SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXVI Thường Niên Năm A và Năm Chẵn

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ed 18, 25-28

"Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, nó sẽ được sống".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Ðây Chúa phán: "Các ngươi đã nói rằng: "Ðường lối của Chúa không chính trực". Vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây: Có phải đường lối của Ta không chính trực ư? Hay trái lại đường lối của các ngươi không chính trực? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Chúa (c. 6a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa; xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn cậy trông vào Chúa. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin đừng nhớ lỗi lầm khi con còn trẻ và tội ác, nhưng hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho con nhận biết đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Pl 2, 1-5 {hoặc 1-11}

"Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Ðức Giêsu Kitô".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, nếu có sự an ủi nào trong Ðức Kitô, nếu có sự khích lệ nào trong đức mến, nếu có sự hiệp nhất nào trong Thánh Thần, nếu có lòng thương xót nào, thì anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một niềm vui, được cùng chung một lòng mến, được đồng tâm nhất trí với nhau, chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình, mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Ðức Giêsu Kitô.

{Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong hoả ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang.}

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 21, 28-32

"Nó hối hận và đi làm. Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!" Nó thưa lại rằng: "Con không đi". Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: "Thưa cha, vâng, con đi". Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?" Họ đáp: "Người con thứ nhất". Chúa Giêsu bảo họ: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

99 con chiên lạc

 

Chiều hướng và ý nghĩa của phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm A tuần này tiếp tục phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật tuần trước, Tuần XXV Thường Niên Năm A, liên quan đến đường lối của Thiên Chúa với đường lối của nhân loại nói chung và thành phần biệt phái cùng luật sĩ Do Thái nói riêng, hoàn toàn khác biệt nhau một trời một vực.

 

Thật vậy, nếu phụng vụ Lời Chúa tuần XXV nói chung và Bài Phúc Âm nói riêng cho thấy đường lối Thiên Chúa, qua ông chủ vườn nho thuê thợ vào làm vườn nho cho mình trả công cho họ chẳng những một cách công bằng như đã giao kèo với họ, thành phần được thuê đến làm sớm, mà còn trả công theo lòng nhân hậu của mình nữa, cho thành phần đến làm muộn nhất, thì Bài Phúc Âm tuần XXVI này cũng được Chúa Giêsu nhấn mạnh đến đường lối nhân hậu của Thiên Chúa, nhưng không đề cao vai trò của Thiên Chúa cho bằng chính việc làm của con người.

 

Đúng thế, tự bản tính của mình là tình yêu vô cùng nhân hậu, Thiên Chúa bao giờ cũng thương xót đối với những tấm lòng tan nát khiêm cung, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, Đấng cứu độ của họ, cho dù cuộc đời của họ có tội lỗi đến thế nào chăng nữa, như thành phần "đứa con thứ nhất" trong Bài Phúc Âm hôm nay, thành phần "thu thuế và gái điếm", thoạt tiên tỏ thái độ bất tuân "con không đi", bằng những hành động gian tham của cải (thu thuế) hay bằng những đam mê nhục dục (gái điếm), "nhưng sau hối hận lại đi", như người đàn bà đĩ điếm tội lỗi trong thành đã xức dầu thơm cho Chúa (xem Luca 7:36-50), hoặc như viên trưởng ban thu thuế Giakêu lùn gian lận đã sẵn sàng đền bù cho những ai bị thiệt hại vì chàng gấp 4 lần (xem Luca 19:1-10).

 

Trong khi đó, thành phần tự phụ tự cho mình là công chính, nhờ việc tuân giữ lề luật của Thiên Chúa, như "đứa con thứ hai" trong Bài Phúc Âm hôm nay, ám chỉ chung thành phần biệt phái cùng các kinh sư luật sĩ và riêng "các thượng tế (tiếng Việt thường dịch không đúng, thay vì các trưởng tế - chief priests lại cứ dịch là "các thượng tế - high priests", vì trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái chỉ có 1 vị thượng tế duy nhất chứ không có "các thượng tế" như trong bài Phúc Âm hôm nay hay một số bài Phúc Âm khác vẫn thường thấy) và các kỳ lão trong dân" là đối tượng được Chúa nói với như để nhắc nhở họ về mới nguy sai lạc lầm lẫn của họ đối với phần rỗi đời đời của họ liên quan đến Lòng Thương Xót Chúa, đến ân sủng cứu độ của Chúa hơn là công trạng cứu độ của họ:

 

"Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài".

 

Đến đây chúng ta có thể đặt vấn đề về vị trí của 2 người con trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, đó là, tại sao, trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay, Chúa lại cho thành phần tội nhân (thu thuế và gái điếm) là anh, còn chính nhân (trưởng tế và kỳ lão có nhân đức, chức quyền và tuổi tác) là em? Trong khi đó, trong dụ ngôn người con hoang đàng, được Phúc Âm Thánh Luca thuật lại ở đoạn 15, chính nhân là người anh không làm phật lòng cha tí nào, còn tội nhân là người em hoang đàng?

 

Xin thưa, trong dụ ngôn hai người con được cha kêu gọi đi làm vườn nho cho cha được Phúc Âm Thánh Mathêu viết cho dân Do Thái thuật lại hôm nay, sở dĩ tội nhân là anh và chính nhân là em bởi vì tội nhân được vào Nước Trời trước, tức họ có lòng ăn năn thống hối nhận biết mình và nhận biết Chúa hơn thành phần chính nhân! Còn 2 người con trong dụ ngôn Người Cha thương xót, được Phúc Âm Thánh Luca viết cho dân ngoại, người anh ám chỉ dân Chúa, thành phần được Ngài chọn trước dân ngoại, thành phần xin được chia gia tài, nghĩa là xin được chung hưởng gia tài với dân Chúa, nên là em.

 

Ngoài ra, dụ ngôn hai người con được cha mời gọi đi làm vườn nho cho cha, được Thánh ký Mathêu thuật lại hôm nay, còn liên quan đến dụ ngôn người chủ vườn nho thuê 5 đợt thợ đến làm vườn nho cho ông, ở chỗ, cả thợ người ngoài lẫn con cái trong nhà đều được làm vườn nho. Tuy nhiên, cả hai đều có chung một ý nghĩa, đó là cả tội nhân lẫn chính nhân đều có nhiệm vụ xây dựng Nước Chúa. Trong dụ ngôn 5 đợt thợ đến làm vườn nho, chỉ có đợt thợ đầu tiên và cuối cùng được nhấn mạnh đến thôi. Nếu người chủ vườn nho thuê thợ ấy là chính người cha kêu gọi 2 con làm vườn nho cho mình, thì đợt thợ đầu tiên ám chỉ là thành phần chính nhân (giữ luật, thông luật, dạy luật), còn đợt thợ cuối cùng là thành phần tội nhân (thu thuế và gái điếm), nhưng lại được trả lương trước, được chủ tỏ ra quí mến hơn theo thẩm quyền ban phát của ông, nên đã trở thành người anh trong bài phúc âm hôm nay!

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng tiên tri Êzêkiên, Thiên Chúa cũng đã nói một cách rõ ràng về những gì được Ngài nói một cách bóng bẩy bằng dụ ngôn trong Bài Phúc Âm hôm nay về hai thành phần tội lỗi thống hối và thành phần công chính tội lỗi:

 

"Các ngươi đã nói rằng: 'Ðường lối của Chúa không chính trực'. Vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây: Có phải đường lối của Ta không chính trực ư? Hay trái lại đường lối của các ngươi không chính trực? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết'".

 

"Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết" ở đây, theo chiều hướng và ý nghĩa của dụ ngôn trong Bài Phúc Âm thì không phải là "người công chính...phạm tội ác, nó phải chết" chỉ ở chỗ họ gây ra những hành động gian tham như thành phần thu thuế hoặc tội lỗi như thành phần gái điếm, mà còn ở chỗ họ tự phụ, coi mình hơn Thiên Chúa, coi công trạng giữ luật của mình là yếu tố chính yếu để được cứu độ mà coi thường hay khinh khi ơn cứu độ của Thiên Chúa chính là những gì cứu độ họ, chẳng khác gì "người công chính từ bỏ lẽ công chính".

 

Đó là lý do trong dụ ngôn đi tìm kiếm 1 con chiên lạc duy nhất trong đàn chiên 100 con, cuối cùng Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: "Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn" (Luca 15:7). "Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông" là thế đó.

 

Câu này Chúa Giêsu cũng nhắm đến "những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư" (Luca 15:2), thành phần nghĩ mình không phải là tội nhân, không cần phải ăn năn thống hối, trái lại, họ thậm chí còn có thể tự động trở thành thẩm phán chí công bất cứ lúc nào, trong việc sử dụng chính lề luật như cục đá ném chết thành phần tội nhân ghê tởm nữa (xem Gioan 8:1-11).

 

Như thế, con chiên lạc đây phải nói là chính là 99 con chiên "bị" vị mục tử bỏ lại đằng sau hơn là con chiên "được" vị mục tử nhắm đến tìm kiếm, vì nó tuy là một người con phung phá nhưng còn biết tìm về nhà cha, trong khi đứa con cả "không làm mất lòng cha" theo như nó nghĩ nhờ tuân giữ lề luật lại hoang đàng hơn ai hết, vì ở ngay trong nhà của cha đó mà chẳng hiểu cha của nó gì hết, cứ tác hành như một tên đầy tớ, làm gì cũng phải được trả công xứng đáng, chẳng hiểu "tất cả của cha là của con" (xem Luca 15:11-32).

 

Chúa Giêsu xác định rằng Người không cần "chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn" như thế, và đó chính là lý do Người đã sẵn sàng bỏ 99 con chiên công chính sống một cách bất chính ấy mà quan tâm tới một con duy nhất trong đàn và đi tìm cho bằng được con chiên lạc tội lỗi nhưng có lòng thống hối ăn năn, một con chiên lạc được tiêu biểu trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện. Đó là con chiên mà trong khi người biệt phái "đứng riêng một mình cầu nguyện rằng: 'Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia'", thì người thu thuế "đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: 'Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi'". (Luca 18:13)

 

Chính vì con chiên lạc đây là chính là 99 con chiên "bị" vị mục tử bỏ lại đằng sau hơn là con chiên "được" vị mục tử nhắm đến tìm kiếm, mà Chúa Kitô Mục Tử mới nhẫn nại tiếp tục tìm kiếm họ. Ở chỗ, Người tìm cách khai tâm mở trí cho họ, hết lần này đến lần khác, chẳng những bằng chính việc làm của Người, như Người ngồi đồng bàn với "bọn thu thuế và tội lỗI" ở nhà viên thu thuế Mathêu sau khi chàng được Người kêu gọi (xem Mathêu 9:9-13), mà còn bằng huấn dụ của Người, mỗi lần bị họ theo dõi bắt bẻ trách móc Người, điển hình là Người đã dùng dụ ngôn để hướng dẫn họ như dụ ngôn trong Bài Phúc Âm hôm nay.

 

Chính vì thế, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, trong Thư gửi Giáo Đoàn Philiphê ở Bài Đọc 2 hôm nay mới khuyên Kitô hữu của ngài ở đó hãy tránh lánh thái độ của thành phần biệt phái tự cao tự đại (mà chính bản thân ngài vốn là biệt phái trước khi bị quật ngã xuống khỏi ngựa cũng đã mang tâm thức bất chính đầy hoang tưởng như thế) rằng: "Chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình, mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Ðức Giêsu Kitô".

 

Có như thế, như lời khuyên dạy đầy kinh nghiệm của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay, Kitô hữu chúng ta mới thấm thía những tâm tình đầy thâm tín của Thánh Vịnh 24 trong Bài Đáp Ca hôm nay, và sử dụng chính những lời lẽ đầy Thánh Linh của Thánh Vịng gia mà thân thưa cùng Chúa rằng:

 

1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa; xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn cậy trông vào Chúa.

 

2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin đừng nhớ lỗi lầm khi con còn trẻ và tội ác, nhưng hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.

 

3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho con nhận biết đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.

 

 

THÁNH VINH-SƠN PHAOLÔ

(1581-1660)

27/9

 

The Saint's Death: St. Vincent de Paul | Hour of Our Death

 

1. Đôi dòng tiểu sử

 

Gia đình Phaolô là những nông dân tại Pouy, gần Dax. Vinhsơn sinh năm 1581 ngày 24 tháng 4, là con thứ ba trong gia đình 6 người con. Trong những ngày còn thơ ấu, ngài lo chăn cừu cho cha. Giữa miền đồi lộng gió này, Vinhsơn đã trải qua nhiều giờ trong ngày để chiêm ngắm cảnh đồng quê và hướng lòng lên cùng Chúa. Thời gian này cũng cho ngài những kinh nghiệm đầu tiên về số phận của người dân quê. Từ đó, lòng bác ái sớm nảy nở trong tâm hồn Vinhsơn. Có lần thu góp được 30 xu, số tiền đáng kể đối với ngài, nhưng ngài đã tặng tất cả cho những người cùng khốn. Lần khác trên đường tới nhà máy xay, ngài âm thầm lấy một số bột bố thí cho người nghèo.

Thấy con mình có lòng bác ái lại thông minh, ông Gioan Phaolô quyết hy sinh cho Vinhsơn theo ơn gọi làm giáo sĩ. Vinhsơn theo học các cha dòng Phanxicô tại Dax. Nhưng để tiếp tục chương trình đại học của Vinhsơn, cha ngài đã phải bán bầy cừu lo cho tương lai của con. Dầu vậy, khi học thần học tại Toulouse, Vinhsơn cũng vừa lo học vừa lo dạy kèm tư gia kiếm tiền bớt gánh nặng cho gia đình.

 

Sau khi thụ phong linh mục vào năm 20 tuổi, trong 2 năm, Vincentê biến mất. Cho đến ngày nay người ta vẫn không biết rõ trong thời gian này Vinhsơn ra sao. Người ta kể lại rằng có một goá phụ tại Toulouse đã tặng cho ngài tất cả tài sản của bà. Trên đường từ Marseille tới Narbonne vào tháng 7 năm 1605 để nhận gia tài, ngài đã bị bọn cướp bắt bán cho một ngư phủ. Không quen nghề, ngài lại bị bán cho một người Hồi giáo làm thợ kim hoàn. Sau cùng, ngài lại bị rơi vào tay một người phản đạo tên là Gautier. Nhờ đời sống thánh thiện ngài đã cải hoá được ông. Chính ông đã đưa ngài trở lại đất Pháp. Năm sau, ông theo ngài đi Roma và vào hội bác ái để đền tội cho đến ngày qua đời.

 

Từ đây, Cha Vinhsơn bắt đầu thi hành chức vụ linh mục của ngài, phục vụ cho một xứ đạo gần Paris. Cha nhiệt thành với các linh hồn và được nhiều người tín nhiệm. Nhìn cảnh một người hầu hấp hối xưng tội trên giường bệnh như đã mở mắt cha Vincent để nhìn thấy nhu cầu tâm linh của vùng quê nước Pháp thời bấy giờ. Ðó là giây phút quan trọng trong cuộc đời của một người xuất thân từ nông trại nhỏ ở Gascony, nước Pháp, mà việc đi tu làm linh mục không có gì lớn lao hơn là có được một cuộc sống tiện nghi. Khi được vua Louis XIII bổ nhiệm làm Tổng Tuyên úy của những tù nhân khổ sai chèo thuyền chiến, ngài có cơ hội để cải thiện đời sống những tù nhân ở Pháp.

 

Ngài được chỉ định làm tuyên úy cho nữ hoàng Marguerrite de Valois. Lúc này, Cha Vinhsơn có dịp quen biết Cha Phêrô Berulle, đấng sáng lập dòng giảng thuyết và sau này làm Hồng y. Dưới ảnh hưởng của Cha Phêrô Bérulle, Cha Vinhsơn bắt đầu nhiệt tình sống đời hy sinh nhiệt tình. Theo lời khuyên của Ngài, Cha Vinhsơn nhận làm tuyên uý cho gia đình Gondi. Hướng dẫn một số một nông dân trong vùng này, Cha Vinhsơn đã khám phá ra tình trạng phá sản về tôn giáo và luân lý. Chính sự dốt nát và biếng nhác của nhiều giáo sĩ là duyên cớ gây nên tình trạng này. Ngài quyết tâm sửa đổi thực trạng.

 

Cha Vinhsơn đã trở nên bạn của người nghèo và dùng mọi phương tiện khả năng có được để hoạt động nhàm tái tạo cuộc sống luân lý và tôn giáo của họ. Một thử nghiệm nhỏ như một linh mục quản sở tại Chatillon les Dober cho ngài thấy rõ vấn đề còn rộng lớn hơn nhiều. Dầu nỗ lực cải tiến họ đạo, ngài vẫn ưu tư cho công cuộc được bành trướng rộng rãi hơn. Trở lại Paris ngài được sự trợ giúp của nữ Bá Tước de Gondi, (có người đầy tớ được cha Vincent giúp đỡ), đã thúc giục chồng bà cung cấp tiền bạc và hỗ trợ một nhóm truyền giáo có khả năng và hăng say muốn hoạt động cho người nghèo, người hầu và tá điền. Ngay lúc đầu cha Vincent thừa khiêm tốn để nhận làm người lãnh đạo cho nhóm này.

Ngài bắt đầu công cuộc nâng đỡ cảnh khốn cùng bất cứ ở nơi đâu, ngài tổ chức “hội bác ái” trên khắp đất Pháp cung cấp áo xống thuốc men cho người nghèo khổ hết sức rợ giúp những nô lệ bị bắt chèo thuyền từ Paris tới Marseille. Sau một thời gian hoạt động cho các tù nhân khổ sai ở Balê, ngài trở nên nhà lãnh đạo thực sự của tổ chức mà bây giờ được gọi là Hội Thừa Sai hay tu sĩ Dòng Thánh Vinh Sơn (the Congregation thành Priests thành the Mission – Lazarists). Các linh mục này, với các lời thề khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục và bền vững, tận tụy làm việc cho dân chúng ở các thành phố nhỏ hay làng mạc. Ngài thành lập một hội dòng Lazarits với mục đích truyền đạo cho dân quê và đào tạo giáo sĩ. Từ hội dòng bác ái ấy còn mọc lên hội nữ tử bác ái mà y phục của họ toàn thế giới biết đến như là biểu tượng của lòng bác ái nối liền với danh hiệu Vinhsơn.

Sau này cha Vincent tổ chức các nhóm bác ái để chữa trị tinh thần cũng như thể xác của những người nghèo trong mỗi xứ đạo. Từ sinh hoạt này, với sự trợ giúp của thánh nữ Louis de Marillac, xuất phát tổ chức Nữ Tử Bác Ái (the Congregation thành the Daughters thành Charity) “mà tu viện là bệnh xá, nhà nguyện là nhà thờ của giáo xứ và khuôn viên là đường phố.” Ngài huy động các bà giầu có ở Paris để quyên góp tài chánh cho chương trình truyền giáo, xây bệnh viện, giúp đỡ nạn nhân chiến tranh và chuộc lại khoảng 1,200 người nô lệ da đen. Ngài hăng hái tổ chức tĩnh tâm cho giới tu sĩ khi sự sao nhãng, lộng hành và ngu dốt lan tràn trong giới này. Ngài là người tiên phong trong việc huấn luyện tu sĩ và thúc đẩy sự thiết lập các chủng viện.

Ðáng để ý nhất, cha Vincent là một người hay cáu kỉnh — ngay cả bạn hữu của ngài cũng công nhận điều ấy. Ngài cho biết, nếu không có ơn Chúa ngài sẽ “rất khó khăn và lạnh lùng, cộc cằn và gắt gỏng.” Nhưng ngài trở nên một người dịu dàng và dễ mến, rất nhạy cảm trước nhu cầu của người khác.

 

Một linh mục nhà quê đã trở nên quan trọng đối với toàn quốc từ căn phòng tại xứ thánh Lazane, ảnh hưởng của ngài lan rộng ra khắp nước Pháp, tới Ba Lan, Ý, Hebrider Madagascar và nhiều nơi khác nữa. Nữ hoàng Anne d'Austria nhiếp chính cho tới khi vua Luy lên cầm quyền đã hỏi ý ngài trong việc đặt giám mục chống lại Mazania, ngài đã không ảnh hưởng được tới đường lối của vị giám mục này, lại còn bị khổ vì ông khi nội chiến xảy ra.

Ngài quyên góp để hàn gắn những tàn phá do cuộc chiến xảy ra tại Loraine. Ngài lo chuộc các nô lệ tại Bắc Phi. Các nỗ lực trên cùng với các nhu cầu và việc quản trị hội dòng ngày càng mở rộng đã giam ngài tại phòng riêng xứ thánh Lazane. Ngày lại ngày bận bịu viết thư cho các giám mục lẫn linh mục nghèo khổ, cho biến cố vị vọng lẫn nhu cầu nghèo khổ trong nước. Các thư tín của ngài hợp thành một tuyển tập làm say mê người đọc vì trong đó pha trộn những ưu tư cho nước Chúa lẫn đức bác ái ngập tình người.
     Các thư tín và các bài giảng thuyết của Vinhsơn cho thấy ngài là một trong những nhà phục hưng của Giáo hội Pháp thế kỷ XVI. Những cuộc tĩnh tâm ngài tổ chức tại St. Lazane cho các tiến chức và những cuộc tĩnh tâm hằng tháng ngài tổ chức cho các giáo sĩ tại Paris (có cả những khuôn mặt lớn tham dự như De Rotz, Bossuet...) cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của ngài trong cuộc chấn hưng đạo đức .
      Năm 1660, Cha Vinhsơn ngã bệnh liệt giường và dù đau đớn vì bệnh tật, ngài vẫn vui tươi tin tưởng: Chúa còn phải chịu hơn tôi gấp bội. Đối diện với cái chết, ngài bình tĩnh: 18 năm qua, mỗi tối tôi vẫn dọn mình chết. Cha Vincent qua đời ngày 27 tháng 9 năm 1660 tại Paris, nước Pháp, thọ 80 tuổi. Vào năm 1705 tu viện trưởng Tu hội Truyền giáo Lazarists đề nghị tiến hành hồ sơ phong thánh cho đấng sáng lập. Đức Giáo Hoàng Benedictus XIII đã tôn phong Chân Phước cho cha Vincent đệ Phaolô ngày 13 tháng 8 năm 1729. Tám năm sau, Đức Giáo Hoàng Clement XII đã nâng cha Vincent đệ Phaolô – vị tông đồ của lòng bác ái lên hàng hiển thánh ngày 16 tháng 6 năm 1737. Ðức Giáo Hoàng Leo XIII ngày 12 tháng 5 năm 1885 đã đặt ngài làm quan thầy của mọi tổ chức bác ái. Nổi bật nhất trong các tổ chức này, dĩ nhiên, là Dòng Thánh Vinh Sơn, được thành lập năm 1833 bởi Chân Phước Frederic Ozanam, là người rất ái mộ thánh Vinh Sơn.

 

Sau nhiều cuộc di dời, hài cốt thánh nhân được đặt trong một bức tượng bằng sáp để trong một chiếc hòm xinh đẹp tại nguyện đường nhà mẹ dòng thánh Vinh Sơn đường Rue de Sèvres, thành phố Paris. Phần đầu của pho tượng giống hệt như đầu thánh nhân.

Tuy nhiên trái tim còn toàn vẹn của ngài được đặt trong một chiếc hòm bằng vàng được bày kính trên bàn thờ đài vị kính ngài trong nguyện đường trụ sở nhà mẹ của dòng Nữ Tử Bác Ái tại số 140 đường Rue du Bac, Paris. Cách xa thánh tích thánh Vinh Sơn một chút, bên dưới bàn thờ cạnh là thi hài nguyên vẹn của người con thiêng liêng của ngài là thánh nữ Catherine Labouré, người được Đức Mẹ hiện ra và ban cho chiếc ảnh Đức Mẹ Hay Làm Phép Lạ. Cũng trong nguyện đường này, trên bàn thờ cạnh còn có một chiếc hòm kính có tượng sáp trong có xương của thánh nữ Louise de Marillac, vị đồng sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái.

Lời Bàn

Giáo Hội là của mọi con cái Thiên Chúa, dù giầu hay nghèo, nông dân hay trí thức, thượng lưu hay bình dân. Nhưng hiển nhiên điều Giáo Hội lưu tâm nhất là những người cần sự giúp đỡ – đó là những người trở nên cô thế bởi bệnh tật, nghèo đói, ngu dốt và sự tàn ác. Thánh Vinhsơn Phaolô rất thích hợp là quan thầy cho mọi Kitô Hữu ngày nay, khi người đói ngày càng nhiều, và lối sống xa hoa của người giầu ngày càng đối chọi với tình trạng sa sút về thể chất và tâm linh của con cái Thiên Chúa.

Lời Trích

Hãy cố gắng vui lòng chấp nhận sống với những điều kiện khiến bạn bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí mình khỏi những điều làm bạn phiền hà, Thiên Chúa sẽ lo lắng mọi sự. Khi bạn vội vàng lựa chọn bạn sẽ làm buồn lòng Thiên Chúa, vì Ngài thấy bạn không tôn kính Ngài đầy đủ với sự tin tưởng thánh thiêng. Hãy tin tưởng vào Ngài, tôi nài xin bạn, và bạn sẽ được no đầy những gì mà tâm hồn bạn khao khát” (Thánh Vinhsơn Phaolô, Thư Từ).

 

 

Xác thánh Vincent ở đằng sau bàn thờ tại Nhà Nguyện Nhà Mẹ Dòng Nữ Tử Bác Ái,

gần ngay đó là xác còn nguyên của nữ tu dòng này là Thánh Catarina Labuaré

 

 

(hai tấm hình trên do TĐCTT Đaminh Maria cao tấn tĩnh, đã chụp dịp Nhóm TĐCTT Hành Hương Thánh Mẫu - Thời Điểm Maria 2017, ghé kính viếng địa điểm Mẹ Ban Ơn hiện ra năm 1830 vào ngày 21/5/2017)

 

 

2. Những nét nổi bật trong đời sống

Đầu tiên là việc phục vụ cho những người nghèo khó: Cuộc đời của Ngài, ngay từ hồi còn thơ ấu đã nổi rõ nét là một con người đầy vị tha, bác ái và hay thương xót những kẻ nghèo khó. Chính vì thế, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn rao giảng lòng thương xót của Chúa và sống chứng nhân tình yêu của Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Dù với bất cứ chức vụ nào: Bề trên Dòng Thăm Viếng, Bề Trên Tu Hội triều hay trong cương vị của một mục tử, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn chu toàn trách vụ cách hết sức khôn ngoan. Ngài yêu thương các người nghèo khó, những kẻ đau khổ, những kẻ lao động vất vả, đặc biệt Ngài lưu tâm đến việc giáo dục các thiếu nữ. Lời Chúa trong bài giảng tám mối phúc thật (x. Mt chương 5), đã được Ngài thực hiện cách tận căn: đi và dậy người ta bước đi trên con đường hiến chương nước trời. Ngài đã sống tận cùng lời Chúa: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ bị tù đầy v.v...(x. Mt chương 25).

Chúa đã dậy mọi người bài học yêu thương. Yêu thương tận cùng và yêu thương không ngừng. Chính Chúa đã sống tận cùng sự yêu thương bằng cái chết trên thập hình. Chết mới nói lên lời. Trên thập giá, Chúa đã nói lên tất cả: yêu thương và tha thứ. Chúa đã trở nên nghèo, để sống với người nghèo. Thánh Vinh Sơn Phaolô đã yêu thương người nghèo, những kẻ bơ vơ vất vưởng, đầu đường xó chợ, không nhà không cửa. Theo gương Chúa, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn cứu giúp người nghèo, sống như người nghèo trong việc phục vụ, lao động để gần gũi Chúa. Phục vụ người nghèo là phục vụ Chúa. Sống như người nghèo là sống như Chúa. Gặp gỡ người nghèo là gặp gỡ Chúa.

Thứ đến là lo cho họ, những người nghèo khó có các mục tử coi sóc họ. Chính vì thế mà năm 1625, ngài đã sáng lập ra Tu hội “Linh mục thừa sai” để giúp đào tạo các giáo sỹ theo tinh thần công đồng Trente, và nâng đỡ những người nghèo, đặc biệt là những người nghèo ở vùng quê. Như vậy, công việc giúp đỡ người nghèo của thánh nhân đã hội tụ được những nguồn lực có tính quyết định cho cả lộ trình đồng hành với người nghèo của ngài. Việc phục vụ những người nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng đã trở thành một linh đạo sống cho những ai muốn hiến thân phục vụ người nghèo trong Chúa Kitô.

Theo Ngài, con đường nên thánh phải được khởi đi từ việc nhận ra hiện thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo“… Chính chúng ta phải cảm nghiệm được điều đó, cũng như phải xử sự như Đức Kitô là quan tâm đến những người nghèo túng, an ủi, giúp đỡ và bảo lãnh cho họ… Quả thật, Đức Kitô đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp những người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, nên đã chia sẻ thân phận của họ…”

Việc phục vụ người nghèo đối với Thánh nhân, không phải theo một vài hình thức ban ơn phô trương, mà phải được xuất phát từ chính con tim biết hiểu hoàn cảnh của họ mà thông cảm với họ. Sao cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như Thánh Phaolô tông đồ, khi Người nói: "Tôi trở nên tất cả cho mọi người…”

Đức ái với những người nghèo trong linh đạo của thánh Vinh Sơn Phaolô còn hệ tại ở việc hành động phục vụ và nhận biết những nhu cầu cấp thiết nơi những người nghèo: “phải ưu tiên phục vụ người nghèo, không được trì hoãn… Vậy khi chị em bỏ đọc kinh nguyện để giúp đỡ người nghèo thì hãy nhớ rằng, đó là chị em phục vụ Thiên Chúa” (Kinh Sách, Các bài đọc).

 

Chúng ta cùng nhau đọc lại giáo huấn về thực thi bác ái của ngài sau đây được trích từ bút ký của thánh Vinh-Sơn Phao-lô cho các Nữ tử Bác ái, và được Giáo Hội chọn đọc trong Phụng Vụ Giờ Kinh Sách.

 

PHẢI ƯU TIÊN PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO

Chúng ta không được nhìn một nông dân nghèo hay một phụ nữ nghèo theo dáng vẻ bên ngoài của họ, hay cảm nghĩ của chúng ta về trình độ hiểu biết của những người ấy, nhất là nhiều khi hầu như họ không có bộ mặt và khối óc của những người được ăn học. Nhưng nếu nhìn những người đó dưới ánh sáng của đức tin, chị em sẽ thấy rằng họ là hiện thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo, Đấng chẳng còn dáng vẻ của một con người trong cuộc thương khó, Đấng đã bị lương dân coi là điên rồ, bị người Do-Thái coi là cớ vấp phạm; với tất cả những điều đó, Người tự xưng là Đấng loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo: Đức Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chính chúng ta cũng phải cảm nghiệm điều đó, và phải xử sự như Đức Ki-tô là quan tâm đến người nghèo túng, an ủi, giúp đỡ và bảo lãnh cho họ.  

Quả thật, Đức Ki-tô đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp những người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, nên đã chia sẻ thân phận của họ; vì thế, bất cứ điều gì tốt hay xấu làm cho kẻ nghèo, Người cũng coi như làm cho chính mình. Khi Thiên Chúa yêu thương những người nghèo túng thì cũng yêu thương cả những ai yêu thương họ, vì khi ai thân thiết với một người nào thì cũng yêu thương cả bạn hữu của người ấy hoặc những kẻ giúp đỡ người ấy. Bởi thế, chúng ta hy vọng, vì người nghèo, Thiên Chúa sẽ thương yêu chúng ta. Vậy khi thăm nom người túng thiếu hay nghèo khổ, chúng ta hãy cố gắng hiểu hoàn cảnh của họ mà thông cảm với họ sao cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như thánh Phao-lô tông đồ, khi người nói: Tôi trở nên tất cả cho mọi người. Vì thế, một khi thực sự rung cảm trước những ưu tư và khốn cùng của tha nhân, chúng ta hãy cố gắng nài xin Thiên Chúa tuôn đổ tình lân tuất và lòng xót thương vào tâm hồn chúng ta. Và xin Người giữ mãi cho luôn đầy tràn. 

Phải ưu tiên phục vụ người nghèo, không được trì hoãn. Nếu trong giờ nguyện ngắm ban mai, chị em phải đi phát thuốc hay giúp một người nghèo túng nào đó, thì cứ yên tâm mà đi đến với họ, và dâng cho Thiên Chúa việc phải làm như lo nguyện ngắm vậy. Đừng băn khoăn hay mặc cảm là mình có tội vì đã bỏ nguyện ngắm mà giúp người nghèo. Quả thật, Thiên Chúa không bị lơ là nếu vì Thiên Chúa mà người ta tạm rời xa Người, nghĩa là bỏ công việc của Thiên Chúa là cầu nguyện mà làm một công việc khác tương đương.  

Vậy khi chị em bỏ đọc kinh cầu nguyện để giúp đỡ người nghèo thì hãy nhớ rằng chị em phục vụ Thiên Chúa. Chắc hẳn đức ái cao trọng hơn bất cứ lề luật nào và tất cả đều phải hướng về đức ái. Vì đức ái là bà chúa tuyệt vời, nên phải chu toàn điều bà truyền dạy. Vậy chúng ta hãy phục vụ người nghèo với một tâm tình đổi mới, và hãy ra sức tìm kiếm những kẻ bị bỏ rơi, vì họ đã được ban cho chúng ta như để làm chủ chúng ta.

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp tài liệu của Dòng tên, TGP Sài Gòn, Theo Vết Chân Người / Chân Dung Các Thánh Nhân và Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 27/9

 

 


Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) G 1, 6-22

"Chúa ban cho, rồi Chúa lấy lại: nguyện danh Chúa được chúc tụng".

Trích sách ông Gióp.

Một ngày nọ, con cái Thiên Chúa đến chầu truớc mặt Chúa, Satan cũng có mặt ở đó. Chúa hỏi Satan rằng: "Ngươi từ đâu đến?" Nó thưa lại rằng: "Tôi chạy vòng quanh trái đất và đi khắp mọi nơi". Chúa hỏi nó rằng: "Chớ thì ngươi có lưu ý đến Gióp, tôi tớ Ta chăng? Trên trần gian, không một ai giống như y là con người ngay thật, công chính, kính sợ Thiên Chúa và xa lánh sự dữ". Satan thưa lại cùng Chúa rằng: "Ðâu có phải Gióp kính sợ Thiên Chúa cách luống công? Chớ thì Chúa chẳng che chở quanh nó, nhà cửa nó và tất cả những gì thuộc về nó đó sao? Chớ thì Chúa chẳng chúc phúc các việc tay nó làm, và sản nghiệp nó gia tăng rợp đất đó sao? Nhưng Chúa hãy giơ tay Chúa lên một chút và chạm đến tất cả những gì nó đang có, ắt nó sẽ phỉ báng Chúa nhãn tiền". Vậy Chúa bảo Satan rằng: "Ðây, tất cả những gì nó đang có đều nằm trong tay ngươi: chỉ trừ một điều là ngươi chớ chạm tay đến thân nó". Satan liền lui ra khỏi mặt Chúa.

Một ngày nọ, khi các con trai, con gái của ông Gióp đang dùng bữa uống rượu tại nhà anh cả, thì có kẻ đến báo tin cho ông Gióp rằng: "Các con bò đang kéo cày và các con lừa đang ăn cỏ bên cạnh, bỗng các người Sabêô xông đến cướp lấy hết, và dùng gươm giết các đầy tớ, chỉ một mình tôi chạy thoát về báo tin cho ông". Khi nó còn đang nói, thì một người khác đến thưa rằng: "Lửa Thiên Chúa từ trời xuống thiêu huỷ hết bầy chiên và các đầy tớ, chỉ một mình tôi thoát được về báo tin cho ông". Khi nó còn đang nói, thì một người khác đến thưa rằng: "Các người Calđêô chia làm ba toán xông vào cướp đoạt các con lạc đà, và còn dùng gươm giết các đầy tớ, chỉ một mình tôi trốn được chạy về báo tin cho ông". Nó còn đang nói, thì đây một người khác bước vào thưa rằng: "Lúc các con trai, con gái của ông đang dùng bữa và uống rượu tại nhà anh cả, bỗng có gió mạnh từ hoang địa thổi đến, hắt vào bốn góc nhà, khiến nhà sụp đổ đè chết các con ông, chỉ một mình tôi thoát được về báo tin cho ông". Bấy giờ ông Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo trọc đầu, sấp mình xuống đất thờ lạy và thưa rằng: "Từ lòng mẹ, tôi sinh ra trần truồng, thì tôi cũng sẽ trở về đó trần truồng. Chúa ban cho, rồi Chúa lấy lại: như đẹp lòng Chúa thế nào, thì xin xảy đến như vậy: nguyện danh Chúa được chúc tụng!"

Trước mọi thảm cảnh đó, ông Gióp không hé môi xúc phạm và không thốt lời ngu dại phạm đến Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 16, 1. 2-3. 6-7

Ðáp: Xin Chúa ghé tai về bên con, và xin nghe rõ tiếng con (c. 6ab).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra từ cặp môi chân thành! - Ðáp.

2) Từ cái nhìn của Chúa hãy diễn ra sự phán quyết về con: vì mắt Ngài thấy rõ điều chân chính. Nếu Ngài lục soát lòng con, nếu ban đêm Ngài thăm viếng, nếu Ngài thử con trong lửa, Ngài sẽ không gặp điều gian ác ở nơi con. - Ðáp.

3) Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin ghé tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. Xin tỏ ra đức từ bi lạ lùng của Chúa, là Ðấng giải thoát khỏi bọn đối phương, những ai tìm nương tựa tay hữu của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 46-50

"Kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, các mộn đệ nghĩ ngợi trong lòng rằng ai trong các ông sẽ là người cao trọng nhất. Chúa Giêsu thấu biết tư tưởng trong lòng các ông, Người liền dẫn một trẻ nhỏ tới, để đứng bên cạnh Người, và bảo các ông rằng: "Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất".

Gioan lên tiếng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy một người kia lấy danh Thầy mà trừ quỷ, và chúng con đã ngăn cản nó, vì nó không theo Thầy cùng với chúng con". Chúa Giêsu bảo ông rằng: "Các con chớ ngăn cản, vì ai không chống nghịch các con, tức là thuận với các con".

Ðó là lời Chúa.

The Gospel of Luke: An Exposition (Luke 9:46-50) - Men Of The West

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Một em bé vô tư giải quyết chuyện phức tạp người lớn

 

 

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Hai Tuần XVI Thường Niên, là bài Phúc Âm tiếp ngay sau bài Phúc Âm của Thứ Bảy tuần trước liên quan đến lời Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ thân tín của Người biết lần thứ hai về cuộc vượt qua của Người. 
Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm hôm nay, bao gồm 2 đoạn trên và dưới, chúng ta thấy cả hai phần đều trùng hợp với hai bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho 2 Chúa Nhật XXV Năm B vừa rồi. Phần trên của bài Phúc Âm hôm nay, về sự kiện các tông đồ tỏ ra tranh chấp nhau về ngôi thứ, trùng với Bài Phúc Âm của Thánh Ký Marco cho Chúa Nhật XXV tuần trước, và phần dưới của bài Phúc Âm hôm nay, về sự kiện tông đồ Gioan ngăn cản một người lấy danh Thày của ngài mà trừ quỉ, trùng với Bài Phúc Âm của Thánh Ký Marco cho Chúa Nhật XXVI Năm B tuần này. 
Trong bài Phúc Âm hôm nay chúng ta thấy bản chất hết sức trần tục của các nhân vật được Chúa Giêsu cầu nguyện thâu đêm để tuyển chọn làm tông đồ của Người, ở chỗ, về nội bộ, "các mộn đệ nghĩ ngợi trong lòng rằng ai trong các ông sẽ là người cao trọng nhất", và về đối ngoại, cũng theo chiều hướng tranh chấp cố hữu ấy, các vị tỏ ra chuyên chế độc quyền khi "thấy một người kia lấy danh Thầy mà trừ quỷ...", các vị "đã ngăn cản nó, vì nó không theo Thầy cùng với chúng con".
Trước hết, về việc tranh chấp nội bộ giữa các tông đồ liên quan đến vấn đề "ai trong các ông sẽ là người cao trọng nhất", một vấn đề các vị chắc chắn biết rằng không hợp với Thày của các vị, nên các vị chỉ âm thầm với nhau mà thôi, nhưng "Chúa Giêsu thấu biết tư tưởng trong lòng các ông", và Người đã rất cảm thông với các vị, không hề khiển trách các vị gì hết, như đã thậm tệ quở trách tông đồ Phêrô đơn sơ chân thành một cách ngây thơ (xem Mathêu 16:23), trái lại, Người đã tỏ ra hết sức nhẫn nại và dịu dàng giáo huấn thành phần được Người cố ý tuyển chọn để làm chứng nhân cho Người. Bằng cách "dẫn một trẻ nhỏ tới, để đứng bên cạnh Người, và bảo các ông rằng:... kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất'".

Tại sao vậy? Tại vì chỉ khi nào các vị biết sống bé nhỏ, tức là đơn sơ dễ dạy thì các vị mới được Thiên Chúa chiếm đoạt, làm chủ và sử dụng trong việc thực hiện tất cả những gì Ngài muốn, nhờ đó, các vị mới trở thành chứng nhân đích thực của Chúa Kitô và thành chứng nhân sống động cho Người, như ý nghĩa sâu xa của lời Người khẳng định với các vị trong bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy".
Ở đây Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến tính chất "cao trọng nhất" về sự sống thần linh, về mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa, mối liên hệ với chính Người là Lời Nhập Thể Vượt Qua. Và chỉ khi nào thành phần môn đệ của Người biết sống hiệp nhất nên một với Người họ mới có thể cảm thương và phục vụ như Người, như trường hợp của chính vị lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô, vị đã phải tuyên xưng yêu Thày 3 lần mới được Thày trao phó cho sứ vụ chăn dắt phục vụ đàn chiên lớn nhỏ của Người (xem Gioan 21:15-17). Làm đầu là làm tôi tớ và làm tôi tớ tức là làm đầu là ở chỗ ấy, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Chúa Nhật XXV tuần trước: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người".
Bởi vậy, nếu có tinh thần phục vụ hơn là hưởng thụ, thành phần môn đệ của Chúa Kitô sẽ chẳng những không còn có khuynh hướng và những thái độ tranh chấp nội bộ mà còn cởi mở tiếp nhận tất cả mọi người nữa, ở chỗ, họ sẽ phản ứng theo tinh thần hợp tác như Chúa Kitô dạy: "ai không chống nghịch các con, tức là thuận với các con"
Vì ai dấn thân phục vụ không hưởng thụ thì không thể nào xuất phát từ ma quỉ kiêu căng tự phụ hay từ bản thân vị kỷ của họ, mà từ chính Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu, qua tác động của cùng Vị Thần Linh đã luôn ở cùng Đấng "đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28). 

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm nay, thành phần môn đệ của Chúa Kitô tỏ ra vẫn còn tinh thần cạnh tranh của thế gian, nên không thể nào để cho bất cứ ai hơn cá nhân mình trong nội bộ với nhau, cũng như không ai có thể hơn chính nhóm môn đệ của mình, như kẻ nhân danh Thày của các vị để trừ quỉ, khiến họ tỏ ra ghen tức và ngăn cấm kẻ lạ mặt ngoài nhóm ấy, chính là vì các vị chưa nhận biết Thày của họ, tức chưa sống đơn sơ bé nhỏ như con trẻ, do đó các vị mới vẫn tỏ ra những não trạng được phản ảnh qua các tác hành phản kitô như thế.

Trong khi đó, ở Bài Đọc 1 hôm nay, nhân vật mang tên Gíóp lại tỏ ra hoàn toàn đối ngược. Ở chỗ, nhân vật Gióp này đã có một tâm tưởng, ngôn từ và hành vi cử chỉ cùng phản ứng thật là phi thường bé mọn như con trẻ trước nhan Đấng Tối Cao, nhất là khi nhân vật Gióp được Thiên Chúa công nhận là công chính này bị Ngài bất ngờ thử thách hết sức kinh hoàng, tới độ, nhân vật ấy chẳng những đã mất hết mọi của cải giầu sang phú quí tùy thân, mà còn mất sạch hết tất cả những người con cái ruột thịt thân yêu của mình nữa. Đâu là cái bí mật siêu phàm nơi nhân vật hầu như có một không hai trên đời này như vậy, hoàn toàn khác với não trạng tranh chấp hơn thua nơi các môn đệ của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay, nếu không phải, nhân vật Gióp ấy đã không nhìn vào thử thách, mà qua thử thách, nhìn thẳng vào chính Đấng thử thách mình:

"Bấy giờ ông Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo trọc đầu, sấp mình xuống đất thờ lạy và thưa rằng: 'Từ lòng mẹ, tôi sinh ra trần truồng, thì tôi cũng sẽ trở về đó trần truồng. Chúa ban cho, rồi Chúa lấy lại: như đẹp lòng Chúa thế nào, thì xin xảy đến như vậy: nguyện danh Chúa được chúc tụng!' Trước mọi thảm cảnh đó, ông Gióp không hé môi xúc phạm và không thốt lời ngu dại phạm đến Thiên Chúa".

Nghĩa là, nhân vật Gióp công chính trong Bài Đọc 1 hôm nay đã sống bằng đức tin, vì "người công chính sống bởi đức tin" (Roma 1:17; Galata 3:11). Thánh Vịnh 16, được Giáo Hội trích dẫn một số câu trong Bài Đáp Ca hôm nay, đã gói ghém tâm trạng của thành phần công chính sống bởi đức tin, như trường hợp điển hình là nhân vật Gióp trong Bài Đọc 1 hôm nay, một mẫu gương cho những ai muốn trở thành môn đệ của Chúa Kitô, không phải là những người môn đệ còn theo khuynh hướng cạnh tranh hơn thua của thế gian, như được Thánh ký Luca thuật lại ở trong Bài Phúc Âm hôm nay:

1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra từ cặp môi chân thành!

2) Từ cái nhìn của Chúa hãy diễn ra sự phán quyết về con: vì mắt Ngài thấy rõ điều chân chính. Nếu Ngài lục soát lòng con, nếu ban đêm Ngài thăm viếng, nếu Ngài thử con trong lửa, Ngài sẽ không gặp điều gian ác ở nơi con.

3) Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin ghé tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. Xin tỏ ra đức từ bi lạ lùng của Chúa, là Ðấng giải thoát khỏi bọn đối phương, những ai tìm nương tựa tay hữu của Ngài.

 

 

 

Ngày 28/09: Thánh Venceslao, Tử đạo

Ngày 28/09: Thánh Venceslao

Thánh Venceslao cai trị Bôhêmia vào thời mà miền này mới chỉ có một phần theo Kitô giáo. Cha Ngài, ông Vratilar, là người khôn ngoan dũng cảm lương thiện, một Kitô hữu nhân đức nhưng bà Drahomira mẹ Ngài lại ngả theo lương dân. Em Ngài là Boleslao. Ludmila, bà nội của hai con trẻ, thấy rõ sự nguy hiểm cho cháu nên đã lo giáo dục Venceslao. Còn thánh Venceslao, con người có nhiều đức tính đáng phục đã đáp ứng hoàn toàn sự lo lắng của bà nội. Từ đó Ngài đã có lòng mộ mến các nhân đức, siêng năng tìm hiểu lẽ đạo để sống thành một Kitô hữu chân chính.

Chẳng may ông Vratilar từ trần trong một trận chiến. Bà Drahomira lên nắm quyền nhiếp chính. Bà độc ác và gian xảo, bà đã sát hại các Kitô hữu, triệt hạ các nhà thờ, cấm hành đạo công khai và dạy giáo lý cho trẻ em. Các Kitô hữu có chức phận bị cách chức, nhường chỗ cho lương dân.

Đau lòng vì sự dữ lan tràn, bà Ludmila thuyết phục Venceslao lên nắm quyền. Nhưng để tránh cuộc tranh chấp tương tàn, người ta chia đôi lãnh thổ, một phần trao cho Boleslaô. Lên cai trị với sự tán đồng của dân chúng, thánh Venceslaô chỉ mong cho thần dân được hạnh phúc. Ngài cai trị bằng lòng nhân từ hơn là bằng sức mạnh. Ngài lo trợ giúp mọi cô nhi quả phụ, mọi người nghèo khổ. Thỉnh thoảng trong đêm tối, Ngài vác củi đến cho người bất hạnh, Ngài phóng thích các tù nhân và tìm đến an ủi họ. Nếu phải kết án, chính Ngài đã khóc thương. Ngài luôn kính phục các Linh mục, tự trồng nho ép rượu và giúp lễ. Đêm đêm, Ngài đi chân không đến viếng các nhà thờ. Trong một cuộc hành hương như vậy, người hầu cận cho biết chân mình đã tê cóng không thể đi thêm được nữa. Thánh nhân dặn, hãy đạp lên vết chân Ngài. Anh ta đã vâng theo và cảm thấy ấm áp toàn thân.

Drahomira tức giận vì sự êm ấm trong miền Bôhêmia theo Kitô giáo. Bà quyết sát hại Ludmila, người đàn bà nhân đức làm cố vấn cho Venceslao. Hai kẻ sát nhân đã hành sự ngay dưới chân bàn thờ. Sau đó đến lượt thánh Venceslao, người mẹ ác đức đã xúi Radislas nổi loạn. Ông này tập trung một đạo quân hùng hậu đến gây chiến. Khi hai bên giáp trận, thánh Venceslao đã đơn phương độc mã lâm trận chiến như một David giáp mặt Goliath. Thế nhưng Radislas đã xin đầu hàng. Ông ta thấy thiên thần trợ chiến cho Venceslao.

Một lần phải đến tham dự một cuộc họp ở Worm theo lệnh của Hoàng đế Othon I, thánh Venceslao đã tới trễ. Ngài muốn dự hai thánh lễ. Hoàng đế bực tức vì sự chậm trễ này, quyết định sẽ không đứng dậy khi thánh nhân đến. Nhưng rồi khi Ngài tới nơi, ông bỗng đứng lên và mời ngồi bên cạnh mình. Ông cũng đã thấy hai thiên thần hộ vệ và bao phủ Ngài bằng một thánh giá vàng.

Boleslaô, theo lời khuyên của mẹ, quyết hạ sát thánh nhân, hắn lấy tình nghĩa để che lấp ý đồ đen tối của mình. Được mời tới để mừng lễ hai thánh Cosma và Đamianô, thánh Venceslao không một chút nghi ngại gì. Buổi lễ thật linh đình. Đêm sau thánh Venceslao đến nhà thờ cầu nguyện như thói quen. Boleslaô tàng hình theo sau và đã hạ sát thánh nhân ngày 28 tháng 9 năm 935. Trước cửa đền thờ, miệng khẩn cầu ơn tha thứ cho em mình. Thánh nhân từ trần trên vũng máu đào. Sau cái chết, thánh Venceslao được dân chúng tôn kính như một vị tử đạo và trở thành đấng thánh bảo trợ cho xứ Bôhêmia, nay là Czecheslavia.

Mừng lễ thánh Venceslao, xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh nhân ban cho mỗi chúng ta lòng can đảm dám sống cho sự thật và tình yêu.

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-28-09-thanh-venceslaotu-dao-50177 http://giaophanvinhlong.net/thanh-venceslao.html cả 2 đều giống hệt như nhau

 

Thánh Laurensô Ruiz

 

 

Thánh Laurensô Ruiz là vị thánh đầu tiên của Giáo hội Philippines. Ngài là gia trưởng của gia đình có ba người con. Giáo hội Philippines chọn ngài là vị thánh bảo trợ cho thanh niên Philippines và những người lao động Philippines làm việc ở nước ngoài.

Ngày lễ hôm nay dành để tôn kính một nam giáo dân gốc người Philippin. Thánh Laurensô Ruiz và 15 người bạn đã tử vì đạo để minh chứng đức tin tại Nagasaki, Nhật Bản, vào năm 1637. Sinh tại thành phố Manila, Laurensô lập gia đình và có ba người con. Ngài gia nhập với một nhóm người gồm 9 linh mục thuộc dòng Đa Minh, 2 tu sĩ và 4 giáo dân tình nguyện tới Nhật Bản rao giảng Tin mừng. Tất cả cùng liên kết với dòng Đa Minh và tất cả cùng thà hy sinh mạng sống hơn là chối bỏ niềm tin vào Đức Giêsu. Các ngài là những người nam, người nữ có quốc tịch khác nhau: Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản và Philippin. Các ngài quả thật là hình ảnh nhắc nhớ chúng ta: Giáo hội của Chúa Kitô đã lan rộng ra khắp hoàn cầu!

Các thánh tử đạo này đã chịu đau khổ nhiều trước lúc qua đời, nhưng các ngài vẫn một lòng giữ vững đức tin Công giáo. Người ta ghi nhận rằng thánh Laurensô Ruiz đã nói với các vị quan tòa xử ngài rằng: “Nếu tôi có 1000 mạng sống để dâng cho Đức Kitô, thì tôi sẽ vui mừng dâng từng mạng sống của tôi cho Người!”

Laurensô Ruiz sinh vào khoảng năm 1600 tại Binondo, Manila, Philippines, có cha là người Tây Ban Nha, mẹ là người Philippines. Từ thuở nhỏ, Laurensô Ruiz đã gia nhập ban lễ sinh của giáo xứ, khi trưởng thành là thành viên của nhóm truyền giáo dòng Đaminh.

Năm 1636, khi phụ việc trong văn phòng của họ đạo Binondo, ngài bị vu oan là đã sát hại một người Tây Ban Nha. Để khỏi bị xử tử, ngài đã cùng với các nhà truyền giáo dòng Đaminh trốn sang Nhật Bản. Tại Nhật đang có cuộc bách hại đạo, nên các ngài bị bắt khi tàu cập bến ở Okinawa. Ngày 27.9.1637, Laurensô Ruiz và những người bạn bị đưa đến Nagasaki và bị hành hạ một cách kinh khủng. Cuối cùng, các ngài bị treo ngược, với một vết cắt trên trán, chịu đau khổ từ từ cho đến chết trong một cái hố bẩn thỉu.

Trong khoảng thời gian từ 1633 đến 1637, cùng với Laurensô Ruiz, đã có 15 vị tử đạo là thành viên hoặc có liên hệ với dòng Đaminh đổ máu đào tại Nagasaki. Các ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 18.2.1981 tại Manila và tuyên thánh ngày 18.10.1987. Lễ kính các vị tử đạo được cử hành vào ngày 28 tháng 9 hằng năm.

Chúng ta hãy nài xin thánh Laurensô Ruiz và các Bạn tử đạo thôi thúc các Kitô hữu hôm nay biết trở nên những môn đệ nhiệt thành và quảng đại của Đức Chúa Giêsu. Càng học biết về đức tin bao nhiêu, chúng ta càng yêu mến và chia sẻ với tha nhân bấy nhiêu.

 

http://www.cgvdt.vn/lich-cong-giao/thanh-laurenso-ruiz-va-cac-ban-tu-dao_a7946


Thứ Ba

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) G 3, 1-3. 11-17. 20-23

"Tại sao ban sự sáng cho kẻ khốn cực?"

Trích sách ông Gióp.

Gióp mở miệng nguyền rủa ngày mình sinh ra và nói rằng: "Hãy biến đi, ngày tôi đã sinh ra, và đêm có lời phán: 'Con người chịu thai'. Tại sao tôi không chết trong lòng mẹ? Tại sao tôi không tắt thở ngay khi mới sinh ra? Tại sao có đầu gối đỡ lấy tôi và có vú cho tôi bú?

"Chẳng như vậy thì bây giờ tôi được ngủ yên, và an nghỉ trong giấc điệp làm một với các vua chúa, với các quan quyền trên mặt đất, là những kẻ xây cất cho mình những lăng tẩm thanh vắng, hay là cùng với các công hầu lắm vàng nhiều bạc chất đầy nhà. Sao tôi không giống như thai sảo được giấu đi, để tôi không còn sống, hoặc như các trẻ không được xem thấy sự sáng. Nơi ấy kẻ hung ác hết khuấy phá, và kẻ mỏi mệt được yên nghỉ.

"Tại sao ban sự sáng cho kẻ khốn cực, và ban sự sống cho những kẻ phải cay đắng trong tâm hồn? Những kẻ ấy mong chết mà lại không được chết, họ như những người đào mỏ tìm vàng. Khi họ tìm thấy nấm mồ, họ vui mừng hớn hở. Người chẳng tìm được lối đi, thì Thiên Chúa lấy sự tối tăm vây bọc nó tư bề".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 87, 2-3. 4-5. 6. 7-8

Ðáp: Nguyện cho lời con cầu thấu đến tai Chúa (c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, ban ngày con kêu van, ban đêm con than thở trước thiên nhan Ngài. Nguyện cho lời con cầu thấu đến tai Chúa, xin Chúa lắng tai nghe tiếng con kêu. - Ðáp.

2) Vì tâm hồn con đau khổ ê chề, và mạng sống con đã gần kề âm phủ. Con bị liệt vào số những kẻ đang bước xuống mồ, con đã trở nên như người tàn phế. - Ðáp.

3) Giường nằm của con kề những người đã chết, như giường của người bị giết nằm trong nấm mồ, họ là những người mà Chúa không còn nhớ tới, và họ không còn được Ngài săn sóc yêu thương. - Ðáp.

4) Ngài đã đặt con trong lỗ huyệt sâu, trong nơi u tối, trong vực thẳm. Cơn giận Chúa đè nặng trên người con, và Chúa vùi lấp con dưới sóng cả ba đào. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 18, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, giới răn Chúa làm hoan lạc tâm can, mệnh lệnh Chúa sáng soi con mắt. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 51-56

"Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người. Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?" Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: "Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta". Và các Ngài đi tới một làng khác.

Ðó là lời Chúa.

 

Jesus appears to Apost - Catholicireland.netCatholicireland.net

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mà cũng có lúc dữ dội như con cái sấm sét vậy


Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXVI Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh ký Luca lại liên quan đến vị tông đồ được Chúa Giêsu yêu là Thánh Gioan lần nữa, lần này không phải chỉ riêng ngài mà còn bao gồm cả người anh Giacôbê của ngài.

Thật vậy, từ Galilêa thuộc miền bắc nước Do Thái, muốn lên Giêrusalem là thủ đô cũng chính là giáo đô của dân Do Thái ở Giuđêa thuộc miền nam của đất nước này, phải đi qua miền trung là Samaria. Đáng lẽ, theo địa dư phải nói là đi "xuống" Giêrusalem, vì từ bắc xuống nam, nhưng ở đây lại nói đi "lên" Giêrusalem, vì Giêrusalem là giáo đô của Do Thái giáo, tất cả mọi tín đồ đều phải hướng về và tiến "lên" nơi Thiên Chúa ngự này.

Thánh ký Luca đã ghi lại cuộc hành trình băng qua Samaria trung phần này của Chúa Giêsu: "Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem", nhưng vị thánh ký còn thêm: "và sai những người đưa tin đi trước Người". 

Chúng ta không biết lý do tại sao Chúa Giêsu lại "sai những người đưa tin đi trước Người" như vậy để làm gì, chắc chỉ để dọn đường cho Người về mặt tinh thần mà thôi, chứ không phải tìm nơi trú ngụ cho thày trò của Người. Chắc cũng không phải vì Người sợ lộ chân tướng là "Đức Kitô" của Người, một thực tại thần linh vô cùng tế nhị liên quan đến cả tôn giáo lẫn chính trị bấy giờ, nên Người vẫn cấm không cho các môn đệ của Người nói ra. Mà có thể cũng là để thăm dò xem "dân chúng bảo Thày là ai?", như vấn đề được Người đặt ra trong bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước. Nhưng đúng nhất có thể là vì Người muốn âm thầm kín đáo lên Giêrusalem, nơi Người đã tiên báo 2 lần rằng ở đó sẽ xẩy ra cuộc vượt qua của Người, như Thánh ký Gioan (7:1-10) thuật lại trong đoạn Phúc Âm của ngài là đoạn dường như có liên quan đến bài Phúc Âm của Thánh Luca hôm nay:
"Sau đó, Đức Giêsu thường đi lại trong miền Galilê; thật vậy, Người không muốn đi lại trong miền Giuđê, vì người Do-thái tìm giết Người. Lễ Lều của người Do-thái gần tới, anh em Đức Giêsu nói với Người: 'Thày hãy bỏ đây mà sang miền Giuđê đi, để cả môn đệ của Thày cũng được nhìn thấy những việc Thày làm, vì không ai muốn nổi danh mà lại hoạt động âm thầm cả. Nếu Thày làm những việc ấy, thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ biết'. Thật thế, anh em Người không tin vào Người. Đức Giêsu nói với họ: 'Thời của tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng thuận tiện. Thế gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét, vì tôi làm chứng rằng các việc nó làm thì xấu xa. Các anh cứ lên dự lễ đi; còn tôi, tôi không lên dự lễ này, vì thời của tôi chưa chín muồi'. Nói thế rồi, Người ở lại miền Ga-li-lê. Tuy nhiên, khi anh em Người đã lên dự lễ, thì chính Người cũng lên, nhưng không công khai và hầu như bí mật".
"Những người đưa tin đi trước Người" ấy, tuy không được Thánh ký Luca xác định là ai, nhưng chắc không ai khác ngoài các tông đồ môn đệ của Chúa Kitô, trong đó có hai anh em Gioan và Giacôbê. Mục đích đi trước của các vị là gì, nếu không phải là "để chuẩn bị mọi sự cho Người", bao gồm cả miền trung Samaria là miền đất được người Do Thái cho là đã bị lai căng về về cả huyết thống lẫn tôn giáo giữa dân Do Thái chính tông và dân ngoại, xẩy ra từ thời lưu đầy của dân này. Do đó, dân Samaria hầu như bị tuyệt thông với chính ngạch Do Thái giáo ở Giêrusalem, cho dù họ cũng có cùng một niềm trông đợi Đấng Thiên Sai một cách chính thống Thánh Kinh như những người Do Thái khác ở Giuđêa hay ở Galilêa. 

Thế nhưng, Đấng Thiên Sai của dân Do Thái ấy là ai, như thế nào, hầu hết họ, (ngoại trừ người phụ nữ cùng dân làng của chị đã được diễm hạnh gặp Người một lần duy nhất ở bờ giếng Gia cóp - xem Gioan 4:28-30,39-42), có thể chưa bao giờ gặp Người hay có gặp cũng chẳng biết Người là ai. Bởi thế, chẳng lạ gì họ tỏ thái độ không nghênh đón Người khi phái đoàn của Người đến với họ, với lý do chính yếu đó là "bởi Người đi lên Giêrusalem". 

Tuy nhiên, thái độ của dân xứ Samaria này lại làm phật lòng hai trong ba môn đệ thân cận nhất của Chúa Giêsu, hai vị thừa biết Thày mình là ai, "là Đức Kitô của Thiên Chúa", như tông đồ Phêrô tuyên xưng trong Bài Phúc Âm Thánh Luca Thứ Sáu tuần trước, một Đấng cao trọng đầy quyền uy như thế mà dân này không chịu nghênh đón thì thật là lếu láo, phạm thượng, đáng chết. 

Nóng mặt lên, điên tiết lên, hoàn toàn vì Thày, "hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?'" Thế nhưng, như tông đồ Phêrô, cho dù có được một niềm tin chính xác về căn tính của Thày mình là Đức Kitô, các vị tông đồ vẫn chưa nắm bắt được chính tinh thần của Người, chưa nhận diện được chân dung lưỡng diện của Người, một chân dung hết sức từ bi nhân hậu của Người, nên vẫn vấp phạm vì Người, vẫn bị Người thậm tệ quở trách, lần này Người "quay lại quở trách" hai người môn đệ nhiệt tình với Người nhưng lại tỏ ra hung dữ tàn bạo với dân chúng: "Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta".

Thân phận Chúa Kitô bị thành phần dân ngoại lai Samaritano, ở một khu làng kia, đã không chịu tiếp rước Người, nghĩa là họ đã cố tình hất hủi loại trừ Người, một hành động và cách đối xử hoàn toàn bất xứng với danh phận vô cùng cao cả của Người, như chung dân Do Thái đều biết, nhất là các môn đệ của Người nhận biết, nên đã khiến cho 2 trong 3 người môn đệ thân tín nhất của Người nổi khùng lên.

Thế nhưng, dầu sao, tự thái độ coi thường và loại trừ này của một khu dân làng Samaritano nào đó trong Bài Phúc Âm hôm nay, có thể nói, mới báo trước và phản ảnh phần nào thân phận của một "Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" bị khổ nạn và tử giá (xem Mathêu 16:16,21), bị chính các môn đệ của mình, nhất là bị chính Cha là Đấng đã sai Người, bỏ rơi hất hủi, một số phận vô cùng bất hạnh và khốn nạn nhất trên trần gian này trong suốt giòng lịch sử của loài người, một thân phận có thể được phản ảnh phần nào nơi tiền thân của Người là nhân vật Gióp trong Bài Đọc 1 hôm nay, một con người công chính, nhưng lại chính vì công chính mà trở thành một nạn nhân bị đầy đọa bỏ rơi, đến độ, theo bản tính tự nhiên loài người, đã không thể không có những cảm xúc kinh hoàng tủi thân, như được Bài Đọc 1 ghi nhận như sau:

"Hãy biến đi, ngày tôi đã sinh ra, và đêm có lời phán: 'Con người chịu thai'. Tại sao tôi không chết trong lòng mẹ? Tại sao tôi không tắt thở ngay khi mới sinh ra? Tại sao có đầu gối đỡ lấy tôi và có vú cho tôi bú?... Sao tôi không giống như thai sảo được giấu đi, để tôi không còn sống, hoặc như các trẻ không được xem thấy sự sáng. Nơi ấy kẻ hung ác hết khuấy phá, và kẻ mỏi mệt được yên nghỉ... Tại sao ban sự sáng cho kẻ khốn cực, và ban sự sống cho những kẻ phải cay đắng trong tâm hồn? Những kẻ ấy mong chết mà lại không được chết, họ như những người đào mỏ tìm vàng. Khi họ tìm thấy nấm mồ, họ vui mừng hớn hở. Người chẳng tìm được lối đi, thì Thiên Chúa lấy sự tối tăm vây bọc nó tư bề".


Tâm trạng trong Bài Đáp Ca hôm nay, được một số câu trong Thánh Vịnh 87 diễn tả, như Giáo Hội cố ý trích dẫn cho phụng vụ lời Chúa hôm nay, thật là đúng với tất cả những ai như nhân vật Gióp trong Bài Đọc 1 hôm nay, và những câu ấy như những lời tiên báo về một "Đức Kitô, Con Thiên Chúa" sẽ trải qua khổ nạn và tử giá vì phần rỗi của chung nhân loại:

1) Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, ban ngày con kêu van, ban đêm con than thở trước thiên nhan Ngài. Nguyện cho lời con cầu thấu đến tai Chúa, xin Chúa lắng tai nghe tiếng con kêu.

2) Vì tâm hồn con đau khổ ê chề, và mạng sống con đã gần kề âm phủ. Con bị liệt vào số những kẻ đang bước xuống mồ, con đã trở nên như người tàn phế.

3) Giường nằm của con kề những người đã chết, như giường của người bị giết nằm trong nấm mồ, họ là những người mà Chúa không còn nhớ tới, và họ không còn được Ngài săn sóc yêu thương.

4) Ngài đã đặt con trong lỗ huyệt sâu, trong nơi u tối, trong vực thẳm. Cơn giận Chúa đè nặng trên người con, và Chúa vùi lấp con dưới sóng cả ba đào.

 

 

 

BA TỔNG THẦN MINH-KHA, GA-BIÊN VÀ RA-PHIÊN

(29/9)

 

9/29 Feast Day of the Archangels St. Michael, St. Gabriel, and St. Raphael  – LUISA PICCARRETA

 

Bài Ðọc I: Ðn 7, 9-10. 13-14

"Muôn muôn vàn kẻ chầu chực Người".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Tôi chăm chú nhìn mãi cho đến khi đặt xong các toà, và vị Bô Lão lên ngự trên toà; áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tinh tuyền như lông chiên, toà của Người như ngọn lửa, các bánh xe như lửa cháy. Trước mặt Người có con sông lửa cuồn cuộn chảy như thác. Có hằng ngàn kẻ phụng sự Người và muôn muôn vàn kẻ chầu chực Người: Người ngự toà xét xử và các quyển sách đã được mở ra.

Trong một thị kiến ban đêm, tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi nhìn thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc. Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài: Quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ.

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc: Kh 12, 7-12

"Michael và các thiên thần của ngài giao chiến với con Rồng".

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.

Ðã xảy ra có đại chiến trên trời: Michael và các thiên thần của Ngài giao chiến với con Rồng. Con Rồng và các thiên thần phe nó nghinh chiến. Nhưng nó không có sức cự lại; chỗ của chúng không còn gặp thấy trên trời. Và nó bị xô nhào xuống, con Rồng lớn, con Rắn thái sơ, gọi là quỷ hay Satan, kẻ mê hoặc toàn thể thiên hạ. Nó đã bị xô nhào xuống đất, và các thiên thần phe nó cũng bị xô nhào xuống làm một với nó.

Và tôi đã nghe có tiếng lớn trên trời rằng: "Nay đã thành sự: toàn thắng, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta, và quyền bính của Ðức Kitô của Người, vì nó đã bị xô nhào xuống, kẻ cáo tội anh em ta, kẻ tố cáo họ ngày đêm trước nhan Thiên Chúa. Và họ đã thắng được nó nhờ máu Chiên Con, và nhờ lời đoan chứng của họ, họ đã không ham sống sợ chết. Vì lẽ ấy, hãy hân hoan, hỡi các tầng trời, và các người ở nơi ấy!"

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 137, 1-2a. 2bc-3. 4-5

Ðáp: Lạy Chúa, trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa (c. 1c).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa, con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. - Ðáp.

2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa nhậm lời con; Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, các vua địa cầu sẽ ca ngợi Chúa, khi họ nghe những lời miệng Chúa phán ra; và họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: "Thực vinh quang của Chúa lớn lao!" - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 102, 21

Alleluia, alleluia! - Hãy chúc tụng Chúa đi, chư binh toàn thể, chư vị thần hạ thừa hành ý muốn của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 1, 47-51

"Các ngươi sẽ thấy các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông rằng: "Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối". Nathanaen đáp: "Sao Ngài biết tôi?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Nathanael thưa lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel". Chúa Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin. Ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa". Và Người nói với ông: "Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".

Ðó là lời Chúa.

Câu ca khúc nhạc vang ngân
Mừng hàng tổng lãnh thiên thần hiển dương,
Toà cao rực rỡ thiên đường,
Triều thần Vua Cả cao sang lẫy lừng.

Nguyện xin thủ lãnh oai phong,
Mi-ca-en chính tướng hùng thiên binh,
Chúng tôi thân phận mỏng manh,
Ngài giơ tay hữu uy linh giữ gìn.

Xin thiên sứ Gáp-ri-en,
Chúa Cha tuyển chọn loan tin cứu đời,
Xin ngài dẫn dắt chúng tôi
Quang minh chính đại đường đời vững chân.

Ra-pha-en hỡi sứ thần,
Chúng tôi lữ khách tay chân rã rời,
Ngài cho thần dược hôm mai,
Hồn an xác mạnh đường dài quản chi.

Hỡi đoàn thiên sứ quang huy,
Kính xin che chở phù trì chúng tôi,
Một mai đoàn tụ quê trời,
Cùng nhau hưởng phúc an vui vô ngần.

Dâng lời ca tụng tri ân
Chúa Cha, Thánh Tử, Thánh Thần quang vinh,
Ba Ngôi một Chúa nhân lành,
Thiên thu vạn đại đồng thanh hát mừng.

Hỡi Ánh Sáng, hỡi quyền năng Thánh Phụ,
Ôi Giê-su là nguồn mạch tình thương,
Muôn cung đàn hoà điệu hát du dương,
Xin dâng Chúa trước triều thần hiện diện.

Và giờ đây, lời tán dương trìu mến,
Kính mừng đoàn tổng thiên sứ oai phong,
Cảm phục riêng đấng đánh bại Con Rồng,
Ôi vô địch Mi-ca-en dũng tướng !

Tâu Vua Cả, xin cử người ngự xuống
Đuổi ác thù cho mất dạng ngày đêm,
Để chúng con cả hồn xác tinh tuyền
Được ban thưởng thiên đàng ơn trọng hậu.

Lời vinh tụng xen tiếng đàn hoà tấu,
Kính dâng Cha cùng Thánh Tử Thánh Thần
Là Ba Ngôi một Thiên Chúa từ nhân
Hằng hiển trị tới muôn đời muôn kiếp.

 

Lược sử

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Tổng lãnh Thiên thần Micae, Gabrie và Raphae, đây là tên tuổi của ba vị Thiên thần đã được Thánh Kinh nhắc đến nhiều lần, và khi nói đến các Thiên thần là nói đến vô số. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác quyết với các môn đệ của Ngài về sự hiện hữu của các Thiên thần, đây chính là mầu nhiệm gắn liền với những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Khi tự tỏ bày cho loài người, Thiên Chúa cũng một trật mạc khải cho chúng ta thế giới của các Thiên thần.

Và thuật ngữ Thánh kinh dùng để gọi các Thiên thần đều có nghĩa là “sứ giả”; theo thư Do thái 1,14, các Thiên thần là những thần linh phục vụ cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa sai họ đến với những người cần được cứu giúp.

Cựu Ước cũng gọi họ là “Các Thánh” hay là “những người con của Thiên Chúa”. Nổi bật nhất giữa các Thiên thần là các đấng Micae, Kêrubim và Sêraphim (số ít là Kêrub và Seraf). Vài đấng được gọi tên là:

 - Micae, có nghĩa: “Ai ví bằng Thiên Chúa
 - Gabriel, có nghĩa: “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hay là “Anh hùng của Thiên Chúa”.
 - Raphae, có nghĩa: “Thiên Chúa cứu giúp”.

Thánh lễ hôm nay bắt nguồn từ lễ thánh hiến Đền thờ Micae trên đường Via Salaria ở Rôma. Ngày hôm nay cùng với Tổng lãnh Thiên thần Micae, Hội Thánh cũng mừng chung hai Tổng lãnh Thiên thần Gabrie và Raphae, theo lịch xưa, các Ngài được mừng vào những ngày 24-03 và 24-10. (Lm. Nguyễn Văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

Phân tích

Thánh Kinh cách chung và Tân Ước cách riêng nói tương đối ít về các Thiên thần. Trong đoạn Tin Mừng này chỉ có một câu “Các Thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người”. Đây là lấy lại hình ảnh chiếc thang Giacóp, như một nhịp cầu nối trời và đất, Thiên Chúa và loài người. Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh này vào bản thân Ngài: “Ngài cũng là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người”. Các Thiên thần góp phần tích cực vào sứ mạng trung gian ấy.

Suy niệm

1. Micae là tổng lãnh tất cả các Thiên thần. Ngài đã lãnh đạo các thiên thần khác chiến đấu với Luxiphe. Nhắc tới Ngài là người ta nhớ lại câu Ngài nói “Ai bằng Thiên Chúa?”.

Xin Thánh Thiên thần Micae trợ lực để chúng con chiến đấu và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ. Xin Ngài luôn nhắc chúng con biết đặt Thiên Chúa ở vị trí cao cả nhất trong cuộc đời chúng con.

2. Gabrie là Thiên thần truyền tin (Lc 1,19: Truyền tin cho ông Dacaria ; Lc 1,26: truyền tin cho Đức Mẹ). Ngài tuân lệnh Thiên Chúa mang sứ điệp Thiên Chúa đến cho loài người.

Xin Thánh Thiên thần Gabriel giúp con mau mắn đón nhận những sứ điệp Chúa gởi đến chúng con và mau mắn thưa lời “Xin vâng” như Đức Mẹ.

3. Raphae là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới được vợ hiền và chữa được bệnh cho cha già. Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, Ngài cho biết thêm là Ngài luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa.

Xin Thánh Thiên thần Raphael là bạn đồng hành của chúng con trong cuộc hành trình dương thế nhiều cạm bẫy. Xin Ngài nhắc nhở chúng con làm việc thiện, vì luôn biết rằng từng việc thiện âm thầm nhỏ bé cũng là những làn hương thơm tho bay lên toà Thiên Chúa.

4. Mầm khác: “Thiên đàng trong cuộc sống

Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ngài là ông thánh nhỏ.

Ngày nọ, đang lúc ngài đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một Thiên thần hiện ra và nói:

- “Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến”.

Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:

- “Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?”

Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.

Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:

- “Đây ngài xem, cỏ dại mọc đẩy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?”.

Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.

Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra. Lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài”.

Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ và nói: “Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo Ngài về thiên quốc”.

Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói: “Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu?”

Nguyện xin các Thiên thần nhất là Thiên thần bản mệnh của mỗi người luôn nhắc nhở ta, để ta luôn tiến bước trong tin yêu và hy vọng nơi Thiên Chúa là tình yêu.

http://tinmung.net/CACTHANH/_CacThanh/_Thang09/Cac-Tong-Than/SuyNiem/LeKinhCacTongThan2.htm

 

Các tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en, Ra-pha-en và Gáp-ri-en

Trích bài giảng của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, về Tin Mừng.

Nên biết rằng “thiên sứ” là danh từ chỉ chức vụ chứ không chỉ bản tính, bởi các thánh thiên thần ở trên trời bao giờ cũng là thiên thần, nhưng không phải bao giờ cũng được gọi là “thiên sứ”. Các vị ấy chỉ là “thiên sứ” khi được sai đi loan báo một điều gì thôi. Các vị loan báo điều nhỏ thì gọi là “thiên sứ”, còn vị nào loan báo điều lớn thì gọi là “tổng lãnh thiên sứ”.

Quả thế, không phải bất cứ “thiên sứ” nào cũng được sai đến với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, mà phải là tổng lãnh thiên sứ Gáp-ri-en, vì một thiên sứ cao cả đến loan báo một việc hệ trọng thì thật là chính đáng. Người ta cũng biết đến một số vị nhờ các tên riêng, để thấy được công việc của các ngài qua những danh xưng đó. Trong thành thánh trên trời, nơi tri thức đạt tới mức hoàn hảo nhờ ơn hưởng kiến Thiên Chúa toàn năng thì không cần có tên riêng, vì đâu phải không có tên mà ngôi vị các ngài không được biết đến. Nhưng chỉ khi nào đến với chúng ta để thi hành một tác vụ, thì ở giữa chúng ta các ngài mới mang tên gọi liên quan đến tác vụ đó. Vì thế, Mi-ca-en có nghĩa là “ai bằng Thiên Chúa”, Gáp-ri-en có nghĩa là “sức mạnh của Thiên Chúa” và Ra-pha-en có nghĩa là “linh dược của Thiên Chúa”.

Mỗi khi có việc cần đến sức mạnh diệu kỳ, thì đức Mi-ca-en được phái tới, để nhờ hành động và danh hiệu của người, chúng ta hiểu được rằng không ai làm nổi việc mà chỉ có Thiên Chúa mới làm được. Bởi vậy, vì kiêu ngạo, kẻ cựu thù kia đã muốn nên giống Thiên Chúa, khi dám nói : “Ta sẽ lên trời, ta sẽ dựng ngai vàng của ta trên cả các vì sao của Thiên Chúa... ta sẽ nên như Đấng Tối Cao.” Trong ngày tận thế, lúc còn được thi thố sức mạnh của mình, trước khi chịu khổ hình đời đời kiếp kiếp, nó sẽ giao chiến với tổng lãnh thiên sứ Mi-ca-en, như lời thánh Gio-an nói : Có cuộc giao chiến với tổng lãnh thiên sứ Mi-ca-en.

Cũng thế, thiên sứ Gáp-ri-en mệnh danh là “sức mạnh của Thiên Chúa” được sai đến với Đức Ma-ri-a làm sứ giả loan báo Đấng đoái thương xuất hiện như một kẻ hèn mọn để chiến đấu chống những quyền lực trên không. Vậy phải nhờ “sức mạnh của Thiên Chúa” mà loan báo Đấng là Đức Chúa nắm giữ quyền lực và oai hùng khi xuất trận sắp ngự đến.

Như đã nói, thiên sứ Ra-pha-en cũng được giải nghĩa là “linh dược của Thiên Chúa”, vì khi người chạm tới đôi mắt của ông Tô-bi-a như làm công việc chữa bệnh, thì người xua tan bóng tối là sự mù loà. Vậy, gọi đấng được sai đến để chữa lành là “linh dược của Thiên Chúa”, thì thật là đích đáng.

Các thiên thần luôn hầu cận trước tôn nhan Chúa, và đồng thanh chúc tụng Người. Vậy chúng ta hãy hợp lời ca ngợi và tung hô :

Hợp cùng các thiên thần,
chúng con xin dâng lời ca ngợi Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã truyền cho các thiên sứ hằng gìn giữ chúng con trên khắp nẻo đường, - xin cho chúng con ngày hôm nay luôn bước đi trong đường lối Chúa, để không bao giờ phải vấp ngã.

Hợp cùng các thiên thần,
chúng con xin dâng lời ca ngợi Chúa.

Các thiên thần hộ thủ chúng con hằng chiêm ngưỡng Chúa, - xin cho chúng con cũng tha thiết tìm kiếm Thánh Nhan.

Hợp cùng các thiên thần,
chúng con xin dâng lời ca ngợi Chúa.

Mai kia khi được vào thiên quốc, con cái Chúa sẽ như thiên thần, - giờ đây xin gìn giữ chúng con được xác hồn trong trắng.

Hợp cùng các thiên thần,
chúng con xin dâng lời ca ngợi Chúa.

Xin sai phái tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en đến trợ giúp chúng con, - để chiến đấu chống lại mọi mưu thâm chước độc của ác thần.

Hợp cùng các thiên thần,
chúng con xin dâng lời ca ngợi Chúa.

Lạy Chúa là Đấng thượng trí vô song, Chúa đã muốn cho thiên thần và người thế cộng tác vào chương trình cứu độ, xin cho các thiên thần đang phục vụ Chúa trên trời cũng luôn luôn phù hộ chúng con ở dưới đất. Chúng con cầu xin

 

 


Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) G 9, 1-12. 14-16

"Con người so sánh với Thiên Chúa đâu đáng được kể là người công chính".

Trích sách ông Gióp.

Ông Gióp trả lời cùng các bạn hữu rằng: "Tôi biết thật như vậy, và biết thật con người so sánh với Thiên Chúa đâu đáng được kể là người công chính. Nếu con người muốn cãi lẽ với Chúa, thì một nghìn điều, nó không thể đáp lại một. Chúa thượng trí và quyền năng, ai đối địch với Chúa mà được bằng yên? Chúa xê dịch các núi đồi, và trong cơn thịnh nộ Người đánh đổ những kẻ không biết điều. Chúa khiến địa cầu chuyển động khỏi chỗ của nó, và các cột đất đều phải lung lay. Chúa truyền khiến mặt trời, thì nó không mọc lên, và Người cũng phong niêm các ngôi sao tinh tú. Chỉ một mình Chúa trải các tầng trời và bước đi trên sóng biển. Chúa tạo dựng sao bắc đẩu, sao sâm, sao mão và cung kín phương nam. Chúa tác tạo những điều trọng đại, mầu nhiệm và kỳ diệu không kể xiết.

Nếu Chúa đến cùng tôi, thì tôi không trông thấy Người, và nếu Người ra đi, tôi cũng chẳng hay biết. Nếu Chúa bất chợt hỏi han, thì ai trả lời Người cho được? Hoặc ai có thể hỏi rằng: "Tại sao Chúa làm như thế?" Vậy tôi là gì mà dám trả lời với Chúa và dùng lời mà nói với Người? Dù tôi có lẽ công chính, tôi cũng không dám trả lời, một van nài cùng Ðấng phán xét tôi. Khi Chúa nhậm lời tôi kêu cầu, tôi cũng không chắc Người nghe lời tôi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 87, 10bc-11. 12-13. 14-15

Ðáp: Lạy Chúa, nguyện cho lời con cầu thấu đến tai Chúa (c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con kêu lên Chúa mọi ngày, và con giang tay hướng về phía Chúa. Phải chăng Chúa còn làm những điều kỳ diệu cho người đã thác, hoặc giả những người chết sẽ sống lại và ngợi khen Ngài? - Ðáp.

2) Phải chăng người ta còn kể lại lòng nhân hậu Chúa trong mồ, và lòng trung thành Ngài trong nơi âm phủ? Những việc kỳ diệu của Chúa còn thấy được trong chỗ tối tăm, và ân sủng của Ngài trong nơi quên lãng? - Ðáp.

3) Phần con, lạy Chúa, con kêu lên Chúa, và tự bình minh lời nguyện của con sẽ tới tai Ngài. Lạy Chúa, nhân sao Chúa ghét bỏ linh hồn con, nhân sao Chúa ẩn mặt xa khuất khỏi con? - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 8ab

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, những giới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời, được ban hành một cách chân thành và đoan chính. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 57-62

"Dù Thầy đi đâu, tôi cũng theo Thầy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, đang lúc Chúa Giêsu và các môn đệ đi đường, thì có kẻ thưa người rằng: "Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy". Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu". Người bảo một kẻ khác rằng: "Hãy theo Ta". Người ấy thưa: "Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã". Nhưng Người đáp: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa". Một người khác thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã". Nhưng Chúa Giêsu đáp: "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Catholic.net - Costly Christ

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Đồng Hành lên Giêrusalem với Chúa Kitô không phải là chuyện dễ và hào hứng như một chuyến hành hương!

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Tư Tuần XXVI hôm nay tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, bài Phúc Âm về cuộc hành trình của Chúa Giêsu bắt đầu tiến về Giêrusalem là đích điểm cho cuộc hành trình tỏ mình ra của Người với vai trò là Đấng Thiên Sai Cứu Thế. 

Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại 3 trường hợp liên quan đến việc theo Người, Đấng đang tiến về Giêrusalem. Trong 3 trường hợp liên quan đến việc theo Người trong bài Phúc Âm hôm nay, trường hợp 1 và 3 là do con người tình nguyện, còn trường hợp 2 do chính Người kêu gọi. 

Trường hợp tình nguyện xin theo theo Người thứ 1: "Khi ấy, đang lúc Chúa Giêsu và các môn đệ đi đường, thì có kẻ thưa người rằng: 'Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy'. Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: 'Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu'". 

Trường hợp được Người kêu gọi đi theo Người: "Người bảo một kẻ khác rằng: 'Hãy theo Ta'. Người ấy thưa: 'Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã'. Nhưng Người đáp: 'Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa'".

Trường hợp tình nguyện xin theo Người thứ 2: "Một người khác thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã'. Nhưng Chúa Giêsu đáp: 'Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa'".

Trường hợp tình nguyện xin theo theo Người thứ 1 gián tiếp liên quan đến chính cuộc hành trình về Giêrusalem của Chúa - "Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy". Trường hợp sau đó được Người kêu gọi đi theo Người cũng dính dáng đến Hành Trình Giêrusalem của Người, vì chính trong cuộc hành trình này mà Người đã kêu gọi một người nào đó rằng: "Hãy theo Ta". Trường hợp tình nguyện viên xin theo Người thứ 2 cũng có thể liên quan đến Hành Trình Giêrusalem của Người, vì tình nguyện viên này có thể biết được điểm đến của Người là Giêrusalem nên đã hứa "tôi sẽ theo Thầy".

Không biết trường hợp của 2 tình nguyện viên muốn theo Người có biết Hành Trình Giêrusalem của Người như thế nào hay chăng, một cuộc Hành Trình Vượt Qua chung kết của Người, rất kinh hoàng khủng khiếp đến độ chính các môn đệ tông đồ của Người đã từng theo Người cũng bị tan tác như chiên không người chăn? Hay là họ tưởng rằng với tiếng tăm lừng lẫy của Người, như họ đã từng được nghe về Người, Người sẽ được dân chúng nghênh đón một cách long trọng vinh quang như là một vị anh hùng của dân tộc, nhờ đó thành phần theo Người như họ cũng được nở mày nở mặt và được hưởng ké vinh quang của Người.

Có thể vì thế, biết được ước nguyện ngấm ngầm của họ như vậy mà Chúa Giêsu đã cảnh báo cho họ biết trước những gian nan khốn khó họ phải chịu trong việc theo Người, những gì Người chẳng bao giờ đề cập tới khi kêu gọi các tông đồ của Người trước đó. Chúng ta không biết 2 tình nguyện viên này, bao gồm cả kẻ được Người kêu gọi, phản ứng ra sao sau khi nghe thấy những gì Người nói với họ về trường hợp của mỗi người trong họ.

Thế nhưng, căn cứ vào 3 câu nói này của Chúa Kitô liên quan đến việc theo Người, chúng ta thấy rõ ràng là có 3 điều kiện bất khả thiếu để có thể theo Chúa Kitô nhất là trong cuộc Hành Trình Giêrusalem trọng đại của Người, đó là: 1- tin tưởng dù không biết đi đâu - ở trường hợp của tình nguyện viên thứ nhất: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu"; 2- dấn thân theo đuổi lý tưởng - ở trường hợp của người được Người kêu gọi theo Người: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa"; 3- trung thành không luyến tiếc trần gian - ở trường hợp của tình nguyện viên thứ hai: "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa".

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, 3 con người nào đó ngỏ ý muốn theo Chúa Giêsu, đang khi Người hành trình lên Giêrusalem, bề ngoài, có vẻ là một cuộc dấn thân, một chọn lựa khôn ngoan, cho dù là khôn ngoan một cách ngấm ngầm theo khuynh hướng trần gian hưởng lợi cho bản thân họ. Tuy nhiên, khi họ nghe thấy những điều kiện bất thường, không theo bản tính tự nhiên, lại còn ngược lại, hay nói đúng hơn, vượt lên trên tất cả những gì là tầm thường và lòng mong ước tự nhiên, được Chúa Giêsu bảo cho từng người trong họ, tùy từng trường hợp mỗi người, biết thì phản ứng của họ ra sao, không thấy được Phúc Âm thuật lại. Có thể là họ đều rút lui, hay ngược lại, có thể là một hay tất cả họ vẫn cứ giữ vững lập trường.

Dầu sao, những gì Chúa Kitô nêu lên hay đòi hỏi 3 con người tự động ngỏ ý muốn theo Người trong Bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy những gì khác biệt giữa hai lãnh vực tự nhiên nơi con người ta và lãnh vực siêu nhiên từ Chúa Giêsu. Và đó là lý do chúng ta thấy được những cảm nhận chí lý của nhân vật Gióp, đã nỗ lực sống công chính trước nhan Thiên Chúa, những cảm nhận được nhân vật này bày tỏ trong Bài Đọc 1 hôm nay, về mức độ chênh lệch giữa tâm tưởng và tình trạng của loài người với của Thiên Chúa, như sau:

"Ông Gióp trả lời cùng các bạn hữu rằng: 'Tôi biết thật như vậy, và biết thật con người so sánh với Thiên Chúa đâu đáng được kể là người công chính. Nếu con người muốn cãi lẽ với Chúa, thì một nghìn điều, nó không thể đáp lại một. Chúa thượng trí và quyền năng, ai đối địch với Chúa mà được bằng yên? ... Nếu Chúa đến cùng tôi, thì tôi không trông thấy Người, và nếu Người ra đi, tôi cũng chẳng hay biết. Nếu Chúa bất chợt hỏi han, thì ai trả lời Người cho được? Hoặc ai có thể hỏi rằng: 'Tại sao Chúa làm như thế?' Vậy tôi là gì mà dám trả lời với Chúa và dùng lời mà nói với Người? Dù tôi có lẽ công chính, tôi cũng không dám trả lời, một van nài cùng Ðấng phán xét tôi. Khi Chúa nhậm lời tôi kêu cầu, tôi cũng không chắc Người nghe lời tôi".


Chính vì thế mà con người mới luôn cần phải kêu cầu cùng Thiên Chúa với tất cả lòng tin tưởng vào Ngài, cho dù thân phận của mình có thế nào chăng nữa, cho dù mình có không hiểu được hết tất cả những gì Thiên Chúa quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan thực hiện nơi mình hay để xẩy ra cho mình, thậm chí như hất hủi bỏ rơi mình, như tâm tưởng của một số câu trong Thánh Vịnh 87 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Lạy Chúa, con kêu lên Chúa mọi ngày, và con giang tay hướng về phía Chúa. Phải chăng Chúa còn làm những điều kỳ diệu cho người đã thác, hoặc giả những người chết sẽ sống lại và ngợi khen Ngài?

2) Phải chăng người ta còn kể lại lòng nhân hậu Chúa trong mồ, và lòng trung thành Ngài trong nơi âm phủ? Những việc kỳ diệu của Chúa còn thấy được trong chỗ tối tăm, và ân sủng của Ngài trong nơi quên lãng?

3) Phần con, lạy Chúa, con kêu lên Chúa, và tự bình minh lời nguyện của con sẽ tới tai Ngài. Lạy Chúa, nhân sao Chúa ghét bỏ linh hồn con, nhân sao Chúa ẩn mặt xa khuất khỏi con?

 

 

 

 

Ngày 30 tháng 9

Thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Thánh nhân sinh quãng năm 340 tại Xơ-tri-đôn, Đan-ma-xi-a. Người đến Rô-ma học văn chương và đã lãnh bí tích Thánh Tẩy tại đó. Người sang Đông Phương và làm linh mục. Trở lại Rô-ma, người làm thư ký cho đức giáo hoàng Đa-ma-xô. Thời gian này, người bắt đầu dịch Sách Thánh sang tiếng La-tinh và cổ võ nếp sống đan tu. Nhưng nhất là người đã sống ba mươi lăm năm cuối đời ở Bê-lem, gần cái hang nơi Đức Giê-su ra đời. Ở đây, người cầu nguyện hãm mình, chăm chỉ nghiên cứu, dịch và chú giải Kinh Thánh. Người qua đời ở Bê-lem năm 420.

 

St. Jerome, Doctor of the Church - My Catholic Life!


 

 

  1. Thánh Giêrônimô: Tiểu sử

Thánh Giêronimô qua đời tại Bethléem ngày 30 tháng chín năm 419 hoặc 420. Lễ kính ngài đã khá phổ biến ở Gaule trong thế kỷ VIII, sau đó lan khắp phương Tây (thế kỷ IX – X).

Giêrônimô hay “Eusebius Hieronimus Sophronius” sinh khoảng năm 340 tại Stridon, gần trên giới Nam Tư, trong một gia đình Kitô giáo, sung túc. Đến Rôma, Giêronimô theo học trường của nhà tu từ nổi tiếng Donatius và vì rất mê say văn chương cổ điển, Giêronimô có công tìm kiếm và mua sắm nhiều sách rất quí giá, và đã tạo cho mình một thư viện phong phú. Lúc học ở Roma, Giêrônimô sống hơi buông thả một chút nhưng lúc nào cũng giữ được lòng kính sợ Thiên Chúa. Được Đức Giáo Hoàng Libère (352-366) rửa tội cho. Sau khi học xong, Giêrônimô có đi một vòng qua nước Pháp đến thành Trèves. Giêronimô lưu lại Trèves ít lâu, sau đó tới Aquilée; tại đây Giêronimô có ấn tượng về lòng đạo đức của các giáo sĩ thành phố.

Khoảng năm 372, Giêronimô sang phương Đông, và ở luôn tại Antioche trong xứ Syria, nhưng khi ngài đến Antiochia thì ngã bệnh. Thời gian ở đây đánh dấu một bước ngoặc rất quan trọng trong việc hình thành ơn gọi nơi ngài. Ngài đã được chịu chức linh mục tại đây. Một đêm kia người mơ thấy Chúa hiện ra với mình. Trong bức thư (nổi tiếng) gửi Eustochium, Giêronimô kể lại trường hợp lương tâm Kitô giáo của ông bị mê hoặc theo văn chương đời, vì, trong một thị kiến, Thiên Chúa xét xử đã nói với Giêronimô rằng:

- Giêrônimô, con là ai vậy ?

Ngài trả lời:

- Con là con của Chúa, con là người có đạo.

Chúa trả lời lại:

- Nói láo! Phải nói con là của Cicêrô mới đúng.

Giêrônimô hiểu là ý Chúa muốn trách mình quá say mê Cicêrô - Cicêrô vừa là một nhà văn vừa là một nhà hùng biện rất nổi tiếng ở Roma - nên Giêrônimô quyết tâm sửa mình lại.

Ngay sau đó Giêrônimô bắt đầu học tiếng Hy lạp và Do thái với một mục đích duy nhất để có đủ khả năng dịch sánh Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp ra tiếng Latinh.

Lúc bấy giờ Giêronimô rút vào hoang mạc Chalcis (Syria), nơi đây có nhiều nhà khổ tu; tại đây ông học tiếng Hêbrơ. Sau đó ông trở lại Antiochia, thụ phong linh mục, rồi đến Constantinôppôli (380-381), tiếp tục học khoa chú giải với thánh Apollinaire de Laodicée và thánh Grégoire de Naziance, dịch các bài giảng của Origène từ tiếng Hy Lạp và cuốn Chronique của Eusèbe de Césarée.

Ngài trở lại Constantinople vào khoảng năm 380, ở lại đó vài năm, có thể ngài đã thụ huấn với thánh Grégoire de Nazianze, vì chúng ta thấy ngài gọi thánh nhân là “Thầy tôi”. Ngài đã không đề cập gì đến Công Đồng Constantinôpôli vào năm 381, mặc dầu đây là Công Ðồng hết sức quan trọng đối với Ðông phương, minh định Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha. Ngài khởi sự công việc dịch thuật với các bản văn của Eusèbe và Origène.

Năm 382, ngài tháp tùng Đức Giám Mục Paulin và Épiphane de Salamine tới Rôma dự Công Ðồng do hoàng đế Tây phương là Gratien triệu tập. Ðức Giáo Hoàng Damase (366 – 384), một người có những tham vọng lớn đối với Roma, đã biết tận dụng năng lực của ngài, chọn ngài làm thư ký, giao nhiệm vụ quản lý văn khố và thủ thư, đề nghị ngài duyệt lại bản văn Kinh Thánh Latinh dùng trong phụng vụ, Phúc Âm, Thánh vịnh. Giêrônimô ủng hộ Ðức Giáo Hoàng trong việc chống lại các đồ đệ của Lucifer de Cagliari, một người “bài-Ariô” bảo thủ, không nhận định rõ về nhân tính của Chúa Giêsu, và chống Helvidius, kẻ công kích sự đồng trinh vĩnh viễn của Ðức Maria cách khá thô tục. Và cũng chính ở đây mà Ngài đã bắt đầu một công trình có một tầm vóc hết sức quan trọng cho Giáo hội: Ngài bắt đầu dịch Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp sang tiếng Latinh.

Đồng thời, Ngài làm linh hướng cho nhiều phu nhân trong giới quí tộc như Marcella, một góa phụ được nhiều người săn đón và Asella con gái bà; Paula, một góa phụ khác rất mộ đạo, cùng với các con gái; Blésilla, khá lịch thiệp; Estochium, con người khổ hạnh và Paulina người lấy nghị viên Pammachius. Giêrônimô vị linh hướng của họ, khai tâm cho họ về Kinh Thánh, bàn luận về tiếng Hipri trong các bức thư gửi cho Marcella. Bù lại, ngài nhận được cơ man là quà tặng. Một bên có Ðức Giáo Hoàng Damse, một bên có các gia đình Rôma quyền quí, kẻ lãng du của Chúa đạt tới đỉnh cao trên con đường nhập thế của mình. Ngài thổ lộ với Asella: “Hầu như mọi người đều nghĩ và quyết rằng cha xứng đáng với ngôi Giáo Hoàng”. Tuy nhiên, những mối quan hệ này không phải là không gặp những đối nghịch, chỉ trích. “Tòa án của biệt phái, những kẻ giả đạo đức” thậm chí còn khởi tố ngài.

Ở Roma được một thời gian, có lẽ vì cảm thấy Roma không phải là chỗ thích hợp cho công việc quá đặc biệt này cho nên Ngài đã trở lại xứ Palestine, vào sống một cuộc đời thầm lặng trong một tu viện ở Belem. Ngài sống tại đây suốt 34 năm trời... vừa tiếp tục học hỏi, tra cứu thêm để phục vụ Chúa trong các tác phẩm chống lạc giáo và nhất là để hoàn thành việc chuyển ngữ toàn bộ bộ Kinh Thánh sang tiếng Latinh.

Sau này chính Công Đồng Triđentinô đã tu sửa bản dịch này và đến nay vẫn được coi là văn bản chính thức của Giáo hội Công giáo Rôma.

Ngài là bạn rất thân của thánh Augustino. Chính thánh Augustinô cũng đã có nhiều lần nhắc đến Ngài như một người bạn và như một bậc thầy.

Theo cuốn niên sử ông Prosper thì thánh Giêrônimô qua đời quãng năm 420, hưởng thọ 92 tuổi tại Bethlehem.

Mặc dầu qua đời ở Palestina vào thời hỗn chiến, thánh Giêrônimô đã được toàn thể thế giới công giáo tôn sùng ngay từ mấy năm sau khi ngài tạ thế. Ở Rôma, người ta kính thánh nhân đặc biệt tại Đại Giáo Đường Đức Bà Cả. Dưới đời Đức Giáo Hoàng Bônifaciô VIII (1294-1303), thánh nhân được suy tôn bậc tiến sĩ ngang hàng với thánh Grêgôriô cả, thánh Âutinh và thánh Ambrôsiô, tức bốn vị giáo phụ ở Tây phương.

2- Thánh Giêrônimô: Ở Bêlem

Và rồi, năm 384, Ðức Giáo Hoàng Đamasô qua đời (11-12-384), cả Blésilla cũng chết, có lẽ vì chay tịnh quá sức theo lời khuyên của ngài. Vào tháng 8 năm 385, để tránh chống đối, Ngài rời Rôma, thành Babylon tội lỗi, nơi mà ngài hẳn đã trở thành kẻ ít được ai ưa, nhưng ngài ra đi với một chương trình: dịch thuật Kinh Thánh sẽ là công việc chính yếu của ngài. Bằng cách đi qua Antiokia và Alexanđria, ngài tới Bêlem vào năm 386.

Ngài ra đi về Ðông phương cùng với em trai là Paulinien, trong khi đó Paula, đóa hoa tươi đẹp trong những người bạn Rôma của ngài và nhất là Eustochium, con gái bà, cùng với một số đan sĩ cũng đến Ðông phương qua ngã khác. Ngài  du hành qua Palestine và Ai Cập. Lúc đó Rufin bạn xưa của ngài đang ở tại Jérusalem, gần chỗ bà Mélanie l’ Ancienne, một phụ nữ Rôma khác thuộc gia đình quí tộc, hết sức giàu có, đã đem tiền của thiết lập một liên – đan viện tại đồi Cây Dầu, được con gái bà là Mélanie nhỏ, con bà, biến thành nổi tiếng.

Năm 386, Giêrônimô chọn ở lại Bêlem. Gia tài của Paula được xử dụng để xây ba nữ đan viện, phân chia theo giai cấp xã hội, trong khi đó, ngài xây một nam đan viện. Một cách nào đó ngài là đan viện phụ, còn Paulinien em ngài làm quản lý. Với những tài liệu nghiên cứu Kinh Thánh mang theo, Ngài chuyên cần giảng dạy, nhất là Kinh Thánh, làm việc rất nhiều và tranh cãi cũng lắm. Ngài tranh cãi với Rufin và Jean de Jérusalem “Kẻ ngạo mạn nhất trong số các Giám mục”, về bản văn và sự chính thống của Origène, tranh luận với Jovinien về sự đồng trinh và chay tịnh, và một lần nữa tranh luận với Vigilantuis về các thánh tích và về cơ chế đan tu . Những mối ác cảm của ngài còn ầm ỉ hơn cả những tình bạn của ngài, những mối thân hữu đó đang dần dần mất đi: Paula, Marcella và cuối cùng là Eustochium lần lượt qua đời.

Chính tại Bêlem, thánh nhân có thể toàn tâm toàn ý hoàn tất bản dịch Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp (bản Septuaginta) và từ Hebreu (phần lớn Cựu ước). Trong các tác phẩm lịch sử của thánh nhân, ngoài các tác phẩm khác, có thể kể De viris illustribus (Những con người lừng danh) là bản tổng kết quí báu bốn thế kỷ văn chương Kitô giáo. Cũng cần nhắc đến lượng thư từ đồ sộ ngài viết, từ mẫu giấy nhỏ đến cả thiên luận thuyết quan trọng, hiện giờ chúng ta còn lưu giữ được trên một trăm hai mươi thư.

Giêronimô cũng là một nhà bút chiến dữ dội và đáng gờm. Năm 383, ngài từng phản bác Helpidius phủ nhận sự đồng trinh trọn đời của Đức Maria. Sau đó, Ngài tấn công Vigilance để bênh vực việc tôn kính các vị tử đạo và một số tập quán trong đời tu dòng. Trong cuộc tranh luận lâu dài về Origène (393-402), thánh Giêronimô chống lại Rufin và Jean, Giám mục Jérusalem. Những năm cuối đời ngài gặp nhiều chuyện buồn: Các đồ đệ và bạn hữu qua đời; quân man di xâm chiếm, đốt phá các tu viện.

Việc Rôma bị xâm chiếm năm 410 là cái tang không kém phần đau đớn đối với ngài, một người luôn ý thức mình là dân Latinh và là kẻ rất say mê Kinh Thánh. Ít lâu sau, chính nơi lưu ngụ của ngài cũng bị quân Sarrasins đe dọa, và đan viện của ngài đã bị phái Pêlagiô thiêu hủy.

Cuối cùng, ngày 30 tháng 9 năm 419, ngài qua đời ở Belem, thọ tám mươi tuổi. Belem là nơi ngài từng lao động trí tuệ và đền tội suốt ba mươi lăm năm cuối đời.

Thánh Giêronimô là một trong những vị thánh thường được nhiều ảnh tượng Công giáo ghi khắc, khi là một hối nhân nơi hoang mạc (Lorenzo Lotto, Louvre; Rubens, Dresde; Van Dyck, Dresde; L.Giordano, Madrid …), khi là một tiến sĩ Hội Thánh hay một Hồng y, đôi khi có thêm một con sư tử mà ngài từng nhổ cái gai ở chân cho (Durer, Petit Palais, Paris).

 Công trình lớn của ngài là duyệt xét có phê phán bộ Kinh Thánh đã dịch sang tiếng Latinh (Bản Vulgata) và giải thích trong bộ chú giải. Bản Vulgata [có nghĩa là bản Kinh Thánh phổ thông] dựa trên những bản dịch Latinh cổ (Vetus Itala), nhưng cũng dựa trên các bản gốc bằng tiếng Do Thái và Hy Lạp. Bản này được xem là bản dịch chính thức của Giáo hội Công giáo và sẽ được công nhận là bản đích thực có giá trị, do Công Đồng Trente năm 1546.

3- Thánh Giêrônimô: Tự Thú

Sau đây chúng ta ghi lại một số nhân xét đáng lưu ý của thánh nhân về chính bản thân của ngài:

MỘT TỬ THI MÀ “LỬA DỤC LẠC VẪN SÔI SỤC” TRONG CON NGƯỜI.

Tại nơi cô tịch, trong cảnh ẩn tu, Ngài viết: “Ôi đã bao nhiêu lần, tôi, kẻ đã ở trong sa mạc, trong cõi cô tịch mênh mông cháy bỏng ánh mặt trời, nơi ở hãi hùng dành cho các đan sĩ thế mà cứ ngỡ đang hòa mình giữa những lạc thú của Rôma. Tôi ngồi, đơn độc, bởi nỗi đắng cay đã xâm chiếm toàn thân. Các chi thể dị dạng của tôi đều thô sần cả lên. Da dẻ dơ bẩn giống như nước da tồi tàn của một tên hắc chủng. Ngày nào cũng khóc, ngày nào cũng than! Mỗi lần giấc ngủ ập đến, dù đã chống chọi, thì xương cốt tôi gần như rời rã, va đập xuống nền đất trần không. Về thức ăn, của uống, tôi chẳng nói làm gì: ngay cả những người bệnh cũng chỉ dùng nước lạnh, nhận một đĩa đồ nóng đã là quá đáng. Ô vậy mà tôi, phải, chính tôi, kẻ vì sợ hỏa ngục đã tự đày đọa, giam hãm mình trong một ngục tù khổ sở đến thế, chẳng có bạn bè nào khác ngoài bò cạp và thú dữ. Tôi lại thường xuyên ngỡ mình đang tham dự những buổi khiêu vũ của các cô thiếu nữ. Chay tịnh làm mặt tôi tái nhợt, thân xác giá băng nhưng ngọn lửa dục vọng lại thiêu đốt lòng trí. Trước mặt kẻ khốn khổ này, một kẻ đã trở thành xác chết hơn là một thân xác sống động chỉ còn những đám lửa khoái lạc là sục sôi.

Không còn gì để nương cậy, tôi nằm dài dưới chân Giêsu, lấy nước mắt tưới đẫm chân Ngài, lấy tóc mình mà lau. Xác thịt có nổi loạn thì tôi chế ngự nó bằng chay tịnh trong nhiều tuần lễ. Tôi không hổ nhục vì nỗi bất hạnh của mình, đúng hơn tôi than khóc vì không còn được như thuở ấy. Tôi còn nhớ: Tôi thường kêu van suốt cả ngày đêm và chỉ ngừng đấm ngực vật vã khi đã bình tâm lại trước những đe dọa của Thầy Chí Thánh.” (Thư 22, 7 gửi Eustochium, CUF, 1949,p. 117 – 118, trad. J. Labourt.)

ÐÊM TỐI CỦA GIÊRÔNIMÔ : CUỘC TRỞ VỀ VỚI KINH THÁNH.

Ðã từ lâu lắm, vì Nước Trời, tôi từ bỏ cha mẹ, chị em, họ hàng và gay go hơn nữa, từ bỏ thói ăn sung mặc sướng; tôi đi Giêrusalem chiến đấu vì Ðức Kitô. Nhưng đối với thư viện mà tôi khổ công xây dựng ở Rôma, thì tôi không thể bỏ qua nổi. Thật khốn khổ! Trước khi đọc Cicéron là tôi ăn chay kiêng cữ, nhiều đêm nằm thức trắng nhớ lại tội lỗi ngày xưa mà lòng ứa trào nước mắt. Sau đó tôi lại cầm nhà thi sĩ Plaute đọc! Nếu hồi tâm lại, bắt đầu đọc một tiên tri thì thứ ngôn ngữ bán khai đó lại làm tôi kinh hãi. Ðôi mắt mù lòa khiến tôi không nhìn thấy ánh sáng. Ấy thế mà thay vì kết tội chính đôi mắt mình tôi lại kết tội mặt trời. Con rắn thái sơ (tức ma quỉ) đã phỉnh phờ tôi như vậy đó.

Vào khoảng giữa mùa Chay, cơn sốt len vào tận nơi sâu thẳm nhất của con người tôi, xâm chiếm thân xác kiệt quệ của tôi, không để yên một giây phút và, thật khó tin nổi, nó tiêu hủy chi thể tôi đến mức chỉ còn da bọc lấy xương. Trong khi đó, người ta chuẩn bị tang lễ cho tôi vì toàn thân tôi đã giá lạnh, sự sống, hơi nóng, hơi thở chỉ còn phập phồng nơi khoảnh ngực còn ấm. Ðột nhiên, tôi ngất trí. Kia là tòa án của vị Thần phán, người ta đang điệu tôi đến đó. Người ta cật vấn tôi là ai, tôi trả lời: “Tôi là Kitô hữu”. Nhưng vị ngồi trên tòa phán: “Ngươi nói dối, ngươi là kẻ theo Cicéron, ngươi không phải là Kitô hữu”, “kho tàng ngươi ở đâu thì lòng ngươi ở đó”.

Lập tức tôi trở nên câm lặng. So với những đòn roi, vì Ngài ra lệnh cho người ta đánh tôi, thì sự dày vò của lương tâm còn gây vết hằn đau gấp bội. Tôi tự nhủ: “Nhưng trong âm phủ ai sẽ ca tụng Ngài?”, nhưng rồi tôi bắt đầu kêu khóc, lặp đi lặp lại: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Lời kêu xin vang lên giữa những làn roi, cuối cùng, những người tham dự quì mọp dưới chân vị chủ tọa van xin Ngài gia ân cho chàng thanh niên trẻ tuổi là tôi đây, cho tôi được thống hối lỗi lầm; nếu sau này tôi lại đọc văn chương ngoại giáo thì sẽ phải chịu hình phạt xứng đáng. Phần tôi, lâm vào thế cùng, tôi sẵn sàng đoan hứa nhiều hơn thế nữa. Vậy là tôi bắt đầu thề, lấy Danh Ngài làm chứng, tôi nói: “Lạy Chúa, nếu bao giờ con có những tác phẩm đời, hay nếu con đọc chúng thì như là con chối Chúa vậy”. Sau khi đã thốt lên lời thề đó, người ta thả tôi ra, và này tôi trở về trần thế. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, tôi mở mắt ra. Mắt tôi đẫm lệ đến nỗi những người hoài nghi nhất cũng nhận thức nỗi đau đớn của tôi. Ðó không phải là giấc ngủ, cũng chẳng phải là cơn mộng mị hão huyền thường lừa dối chúng ta. Bằng chứng là phiên tòa mà tôi bị điệu đến, bằng chứng là cuộc phán xét thật kinh khiếp – ước gì đừng bao giờ tôi phải chịu sự tra hỏi như thế – vai tôi đã sưng phù và tôi còn cảm giác về những vết thương khi thức giấc. Từ đó, tôi đọc sách Thánh một cách chuyên chú hơn so với ngày xưa khi tôi đọc sách của người phàm. (Lettre 22, 30, A Eustochium, ibid, p. 144 – 146.)

4- Thánh Giêrônimô: Mô phạm

1. Dám hy sinh vì Chúa.

Bỏ cả sở thích riêng của mình. Khi được Chúa "cảnh cáo" dù chỉ là trong một giấc mơ, Giêrônimô đã sửa lại lỗi lầm của mình ngay. Đây là một điều rất khó nhưng Giêrônimô đã làm được.

Hy sinh cả cuộc đời cho Lời của Chúa. Chúng ta hãy cứ tưởng tượng xem một công trình lớn - là công trình chuyển ngữ Kinh Thánh tử tiếng Hy Lạp sang tiếng La tinh- như vậy mà hầu như chỉ có một mình ngài thực hiện thì thời giờ và công sức phải bỏ ra lớn đến mức độ như thế nào.

Để có một chút so sánh thì chúng ta hãy nhìn vào Giáo hội Việt Nam của chúng ta. Giáo hội công giáo Việt Nam đã tạm gọi là đã có hơn 4 thế kỷ nay. Vậy mà chỉ mới đây chúng ta mới có một tin vui là nhóm PhụngVụ Giờ Kinh cho ra đời trọn bộ Kinh Thánh bằng tiếng Việt đầu tiên. Trước đây đã có một số bản những bản này có quá nhiều hạn chế và thiếu sai sót.

Phải đợi nhiều năm trời Giáo Hội Việt Nam mới có được bộ Kinh Thánh có tầm cỡ và xứng đáng như thế.

Vậy mà một mình Thánh Giêrônimô đã làm được công việc vĩ đại đó. Giáo hội dùng bản dịch của Ngài suốt từ thời đó cho đến nay. Điều đó đã tự khẳng định về tầm quan trọng và chỗ đứng cũa nó trong lịch sử Giáo hội.

2. Tiếp đến Thánh Giêrônimô đã biết chọn thật đúng nhu cầu của Giáo hội và đã làm hết sức mình để đáp ứng lại nhu cầu đó.

Vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, người ta đã thấy thời đại của văn hóa Hy lạp đang suy tàn và thời đại văn minh Tây phương đi lên.

Phải nói Giêrônimô là một con người rất thức thời. Hiểu được những nhu cầu của Giáo hội và đáp ứng lại một cách hết sức tốt đẹp. Đây là bài học chung cho cả Giáo hội. Công đồng Vaticanô khi cho chuyển ngữ các bàn văn Phụng vụ bằng tiếng Latinh sang tiến địa phương cũng nhắm chiều hướng này.

Hơn nữa ngày từ năm 1933 dưới triều Đức Giáo Hoàng Piô XI mà thánh Giêrônimô đã nghi đến việc phát động phong trào nghiên cứu và tìm hiểu Kinh thánh thì phải coi đây là sáng kiến và công việc hết sức mới mẻ mà mãi về sau Giáo Hội mới thấy sự cấn thiết của công việc này. Bởi vậy, khi nhắc đến huân công và thiên tài dịch bộ Kinh Thánh của ngài, giáo sư M.J. Lagrange, một nhà nghiên cứu và chú giải Thánh kinh nổi tiếng của Giáo Hội hôm nay đã viết rằng: “Đó là một trong những sự nghiệp đáng thán phục nhất của trí óc nhân loại”

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp các tài liệu của Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB và Giuse Đinh Tất Quý

5- Thánh Giêrônimô: Huấn dụ

 

 

Trích lời tựa sách chú giải ngôn sứ I-sai-a của thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục. (Phụng Vụ Giờ Kinh Sách - Bài đọc 2)

 

Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô

 

 

Vâng lệnh Đức Ki-tô truyền : Hãy nghiên cứu Kinh Thánh  cứ tìm thì sẽ thấy, giờ đây tôi trả món nợ tôi mắc, kẻo phải cùng với người Do-thái nghe lời sau đây : Các ông lầm vì không biết Kinh Thánh cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả vậy, nếu Đức Ki-tô là quyền năng và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa như thánh Phao-lô tông đồ nói, thì ai không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô.

Bởi thế, tôi sẽ bắt chước chủ nhà kia lấy ra từ kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ và bắt chước vị hôn thê nói trong sách Diễm ca : Từ đầu mùa cho đến cuối mùa, em dành hết cho anh, hỡi người em yêu dấu. Vậy tôi trình bày sách I-sai-a để cho thấy tác giả không chỉ là ngôn sứ nhưng còn là người loan báo tin mừng và là tông đồ nữa. Quả thật, chính ông đã nói về mình và về các sứ giả khác cũng loan báo tin mừng : Đẹp thay bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an. Thiên Chúa cũng nói với ông như nói với một vị tông đồ : Ta sẽ sai ai đây ? Ai sẽ đi đến với dân này ? Và ông thưa : Dạ, con đây, xin sai con đi.

Xin đừng ai nghĩ rằng tôi muốn tóm gọn nội dung cuốn sách này trong một bài giảng ngắn, vì cuốn Sách Thánh này chứa toàn bộ những điều bí nhiệm về Chúa. Sách tiên báo Đấng Em-ma-nu-en sinh bởi Đức Trinh Nữ, Đấng làm những việc lẫy lừng và những dấu lạ, Đấng đã chết, được mai táng và đã từ âm phủ trỗi dậy : Người là Đấng cứu độ muôn dân. Tôi nói gì được về môn vật lý, luân lý và luận lý ? Tất cả những gì thuộc Sách Thánh, những gì miệng con người có thể nói ra, giác quan có thể cảm nhận, đều được chứa trong sách ấy. Về những mầu nhiệm trong sách đó, thì chính tác giả làm chứng như sau : Đối với các ngươi, thị kiến toàn là những lời ghi trong sách niêm phong. Người ta trao sách cho kẻ biết đọc và bảo : “Đọc đi !” Nhưng hắn nói : “Đọc sao được, sách đã niêm phong rồi !” Lại đưa sách cho kẻ không biết đọc và nói : “Đọc đi !” Hắn liền bảo : “Tôi nào đâu biết chữ !”

Nếu ai thấy điều nói trên là chưa đủ thì hãy nghe thánh Phao-lô tông đồ nói : Về các ngôn sứ, chỉ nên có hai hoặc ba người lên tiếng thôi, còn những người khác thì phân định. Nếu có ai ngồi đó được ơn mặc khải, thì người đang nói phải im đi. Vì lý do gì họ có thể im được, bởi lẽ nói hay im là việc của Thánh Thần nói qua các ngôn sứ ? Vậy, nếu họ hiểu được những điều họ nói, thì tất cả những điều đó đều là khôn ngoan và hợp lý ; không phải là tiếng nói chuyển qua không khí đập vào tai họ, nhưng là tiếng Thiên Chúa nói trong tâm hồn các ngôn sứ, theo lời một ngôn sứ khác như sau : Thần sứ đang nói với tôi  Chúng ta được kêu lên trong lòng “Áp-ba, Cha ơi”, lại nữa Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán.

 

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh linh mục Giê-rô-ni-mô trí thông hiểu và lòng mến yêu Kinh Thánh, xin cho chúng con hằng thiết tha tìm đến lời Chúa là nguồn mạch ban sức sống dồi dào. Chúng con cầu xin

 

 

 

Thứ Năm Tuần Thánh 18/4/2019, nhân chuyến Hành Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua 12 ngày 12-22/4/2019,

Nhóm TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương), nhân kính viếng Hang Belem ở Nhà Thờ Giáng Sinh,

đã ghé viếng cả hang động Thánh Giêrônimô ở hầm Nhà Thờ Thánh Catarina Alexandria Tử Đạo.

 

                                                     Từ cửa phía bắc của Nhà Thờ Giáng Sinh, khách hành hương bước ngay vào Nhà Thờ Thánh Catarina thành Alexandria

Nhà Thờ Thánh Caterina này là nhà thờ Công giáo của cộng đoàn tín hữu Công giáo ở Belem,

nơi hằng năm phát hình Thánh Lễ Giáng Sinh Đêm khắp thế giới

                                                          Tiến vào nhà thờ này để xuống Hang Động Thánh Giêrônimô, vị Thánh Giáo Phụ Tiến Sĩ Hội Thánh về Thánh Kinh

Thánh Giêrônimô ở hang động này để chuyển dịch Thánh Kinh từ tiếng Hy Lạp và Do Thái sang tiếng Latinh,

trong thời khoảng từ 386 đến năm 404. Và bản dịch của ngài là bản dịch được Giáo Hội coi là bản dịch chính thức của mình và gọi là Bản Vulgata.

Ngoài ra, ngài còn diễn giải Thánh Kinh một cách rất kỹ lưỡng đâu vào đó nữa.

Ngài là vị thánh học giả thánh kinh uyên bác và tiên khởi của thế giới Kitô giáo,

nên được tôn kính bởi tất cả các Giáo Hội Kitô giáo (Công giáo và Chính Thống) và giáo phái Kitô giáo (Anh giáo và Tin Lành)

  

Thật ra Thánh Giêrônimô là một nhà trí thức tìm kiếm chân lý và đã trở lại Kitô giáo như Thánh Âu Quốc Tinh vậy.

Ở Roma, ngài được quen biết bởi một số phụ nữ thế giá và học thức,

như các bà góa Lea, Marcella và Paula cùng với 2 con gái của bà Paula là Blaesilla và Eustochium.

Vào Tháng 8/385, ngài rời Roma và cuối cùng ở Thánh Địa với em trai của mình là Paulinian cùng Paula và Eustochium.

(Trong 4 nhân vật 2 nữ và 2 nam trong hình trên đây, nhân vật có hình sáng là Thánh Jeronimo)

 

 


Thứ Năm


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) G 19, 21-27

"Tôi biết rằng Ðấng Cứu Chuộc tôi hằng sống".

Trích sách ông Gióp.

Ông Gióp nói: "Hỡi các bạn hữu của tôi, ít ra các anh cũng thương xót tôi, thương xót tôi, vì tay Chúa chạm đến tôi. Tại sao các anh như Thiên Chúa bắt bớ hành hạ tôi vậy, và tại sao các anh no chán thịt tôi? Có ai ghi chép giùm lời tôi, có ai viết nó vào sách, dùng bút sắt ghi trên lá chì, hay dùng đục chạm vào đá?

"Vì tôi biết rằng Ðấng Cứu Chuộc tôi hằng sống và ngày sau hết tôi sẽ từ bụi đất sống lại, da sẽ bọc lại thân tôi, và trong xác thịt, tôi sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tôi. Chính tôi sẽ nhìn thấy Người và mắt tôi sẽ trông thấy, chớ không phải ai khác: niềm hy vọng ấy đã chất chứa trong lòng tôi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 7-8a. 8b-9abc. 13-14

Ðáp: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: "Hãy tìm ra mắt Chúa". - Ðáp.

2) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong thịnh nộ, Chúa là Ðấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con. - Ðáp.

3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Pr 1, 25

Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 10, 1-12

"Sự bằng an của các con sẽ đến trên người ấy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.

"Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: "Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi". Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: "Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần". Thầy bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".

Ðó là lời Chúa.

 

Christ sending out the seventy disciples two by two by James Tissot | Life  of jesus christ, Biblical art, Catholic mass readings

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Dù part time như môn đệ hay full Time như tông đồ đều được sai đi

 


Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXVI Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh ký Luca tiếp tục bài Phúc Âm hôm qua thuật lại về Hành Trình Giêrusalem của Chúa Giêsu.
Trong cuộc hành trình này, như bài Phúc Âm hôm qua cho biết, xẩy ra 3 trường hợp liên quan đến việc theo Chúa Kitô. Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại sự kiện "Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới".
Chúng ta không biết được rằng trong số 72 người nữa này nơi thành phần môn đệ của Chúa Kitô có 3 người ở bài Phúc Âm hôm qua hay chăng, trong đó có 2 người tình nguyện theo Chúa và 1 người được Người kêu gọi. Và chúng ta cũng không biết được rằng thành phần 72 môn đệ này có thường trực ở với Người như 12 tông đồ hay chăng, hay tùy họ muốn theo sát Người hay chăng theo hoàn cảnh của họ. Thay vì full time như các tông đồ thì chỉ part time thôi.
Có thể là không, bằng không thì cũng mệt cho các nữ môn đệ của Người lắm trong việc phục dịch hằng ngày của các bà các chị (xem Phúc Âm Thứ Sáu Tuần XXIV Thường Niên - Luca 8:2-3). Vả lại, phái đoàn đông đảo của Chúa Giêsu gần cả trăm người (12 tông đồ + 72 nam môn đệ + 3 nữ môn đệ + "nhiều người khác nữa hỗ trợ các vị bằng phương tiện của mình" - Luca 8:3đi đâu cũng bất tiện, cũng rầm rộ, cũng phiền phức, không hợp với tính cách âm thầm của Chúa Giêsu. 
Nhưng có thể biết được lý do chính yếu mà Người đã phải chọn thêm 72 người môn đệ nữa là vì: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người". Có một điều không thể bỏ qua ở đây là cùng với Thánh ký Mathêu và Thánh ký Marco, Thánh ký Luca có thuật lại về cuộc truyền giáo của 12 tông đồ ở đầu đoạn 9, như ngài thuật lại về cuộc truyền giáo của 72 môn đệ ở đầu đoạn 10 trong bài Phúc Âm hôm nay. 
Sở dĩ Giáo Hội không chọn đọc đoạn Phúc Âm của Thánh ký Luca về sự kiện 12 tông đồ được sai đi truyền giáo là vì Giáo Hội đã chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô về cùng một sự kiện này ở Thứ Năm Tuần Thứ IV Thường Niên, cũng như đã chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cũng sự kiện này ở Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên. 
So sánh với cuộc truyền giáo của 72 môn đệ trong bài Phúc Âm hôm nay và cuộc truyền giáo của 12 tông đồ ở đầu đoạn 9 cùng Phúc Âm Thánh ký Luca, chúng ta thấy mấy điểm khác nhau chính yếu sau đây: 
1- Không thấy nói Chúa Kitô chính thức ban quyền trừ quỉ và chữa lành cho 72 môn đệ này, như Người đã làm điều ấy cho 12 tông đồ, dù sau cuộc truyền giáo trở về các môn đệ cũng thuật lại cho Người biết rằng họ đã nhân danh Người mà khu trừ được ma quỉ (xem Luca 10:17). Quyền trừ quỉ bởi thế mới thuộc quyền các vị thừa kế các tông đồ là các vị giám mục, mà nếu cần các vị giám mục có thể chỉ định một linh mục nào đó làm việc này thay ngài.
2- Không thấy nói Chúa Giêsu sai các tông đồ đi rao giảng từng cặp như Người sai 72 môn đệ đi từng 2 người một trong bài Phúc Âm hôm nay. Chắc vì thế đã trở thành thói quen cho thành phần môn đệ, như trường hợp 2 môn đệ cùng nhau đi về làng Emmau (xem Luca 24:13), trong đó có một người tên là "Cleopas" (Luca 24:18). Tuy nhiên, nhóm 12 tông đồ cũng có 1 cặp luôn đi với nhau sau biến cố Chúa Kitô phục sinh và thăng thiên, đó là cặp Tông Đồ Phêrô và Gioan (xem Gioan 20:1-10; 21:20-23; Tông Vụ 3:1-10, 4:1-22).
3- Không thấy nói Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi rao giảng về chủ đề gì như chủ đề được các tông đồ ra đi loan báo là "Triều đại Thiên Chúa" (Luca 9:2), nhưng mục đích của các môn đệ được sai đi là để "gặt lúa của Người", tức là để làm cho những gì đã được các vị tiên tri trong Cựu Ước (nhất là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả) gieo vãi nơi dân chúng về một Đấng đến sau, Đấng Thiên Sai, được dân chúng nhận biết và chấp nhận, như dân chúng đã cảm nhận được phần nào về Người là một vị đại tiên tri, như bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XXV Thường Niên tuần trước cho thấy.
Ngoài 3 điểm chính yếu khác nhau này, hai cuộc truyền giáo của 12 tông đồ trước và 72 môn đệ sau, theo Phúc Âm Thánh ký Luca này, có những điểm giống nhau về cách thức truyền giáo liên quan đến hành trang các vị cần phải mang theo "đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép", cũng như liên quan đến nơi trú ngụ các vị có thể ở: "Vào nhà nào... các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có... đừng đi nhà này sang nhà nọ", nhất là đến phản ứng của các vị nếu các vị không được tiếp đón: "Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: 'Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi'".

Cuộc sai thành phần 72 môn đệ này ra đi rao giảng trong bài Phúc Âm hôm nay quả thực liên quan đến Hành Trình Giêurusalem của Chúa Giêsu, một cuộc Hành Trình đầy gian nan khốn khó hướng về biến cố Vượt Qua của Người, nên ngay từ đầu Người đã cảnh báo 72 môn đệ của Người rằng: "Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng", và ở gần cuối bài Phúc Âm có câu Người bảo 72 môn đệ cảnh tỉnh những nơi không tiếp nhận các vị, đó là câu: "các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần'. Thầy bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".

Thật vậy, "Nước Thiên Chúa đã đến gầnđây là gì, nếu không phải là ơn cứu độ sắp được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô ở Giêrusalem, nơi mà Người cùng các tông đồ đang tiến "đến gần" để thực hiện, để tỏ hết mình ra cho dân chúng như thể Nước Thiên Chúa đã đến rồi vậy. Tuy nhiên, Giêrusalem là nơi Người tỏ hết mình ra ấy lại không nhận biết Người và không chấp nhận Người đến độ Người đã phải khóc thương nó (xem Luca 19:41), nên Người đã ám chỉ đến số phận của thành này khi nói: "Thầy bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".

Sứ điệp chính yếu được 72 môn đệ được Chúa Kitô sai đi trong Bài Phúc Âm hôm nay đó là loan báo "Nước Thiên Chúa đã đến gần". Và vì thế, căn cứ vào những gì Chúa Kitô nói ngay sau đó, thì chỉ có ai đón nhận Nước Trời mới được vào Nước Trời, bằng không sẽ bị trừng phạt, hay sẽ bị hư đi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có những con người đã đón nhận Nước Trời, như thành phần Kitô hữu đã lãnh nhận phép rửa tái sinh, nhưng vẫn không phải tất cả mọi người lãnh nhận phép rửa đều được vào Nước Trời đâu... Tại sao? Tại vì họ không sống Nước Trời, hay nói cách khác, Nước Trời không ở giữa họ và với họ, nhất là vào những lúc họ gặp gian nan thử thách tối tăm.

Trường hợp của nhân vật Gióp trong Bài Đọc 1 hôm nay hoàn toàn khác hẳn, ở chỗ, cho dù đang trải qua một cuộc khủng hoảng kinh hoàng, cả về xã hội, mất hết mọi sự, của cải lẫn con cái, lẫn dị ngợm phần xác và chán chường tâm can, thế mà nhân vật này vẫn không mất niềm tin, vẫn sống trong hy vọng, vẫn hướng về một tương lai bất tử, như thể Nước Trời đang ở với nhân vật ấy vậy:

"Hỡi các bạn hữu của tôi, ít ra các anh cũng thương xót tôi, thương xót tôi, vì tay Chúa chạm đến tôi. Tại sao các anh như Thiên Chúa bắt bớ hành hạ tôi vậy, và tại sao các anh no chán thịt tôi? ... Vì tôi biết rằng Ðấng Cứu Chuộc tôi hằng sống và ngày sau hết tôi sẽ từ bụi đất sống lại, da sẽ bọc lại thân tôi, và trong xác thịt, tôi sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tôi. Chính tôi sẽ nhìn thấy Người và mắt tôi sẽ trông thấy, chớ không phải ai khác: niềm hy vọng ấy đã chất chứa trong lòng tôi".


Chính vì lòng tin tưởng cậy trông bất khuất và bất diệt ấy mà nhân vật Gióp công chính này, cũng như những ai biết đón nhận Nước Trời, và để Nước Trời trở nên sống động nơi bản thân mình cùng cuộc đời mình, như nhân vật Gióp trong Bài Đọc 1 hôm nay, mà tâm tình của Thánh Vịnh 26 được bày tỏ trong một số câu ở Bài Đáp Ca hôm nay mới tràn đầy ý nghĩa và mới thực sự cảm thấy thấm thía hơn bao giờ hết đối với họ, như là của chính họ:

1) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: "Hãy tìm ra mắt Chúa".

2) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong thịnh nộ, Chúa là Ðấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con.

3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa.

 

 


Ngày 01 tháng 10

THÁNH TÊ-RÊ-XA HÀI ĐỒNG GIÊ-SU, TRINH NỮ,
TIẾN SĨ HỘI THÁNH

lễ kính

Tiểu sử 
Thánh nữ sinh năm 1873 tại A-lăng-xông, nước Pháp. Người nhập đan viện Cát-minh ở Li-di-ơ, lúc tuổi còn rất trẻ, và nhận tên là Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su. Chị đã sống đời khiêm tốn, đơn sơ theo tinh thần Tin Mừng và hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa theo “con đường thơ ấu”. Chị cũng đã dùng lời nói và gương sáng để hướng dẫn các tập sinh trong Dòng. Chị qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897 trong niềm khao khát được hiến dâng mạng sống để các linh hồn được ơn cứu độ và Hội Thánh được tăng triển. Ngày 19 tháng 10 năm 1997, Đức Gio-an Phao-lô II ghi tên chị vào số các tiến sĩ Hội Thánh.

And the Water Blushed.........: Infant Jesus painted by St. Therese of  Lisieux

 

 

1- Thánh Theresa Nhỏ: Cuộc Đời

Sự thánh thiện của Thánh Têrêsa không phải từ hiện tượng phi thường nào. Đây là vấn đề:" làm những điều bình thường bằng đường lối phi thướng".

Rất nhiều người khó có thể nhận thức rằng Therese Martin đã có một cuộc sống rất bình thường. Bởi vì bây giờ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê Su, được cả thế giới biết đến và được vinh danh với nhiều tước hiệu: ( Quan thầy các đoàn truyền gíao, Quan thầy thứ hai của nước Pháp, Tiến sỹ Giáo Hội v..v..) chúng ta quên rằng ngài đã ra đi không được chú ý trong gia đình ngài, giữa bạn hữu, trong tu viện Carmelite, ngay cả vị linh hướng của ngài cũng ít chú ý đến ngài.

Dù thế, Lisieux người ta đã nói với nhau rằng một cô gái đã dám nói với Đức Giáo Hoàng Leo XIII trong một cuộc triều kiến ở La Mã ( một tờ báo quốc gia đã tường thuật truyện này ). Sau đó ngài vào tu viện Carmel ở 15 và 3 tháng tuổi. Nhưng ngài qua đời âm thầm trong tu viện Carmelite và chỉ có khoảng 30 người hiện diện trong đám tang ở nghĩa trang thành phố Lisieux. Đã có 500.000 người hiện diện trong buổi lễ phong thánh của ngài tại Nhà thờ Tháng Phê-rô ở La Mã ngáy 17 tháng 5 năm 1925.

Vâng đó là một cuộc sống bình thường và âm thầm.

Trong một gia đình Thiên Chúa Giáo ở Alencon: Ngưòi cha là ông Louis Martin, một thợ làm đồng hồ và thợ kim hoàn, và người mẹ bà Zelie Guerin , là thợ làm đăng ten. Ông bà có 8 người con: bốn người con đã mất khi còn nhỏ. Còn lại 4 chị em gái và bà mẹ lại mang thai lần nữa ở tuổi 40: 

Therese sinh ngày 2 tháng 1 năm 1873. Cô là một bé gái rât  là linh hoạt. Cô về sống với gia đình một năm rưỡi sau đó sống với bà vú vì bà mẹ cô không thể cho cô bú. Cô sống rất hạnh phúc trong gia đình với tình thương mến của bó mẹ và các chị. Cô thừa hưởng một đức tin mạnh mẽ từ gia đình cô.

Mọi sự tốt đẹp cho đến khi biến cố đau lòng xảy ra: bà Zelie Martin qua đời vì bệnh ung thư vú vào năm 1877, lúc đó bé Therese mới 4 tuổi rưỡi.

Bé Therese bị xúc động mạnh. Cô chọn chị Pauline là người mẹ thứ hai, nhưng vết thương qúa sâu phải mất mười năm mới nguôi ngoai được. Vì phải nuôi 5 cô con gái nên ông Martin đã theo lời khẩn khoản của người em trai rể dọn về Les Buissonets, Lisieux.

Bé Therese tìm thấy một không khí ấm cúng tại đây, tuy vậy 5 năm đi học tại trường Benedictine lại trở nên "buồn bã nhất trong đời". Bé là một cô học trò nhút nhát cho nên không chịu nổi cuộc sống ở trường học. Khi chị Pauline rời nhà để nhập tu viện Carmel, vết thương của cô đau đớn trở lại.

Ở tuổi lên 10, Therese đã mang một căn bệnh trầm trọng. Cô bị bệnh ảo giác. Các bác sỹ đã bó tay. Gia đình cô và các nữ tu dòng Carmel cầu nguyện rất nhiều.

Vào này 13 tháng 5 năm 1883, bức tượng Đức Trinh Nữ đã mỉm cười với cô và cô đã khỏi bệnh tức thì. Năm sau đó, vào ngày 8 tháng 6 năm 1885, Therese được Chịu Lễ lần đầu. Từ đó cô đã nghĩ tới việc nhập dòng Carmel. Sau đó người mẹ thứ ba là Marie lại nhập tu viện khiến cô lại một lần nữa khô đau về sự chia lìa.

Cô đã phải vượt nhiều khó khăn trong việc đi tu. Cô đã phải tranh đấu với ông chú, vị tu viện trưởng, vị Giám Mục địa phương và ngay cả với Đức Giáo Hoàng Leo 13. Cô đã cương quyết theo đuổi nguyện vọng được " yêu Chúa Giê-Su và làm cho Người được yêu"

Được biết việc một kẻ giết người đã giết 2 người đàn bà và một bé gái 12 tuổi ở Paris, Therese đã cầu nguyện thật nhiều và làm nhiều việc nhân đức cho anh ta, cầu xin cho anh Henry Pranzini, kẻ giết người, được ơn cứu độ. Anh ta đã bị xử trảm nhưng giây phút chót, anh đã hỏi về cây thánh giá và hôn lên hình Chúa Giêsu nơi tượng Chịu Nạn. Therese đã khóc lên sung sướng, việc câu nguyện của cô đã được nhậm lời, cô gọi anh Panzini là "đứa con đầu tiên"


Trong một cuộc hành hương đi nước Ý, cô xin được có phép của Đức Giáo Hoàng để nhập tu viện ở tuổi 15. Cô chỉ nhận được sự trả lời một cách thoái thác. Dù vậy vào ngày 9 tháng 4 năm 1888 cô đã lìa xa cha, chị Celine, chị Leonie và con chó Tom mãi mãi.

Therese đã thật hạnh phúc nhập dòng Carmel mãi mãi, một "tù nhân" với Chúa Giê-Su và với 24 nữ tu khác. Cô nhiệt thành chấp nhận cuộc sống cầu nguyện ở tu viện .

Sự đau khổ lớn nhất của Therese vào lúc đó là bệnh tình của cha cô, ông đã phải nhập viện tâm thẩn ở Caen. Sau đó ông qua đời và người chị cô là Celine, người săn sóc ông đã cũng nhập tu viện, như vậy trong tu viện đã có 4 chị em: Therese, Leoni, Pauline, Celine.

Sau nhiều năm tìm kiếm Therese đã thấy được linh đạo. Cuộc đời của cô đã đổi hẳn. Cô nhận được ơn thông hiểu về Thiên Chúa. Cuộc sống Ki-Tô hữu không gì khác hơn cuộc sống một em nhỏ với Người Cha Nhân Từ, bắt đầu từ Lễ Thanh Tẩy và tiếp tục trong sự phó thác trọn vẹn. " Nếu anh em không trở nên như trẻ em thì anh em sẽ không được vào Nước Trời."

Ngày 9 tháng 6 năm 1895 trong ngày Lễ Chúa Ba Ngôi, một linh cảm đột nhiên nổi lên trong Therese: cô phải tận hiến làm vật hy sinh toàn thiêu cho Tình Thương Xót Chúa. Sau đó Therese bị bệnh lao, tuy vậy cô đã dùng hơi sức trong hai năm còn lại để dạy dỗ cho 5 tập sinh và linh hướng cho 2 sư huynh truyền giáo một ở nước Trung Hoa, một ở Phi Châu.

Therese lại bị kiệt sức về bệnh đau cuống họng, tuy vậy cô đã vâng lời viết những dòng hồi ký cuối cùng. Therese đã viết: cô ngợi ca Tình Thương Xót Chúa trong cuộc sống ngắn ngủi của cô. Cô đã cầu nguyện rằng:" sẽ làm điều tốt cho trái đất sau khi cô chết, cho tới ngày tận thế". Cô đã khiêm nhượng tiên tri rằng sứ mạng của cô sau khi chết là hướng dẫn Linh Đạo Nhỏ cho các linh hồn. Cô qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897.

Cô đã viết rằng cô muốn trở nên: một linh mục, một phó tế, một tiến sỹ Hội Thánh, một nhà truyền giáo, một người tử đạo" có nghĩa là cô muốn tất cả.

Một năm sau khi cô qua đời, cuốn sách Một Tâm Hồn, trích đoạn những bài viết của Therese được phát hành. Therese đã được phong Thánh ngày 17 tháng 5 năm 1925.

2- Thánh Theresa Nhỏ: Nên thánh

 

Ngày 19 tháng 10 năm 1997, thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu được ĐGH Gioan Phalô II trao tặng danh hiệu Tiến sĩ Hội thánh. Ngài là người trẻ nhất (24 tuổi) trong 3 vị nữ thánh được trao tặng danh hiệu này. [Hai vị khác là: thánh Têrêsa thành Avila (1515-82), và thánh Catarina thành Siêna (1347-80).]

Nhìn vào cuộc đời của chị Têrêsa chúng ta chắc không khỏi ngạc nhiên thắc mắc: “Đâu là điều khiến chị có được danh hiệu ấy?”; bởi cuộc đời chị quá đơn giản và bình thường, chẳng có chi là nổi trội. Thậm chí có người còn nhận xét: “Có lẽ với cuộc đời ấy chị đã chìm vào quên lãng, nếu không để lại cuốn tự thuật ‘Truyện một tâm hồn’ mà chị viết vì vâng phục.”[David Hugh Farmer, The Oxford Dictionary of Saints, 2nd edition, (Oxford: Oxford University Express, 1987), p. 405.]

Thật vậy, Têrêsa được sinh ra (1873) và được nuôi dưỡng trong một bầu khí đầy mộ đạo của một gia đình truyền thống nước Pháp. Nét mộ đạo truyền thống ấy được biểu hiện qua việc cả 5 chị em gái trong gia đình đều là nữ tu cả. Được hít thở trong bầu khí đạo đức kia, năm 15 tuổi (1888), Têrêsa gia nhập Dòng kín Carmel ở Lisieux. Ở đây, với bầu khí êm ả, lành thánh của tu viện kín, chị sống tiếp 9 năm còn lại của cuộc đời vắn vỏi. Có lẽ biến cố đáng kể nhất trong 24 năm sống mà chúng ta nhìn thấy được nơi chị là 18 tháng cuối đời chị phải chiến đấu với bệnh lao phổi nặng.[http://en.wikipedia.org/wiki/Thérèse_of_Lisieux (19 September 2013, 21h30).]  

Thế nhưng, sự vĩ đại của một vị thánh đâu hệ ở những biến cố hay những công trạng vang dội, song cốt ở việc họ thuộc về Chúa [Thánh” có nghĩa là: thuộc về Chúa, dành riêng cho Chúa.] đến mức nào mà thôi. Chị Têrêsa Nhỏ đã minh chứng cho chân lý ấy cách mạnh mẽ và đầy hồn nhiên bằng những dòng nhật ký của mình. Chị viết xuống ước mơ của chị:

“Phần con, con vẫn một lòng quả cảm muốn làm đại thánh. Con không cậy công con, có đâu mà cậy; con hoàn toàn cậy trông ở Chúa là sức mạnh, là chính sự thánh thiện. Những cố gắng nhỏ nhặt của con cũng làm Chúa vui lòng. Người sẽ nâng đỡ con lên tới Người, Người sẽ lấy công nghiệp cực trọng Người mà bù đắp cho con. Người sẽ làm con nên thánh.” [Truyện Một Tâm Hồn, quyển 1, chương 4.]

Không chỉ mơ mộng suông, Têrêsa còn sống lý tưởng kia trong đời thực bằng những hy sinh, tập rèn nhân đức. Có bận, khi đang giặt đồ, một Soeur cứ làm bắn nước bẩn vào mặt Têrêsa. Têrêsa vô cùng khó chịu. Chị muốn lùi ngay ra, lau mặt như để “giằng mặt” Soeur ấy. Nhưng rồi chị cố nén mình, không tỏ vẻ khó chịu gì hết, và cứ để nước bẩn ấy bắn lên mặt. Chị giải thích nguyên do như sau: “Con là một linh hồn rất nhỏ mọn, chỉ biết dâng lên Chúa những việc rất nhỏ mọn thế thôi. Thật là việc hèn mọn chẳng đáng gì, song đã mang lại cho con được bình an vui vẻ trong lòng.”[Truyện Một Tâm Hồn, quyển 2, chương 10.] Một lần khác, khi đang là phụ tá giáo tập, Têrêsa đã “được” các chị em nhà Tập “góp ý” cách thẳng thắn về những khuyết điểm cũng như những điều các chị em ấy không ưa không thích nơi Têrêsa. Têrêsa đã đau khổ gọi nó là “một đĩa rau trộn, trộn rất nhiều giấm và thêm thắt nhiều vị đắng chát… đĩa rau trộn chẳng thiếu gì, chỉ thiếu chất dầu, một chất không có không thành rau trộn, chỉ thành một món chưa có tên gọi.”[Như trên.] Đối mặt với “đĩa rau trộn” này, chị Têrêsa lại coi đó như là “cách thức Chúa chăm sóc gìn giữ chị. Chúa chỉ muốn chị phải nén lòng bên trong, phải khiêm nhượng thật trong linh hồn.”

Với những tập rèn nho nhỏ ấy suốt 8 năm ròng trong tu viện, Têrêsa đã có thói quen “mỉm cười trước và trong đau khổ”. Thế nên, trong những ngày tháng cuối đời trên giường bệnh, dù liên tục ho ra máu, dù đau đầu như thể không làm chủ được mình, chị thánh vẫn hằng giữ được nụ cười trên môi. Bởi tận sâu trong thâm tâm mình, chị xác tín một điều rằng: “Một trinh nữ muốn hy sinh cho Tình Ái mà còn ghê sợ chút quà Bạn Thánh gởi cho sao? Lúc nào chịu nổi ngần nào, Bạn Thánh gởi cho ngần ấy, không bao giờ phải lo quá, giả như chốc nữa Người gởi thêm đau đớn, Người cũng sẽ gởi thêm sức chịu đựng. Tuy nhiên, chẳng khi nào con dám xin Chúa gởi cho đau khổ cả thể, vì sức con hèn yếu lắm. Con mà xin như thế, những đau khổ ấy sẽ thuộc về con và riêng sức con phải gánh lấy; nhưng sức riêng con có làm nên trò trống gì bao giờ?”[Truyện Một Tâm Hồn, quyển 2, chương 12.]

Như thế đấy, nếu ví cuộc đời chị thánh với một bản nhạc, thì chắc bản nhạc ấy đều đều, buồn buồn, trầm trầm. Song, dường như trong từng nốt nhạc lại chuyên chở rất nhiều tâm ý của người nữ nhạc sĩ Têrêsa. Hay nói khác đi, chị đã thổi được hồn vào trong những chuỗi âm thanh đơn điệu kia. Cái hồn ấy là ao ước nên thánh, là mối tình của chị với Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất.

       Chị Thérèse đã làm gì trong thời gian ở tu viện? Không gì đặc biệt cả. Bí mật của chị ấy là:  YÊU MẾN. Có một lần Thérèse nói rằng: “Thiên Chúa không muốn chúng ta phải làm điều này điều kia cho Ngài, mà Ngài muốn chúng ta yêu Ngài là đủ”. Vì thế, Thérèse đã ước muốn và thực hành đời sống yêu mến Chúa. Chị tập kiên nhẫn và ân cần với mọi người, điều đó thật không dễ chút nào. Trong thời ấy, lúc các chị đang giặt quần áo bằng tay (lúc đó máy giặt chưa được phát minh!).  Có một chị luôn làm bắn tóe nước bẩn vào mặt chị Thérèse. Nhưng Thérèse chẳng bao giờ tỏ ra bực bội. Thérèse thường hay giúp đỡ một chị lớn tuổi có tính cáu gắt và luôn phàn nàn về mọi thứ, bởi vì chị Thérèse không cảm thấy thích việc đó. Thérèse muốn đối xử với chị ấy như với chính Chúa Giêsu. Chị biết rằng khi mình yêu những người khác tức là mình đang yêu chính Chúa Giêsu. Tình yêu khiến Thérèse trở nên hạnh phúc.

        Chị Thérèse chỉ sống đời tu 9 năm. Căn bệnh lao đã xảy đến với chị, nó khiến chị phải chịu rất nhiều đau đớn. Không có sự điều trị đối với căn bệnh ấy, các bác sĩ cũng không thể giúp được nhiều cho chị. Thérèse qua đời khi mới chỉ 24 tuổi. Nhưng trước khi chết, chị đã hứa sẽ không từ bỏ điều bí mật của mình. Chị hứa sẽ luôn yêu thương và giúp đỡ mọi người khi về quê trời. Trước khi mất, Thérèse đã nói: “Tôi sẽ gửi mưa ơn lành từ trời xuống mặt đất”. Và chị ấy đã làm được điều đó! Tất cả mọi người trên thế giới, những người đã nhờ thánh Thérèse Lisieux cầu xin đến Thiên Chúa đều nhận được sự đáp trả qua lời cầu nguyện của họ.

        Chị Thérèse đã khám phá ra “con đường nhỏ” để đến với Thiên Chúa: Thérèse muốn nên Thánh. Ngài biết Thiên Chúa rất muốn giúp đỡ mình và đặt hết mọi tin tưởng nơi Thiên Chúa và yêu Chúa hết cả tấm lòng, sau đó ngài quan tâm, đối xử tốt với mọi người xung quanh, từ những việc đơn giản nhất. “Con đường nhỏ” của Thérèse là làm mọi việc bạn có thể làm cho người khác vì yêu mến Chúa. Đó chắc chắn là cách để bạn có thể nên thánh.

Patron & Patroness of the Missions – Pontifical Mission Societies

3- Thánh Theresa Nhỏ: Huấn Dụ

- Linh Đạo Nhỏ là gì?  Đó là phương cách dâng mình trẻ thơ, phương cách của một em bé nằm trong vòng tay của cha mình, em ngủ và không sợ gì cả.

- Đó là linh đạo trẻ thơ, phương cách của tin cậy và hoàn toàn phó thác.

- Để ở trong tình trạng trẻ thơ: Đó là nhận ra sự hư vô, tầm thường của chúng ta, trông mong mọi sự nơi Chúa như một em bé kỳ vọng mọi sự từ người cha của em.

- Tình yêu tự nó phải chứng minh bằng việc làm, em chứng minh tình yêu của em bằng cách nào?... Em có thể chứng minh tình yêu của em bằng rắc những bông hoa, nghĩa là, không để buông trôi một dịp hy sinh nhỏ nhoi nào, một ánh mắt nhìn nào, một lời nói nào; bằng cách làm lợi trong những hành động nhỏ nhất, bằng việc làm những điều ấy vì tình yêu.

- Để trở nên người của Chúa, người ta phải trở nên nhỏ bé, bé như một gịot sương!

- Chúng ta sống trong thời đại của những phát minh, những ngưười giầu có không phải chịu khó khăn leo những bậc thang, họ đi thang máy. Đó là điều em phải tìm kiếm, tìm một thanh máy đưa em lên thẳng tới Chúa Giê-Su, bởi vì em quá nhỏ bé để leo những bậc thang dốc của sự toàn thiện...Đây là điều em đã tìm thấy: "Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy". ( Sách I-sai-a 66:12,13. Bản dịch do Nóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ)

- Chúng ta hãy nắm tay nhau chạy xuống chỗ cuối cùng, không ai còn tranh chấp với chúng ta nữa.

- Nữ tu Maria Thánh Thể muốn đốt những ngọn nến cho cuộc rước, chị không có hộp quẹt; tuy vậy, thấy một ngọn đèn nhỏ cháy trước di hài các Thánh, chị bước tới gần. Hỡi ơi, ngọn lửa đã gần tắt, chỉ còn một đốm sáng yếu ơt trên bấc đen. Chị đã thành công châm ngọn nến trên ánh sánh yếu ớt ấy, và với ngọn nến này, chị đã thắp những ngọn nến khác của cộng đồng nữ tu. Như vậy ngọn đèn nhỏ gần tàn, đến phiên của nó, đã có thể khơi nên nguồn vô biên của những người khác và ngay cả có thể thắp sáng toàn thể vũ trụ. Tuy thế, một ngọn đèn nhỏ luôn luôn là nguyên nhân đầ tiên của tất cả ánh sáng này. Làm sao những ngọn lửa đẹp đẽ có thể huênh hoang là đã gây nên ánh sáng này, khi mà chính chúng đã được thắp nên từ một tia lửa nhỏ như thế?

- Đường lối của em là đầy tin cậy và yêu thương. Em không hiểu người ta lại có thể sợ một người bạn qúa dịu dàng như thế.

- Em chỉ cần liếc vào Phúc Âm, lập tức hương thơm của cuộc đời Chúa Giê-Su đã tới với em, và em biết phải chạy về hướng nào; tới chỗ thấp nhất, không phải chỗ cao nhất!

- Em đoan chắc với chị rằng Thiên Chúa còn dịu dàng tử tế hơn là chị tưởng. Người hài lòng với một cái nhìn, một tiếng thở dài của tình yêu... Em nhận ra rằng người ta chỉ cần làm như vậy để chinh phục được trái tim Chúa Giê-Su. Hãy để ý một em nhỏ làm phật lòng mẹ của em băng nổi cơn giận dữ hoặc không nghe lời mẹ em, nếu em hờn dỗi trong một góc và hét lên vì sợ bị trừng phạt, mẹ em chắc chắn là không tha lỗi cho em. Nhưng nếu em chạy tới với mẹ giang rộng tay, mỉm cười và nói" Hãy hôn con đi, con không làm việc ấy nữa", chắc chắn rằng mẹ em sẽ ôm chặt em vào lòng, quên hẳn tất cả những việc em đã làm.

- Không ai có thể làm em sợ nữa, bởi vì em biết tin ở những gì về lòng thương xót và yêu thương của Thiên Chúa. Em biết rằng chỉ trong một chớp mắt tất cả hàng ngàn tội lỗi sẽ được thiêu đốt như một gịot nước rảy vào ngọn lửa đang rực cháy.

- Vui sướng biết bao khi nhớ lại rằng Thiên Chúa của chúng ta thật công minh, rằng Người dung thứ tất cả những khuyết điểm của chúng ta, và biết thật rõ là chúng ta yếu đuối ra sao. Em còn phải sợ gì nữa? Chắc chắn rằng Thiên Chúa của sự công minh vô bờ bến , Người đã tha thứ cho Đứa Con Hoang Đàng với lòng thương xót như thế, chắc chắn sẽ công minh với em kẻ đã "luôn luôn ở với Người"?( Luca 15:31 )

- Đức Tin của chúng ta thật hiển hách! Thay vì giới hạn các con tim, như thế gian mong muốn, Đức Tin lại nâng các con tim lên và gia tăng khả năng yêu thương của chúng.

 - Xin nhớ rằng không có điều gì là nhỏ bé dưới mắt Thiên Chúa. Hãy làm mọi việc với tình yêu.

 - Vẻ rực rỡ của bông hồng và màu trắng của bông huệ không tước mất hương thơm của bông hoa tím hay lấy đi vẻ hấp dẫn mộc mạc của bông cúc dại. Nếu mỗi bông hoa nhỏ cứ muốn làm một bông hồng, mùa xuân hẳn sẽ mất vẻ yêu kiều.

 - Hẳn là bạn cũng biết rằng Chúa chúng ta không quan tâm nhiều đến vẻ lớn lao hay sự khó khăn của các hành vi chúng ta làm, nhưng là tình yêu chúng ta có khi làm.

 - Không có tình yêu, các hành vi, dù sáng chói nhất, cũng không đáng kể gì.

 - Tin tưởng và chỉ tin tưởng mới dẫn chúng ta đến tình yêu.

 - Không nên bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào mà không làm một hy sinh nhỏ, ở đây bằng gương mặt tươi cười, ở kia bằng một lời khả ái, luôn luôn làm việc đúng đắn dù nhỏ bé nhất và làm vì tình yêu.

 - Đối với em, cầu nguyện là một sự trào dâng của con tim; cầu nguyện đơn giản là một cái nhìn hướng về trời, là một tiếng kêu nhận biết và yêu thương, ôm lấy cả thử thách lẫn niềm vui.

 - Một lời nói hay một nụ cười thường cũng đủ để đưa sự sống tươi mát vào trong một tâm hồn thất vọng.

 - Bây giờ em biết rằng bác ái chân thật hệ tại gánh lấy tất cả những khuyết điểm của người thân cận – không ngạc nhiên trước sự yếu đuối của họ, nhưng vui sướng về những nhân đức nhỏ nhất của họ.

 - Niềm vui ấy ta không tìm được nơi các sự vật bao quanh ta, nhưng chỉ ở trong tâm hồn; và ta có thể sở hữu nó dễ dàng khi ở trong một nhà tù tăm tối cũng như khi ở trong dinh thự của một vị Vua.

 - Con cầm lấy quyển Kinh Thánh. Thế là mọi sự dường như sáng ra với con; chỉ một chữ thôi cũng mở ra cho con những chân trời vô biên, sự hoàn thiện tỏ ra đơn giản với con.

 - Nếu em không chỉ sống từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, hẳn là em đã không thể kiên nhẫn; nhưng em chỉ nhìn đến hiện tại, em quên đi quá khứ, và em quan tâm không chặn trước tương lai.

 - Đừng sợ nói với Đức Giêsu rằng bạn yêu thương Người; cho dù không cảm thấy gì, đó là cách để buộc Người giúp đỡ bạn, và bồng lấy bạn như một em nhỏ quá yếu không thể bước đi.

 - Sứ mạng của con – làm cho Thiên Chúa được yêu mến – sẽ bắt đầu sau khi con chết. Con sẽ sống trên trời mà làm điều thiện dưới đất. Con sẽ gửi đến một trận mưa hoa hồng.

 - Đức Giêsu không cần sách vở hoặc các Tiến sĩ thần học để dạy dỗ các tâm hồn; là Tiến sĩ của các tiến sĩ, Người dạy dỗ không cần nói năng ồn ào.

 - Điều duy nhất con thực sự ước muốn… là yêu cho đến chết vì yêu.

 

4- Thánh Theresa Nhỏ: Giờ Kinh

Giữa lòng Hội Thánh, tôi sẽ là tình yêu

Bài đọc 2: Trích sách Tự thuật của thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, trinh nữ.

Khi nguyện ngắm, những khát vọng của em làm cho em bị đau khổ giày vò. Em mở các thư của thánh Phao-lô để tìm kiếm một câu trả lời. Tình cờ mắt em bắt gặp chương 12 và 13 thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô... Khi đọc chương trước, em thấy rằng không phải ai cũng có thể làm tông đồ, ngôn sứ hay thầy dạy. Em cũng thấy rằng Hội Thánh gồm nhiều phần tử khác nhau, và mắt không thể vừa là mắt vừa là tay được... Câu trả lời trên thật rõ ràng nhưng không làm em thoả mãn và đem lại cho em sự bình an.

Không sờn lòng, em tiếp tục đọc và câu sau đây làm em nhẹ nhõm : Anh em hãy tha thiết kiếm tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả. Và thánh Phao-lô tông đồ giải thích rằng mọi ơn hoàn hảo nhất chẳng là gì cả, nếu không có tình yêu..., và đức ái là con đường tuyệt hảo chắc chắn dẫn tới Thiên Chúa. Và cuối cùng, em đã được bình an thư thái.

Khi suy nghĩ về thân thể mầu nhiệm của Hội Thánh, em chẳng thấy mình thuộc loại chi thể nào trong các loại thánh Phao-lô mô tả, hay đúng ra em muốn thấy mình có mặt trong mọi loại chi thể đó. Đức ái đã cho em chìa khoá để tìm ra ơn gọi của em. Em hiểu rằng nếu Hội Thánh có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Em hiểu rằng Hội Thánh có một Trái Tim và Trái Tim đó bừng cháy tình yêu. Em hiểu rằng chỉ có tình yêu mới làm cho các phần tử của Hội Thánh hoạt động và nếu tình yêu tắt ngúm thì các Tông Đồ sẽ chẳng loan báo Tin Mừng nữa, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình ra... Em hiểu rằng tình yêu bao trùm mọi ơn gọi, và tình yêu là tất cả, nó bao trùm mọi nơi và mọi thời... ; tắt một lời, tình yêu tồn tại mãi.

Bấy giờ, vào lúc tình yêu dạt dào ngây ngất, em đã reo lên : Ôi Giê-su, Tình Yêu của con... ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy, ơn gọi của con, chính là tình yêu...

Vâng, con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh, và chỗ đứng này, ôi Thiên Chúa của con, chính Chúa đã ban cho con. Trong lòng Hội Thánh, Hiền Mẫu của con, con sẽ là tình yêu. Như thế, con sẽ là tất cả... và như thế, ước mơ của con sẽ được thực hiện...

Lạy Chúa là Cha nhân lành, Chúa mở cửa Nước Trời cho những người bé mọn, xin cho chúng con hằng ngày biết theo chân thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su mà bước đi trên con đường phó thác, để muôn đời được chiêm ngưỡng Thánh Nhan. Chúng con cầu xin

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ các nguồn tài liệu của Công Giáo Info, Teresa Family, Dòng Cát Minh, Dòng Tên và Phụng Vụ Giờ Kinh

 

Xác của Chị Thánh Thérèse Hài Đồng Giêsu, trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Têrêsa Nhỏ ở Pháp,

không còn nguyên vẹn như xác của hai nữ thánh thụ khải cùng Pháp quốc:

Chị Thánh Bernadette ở Nevers và Chị Thánh Catarina Labuare ở Paris.

Gia Đình Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Một chút di tích lịch sử của Chị Thánh đã lưu lại và còn lưu giữ, được Nhà Dòng của Chị trưng bày tại Đan Viện Chị tu ngày xưa

(3 tấm hình trên được TĐCTT Đaminh Maria cao tấn tĩnh chụp vào ngày 20/5/2017 trong chuyến Hành Hương Thánh Mẫu 2017)

 

 

 


Thứ Sáu

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) G 38, 1. 12-21; 39, 33-35

"Ngươi có xuống tận đáy biển và đi bách bộ dưới vực thẳm không?"

Trích sách ông Gióp.

Từ cơn gió lốc, Chúa đáp lời ông Gióp rằng: "Sau khi ngươi đã sinh ra, ngươi có ra lệnh cho bình minh, và chỉ chỗ cho rạng đông không? Ngươi có cầm giữ các phần cuối cùng trái đất, và xua đuổi khỏi địa cầu bọn gian ác không? Mặt đất trở nên như đất sét có đóng ấn và trải ra như chiếc áo. Bọn gian ác bị tước mất sự sáng, và cánh tay giơ cao bị bẻ gẫy.

"Ngươi có xuống tận đáy biển, và đi bách bộ dưới vực thẳm không? Cửa tử thần có mở ra cho ngươi và ngươi có nhìn thấy tối tăm không? Ngươi có xem xét chiều rộng địa cầu không? Nếu ngươi đã hiểu biết, hãy chỉ mọi sự cho Ta. Sự sáng ở đàng nào và sự tối tăm ở nơi đâu, để ngươi dẫn dắt cả hai đến địa giới của chúng, và hiểu biết đường lối nhà chúng? Bấy giờ ngươi có biết ngươi sẽ sinh ra không? Và ngươi có biết rõ số ngày đời ngươi không?"

Ông Gióp thưa lại cùng Chúa rằng: "Con nói lơ đãng, thì con trả lời thế nào được? Con để tay trên miệng con. Con đã nói một lần, chớ chi con đừng nói! Và lần thứ hai, con không nói thêm gì nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 138, 1-3. 7-8. 9-10. 13-14ab

Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con, lúc con ngồi, khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con. - Ðáp.

2) Con đi đâu để xa khuất được thần linh của Chúa? Con trốn đâu cho khỏi thiên nhan Ngài? Nếu con leo được lên trời, thì cũng có Ngài ngự đó; nếu con nằm dưới âm phủ, thì đây cũng có mặt Ngài. - Ðáp.

3) Nếu con mượn đôi cánh của hồng đông, và bay đến cư ngụ nơi biên cương biển cả, tại nơi đây cũng bàn tay Chúa dẫn dắt con, và tay hữu Ngài nắm giữ con. - Ðáp.

4) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thật diệu huyền. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 10, 13-16

"Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối. Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các ngươi.

"Còn ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời? Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục.

"Ai nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể Ðấng đã sai Thầy".

Ðó là lời Chúa.

 

Terça-feira da 15ª Semana do Tempo Comum |

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Alter Christus - Another Christ: Một Chúa Kitô Khác

 

Trong bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XXVI Thường Niên hôm nay, một bài phúc âm liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu vẫn nói với 72 môn đệ trước khi sai các vị đi. Tuy nhiên, đối tượng được Người nói đến ở đây không phải là chính các môn đệ, mà là đến chính các nơi không tiếp nhận tin mừng của Người, một tin mừng được các môn đệ của Người loan báo về Người và thay Người. Thật vậy:

"Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: 'Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối. Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các ngươi. Còn ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời? Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục. Ai nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể Ðấng đã sai Thầy".

Không biết có phải Chúa Giêsu sai 72 môn đệ của Người đến các thành được Người đề cập đến ở đây, trong bài Phúc Âm hôm nay hay chăng, mà dường như Người đã biết trước phản ứng tiêu cực của các thành ấy đối với sứ điệp được các môn đệ của Người truyền đạt, nên Người đã phải lên tiếng như ngăm đe các thành ấy trước? 

Thường không phải thế, bởi trong các thành được Người nhắc đến là Capharnaum ở Galilêa là nơi Người thường xuyên lui tới để gặp gỡ và giảng dạy cho dân chúng trong các hội đường, mà Người lại đã rời miền bắc Galilêa, băng qua miền trung Samaria (theo bài Phúc Âm Thứ Ba tuần này) để xuôi nam về Giêrusalem, thì ở đây Người ám chỉ đến những nơi chính Người đã hiện diện và tỏ mình ra trước đó, những nơi theo Người cho biết, chính vì sự hiện diện và tỏ mình ra của Người cho họ mà họ sẽ bị luận phạt nặng nề hơn các thành trong quá khứ, bởi họ không nhận biết và chấp nhận Người trong khi các thành quá khứ không được diễm phúc thấy Người và nghe Người. 

Vương quốc của Thiên Chúa cho dù được chính Người mạc khải cho biết qua lời giảng dạy, uy thế hay quyền năng phép lạ của Người, hay qua thành phần môn đệ của Người, được Người tin tưởng sai đi, đều có giá trị như nhau, đến độ, như Người khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay về vai trò "thừa sai" nặng ký đại diện của các vị: "Ai nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể Ðấng đã sai Thầy".

Sở dĩ 72 môn đệ của Chúa Kitô có một vị trí ngang nhiên ngang hàng với Chúa Giêsu trong việc rao giảng như thế là vì các vị được chính Người tuyển chọn và sai đi, do đó, bất cứ ai không nghe các vị là không nghe Người, bất cứ ai coi thường khinh dể các vị là khinh dể coi thường Người là Đấng đã sai các vị, và gián tiếp khinh dể coi thường chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Người. 

Tính cách đại diện của các vị này, tự bản chất, có giá trị ở chỗ thừa hành quyền bính giảng dạy, cho dù các vị về tư cách bất xứng, nhất là khi các vị lại còn gây gương mù gương xấu cho chính thành phần được mình giảng dạy và khuyên bảo. Bởi vậy, tác dụng giảng dạy của các vị có đạt được thành quả bao nhiêu một phần nào còn tùy vào đời sống gương mẫu chứng nhân của các vị. 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô khẳng định về hậu quả vô cùng tai hại xẩy ra cho những nơi được Người ưu ái tỏ mình ra, hơn là ở những nơi trước đó trong Cựu Ước, những nơi ấy có muốn như họ cũng không thể nào được, và không bao giờ được, nhưng, về phần mình, họ vẫn không nhìn ra cái đặc ân cao vời ấy của họ, nên họ vẫn không chịu tin vào Người, vẫn không chịu chấp nhận Người, vẫn tẩy chay loại trừ Người, vẫn có những ý nghĩ cùng với những ý muốn khác với những gì Người mong muốn cho họ được hoan hưởng, và vì thế nên họ sẽ phải lãnh đủ hậu quả xứng đáng với thái độ và hành động họ đã ngu dại phủ nhận lòng thương xót Chúa nhưng không muốn cứu độ họ.

Nhân vật Gióp công chính trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã phản ứng ra sao, sau khi nghe thấy những gì được Chúa vạch ra cho biết, liên quan đến thân phận tạo vật hữu hạn về kiến thức lẫn khả năng của mình: "Sau khi ngươi đã sinh ra, ngươi có ra lệnh cho bình minh, và chỉ chỗ cho rạng đông không? Ngươi có cầm giữ các phần cuối cùng trái đất, và xua đuổi khỏi địa cầu bọn gian ác không?... Ngươi có xuống tận đáy biển, và đi bách bộ dưới vực thẳm không? Cửa tử thần có mở ra cho ngươi và ngươi có nhìn thấy tối tăm không? Ngươi có xem xét chiều rộng địa cầu không? Nếu ngươi đã hiểu biết, hãy chỉ mọi sự cho Ta.... Bấy giờ ngươi có biết ngươi sẽ sinh ra không? Và ngươi có biết rõ số ngày đời ngươi không?"

Nếu không phải nhân vật này đã tỏ ra phục thiện ngay, để rồi mau mắn đáp lại những lời soi động rất rõ ràng và vô cùng chính xác của Chúa như sau: "Con nói lơ đãng, thì con trả lời thế nào được? Con để tay trên miệng con. Con đã nói một lần, chớ chi con đừng nói! Và lần thứ hai, con không nói thêm gì nữa". Phản ứng tuân phục một cách chân thành này của nhân vật Gióp là một phản ứng cho thấy nhân vật ấy chân nhận bản thân mình trước nhan Chúa, đúng như những gì được Thánh Vịnh 138 bày tỏ qua một số câu ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con, lúc con ngồi, khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con.

2) Con đi đâu để xa khuất được thần linh của Chúa? Con trốn đâu cho khỏi thiên nhan Ngài? Nếu con leo được lên trời, thì cũng có Ngài ngự đó; nếu con nằm dưới âm phủ, thì đây cũng có mặt Ngài.

3) Nếu con mượn đôi cánh của hồng đông, và bay đến cư ngụ nơi biên cương biển cả, tại nơi đây cũng bàn tay Chúa dẫn dắt con, và tay hữu Ngài nắm giữ con.

4) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thật diệu huyền.

 

 

Ngày 02 tháng 10

Các thiên thần hộ thủ

lễ nhớ bắt buộc

 

GUARDIAN ANGEL with BOY & GIRL 8x10 Catholic Art Print Picture from Germany  | Guardian angels, Angel pictures, Angel art

Các thiên thần được ơn gọi trước hết là để chiêm ngưỡng ánh huy hoàng của thánh nhan Thiên Chúa và không ngừng ca hát ngợi khen Người. Nhưng theo Kinh Thánh, Chúa cũng trao cho các thiên thần sứ mạng hiện diện bên cạnh con người để giúp đỡ con người. Ngày Lễ kính các thiên thần hộ thủ nhắc cho ta nhớ lại điều đó.

Ôi Chúa Tể trời cao đất thấp,
Đấng quyền năng tạo tác muôn loài,
Càn khôn nắm cả trong tay,
Chỉ huy tài khéo an bài khôn ngoan.

Xin nghe tiếng nài van cầu khẩn,
Rủ lòng thương chút phận tội tình,
Đoàn con chiêm ngưỡng bình minh,
Đợi nguồn sáng mới cho thanh thoả lòng.

Vì thiên sứ Chúa từng tuyển định
Để bảo toàn sinh mệnh chúng con,
Mong người gìn giữ sớm hôm,
Ngăn ngừa tội lỗi kẻo còn vấn vương.

Xin người cũng rủ thương phá vỡ
Mưu ác xà độc dữ hiểm nguy,
Buông câu thả lưới thần kỳ,
Khiến lòng khờ dại say mê mắc lừa.

Xin người đuổi cho xa bờ cõi
Để từ đây sạch mọi bóng thù,
Dân tình lạc nghiệp an cư,
Nhờ tay thiên sứ ngăn ngừa tai ương.

Lời vinh tụng quỳ dâng lên Chúa
Là Ba Ngôi cao cả từ nhân,
Hằng sai muôn triệu thiên thần
Đêm ngày bảo vệ con dân Nước Trời.

 

2- Thiên Thần Bản Mệnh: Chân Dung

 

"Chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này: vì Thầy bảo cho anh em biết, thiên thần của họ ở trên trời hằng chiêm ngắm thánh nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 18,10).

Giáo Hội Công Giáo dành ngày 02/10 hằng năm để mừng kính các Thiên thần Bản mệnh. Vào năm 1670, Đức Giáo Hoàng Clêmentê X đã thiết lập lễ này cho toàn thể Giáo Hội để tôn kính các đấng vô hình luôn ngày ngày bảo vệ chúng ta.

 

Trong khi đa số chúng ta chỉ chú ý đến các Thiên thần Bản mệnh cá nhân, truyền thống Giáo Hội (được các nhà thần học như Thánh Tôma Aquinô giảng dạy) cho biết rằng các quốc gia, các thành phố, các giáo phận, các giáo xứ đều có Thiên thần Bản mệnh riêng, có những người, những nơi còn có nhiều vị Bản mệnh.

 

Các ngài là những thụ tạo đẹp đẽ của Thiên Chúa, được ẩn giấu trong một mầu nhiệm kỳ vĩ. Báo chí nhiều khi tường thuật chuyện có một người huyền bí xuất hiện để giúp đỡ trong các vụ tai nạn rồi sau đó không bao giờ xuất hiện lại nữa. Chúng ta mắc nợ Thiên thần Bản mệnh của chúng ta rất nhiều, người hằng bảo vệ, chỉ dẫn chúng ta mà chúng ta không biết. Các ngài can thiệp vào đời sống chúng ta cách âm thầm, hoàn thành tác vụ của mình cách khiêm tốn nhất có thể.

 

Giáo lý, như được trình bày trong YOUCAT, dạy rằng "Mỗi một cá nhân đều nhận một Thiên thần Bản mệnh từ Thiên Chúa" (s. 55). Điều này phù hợp với lời dạy của Kinh Thánh, của các Thánh như Tôma Aquinô, Basiliô và Giêrônimô, thậm chí phù hợp cả với kinh nghiệm của những người ngoài Kitô giáo có cảm nhận về một sự giúp đỡ vô hình từ một vị thiên thần (người Việt Nam ta hay nói trẻ em có một bà mụ nâng đỡ).

 

Mike Aquilina, một nhà giáo sử nổi tiếng, viết về những kinh nghiệm của bạn ông liên quan đến thiên thần giúp đỡ như sau:

 

"Một người bạn của tôi, một nhà triết học nổi tiếng từng học ở Harvard, là người vô thần từ trẻ. Một hôm, khi anh ta đang bơi ngoài biển thì bị sóng cuốn ra khơi. Anh ta biết mình đang chìm xuống, không hy vọng được ai cứu nữa. Đột nhiên, một cánh tay mạnh mẽ nắm lấy anh và kéo vào bờ. Người nắm lấy anh là một chàng trai vạm vỡ. Anh bạn vừa chết hụt định cám ơn người thanh niên kia thì anh thanh niên cười và biến mất. Từ lúc đó, anh bạn của tôi bắt đầu con đường quay trở về đức tin." 

Theo niên lịch phụng vụ, ngày 02 tháng 10, Giáo Hội mời gọi con cái mình kính nhớ đến các Thiên Thần Bản Mệnh. Trước là để ta dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân vì Ngài đã ban tặng cho ta những người bạn tuyệt vời, luôn ở kề bên để chăm sóc, gìn giữ, nhắc nhở và bảo vệ ta trên bước đường lữ thứ, kế đến là nhắc nhở ta luôn biết cám ơn các Thiên Thần Bản Mệnh, tâm sự với các ngài, xin các ngài cầu thay nguyện giúp và nhất là ta xin các ngài hướng dẫn ta sống sao cho đẹp lòng Chúa, gìn giữ ta khỏi những mưu mô, chước độc của satan.

Các Thiên Thần Bản Mệnh là ai? Các Ngài có ảnh hưởng gì đến đời sống tâm linh cũng như thể chất của ta? Các ngài song hành và ở bên ta dưới hình thức nào…? Quả thật, đây là những câu hỏi mà gần như ít người quan tâm, bận tâm và tìm hiểu! Ngay như vị thánh Bổn Mạng là vị thánh mà cha mẹ ta chọn cho ta khi ta được chịu phép Rửa Tội, ấy thế mà nhiều khi ta chẳng nhớ, chẳng biết và không mấy quan tâm!

Phải chăng hình ảnh và sự hiện diện của các Thiên Thần Bản Mệnh chỉ là hư cấu, thêu dệt cho thêm phong phú trong quá trình giữ đạo và sống đạo của người Kitô hữu? Phải chăng các Thiên Thần Bản Mệnh được Thiên Chúa sinh dựng để ngày đêm túc trực bên Thánh Nhan Chúa, luôn dâng lời ca tiếng hát chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa, và tô điểm cho ngai tòa Thiên Chúa? Xin thưa, không phải thế, giờ ta cùng tìm hiểu về hình ảnh, nhiệm vụ của các Thiên Thần Bản Mệnh trước thánh nhan Thiên Chúa và nhất là trong cuộc sống lữ hành của ta. Để rồi trong từng ngày sống, ta cảm nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho ta lớn lao biết là dường nào qua sự đồng hành của các Thiên Thần Bản Mệnh. Từ đó, ta luôn hướng về các ngài, xin các ngài giúp đỡ, xin các ngài cầu thay nguyện giúp cho ta.

Trong Kinh Thánh rất nhiều chỗ tường thuật lại việc các Thiên Thần Bản Mệnh thực hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa để bảo vệ, nâng đỡ, dẫn dắt con người nhân loại.

Thiên Chúa thiết lập vũ trụ, tạo dựng con người. Sách khởi nguyên ngay từ những trang đầu đã thuật lại việc Thiên chúa tạo dựng Trời Ðất, tạo nên Con người. Trong vũ trụ hỗn mang đan xen bóng tối và sự sáng. Lực của bóng tối,của ma quỉ mạnh mẽ vô cùng. Ma quỉ có số đông vô số kể lúc nào cũng lượn quanh con người, rình mò cắn xé.

-  Trình thuật của sách Sáng Thế, sau khi con người đầu tiên là A-đam và E-va phạm lỗi vì nghe theo lời đường mật của satan. Đức Chúa đã cắt đặt các thần hộ giá canh giữ đường đến cây trường sinh (x. St.3, 1-24);

-  Sách Xuất Hành Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “ Này Ta sai Thiên Sứ đi trước ngươi, để gìn giữ ngươi khi đi đường, và đưa ngươi vào nơi Ta dọn sẵn. Trước mặt người, ngươi hãy ý tứ và nghe lời người…” (Xh.23,20-21).

-  Sách các Vua quyển 1 trình thuật việc Thiên Sứ đến an ủi, tiếp tế lương thực cho ngôn sứ Ê-li-a trên đường ông lên núi Khô-rếp (x.1V.19,1-8).

-  Sách Tô-bi-a trình thuật việc Chúa Sai thiên sứ Ra-Pha-en đến để đồng hành, dẫn đường cho Tô-bi-a và việc chữa lành cho thân phụ của Tô-bi-a là ông Tô-bít (x.Tb.5,1-23;11,1-19).

- Thánh vịnh 137,1 đã viết:" Lạy Chúa giữa chư vị Thiên Thần, Con đàn ca kính Chúa"

- Thánh Vịnh 90 trình thuật lại lời xác tín sự hiện diện của các Thiên Thần Bản Mệnh thực hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa bảo vệ con cái của Ngài: “Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén bảng tới nhà. Bởi chưng Thiên Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ, tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (x.Tv.90,1-16).

-  Sách Tin Mừng trình thuật rất nhiều về sự hiện diện của các Thiên Thần (Sứ thần) của Thiên Chúa: Sứ thần truyền tin cho Đức Maria, ông Dia-ca-ri-a (x.Lc.1,538); Sứ thần truyền tin cho Thánh Cả Giuse (x.Mt.1,18-25;2,13-23); Đạo binh các thiên thần hát vang trong đêm Đức Kitô giáng sinh (x.Lc.2,1-20); Sứ thần loan báo tin vui Phục Sinh (x.Mt.25,1-8); Sứ Thần giải thích cho các thánh Tông Đồ về sự kiện Đức Giêsu về Trời (x.Cv.1,9-11). Đặc biệt là lời dạy dỗ, nhắc nhở của Đức Giêsu về hình ảnh và vai trò của các Thiên Thần: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này, quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt.18,10).

- Thánh Phao-lô trong thư gửi cho giáo đoàn Do-thái đã viết về các Thiên Thần: “Nào tất cả các vị đó không phải là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ được thừa hưởng ơn cứu độ sao?” (Dt.1,14).

- Thánh Basiliô cả xác tín rằng “Bên cạnh mỗi tín hữu đều có một thiên thần như đấng bảo trợ và mục tử, hướng dẫn họ đến sự sống”. 

- Giáo Hội xác tín sự hiện diện, nâng đỡ của các Thiên Thần Bản Mệnh qua lời nguyện nhập lễ kính nhớ các ngài: “ Lạy Chúa! Chúa sai các Thiên Thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời này được các Ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các Ngài hưởng phúc vinh quang".

- Sách giáo lý Công Giáo dạy ta: “Các thiên thần là những thụ tạo thiêng liêng, không có thân xác, vô hình và bất tử; đó là những hữu thể có ngôi vị, có lý trí và ý chí. Họ không ngừng chiêm ngắm Thiên Chúa diện đối diện và tôn vinh Thiên Chúa; các ngài phục vụ Thiên Chúa và là những sứ giả của Ngài để thực hiện sứ vụ cứu độ loài người". (khoản 350).

Vâng! Theo ý muốn và tình thương của Thiên Chúa, Ngài đã tác dựng các Thiên Thần, để các ngài trở thành cánh tay nối dài của Thiên Chúa trong việc săn sóc, đồng hành, gìn giữ, nhắc nhở và che chở ta khỏi mưu chước của quyền lực sự dữ, các thiên Thần Bản Mệnh hằng cầu nguyện cho ta trước thánh nhan Chúa, ghi chép tất cả những công việc, tư tưởng, ước muốn của ta mà dâng lên cho Thiên Chúa.

Mẹ Maria đã mạc khải cho một vị thánh về vai trò của các Thiên Thần bản Mệnh của mỗi người khi họ tham dự thánh lễ. Mẹ phán: “Khi các con đến tham dự thánh lễ, đến phần vị chủ tế chuẩn bị dâng của lễ. Các con có biết, Thiên Thần Bản Mệnh của các con sẽ thay các con tiến về phía bàn thờ, trên đôi tay của các ngài là những tâm tư, ước nguyện mà các con muốn tiến dâng lên cho Thiên Chúa khi tham dự thánh lễ, cũng có những Thiên Thần tiến lên bàn thánh, nhưng trên tay của các ngài không có chút của lễ nào vì người tham dự thánh lễ không ý thức và đến tham dự thánh lễ một cách máy móc, chia trí, lo ra… Thiên Thần Bản Mệnh của những người tham dự thánh lễ như thế rất buồn và liên lỉ cầu nguyện cho họ” (trích Mẹ Maria mạc khải thánh lễ).

Có thể nói, rất nhiều người không biết, không hiểu và lãng quên sự hiện diện của các Thiên Thần Bản Mệnh. Các ngài chính là ân sủng, là quà tặng mà Thiên Chúa ban nhưng không cho ta trên bước đường lữ hành. Sự hiện diện của các ngài là dấu chỉ Thiên Chúa luôn ở cùng và ở với ta trong từng ngày sống. Các Thiên Thần luôn hướng dẫn ta trong đời sống đạo, luôn bênh đỡ ta và gìn giữ ta, nhắc nhở ta mỗi khi ta phạm lỗi bằng tiếng nói của lương tâm. Thế nhưng, nhiều khi ta không nhận ra tiếng nói lương tâm thôi thúc, nhắc nhở ta là tiếng nói của các Thiên Thần Bản Mệnh. Nhiều lần ta thoát khỏi những tai nạn, tai ương trên bước đường, ta không nhận ra chính các Thiên Thần đã bảo vệ, cầu nguyện cho ta, đem lại cho ta sự bình an…!

Nhiệm vụ của Thiên Thần Bản Mệnh là thực hiện mọi công việc mà Thiên Chúa giao phó cho các ngài, dẫu trong đời sống ta thường xuyên vô ơn, lãng quên các ngài, nhưng các ngài không hề bỏ rơi ta hằng ở luôn bên ta, âm thầm bảo vệ, gìn giữ và nhắc nhở ta sống và đi theo đường ngay nẻo chính, giúp ta thực hiện những việc lành phúc đức, hướng dẫn ta và dắt ta về với Thiên Chúa là Cha luôn yêu thương con cái mình. Ta hãy nghe lời của Thiên Thần nói với ông Tô-bít và Tô-bi-a khi các ông được người dẫn đường nói cho biết sự thật ngài là Ra-pha-en một trong bảy thiên sứ hằng hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển Chúa, các ông đã hoảng sợ, nhưng sứ thần nói tiếp: Đừng sợ! Bình an cho các người! Hãy chúc tụng Thiên chúa đến muôn đời! Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi không phải do lòng tốt của tôi, mà do do ý muốn của Thiên Chúa…” (x.Tb. 121-22).

Theo dòng lịch sử của Giáo Hội, có rất nhiều câu chuyện kể về những ơn lành và sự đồng hành của các Thiên thần Bản Mệnh. Xin mượn câu chuyện sau để kết thúc đôi dòng suy tư về các Thiên Thần Bản Mệnh

Tại một xứ đạo vùng sâu, vùng xa ở nước Pháp, vào một đêm khi cha sở họ đạo chuẩn bị lên giường nghỉ, bỗng có tiếng gõ cửa và tiếng kêu cứu xin cha sở tới xức dầu cho một bệnh nhân đang trong cơn nguy tử. Trời khuya, muốn tới nhà bệnh nhân, cha sở phải băng qua khu rừng vắng. Với trách nhiệm và bổn phận, cha sở chuẩn bị tư trang để lên đường. Khi tới đầu khu rừng vắng, với một thân một mình, bỗng trong tâm trí ngài cảm thấy sợ, lúc bấy giờ ngài nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, ngài cầu nguyện và xin Thiên Thần đi cùng. Ngài đã đến kịp thời ban các phép và cầu nguyện cho bệnh nhân trước khi bệnh nhân trút hơi thở cuối cùng.

Thời gian trôi qua khoảng 10 năm. Vào một buổi chiều người ta đến báo cho ngài có một một người rất muốn gặp Cha, người đó là một tử tù sắp bị hành quyết. Ngài vội lên đường. Khi đến nơi, người tử tù nói:

-          Thưa Cha! Cha có phải là cha sở họ đạo X? Vị mục tử gật đầu và hỏi:

-          Sao anh biết tôi? Người tử tù kể lại

-          Thưa Cha! Cha có nhớ vào một buổi tối cách đây 10 năm, tại khu rừng vắng, vào thời điểm đó, con đang là một tên cướp của, giết người đang bị truy nã. Con dự tính sẽ cướp và giết bất cứ ai con gặp. Và rồi con thấy cha, nhưng thật là xúi quẩy cho con, vì cha không đi một mình, con thấy người đi cùng với cha rất đẹp và rất cao to, con chợt nghĩ đây không phải là đối thủ của mình nên đành dậm chân, lui gót xa rời con mồi mà mình đã và đang chờ đợi. Rồi anh kể tiếp:

-          Thưa Cha! Con là người có đạo, nhưng con đã sống bê tha và trở thành kẻ cướp của giết người, giờ đây con đáng bị người đời trừng trị, xin cha cho con biết người thanh niên đi cùng cha là ai, vì con thấy dung mạo của anh ta rất khác thường, hiền lành nhưng uy nghi làm con sợ. Sững lại ít giây, vị mục tử liền trả lời: 

-          Chàng thanh niên đó là Thiên Thần Bản Mệnh. Người tử tù nghe thế liền khóc và xin vị mục tử cho anh xưng tội và chịu các phép sau cùng.

 

3- Thiên Thần Bản Mệnh: Suy Niệm

 

Xin các thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường

Bài đọc 2 Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 2/10 - Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.

Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường. Các ngài hãy tạ ơn Chúa vì Người nhân hậu và vì những kỳ công Người làm cho con cái loài người. Các ngài hãy tuyên xưng và nói lên giữa chư dân những điều lớn lao Chúa đã làm cho họ. Lạy Chúa, con người là chi mà Chúa tỏ mình ra cho nó ? Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm ? Ngài bận tâm đến con người và tỏ ra ân cần săn sóc nó. Sau cùng Ngài còn sai Con Một Ngài đến với con người, sai Thánh Thần Ngài đến trong con người, và hứa cho con người được thấy nhan Ngài. Và để cho tất cả chư thần trên trời không đứng ngoài công việc chăm sóc chúng con, Chúa đã sai các thiên thần đến để phục vụ chúng con, giao cho các ngài nhiệm vụ bảo vệ chúng con và truyền cho các ngài trở thành những người dìu dắt chúng con.

Người truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường. Lời này phải khơi dậy nơi bạn lòng cung kính, đem lại cho bạn lòng sùng mộ, và truyền đạt cho bạn niềm tin tưởng lớn lao biết chừng nào ! Cung kính vì sự hiện diện của các ngài, sốt sắng vì lòng nhân từ của các ngài, tin tưởng vì được các ngài bao bọc chở che. Vậy các ngài hiện diện, hiện diện bên bạn, không chỉ hiện diện với bạn mà còn hiện diện vì bạn. Các ngài hiện diện để chở che, hiện diện để giúp đỡ. Dù chính Thiên Chúa đã sai các ngài, nhưng chúng ta không được vô ơn đối với các ngài, vì các ngài đã vâng phục Thiên Chúa, vì lòng yêu mến lớn lao, và hằng trợ giúp chúng ta trong cơn quẫn bách.

Vậy chúng ta hãy tỏ lòng sùng mộ và biết ơn đối với những vị đã bảo vệ chúng ta như thế ; chúng ta hãy yêu mến các ngài để đền đáp, hãy tôn kính các ngài hết sức cho phải đạo. Tuy nhiên, chúng ta phải dành cho Thiên Chúa trọn niềm mến yêu và kính trọng, vì nhờ Người mà cả các thiên thần lẫn chúng ta có khả năng kính trọng và mến yêu Thiên Chúa cũng như đáng được Người mến yêu và kính trọng.

Vì thế, thưa anh em, trong Thiên Chúa, chúng ta hãy tha thiết mến yêu các thiên thần của Người, ý thức rằng một ngày kia các ngài sẽ là những người đồng thừa tự với chúng ta, và từ nay các ngài đã được Chúa Cha sắp đặt và chỉ định làm người hướng đạo và giám hộ chúng ta. Vì giờ đây, chúng ta là con cái Thiên Chúa, tuy điều đó chưa tỏ hiện ; cho đến nay, chúng ta còn là trẻ con dưới quyền các vị hướng đạo và giám hộ chẳng khác gì những người nô lệ.

Dù chúng ta là trẻ nhỏ, và đường đời còn dài, chẳng những dài mà còn nguy hiểm nữa, nhưng chúng ta sợ gì khi được bao đấng chở che, bảo vệ ? Các đấng giữ gìn ta trên khắp nẻo đường đời là những vị không ai thắng nổi hay bị ai lường gạt lại càng không thể lường gạt chúng ta. Các vị ấy là những người trung thành, khôn ngoan và quyền thế, vậy chúng ta còn sợ gì ? Chúng ta chỉ cần theo các ngài, gắn bó với các ngài, ắt sẽ được sống dưới sự chở che của Thiên Chúa trên trời.

 

Lạy Chúa là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Chúa sai các thiên thần đến gìn giữ chúng con, xin ban cho chúng con đời này được các ngài luôn chở che bênh vực, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quang. Chúng con cầu xin... (lời nguyện giờ kinh ngày 2/10)

 

Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính các Thiên Thần Hộ Thủ, xin cho các Ngài luôn ở gần chúng con để trông nom gìn giữ, nhờ đó, chúng con sẽ thoát khỏi mọi nguy hiểm dưới thế và mai sau được hưởng hạnh phúc trên trời. (lời nguyện tiến lễ ngày 2/10)

 

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ tài liệu của Công Giáo Info, Tin Mừng và Phụng Vụ Giờ Kinh ngày 2/10,

 

 

 


Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) G 42, 1-3. 5-6. 12-16

"Giờ đây mắt con nhìn thấy Chúa. Bởi đó chính con trách thân con".

Trích sách ông Gióp.

Ông Gióp thưa lại cùng Chúa rằng: "Con biết Chúa làm nên mọi sự, và không một tư tưởng nào giấu được Chúa. Ai là kẻ mê muội che khuất được ý định của Chúa? Vì thế, con nói bậy về những điều vượt quá sự thông biết của con. Trước kia con nghe tiếng Chúa, còn giờ đây mắt con nhìn thấy Chúa. Bởi đó, chính con trách thân con, và ăn năn sám hối trong bụi tro".

Sau này Chúa giáng phúc cho ông Gióp nhiều hơn lúc ban đầu. Ông có mười bốn ngàn con chiên, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi bò và một ngàn lừa cái. Ông còn sinh được bảy trai ba gái. Người con gái thứ nhất ông đặt tên là Nhật, người thứ hai tên Hương, và người thứ ba tên Bình. Trong khắp nước, không tìm thấy thiếu nữ nào xinh đẹp như các con gái của ông Gióp. Thân phụ của các cô cũng chia phần gia tài cho các cô như những anh em trai. Sau đó, ông Gióp còn sống được một trăm bốn mươi năm nữa, và nhìn thấy con cháu đến bốn đời. Khi cao niên đầy tuổi, ông đã qua đời.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 66. 71. 75. 91. 125. 130

Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu (c. 135a).

Xướng: 1) Xin Chúa dạy con sự thông minh và lương tri, vì con tin cậy vào các chỉ thị của Ngài. - Ðáp.

2) Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ. - Ðáp.

4) Theo chỉ dụ Chúa mà vũ trụ luôn luôn tồn tại, vì hết thảy vạn vật đều phải phục vụ Ngài. - Ðáp.

5) Con là tôi tớ Chúa, xin Chúa dạy dỗ con, để con hiểu biết những lời Ngài nghiêm huấn. - Ðáp.

6) Sự mạc khải lời Ngài soi sáng và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 34

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 10, 17-24

"Các con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, bảy mươi hai ông trở về vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời". Lúc đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. - Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết". Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều các con xem thấy, vì chưng, Thầy bảo các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng được nghe".

Ðó là lời Chúa.

 

Saturday October 5, 2019 Reading and Reflection | Church of the Twelve  Apostles

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa



Niềm vui đích thực không phải những gì làm được ở đời này mà là những gì được hoan hưởng ở đời sau

Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXVI Thường Niên hôm nay ghi lại thành quả của cuộc truyền giáo vừa được 72 môn đệ thực hiện theo bài sai được ban hành bởi Thày của các vị là Chúa KitôĐấng đã nhắc nhở họ về hạnh phúc thật mà các vị cần phải trân trọng hơn cả chính thành quả truyền giáo. 

Hạnh phúc về thành quả  truyền giáo vừa được 72 môn đệ gặt hái: "Khi ấy, bảy mươi hai ông trở về vui mừng và nói rằng: 'Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con'".

Hạnh phúc thật các vị cần phải trân trọng hơn cả thành quả truyền giáo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời". 

 

Ở đây Chúa Giêsu không phủ nhận niềm vui của 72 môn đệ về điểm chính yếu được các vị thuật lại cho Người nghe là "cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Thật ra, ngay trước khi nghe các môn đệ thuật lại Người cũng "đã thấy" nên Người cũng công nhận quả thật "Satan từ trời sa xuống như luồng chớp". Bởi vì Người biết khả năng của các môn đệ Người tới đâu và có thể làm được ra sao, với những gì Người đã trang bị cho họ, như: "quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con".

 

Theo tâm lý tự nhiên bình thường của các bậc thày phàm nhân khác thì Người có thể sẽ lên tiếng khen các vị: "Thế à. Các con của thày giỏi quá. Các con đã làm cho danh thày được rực rỡ hơn bao giờ hết khi các con nhân danh thày để trừ quỉ. Danh thày của các con mà... Những gì thày trang bị cho các con quả là công hiệu khôn lường ... ". 


Ở đây, Chúa Giêsu chẳng những không vênh vang vì danh oai phong uy lực của Người, về những gì Người đã trang bị cho các môn đệ, và Người cũng không vồn vã khen các môn đệ của mình như để kích động tinh thần của họ để họ tiếp tục ở với Người và cộng tác làm việc phụng sự Người, trái lại, Người hướng các môn đệ lên cao hơn, vượt thoát những thành công trần thế tầm thường. 


Bởi đó, Người đã nhắc nhở các vị rằng: "Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời". 


Đúng thế, hạnh phúc thật là vinh danh Chúa ở trên trời, chứ không phải ở nơi những gì con người làm được một cách vẻ vang, nhưng đôi khi chúng lại trở thành dịp tội khiến con người bị ảo tưởng đâm ra tự phụ và cuối cùng mất lòng Chúa, mất hết mọi sự, hỏng hết mọi sự, dù là những sự tự bản chất của nó tốt lành. 

 

Nếu con người chỉ tìm vinh danh Chúa trên trời thì họ đã được hiệp thông thần linh với Người ở ngay đời này và được Ngài chúc phúc, được Ngài ở cùng như cả Thiên Đàng ở với họ, đúng như ý nghĩa của câu Chúa nói "tên các con đã được ghi trên trời". Bởi vì, nhờ đó, dù chưa lên trời, mắt của họ cũng "được xem những điều các con xem thấy..." và tai của họ "nghe những điều các con nghe thấy".


Phải chăng đó là lý do bài Phúc Âm không chấm dứt ở chỗ ấy, nhưng được tiếp theo bởi những lời Chúa Giêsu chúc tụng Cha Người trên trời, đối với những tâm hồn đơn sơ bé nhỏ, tiêu biểu nơi thành phần môn đệ của Người là những con người, qua họ, Cha của Người đã tỏ mình ra cho họ thấy, qua chính bản thân Người:


"Lúc đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: 'Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. - Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết". 

 

Nhân vật Gióp công chính trong Bài Đọc 1 hôm nay có thể nói là tiêu biểu cho thành phần "đơn sơ", nên đã nhận được những mạc khải thần linh từ Chúa, nhất là trong cơn gian nan khốn khổ đến tận cùng của cuộc đời mình. Và mạc khải thần linh của Chúa đã được phản ảnh trung thực qua những gì được nhân vật này bày tỏ với Chúa trong Bài Đọc 1 này như sau: "Con biết Chúa làm nên mọi sự, và không một tư tưởng nào giấu được Chúa. Ai là kẻ mê muội che khuất được ý định của Chúa? Vì thế, con nói bậy về những điều vượt quá sự thông biết của con. Trước kia con nghe tiếng Chúa, còn giờ đây mắt con nhìn thấy Chúa. Bởi đó, chính con trách thân con, và ăn năn sám hối trong bụi tro".

 

Chính nhờ thật sự sống công chính, sống đức tin trong chính cuộc thử thách kinh hoàng trong cuộc đời của mình, cũng như bằng tấm lòng đơn sơ khiêm tốn, mà nhân vật này chẳng những nhận biết Chúa hơn, như những gì nhân vật ấy bày tỏ trong Bài Đọc 1 hôm qua cũng như hôm nay, mà còn được Ngài bù đáp cho tất cả những gì đã mất, thậm chí còn hơn trước nữa:

 

"Sau này Chúa giáng phúc cho ông Gióp nhiều hơn lúc ban đầu. Ông có mười bốn ngàn con chiên, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi bò và một ngàn lừa cái. Ông còn sinh được bảy trai ba gái. Người con gái thứ nhất ông đặt tên là Nhật, người thứ hai tên Hương, và người thứ ba tên Bình. Trong khắp nước, không tìm thấy thiếu nữ nào xinh đẹp như các con gái của ông Gióp. Thân phụ của các cô cũng chia phần gia tài cho các cô như những anh em trai. Sau đó, ông Gióp còn sống được một trăm bốn mươi năm nữa, và nhìn thấy con cháu đến bốn đời. Khi cao niên đầy tuổi, ông đã qua đời".

 

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những tâm tình của những con người như nhân vật Gióp công chính trong Bài Đọc 1 này, những con người chỉ biết suốt đời tìm kiếm thiên nhan Chúa, bất chấp mọi giá phải trả:

 

1) Xin Chúa dạy con sự thông minh và lương tri, vì con tin cậy vào các chỉ thị của Ngài.

2) Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài.

3) Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ.

4) Theo chỉ dụ Chúa mà vũ trụ luôn luôn tồn tại, vì hết thảy vạn vật đều phải phục vụ Ngài.

5) Con là tôi tớ Chúa, xin Chúa dạy dỗ con, để con hiểu biết những lời Ngài nghiêm huấn.

6) Sự mạc khải lời Ngài soi sáng và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm.