trong Bài Phúc Âm hôm nay có một chi tiết rất lạ lùng và phản nghịch nhau một cách chát chúa, đó là: "Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: '... Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời'". Chi tiết hoàn toàn tương khắc nhau một cách chát chúa, đó là đang khi Chúa đang nổi tiếng, càng ngày càng được dân chúng hâm mộ, kính phục và theo đuổi, thì Người lại nói về thân phận mà chẳng ai ngờ, chẳng ai muốn và có thể là chẳng ai muốn theo Người nữa. Nếu nói theo kiểu trần gian thì đúng là Người chẳng khôn ngoan tí nào, chỉ làm cho mình bị tổn thương trầm trọng và thiệt hại nặng nề mà thôi.

Thế nhưng, Người không thể nào không nói, hay cứ tiếp tục che đậy sự thật quá phũ phàng về Người, một cách lừa đảo chỉ có lợi cho mình mà không có lợi cho người, nhất là thành phần môn đệ theo Người, để tùy họ tự quyết và lượng sức xem có còn muốn tiếp tục theo Người nữa chăng, nếu còn thì họ hãy sửa soạn sẵn sàng một tương lai mù mịt đen tối chụp xuống đời họ. Đó là lý do mới có lời khuyên chí lý của Sách Giảng Viên trong Bài Đọc 1 hôm nay cho riêng thành phần trẻ trung, như trường hợp các môn đệ của Chúa Giêsu, những tâm hồn non dại trong Phúc Âm hôm nay, khi "các ông không lĩnh hội được ý nghĩa".

"Hỡi thiếu niên, hãy hân hoan trong thời niên thiếu và tâm hồn ngươi hãy hưởng hạnh phúc trong những ngày thanh xuân, hãy sống theo đường lối tâm hồn ngươi, và theo cái nhìn của mắt ngươi.... Trong ngày thanh xuân, ngươi hãy nhớ đến Ðấng Tạo thành ngươi, trước khi thời gian đau khổ tới và trước khi tới thời gian mà ngươi sẽ nói: 'Tôi không thích'; trước khi mặt trời, ánh sáng, mặt trăng, tinh tú sẽ ra tối tăm, và trước khi mây đen kéo lại sau trận mưa, khi kẻ giữ nhà run sợ, khi những kẻ anh dũng khiếp nhược,... và tro bụi sẽ trở về đất, hồn sẽ trở về cùng Chúa, Ðấng đã tác tạo nó'".

Đúng thế, tự mình, theo bản tính hạn hẹp và bất lực của loài người, họ thật sự là non dại, nếu không có Chúa, nếu Chúa không ở cùng họ, ban ơn cho họ, thành phần muốn trở thành người lớn, nghĩa là muốn khôn ngoan thì cần phải biết bám lấy Chúa: "Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia", một tâm tình được bộc phát nguyên văn trong Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay, một Câu Họa bao gồm tất cả nhận thức chân thực về thời gian ngắn ngủi, về cuộc đời tạm bợ mau qua của con người, về Thiên Chúa hằng hữu và sự sống bất diệt:

 1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".

2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô.

3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.

4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con; sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố; xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.

 

Ngày 26-09:

Thánh COSMA và Thánh ĐAMIANÔ
tử vì đạo

Theo truyền thuyết, thánh Cosma và Đamianô là hai anh em sinh đôi. Sinh tại Ả rập. Các Ngài sớm mồ côi cha. Mẹ các Ngài là một góa phụ nhân đức, đã không tiếc gì để giáo dục con cái về tri thức và đạo đức. Bà gửi hai con theo học ở Syria. Tại đây Cosma và Đamianô nổi tiếng là lương thiện, vô vị lợi và trong trắng. Vì thế, người ta đã đặt cho hai ngài một danh xưng bằng tiếng Hy Lạp là “những người nghèo khó.”  Với cách thức đó, các ngài đã hoán cải được nhiều người trở thành tín hữu Công giáo.

Nhiệt thành với đức tin, các Ngài dự tính học nghề thuốc. Khoa này vào thời ấy bị coi rẻ. Nhưng các Ngài tin rằng khi chữa lành thể xác con người các Ngài có thể góp phần vào việc chữa trị tật bệnh linh hồn. Mỗi khi có dịp, cả hai vị thánh đều kể cho các bệnh nhân của mình nghe biết về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Và vì yêu mến cặp bác sĩ song sinh này, họ đã rất sẵn lòng lắng nghe hai ngài. Cosma và Đamianô thường mang lại sức khỏe cả phần xác lẫn phần hồn cho những người đến xin các ngài giúp đỡ.

Thiên Chúa đã chúc lành cho dự tính của các Ngài và ban cho các Ngài được thông thạo về nghề thuốc. Chữa bệnh hoàn toàn miễn phí, các Ngài càng ngày càng trở nên danh tiếng vì những cuộc chữa lành nhờ lời cầu nguyện. Những cuộc chữa lành lạ lùng này lôi cuốn được nhiều người, kể cả các lương dân đến với các Ngài. Tuy nhiên, chính vì tiếng tăm lừng lẫy này đã đưa tới cái chết vì đạo của các Ngài.

Các hoàng đế Điôclêtianô và Maximianô quyết tận diệt Kitô giáo, đã sai tổng trấn Lysias đến Ege để ép buộc các Kitô hữu phải dâng hương tế thần. Ai không tuân lệnh sẽ bị sát hại. Các lương dân tố cáo với quan tổng trấn rằng có hai người rất thạo nghề thuốc nhưng lại là thù địch chí tử của các thần minh. Nếu họ tiếp tục hành nghề các đền thờ sẽ trống vắng và cả nước sẽ theo Kitô giáo hết. Nghe tin này quan tổng trấn truyền bắt giam hai Ngài. Sau khi bắt các Ngài phải dâng hương tế thần mà không được, ông ra lệnh hành hạ các Ngài. Nhờ ơn Chúa, hai thánh Cosma và Đamianô đã nhẫn nại chịu đựng, lại còn tỏ ra hân hoan nữa. Quan lính trói các Ngài rồi bỏ xuống biển, nhưng các thiên thần đã đến tháo cởi xiềng xích và cứu các Ngài bình an vô sự.

Chứng kiến phép lạ tỏ tường ấy, thêm nhiều người được ơn trở lại. Sau khi Cosma và Đamianô qua đời, có nhiều chứng bệnh được chữa lành qua lời chuyển cầu của các ngài. Đôi khi hai vị còn hiện ra trong giấc mơ để mách bảo cho bệnh nhân phương pháp chữa bệnh. Nghe tin này, quan tổng trấn truyền lập giàn thiêu. Nhưng giữa ngọn lửa cháy bừng, hai thánh nhân vẫn không hề hấn gì. Cuối cùng quan tổng trấn ra lệnh xử trảm. Hai thánh Cosma và Đamianô khẩn khoản nài xin Chúa thương nhận lễ dâng của các Ngài và cầu xin Chúa tha tội cho những kẻ đã hành hạ mình. Sau những nhát chém đầu tiên, đầu các Ngài lìa xác và nhận phúc tử vì đạo. Hôm ấy là ngày 26-09-297.

Danh tiếng của hai thánh Cosma và Đamianô lan rộng khắp Giáo hội vì những cuộc chữa lành bệnh các Ngài đã thực hiện. Hoàng đế Justinô I khuyến khích lòng sùng kính hai thánh nhân. Một nguyện đường được xây dựng ở Aege miền Cilicia để ghi nhớ nơi các Ngài chịu chết vì đạo. Tại Roma, Đức Thánh Cha Symmachô (498 - 514) đã cho xây nguyện đường kính hai thánh, và Đức Thánh Cha Felix IV (526 - 530) đã cho xây một đại giáo đường kính các Ngài. Tại Brazil, Cosma và Đamianô được coi là người bảo vệ trẻ em, vào ngày lễ kính, tín hữu Brazil tặng các trẻ em những túi kẹo có in hình các ngài. Cùng với thánh Luca, hai thánh Cosma và Đamianô được đặt làm thánh bổn mạng các y sĩ và các nhà giải phẫu.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ websites của TGP Sài Gòn, Dòng Tên và CGVDT

 

Dẫn Nhập

(Đaminh Maria cao tấn tĩnh)

Đọc hay nghe truyện 2 Thánh Cosma và Đamianô hôm nay, chúng ta thấy được rằng bất cứ dân nước nào trên thế giới trên thế giới đều có thể nên thánh, đều có người tốt, dù chủng tộc của họ có thế nào chăng nữa. Theo lịch sử của Giáo Hội, thì Phi Châu, một châu lục vốn bị coi là chậm tiến nhất thế giới, thua cả Á Châu, thế mà ngay từ đầu đã có những vị thánh đặc biệt và nổi tiếng, như Thánh Giám Mục Cypriano thế kỷ thứ 3, hay Thánh Âu Quốc Tinh, Thánh Monica thế kỷ thứ 5 v.v.

Kể từ sau khi Kitô giáo được chính Con Thiên Chúa xuống thế làm người thành lập, tức là kể từ sau khi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) là Chúa Giêsu Kitô, "ánh sáng chân thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:12), thì kể như không còn một đạo giáo nào khác trên thế giới có vẻ mê tín dị đoan và đa thần xuất hiện nữa, như trước thời Kitô giáo này. Tuy nhiên, vào thế kỷ thứ 7, một tôn giáo hoàn toàn mới mẻ đã xuất hiện, mang tính cách pha trộn giữa Do Thái giáo và Kitô giáo, cũng tôn thờ một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất như Do Thái giáo và Kitô giáo, tuy nhiên, lại qua một vị trung gian khác, đó là vị đại tiên tri Mohammed của họ, hơn là Moisen của Do Thái giáo, hay Đức Giêsu Kitô của Kitô giáo.

 Thứ đạo mới này được gọi là Hồi giáo (Islam), và tín đồ của tôn giáo này được gọi là Muslim, có nghĩa là thành phần thuận phục Thiên Chúa. Vị giáo tổ Mohammed của họ được cho là đã đọc toàn bộ Thánh Kinh Kitô giáo, (kỹ đến đâu thì không biết), nên đã biết lịch sử dân Do Thái trong Cựu Ước, và cả Chúa Giêsu lẫn Đức Maria cùng Tổng Thần Gabriel trong Tân Ước; nhưng ông chỉ công nhận tổ phụ Abraham, vì có liên quan đến cả dân Do Thái (từ Isaac là con thứ của vị tổ phụ) lẫn Ả Rập (liên quan đến người con Ismael được sinh ra theo xác thịt từ nữ đầy tớ Ai Cập, tỳ nữ của Sara, vợ của tổ phụ Abraham). Còn Chúa Giêsu cũng chỉ là vị tiên tri ngang hàng với ông, thậm chí còn thua ông.

Ông đã viết Kinh Koran, được tín đồ coi như "thánh kinh" của họ, vị vị đại tiên tri giáo tổ của họ được Thần Gabiên mạc khải cho, trong đó, ông chủ trương tất cả những gì hợp với Cựu Ước hơn là Tân Ước, chẳng hạn, 2 điều điển hình nhất là chủ trương đa thê của Cựu Ước, hơn là đơn thê của Tân Ước, và chủ trương tính cách có vẻ bạo lực của Cựu Ước, vì ông thấy Vị Thiên Chúa của Cựu Ước rất công thẳng, động một tí là trừng phạt nghiêm minh, hơn là lòng nhân từ của Cha Trên Trời là Đấng Xót Thương (xem Luca 6:36) nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô trong Tân Ước v.v. Từ đầu thế kỷ 21, thế giới đã liên tục xẩy ra các cuộc khủng bố tự sát gây ra bởi những con người hay những nhóm khủng bố quốc tế, nổi tiếng nhất là Al-Queda, một tổ chức đã công khai tấn công khủng bố Hoa Kỳ sáng ngày 11/9/2001, và từ năm 2014, một nhóm khủng bố khác xuất hiện ở Iraq, được gọi là ISIS, còn kinh khủng dữ tợn hơn nữa, đã gây ra biết bao chết chóc và kinh hoàng trên khắp thế giới, nhất là thế giới Tây Phương, với các cuộc khủng bố đã xẩy ra ở Pháp, Anh, Tây Ban Nha v.v., và ngay cả trong vùng thế giới riêng của họ, bao gồm cả Iraq và Syria, đến độ họ đã làm cho dân chúng phải thoát thân, tràn sang Âu Châu qua ngả Thổ Nhĩ Kỳ, khiến Âu Châu vẫn còn chới với tới bây giờ....

Hôm nay, nhân lễ hai vị thánh người Ả Rập, chúng ta cũng nên đọc thêm về một người Ả Rập khác, một người Ả Rập Hồi giáo nhưng rất thành tâm và rất can đảm, dám lên tiếng kêu gọi và nhắc nhở chính đồng đạo Hồi giáo của mình, về chính đạo giáo của mình, một thứ đạo, như chúng ta thấy, ngay từ ban đầu, ngay từ thời vị giáo tổ của họ, đã chủ trương canh tân xã hội bằng vũ lực, bằng các cuộc thánh chiến, thậm chí bằng cả các cuộc tấn công khủng bố, bất chấp là ai, kể cả chính đồng đạo của họ, và tôn giáo hóa chính trị, bắt mọi người không phải Hồi giáo, đều bị họ cho là bọn bất trung infidels, nghĩa là không thuận phục Thiên Chúa như họ, thành phần mang danh Muslim với ý nghĩa như thế, phải cải đạo trở về thuận phục vị Thiên Chúa Allah Vĩ Đại chân thực duy nhất của Hồi giáo, qua Mohammed là vị đại tiên tri trung gian đích thực duy nhất của Ngài. Tạ ơn Chúa còn cho thế giới thấy có những tia sáng phát ra từ một thứ thế giới đã từng liên tục ôm mộng thống chiếm Âu Châu, và đã liên tục bách hại cùng sát hại Kitô giáo chưa từng thấy như hiện nay.


Tác giả bài viết dưới tiêu đề "Từ đáy lòng của một người Hồi giáo chân thực" là bác sĩ Tawfik Hamid, một nhà thông thái Ai cập, với bằng cấp Y sĩ nội khoa và bằng Cao học tâm lý nhận thức và kỷ thuật giáo dục. Sau đây là nguyên văn bài viết của ông.

 

Từ đáy lòng của một người Hồi Giáo chân thực.

 
image


 
Tôi được sinh ra là người Hồi Giáo và đã sống suốt cuộc đời như một tín đồ Hồi Giáo. Sau những cuộc tấn công khủng bố man rợ khắp nơi trên thế giới của hành tinh này qua bàn tay của những anh em hồi giáo của tôi, và sau quá nhiều hành vi bạo lực của những tín đồ hồi giáo ở nhiều nơi trên thế giới, tôi - một người hồi giáo và là một con người, cảm thấy có trách nhiệm nói lên và kể ra sự thật để bảo vệ cho thế giới, kể cả người hồi giáo, tránh khỏi một tai họa có thể thấy trước và một trận chiến giữa các nên văn minh.
Tôi phải thừa nhận rằng giáo huấn hiện hành của hồi giáo kích động bạo lực và sự thù ghét đối với những người không phải là tín đồ hồi giáo.

 
image
Chúng ta, những người hồi giáo là những kẻ cần phải thay đổi.

 
Cho đến nay, chúng ta vẫn chấp nhận chế độ đa thê, sự bạo hành thể xác của bọn đàn ông đánh đập người phụ nữ và sự tử hình đối với những người bỏ đạo hồi để qua các tôn giáo khác.
Chúng ta chưa từng bao giờ có được một lập trường rõ ràng và vững chắc chống lại quan niệm về nạn nô lệ hoặc chiến tranh, chống lại phương thức truyền bá đạo chúng ta bằng cách chế ngự những kẻ khác vào đạo hồi và buộc họ phải trả một loại thuế nhục nhã gọi là Jizia. Chúng ta đòi người khác phải tôn trọng tôn giáo của chúng ta, trong khi chúng ta lúc nào cũng chưởi lớn (bằng tiếng Ả Rập) những kẻ ngoại đạo trong những buổi cầu nguyện vào ngày thứ sáu trong các thánh thất hồi giáo.

 
image
Chúng ta phát ra thông điệp nào cho con cháu của chúng ta khi chúng ta gọi những người Do Thái là “đồ hậu sinh của loài heo khỉ” ? (dù rằng người Ả Rập và người Do Thái đều là hậu duệ của ông Abraham) ! Phải chăng đó là một thông điệp của tình thương và hòa bình, hay là một thông điệp của sự thù hận ?
Tôi đã từng đi vào nhà thờ và các hội đường ở đó họ đang cầu nguyện cho những người hồi giáo. Trong khi đó thì mọi lúc chúng ta đều nguyền rủa họ, và dạy cho những thế hệ con cháu chúng ta phải gọi họ là “bọn bất trung” và thù ghét họ.

 
image
Chúng ta lập tức nhảy cửng lên theo “phản xạ của đầu gối” một cách tự động để bào chữa cho Tiên Tri Mohammed khi có ai đó tố giác ông ta là kẻ thích ấu dâm trong khi chúng ta lại hãnh diện về câu chuyện trong sách đạo hồi của chúng ta kể rằng ông ấy đã cưới một bé gái bảy tuổi (tên là Aisha) làm vợ khi ông ta đã ngoài 50 tuổi.

 
image
Tôi cảm thấy buồn khi nói rằng nhiều người, nếu không phải là hầu hết chúng ta, đều hân hoan trong vui sướng sau vụ 9/11 và sau nhiều vụ tấn công khủng bố khác. Trước mặt truyền thông thì người Hồi giáo tố giác những vụ tấn công đó, nhưng chúng ta lại khoan dung cho những kẻ khủng bố hồi giáo đó và có thiện cảm với lý tưởng của họ. Đến nay thì những vị đỉnh cao “lừng danh” trong giáo quyền đã không hề ban bố một Fatwa hay là một thông báo tôn giáo nào để tuyên bố rằng Bin Laden là một tên lạc đạo, trong khi đó thì nhà văn Rushdie lại bị tuyên bố là tên lạc đạo cần phải giết chết chiếu theo luật Sharia của hồi giáo chỉ vì ông ta viết ra một cuốn sách chỉ trích đạo hồi.

 
image
Những người hồi giáo đã biểu tình để đòi quyền được đạo đức hơn là những gì họ đã có tại Pháp, biểu tình đó là để chống lại lịnh cấm choàng khăn trùm đầu Hejab, nhưng chúng ta đã không biểu tình với một niềm đam mê như thế đối với một số quá lớn những vụ ám sát khủng bố. Chính sự im lặng tuyệt đối của chúng ta đối với những kẻ khủng bố đã khiến chúng có thêm năng lực để tiếp tục thực hiện những hành vi xấu xa của chúng.
Chúng ta, những người hồi giáo phải chấm dứt mang cái nguyên nhân gây ra các khó khăn của chúng ta gán lên đầu người khác hoặc lên sự xung đột giữa Do Thái và Palestine. Đây là một vấn đề lương thiện khi xác nhận rằng nước Do Thái là ánh sáng duy nhất của sự dân chủ, của văn minh, của nhân quyền trong khối các quốc gia Trung Đông.

 
image
Chúng ta đã xua đuổi những người Do Thái ra khỏi hầu hết các xứ ả rập mà không chút bồi thường hoặc thương xót để biến họ thành những “người Do Thái vô quê hương” trong khi đó thì nước Do Thái đã chấp nhận cho hơn một triệu người ả rập được sống trong lòng của họ, xem họ như những công dân Do Thái để họ được hưởng đầy đủ quyền lợi của con người.
Ở nước Do Thái, những phụ nữ ả rập không thể bị đánh đập một cách hợp pháp bởi bọn đàn ông, và mọi người đều có thể thay đổi niềm tin của họ mà không sợ bị kết án tử hình bởi luật “lạc đạo” của hồi giáo, trong khi đó trong thế giới của hồi giáo, không một ai được hưởng một cái gì trong những quyền lợi đó.
Tôi đồng ý là những người dân Palestine đang đau khổ, nhưng họ đau khổ là vì những kẽ lãnh đạo của họ hư hỏng chứ không phải vì Do Thái.
Thật hiếm thấy những người Ả Rập đang sống tại Do Thái bỏ ra đi để về sống trong những nước ả rập. Ngược lại chúng tôi thấy hàng ngàn người dân Palestine vui sướng đi lao động tại nước Do Thái là “kẻ thù của họ”. Nếu nước Do Thái đối xử tàn tệ với người Ả Rập như có kẻ đã rêu rao, thì hẳn chúng ta sẽ thấy được một hiện tượng trái ngược lại.

 
image
Chúng ta, những người Hồi Giáo, cần phải gánh vác những nan đề của chúng ta và đối mặt với chúng. Chỉ có lúc đó chúng ta mới có thể giải quyết được vấn nạn để bắt đầu một kỷ nguyên mới sống trong hòa hợp với tình nhân loại của con người.
Những vị lãnh đạo tôn giáo phải chứng minh một lập trường rõ ràng và vững chắc chống lại việc đa thê, ấu dâm, nô lệ, kết án tử hình đối với những kẻ bỏ đạo Hồi qua các tôn giáo khác, họ phải kết án những sự bạo hành thể xác của bọn đàn ông lên phụ nữ, và khuynh hướng tuyên chiến với những kẻ ngoại đạo để bành trướng Hồi Giáo.

 
image
Khi đó, và chỉ có khi đó thì chúng ta mới có quyền đòi hỏi những kẻ khác tôn trọng tôn giáo của chúng ta. Thời điểm đã đến để chúng ta chấm dứt sự giả đạo đức của chúng ta và công khai nói : “Chúng tôi, những người Hồi Giáo phải thay đổi.”

 
image

Tawfik Hamid

Chúng ta hãy tiếp tục cầu cho họ, cũng như cho dân Chúa Do Thái, để cuối cùng tất cả được ứng nghiệm những gì đã được chính Chúa Kitô đã tiên báo: "Sẽ chỉ có một đàn chiên theo một chủ chiên" (Gioan 10:16).




3 Phụ Bản về Thánh Piô Năm Dấu:


Các phép lạ đầy hài hước của Cha Pio

2341

fr.aleteia.org, 2017-04-24

Chúng ta biết Thánh Dòng Capuxinô của San Giovanni Rotondo không tránh được thử thách nhưng ngài cũng có rất nhiều ơn lớn đền bù lại. Tuy nhiên ít ai biết tính hài hước của ngài!

San Giovanni Rotondo là một thành phố của bang Foggia trong vùng Pouilles miền Nam nước Ý. Cha Thánh Pio đã sống ở đây từ năm 1916 cho đến khi ngài qua đời năm 1968. Trước đây San Giovanni Rotondo là thành phố sống về chăn nuôi, trồng trọt nhưng bây giờ San Giovanni Rotondo là thành phố du lịch trù phú nhờ khách đi hành hương về thăm Cha Pio kể từ những năm 1930.

Đi đứng cẩn thận nghe!

Một ông đi đến tận San Giovanni Rotondo để gặp Cha Pio, nhưng có rất đông người ở đó nên ông phải đi về nhà mà không gặp được ngài. Trong lúc ông đi xa tu viện, thì ông ngữi thấy một mùi hương từ các thánh tích của cha và ông cảm thấy mình được an ủi.

Vài tháng sau, khi ông đi qua một vùng núi, ông cũng ngữi thấy một mùi hương như vậy. Ông ngừng lại và ông ngây ngất trong một lúc khi ngữi thấy mùi hương thơm ngát. Khi sực tỉnh lại thì ông thấy mình ở bên bờ vực thẳm, không có mùi hương của Cha Pio thì e ông đã tiếp tục đi tới.

Ông quyết định đi về San Giovanni Rotondo ngay lập tức để cám ơn Cha Pio. Khi ông đến tu viện, Cha Pio từ trước đến giờ chưa bao giờ gặp ông, ngài gọi ông lại vừa cười vừa nói: “Con của ta, lần sau đi đứng cẩn thận nghe!”.

Dưới tấm nệm

Một phụ nữ bị bệnh nhức đầu kinh khủng đến mức bà quyết định để một tấm hình của Cha Pio dưới gối, hy vọng cơn đau sẽ hết. Sau nhiều tuần, cơn nhức đầu vẫn còn; tính khí nóng nảy của người Ý làm bà than lên: “Này Cha Pio, cha không làm cho con hết bệnh, con phạt cha, con để cha dưới tấm nệm”.

Vài tháng sau bà đến San Giovanni Rotondo để xưng tội với Cha Pio. Bà vừa quỳ vào tòa giải tội thì cha nhìn bà chăm chăm, cha đóng cánh cửa tòa giải tội một cái rầm. Bà hoảng người, bà không hiểu tại sao cha phản ứng như vậy, bà không thốt nên lời. Vài phút sau, cánh cửa tòa giải tội mở ra, Cha Pio vừa cười vừa nói với bà: “Đúng là con không hài lòng phải không? Để thế cho con biết, cha cũng không hài lòng khi con để cha dưới nệm!”.

Các lời khuyên của Cha Pio

Một linh mục Argentina nghe tiếng các lời khuyên của Cha Pio, linh mục quyết định đi đến tận Ý với mục đích duy nhất là xin lời khuyên quý báu của ngài để ngài hướng dẫn mình trong đời sống thiêng liêng. Khi đến nơi, linh mục đi xưng tội với cha và về nhà mà không nhận một lời khuyên nào.

Về lại Argentina, linh mục rất thất vọng, cha thấy có nhu cầu phải nói cho mọi người biết. Linh mục lấy làm tiếc: “Tôi không hiểu tại sao Cha Pio không nói gì với tôi. Vậy mà tôi đi từ Argentina qua Ý để chỉ muốn nghe lời khuyên của ngài… Cha Pio đọc được trong tư tưởng người khác, ngài biết là tôi đến chỉ để xin ngài lời khuyên”. vv và vv…

Cha than phiền đến mức mà các giáo dân bắt đầu hỏi cha: “Cha, cha có chắc là Cha Pio không nói gì không? Cha Pio có làm cử chỉ gì khác thường không?”.

Vị linh mục từ từ suy nghĩ và cuối cùng cha nhớ lại Cha Pio có làm một cử chỉ hơi là lạ. Cha giải thích cho các giáo dân: “Ngài ban phép lành cuối cùng cho tôi, ngài làm dấu thánh giá cực kỳ chậm, đến mức tôi nghĩ, e chẳng khi nào xong?” Nghe xong, các giáo dân kêu lên: “Vậy là Cha Pio đã cho cha lời khuyên! Cha, cha ban phép lành quá nhanh, giống như cha làm nguệch ngoạc cho xong chứ không phải làm dấu thánh gia!ù”. Nghe xong, vị linh mục vui mừng vì cuối cùng cha biết được lời khuyên đặc biệt của Cha Pio.

Người giữ nhà và các tên trộm

Các tên trộm hoành hành ở một khu phố Rôma làm cho một người dân ở đó không đi thăm Cha Pio được. Nhưng cuối cùng ông đi, ông khóa cửa kỹ và “ra điều kiện” cho Cha Pio: “Cha, bây giờ con đi thăm cha nhưng cha giữ nhà cho con…”.

Khi đến San Giovanni Rotondo, ông xưng tội với Cha Pio. Ngày hôm sau, ông đến chào cha để đi về, cha trách ông: “Con, con còn ở đây à? Cha đang toát mồ hôi giữ cửa cho con!”.

Ông đi về nhà ngay lập tức, lòng chưa hiểu ngài muốn nói gì với mình. Về đến nhà, ông nhận ra bọn trộm đã đến, chúng đã bẻ ống khóa nhưng trong nhà không mất gì hết”.

Trẻ con và kẹo bánh

Một phụ nữ đã lâu không đến thăm Cha Pio, bà khổ sở nghĩ cha đã quên mình. Như thường lệ, một buổi sáng nọ, sau khi phó giao con gái mình cho cha che chở, bà đi lễ. Khi về nhà, bà thấy con mình đang ăn kẹo ca-ra-men. Ngạc nhiên bà hỏi con “ai cho con kẹo?”. Đứa bé vui vẻ chỉ hình Cha Pio treo bên trên cái “cũi em bé” mà mỗi lần bà đi vắng chốc lát bà để con vào đó. Nghe con kể, bà mẹ không lấy làm quan trọng gì.

Sau một thời gian, lại lo không biết Cha Pio đã quên mình chưa, bà đến thăm cha. Sau khi xưng tội, bà hôn tay cha. Khi đó cha vừa cười vừa hỏi bà: “Con, con cũng muốn cây kẹo ca-ra-men phải không?”.

Một người sói tóc

Một người bị rụng tóc nhưng dứt khoát không muốn mình bị sói. Một ngày nọ ông đến gặp Cha Pio và xin cha: “Xin cha cầu nguyện để tóc của con đừng rụng nữa”.

Chính lúc đó thì Cha Pio đi xuống cầu thang. Ông lo lắng nhìn cha mong cha trả lời cho mình. Khi đến gần cha, ông thấy nét mặt của cha thay đổi, và với một cái nhìn như đề nghị một cái gì với ông, ngài chỉ một người đang ở sau lưng ngài, ngài nói với ông: “Con giới thiệu con với ông ấy đi”. Ông quay lại thì thấy một linh mục sói tóc hoàn toàn, cái đầu láng bóng như tấm gương. Và mọi người cười ngất.

Ném giày

Một giáo dân của Cha Pio bị đau răng khủng khiếp, đau đến mức không chịu nổi, vợ của ông đề nghị: “Tại sao anh không cầu nguyện với Cha Pio để cha chữa cho bớt đau? Đây, hình của cha đây, anh cầu nguyện với cha đi”. Ông chồng giận dữ la hét: “Đau răng như thế này, em không có thuốc men gì mà bắt anh cầu nguyện hả?”. Ông cầm chiếc giày ném hết sức mình vào hình của Cha Pio.

Vài tháng sau bà vợ thuyết phục được chồng đi xưng tội với Cha Pio ở San Giovanni Rotondo. Ông quỳ trong tòa giải tội và ông đọc một dọc các tội của mình. Nghe ông đọc xong, cha Pio nói với ông: “Có tội nào con quên không?”.  “Dạ hết rồi!”. “Hết thật rồi à? Vậy còn tội con ném chiếc giày ngay mặt cha thì sao?!”

Một lời chào “lớn thật lớn!”

Cô con gái thiêng liêng của Cha Pio ở lại San Giovanni Rotondo ba tuần với mục đích duy nhất là được xưng tội với cha. Không xưng được, cô chưa muốn về lại Thụy Sĩ vì cô quá buồn. Bỗng cô nhớ, mỗi ngày cha thường ra cửa sổ ở căn phòng nhỏ của ngài để ban phép lành.

Lòng đầy hy vọng, cô nghĩ, ít nhất là mình có thể nhận phép lành của cha trước khi về. Cô đi nhanh về phía tu viện. Trên đường đi, cô mong: “Mong sao cha chào cho riêng mình một lời chào “lớn thật lớn”. Khi đến tu viện, cô chỉ thấy còn vài người rải rác. Cha Pio đã ban phép lành. Cha đã chào tất cả mọi người, cha dùng khăn tay trắng phất phất để chào và cha đã về phòng nghỉ ngơi.

Một nhóm phụ nữ lần hạt mân côi ở đó cho cô biết như vậy, cô đừng hoài công chờ. Cô không thất vọng, cô quỳ xuống cùng với các bà khác, trong lòng thầm thì: “Không sao, con chỉ mong có được lời chào “lớn thật lớn” cha dành riêng cho con. Vài phút sau, cửa sổ căn phòng Cha Pio mở ra và cha ban phép lành lại, cha dùng tấm khăn trải giường phất phất thay vì dùng khăn tay trắng như thường lệ. Ai cũng cười, một bà còn nói: “Nhìn kìa, hôm nay cha điên rồi!”.

Người con gái thiêng liêng của cha cảm động, nước mắt tuôn trào vì cô biết, đó là lời chào “lớn thật lớn” mà cô đã xin cha chào cô.

Đứa con trai và các viên kẹo

Từ lâu đứa con trai của một ông đội dân vệ mơ có chiếc xe lửa bằng điện. Ngày Lễ Ba Vua sắp đến, em đến trước ảnh Cha Pio treo trên tường hứa: “Cha Pio nghe con nè, nếu cha làm sao cho con có một chiếc xe lửa bằng điện, con sẽ cho cha một túi kẹo”.

Ngày Lễ Ba Vua đến, đứa con trai nhận được chiếc xe lửa em mong chờ lâu nay. Sau đó, em theo dì đến Giovanni Rotondo thăm cha. Cha Pio âu yếm cười hỏi em: “Còn túi kẹo của cha đâu?”.

Vì hai trái vả!

Một ngày nọ, một bà rất sùng kính Cha Pio đã ăn quá hai trái vả. Bị dày vò vì nghĩ mình tham ăn, bà hứa là sẽ đi xưng tội với cha khi có dịp.

Và dịp may đến, bà đi San Giovanni Rotondo. Sau khi xưng tội xong, bà lo lắng xưng thêm: “Thưa cha, con có cảm tưởng con đã quên một tội và có thể đây là một tội khá khá nặng”. Cha trả lời: “Con đừng lo, hai trái vả thì chẳng có gì là nặng!”.

Con nghĩ là cha sẽ lấy nàng sao?

Cha Pio cử hành một thánh lễ hôn phối. Khi đến lúc quan trọng của buổi lễ, vì quá xúc động, chú rể không tài nào nói “vâng” theo nghi thức được.

Cha Pio chờ một lúc, rồi cha cười khuyến khích anh, nhưng cố gắng bằng mấy anh cũng không nói được, cuối cùng cha la lên: “Con muốn nói “vâng” hay con nghĩ chính cha sẽ lấy… cô dâu?!”.

Cha, xin cha cầu nguyện cho các con còn nhỏ của con

Một bà rất mộ đạo, bà không cách nào ngủ được nếu không giao phó tất cả con mình cho Cha Pio. Chiều nào bà cũng quỳ trước ảnh của Cha Pio và xin: “Cha Pio, con xin giao phó các con của con cho cha”.

Trong ba năm trường, tối nào cũng lặp lại một lời cầu nguyện này, cuối cùng bà đến được San Giovanni Rotondo. Khi bà gặp cha, bà nói: “Thưa cha, con xin giao phó các con của con cho cha”. Cha trả lời: “Con của cha, cha biết. Đã ba năm nay, ngày nào con cũng lặp lại cùng một chuyện, mỗi ngày!”.

Còn con thì con cười chế nhạo phải không?

Một phụ nữ ngưỡng mộ Cha Pio, mỗi ngày bà đều có thói quen quỳ cầu nguyện trước ảnh Cha Pio để xin cha ban phép lành cho mình. Chồng của bà cũng rất ngưỡng mộ cha, nhưng ông không thể nào nhịn cười vì ông thấy vợ mình làm quá. Tối nào cũng lặp lại cảnh này giữa hai vợ chồng.

Có dịp hai vợ chồng cùng đi thăm Cha Pio. Ông chồng nói với cha: “Thưa cha, tối nào vợ con cũng xin cha ban phép lành”, Cha Pio trả lời: “Còn con thì con cười chế nhạo phải không?”.

Marta An Nguyễn dịch

 

San Giovanni Rotondo là một thành phố của bang Foggia trong vùng Pouilles miền Nam nước Ý. Cha Thánh Pio đã sống ở đây từ năm 1916 cho đến khi ngài qua đời năm 1968. Trước đây San Giovanni Rotondo là thành phố sống về chăn nuôi, trồng trọt nhưng bây giờ San Giovanni Rotondo là thành phố du lịch trù phú nhờ khách đi hành hương về thăm Cha Pio kể từ những năm 1930.

 

Các phép lạ hiện đại ít được biết của Cha Piô

2003

catholicnewsagency.com, Elise Harris, 2016-09-22

Nổi tiếng trên thế giới với tên ngắn gọn “Cha Piô”, Cha Thánh Piô Pietrelcina được xem là một trong “các thánh tích cực nhất” của Giáo hội. Ngài tiếp tục làm phép lạ cho những ai cầu bàu đến ngài.

Trong cuộc phỏng vấn với hãng tin AIIC, linh mục John Paul Zeller, Dòng Phanxicô Truyền giáo ở Birmingham, Alabama, nước Mỹ đã tuyên bố: “Cha Thánh Piô là một trong những người cầu bàu rất mạnh … Một linh mục nói với tôi, có thể đây là một trong các thánh tích cực nhất của Giáo hội”.

Linh mục Zeller có được thánh tích Cha Piô, cha cho biết chính mình đã là chứng nhân của nhiều phép lạ sau khi cầu bàu với thánh tích của ngài trong tay.

Mới đầu cha Zeller không sốt sắng đặc biệt gì với Cha Piô, nhưng một năm sau khi đi San Giovanni Rotondo về và sau lần phong thánh Đức Gioan-Phaolô II năm 2014, thì cha có một lòng sốt sắng với Cha Piô. San Giovanni Rotondo là nơi Cha Piô đã ở suốt đời và phục vụ tại đó.

Sau khi tìm hiểu cuộc đời của Cha Piô, cha Zeller rất xúc động, cha lấy hết can đảm để xin một trong các bề trên ở San Giovanni Rotondo thánh tích của Cha Piô. Bề trên cho không những một mà hai thánh tích, đó là mẫu băng có dính máu Cha Piô trong các dấu thánh của ngài.

Cha Piô sinh ngày 25 tháng 5-1887 trong một gia đình mộ đạo ở Pietrelcina, nước Ý. Cha có tên thật là Francesco Forgionele. Năm 15 tuổi cha vào Dòng Capuxinô. Cha nhận dấu thánh suốt 50 năm trong cuộc đời của mình. Cha đã làm rất nhiều điều kỳ diệu và phép lạ, chữa lành, soi thấu tâm hồn, bay lên khỏi mặt đất, ở hai nơi cùng một lúc.

Linh mục Zeller cho biết, sau khi nhận hai thánh tích, cha trao lại cho cộng đoàn của mình do Mẹ Angelica thành lập một thánh tích và mình được phép giữ một thánh tích.

Cha nói: “Tôi luôn giữ thánh tích này trong người, vì tôi là Giám đốc tổ chức hành hương của trụ sở EWTN ở Birmingham, nên tôi có dịp cầu nguyện với nhiều người”.

Cha giải thích: “Tôi cầu nguyện với nhiều người và có những trường hợp được chữa lành. Nhiều người đến sau một tháng, có khi sau một năm cho tôi biết họ đã được lành nhờ cầu nguyện với thánh tích”.

Một kinh nghiệm như vậy đã xảy ra các đây vài tháng trong lần chữa lành ở đền thánh Trái Tim Cực Thánh ở Hanceville nhân ngày lễ Đức Mẹ Fatima, cha và hai linh mục khác cầu nguyện với hai thánh tích của Cha Piô, cùng với chiếc găng của Cha Piô thuộc về Mẹ Angelica. Khi cầu nguyện, một phụ nữ bị đau thần kinh tọa đến xin cầu nguyện cho bà. Sau này bà đến nói với cha, khi về chỗ ngồi, bà nói với chồng “tôi đã được lành”.

Chứng thần kinh tọa là bệnh đau lưng, rất đau và thường không dứt hẳn nhưng phụ nữ này đã được lành hẳn sau khi cầu nguyện với thánh tích.

Một trường hợp khác, sau một thời gian không lâu nhận thánh tích, cha Zeller có dịp nói chuyện với bạn của mình và biết con gái 12 tuổi của họ bị đau tai lâu năm. Cha hỏi em bé xem cha có được cầu nguyện với thánh tích cho em không, em đồng ý, “tôi cho mẹ em và cho em thấy thánh tích và tôi hỏi em đau tai nào!”

Cha kể, khi cha vừa đặt thánh tích vào tai và bắt đầu cầu nguyện thì em té xuống đất. “Em hoàn toàn tuột khỏi tay tôi. Tôi có thể níu em lại, nhưng tôi không biết chuyện gì xảy ra, tôi rất sợ có chuyện gì xảy đến cho em, nhưng em hoàn toàn vuột khỏi tay tôi và té xuống đất. Cha cho biết khi mình đang lo thì mẹ của em bình tĩnh và nói ‘có thể là được chữa trong Thần Khí’”.

Cha nói: “Nhiễm trùng tai hoàn toàn khỏi hẳn, từ lúc đó theo những gì tôi biết thì em không còn bị nhiễm trùng lại”.

Trong một trường hợp khác, có một phụ nữ bị đau tim trong vòng 40 năm, bà đau suốt đời, cha cho biết mình không có thì giờ để biết thêm nhiều chi tiết nhưng bà khỏi hẳn sau khi cầu nguyện với thánh tích của Cha Piô.

Cha giải thích: “Đây là câu chuyện dài hơn thế, nhưng bà lành hẳn”. Cha cũng nhắc đến một trường hợp khác, một bà vừa đến nói với cha, bà được lành bệnh nhờ cầu nguyện với thánh tích.

Nhắc đến các việc chữa lành lành, cha Zeller nhấn mạnh, không phải cha chữa lành nhưng nhờ lời cầu bàu với Cha Piô.

Cha cho biết, cách đây vài năm mình không có một lòng sốt sắng đặc biệt với Cha Piô, linh mục nói, cha cảm nhận có một nối kết bất ngờ đến với mình vì Cha Piô chọn cha chứ không phải ngược lại.

Cha tuyên bố: “Một trong các giáo sư chủng viện thường hay nói với chúng tôi, chúng ta không chọn các thánh, chính các thánh chọn chúng ta. Nếu chúng ta có một cảm tính đặc biệt với thánh nào… Tôi nghĩ thật sự các thánh đã chọn chúng ta, chứ không phải chúng ta chọn các ngài”.

Cha Thánh Piô là “ người anh em vui vẻ”, cha Zeller giải thích mình luôn nghĩ Cha Piô “rất nghiêm” và sợ cầu bàu với cha, sợ Cha Piô nghiêm với mình. Tuy nhiên trong chuyến đi đến San Giovanni Rotondo, cha hiểu Cha Piô hơn, theo cha Zeller, bề ngoài Cha Piô có vẻ nghiêm là vì “ngài biết khi giáo dân không ăn năn hối cải”.

Cha nói: “Cha Piô lo cho sự cứu rỗi các tâm hồn. ngài quan tâm và mang lòng thương xót Chúa, mang sự tha thứ của Chúa đến cho giáo dân”.

Hàng năm vào tháng 9, nhân kỷ niệm ngày Cha Piô qua đời, giáo dân khắp nơi tụ về giáo xứ Rôma San Salvatore ở Lauro, bên cạnh Piazza Navona, Rôma, một trung tâm dành cho các sinh hoạt liên hệ đến ngày lễ của Cha Piô. Tại đây có rất nhiều thánh tích của Cha Thánh Piô, áo măng-tô, găng tay, khăn các phép và khăn thấm máu trong các dấu thánh cha mang suốt 50 năm đời mình.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch 

Tượng Cha Piô giúp Chúa Giêsu vác thánh giá ở nhà thờ Rôma San Salvatore

Các lời nói hóm hỉnh của Cha Piô

692

Trích sách “Lời hay ý đẹp của Cha Piô”, Pascal Cataneo, Nxb Médiaspaul

Carlo Campanini là một trong các người con thiêng liêng được Cha Piô yêu mến, ông cũng là một diễn viên nổi tiếng, một ngày nọ ông nói với chúng tôi: “Cha Piô thích kể chuyện đùa, về chuyện này cha giỏi hơn tôi. Cha nắm được nghệ thuật làm ngắn gọn và đối đáp như một diễn viên lớn”.  Trên lãnh vực này, chúng ta có thể tin ở ông. Một ký giả nổi tiếng viết: “Cha Piô là người có tài kể chuyện, sống động và xuất sắc. Đặt cha vào chân tường, cha có thể dụ dỗ rất giỏi để thoát ra. Nếu chưa thoát ra được, cha sẽ làm cho người đối diện lạc hướng bằng những lối đi kỳ quái, những lời nói châm biếm. Cha có thể viện đến tài bắt chước của nghệ sĩ mà một thính giả thông minh, dù đã cảnh giác cũng không thể không mến chuộng. Nhưng nhất là nghệ thuật ăn nói hóm hỉnh, một năng khiếu hiếm hoi không ai là không thấy”.

Hơn nữa nghệ thuật ăn nói hóm hỉnh của cha không bao giờ là ngẫu nhiên, cha dùng nó trong sứ vụ chức thánh của mình. Những câu chuyện hài của Cha Piô thì nhiều vô số kể. Tôi chỉ ghi lại một số chuyện để độc giả có một khái niệm về tính hài hước của cha. 

Một tân binh chuẩn bị đón vua

Một trung sĩ chuẩn bị cho một tân binh để anh này trả lời các câu hỏi của vua khi vua đến thăm trại. Ông trung sĩ dạy cho anh học thuộc lòng các câu vấn đáp sau:

– Anh mấy tuổi?

– Hai mươi hai tuổi.

– Anh phục vụ được bao nhiêu năm rồi?

– Hai năm.

– Anh nguyện phục vụ ai nhất: vua hay tổ quốc?

– Cả hai!

Ông vua đến, và xui xẻo cho anh, ông vua không hỏi theo thứ tự mà anh tân binh học, nhưng hỏi như sau:

– Anh phục vụ được bao nhiêu năm rồi?

– Hai mươi hai năm.

– Anh mấy tuổi?

– Hai.

Ông vua sốt ruột kêu lên:

– Hoặc là anh ngu, hoặc tôi ngu!

Anh tân binh trả lời:

– Cả hai!

 

Cha Piô cười trong khi nghe giảng

Một trong các bạn tu của Cha Piô thấy cha cười đang khi nghe giảng. Người bạn hỏi thẳng cha: “Cha, vì sao hôm qua cha cười khi nghe giảng về cái chết?”

Cha Piô trả lời bằng tiếng địa phương vùng Napoli: “Tôi phải làm gì bây giờ? Tôi không thể nhịn được: một vài người giảng làm cho mình cười bất cứ cái gì, kể cả cái chết!” 

Cha Piô không sợ sét đánh

Một ngày nọ, Cha Piô và một bạn đồng tu ở trong hành lang khi có cơn giông bảo sấm sét lớn. Bạn của cha thấy sét đánh rất gần. Sợ hãi, ông nói với cha và lưu ý cha vì họ ở gần cột điện, ông nói: “Cha, ít nhất mình đi xa cột điện này. Ngày hôm qua, sét đánh chết mười người!” Cha Piô trả lời: “Vậy thì sao phải sợ, mình không bị hiểm nguy này, mình chỉ có hai!”

Cha Piô… chỉ có hai mươi xu

Một ngày nọ, Cha Piô kể cho các bạn nghe câu chuyện những ngày đầu cha nhận năm dấu thánh. Đó là năm 1922 hoặc 1923.

Một thợ chụp hình muốn khai thác sự kiện này, ông chụp vài tấm hình Cha Piô. Trên thực tế, nó không thành công cho mấy nhưng ông cũng in ra, ông giao cho một chú bé và nói nó đi bán hai mươi xu một tấm. Chú bé không khôn ngoan, lảng vảng ở khu vực gần tu viện, em thấy cha nghiêng người qua cửa sổ, vẻ mặt dễ sợ hét to: “Thằng bé kia! Ta sẽ trừng trị con, con đã bán ta vì hai mươi xu!” Đứa bé sợ quá bỏ chạy.

Cha Piô quay lại với các bạn và nói: “Dù vậy, ít nhất người ta có thể bán tôi đắt hơn!”

“Đi nói với giáo sư Lunedei…”

Một diễn viên nổi tiếng kể một trong những người bạn của anh được một giáo sư bác sĩ rất giỏi ở Florence săn sóc, người bạn kể với bác sĩ là ông muốn đến San Giovanni Rotondo để gặp Cha Piô. Vị giáo sư than trời: “Sao! Bạn đi gặp ông cuồng loạn đó sao? Về mặt khoa học, đó là người cuồng loạn! Cứ nghĩ đến Chúa Giêsu bị đóng đinh thì dấu thánh sẽ đến!”

Các lời nói này không làm lung lay ông, ông lên đường. Khi gặp Cha Piô và xưng tội xong, ông kể cho Cha Piô nghe lời ông bác sĩ nói. Cha trả lời: “Khi con về gặp giáo sư bác sĩ, con nói ông nên nghĩ nhiều về con bò để xem mình có mọc sừng không!”

Tổng thống nước Cộng hòa đến thăm…

Một ngày nọ, Tổng thống nước Cộng hòa Antonio Segni đến thăm Cha Piô. Ông giới thiệu phái đoàn đi cùng, trong đó có dân biểu Russo. Khi Cha Piô nghe chữ “Russo” (Nga) Cha Piô hỏi: “Trọng kính Đức Vua, vì sao Ngài chỉ mang đến một người Nga đến? Xin Ngài mang nhiều người Nga đến cho tôi!”

“Với cái đầu của con…”

Một trong các bà được cho là người làm “say đắm”, theo năm tháng bà già đi, xấu đi và chỉ còn là cái bóng của mình.

Bà bắt đầu suy nghĩ đến những chuyện phù du của cuộc đời và cảm thấy cần bám vào các giá trị vững bền. Bà quyết định đi xưng tội với Cha Piô.

Nhưng để đến gần cha, bà phải ghi tên và chờ đến lượt mình. Bà không nản lòng, ngược lại là đàng khác, để chắc ăn được gặp cha, bà ghi tên hai lần. Bà kiên nhẫn chờ và khi đến lượt mình, bà đi xưng tội. Ngày hôm sau đến lần thứ nhì, nhưng khi cha thấy bà, cha nói: “Con mới xưng tội hôm qua, con cần gì ở cha nữa?”

– Nhưng từ hôm qua đến nay, con có thể có thêm tội!

– Đi đi! Với cái đầu của con, không phải dễ phạm tội như con nghĩ đâu!”

Một sự tiếp đón trớ trêu

Một ngày nọ có hai nghệ sĩ đến thăm Cha Piô. Khi cha thấy họ ở hành lang, cha kêu lên: “Nhìn kìa các vẻ mặt này!”

Sau đó, người tháp tùng giới thiệu họ với cha: “Thưa cha, các nghệ sĩ này bây giờ quyết định không làm việc với cái chân của họ nữa, họ bắt đầu làm việc với cái đầu”, Cha Piô cắt gọn: “Thì họ cứ làm! Quan trọng là họ sửa sai”.

Rồi khi từ giã họ, cha nói: “Quý vị tiếp tục hạ mình nhé! Tóm lại, quý vị chưa bao giờ được vinh dự! Quý vị thay đổi ngay, nếu không tôi đuổi quý vị!”

“Nào, đã đến lúc!”

Linh mục Costantino Capobianco kể, với thời gian cha không còn nghe gì và cha rất khổ vì bị như vậy. Để giúp cha, cha Bề trên mua cho cha máy trợ thính, cha nghe được hơn.

Một ngày nọ, trong một buổi trò chuyện, Cha Piô hỏi xem nếu không có máy trợ thính cha Costantino có nghe được không. Cha trả lời mình sẽ không nghe được gì. Cha Piô xin cha rút máy ra một lúc, và khi cha Costantino rút máy ra, Cha Piô nói với các bạn: “Nào, bây giờ mình có thể nói xấu cha Costantino!”

“Vậy thì lỗi ở ai?!”

Cha Carmelo da Sessano là cha Bề trên tu viện khi cha nhận lệnh của Rôma, cho phép một nhóm nhân viên đài truyền hình đến quay phim một vài sinh hoạt hàng ngày của Cha Piô. Cha Piô phải chịu vì cha Bề trên xin Cha Piô để cho họ làm. Cha nghĩ là họ sẽ không quay lâu.

Khi cha rời phòng để xuống nhà nguyện dâng thánh lễ thì cha thấy nhóm quay phim đang chuẩn bị quay. Rồi cha đến dâng lễ ở bàn thờ Thánh Phanxicô nơi cha dâng lễ thời đó. Nhưng khi nghe tiếng máy quay phim kêu rè rè thì cha bực mình, quay phắt lại và kêu lên: “Hoặc là quý vị ngừng, hoặc là tôi ngừng! Tôi đi và tôi không làm lễ!”

Và thế là họ phải ngưng quay phim như dự trù, nhưng sau đó họ cũng quay lại, lúc được lúc không các sinh hoạt trong ngày của Cha Piô, ngài thì cố gắng không để ý nhiều chừng nào hay chừng đó và cũng giảm quay phim nhiều nhất có thể. Khi quay xong, cha Bề trên cho Cha Piô biết, tất cả nhân viên quay phim muốn cám ơn cha và muốn được cha ban phép lành. Cha Piô chấp nhận và tiếp nhóm quay phim, họ xin lỗi đã làm phiền cha; rồi họ cũng nói không phải lỗi của họ, họ chỉ tuân hành lệnh của cấp trên.

Khi đó Cha Piô cha phản hồi với giọng yếu ớt: “Quý vị nhận lệnh và đó không phải là lỗi của quý vị. Cha bề trên tu viện nhận lệnh và đó không phải lỗi của cha. Các cha bề trên Tỉnh Dòng nhận lệnh và đó không phải lỗi của họ. Vậy thì… lỗi của ai?…” 

“Cha phải ban phép lành như thế nào đây? Đổ một xô nước trên đầu con sao?”

Cô Grazia, một nông dân 29 tuổi bị mù từ bẩm sinh, cô thường hay đi lễ ở ngôi nhà thờ nhỏ của tu viện San Giovanni Rotondo. Một ngày nọ Cha Piô hỏi cô Grazia cô có muốn thấy không. Cô trả lời rất muốn, miễn là ơn này không làm cho cô phạm tội. Cha nói cô sẽ lành và cha gởi cô đến bác sĩ Durante, một bác sĩ giải pháp rất giỏi ở Bari.

Khi khám cho cô, bác sĩ nói giải phẫu cũng sẽ không làm cho cô thấy.. Ông khuyên cô nên xin Cha Piô làm phép lạ… Nhưng vợ của ông bác sĩ có mặt ở đó, bà nói nếu Cha Piô gởi bệnh nhân này đến là dấu hiệu bác sĩ có thể làm một cái gì. Vì sao mình không thử? Được thuyết phục, ông bác sĩ mổ cho bệnh nhân.

Ông mổ một con mắt… và cô Grazia thấy được với con mắt này. Ông mổ con mắt thứ nhì và Grazia thấy cả hai mắt. Ông bàng hoàng và không thể tìm được một lời giải thích nào đứng vững! Khi về lại San Giovanni Rotondo, cô Grazia chạy như bay đến cám ơn Cha Piô. Cô quỳ gối xuống trước mặt cha, người lần đầu tiên cô thấy, cô nói cho cha biết niềm vui, sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn của mình. Cha Piô đứng bất động nhìn cô, im lặng và mỉm cười. Cô Grazia xin cha ban phép lành, cha làm dấu thánh giá trên trán cô. Nhưng cô Grazia cứ nài nỉ: “Xin cha ban phép lành cho con, xin cha ban phép lành cho con!”

Rốt cùng Cha Piô phải kêu lên: “Cha phải ban phép lành như thế nào đây? Đổ một xô nước trên đầu con sao?!”

Marta An Nguyễn dịch