SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 


Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Tuần XXVIII Thường Niên Năm A và Chẵn

2014, 2020, 2026
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 25, 6-10a

"Chúa mời đến dự tiệc của Người và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Trên núi này, Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người, vì Người đã phán. Ngày đó, người ta sẽ nói: Này đây Chúa chúng ta. Ðây là Chúa, nơi Người, chúng ta đã tin tưởng, chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì ơn Người cứu độ, vì Chúa sẽ đặt tay của Người trên núi này.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài (c. 6cd).

Xướng: 1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo con hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, con sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Pl 4, 12-14. 19-20

"Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.

Anh em thân mến, tôi biết chịu thiếu thốn và biết hưởng sung túc. Trong mọi trường hợp và hết mọi cách, tôi đã học cho biết no, biết đói, biết dư dật và thiếu thốn. Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi. Nhưng anh em đã hành động chí lý khi san sẻ nỗi quẫn bách của tôi. Xin Thiên Chúa cung cấp dư dật những nhu cầu của anh em, theo sự phú túc vinh sang của Người trong Ðức Giêsu Kitô. Vinh danh Thiên Chúa là Cha chúng ta muôn đời. Amen!

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con lắng nghe lời Con của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 22, 1-10 {hoặc 1-14}

"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì hãy mời vào dự tiệc cưới".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.

{Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".}

Ðó là lời Chúa.

Following the Feast Maker God: Our way to hospitality - DevelopmentLessons From the Parables: Matthew 22 - The Invitation to the Wedding Feast  -- One of Jesus Christ's parables shows th… | Parables, Parables of jesus,  Saint matthew

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa có tính cách đại đồng công giáo

 

Nếu để ý các Bài Phúc Âm Giáo Hội cố ý chọn đọc cho các Chúa Nhật Thường Niên Năm A gần đây: Chúa Nhật XXV, XXVI và XXVII và chính Chúa Nhật XXVIII này, chúng ta thấy các bài Phúc Âm này không liên tục với nhau về văn tự, đoạn này liền với đoạn kia, câu này sát với câu nọ, mà là cách quãng, nhưng lại là một cách quãng liên tục và liên hệ với nhau một cách tài tình về ý nghĩa của nó.  

Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV ở đầu đoạn 20 (1-16, và bỏ các câu từ 17 đến 34 sau đó) về chủ vườn nho thuê thợ và trả lương. Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXVI và XXVII ở giữa đoạn 21 (28-32 và 33-43, nghĩa là bỏ 27 câu đầu và bỏ 3 câu cuối). Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXVIII tuần này ở đầu đoạn 22 (1-10 hay có thể tới câu 14). 

Như đã nhận định, tuy bị cách quãng về văn tự như thế, 4 bài Phúc Âm cho 4 Chúa Nhật Mùa Thường Niên Năm A XXV, XXVI, XXVII và XXVIII theo Thánh ký Mathêu này vẫn liên tục và liên hệ với nhau một cách tài tình về ý nghĩa của nó. Ở chỗ nào? Ở chỗ: 1- Thành phần được Chúa Giêsu nói tới và nói tới là "các trưởng tế và các kỳ lão trong dân"; 2- Bài Phúc Âm nào Người cũng dùng dụ ngôn mà nói với họ để nhắc nhở về vai trò họ trong dự án cứu độ của Thiên Chúa, về vị thế của họ trong mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Có thể nói, nếu ở đoạn 13 Thánh ký Mathêu đã thuật lại một bộ dụ ngôn về Nước Trời nói chung thế nào, thì Người cũng nói riêng với thành phần đầu mục Do Thái một số dụ ngôn về "Nước Thiên Chúa" liên quan trực tiếp đến họ như vậy.  

Đúng thế, bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVIII Thường Niên hôm nay Chúa Giêsu lại dùng một dụ ngôn khác, không còn liên quan đến ông chủ vườn nho như 3 bài Phúc Âm cho 3 Chúa Nhật XXV, XXVI và XXVII trước, mà là dụ ngôn: "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: 'Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới'". 

"Những người đã được mời dự tiệc cưới" đây là ai, nếu không phải là "các trưởng tế và các kỳ lão trong dân" nói riêng và thành phần luật sĩ và biệt phái Do Thái nói chung, bao gồm cả dân Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn. Thế nhưng, thành phần "những người đã được mời dự tiệc cưới" này đã đáp ứng ra sao, Chúa Giêsu đã tiếp tục cho biết trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi".  

"Tiệc cưới cho hoàng tử" được "vị vua kia" tự mình mở tiệc thiết đãi khách được mời mà bị họ coi thường, thậm chí còn loại bỏ đi đây là gì, nếu không phải là mối hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, nhờ Con Ngài đã Nhập Thể và Vượt Qua, nghĩa là một mối hiệp thông thần linh với Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô Con của Ngài.

Bữa tiệc cưới vô cùng cao trọng và quan trọng này đã được chính Thiên Chúa, qua miệng tiên tri Isai ở Bài Đọc 1 hôm nay đã tiên báo như sau: "Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Trên núi này, Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người, vì Người đã phán. Ngày đó, người ta sẽ nói: Này đây Chúa chúng ta. Ðây là Chúa, nơi Người, chúng ta đã tin tưởng, chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì ơn Người cứu độ, vì Chúa sẽ đặt tay của Người trên núi này". 

Chính dân Do Thái, qua Thánh Vịnh gia ở Thánh Vịnh 22 về người mục tử nhân lành trong Bài Đáp Ca hôm nay đã cảm thức được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình gần gũi với mình, quan tâm đến mình và chăm nuôi mình đến độ họ chẳng còn mong muốn gì hơn ngoài chính Ngài: "Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi", đến độ tin tưởng vào Ngài trong tất cả mọi sự: "dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng con", nhờ đó đã được hoan hưởng một sự sống viên mãn: "đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa", một cảm thức tin tưởng và vô cùng hân hoan này được bộc lộ như sau:  

 

1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. .

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng con.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo con hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, con sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.  

 

Thế nhưng, ở cuối bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu lại cho thấy cái hậu không tốt, đó là "những người đã được mời dự tiệc cưới" kể như tự mình loại trừ khỏi mối hiệp thông thần linh với Thiên Chúa và chỗ mời danh dự của họ đã được thay thế bởi những người khác không được mời từ trước như họ, bởi tiệc cưới vô cùng cao trọng liên quan đến Ơn Cứu Độ vô cùng quí báu của Thiên Chúa cũng như đến Phần Rỗi vô cùng quan trọng đối với loài người này không thể nào vì họ mà dẹp bỏ một cách dễ dàng và nhanh chóng, trái lại, càng cần phải thực hiện một cách đại đồng và phổ quát hơn, có tính cách "công giáo" hơn, liên quan đến toàn thể nhân loại: "'Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới'. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc".

 

Thật vậy, nếu Tiệc Cưới Nước Trời đây là Ơn Cứu Độ, là mối hiệp thông thần linh với Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô Nhập Thể và Vượt Qua thì theo dự án cứu độ thần linh của Thiên Chúa, trước hết giành cho dân Do Thái và từ dân Do Thái, sau đó và trên hết, cho chung nhân loại như lời Thiên Chúa hứa với hai nguyên tổ (xem Khởi Nguyên 3:15). Bởi thế, dân ngoại đã được mời vào thế chỗ của dân Do Thái, hay đúng hơn chung hưởng với Dân Do Thái, như lời Thiên Chúa hứa với Tổ Phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 22:18). 

 

Vì thế, thành phần được mời đến trước đây là dân Do Thái nói chung, nhưng những ai không đến tham dự thì không áp dụng cho chung dân Do Thái mà là cho những ai trong họ không chịu chấp nhận Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Cũng thế, thành phần được mời đến sau, nói chung là dân ngoại, dân Tân Ước, bao gồm "bất cứ ai" và "bất luận tốt xấu", thì thành phần "xấu" đây bao gồm cả những nam nhân thu thuế gian tham như viên thu thuế Giakêu lùn, và các nữ nhân đĩ điễm nhục dục trong dân Do Thái, thành phần đã từng được đồng bàn với Chúa Giêsu trong nhà viên thu thuế Levi đã được Người tuyển gọi thành Tông Đồ Mathêu (xem Mathêu 9:10).  

 

Tuy nhiên, cho dù được mời đến tham dự tiệc cưới do Thiên Chúa khoản đãi một cách trang trọng và bất ngờ cùng nhưng không như thế, thành phần dự tiệc cưới cũng cần phải làm sao tỏ ra xứng đáng với cái diễm phúc được mời này, ở chỗ mặc áo cưới đàng hoàng, bằng không, họ sẽ bị loại ra ngoài, như phần cuối của bài Phúc Âm hôm nay (không buộc đọc) cho thấy:  

 

"Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: 'Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?' Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: 'Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít'

 

Ở đây, xét theo tự nhiên thì có vẻ vô lý và bất công. Khách mời đến sau bất ngờ tới tham dự tiệc cưới thì làm sao kịp sửa soạn mà có áo cưới để mặc trước khi đến tham dự chứ? Vậy thì tại sao bị loại khi không có áo cưới. Áo cưới đây có thể hiểu là đức tin, là đáp ứng ơn gọi Kitô hữu của mình. Kitô hữu được mời đến dự tiện cưới này nơi Phép Rửa, họ cần phải trung thành với chiếc áo trắng rửa tội là chính áo cưới được trao cho họ để họ mặc khi họ chấp nhận đến tham dự tiệc cưới mà họ không ngờ.  

 

Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, tự thân là một người Do Thái lại còn là dân biệt phái nhiệt tâm nhưng giả hình trước nhan Chúa (xem Mathêu đoạn 23), quả thực đã mặc áo cưới trong khi ngài bất ngờ được mời đến tham dự tiệc cưới này, như chính ngài đã thú với giáo đoàn Philipphê, một giáo đoàn dân ngoại nhưng cũng tỏ ra xứng đáng hoan hưởng bữa tiệc Nước Trời khoản đãi họ, một bữa tiệc đã làm họ no nê đến độ có thể chia sẻ "sự phú túc vinh sang của Người trong Ðức Giêsu Kitô", trong Bài Đọc 1 hôm nay:  

 

"Anh em thân mến, tôi biết chịu thiếu thốn và biết hưởng sung túc. Trong mọi trường hợp và hết mọi cách, tôi đã học cho biết no, biết đói, biết dư dật và thiếu thốn. Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi. Nhưng anh em đã hành động chí lý khi san sẻ nỗi quẫn bách của tôi. Xin Thiên Chúa cung cấp dư dật những nhu cầu của anh em, theo sự phú túc vinh sang của Người trong Ðức Giêsu Kitô. Vinh danh Thiên Chúa là Cha chúng ta muôn đời. Amen!"

 

 

Thánh Gioan 23, Giáo hoàng

Ngày 11/10

 

Ngày 11/10: Thánh Gioan 23, Giáo hoàng

 

Thánh Giáo Hoàng: Cuộc đời, Thân thế và Sự nghiệp

Đức Thánh Cha Gioan XXIII là người đã triệu tập Công Đồng Vatican II, mở cánh cửa Giáo Hội ra với thế giới bên ngoài, và đem một sinh khí mới vào đời sống của Giáo Hội.

Triệu tập Công đồng là một công việc vĩ đại, phát xuất từ nhiều lo lắng cho tương lai Giáo Hội với quá nhiều vấn đề khó khăn, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lại vẫn thường cầu nguyện rất đơn sơ nhẹ nhàng trước giờ đi ngủ: “Lạy Chúa, Giáo Hội là của Chúa, con chỉ là tôi tớ. Giáo Hội mạnh yếu thành đạt là trách nhiệm của Chúa. Con đã làm bổn phận của con, giờ này đến giờ con đi ngủ, xin Chúa ban phúc lành cho con.” Nói thế rồi, Ngài đi vào giấc ngủ ngon. Như vậy, dù thường xuyên suy tư trăn trở cho Giáo Hội, ngài lại rất thực tế sống tinh thần phó thác - giống như chỉ chuyên chăm hoàn tất bổn phận hằng ngày của mình với "Mười Điều Tâm Niệm" mà ngài đã đề ra cho mình.

Đức Gioan XXIII cũng thường được gọi là "Giáo hoàng Gioan nhân hậu". Ngài coi mình là "con cái của Thánh Phanxicô" khi gia nhập Dòng Ba Phanxicô lúc còn là một chủng sinh. Vị Giáo hoàng khiêm tốn này thường bắt chước lời của ông Giuse ở Ai Cập (Cựu Ước) chào hỏi các thành viên của Dòng Ba Phanxicô: "Tôi là Giuse, người anh em của quý vị."

Vị Giáo hoàng thứ 261 này có tên khai sinh là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh tại làng Sotto il Monte, thuộc tỉnh Bergamo, vào ngày 25.11.1881, con trai đầu của ông Giovanni Battista Roncalli và bà Marianna Mazzola. Ngay buổi chiều hôm đó, trẻ sơ sinh Angelo được rửa tội. Người đỡ đầu là ông Zaverio Roncalli, một trong những người bác của ông bố Battista, rất đạo đức, ở độc thân, tự nhận lấy bổn phận dạy giáo lý cho nhiều đứa cháu. Sau này, Đức Gioan XXIII đã cảm động nhớ lại nhiều kỷ niệm và biết ơn về những lo lắng chăm sóc của ông.

Ngay từ thời thơ ấu, đã có một khuynh hướng nghiêm chỉnh về đời sống Giáo hội, nên sau khi học học bậc tiểu học, cậu chuẩn bị vào chủng viện giáo phận nhờ sự trợ giúp học thêm tiếng Ý và tiếng Latinh của một số linh mục trong khi theo học tại một trường có uy tín của Celana. Ngày 07-11-1892, cậu gia nhập chủng viện Bergamo. Sau khi hoàn tất tốt đẹp năm thứ hai của thần học vào tháng Bảy năm 1900, thầy được gửi về Roma vào tháng Giêng năm sau để vào chủng viện Apollinare, nơi có một số học bổng cho hàng giáo sĩ thuộc giáo phận Bergamo.

Ngày 13 tháng 7 năm 1904, mới hai mươi tuổi rưỡi, thầy đậu tiến sĩ thần học. Ngày 10 tháng 8 năm 1904, thầy được thụ phong linh mục trong nhà thờ Đức Maria di Monte Santo; ngài cử hành Thánh Lễ đầu tiên vào ngày hôm sau trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô. Dịp này, ngài quyết tâm tận hiến hoàn toàn cho Chúa Kitô và hết lòng trung thành với Giáo hội.

Sau một thời gian ngắn về nghỉ tại quê nhà, vào tháng Mười, ngài bắt đầu theo học giáo luật tại Rôma, và rồi phải nghỉ học vào tháng Hai năm 1905, khi ngài được chọn làm thư ký của Giám mục mới của giáo phận Bergamo, Đức cha Giacomo Radini Tedeschi.

Ngoài nhiệm vụ thư ký, ngài còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác. Từ năm 1906, ngài đảm nhiệm giảng dạy nhiều môn học trong chủng viện: Lịch sử giáo hội, Giáo phụ và Hộ giáo. Từ năm 1910, ngài cũng phụ trách môn Thần học cơ bản. Ngài nghiên cứu lịch sử địa phương, xuất bản tác phẩm viết về những chuyến viếng thăm mục vụ của thánh Carlo Bergamo (1575), một nỗ lực trong nhiều thập kỷ dài và tiếp tục cho đến những ngày trước cuộc bầu cử Giáo hoàng. Ngài cũng là chủ nhiệm tờ báo định kỳ của giáo phận “La Vita Diocesana" và kể từ năm 1910, ngài làm trợ úy cho Liên hiệp những Phụ nữ Công giáo.

Khi Thế chiến thứ I bùng nổ, vào năm 1915 ngài làm tuyên úy hơn ba năm với cấp bậc trung sĩ, chăm sóc thương binh trong các bệnh viện ở Bergamo. Vào tháng Bảy năm 1918, ngài dấn thân phục vụ cho những người lính bị bệnh lao.

Tiếp theo, ngài được giao phụ trách công việc của Bộ Truyền giáo tại Ý, đồng thời cũng làm linh hướng trong chủng viện. Ngài đã thực hiện một chuyến đi lâu dài ra ngoại quốc để thi hành kế hoạch của Tòa Thánh nhằm mang về Roma những tổ chức khác nhau để hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo và viếng thăm một số giáo phận Ý để quyên góp nguồn tài trợ và giải thích về công việc mà ngài đang phụ trách.

Vào năm 1925, với sự bổ nhiệm làm Visitatore Apostolico tại Bulgaria, ngài đã bắt đầu giai đoạn phục vụ cho ngành ngoại giao của Tòa Thánh cho đến năm 1952. Sau lễ phong chức giám mục diễn ra tại Roma vào ngày 19 tháng 3 năm 1925, ngài khởi hành đi Bulgaria để giúp đỡ cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé và đang gặp nhiều khó khăn tại đó. Trong hàng chục năm, Đức cha Roncalli đã đặt nền móng cho việc thiết lập một Tông tòa mà ngài đã được bổ nhiệm làm vị đại diện đầu tiên vào năm 1931. Ngài phục hồi được mối quan hệ thân thiện với Chính phủ và Hoàng gia Bulgaria, mặc dù có đôi chút trở ngại vì đám cưới theo nghi lễ chính thống của vua Boris với công chúa Giovanna của hoàng gia Savoia, và đó cũng là dịp để khởi động những mối quan hệ đại kết đầu tiên với Giáo hội Chính thống Bulgaria.

Vào ngày 27-11-1934, ngài được bổ nhiệm làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Các nước này chưa có quan hệ ngoại giao với Vatican. Với tính nhạy bén và năng động của mình, ngài đã tổ chức được một số lần gặp gỡ chính thức với Đức Thượng phụ Constantinople sau nhiều thế kỷ tách biệt với Giáo hội Công giáo.

Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã thận trọng giữ được tính trung lập, giúp cho cả hàng ngàn người Do Thái khỏi thành nạn nhân diệt chủng, và giúp cho người Hy Lạp thoát khỏi nạn đói.

Ngài được bổ nhiệm về làm Khâm sứ tại Paris vào ngày 30 tháng 12 năm 1944. Một hoàn cảnh khá phức tạp đang chờ đợi. Chính phủ lâm thời buộc tội Giáo hội hợp tác với chính phủ Vichy và đòi Giáo hội phải thoái vị ba mươi giám mục. Nhờ sự bình tĩnh và linh động của vị tân sứ thần, chỉ có ba vị bị bãi nhiệm. Phẩm chất con người của ngài đã mang lại sự kính nể trong bối cảnh ngoại giao và chính trị tại Paris.

Sau khi lãnh tước vị hồng y, ngài được chuyển về Venice vào ngày 5 tháng 3 năm 1953 và hoàn thành nhiệm vụ giám mục tại đây cách tốt đẹp với những chuyến thăm viếng mục vụ, cử hành Công nghị giáo phận, thực hiện kế hoạch làm cho các tín hữu gần gũi với Kinh Thánh...

Ngày 28 tháng 10 năm1958, ngài được bầu chọn làm giáo hoàng. Một vị Giáo hoàng nhận chức khi đã bảy mươi bảy tuổi khiến nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một triều đại chuyển tiếp. Nhưng ngay từ đầu, Đức Gioan XXIII đã tỏ ra là một giáo hoàng của thời đại: khôi phục lại các hoạt động đúng đắn trong các cơ quan của giáo triều, viếng thăm các giáo xứ, bệnh viện và nhà tù của giáo phận Rôma, triệu tập Công nghị giáo phận...

Sự đóng góp lớn nhất của Đức Gioan XXIII là việc triệu tập Công đồng Vatican II, được loan báo trong Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô vào ngày 25 tháng 01 năm 1959. Các mục tiêu ban đầu của Công đồng được nêu rõ trong bài phát biểu vào lễ khai mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962: không phải là để đưa ra những chân lý mới, nhưng để xác định lại các học thuyết truyền thống phù hợp hơn với sự nhạy cảm đương đại. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII mời gọi Giáo hội, thay vì lên án và công kích, hãy hướng về lòng thương xót và ủng hộ việc đối thoại với thế giới, trong một nhận thức mới về sứ mệnh của Giáo Hội là đón nhận tất cả mọi người. Trong tinh thần cởi mở phổ quát ấy, các giáo hội Kitô khác cũng được mời tham dự vào Công đồng để khởi đầu một tiến trình xích lại gần nhau hơn.

Vào mùa xuân năm 1963, Đức Gioan XXIII được trao giải thưởng Balzan về hòa bình, xác nhận những nỗ lực của ngài đối với hòa bình qua việc ban hành Thông điệp Mater et Magistra (1961) và Pacem in Terris (1963), cũng như vai trò của ngài trong cuộc khủng hoảng tại Cuba vào mùa thu năm 1962.

Ngài qua đời vào tối ngày 3 tháng 6 năm 1963 và được phong thánh vào ngày 27-4-2014 lúc 10g tại Vatican.

 

 

Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII: Giáo Hội cởi mở đại đồng đại kết

Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tiếp tục truyền thống của các giáo hoàng tiền nhiệm, muốn giáo triều chứng tỏ sức mạnh và quyền lực của mình trên cả thế giới. Các Kitô Hữu Tin Lành và các người khác thường cho rằng đức giáo hoàng, và người Công Giáo nói chung, hay đắc thắng, kiêu ngạo đề cao sự vinh hiển và quyền lực thần thánh của Giáo Hội Công Giáo mà không nhận ra sự yếu đuối và khuyết điểm của con người. Vì lý do này, Giáo Hội Công Giáo không được sự tin tưởng của những người bên ngoài giáo hội khi họ thấy các giáo hoàng và Giáo Hội Công Giáo cũng chỉ là một tổ chức con người và cũng phạm tội.

Vị giáo hoàng thay đổi toàn thể hình ảnh của Giáo Hội Công Giáo trong cái nhìn của thế giới là Ðức Gioan XXIII. Trong khi các giáo hoàng trước đây mang hình ảnh của một đấng vị vọng và ngay cả xa cách với người dân, Ðức Gioan XXIII là một người vui tính, thật tự nhiên, yêu quý đời sống cũng như dân chúng và ngài không ngần ngại bộc lộ điều ấy. Ðó là một ông cụ bảy mươi sáu tuổi thường mời bạn hữu đến dùng cơm, hay lang thang trên đường phố Rôma để chuyện trò với dân chúng, luôn đến thăm các bệnh viện và nhà tù, và thường kể chuyện vui làm mọi người đều thích thú. Người Công Giáo và Kitô Hữu nói chung đều hân hoan khi thấy đức giáo hoàng cũng là một con người bình thường, và ngài đã chinh phục được nhiều tâm hồn cũng như sự trung kiên của nhiều người.

Tuy nhiên, thật sai lầm khi nghĩ rằng Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII là một người hiểu biết tầm thường. Ðiều nổi bật trong triều đại ngắn ngủi của ngài là sự tin cậy vào Thiên Chúa và cái nhìn sáng suốt của ngài. Thay vì công khai chống đối cộng sản, hoặc bất cứ chính thể nào, Ðức Gioan XXIII tìm cách hòa giải và chuyển trao thông điệp của ngài đến với mọi người: Pacem in Terris (Hoà Bình Trên Thế Giới) và Mater et Magister về trật tự xã hội. Ngài kêu gọi mọi người hãy cùng nhau làm việc để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, phù hợp với các nguyên tắc về công bằng và ích lợi chung mà đã được mọi người công nhận.

Ðức Gioan XXIII còn là người mở đường cho phong trào đại kết, tái hợp nhất mọi Kitô Hữu. Vào đầu thế kỷ mười chín, sự lưu tâm mạnh mẽ đến vấn đề đại kết được phát sinh trong công cuộc truyền giáo của Tin Lành. Họ thấy thật dại dột và hổ thẹn khi các giáo phái Kitô Giáo khác nhau lại tranh dành các lãnh thổ truyền giáo. Các tổ chức nổi tiếng như "Faith and Order" (1925) và "Life and Work" (1927) cố gắng đem người Tin Lành lại với nhau trên phương diện học thuyết và phục vụ. Vào năm 1948, các tổ chức này kết hợp thành tổ chức duy nhất "World Council of Churches". Giáo Hội Công Giáo vẫn đứng tách biệt không dính dáng gì đến sinh hoạt đại kết này, vì cho rằng các người Tin Lành phải giải quyết các mâu thuẫn của họ trước khi thảo luận về sự tương giao với Giáo Hội Công Giáo. Các giáo hoàng tiền nhiệm cho rằng Ðức Giêsu chỉ thiết lập một đức tin và một giáo hội thực, là Giáo Hội Công Giáo. Trong khi không từ chối tính cách độc đáo của Giáo Hội Công Giáo, Ðức Gioan XXIII nhận thức rằng người Công Giáo phải đến với các Kitô Hữu khác và cộng tác với họ để tìm kiếm sự hiệp nhất mà Ðức Giêsu đã mong muốn cho dân của Ngài. Ðức Gioan XXIII đặc biệt yêu quý Giáo Hội Chính Thống Giáo, vì ngài từng là đại diện đức giáo hoàng ở vùng Cận Ðông. Khi đến lúc triệu tập công đồng, Ðức Gioan XXIII đã mời các quan sát viên từ mọi truyền thống Kitô Giáo, và đón nhận các ý kiến cũng như suy tư của họ về diễn tiến của công đồng.

Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII: "Mười Điều Tâm Niệm" Sống Ngày Hôm Nay

1. Ngày hôm nay, tôi sẽ sống tích cực trọn vẹn, chứ không tìm cách giải quyết mọi vấn đề của đời mình.
2. Ngày hôm nay, tôi sẽ chú ý đặc biệt đến dáng vẻ của mình: ăn mặc đơn sơ, không lớn tiếng, lịch sự trong cách ứng xử; tôi sẽ không phê phán ai; tôi cũng sẽ không đòi ai phải ứng xử hoặc kỷ luật ai, trừ ra chính con người của mình.
3. Ngày hôm nay, tôi vui sướng tin chắc rằng tôi được tạo dựng để sống hạnh phúc, không chỉ cho đời sau mà ngay cả từ đời này.
4. Ngày hôm nay, tôi sẽ sống theo hoàn cảnh của mình, mà không đòi hỏi hoàn cảnh phải phù hợp với những ước muốn của tôi.
5. Ngày hôm nay, tôi sẽ dành 10 phút để đọc điều gì thật hữu ích, và luôn nhớ rằng lương thực cần cho cuộc sống như thế nào thì đọc điều hữu ích cũng cần thiết để nuôi dưỡng cho linh hồn mình như vậy.
6. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm một điều tốt mà không kể cho ai nghe.
7. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một điều tôi không thích: và nếu tôi bị tổn thương, thì tôi cũng không cho ai biết điều này.
8. Ngày hôm nay, tôi sẽ hoạch định một chương trình cho riêng tôi: tôi có thể không theo sát được từng chữ, nhưng tôi sẽ có một chương trình như thế. Và tôi sẽ đề phòng hai điều tai hại: cẩu thả và lừng khừng, không dám quyết tâm.
9. Ngày hôm nay, tôi tin chắc rằng, dù thế nào đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn yêu thưong tôi như chỉ có mình tôi trên thế gian này.
10. Ngày hôm nay, tôi sẽ không sợ hãi gì. Tôi sẽ không ngần ngại thưởng ngoạn vẻ đẹp thiên nhiên và tin tưởng vào lòng nhân ái của con người và cuộc đời.
Thực thế, trong vòng 12 tiếng đồng hồ, tôi chắc chắn có thể làm tốt điều mà tôi nghĩ rằng sẽ thật kinh hoàng nếu phải làm nó suốt cả đời.

 

Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII: Chiến Sĩ Kinh Mân Côi

 

Khi còn nhỏ, Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII yêu mến Kinh Mân Côi và cầu nguyện bằng lời kinh ấy mỗi buổi tối cùng với gia đình. Ngài đem tình yêu Kinh Mân Côi vào trong đời linh mục của mình; khi là Tổng giám mục Venice, ngài đọc 15 chục Kinh Mân Côi mỗi ngày. Sau khi được bầu làm giáo hoàng, thông điệp thứ 3 (26/09/1959) trong triều đại của ngài là về Kinh Mân Côi có tựa đề Grata Recordatio. Trong đó, ngài nhắc lại và ca ngợi các thông điệp về Kinh Mân Côi của Đức Giáo hoàng Lêô XIII. Qua đó, Đức Gioan XXIII khẳng định rằng Kinh Mân Côi là biện pháp xã hội nhằm khắc phục thời đại rối ren mà ngài được chọn để dẫn dắt Giáo Hội.

Tình yêu Kinh Mân Côi của Đức Gioan XXIII lớn tới mức ngài thiết lập hẳn một lịch trình hằng ngày trong triều đại giáo hoàng cho phép ngài cầu nguyện hoàn toàn bằng Kinh Mân Côi. Ngài đọc Năm Sự Vui vào buổi sáng, Năm Sự Thương vào buổi trưa, và lúc 7h30 mỗi buổi tối ngài đọc Năm Sự Mừng với các thành viên phục vụ điện giáo hoàng (thư ký, các nữ tu, quản gia). Ngài đã viết hàng loạt bài suy niệm về các mầu nhiệm Kinh Mân Côi, và lưu ý rằng sau Thánh lễ và Các Giờ Kinh Phụng Vụ thì Kinh Mân Côi có vị trí cao quý trong số các hình thức đạo đức Kitô giáo. Đức Gioan XXIII đặc biệt hỗ trợ tôi tớ Chúa, Patrick Peyton, trong những nỗ lực của Patrick để cổ võ các chiến dịch Kinh Mân Côi và gia đình Mân Côi, và khích lệ mọi người cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi. Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII coi Kinh Mân Côi là hình thức cầu nguyện đơn giản và dễ dàng nhất.

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp từ tài liệu của TGP Sài Gòn, Đaminh VN và Muốn Nên Thánh

 

 

 


Thứ Hai

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 4, 22-24. 26-27. 31 - 5, 1

"Chúng ta không phải là con của nữ tỳ, nhưng là con của người vợ tự do".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, có lời chép rằng: Abraham có hai người con trai: một sinh bởi người nữ tỳ, và một sinh bởi người vợ tự do. Nhưng con sinh bởi nữ tỳ, thì đã sinh ra theo lối xác thịt, còn con sinh bởi người vợ tự do, đã sinh ra bởi lời hứa. Những sự ấy đã được nói cách bóng bảy, vì hai người vợ tiêu biểu cho hai giao ước: một bởi núi Sanai, sinh con cái làm nô lệ, đó là Agar. Còn Giêrusalem ở trên cao thì được tự do, đó là mẹ chúng ta, vì có lời chép rằng: "Hỡi người son sẻ, chẳng sinh con, hãy hân hoan! Hỡi người không sinh sản, hãy vui reo và hò lên! Vì con cái của người vợ bị ruồng bỏ, lại đông hơn con của gái có chồng".

Bởi đó, anh em thân mến, chúng ta không phải là con của nữ tỳ, nhưng là con của người vợ tự do; chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta. Anh em hãy đứng vững, đừng để bị đặt dưới ách nô lệ một lần nữa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 112, 1-2. 3-4. 5a và 6-7

Ðáp: Nguyện danh Chúa được chúc tụng đến muôn đời! (c. 2).

Xướng: 1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa! Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời! - Ðáp.

2) Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen! Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa. - Ðáp.

3) Ai được như Thiên Chúa chúng ta, Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất? Người nâng kẻ hèn hạ lên khỏi trần ai, và rước người nghèo khó khỏi nơi phẩn thổ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 11, 29-32

"Không ban cho dòng giống này điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: "Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona. Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Walking in Holiness: Luke 11, 29-32MONDAY HOMILY: Seeking Signs - Year of Faith - Homily - Catholic Online

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

 

Chúa Giêsu Kitô - Điềm Lạ duy nhất cho những ai tin vào Người

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXVIII Thường Niên, cũng là bài Phúc Âm cùng một nội dung được Thánh ký Mathêu thuật lại và được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Hai Tuần XVI Thường Niên - Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XVI Thường Niên.

 

Tuy nhiên, bài Phúc Âm cùng nội dung này của Thánh ký Mathêu cho Thứ Hai Tuần XVI Thường Niên được Giáo Hội chọn đọc chung với một Bài Đọc 1 trong Cựu Ước, còn bài Phúc Âm cùng nội dung của Thánh ký Luca hôm nay được Giáo Hội chọn đọc chung với Bài Đọc 1 trong Tân Ước. 

 

Nội dung của Bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến điềm lạ Giona, một điềm lạ ám chỉ Chúa Kitô và cuộc vượt qua của Người là Đấng mà con người cần phải tin tưởng chấp nhận mới được cứu độ:

"Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: 'Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona. Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa'". 

"Điềm lạ của tiên tri Giona" là gì, nếu không phải, như Bài Đọc 1 cho năm lẻ của các ngày Thứ Hai, Thứ Ba và Thứ Tư tuần trước cho thấy, là điềm lạ vị tiên tri này sẵn sàng bị ném xuống biển để cứu sinh mạng của những con người ở trên một con tầu bấy giờ đang bị bão tố sắp bị nhận chìm, nhưng chính vị tiên tri này cũng không chết mà tiếp tục tục sống trong bụng cá 3 ngày 3 đêm cho đến khi được nó nhả ra trên bãi biển, một điềm lạ như báo trước cuộc vượt qua của Chúa Kitô, Đấng cũng nằm trong lòng đất cho đến ngày thứ ba thì phục sinh vinh hiển. 

Tại sao Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay khẳng định rằng: "Giòng giống này là giòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ..."? Tại vì, đó là thói quen họ vẫn có từ thời họ được Thiên Chúa bắt đầu tỏ mình ra cho họ, cứu họ một cách vô cùng lạ lùng cho khỏi mảnh đất nô lệ Ai Cập mà mang họ về Đất Hứa tự do, bằng biết bao nhiêu là dấu lạ điềm thiêng họ được chứng kiến thấy suốt 40 năm trường, từ Ai Cập, qua sa mạc, về Đất Hứa. Họ hoàn toàn khác hẳn với người Hy Lạp, thuộc thế giới Tây phương Âu Châu, thiên về lý trí và triết lý, phải có lý mới đáng tin, nên khi Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại vừa nói đến biến cố phục sinh của Chúa Kitô họ liền bỏ đi (xem Tông Vụ 17:22-34).

Vì là Vị Thiên Chúa Nhập Thể, một mẫu gương truyền giáo hội nhập văn hóa, Chúa Giêsu muốn sử dụng chính yếu tố bất khả thiếu nơi dân Do Thái là "điềm lạ" này để cho họ tin vào Người mà được cứu độ. Thế nhưng, Người có ý nói gì nơi "điềm lạ tiên tri Giona"? Bình thường chúng ta vẫn hiểu là biến cố tiên tri Giona vẫn còn sống sau 3 ngày ở trong bụng cá dưới biến ám chỉ Chúa Kitô Vượt Qua.

Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu một cách khác nữa. Đó là hiện tượng vô cùng lạ lùng dân thành Ninive dân ngoại lại tin vào vị tiên tri Do Thái hoàn toàn xa lạ đối với họ, khi vị tiên tri này vừa đi mới có 1/3 đường trong thành của họ, vừa nghe thấy vị tiên tri này loan báo họ sẽ bị trừng phạt bởi tội lỗi họ, họ liền ăn năn hoán cải ngay lập tức, từ vua đến dân, từ người đến thú.

Phải, Chúa Kitô Vượt Qua chính là điềm lạ cho dân Do Thái là thành phần dân riêng của Người, thành phần chẳng những không chấp nhận Người (xem Gioan 1:11) mà còn sát hại Người cho bằng được, nhưng họ chẳng làm gì được Người vì Người là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa hằng sống bất tử không thể nào không sống lại để chiến thắng tội lỗi và sự chết, để làm chủ cả sự chết lẫn sự sống, để làm cho con người được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn (xem Gioan 10:10).  

Tuy nhiên, cho dù Người đã sống lại từ trong cõi chết, hay nói cách khác, cho dù họ có giết Người, vẫn không làm gì được Người, và vẫn thấy rằng Người sống lại đúng như lời Người đã khẳng định trước, về Đền Thờ mà Người thách họ cứ phá đi (xem Gioan 2:19), và chính họ đã căn cứ vào lời ấy mà lên án tử cho Người sau khi Người cho họ biết họ đúng như những gì vị thượng tế Caipha nhân danh Thiên Chúa mà hỏi Người (xem Mathêu 26:61-62), thế mà họ vẫn nhất quyết không tin Người, trái lại, còn cố gắng phủ lấp sự thật phục sinh của Người, bằng cách loan tin giả - fake news, hoàn toàn xuyên tạc thực tại phục sinh vinh hiển của Người (xem Mathêu 27:62-66,28:11-15), nên cho đến nay họ vẫn không tin Người, vẫn mong đợi một đấng thiên sai chính trị theo ý nghĩ trần gian của họ.

Dầu sao, họ vẫn không thể không chứng kiến thấy tận mắt, cho đến ngày nay, "dấu lạ Giona" được Chúa Kitô hứa ban cho họ, đó là, trong khi chính họ là dân Chúa không tin Người "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa" (Mathêu 16:16), là chính Đấng Thiên Sai thực sự của họ, thì dân ngoại, được tiêu biểu nơi dân Thành Ninive xưa, khắp nơi trên thế giới, lại tin vào một Đại Tiên Tri người Do Thái là Chúa Giêsu Kitô, như xưa dân Ninive đã tin vào tiên tri Giona người Do Thái lạ mặt.

Đúng thế, "dấu lạ Giona" là ở chỗ đó, dân ngoại qui tụ lại nơi Giáo Hội Chúa Kitô đã tin vào nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét của dân Do Thái là chính Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại, một Đấng Cứu Thế đang hiện diện nơi Giáo Hội được Người thiết lập, một Giáo Hội nếu không được Người ở với không thể nào tồn tại tới ngày nay, vì trong suốt giòng lịch sử của mình, đã liên tục bị bách hại và sát hại khắp nơi, trái lại, còn trở thành một "cây vĩ đại đến độ chim trời tìm đến làm tổ trên các cành của nó" (Mathêu 13:32), thành một trung tâm quyền lực đệ nhất trên thế giới về luân lý, nơi các lãnh đạo chư quốc và quốc tế tìm đến tham vấn, dưới hình thức dân sự là một Quốc Đô Vatican, một quốc gia nhỏ nhất thế giới, có bang giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả chính Do Thái, một quốc gia bắt đầu chấp nhận bang giao với Quốc Đô Vatican từ năm 1999, ngay trước Đại Năm Thánh 2000!

"Dấu lạ Giona" này càng làm rõ ý nghĩa về 2 người con của tổ phụ Abraham, một sinh ra theo xác thịt bởi người nữ nô lệ Ai Cập là Agar, và một sinh ra theo Lời Hứa là Isaac. Nếu người con sinh ra bởi xác thịt là dân ngoại, còn người con sinh bởi Lời Hứa là dân Do Thái theo mạc khải Cựu Ước, thì trong tân Ước, qua "dấu chỉ Giona", lại cho thấy hoàn toàn ngược lại: Người con được sinh ra theo xác thịt lại chính là đứa con theo Lời Hứa, vì tin vào Con Thiên Chúa nên "được Người ban cho quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), còn người con sinh ra bởi Lời Hứa trở thành đứa con theo xác thịt, đúng như dụ ngôn hai người con được cha mời gọi đi làm vườn nho cho cha, người con cả ám chỉ thành phần tội lỗi dân Do Thái nhưng đồng thời cũng là dân ngoại vốn bị dân Do Thái cho là xấu xa nhơ nhớp đáng xa tránh, còn người con thứ lại là đứa con chấp nhận lời cha mà lại không làm theo ý cha, nên trở thành em trong việc tin vào Chúa Kitô sau dân ngoại và vì thế dân ngoại được vào Nước Trời trước với tư cách là anh (xem Mathêu 21:28-32).

Cũng thế, trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, ám chỉ dân ngoại là thành phần vì tin Chúa Kitô nên cũng đã được chia gia tài cho với dân Do Thái, một dân thánh trong vai người anh luôn ở nhà với cha, không hề làm mất lòng cha theo như anh ta tưởng, nhưng cuối cùng vẫn không được dự bữa tiệc Thánh Thể được người cha khoản đãi cho đứa em hoang đàng trở về qua bí tích hòa giải với cha (xem Luca 15:11-32). Hay trong dụ ngôn thợ làm vườn nho cho chủ, đợt thợ đầu tiên ám chỉ dân Do Thái, nhưng lại được lĩnh tiền công sau đợt thợ cuối cùng ám chỉ dân ngoại và cũng lĩnh được bằng số tiền như nhau (xem Mathêu 20:1-16). Hoặc trong dụ ngôn bọn tá điền, ám chỉ riêng thành phần lãnh đạo dân Do Thái và chung dân Do Thái, được chủ trao cho vườn nho để canh tác và sinh hoa lợi, nhưng cuối cùng vườn nho đã lọt vào tay dân ngoại là Giáo Hội Chúa Kitô (xem Mathêu 21:33-43).

Đúng thế, tất cả mọi sự là do chính Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan đầy yêu thương sắp xếp theo ân sủng của Ngài, không phải cho riêng một cá nhân nào hay cho một dân tộc nào, mà là cho chung cộng đồng nhân loại được Ngài dựng nên và cứu chuộc, nhất là những ai nhận biết Ngài và đáp ứng ân sủng Ngài ban, những ai có vẻ "hèn hạ" và "nghèo khó", đúng như tâm tình hân hoan chúc tụng vinh quang Chúa của Thánh Vịnh 112 được diễn tả trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa! Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời!

2) Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen! Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa.

3) Ai được như Thiên Chúa chúng ta, Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất? Người nâng kẻ hèn hạ lên khỏi trần ai, và rước người nghèo khó khỏi nơi phẩn thổ.



 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 4, 31b - 5, 6

"Cắt bì là vô giá trị, nhưng chỉ có đức tin hoạt động bởi đức mến".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta. Anh em hãy đứng vững, đừng để bị đặt dưới ách nô lệ một lần nữa. Chính tôi đây, Phaolô, tuyên bố cho anh em rằng: Nếu anh em chịu cắt bì, thì Ðức Kitô chẳng làm nên công trạng gì cho anh em. Tôi chứng thực một lần nữa với mọi người nào chịu cắt bì rằng: họ bị bắt buộc phải giữ trọn cả lề luật. Anh em muốn công chính hoá bởi lề luật, thì anh em tự tách biệt khỏi Ðức Kitô, và đã mất ân sủng rồi.

Về phần chúng tôi, nhờ Thánh Thần và nại vào đức tin, chúng tôi mong chờ trông cậy sự công chính. Bởi chưng trong Ðức Giêsu Kitô, cắt bì hay không cắt bì đều vô giá trị, nhưng chỉ có đức tin hoạt động bởi đức mến.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 41. 43. 44. 45. 47. 48

Ðáp: Lạy Chúa, xin rủ lòng thương xót đến con (c. 41a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin rủ lòng thương xót đến con, xin ban ơn phù trợ theo lời Ngài đã hứa. - Ðáp.

2) Xin đừng rút lời chân lý khỏi miệng con, vì con trông cậy vào sắc dụ của Ngài. - Ðáp.

3) Con sẽ tuân giữ luật pháp Chúa luôn luôn, cho tới muôn ngàn đời và mãi mãi. - Ðáp.

4) Con sẽ bước đi trên đường rộng rãi, vì con tìm kiếm huấn lệnh của Ngài. - Ðáp.

5) Các chỉ thị Ngài làm cho con hoan lạc, đó là những điều con vẫn mến yêu. - Ðáp.

6) Con giang tay cầu chỉ thị của Chúa, và con suy gẫm về những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 11, 37-41

"Hãy bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, lúc Chúa Giêsu còn đang nói, thì có một người biệt phái mời Người dùng bữa tại nhà ông. Người đi vào và ngồi bàn ăn. Nhưng người biệt phái ngạc nhiên, nghĩ trong lòng rằng tại sao Người không rửa tay trước khi dùng bữa.

Bấy giờ Chúa phán cùng ông ấy rằng: "Này các ông, những người biệt phái, các ông lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham lam và gian ác. Hỡi những kẻ ngu dại, chớ thì Ðấng đã tạo thành cái bên ngoài, lại chẳng tạo thành cả cái bên trong sao? Hãy đem những cái bên trong ra mà bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông".

Ðó là lời Chúa.

The Gospel of the day: 13th October – Archdiocese of Malta

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Ba Tuần XXVIII Thường Niên, tương tự như bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Thứ Ba Tuần V Thường Niên về vấn đề rửa tay trước khi ăn. 

Tuy nhiên, ở bài Phúc Âm Thánh ký Marco Tuần V Thường Niên, vấn đề không rửa tay trước khi ăn xẩy ra nơi một số môn đệ của Chúa Giêsu (xem Marco 7:2), trong khi ở bài Phúc Âm hôm nay lại xẩy ra với chính Chúa Kitô, như Thánh ký Luca thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay:

"Khi ấy, lúc Chúa Giêsu còn đang nói, thì có một người biệt phái mời Người dùng bữa tại nhà ông. Người đi vào và ngồi bàn ăn. Nhưng người biệt phái ngạc nhiên, nghĩ trong lòng rằng tại sao Người không rửa tay trước khi dùng bữa".

Chắc chắn Chúa Kitô đã biết cái thói lệ thông thường không phải là luật Chúa này của dân Do Thái mà lại là những gì những ai thông luật và giữ luật như thành phần biệt phái vốn coi trọng, nhưng có lẽ Người chủ ý không làm như vậy, không rửa tay trước khi ăn, để nhân cơ hội này dạy cho họ một bài học về những gì cần thiết và quan trọng hơn cả những gì là bề ngoài được họ đặt nặng:

"Bấy giờ Chúa phán cùng ông ấy rằng: 'Này quí vị, những người biệt phái, quí vị lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm quí vị lại đầy những tham lam và gian ác. Hỡi những kẻ ngu dại, chớ thì Ðấng đã tạo thành cái bên ngoài, lại chẳng tạo thành cả cái bên trong sao? Thế nhưng nếu quí vị bố thí đi những gì quí vị có thì mọi sự sẽ được tẩy sạch cho quí vị'".

Đúng thế, qua câu giáo huấn chí lý nhưng hết sức thực tế này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy rằng Người chú trọng đến nội tâm hơn hành động biểu hiện, đến tinh thần hơn hình thức bề ngoài. Cho dù vẫn cần đến hành vi cử chỉ bề ngoài và hình thức biểu hiệu đấy, nhưng chúng phải là những gì phản ảnh nội tâm, phản ảnh tinh thần, chứ không phải là những gì thuần hình thức và máy móc, bất xứng với con người là loài có tâm linh và ý thức.

Nếu bề ngoài dù có những hành vi cử chỉ tốt lành hay có những việc làm có vẻ đạo đức như "lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham lam và gian ác" thì tất cả chỉ là giả hình che mắt thiên hạ, làm để lấy tiếng khen... Cho đến khi họ bị hiểu lầm hay chống đối hoặc bị chê bai bởi chính những việc giả hình họ làm, họ liền lộ cái chân tướng đầy kiêu căng tự ái của họ, thậm chí họ còn có những hành vi cử chỉ chọc gậy bánh xe, chống phá, thơ nặc danh v.v., như đã từng xẩy ra ở các cộng đoàn Việt Nam từ trước đến nay. 

Đó là lý do Chúa Giêsu đã dạy cho thành phần biệt phái cũng như cho chúng ta là thành phần môn đệ của Người, nhưng vẫn bị nhập nhiễm men giả hình giả tạo của họ, một nguyên tắc hay một đường lối làm cho chúng ta không còn sống giả hình mà là sống chân chính đúng như Thiên Chúa muốn, đó là hãy: "Bố thí đi những gì quí vị có thì mọi sự sẽ được tẩy sạch cho quí vị'".

Câu này của Chúa Giêsu có nghĩa là gì? Người khuyên chúng ta ra sao đây để có thể thực hành cho chính xác và có hiệu nghiệm?? Tại sao "bố thí đi những gì (mình) có" là phương cách duy nhất và hiệu nghiệm nhờ đó "mọi sự sẽ được tẩy sạch" cho chúng ta???

Phải chăng ở đây Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng để mọi việc làm của chúng ta, để mỗi một và tất cả mọi hành vi cử chỉ được bày tỏ ra bề ngoài của chúng ta được chân thực, hoàn toàn không có gì là giả tạo, bôi bác, hình thức v.v. chúng ta cần phải sống hết mình, phải ý thức những gì mình làm, phải dứt khoát từ bỏ, như "bố thí đi những gì mình có", những ý hướng xấu xa vị kỷ ham danh hơn là sống hoàn toàn vì Chúa và cho tha nhân v.v.!?

 

Đúng thế, chỉ khi nào con người hoàn toàn không còn gì nữa, không còn cả chính bản thân mình nữa, bấy giờ họ mới trở nên trong sạch, mới được biến đổi trở thành con người mới, mới có thể sống như Đấng "dù danh phận là Thiên Chúa, nhưng cũng không tự coi mình cứ phải ngang hàng với Thiên Chúa mới được, một đã hóa ra như không..." (Philiphe 2:6-7). Đó là lý do, trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị tông đồ dân ngoại Phaolô mới đề cập đến tình trạng "tự do", không bị lệ thuộc, tình trạng thanh thoát, nhờ đó con người có thể "tự do" làm con cái Chúa và như con cái Chúa, chứ không vụ hình thức "cắt bì" hay "lề luật" như dân Do Thái xưa, bằng không, ân sủng chẳng còn ý nghĩa và giá trị gì nữa, đã bị tục hóa bởi con người:

 

"Anh em thân mến, chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta. Anh em hãy đứng vững, đừng để bị đặt dưới ách nô lệ một lần nữa... Nếu anh em chịu cắt bì, thì Ðức Kitô chẳng làm nên công trạng gì cho anh em. ... Anh em muốn công chính hoá bởi lề luật, thì anh em tự tách biệt khỏi Ðức Kitô, và đã mất ân sủng rồi.... trong Ðức Giêsu Kitô, cắt bì hay không cắt bì đều vô giá trị, nhưng chỉ có đức tin hoạt động bởi đức mến".

 

Dầu sao, tự bản chất thì "cắt bì" hay "lề luật" vẫn là những gì tốt lành và cần thiết, bởi cả 2 từ Thiên Chúa qui định và ban bố qua, qua tổ phụ Abraham đã có qui định "cắt bì" như là dấu chỉ giao ước với Ngài và thuộc về Ngài (Khởi Nguyện 17:13), và qua Moisen mới có "lề luật" là những gì hướng dẫn họ để họ theo Ngài và được ở với Ngài. Bởi thế mà Chúa Kitô đã đến không phải để hủy bỏ lệ luật và lời các tiên tri mà là làm cho nên trọn (xem Mathêu 5:17), chẳng những ở chỗ chính tinh thần của lề luật được Người chỉ dạy cho các môn đệ của Người biết ở bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi, nhất là ở chính bản thân Người, Đấng được hạ sinh dưới lề luật để cứu những ai sống dưới lề luật hầu cho họ được trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa (xem Galata 4:4-5).

 

Nếu chúng ta được công chính hóa bởi Chúa Kitô, Đấng đã được hạ sinh dưới lề luật và thậm chí bị chết bởi lề luật, thì có nghĩa là chúng ta được cứu bởi ân sủng của Người hơn là bởi lề luật của Người, và chúng ta có sống bởi ân sủng của Người chúng ta mới sống trọn ý muốn của Người, mới chu toàn tất cả những gì Ngài muốn nơi chúng ta, những gì được gọi là "sắc dụ" (câu 2), "luật pháp" (câu 3), "huấn lệnh" (câu 4), "chỉ thị" (câu 5) hay "thánh chỉ" (câu 6), đúng như chiều hướng của Thánh Vịnh 118 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Lạy Chúa, xin rủ lòng thương xót đến con, xin ban ơn phù trợ theo lời Ngài đã hứa.

2) Xin đừng rút lời chân lý khỏi miệng con, vì con trông cậy vào sắc dụ của Ngài.

3) Con sẽ tuân giữ luật pháp Chúa luôn luôn, cho tới muôn ngàn đời và mãi mãi.

4) Con sẽ bước đi trên đường rộng rãi, vì con tìm kiếm huấn lệnh của Ngài.

5) Các chỉ thị Ngài làm cho con hoan lạc, đó là những điều con vẫn mến yêu.

6) Con giang tay cầu chỉ thị của Chúa, và con suy gẫm về những thánh chỉ của Ngài.

 

 

 

 

 

Thứ Tư

 

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 5, 18-25

"Những ai thuộc về Ðức Kitô, thì đóng đinh xác thịt cùng với các dục vọng vào thập giá".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, nếu anh em được Thánh Thần hướng dẫn, anh em không còn ở dưới chế độ lề luật nữa. Vả chăng người ta thừa hiểu sự nghiệp của xác thịt là: tà dâm, ô uế, phóng đãng, buông tuồng, thờ lạy thần tượng, phù phép, thù hằn, kình địch, ghen tương, giận dữ, cãi lẫy, bất bình, bè phái, giết người, say sưa, mê ăn uống, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho anh em hay, như tôi đã từng nói rằng: hễ những ai phạm các điều lỗi đó, sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.

Còn hoa quả của Thánh Thần là: yêu thương, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, khoan dung, dịu hiền, trung trực, đức hạnh, tiết độ, trinh khiết. Lề luật không chống lại các điều ấy. Vả chăng, những ai thuộc về Ðức Kitô, thì đã đóng đinh xác thịt cùng với các dục vọng và đam mê vào thập giá. Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần, chúng ta cũng hãy ăn ở theo Thánh Thần.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

Ðáp: Lạy Chúa, ai theo Chúa sẽ được ánh sáng ban sự sống (c. Jo 8,12).

Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.

3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường lối người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 11, 42-46

"Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái, và khốn cho các ngươi, hỡi những tiến sĩ luật".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi nộp thuế thập phân, bạc hà, vân hương, và các thứ rau, mà lại bỏ qua đức công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa: Phải thi hành những điều này, và không được bỏ những điều kia. Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi ưa thích ngồi ghế nhất trong các hội đường, và ưa thích được chào hỏi ngoài phố chợ. Khốn cho các ngươi, vì các ngươi giống những mồ mả không rõ rệt, người ta bước đi ở trên mà không hay biết!"

Có một tiến sĩ luật trả lời Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy nói như thế là Thầy sỉ nhục cả chúng tôi nữa". Người đáp lại rằng: "Hỡi những tiến sĩ luật, khốn cho các ngươi nữa! Vì các ngươi chất lên người ta những gánh nặng không thể vác được, mà chính các ngươi dù một ngón tay cũng không động tới".

Ðó là lời Chúa.

 

4 Ways religious people go wrong

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

 

Các khuynh hướng đạo theo của thành phần biệt phái và luật sĩ Do Thái

 

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Tư Tuần XXVIII Thường Niên, và bài Phúc Âm ngày mai của ngài, cả hai cộng lại dài 1/3 của đoạn 11 và cả hai đều ở vào cuối đoạn 11 này, một khúc Phúc Âm liên quan đến những lời khiển trách thậm tệ của Chúa Giêsu với thành phận biệt phái và luật sĩ trong dân Do Thái, những lời khiển trách này cũng đã được Thánh ký Mathêu giành nguyên đoạn 23 dài để thuật lại và đã được Giáo Hội chọn đọc cho 4 ngày liền: Thứ Bảy Tuần XX Thường NiênPhụng Vụ Lời Chúa - Tuần XX Thường Niên, và Thứ Hai, Thứ Ba cùng Thứ Tư Tuần XXI Thường Niên -  Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXI Thường Niên. 

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, trước hết Chúa Giêsu đã khiển trách thành phần biệt phái, thành phần trong bài Phúc Âm hôm qua vừa được Người vạch ra cho thấy họ chỉ sống vụ hình thức và bề ngoài mà nội tâm rỗng tuyếch và không có gì là chân thực. Người đã khiển trách họ 3 điều chính yếu theo thứ tự như sau: 


1- Khuynh hướng giảm khinh - coi thường những gì chính yếu: "Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi nộp thuế thập phân, bạc hà, vân hương, và các thứ rau, mà lại bỏ qua đức công b
ình và lòng yêu mến Thiên Chúa: Phải thi hành những điều này, và không được bỏ những điều kia".   

 

2- Lòng ham hố danh vọng - coi mình là đệ nhất thiên hạ: "Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi ưa thích ngồi ghế nhất trong các hội đường, và ưa thích được chào hỏi ngoài phố chợ".  

 

3- Nội tâm như nấm mộ chứa đầy những "tham lam và gian ác" (Bài Phúc Âm hôm qua) - được che đậy bằng những dáng vẻ đạo đức bề ngoài che mắt thiên hạ: "Khốn cho các ngươi, vì các ngươi giống như những nấm mồ kín đáo mà người ta không biết dẵm bước lên trên!"

 

Chúa Giêsu chẳng những khiển trách thành phần biệt phái mà còn cả thành phần luật sĩ nữa, vì cả hai đều là thành phần thông luật, giữ luật và đóng vai trò làm thày dạy luật cho dân chúng. Bởi thế, nghe thấy Chúa Giêsu khiển trách thành phần biệt phái như thế thì "có một tiến sĩ luật" cảm thấy bị động lòng - như thể nghe về người khác thì nghĩ đến thân mình liền lên tiếng: "Thưa Thầy, Thầy nói như thế là Thầy sỉ nhục cả chúng tôi nữa".   

 

Lợi dụng cơ hội thuận lợi này, Chúa Giêsu liền vạch trần bộ mặt thật của thành phần luật sĩ ấy nữa như sau: "Hỡi những tiến sĩ luật, khốn cho các ngươi nữa! Vì các ngươi chất lên người ta những gánh nặng không thể vác được, mà chính các ngươi dù một ngón tay cũng không động tới".   

 

Nghĩa là thành phần luật sĩ này bị Chúa Giêsu khiển trách là họ đã tỏ ra nghiêm ngặt với người khác mà nới rộng với bản thân họ về vấn đề tuân giữ lề luậtỞ chỗ, họ bắt người ta tuân giữ kỹ càng và tỉ mỉ đủ mọi luật lệ, trong khi đó cái gì hợp với họ hay dễ giữ thì họ giữ, hoặc giữ để qua mắt thiên hạ, còn cái nào không hợp hay khó khăn thì bỏ qua, tùy theo cách giải thích luật một cách chủ quan vụ lợi của họ.

 

Thánh phần bị Chúa Giêsu khiển trách thậm tệ trong Bài Phúc Âm hôm nay, có thể nói, là thành phần được Thánh Phaolô diễn tả trong Bài Đọc 1 hôm nay là còn sống theo xác thịt, theo trần tục thế gian: "... ô uế, phóng đãng, buông tuồng, thờ lạy thần tượng, phù phép, thù hằn, kình địch, ghen tương, giận dữ, cãi lẫy, bất bình, bè phái, giết người, say sưa, mê ăn uống, và những điều khác".

 

Nghĩa là họ đã không sống theo tinh thần của lề luật, không sống theo Thần Trí của Thiên Chúa là Đấng đã ban lề luật cho họ qua Moisen, trái lại, nếu họ được Thần Trí của Ngài hưóng dẫn và tuân theo tác động thần linh của Ngài, thì họ đã tỏ ra những gì hoàn toàn ngược lại, như Thánh Phalô cũng đã diễn tả về các hoa quả của Thánh Thần trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "Yêu thương, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, khoan dung, dịu hiền, trung trực, đức hạnh, tiết độ, trinh khiết. Lề luật không chống lại các điều ấy. Vả chăng, những ai thuộc về Ðức Kitô, thì đã đóng đinh xác thịt cùng với các dục vọng và đam mê vào thập giá. Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần, chúng ta cũng hãy ăn ở theo Thánh Thần"

 

Và đó là lý do câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay mới thốt lên lời xác tín rằng: "Lạy Chúa, ai theo Chúa sẽ được ánh sáng ban sự sống". Cũng chính vì thế mà Thánh Vịnh thứ nhất mới chất chứa tâm tình và cảm nhận về số phận hoàn toàn tương phản với nhau về thành quả xuất phát từ 2 loại người, từ những ai không sống theo xác thịt gian ác, cũng như từ những ai sống "gian ác" theo trần gian:
 

1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.

3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường lối người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.

 

 

Ngày 14-10: Thánh Calixtô I, Giáo Hoàng Tử Đạo ( 222)

saintCallistus.jpg

 

Chúng ta có được những dữ kiện xác thực về vị thánh này là từ người thù địch với ngài, đó là Hippolytus, vị Giáo Hoàng đối lập đầu tiên, sau này đã tử đạo. Nguyên tắc phủ định được áp dụng: Nếu Callistus có làm điều gì sái quấy, chắc chắn Hippolytus sẽ nhắc đến.

Dầu vậy, thánh Hypolytô không thể ngụy tạo các sự kiện hiển nhiên được và biết lượng định theo lương tri, chúng ta biết nhiều về thánh Calistô I hơn các Đức Giáo Hoàng tiên khởi khác. 
Người là nô lệ của một Kitô hữu tên là Carpôphôrô. Biết được khả năng về kinh tế và tài tổ chức của ngài, ông đặt ngài quản trị một ngân hàng. Công cuộc làm ăn thất bại, chúng ta có thể tin chắc rằng Calistô vô tội chứ không phải ngài biển thủ ngân quỹ như Hipolytô qui trách. Để đòi lại những món nợ bởi người Do thái, ngài bắt buộc phải vào một hội đường. Thế nhưng những người Do thái lại tố cáo ngài là Kitô hữu. Quan tổng trấn Rôma bắt ngài, đánh đòn rồi gửi đi làm lao công ở các hầm mỏ miền Sardinia.

Callistus là một nô lệ trong đám gia nhân của triều đình Rôma, một Kitô hữu tên là Carpôphôrô. Biết được khả năng về kinh tế và tài tổ chức của ngài, ông đặt ngài quản trị một ngân hàng. Công cuộc làm ăn thất bại, chúng ta có thể tin chắc rằng Calistô vô tội chứ không phải ngài biển thủ ngân quỹ như Hipolytô qui trách. Nhưng có nguồn khác lại nói ngài được giao cho công việc giữ tiền của chủ, ngài đánh mất tiền, bỏ trốn và bị bắt. Sau khi phục dịch một thời gian, ngài được thả ra để tìm lại số tiền. Để đòi lại những món nợ bởi người Do thái, ngài bắt buộc phải vào một hội đường. Thế nhưng những người Do thái lại tố cáo ngài là Kitô hữu. Quan tổng trấn Rôma bắt ngài, đánh đòn rồi gửi đi làm lao công ở các hầm mỏ miền Sardinia. Một nguồn khác cho rằng vì quá hăng say, ngài lại bị bắt vì cãi nhau trong đền thờ người Do Thái. Lần này ngài bị đày đi làm hầm mỏ ở Sardinia. Sau đó ngài được thả về nhờ sự can thiệp của bà vợ bé của hoàng đế, và sống ở Anzio (vùng bờ biển địa đầu danh tiếng của thế chiến II)

Một nguồn khác lại kể rằng khi bà Marcia, người thân của hoàng đế Commođô, chắc có lẽ là vợ bé của hoàng đế này, như vừa được đề cập tới, xin được ơn phóng thích cho các tội nhân, Calistô trở về. Đức Giáo Hoàng Victor gửi ngài tới Antium để dưỡng sức và cấp dưỡng cho ngài. Điều này chứng tỏ rằng việc ngài bị Đức Giáo Hoàng Victor gạch tên khỏi sổ những người bị tù tội vì đức tin, mà Hipolytô viết ra là sai sự thật. Đến khi thánh Zephirinô lên kế vị Đức Giáo Hoàng Victor, Calistô được đặt làm Tổng phó tế và có nhiệm vụ coi sóc các nghĩa trang của người Kitô ở Rôma, có lẽ đây là phần đất đầu tiên do Giáo hội làm chủ. Ðức Giáo Hoàng phong cho ngài làm phó tế, coi ngài là bạn và là người cố vấn.. Ngài xây dựng một mộ địa mang tên ngài. Đây là tài sản do một người bạn có quyền thừa kế tên là Cêcilia dâng tặng. Calistô đã tỏ ra là một nhà quản trị có khả năng, nên năm 217, ngài được chọn làm Giáo Hoàng kế vị thánh Zephirinô. Chính ngài được bầu làm Giáo Hoàng với đa số phiếu của hàng giáo sĩ và giáo dân ở Rôma, và do đó bị tấn công cách chua chát bởi Hippolytus, người thất cử, là người tự đặt mình là Giáo Hoàng đối lập đầu tiên trong lịch sử Giáo hội. Sự phân ly này kéo dài 18 năm.

Trên ngai Giáo Hoàng, Đức Callistô I tỏ ra là người kiên quyết bảo vệ đức tin tôn giáo. Ngài đã kết án Sabelliô vì ông này chủ trương sai lạc về tín điều Chúa Ba Ngôi. Đối với Hipolytô, ngài cảnh cáo chủ trương sai lạc theo khuynh hướng nhị nguyên của ông về Chúa Giêsu. Tuy nhiên về phương diện kỷ luật, ngài tỏ ra rất khôn ngoan và nhân từ. Dường như chính ngài là đấng đã tổ chức các tước vị tại Rôma, tại các nhà thờ thuộc giáo xứ ... 

Hippolytus được tôn kính như một vị thánh. Ngài bị lưu đày trong thời kỳ cấm cách năm 235, và đã hòa giải với Giáo hội. Ngài chết vì sự tra tấn ở Sardinia. Hippolytus tấn công Callistus về hai điểm — học thuyết và kỷ luật. Dường như Hippolytus đã đi quá xa trong việc phân biệt giữa Chúa Cha và Chúa Con (hầu như hai Chúa), có lẽ vì ngôn ngữ thần học thời ấy chưa được rõ ràng. Ngài cũng kết án Callistus là quá khoan dung, vì những lý do có thể khiến chúng ta ngạc nhiên: (1) Callistus cho phép những người đã thực hiện việc đền tội, sám hối công khai về tội giết người, dâm dục và ngoại tình được Rước lễ; (2) ngài hợp thức hóa hôn nhân giữa người nô lệ và người tự do – trái với luật Rôma; (3) ngài cho phép truyền chức cho các ông đã lập gia đình hai hay ba lần; (4) ngài chủ trương tội trọng không phải là lý do đầy đủ để cách chức một Giám mục; (5) ngài chủ trương chính sách khoan dung đối với những người đã từng chối đạo trong thời kỳ bách hại.

Năm 222, thánh Calistô I từ trần bằng một cái chết dữ dằn. Theo truyền thuyết, ngài bị đám đông giận dữ nổi loạn ném xuống giếng, tại Tarstevere. Người ta cho rằng các lương dân căm thù vì bị ngài trục xuất đã đưa tới cái chết này. Từ đầu tới cuối, ngài là một con người cương nghị và độc tài. Ngài được chôn cất, không phải nơi hầm mộ mang tên ngài, nhưng tại nghĩa địa ở đường Aurelia. Ðức Callistus là vị Giáo Hoàng đầu tiên (ngoại trừ thánh Phêrô) được coi là tử đạo trong danh sách tử đạo tiên khởi của Giáo Hội.

Lời bàn

Ðời sống của thánh nhân cho thấy con đường lịch sử của Giáo hội, cũng như của một tình yêu chân chính, không bao giờ êm ả. Giáo hội đã và đang phải trải qua những phấn đấu cam go để xác định các mầu nhiệm đức tin trong một ngôn ngữ, mà tối thiểu, phải tạo thành bức chắn ngăn trở sự sai lầm. Về phương diện kỷ luật, Giáo hội phải giữ được lòng thương xót của Ðức Kitô chống lại sự khắt khe, trong khi vẫn giữ được lý tưởng Phúc Âm yêu cầu một sự hối cải và kỷ luật bản thân tận căn. Mỗi một Giáo Hoàng – đúng hơn mỗi một Kitô hữu – phải đi trên con đường khó khăn giữa sự khoan hồng "hợp lý" và sự nghiêm khắc "hợp lý".

Vì thánh Callistô I đã quá nhận thức được sự tha thứ của Thiên Chúa trong đời sống tư riêng của mình, nên thánh nhân rất sẵn lòng tha thứ cho người khác. Chúng ta có tha thứ cho người khác với cùng một mức độ mà chúng ta mong muốn Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta không?

Lời trích

Ðức Giêsu nói về những người thời ấy, "giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ nói với nhau, 'Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không than khóc'. Vì ông Gioan [Tẩy Giả] đến, không ăn không uống, thì chúng bảo: 'Ông ta bị quỷ ám'. Con Người đến, ăn uống như mọi người, thì chúng lại bảo: 'Ðây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.'" (Matthew 11:16b-19a).

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ tài liệu của Xito Thiên Phước và Vết Chân Người

 


Thứ Năm


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 1, 1-10

"Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian".

Khởi đầu bức thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Phaolô, Tông đồ của Ðức Giêsu Kitô bởi ý định của Thiên Chúa, kính gửi các thánh ở Êphêxô và (là) các tín hữu trong Ðức Giêsu Kitô. (Nguyện chúc) ân sủng và bình an cho anh em do tự Thiên Chúa, Cha chúng ta, và Chúa Giêsu Kitô.

Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng đã chúc lành cho chúng ta bằng mọi phúc lành thiêng liêng trên trời, trong Ðức Kitô. Như Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương. Chiếu theo thánh ý của Ngài, Ngài đã tiền định cho chúng ta được phúc làm con nhờ Ðức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta trong Con yêu dấu của Ngài.

Trong Người, chúng ta được ơn cứu chuộc nhờ máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng Ngài. Ân sủng này Ngài đã đổ tràn đầy trên chúng ta với tất cả sự khôn ngoan thượng trí, khiến chúng ta được biết mầu nhiệm ý định của Ngài theo ý Ngài đã định về Người, để kiện toàn trong thời gian viên mãn, là thâu hồi vạn vật trên trời dưới đất trong Ðức Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6

Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người (c. 2a).

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca! - Ðáp.

4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với đàn cầm, với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 11, 47-54

"Sẽ bị đòi nợ máu của các tiên tri đã đổ ra, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa phán: "Khốn cho các ngươi! Hỡi những người xây cất mồ mả các tiên tri, mà tổ phụ các ngươi đã giết chết. Thật, các ngươi làm chứng và tán thành những hành động của tổ phụ các ngươi: vì thực ra họ đã giết các vị tiên tri, còn các ngươi thì xây mồ mả cho họ. Bởi đó mà sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã nói: Ta sẽ sai đến với chúng các tiên tri và các tông đồ, trong số các vị đó, người thì chúng giết đi, người thì chúng bách hại, khiến cho dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu của tất cả các tiên tri đã đổ ra từ lúc tạo thành vũ trụ, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria, người đã bị sát hại giữa bàn thờ và thánh điện. Phải, Ta bảo các ngươi, dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu. Khốn cho các ngươi! Hỡi những tiến sĩ luật, vì các ngươi cất giữ chìa khoá sự hiểu biết. Chính các ngươi đã không được vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã ngăn cản họ lại".

Khi người phán bảo cùng các biệt phái và tiến sĩ luật những lời đó, thì họ bắt đầu oán ghét Người một cách ghê gớm, và chất vấn Người về nhiều vấn đề, cố gài bẫy Người để may ra bắt bẻ được lời gì do miệng Người thốt ra chăng.

Ðó là lời Chúa.

 

16 | October | 2013 | CatholicJules.net

 

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa


 

Các thương tật đạo theo của thành phần biệt phái và luật sĩ Do Thái

 

 

 

Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXVIII Thường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca được tiếp tục với bài Phúc Âm hôm qua là bài Phúc Âm thuật lại lời Chúa Giêsu khiển trách cả thành phần biệt phái lẫn thành phần luật sĩ về tính chất giả tạo và đời sống hình thức của họ. 

Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với cả 2 thành phần này một lúc, những lời nói khiến họ cảm thấy bị hạ nhục một cách công khai trong khi họ là những bậc thày dạy về luật lệ trong dân chúng và cho dân chúng. Bởi thế, ở đoạn kết bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca đã cho chúng ta thấy phản ứng dữ dội nơi 2 thành phần này như sau:

"Khi người phán bảo cho các người biệt phái và tiến sĩ luật những lời đó, thì họ bắt đầu oán ghét Người một cách ghê gớm, và chất vấn Người về nhiều vấn đề, cố gài bẫy Người để may ra bắt bẻ được lời gì do miệng Người thốt ra chăng". 

Vậy, sau khi khiển trách từng thành phần trong họ ở bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu đã nói với cả hai thành phần này những gì nữa khiến họ đã tỏ ra căm tức quá như thế? Căn cứ vào những lời Chúa Giêsu nói với họ, thì Người cảnh báo rằng họ sẽ bị trả nợ máu: 

"Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã nói: Ta sẽ sai đến với chúng các tiên tri và các tông đồ, trong số các vị đó, người thì chúng giết đi, người thì chúng bách hại, khiến cho dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu của tất cả các tiên tri đã đổ ra từ lúc tạo thành vũ trụ, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria, người đã bị sát hại giữa bàn thờ và thánh điện. Phải, Ta bảo các ngươi, dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu". 

Thực tế cho thấy họ chẳng giết hại tiên tri nào vào thời của họ hết, như vị vẫn được coi là tiên tri như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, vị đã bị quận vương Hêrôđê giết chứ không phải họ. Thế nhưng, cũng căn cứ vào lời Chúa Giêsu khẳng định, thì việc họ xây mồ mả cho các vị tiên tri do cha ông của họ sát hại là việc họ, bề ngoài, như thể tỏ ra tôn kính các tiên tri, bù đắp cho các vị, nhưng gián tiếp họ đã tỏ ra công nhận là cha ông họ đã sát hại các vị tiên tri ấy: 

"Khốn cho các ngươi! Hỡi những người xây cất mồ mả các tiên tri, mà tổ phụ các ngươi đã giết chết. Thật, các ngươi làm chứng và tán thành những hành động của tổ phụ các ngươi: vì thực ra họ đã giết các vị tiên tri, còn các ngươi thì xây mồ mả cho họ".  

Thế nhưng, hành động xây mồ mả cho các vị tiên tri của họ, đối với Chúa Giêsu, không phải là việc họ bù đắp cho các vị tiên tri hay công nhận các vị tiên tri, cho bằng họ "làm chứng và tán thành những hành động của tổ phụ các ngươi". Tại sao Chúa Giêsu lại có vẻ hiểu lầm họ một cách oan nghiệt như thế, như thể Người muốn ngăn chặn con đường ăn năn hoán cải của họ, bằng cách hoàn toàn phủ nhận công việc lành thánh họ muốn làm để bù đắp lỗi lầm cho cha ông của họ như vậy chứ?   

Phải chăng ở đây Chúa Giêsu muốn ngầm tiên báo cho họ biết trước rằng, cho dù họ có thiện chí xây dựng lại mồ mả cho các vị tiên tri nạn nhân của cha ông họ, họ cũng chẳng hơn gì cha ông của họ đâu, mà thậm chí họ còn tệ hơn cha ông của họ nữa, bởi họ có thực sự không sát hại các vị tiên tri như cha ông của họ đã làm, nhưng họ sẽ nhúng tay vào việc sát hại một vị đại tiên tri trên hết các tiên tri, Vị Thiên Sai của Thiên Chúa là chính bản thân Người!?! - "dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu" là thế!  

Đúng vậy, họ "sẽ bị đòi nợ máu" của chính Đấng Thiên Sai Cứu Thế, như chính họ đã tự nguyện chấp nhận với Tổng Trấn Philatô: "hãy cứ để cho máu của hắn đổ lên chúng tôi và con cháu chúng tôi" (Mathêu 27:35), nhưng lại chính là máu đổ ra để cứu chuộc họ, đổ ra một cách nhưng không và vô cùng nhân ái, hoàn toàn không do công nghiệp của họ và cho dù họ cố tình nhúng tay vào việc sát hại Người chăng nữa, miễn là họ tin tưởng vào Người, chứ không tin vào việc tuân giữ lề luật của họ.

Nếu thành phần bị Chúa Giêsu công khai, trực tiếp và thậm tệ khiển trách trong bài Phúc Âm hôm nay, cũng như trong các bài Phúc Âm mấy ngày vừa qua, liên quan đến chủ trương duy luật và đời sống giả hình tự cho mình là công chính của họ, thì trong Bài Đọc 1 trong mấy ngày vừa qua, Thánh Phaolô, dù viết gửi cho giáo đoàn Galata, hay giáo đoàn Epheso, chỉ liên lỉ nhấn mạnh đến ân sủng Chúa, liên quan đến ơn cứu độ và công chính hóa bởi Chúa Kitô và nơi Chúa Kitô thôi, chứ không phải do việc giữ luật của con người, đúng hơn, khi nhận được ân sủng Chúa ban, họ biết chấp nhận và đáp ứng ân sủng của Ngài một cách xứng đáng cho vinh quang của Ngài.

 

"Thiên Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng đã chúc lành cho chúng ta bằng mọi phúc lành thiêng liêng trên trời, trong Ðức Kitô. Như Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương. Chiếu theo thánh ý của Ngài, Ngài đã tiền định cho chúng ta được phúc làm con nhờ Ðức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta trong Con yêu dấu của Ngài. Trong Người, chúng ta được ơn cứu chuộc nhờ máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng Ngài. Ân sủng này Ngài đã đổ tràn đầy trên chúng ta với tất cả sự khôn ngoan thượng trí, khiến chúng ta được biết mầu nhiệm ý định của Ngài theo ý Ngài đã định về Người, để kiện toàn trong thời gian viên mãn, là thâu hồi vạn vật trên trời dưới đất trong Ðức Kitô".

 

Và đó là lý do, trong cả Bài Đáp Ca, được trích từ Thánh Vịnh 91, chúng ta cũng thấy những ý thức về ân sủng Chúa và tâm tình ca ngợi Chúa

1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca!

4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với đàn cầm, với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua.

 

 

 

Thánh Têrêsa Avila (1515-1582)

15 Tháng Mười

 

 

ĐTC Biển Đức XVI về

 

Thánh Teresa d’Avila

 

 

 

Thánh Têrêsa Avila: Tiểu Sử

Thánh nữ Têrêsa sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515, tại Avila, nước Tây Ban Nha, trong một gia đình quý tộc đạo đức.

Từ khi còn là cô gái nhỏ trong gia đình giàu có, Têrêsa và người anh trai là Rôđrigô đã ham thích đọc truyện các thánh và các đấng tử đạo, thấy các ngài can đảm hy sinh chịu khổ chịu chết vì Chúa, và được nên thánh trong Hội thánh. Có lần ngài bảo em: "Chúng ta hãy đến chỗ người ta đang bắt đạo, để chị em mình được chết vì đạo, được Chúa thưởng lên thiên đàng hưởng phước với các thánh.” Thánh nữ chỉ mong được lên thiên đàng, và rất sợ hình khổ hỏa ngục. Dường như đối với hai trẻ, các vị thánh tử đạo vào nước trời thật là dễ dàng!  Rồi hai trẻ bí mật trẩy tới một miền đất xa lạ, hy vọng ở đây có thể được chết cho Đức Chúa Giêsu. Nhưng may thay, chưa đi được bao xa thì hai trẻ đã gặp người cậu!  Lập tức, ông đem các trẻ về cho bà mẹ đang lo lắng của chúng..  Rồi hai trẻ lại quyết định làm hai vị ẩn sĩ trong khu vườn của mình, nhưng việc này cũng chẳng thành công.  Các trẻ không có đủ đá để xây các túp lều cho mình. Chính Thánh nữ Têrêsa Avila đã viết lại các mẩu chuyện vui này khi kể về cuộc đời thơ ấu của ngài. 

Têrêsa có lòng kính mến Đức Mẹ đặc biệt. Ngày ngày, ngài lần chuỗi Mân Côi để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ. Và năm lên 12 tuổi, khi mẹ ngài mất, ngài đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ, xin Đức Mẹ nhận ngài làm con, và hứa suốt đời sống xứng đáng làm con Đức Mẹ. Và sự việc là khi bước vào tuổi hoa niên, Têrêsa đã thay đổi hoàn toàn!  Têrêsa Avila ham thích đọc quá nhiều truyện tiểu thuyết và các truyện lãng mạn ngốc nghếch đến nỗi ngài đã giảm lòng ham ước cầu nguyện.  Têrêsa bắt đầu để ý nhiều về cách trang điểm để làm đẹp.  Nhưng sau khi trải qua một cơn bạo bệnh, Têrêsa Avila đọc truyện thánh Giêrônimô.  Và lập tức, Têrêsa Avila quyết định sẽ trở nên hiền thê của Đức Chúa Giêsu.  Têrêsa Avila gia nhập dòng Cátminh năm 1536.

Năm 1530 nhân tuần cấm phòng tại tu viện thánh Augustinô, thánh nữ cảm thấy ước nguyện đi tu mỗi lúc một thôi thúc mạnh mẽ trong tâm hồn, Ngài trở về ngỏ ý xin cha cho phép vào tu trong dòng Carmelô, nhưng cha Ngài nhất định khưóc từ. Dầu vậy, Têrêsa không sờn lòng, ngài vẫn kiên trì hun đúc ý chí cầu nguyện sống tận hiến theo tiếng Chúa gọi. Một hôm thánh nữ phân vân không biết quyết định làm sao, theo tiếng Chúa  gọi hay vâng lời cha già, thì một câu nói của thánh Giêrônimô đã giúp ngài định hướng dứt khoát cho cuộc đời của mình: “Cả khi cha mẹ con, nằm lăn trước cửa để ngăn cản con đi tu, thì con cũng cứ can đảm bước đi vì tiếng Chúa trong con hơn...” Thế là chim bằng vỗ cánh vút cao trên nền trời xanh thẳm.

Năm 1533, Têrêsa vừa đúng 18 tuổi, ngài nhất định cất bước lên đường vào tu trong dòng “Nhập thể”. Sống cuộc đời mới, thánh nữ hân hoan như cá gặp nước, ngài tiến bộ rất nhanh trên đường tu đức. Ngày 2.11.1535 ngài được mặc áo dòng. Cuộc đời tưởng sẽ êm suôi nhưng không phải thế. Bao nhiêu cơn cám dỗ nặng nề về đức tin và ý hướng tận hiến nổi lên. Thêm vào đó là tâm trí mệt mỏi, bệnh thần kinh xuất hiện hành hạ đến nỗi bề trên phải cho ngài về nhà uống thuốc nghỉ bệnh. Ơn kêu gọi trải qua một cơn sóng gió nặng nề. Nhiều khi thánh nữ cảm thấy chán nản, muốn nhắm mắt để mặc thế gian lôi cuốn. Thế nhưng ý Chúa nhiệm mầu. Chính lúc Têrêsa cảm thấy mình yếu đuối hơn cả thì lại là lúc Chúa hoạt động nơi ngài mạnh hơn hết. Quả thế, một hôm thánh nữ đang say sưa mơ tưởng những sự thế gian, thì bàn tay quan phòng của Chúa đã đến đúng lúc thức tỉnh thánh nữ. Tiếng nói mầu nhiệm của Chúa đã lọt vào lòng thánh nữ: “Cha không muốn con mê mải sự thế gian và tiếp xúc với người đời mà cha chỉ muốn con tiếp xúc với các thiên thần”.

Cả khi đã khấn dòng, Têrêsa Avila vẫn thường cảm thấy khó cầu nguyện.  Thêm vào đó, sức khỏe của Thánh nữ rất yếu kém.  Mỗi ngày, Têrêsa phung phí thời giờ vào những cuộc trò chuyện vô bổ.  Thế rồi một ngày kia, khi đứng trước bức ảnh của Đức Chúa Giêsu, Têrêsa cảm thấy hết sức đau buồn vì đã chưa yêu mến Người cho đủ.  Và thánh nữ bắt đầu tập sống cho riêng một mình Đức Chúa Giêsu dù phải hy sinh khó nhọc đến mức độ nào.  Đáp lại tình yêu của Têrêsa, Chúa Giêsu đã ban cho Thánh nữ đặc ân được nghe tiếng Chúa nói trong tâm hồn.  Têrêsa Avila cũng học biết cầu nguyện cách tuyệt diệu.  Thánh nữ nổi danh vì đã thiết lập thêm mười sáu tu viện Cátminh mới.  Các tu viện này chứa đầy các nữ tu ham ước sống cuộc đời thánh thiện.  Họ làm nhiều việc hy sinh vì lòng yêu mến Đức Chúa Giêsu.  Chính Têrêsa Avila đã nêu gương sáng cho các nữ tu này.  Thánh nữ cầu nguyện với rất nhiều tình yêu và thi hành các nhiệm vụ hằng ngày cách chăm chỉ.

Năm 1558, vào sau dịp lễ Phục Sinh, thánh nữ được trông thấy hai bàn tay của Chúa Giêsu rồi tiếp sau là khuôn mặt sáng ngời của Ngài. Lần khác Chúa cho thánh nữ trông thấy địa ngục đầy dẫy những hình khổ và lửa đỏ cháy ngùn ngụt thiêu đốt những linh hồn tội lỗi...

Những thị kiến ấy đã gợi lên nơi thánh nữ ý tưởng phải lập một dòng nhiệm nhặt hơn, chuyên lo đền tội. Thiên Chúa đã chúc lành cho ý định của ngài và giúp ngài thực hiện.

Ngày 24.8.1562, tu viện đầu tiên đã mọc lên ở Avila và ngày ngày có nhiều thiếu nữ xin gia nhập. Quy luật dòng rất nghiêm nhặt, như đi chân không, chú trọng đến việc ăn chay, hãm mình đánh tội, thức khuya dậy sớm, đọc kinh cầu nguyện rất nhiều. Và cũng từ đó, các tu viện được xây cất thêm mỗi ngày một đông, chứng tỏ Thiên Chúa rất hài lòng với công việc lớn lao của thánh nữ.

Cầu nguyện và suy ngắm chiếm điạ vị ưu tiên trong tinh thần tu đức của thánh nữ. Phương pháp cầu nguyện tốt nhất là đặt mình trước mặt Chúa và nhận biết sự nhỏ bé, hèn mọn của mình.

Đề tài thánh Têrêsa ưa nguyện ngắm hơn cả là đời sống hy sinh và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Vì thế trong mọi hoàn cảnh, thánh nữ luôn múc lấy sức mạnh nơi thánh giá Chúa và luôn luôn tâm niệm lời Chúa phán: “hãy vác thánh giá và theo Chúa”. Thánh nữ đã viết: “Tôi không phàn nàn về thân phận của tôi, quả thực tôi không yếu đuối như những phụ nữ khác. Tôi có một trái tim quả cảm. Thiên Chúa nâng đỡ những ai quyết tin tưởng nơi Ngài. Chúa là sức mạnh, là nơi nương tựa và hướng đạo của tôi”.

Thánh Têrêsa đã sống và đã chết với lòng tin tưởng ấy. Thánh nữ hay than thở với Chúa: “Lạy Chúa, dù thành công hay thất bại, dù vui sướng hay đau khổ con vẫn một lòng tin tưởng vào Chúa”. Thánh nữ qua đời ngày tại Alba de Tormes ngày 05.10.1582 hưởng thọ 67 tuổi. Năm 1622 đức Gregoriô XV phong ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1970 Đức Thánh Cha Phaolô VI tôn phong ngài lên hàng tiến sĩ của Giáo Hội.

 

Thánh Têrêsa Avila: Với Các LH trong Luyện Ngục

 


Thánh nữ Têrêsa Avila thương các linh hồn Luyện ngục cách đặc biệt. Bà hay giúp các linh hồn bằng lời cầu nguyện, hi sinh và việc từ thiện. Để thưởng công, Thiên Chúa thường cho bà được thấy các linh hồn lúc ra khỏi Luyện ngục về Thiên đàng. Các linh hồn này từ lòng đất đi ra. Bà thánh viết: ” Tôi được tin một Bề trên Tỉnh dòng mà tôi quen biết đã qua đời. Khi còn sống ngài đã giúp tôi nhiều. Dù vị tu sĩ này được coi là có nhiều nhân đức, nhưng tôi thấy cần cầu nguyện cho linh hồn ngài, bởi ngài làm Bề trên trong thời gian 20 năm, nên tôi e ngại nhiều về việc săn sóc các linh hồn đã được trao phó cho ngài. Phiền muộn, tôi đi tới nhà Nguyện dâng lên Chúa chút việc lành đã làm, và van nài công nghiệp vô cùng của Chúa, xin giải thoát linh hồn vị Bề trên này khỏi Luyện ngục. Trong khi tôi đang sốt sắng khẩn nài như vậy, tôi thấy vị Bề trên này từ lòng đất đi lên phía bên phải tôi, rồi lên thẳng Thiên đàng cách vui vẻ. Vị Bề trên này đã cao tuổi, nhưng tôi thấy dáng người như ở tuổi ba mươi, vẻ mặt rạng ngời ánh sáng. Thị kiến này xảy ra rất ngắn, nhưng tôi không nghi ngờ chút nào về sự thật tôi đã được thấy. Dù ở xa chô ngài qua đời, đôi khi tôi cũng cảm thấy cái chết của ngài, nước mắt ngài chảy ra và khiêm tốn phó mình cho Thiên Chúa.

“Một nữ tu dòng tôi, qua đời chưa được hai ngày, khi chúng tôi đang đọc kinh nguyện cho chị, tôi thấy linh hồn chị đi từ lòng đất lên thẳng Thiên đàng.

“Cũng trong tu viện này, một nữ tu khác quãng 18 đến 20 tuổi mới qua đời. Chị thật là một mẫu gương sốt sắng, kỉ luật và nhân đức. Đời chị đã chịu nhiều đau khổ, bệnh nạn cách rất kiên trì. Tôi không nghi ngờ gở khi thấy cuộc sống như vậy, nghĩ rằng chắc sẽ khỏi phải vào Luyện ngục. Tuy nhiên, sau khi chị qua đời mười lăm phút, lúc chúng tôi đang cầu cho chị trong nhà Nguyện, tôi thấy linh hồn chị từ lòng đất bay thẳng về trời” (Purgatory p. 11-13).

Thánh Têrêsa Avila: Với Thời Đại

Thánh Têrêsa Avila sống trong thời kỳ nhiều khai phá cũng như nhiều biến động chính trị, xã hội và tôn giáo. Ðó là thế kỷ 16, thời của hỗn loạn và cải tổ. Cuộc đời của thánh nữ bắt đầu với sự cực thịnh của phong trào cải cách Tin Lành, và chấm dứt sau Công Ðồng Triđentinô ít lâu.

Ơn sủng mà Thiên Chúa ban cho Têrêsa mà qua đó ngài trở nên thánh thiện, để lại gương sáng cho Giáo Hội và hậu thế gồm có ba điểm: Ngài là một phụ nữ; ngài là người chiêm niệm; ngài là người tích cực sửa đổi.
Là một phụ nữ, nhưng Têrêsa giữ vững lập trường của mình trong một thế giới “trọng nam khinh nữ” vào thời đó. Ngài là người cương quyết, gia nhập dòng Camêlô bất kể sự chống đối kịch liệt của cha mình. Ngài không phải là một con người chìm trong sự thinh lặng cũng như sự huyền bí. Ðẹp, có tài, giỏi giao tế, dễ thích ứng, trìu mến, can đảm, hăng say, ngài thực sự là một con người. Cũng như Ðức Giêsu, ngài có những mâu thuẫn lạ lùng: khôn ngoan, nhưng thực tế; thông minh, nhưng đi đôi với kinh nghiệm; huyền bí, nhưng là người quyết liệt cải cách. Một phụ nữ thánh thiện, nhưng cũng đầy nữ tính.
Têrêsa là một phụ nữ “vì Chúa”, một phụ nữ của cầu nguyện, kỷ luật và giàu lòng thương. Tâm hồn ngài thuộc về Chúa. Sự hoán cải của ngài không chỉ là một công việc tức thời, nhưng đó là một tranh đấu gian khổ suốt cả đời, bao gồm sự trường kỳ thanh luyện và đau đớn. Ngài bị hiểu lầm, bị đánh giá sai, bị chống đối khi ngài nỗ lực cải cách. Tuy nhiên ngài vẫn tiếp tục, vẫn can đảm và trung tín; ngài chống trả với chính bản thân, với bệnh tật. Và trong cuộc chiến đấu ấy, ngài luôn bám víu lấy Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Những văn bản của ngài về sự cầu nguyện và chiêm niệm là chính những kinh nghiệm bản thân của ngài: thật mạnh mẽ, thật thiết thực và thanh cao. Một phụ nữ của cầu nguyện, một phụ nữ vì Chúa.
Têrêsa cũng là một phụ nữ “vì tha nhân.” Qua sự chiêm niệm, ngài dành nhiều thời giờ và sức lực để tìm cách thay đổi chính ngài và các nữ tu Camêlô, để đưa họ trở về với những quy tắc ban đầu của nhà dòng. Ngài sáng lập trên sáu tu viện mới. Ngài đi đây đó, viết lách, chiến đấu — luôn luôn để canh tân, để cải tổ. Trong chính bản thân ngài, trong lời cầu nguyện, trong đời sống, trong nỗ lực cải tổ, trong tất cả mọi người ngài gặp, ngài là người phụ nữ vì tha nhân, người phụ nữ làm phấn khởi cuộc đời.

Thánh nữ Têrêsa Avila là nhà lãnh đạo đại tài cũng như là một người rất mực yêu mến Đức Chúa Giêsu và Giáo hội.  Têrêsa Avila về trời năm 1582 và được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh năm 1622.  Đến năm 1970, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã tôn nhận Têrêsa Avila làm nữ Tiến sĩ Hội Thánh đầu tiên của Giáo hội Công giáo.


Bất cứ khi nào cần một chút “sức đẩy tinh thần” để cầu nguyện cách tập trung và yêu mến hơn, chúng ta có thể cầu xin với thánh Têrêsa Avila.  Chúng ta hãy nài xin thánh nữ giúp chúng ta biết tìm những phương thế thực tiễn để có thể trung thành cầu nguyện mỗi ngày.
Lời Bàn
Ngày nay chúng ta sống trong một thời đại nhiều xáo trộn, thời đại cải tổ và thời đại giải phóng. Các phụ nữ thời đại có thể nhìn đến Thánh Têrêsa như một thách đố. Thúc giục canh tân, thúc giục cầu nguyện, tất cả đều có trong con người Thánh Têrêsa là người đáng khâm phục và noi gương.

Lời Trích
Thánh Têrêsa hiểu rõ giá trị của sự đau khổ liên tục (bệnh tật thể xác, không muốn cải tổ, khó khăn cầu nguyện), nhưng ngài đã luyện tập để có thể chịu đau khổ, ngay cả khao khát đau khổ: “Lạy Chúa, hoặc là đau khổ hoặc là chết.” Cho đến gần cuối đời, ngài đã kêu lên: “Ôi lạy Chúa! Thật đúng là bất cứ ai làm việc cho Ngài đều được trả bằng những khó khăn! Và đó thật đáng giá cho những ai yêu mến Ngài nếu chúng con hiểu được giá trị của nó.”

Thánh Têrêsa Avila: Biệt Danh


Bên cạnh những danh xưng mà người ta gán cho ngài như: Vị cải tổ dòng Cát Minh, người con của Giáo Hội, nhà đại chiêm niệm, nhân chứng của Thiên Chúa tình yêu thì hình ảnh đậm đà và đẹp nhất người ta thích nói về ngài là hình ảnh
 Têrêsa của Chúa Giêsu.

Giai thoại nổi tiếng sau đây cho chúng ta thấy điều đó.

Hồi ngài ở đan viện Toledo, một ngày kia, ngài bỗng thấy một cậu bé khôi ngô, thánh nữ ngạc nhiên dừng bước hỏi:

- Này em, em tên gì?

Cậu bé không trả lời ngay, nhưng hỏi ngược lại:

- Thưa bà, vậy bà tên chi?

- Tôi tên là Têrêsa của Chúa Giêsu.

Thánh Nữ đáp.

Cậu bé mỉm cười rất dễ thương tiếp lời:

- Tôi, tôi tên là ... Giêsu của Têrêsa!

Nói xong, cậu bé "Giêsu của Têrêsa" biến mất...

Đức Thánh Cha Gioan XXIII rất thích câu chuyện này. Ngài ghi lại trong quyển nhật ký của Ngài mấy dòng tư tưởng sau đây:

"Tôi phải sống thế nào để Chúa Giêsu cũng nói với tôi, như thuở xưa Ngài đã nói với Thánh Têrêsa thành Avila: "Tôi tên là Giêsu của Têrêsa". Vậy tiên vàn, tôi phải là Angêlô của Chúa Giêsu trước đã..."

Vâng! Mỗi người chúng ta phải là người của Chúa Giêsu.


THÁNH TÊRÊSA AVILA: CÁC CÂU CHÂM NGÔN


- “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra.”

- “Khi ta chỉ có một tham vọng làm đẹp lòng Chúa, thì chính Chúa sẽ ban cho ta sức mạnh để thắng mọi tình cảm khoe khoang..”

-“Cái gì ngăn cản chúng ta dùng con mắt của tâm hồn để nhìn về Chúa?  Ngài chỉ chờ đợi cái nhìn của chúng ta mà thôi.”

-“Đừng để gì làm bạn xao động, và làm bạn sợ hãi.  Mọi sự đều đang qua đi; Thiên Chúa không bao giờ thay đổi.  Sự nhẫn nại chịu đựng đem lại tất cả.  Ai có Thiên Chúa thì không thiếu thốn gì.  Một mình Thiên Chúa đã đủ.”

-“Kẻ kiên nhẫn sẽ đạt được tất cả.”

-“Cho dù đang mắc tội trọng đi nữa, anh em cũng cứ cầu nguyện.  Tôi xin đảm bảo với anh em rằng anh em sẽ đạt đến bến cảng phần rỗi.”

-“Trong quãng thời gian hai mươi tám năm, tôi đã mất hơn mười tám năm trời trong cuộc chiến giằng co vì tôi đã cố sức dung hoà Thiên Chúa với thế gian.”

-“Đừng bao giờ ngoan cố, nhất là trong những điều quan trọng.  Chúa Kitô không cưỡng ép ý chí chúng ta, Người chỉ nhận những gì chúng ta dâng hiến cho Người mà thôi.  Nhưng Chúa cũng không ban mình hoàn toàn cho chúng ta cho đến khi nào Người thấy chúng ta phó mình trọn vẹn cho Người.”

-Thánh Têrêsa Avila, một hôm chịu quá nhiều đau khổ nên trách với Chúa rằng, “Tại sao Chúa lại để cho con nhiều thánh giá thế này.”  Chúa liền hiện ra với chị Thánh và nói, “Vì Cha yêu thương con, nên Cha mới gửi đến cho con nhiều đau khổ, thánh giá, ngõ hầu con làm vinh danh Cha và cứu các linh hồn.”

-Trên đường đi thành lập một đan viện Carmelite, thánh nữ Têrêsa Avila đã bị lật xe và người ta nghe ngài kêu lên: “Thảo nào Chúa chẳng có bao nhiêu bạn hữu, vì Chúa đối xử với họ như thế này đây.”
 

- Khi đã trở nên người của Chúa Giêsu thì thánh Têrêsa sẵn sàng sống tuân theo mọi đòi hỏi của Chúa. Ngài luôn cầu nguyện:

"Lạy Chúa, từ nay con muốn quên đi chính mình, hầu chỉ chú tâm vào việc con có thể làm gì để phụng sự Chúa, và con không còn ý muốn nào khác ngoài Thánh Ý Chúa".



THÁNH TÊRÊSA AVILA: SỐNG TÌNH YÊU CHÚA GIÊSU

 

Chúng ta hãy luôn luôn nhớ đến tình yêu của Chúa Ki-tô Giê-su

Bài đọc 2 Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 15/10

Trích tác phẩm của thánh Tê-rê-xa Giê-su, trinh nữ.

Ai được Chúa Ki-tô Giê-su là bạn thân và là nhà lãnh đạo hào hiệp ngự trong lòng, thì có thể chịu đựng mọi sự. Quả thật, chính Người trợ lực và tăng cường sức mạnh cho chúng ta ; Người không bỏ rơi ai, vì Người là bạn thân đích thực và chân thành. Tôi thấy rõ là : nếu chúng ta muốn đẹp lòng Thiên Chúa và được Người ban cho những ân huệ lớn lao, thì chính Thiên Chúa lại muốn những ơn ấy đến với chúng ta qua bàn tay của con người Giê-su cực thánh, là Đấng mà Thiên Chúa uy nghi đã tuyên bố là rất đẹp lòng Người.

Rất nhiều lần do kinh nghiệm, tôi nhận thấy một điều mà Chúa cũng nói cho tôi biết và tôi dám nói là tôi đã nhìn thấy tận mắt, đó là : chúng ta phải vào qua cửa này, nếu chúng ta muốn được Thiên Chúa uy nghi cao cả cho biết những điều huyền nhiệm và bí ẩn. Không được tìm con đường nào khác, cho dù đã đạt tới tuyệt đỉnh chiêm niệm. Trên con đường này, người ta bước đi an toàn vững chắc. Ở đây, Chúa chúng ta là Đấng ban phát và đem lại cho chúng ta mọi ơn lành. Chính Người sẽ dạy dỗ chúng ta. Quan sát kỹ cuộc đời của Người, chúng ta sẽ thấy không có gương nào tốt lành và trọn hảo hơn để mà bắt chước.

Chúng ta ước mong gì hơn là có người bạn đáng tín nhiệm như thế ở bên cạnh, một người bạn không bỏ mặc chúng ta, những khi chúng ta gặp gian nan khốn khó, như bạn hữu trên thế gian thường làm. Phúc thay ai thật sự chân thành yêu mến Người và luôn luôn giữ Người ở lại với mình. Chúng ta hãy nhìn thánh Phao-lô tông đồ : xem ra người không thể không nói đến Chúa Giê-su ngoài miệng, vì người đã khắc ghi Chúa trong trái tim mình. Một khi hiểu điều đó rồi, tôi đã chuyên chú tìm tòi và biết được rằng một số các vị thánh được ơn chiêm niệm lạ lùng, như thánh Phan-xi-cô, thánh An-tôn thành Pa-đô-va, thánh Bê-na-đô, thánh Ca-ta-ri-na thành Xi-ê-na đã không đi con đường nào khác. Chúng ta phải hết sức tự do đi trên con đường này, một niềm phó thác trong tay Thiên Chúa. Nếu Chúa muốn tuyển dụng chúng ta vào hầu cận Người và thông ban cho ta các bí nhiệm của Người, thì ta hãy sẵn lòng vâng theo.

Mỗi lần nghĩ đến Chúa Ki-tô, chúng ta hãy luôn luôn nhớ đến tình yêu của Người, tình yêu đã thúc đẩy Người ban cho chúng ta biết bao ơn thiêng cũng như phúc lành, và nhớ rằng Thiên Chúa đã tỏ tình yêu thương ta biết mấy, khi cho chúng ta bảo chứng lớn lao về tình yêu ấy là Chúa Ki-tô : quả thật tình yêu đòi hỏi tình yêu. Vì thế, chúng ta hãy ra sức tâm niệm điều đó để thúc đẩy mình yêu mến. Vì, nếu chỉ một lần Thiên Chúa ban ơn này cho ta là in sâu tình yêu của Người vào trái tim ta, thì mọi sự sẽ trở nên rất dễ dàng, và trong thời gian rất ngắn, chúng ta sẽ tấn tới nhiều mà không phải vất vả bao nhiêu.

Lạy Chúa, Chúa đã ban ơn Thánh Thần soi sáng thánh Tê-rê-xa A-vi-la, để người vạch ra cho Hội Thánh một con đường dẫn tới đỉnh cao toàn thiện. Xin cho chúng con được hấp thụ giáo huấn của người, và luôn khát khao sống cuộc đời lành thánh. Chúng con cầu xin




Đaminh Maria caio tấn tĩnh, tổng hợp từ các nguồn tài liệu khác nhau, như từ Dòng Cát Minh, Hội Dòng Đaminh Thánh Linh, TGP Sài Gòn, Phụng Vụ Các Giờ Kinh



Thánh Têrêsa Avila: Châm ngôn

 

 

 

 

 

 

 

 

Trên đường đi thành lập một đan viện Carmelite, thánh nữ Teresa Avila đã bị lật xe và người ta nghe ngài kêu lên:

Thảo nào Chúa chẳng có bao nhiêu bạn hữu, vì Chúa đối xử với họ như thế này đây.

 Thánh Tiến sĩ Teresa Avila xác định: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra”.
Thánh nữ Têrêsa thành Avila đã viết: “Cái gì ngăn cản chúng ta dùng con mắt của tâm hồn để nhìn về Chúa? Ngài chỉ chờ đợi cái nhìn của chúng ta mà thôi”.
 Thánh Têrêsa Avila, một hôm chịu quá nhiều đau khổ nên trách với Chúa rằng, “Tại sao Chúa lại để cho con nhiều thánh giá thế này.” Chúa liền hiện ra với chị Thánh và nói, “Vì Cha yêu thương con, nên Cha mới gửi đến cho con nhiều đau khổ, thánh giá, ngõ hầu con làm vinh danh Cha và cứu các linh hồn.”

https://hddmvn.net/cham-ngon-thanh-teresa-avila-1515-1582/

 

 

 



Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 1, 11-14

"Chúng tôi trước kia đã trông cậy vào Ðức Kitô, và anh em được ghi dấu Thánh Thần".

Trích thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, trong Ðức Kitô, chúng tôi được kêu gọi làm thừa tự, và anh em (là con cái Israel) cũng được tiền định theo ý định của Ngài là Ðấng tác thành mọi sự theo thánh ý Ngài, để chúng tôi trở thành lời ca vinh quang của Ngài, chúng tôi là những kẻ trước kia đã trông cậy vào Ðức Kitô. Trong Người, cả anh em nữa, sau khi anh em đã nghe lời chân thật là Tin Mừng cứu rỗi anh em, anh em đã tin và được ghi dấu Thánh Thần, như đã hứa. Người là bảo chứng phần gia nghiệp chúng ta, để chúng ta được ơn cứu chuộc, được ca ngợi vinh quang Ngài.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 1-2. 4-5. 12-13

Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình! (c. 12b).

Xướng: 1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. - Ðáp.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực; địa cầu đầy ân sủng của Chúa. - Ðáp.

3) Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Từ trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta. - Ðáp.

 

Alleluia: Dt 4, 12

Alleluia, alleluia! - Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, phân rẽ tư tưởng và ý muốn của tâm hồn. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 1-7

"Mọi sợi tóc trên đều các con cũng đã được đếm cả rồi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có nhiều đám đông dân chúng đứng chung quanh, đến nỗi chen đạp lẫn nhau, nên Chúa Giêsu bắt đầu dạy các môn đệ trước tiên rằng: "Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái, nghĩa là sự giả hình. Không có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có gì giấu kín mà chẳng biết được. Vì vậy, những điều các con nói trong nơi tối tăm, sẽ được nói ra nơi sáng sủa, và điều các con nói rỉ tai trong buồng kín, sẽ được rao giảng trên mái nhà.

"Thầy bảo các con là những bạn hữu của Thầy rằng: Các con đừng sợ chi những kẻ giết được thân xác, rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho các con biết phải sợ ai: Hãy sợ Ðấng, sau khi đã giết chết, còn có quyền ném vào địa ngục. Phải, Thầy bảo các con hãy sợ Ðấng ấy.

"Chớ thì năm con chim sẻ không bán được hai đồng tiền sao? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi sợi tóc trên đầu các con cũng đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn trọng hơn nhiều con chim sẻ".

Ðó là lời Chúa.

 

Jesus Practiced What He Preached | The Master's Table

 

Suy Nghiệm Lời Chúa


Thứ men giả hình của thành phần biệt phái và luật sĩ Do Thái

 

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XXVIII Thường Niên hôm nay vẫn theo chiều hướng đức tin công chính là những gì được Bài Đọc 1 cho năm lẻ tiếp tục khai triển từ Thứ Hai đầu Tuần XXVIII Thường Niên này.
 

Trước hết, có một chi tiết hơi lạ ở ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay, đó là chi tiết: "Khi ấy, có nhiều đám đông dân chúng đứng chung quanh, đến nỗi chen đạp lẫn nhau, nên Chúa Giêsu bắt đầu dạy các môn đệ trước tiên rằng: 'Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái, nghĩa là sự giả hình'...". 

 

Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao tình trạng dân chúng đông đảo đến độ chen lấn đạp cả lên nhau lại trở thành nguyên động lực thúc đẩy Chúa Giêsu lên tiếng giảng dạy các môn đệ của Người về việc ý tứ giữ mình cho khỏi men của những người biệt phái? Phải chăng hiện tượng chen lấn nhau, đến độ gây tổn hại cho nhau như thế là hình ảnh về một thứ môi trường có thể lây lan những cái xấu xa từ kẻ mạnh sang kẻ yếu! 

 

Chính Chúa Giêsu đã xác định "men biệt phái, nghĩa là sự giả hình". Mà giả hình tức là những gì không thật, giả tạo, dối trá không thể nào tồn tại vĩnh viễn như chân lý bất diệt, tức là sẽ bị lộ ra trước ánh sáng, như chính Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay:   

"Không có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có gì giấu kín mà chẳng biết được. Vì vậy, những điều các con nói trong nơi tối tăm, sẽ được nói ra nơi sáng sủa, và điều các con nói rỉ tai trong buồng kín, sẽ được rao giảng trên mái nhà". 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu chẳng những khuyên các môn đệ hãy tránh điều tiêu cực là sống giả hình như thành phần biệt phái, mà còn trấn an và thúc giục các vị hãy sống tích cực bằng lòng tin tưởng vào Thiên Chúa khi phải sống sự thật, tức là sống không giả tạo, không gian dối, không giả hình, cho dù có vì thế, vì chân lý mà bị bách hại và bị sát hại như Người: 

"Thầy bảo các con là những bạn hữu của Thầy rằng: Các con đừng sợ chi những kẻ giết được thân xác, rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho các con biết phải sợ ai: Hãy sợ Ðấng, sau khi đã giết chết, còn có quyền ném vào địa ngục. Phải, Thầy bảo các con hãy sợ Ðấng ấy. Chớ thì năm con chim sẻ không bán được hai đồng tiền sao? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi sợi tóc trên đầu các con cũng đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn trọng hơn nhiều con chim sẻ". 

Ở đây Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ rằng: 1- không một sự gì xẩy ra ngoài Thánh Ý Chúa quan phòng; 2- dù là một con chim sẻ chỉ có giác hồn, một sợi tóc vô hồn v.v., chẳng đáng già là bao, huống chi là con người vốn là loài linh ư vạn vật, cao trọng hơn chim sẻ nhiều; 3- Thiên Chúa là Đấng quan phòng thần linh sẽ gìn giữ tất cả mọi người và từng người theo ý định khôn ngoan và quyền năng vô cùng của Ngài; 4- bởi đó đừng lo âu sợ hãi nhất là sợ kẻ dữ vì họ cũng chỉ là một con người hữu hạn như mình, chứ không toàn quyền sinh tử đời đời như Thiên Chúa. 

Tóm lại, hãy tin tưởng vào Thiên Chúa mà bằng an vui sống cho dù có phải gian nan khốn khó hoạn nạn đớn đau. Chính lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là những gì làm cho con người sống chân thật và công chính, sống vượt lên trên mọi gian nan khốn khó, sống trước thánh nhan Thiên Chúa, Đấng đã được Thánh Phaolô khuyên dạy giáo đoàn Ephêsô trong Bài Đọc 1 hôm nay là thành phần được Thiên Chúa tuyển chọn "theo ý định của Ngài", và vì thế "đã tin và được ghi dấu Thánh Thần, như đã hứa. Người là bảo chứng phần gia nghiệp chúng ta, để chúng ta được ơn cứu chuộc, được ca ngợi vinh quang Ngài".

Chỉ có tâm hồn nào được vị Thiên Chúa vô cùng thiện hảo và thương xót tỏ mình ra cho, nhờ đó nhận biết Ngài, thì mới, như Mẹ Maria trong biến cố viếng thăm người chị họ Isave của Mẹ, có được tâm tình hân hoan chúc tụng của Thánh Vịnh 32 trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực; địa cầu đầy ân sủng của Chúa.

3) Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Từ trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta.

 

 

Thánh HEDVIGA Nữ Tu

(1174-1243)

16/10

 

StHedwig.jpg

 

Thánh nữ Hedviga sinh tại Bavaria vào khoảng năm 1174. Ngay từ hồi 4 tuổi, Ngài đã được gửi học tại tu viện. Lên 12 tuổi, Ngài kết hôn với Henri, bá tước miền Silêsia.

 

20 tuổi, thánh nữ Hedviga đã là mẹ của sáu người con, ba trai ba gái. Năm 1209, họ quyết định hiến thân cho Thiên Chúa để sống đời khiết tịnh nhưng vẫn chu toàn trách vụ thuộc bổn phận mình. Họ sống như anh em, lo cho con cái lẫn các gia nhân sống đạo đức mà không dung túng cho bất cứ một chuyện dèm pha nào. Mỗi ngày nữ bá tước nuôi cho 13 người ăn, để kính Chúa Giêsu và 12 tông đồ. Ngài mặc một áo nhặm bên trong các y phục thường ngày, khiến Ngài phải chịu nhiều hy sinh lớn lao.

 

Nhưng các đau khổ tinh thần còn lớn lao hơn, như xé nát lòng người. Vị bá tước dầu đáng kính nhưng lại có khuyết điểm là thương riêng Conrad, người con thứ hơn các người con khác. Ông coi Conrad như người kế vị mình. Sự thiên tư này đã là nguồn gốc gây nên mối thù oán... dữ dằn giữa người anh út với anh mình. Họ gây chiến đấu với nhau và Conrad bại trận. Sau đó ít lâu, Conrad từ trần trong tinh thần sám hối. Nhưng những tranh chấp tương tàn và những cái tang này đã làm cho vị bá tước còn tránh xa thế sư hơn nữa.

 

Thánh nữ Hedviga thiết lập một nhà dòng khổ tu ở gần Breslau... Gertrude, người con gái duy nhất còn sống cho tới khi thánh nữ từ trần sẽ làm bề trên tu viện này. Nơi đây các em gái mồ côi và nghèo túng tìm được chỗ dung thân, chúng được đào tạo để trở nên những bà mẹ tốt trong gia đình hơn là để theo đuổi ơn kêu gọi. Riêng thánh nữ Hedviga lại đóng vai trò người tôi tớ rửa chân cho các người phong cùi. Lời Ngài mang lại hạnh phúc cho những ai tới gần và gặp gỡ Ngài.

 

Trong một cuộc chiến, bá tước Henri bị bá tước miền Warzava cầm tù. Ong này từ chối mọi thỏa hiệp, để cứu cha, công tử Henri II muốn khởi binh. Nhưng thánh nữ Hedviga muốn tránh đổ máu nhiều hơn nữa, Ngài đích thân đến gặp kẻ chiến thắng. Gặp Ngài, ông ta bỗng dịu lại và chấp nhận thỏa hiệp. Vị bá tước được trả tự do. Nhưng vì vết thương quá trầm trọng, ông qua đời năm 1238.

 

Hedviga đau lòng, nhưng vâng ý Chúa, Ngài mặc áo dòng ở Treibnitz, và dù không tuyên bố lời khấn, Ngài trung thành với các bổn phận, dưới sự điều khiển của con mình là Gertrude. Làm những việc thấp hèn, phục vụ những người nghèo khổ, Ngài nói với các nữ tu: - Các chị là hôn thê của Chúa Giêsu, còn tôi chỉ là tôi tớ Người.

 

Sau ba năm goá bụa, thánh Hedviga còn chịu một nỗi thống khổ chót, đó là cái chết của Hênri II... Ông đã ngã gục trong cuộc chiến chống lại người Rartares. Thánh Nữ Hedviga đã linh cảm thấy trước về cái chết này. Một bản tường thuật ghi lại rằng, vào một buổi tối hôm khởi chiến, thánh nữ đánh thức một chị bạn và nói: - Demundis ơi ! chị biết, tôi đã mất con rồi. Đứa con yêu dấu đã xa tôi như con chim gãy cánh. Tôi sẽ không còn thấy nó trên trần gian này nữa.

 

Ba ngày sau, một nguồn tin xác quyết này, thánh Hedviga nói : - Đó là ý Chúa. Điều Chúa muốn và vui thỏa cũng phải làm cho chúng ta mãn nguyện.

 

Và vui mừng trong Chúa Ngài nói: - Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã ban cho con được những đứa con như vậy. Suốt đời nó thương mến con và không hề làm gì cho con đau lòng. Con muốn có nó trong đời. Nhưng con hết lòng chúc tụng Chúa về việc đổ máu của nó, khiến nó được kết hợp với Chúa trên trời là đấng tạo thành nên nó.

 

Thánh nữ vẫn tiếp tục theo đuổi con đường thăng tiến. Ngài đã trải qua những buổi cầu nguyện thâu đêm. Các sử gia còn ghi lại nhiều phép lạ thánh nữ đã thực hiện. Cuối cùng, Ngài được mạc khải cho biết trước giờ chết của mình.

 

Dầu không có gì trầm trọng, Ngài đã xin được lãnh các bí tích sau hết. Khi vừa rước Mình Thánh Chúa và cầu nguyện được hai tiếng : "Lạy Chúa, Lạy Chúa" thì Ngài từ trần. Hôm đó là ngày 15 tháng 10 năm 1243, năm 1267, nghĩa là 24 năm sau, Ngài được suy tôn lên bậc hiển thánh .

http://giaophanvinhlong.net/thanh-nu-hedviga.html & http://conggiao.info/thanh-hedviga-nu-tu-1174-1243-d-19396

 

Thánh Margarita Maria Alacoque
(1647-1690)

Vị Thánh liên quan đến Thánh Tâm Chúa

Thánh Tâm Chúa Giêsu

 

Tres armas del Sagrado Corazón de Jesús para la lucha espiritual

 

Thánh Margarita Maria Alacoque: Dạo Khúc Thánh Tâm

 

Thời Điểm Thánh Tâm cho tới thời Thánh Margarita

Thiên Chúa bảy tỏ tình yêu của Ngài cho nhân loại Ngày thứ năm ấy, cách đây gần ngót 2000 năm, lúc nhá nhem tối, tại Giêrusalem, Chúa Giêsu ăn lễ Vượt Qua lần cuối cùng của đời Ngài với mười hai môn đệ, vì đến hôm sau thì Ngài tự nộp mình để lãnh án tử hình.

       Trong bữa tiệc, tâm hồn khắc khoải, Chúa phán : Thầy bảo thật với các con, một người trong chúng con sẽ nộp Thầy. Các môn đệ đều ngạc nhiên nhìn nhau cố ý dò xét Chúa muốn nói về người nào. Gioan, đầu đang được dựa vào ngực Chúa, nên Phêrô ra dấu cho Gioan, yêu cầu Gioan hỏi riêng Chúa để biết ai là kẻ đã phản Thầy. Chắc chắn Gioan vô cùng cảm xúc được nghe trái tim Chúa phập phồng hồi hộp (Gioan 13, 21-25).

       Hôm sau, tức là ngày thứ sáu, trên đồi Golgotha, lúc ba giờ chiều, dưới chân thánh giá, bên cạnh Đức Maria, mẹ của Chúa, có Maria Magdalêna và mấy bà nhân đức, Gioan lại càng cảm động trầm tư khi được nghe bảy câu nói tối hậu của Chúa :

1. Hôm nay ngươi được vào nước trời với ta (Lc 23, 43).

2. Xin Cha tha cho chúng vì chúng chẳng biết việc chúng làm (Lc 23,34).

3. Thưa Mẹ, đây là con của Mẹ. Gioan ơi! đây là Mẹ của con (Gn, 19, 26-27).

4. Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa nỡ bỏ con (Mt 27,46).

5. Ta khát (Gn 19, 28).

6. Mọi sự đã hoàn tất (Gn 19, 30).

7. Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha (Lc 23, 46).

       Vậy là việc cứu chuộc nhân loại đã hoàn tất. Chúng ta được cứu rỗi nhờ Chúa Giêsu tự hiến tế cho Đức Chúa Cha, chúng ta được trở lại làm con Thiên Chúa; cửa thiên đàng lại rộng mở cũng như khi Chúa Giêsu đến sông Jourdain để nhận phép Rửa tự tay Gioan Baotixita. Khi Ngài ra khỏi nước thì màn trời xé ra, Thánh Linh lấy hình chim bồ câu xuống đậu trên Ngài và từ trời có tiếng phán ra : Người là Con Ta yêu dấu và đẹp lòng Ta mọi đàng (Mc 1, 9-11).

       Cũng chiều ngày thứ sáu ấy, để các tội nhân mau chết, thì một tên lính đánh giập ống chân các tội nhân, song khi thấy Chúa Giêsu đã chết rồi thì y lấy lưỡi đòng đâm từ cạnh sườn bên phải của Ngài thấu quả tim, tức thì máu và nước chảy ra. Gioan tự mắt mình đã trông thấy và làm chứng để cho chúng ta tin.

      Gioan, nhờ đã được nghe nhịp tim của Chúa Giêsu, đã chứng kiến cạnh sườn Chúa bị đâm nên, hơn ai hết, Gioan dạy cho ta biết lòng Chúa Giêsu yêu thương ta đến mức nào. Bởi vậy, trong suốt đời, Gioan không ngừng dạy chúng ta phải thương yêu nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta từ muôn muôn đời.

      Từ thế kỷ XI, Chúa dùng thánh Bernard để phổ biến lòng Chúa thương yêu nhân loại. Thánh Bernard long trọng tuyên bố : Chúa Giêsu là mật ong ngon ngọt, là điệu nhạc êm ái, là ca khúc làm phấn khởi lòng người.

       Đến thế kỷ XIII, Chúa Giêsu tỏ cho thánh nữ Gertrude, người Đức, một nữ tu dòng thánh Bênêdictô, Trái Tim Chúa Giêsu hằng nóng lòng mong được loài người mến yêu. Cùng thời ấy, Chúa Giêsu cũng tỏ cho thánh nữ Mechtilde dòng Bênêdictô và Chúa dạy : Nếu muốn gặp Ta, thì hãy tìm trong quả tim của Gertrud

       Đến thế kỷ thứ XIV, Chúa đã chọn thánh nữ Catherine de Sienne. Chúa cho biết lòng Chúa yêu thương nhân loại thật là mênh mông, không bờ không bến. Thánh Catherine sinh năm 1347 tại thành Sienne nước Ý, thuộc dòng thánh Đaminh. Thánh nữ qua đời năm 1380.

      Năm 1601, trong tỉnh Normandie nước Pháp, có một cậu bé con nhà đạo đức, sau này là thánh Gioan Eudes. Thông minh, lanh lợi, siêng năng, có lòng sùng kính Đức Trinh nữ Maria; cần mẫn, cầu nguyện nhiều. Thọ phong linh mục năm 24 tuổi, ngài đi khắp nước Pháp - đang bị thời khí - giảng dạy và cứu giúp kẻ ốm đau bị bỏ rơi. Ngài đã gặp và chọn cô Maria des Vallées cộng tác với ngài khuyến dụ người thời ấy biết lòng Chúa thương yêu nhân loại là dường nào, đồng thời tổ chức việc tôn sùng Trái Tim Chúa Giêsu kết hợp cùng Trái Tim Mẹ Maria.

       Cha Gioan Eudes hăng say hoạt động và lập hai dòng tu : một dòng nam gồm các linh mục và một dòng nữ gọi là dòng Đức Bà Bác ái. Cả hai dòng ngày càng phồn thịnh. Trong thời gian cha Gioan Eudes dồn mọi nỗ lực cho sứ mệnh do Chúa truyền dạy thì Chúa cũng chuẩn bị và chọn một sứ giả tại một vùng khác, cũng thuộc nước Pháp, để truyền bá tình yêu của Chúa và việc tôn sùng Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu, sứ giả ấy là thánh nữ Magarita Maria.

 

      Thánh Margaria - Đoạn đời thơ ấu và niên thiếu

Magarita chào đời Tại thôn Lautecour, làng Vérosvres, vùng sơn cước Charolais, có ông Claude Alacoque và phu nhân là Philiberte. Hai ông bà sinh được bốn đứa con, ba trai và một gái là Catherine song Catherine chết sớm.

      Ngày 22 tháng 7 năm 1647, hai ông bà sinh được một bé gái khác đặt tên là Magarita; sau này Magarita tự thêm cho mình tên Maria để phú dâng mình cho Đức Maria. Sau Magarita, ông bà còn sinh thêm được một trai nữa là Jacques về sau được làm linh mục. Ông Claude Alacoque được đi học rồi trở thành thừa-phát-lại của triều đình, còn bà Philiberte, một người vợ dịu hiền phúc hậu, chuyên lo nuôi nấng dạy dỗ con cái; mọi người trong gia đình sống thuận hòa, trong ấm ngoài êm thật là hạnh phúc.

Tuy vậy, gia đình không tránh khỏi những phiền hà bực bội gây ra từ nông trại ở ngay trước nhà mình mà những nhân vật gây phiền hà thì không ai xa lạ; đó là bà mẹ của ông Claude Alacoque, bà cô của ông Claude Alacoque và bà chị ruột của ông. Sự đời, có nhiều oái ăm thay!

       Từ kim cổ đông tây, giữa nàng dâu và mẹ chồng hay có những xích mích ganh tỵ, gièm pha, nói hành nói tỏi. Sở dĩ đã xảy ra như vậy vì gia đình ông bà Alacoque, tuy không phải là hạng triệu phú, nhưng được hằng ngày dùng đủ, không phải lao động vất vả; con cái đẹp đẽ, ăn mặc sạch sẽ, lễ phép dễ thương.

Sinh ra được ba ngày thì Magarita lãnh bí tích Rửa Tội tại thánh đường Verosvres, vú đỡ đầu là bà De Fautrière Chủ nhân một tòa lầu đài sang trọng ở Corcheval, bõ đỡ đầu là ông Antoine Alacoque tức là bác ruột của cô bé. Mấy bà già nơi nông trại, thấy xe cộ đón rước cô bé Magarita đi rửa tội một cách sang trọng càng thêm ganh tỵ. Cô bé có cặp mắt vừa rộng vừa đẹp, khuôn mặt xinh xắn dễ thương nên ba cậu anh trai khoái lắm, nhất là Chrysostome.

       Bà De Fautrière là vú, đem lòng yêu mến, xin ông bà Alacoque khi nào Magarita lớn lên chút nữa sẽ rước về ở với mình. Tính tình Magarita thật là dịu hiền, được mẹ giáo dục cho biết mến Chúa và làm vui lòng Chúa, bởi vậy mỗi lần thấy Magarita đùa nghịch, bà Alacoque chỉ bảo nhỏ nhẹ rằng : Đừng làm phiền lòng Chúa, thì cô bé thôi ngay và không bao giờ tái phạm.

Vừa lên bốn tuổi, mặc dầu còn non dại, song cô bé đã tự cảm thấy rồi đây sẽ dâng trọn đời mình để phụng sự Thiên Chúa. Magarita thích đọc kinh cầu nguyện lắm. Đàng sau nhà, có mấy cây rợp bóng mát, lại có một phiến đá lớn nên Magarita thích ra đấy một mình rồi chấp hai tay quỳ gối đọc kinh cầu nguyện.

      Lâu đài Corcheval của bà De Fautrière ở gần cách nông trại của Alacoque độ năm cây số, cho nên mỗi lần bà vú mời thì Magarita được bố cho lên ngựa, ngồi vào lòng bố. Ngựa đi nước kiệu, cô bé khoái lắm. Ở với bà vú, nhà cửa rộng rãi, vườn tược cây cối sầm uất, tha hồ chạy nhảy thỏa thích, lại có nguyện đường riêng. Magarita năng vào nguyện đường đọc kinh rất sốt sắng đến nỗi nhiều lần không nghe người nhà gọi nữa. Magarita còn được bà vú dạy giáo lý, tập đọc, tập viết, và nhờ thông minh hiếu học nên cô bé mau tiến bộ.

       Ở nhà, vắng Magarita thì gia đình cũng kém vui, vả chăng hai người con trai lớn phải lên Cluny vào trường trung học, cho nên Chrysostome khẩn khoản xin bố mẹ đem em gái mình về để có bạn, mặt khác, bà Alacoque cũng muốn rước Magarita về vì chồng mình, mặc dầu thuốc thang chạy chữa cũng nhiều lắm rồi, nhưng sức khỏe ngày càng sút kém, rồi liệt giường cho đến tháng chạp năm 1655 thì về chầu Chúa. Bấy giờ Magarita mới lên tám tuổi song cũng đã biết từ nay, mồ côi cha, thật là đắng cay chua xót, buồn tủi cho thân phận mình vì con không cha như nhà không nóc. Đau đớn thay! Buồn thảm thay! Hoàn cảnh mồ côi cha, Việt nam ta cũng có ca dao rằng :

Còn cha gót đỏ như son,

 Một mai cha chết, gót con đen sì.

Còn cha nhiều kẻ yêu vì,

Một mai cha chết, ai thì yêu con.�

      Lúc sanh tiền, ông Alacoque có nhiều con nợ, cho nên bà Philiberte gởi con trai vào nội trú, riêng Magarita thì được gửi vào trường do các nữ tu Clarisses dạy dỗ. Magarita bản tính vui vẻ, cần mẫn, lanh lợi lúc học cũng như lúc chơi nên được mọi người cảm mến. Bà Alacoque một mình, vừa lo việc nhà và con cái, vừa đi tìm mấy con nợ để có tiền độ nhật.

      Lên chín tuổi thì Magarita được rước lễ Vỡ lòng. Từ bấy giờ Magarita cảm thấy có sự thay đổi trong tính tình; mỗi khi thích chơi thì như có một động lực nào đó hướng dẫn Magarita kiếm nơi thanh vắng quỳ xuống và cầu nguyện. Magarita thọ bệnh

       Lên mười một tuổi, Magarita bị bệnh tê thấp gần như bại liệt, đi đứng không được, phải liệt giường, sức khỏe sa sút nhanh chóng. Tháng ngày trôi qua mà bệnh tình không thuyên giảm làm cho mẹ và các anh em rất âu lo vì bệnh kéo dài đã ba năm rồi. Khi Magarita lên 14 tuổi thì bà Alacoque khuyên con cầu nguyện với Mẹ Maria xin Mẹ cứu chữa. Magarita cầu xin Đức Mẹ cứu chữa mình và nếu được lành thì sẽ dâng mình làm nữ tu. Cầu nguyện xong, Magarita thấy trong người có đổi thay; những cơn đau nhức tê buốt biến dần, tự mình đứng lên được và đi được. Thấy con được lành, bà Alacoque xiết đỗi vui mừng, cảm động đến rơi lệ. Thấy Magarita nết na duyên dáng, nên mọi người trong thôn xóm yêu thương, liền tổ chức liên hoan để mừng Magarita đã bình phục.

 

Thánh Margaria - Đoạn đời thiếu nữ khốn khổ

      Magarita, sức khỏe bình phục, thì Thiên Chúa lại gởi những thử thách khác. Nguyên do là sau thời gian ông Claude Alacoque qua đời rồi, ông anh cả quản lý tất cả cơ sở của nông trại. Vậy là bà Alacoque và Magarita phải rời căn nhà xinh xắn để sang ở nông trại Delaroche. Đây là giai đoạn cả hai mẹ con Magarita phải luôn sống trong cực hình nhục nhã, gây ra bởi bụng dạ xấu xa của ba bà mà chúng ta đã biết trên đây.

     Từ đây, dầu Magarita có chút học vấn, dầu ăn ở hiền lành dịu dàng, cũng không được các bà ấy đếm xỉa tới, lại còn bị đối xử quá hà khắc, quá tồi tàn, không bằng người tôi tớ. Thậm chí hai mẹ con không còn được tham dự mọi tiệc tùng của thân bằng mời mọc. Hằng ngày, hai mẹ con Magarita phải làm lụng vất vả, cơm non đòn già; hở một tí là Magarita bị tát tai, bị roi đòn, làm cho Magarita hóa ra sợ sệt đủ thứ đủ chuyện, lại còn áo rách quần xài, cơm không no bụng, ngủ không yên giấc, con người trở nên xanh xao gầy còm. Để tự yên ủi, Magarita chỉ còn biết cầu nguyện xin Chúa và Mẹ Maria ban cho mình đủ sức chịu đựng thử thách, can đảm vác thánh giá Chúa trao cho, hầu cam lòng chịu số phận oái oăm oan nghiệt từ thể xác lẫn tâm hồn.

      Trong gia đình, hai con trai lớn thì ở xa, Chrysostome và Jacques thì vào nội trú, nên chẳng ai thấu hiểu hoàn cảnh đọa đày của mẹ và chị em mình, thỉnh thoảng các bà xóm giềng lén lút cho hai mẹ con khi thì quả trứng, khi thì vài trái cây, khi thì ly cà phê.

     Sau nầy, Magarita mới tiết lộ rằng có nhiều ngày nàng chẳng được ăn uống gì cả, lại vì quá sợ đòn bọng, nên phải ẩn núp nơi một xó xỉnh nào đó, chứ không dám vô nhà, và thường tự nghĩ : Làm thân hành khất còn sướng hơn hoàn cảnh nầy.

      Tuy vậy, Magarita được Thiên Chúa ủy lạo theo cách của Ngài nên Magarita nói : Tôi dâng bao nỗi đau khổ của tôi để chia sẻ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Ngày cũng như đêm, tôi quỳ dưới chân ảnh chuộc tội để khóc và tôi được Chúa Giêsu dạy rằng : Ngài muốn độc quyền chiếm hữu quả tim tôi và tôi phải hoàn toàn sống đời sống đau khổ của Ngài.

      Magarita cảm thấy ơn gọi của mình là sống kết hiệp với Chúa Giêsu, được mô tả bằng hình ảnh của Ngài bị đòn đánh rách nát từ đầu xuống chân lúc Philatô đưa Ngài ra trước mặt dân Dothái rồi bảo : Đây, Người đây (Gn 19,14). Đối với bản thân, Magarita quan niệm những nỗi đau khổ của mình là do Chúa an bài theo ơn thiên triệu, nên vui nhận với lòng cảm mến, vừa để đền tội lỗi mình và đền tội cho thế gian. Bởi vậy Magarita thấy rằng những đau khổ của mình không bao giờ đủ để đền bồi phạt tạ tội lỗi đã làm đau lòng Thiên Chúa.

      Đành là vậy, song thấy mẹ mình phải khổ đau, bị nhục mạ, bị hành hạ ngược đãi, bị mắng nhiếc vô duyên cớ nên Magarita rất xót xa trong lòng. Họa vô đơn chí, phước bất trùng lai. Bà Alacoque thình lình bị sưng má, dần dần hóa thành một cục bướu, đau nhức, ăn ngủ chẳng được. Magarita lo lắng ngại ngùng cho mẹ nên đánh bạo nhờ cô ruột là bà Benoite gọi thầy thuốc đến khám chữa cho mẹ. Bà Benoite bĩu môi : Chà chà, rước thầy đến chữa cái mụt nhọt cho bà ấy ư? Ôi, cái đó thì khỏi nói; tiền đâu! hoài của!�

      May thay có người láng giềng động lòng trắc ẩn, nên mời ông thầy thuốc, nhân cơ hội đến trong xóm, khám bệnh giúp cho. Ông ấy bảo : Đây là loại ung nhọt nguy hiểm đến tánh mạng. Vừa khóc, Magarita hỏi :

- Thưa thầy, vậy thì chữa cách nào?

- Thử đắp nước nóng xem sao! Nói xong, y bỏ ra đi.

      Tại nông trại, chẳng ai để ý giúp Magarita - dù là một ý kiến suông - và cũng chẳng ai đoái nhìn hay thăm hỏi bệnh nhân. Ngày 01.01, Magarita sang nhà thờ, đến quỳ trước nhà tạm cầu nguyện : Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con biết làm cách nào để chữa cho mẹ con�. Về đến nhà, thấy mụt nhọt của mẹ vỡ tung, máu mủ tuôn ra, Magarita can đảm rửa sạch rồi ngày ngày dùng kéo để cắt các chỗ thịt bị vữa, đồng thời thầm thĩ nguyện xin Chúa cứu giúp mẹ con mình; chẳng bao lâu bà Alacoque lành bệnh.

      Cậu Jean Alacoque, người anh cả, học xong, trở về nhà và định tự tay mình thu hồi phần tài sản để nuôi dưỡng mẹ và em gái, song rủi thay, Jean thọ bệnh rồi qua đời lúc mới 23 tuổi. Trong năm ấy (1663), bà nội và bà cô của Magarita cũng qua đời, vậy mà bà Benoite vẫn tiếp tục hành hạ khủng bố mẹ con bà Alacoque nên bầu không khí ở nông trại vẫn khó thở. Phần cậu con trai thứ nhì của bà Alacoque là Claude Philibert ngã bệnh rồi quy thiên, làm cho Magarita và mẹ lâm cảnh cùng cực.

 

Thánh Margarita Maria Alacoque: Nhập Cuộc Thánh Tâm

 

Tìm nơi để sống đời tận hiến tu trì

       Bây giờ Magarita được 18 tuổi. Mặc dầu phải trải qua ngót bốn năm sống cảnh đọa đày khốn đốn mọi mặt, Magarita cũng trở thành một thiếu nữ dịu hiền, đẹp đẽ, duyên dáng, dễ thương, can đảm, chịu khó, mọi người đều khen ngợi.

      Trong làng nhiều cậu thanh niên cũng tìm cách liếc mắt đưa tình, ước mong được cùng nàng xây tổ ấm. Bà Alacoque thấy rõ điều ấy nên bảo riêng con : Con lập gia đình đi rồi mẹ sẽ sang ở với vợ chồng con, lánh khỏi nông trại đã làm cho mẹ con ta sống trong đau khổ tủi nhục.

      Magarita thưa : Thưa mẹ, thế thì lời con nguyện ước từ trước sẽ tính sao?�

      Mẹ nàng đáp : Đó chẳng qua là lời hứa khi còn non dại, con không bị ràng buộc bao nhiêu.

      Dù là trái với ý mẹ, song Magarita thấy mình bị ràng buộc với lời nguyền ước cách đây bốn năm bằng một sợi giây thiêng liêng không thể tháo gỡ được; mặt khác, Magarita cũng muốn làm sao để mẹ được sống sung sướng cho bõ những năm bị ngược đãi. Hai tư tưởng ấy đối chọi nhau, dày vò Magarita không ít cho nên Magarita tự đấu tranh và càng gia tăng hãm mình cầu nguyện, tưởng rằng làm như vậy là đẹp lòng Chúa Giêsu. Thời gian trôi qua, Magarita cứ mãi lưỡng lự chưa biết phải chọn đường nào, thì Đấng Quan Phòng giải quyết cách khôn ngoan như sau: Cậu con trai của bà Alacoque ăn học thành tài, lập gia đình với một phụ nữ rất mực đoan trang, công dung ngôn hạnh thập toàn. Chrysostome thu hồi phần sản nghiệp của mình, rước mẹ và em gái về chung sống. Thế là cả hai mẹ con Magarita tránh được mọi hà khắc trước đây, hết bỉ cực đến thái lai.

      Bà Alacoque vẫn ao ước giữ con gái của mình, sẽ gã chồng để sống gần mình. Phần Magarita thấy đời sống của mẹ từ nay có phần bảo đảm, được ổn định, nên quyết tâm đáp lại lời Chúa kêu gọi, lễ phép từ chối các mối lái cầu hôn và cuối cùng được mẹ và anh bằng lòng cho đi tu. Nhưng đi tu dòng nào bây giờ?

     Tại dòng Ursulines ở Mâcon đã có người chị em họ, nên gia đình muốn cho Magarita vào dòng ấy, song Magarita tự cảm thấy là chưa đúng đường. Trong lúc chờ đợi, Magarita dùng thì giờ rảnh rỗi để săn sóc giúp đỡ kẻ nghèo, tập họp trẻ con trong xóm để dạy giáo lý, tập cho chúng biết đọc kinh, biết cầu nguyện. Mùa hè thì dẫn trẻ ra đồng trống để sinh hoạt, mùa đông tháng giá thì đưa chúng về nhà sinh hoạt trong phòng riêng của mẹ. Có một lần bà Benoite biết được, nổi cơn khùng, đuổi cả bọn chạy có cờ; riêng bọn trẻ, được hướng dẫn dạy dỗ nên khoái Magarita lắm.

       Magarita hằng ngày cầu nguyện xin Chúa cho biết ý Chúa định về mình. Một hôm, Magarita nghe trong tâm hồn có tiếng bảo rằng : Cha muốn con vào dòng Đức Bà Maria. Dòng nữ nầy do thánh Phanxicô Salêsiô và thánh nữ Jeanne de Chantal sáng lập, gọi là dòng Đức Bà Đi Viếng, là dòng sống đời chiêm ngắm cầu nguyện và viếng thăm giúp đỡ bệnh nhân.

     Trong gia đình không ai muốn cho Magarita vào dòng Đức Bà Maria; riêng Chrysostome lần lượt có con cái bận rộn, nên cũng kém phần lo cho em gái của mình.

      Năm 1670, Magarita lên 23 tuổi. Năm ấy có cha dòng thánh Phanxicô khó khăn đến Verosvres giảng tĩnh tâm, giáo dân sốt sắng đến xưng tội. Magarita xét mình rất cẩn thận và ghi chép các tội lỗi của mình trên nhiều trang giấy.

     Vào tòa giải tội, Magarita cứ theo mấy tờ giấy ấy mà đọc, song cha giải tội ngăn lại, không cho đọc hết. Cha giải tội thấy được tâm hồn của Magarita. Sau đó ngài hỏi về đời sống và ý định của Magarita. Biết rằng Magarita quyết định vào dòng Đức Bà nên ngài thẳng thắn khuyên Chrysostome không nên cản trở ơn thiên triệu của em mình, đồng thời nên lo liệu mọi việc để Magarita được vào dòng Đức Bà.

Hơi hổ thẹn, Chrysostome hỏi em : Cô vẫn muốn đi tu ư?�

 - Em thà chết chứ không đổi ý.

 - Vậy để anh lo cho.

     Nói vậy nhưng mọi người trong nhà vẫn muốn ép Magarita vào dòng Ursulines mà thôi, làm cho Magarita không biết phải làm thế nào để bảo vệ ý định của mình. Một ngày kia, Magarita nghe trong tâm hồn có tiếng bảo : Con đừng sợ gì hết vì con là con của Mẹ và Mẹ luôn luôn đã là Mẹ con.

Được Đức Mẹ phán bảo như thế nên Magarita nói thẳng với anh : Em chỉ muốn vào dòng Đức Bà Maria mà thôi. Ở đấy em cách xa gia đình; không bà con, không thân thích, không giao dịch với ai cả. Em muốn đi tu vì lòng mến Chúa, xa hẳn trần gian, được ẩn mình vào một xó xỉnh nào đó thôi.

     Gia đình liền kể cho Magarita một số các dòng nữ. Khi nghe đến dòng Đức Bà ở Paray le Monial thì tự nhiên lòng Magarita vui vẻ hớn hở và phấn khởi. Biết rằng mình phải vào dòng ấy nên lập tức nói : Vâng, vâng, dòng Đức Bà ở Paray le Monial. Chrysostome bảo Được rồi, chúng ta cùng đi Paray le Monial xem thử rồi sẽ quyết định.

     Hai anh em lên đường đến Paray le Monial. Vừa mới bước chân vào phòng khách, Magarita nghe trong tâm hồn có tiếng nói : Cha muốn con vào dòng nầy. Magarita tỏ ngay với Chrysostome : Xin anh lo liệu cho em từ hôm nay vì em sẽ không vào dòng nào khác. Bất đắc dĩ, Chrysostome phải chiều ý em.

     Về lại Verosvres, Magarita trở nên vui vẻ lạ thường làm cho người nhà ngạc nhiên vì trước đây nàng quả thật trầm tư buồn sầu. ,Bà Benoite là cô ruột, tính nào vẫn tật ấy, mỉa mai châm biếm.  Bà Alacoque được con trai và cô dâu phúc hậu hiền hòa phụng dưỡng nên sẵn lòng dâng Magarita cho Chúa.

 

     Khởi điểm đời tu: một thỉnh sinh

Một tháng sau, nhằm ngày thứ bảy 20.06.1671, Magarita đến tu viện, tuy lòng tràn ngập vui sướng, song khi chân vừa bước vào ngưỡng cửa, biết rằng từ nay mình chỉ được gặp gia đình qua lớp lưới sắt thì tự nhiên rùng mình, rụng rời tay chân tưởng như chết được. Vậy mà, qua khỏi ngưỡng cửa rồi thì can đảm trở lại và buột miệng nói : Chúa muốn cho tôi ở đây. Magarita xem mình như đang vào nơi thánh vì cứ tưởng rằng các nữ tu đều thánh thiện cả rồi. Sau nầy mới biết mình đã quan niệm sai lầm.

     Vì ơn gọi riêng, Chúa đã cho phép Magarita phải gặp nhiều đau khổ còn hơn các lao đao cay đắng lúc ở nông trại Delaroche, do một vài nữ tu gây ra. Magarita tự bảo : Với bất cứ giá nào, mình phải nên thánh… Bề trên Dòng là mẹ Harsant và Bề trên Tập viện là mẹ Thouvant đón nhận Magarita, dẫn vào nhà nguyện chầu Thánh Thể. Magarita lấy lại bình tĩnh, vui vẻ.

     Mẹ Thouvant là người đầy đủ tư cách và nhiều kinh nghiệm trong chức vụ, thấy tân đệ tử hình như sống trong một thế giới khác nên cố gắng hướng dẫn đưa Magarita về với thực tế của đời sống tập thể theo luật dòng, mặc dù Magarita không có chủ trương sống biệt lập.

      Phòng của Magarita hơi hẹp nhưng gọn gàng sạch sẽ. Các thỉnh sinh trẻ tuổi hơn đón Magarita với niềm trìu mến; song có một số nữ tu vì địa vị xã hội, vì giàu có hoặc thuộc giới quý tộc, hoặc vào dòng một cách bất đắc dĩ nên thường cấu kết với nhau, có ý xem thường các nữ tu kém địa vị, kém tiền của.

Phần Magarita, biết thân phận mình, nên chẳng tranh, một chỉ lo về đời sống nội tâm và tìm hiểu thế nào là cầu nguyện, nên tìm hỏi mẹ Bề trên Tập viện thì được trả lời : Con hãy đến với Chúa như một tấm vải đang chờ đợi họa sĩ.

     Đang còn phân vân chưa hiểu ý nghĩa câu nói của mẹ bề trên tập viện mà cũng chưa dám hỏi lại thì có tiếng nói trong lương tâm : Con lại đây, Cha dạy cho. Chúa cho Magarita hiểu rằng linh hồn của mình là tấm vải trên ấy Chúa sẽ họa lại đời sống khổ đau của Ngài. Bắt đầu, Chúa sẽ tẩy sạch những gì làm cản trở công việc của họa sĩ.

     Magarita cảm nghĩ là Chúa vừa phán dạy thì Ngài cũng bắt đầu hành động trong tâm hồn mình. Từ đó, Magarita càng ước muốn mến yêu Chúa, và để tỏ lòng mến yêu ấy, Magarita càng khát khao hãm mình đền tội, nhưng lại phải theo mức độ do bề trên chỉ giáo mà thôi.

 

Vào nhà tập và mặc áo dòng

     Sau hai tháng làm thỉnh sinh, Magarita được vào Nhà Tập. Bề trên chỉ trách Magarita có vẻ vụng về, chậm chạp, nhút nhát, nhưng vẫn được mặc áo dòng.

     Ngày 25.08.1671, Magarita được gặp thân mẫu và mọi người trong gia đình đến dự lễ mặc áo dòng, lấy tên là Soeur Magarita Maria. Soeur Magarita lòng tràn ngập sung sướng, mặt mày biến dạng hóa ra sáng ngời làm cho mẹ bề trên Hersant ngạc nhiên khi Magarita đến hôn mẹ.

     Chúa Giêsu cho Soeur Magarita Maria biết thời gian làm tập viên là thời gian đính hôn; rồi đây, trong tương lai Ngài sẽ ban cho nhiều ơn riêng đặc biệt. Trong dòng, dần dần người ta thấy Soeur Magarita Maria biến đổi hẳn. Tại nguyện đường, trong giờ gẫm, Soeur Magarit Maria có vẻ lơ đễnh không theo dõi đúng mức bài suy niệm người ta đọc lớn tiếng, làm cho mẹ bề trên nhà tập lo ngại : có lẽ Magarita mất thăng bằng chăng! Tuy rằng Magarita có đức vâng lời nhanh chóng và đức khiêm nhường lạ lùng.

Bề trên thường đặt vấn đề lương tâm. Để thử thách, bề trên thường sai khiến làm nhiều việc trái với giờ giấc sinh hoạt, thí dụ, trong giờ nguyện gẫm thì sai Magarita đi quét sân, sau đó bề trên lại quở trách rồi dạy phải sinh hoạt như các chị em khác, đôi khi còn dọa là Magarita sẽ không được khấn dòng.

     Soeur Magarita Maria luôn luôn im lặng vâng lời, nhịn nhục, không thanh minh thanh nga, không bao giờ minh oan cho mình; cố gắng làm hết sức mình và thiết tha xin khỏi bị hoàn tục.

     Qua sự vâng lời chịu lụy tuyệt đối, người ta phải nhận rằng Soeur Magarita Maria được Thánh Linh hướng dẫn. Thường thường Soeur tìm làm những việc khó nhọc, nhưng có một việc không thể làm được, đó là phải ăn phó-mát (fromage).

     Thật vậy, cả nhà Alacoque không một người nào ăn được phó-mát, cho nên khi đưa Magarita vào dòng, anh Chrysostome đã báo trước để bề trên miễn cho Magarita khỏi phải ăn phó-mát. Vậy mà, không hiểu vì lý do gì - hoặc là bề trên muốn trắc nghiệm để đoán xét Magarita - hoặc là do người dọn bàn vô tình mà hôm nọ, trước mặt Magarita, người ta đã đặt một đĩa phó-mát. Magarita nôn mửa, song ý chí và tình thương xui giục Magarita phải ăn, nên Magarita cố đưa miếng phó-mát vào miệng, nhưng chịu không nổi. Suốt ba ngày, cố gắng hết sức mà không khắc phục được. Mẹ bề trên liền cấm Magarita việc hãm mình nầy và nói : Con không xứng đáng. Soeur Magarita bụng bảo dạ : Phải chết hay là phải thắng, rồi chạy vào nhà nguyện xin Chúa ban cho mình đầy đủ nghị lực.

     Chúa phán : Vì tình yêu, không nên dè dặt gì hết. Magarita trở ra, xin mẹ bề trên cho phép ăn thử phó mát. Bề trên bằng lòng. Soeur Magarita đưa miếng phó-mát vào miệng nhai và cố nuốt... nhưng rồi phải rời khỏi bàn ăn vì nôn mửa, cầm không được.

     Kể từ hôm ấy, mỗi lần có phó-mát thì Soeur Magarita cố ăn, cố nuốt, mặc dầu bao tử không dung nạp, và sự hy sinh hãm mình ấy kéo dài tám năm liền, cho đến khi vì lý do sức khỏe, bề trên cấm ăn phó-mát.

 

Khấn dòng

     Thời gian khấn dòng cũng sắp đến rồi. Các bề trên lưỡng lự, không thể quyết định rằng nên hay không nên cho Soeur Magarita khấn. Kể ra thì cô ta chẳng có gì đáng trách, duy chỉ có khác hơn chị em là hơi đãng trí, phải nhắc nhở hoài cô ta mới chú ý. Về việc làm, có thiện chí thật, song đôi khi khá vụng về. Có vài nữ tu chống đối việc cho soeur Magarita khấn dòng, viện lý rằng cái nhân đức đặc biệt của cô ta không phải do Chúa ban, không khéo lại là do giả hình không đè nén nổi óc tưởng tượng của mình mà thôi.

     Magarita vào quỳ chầu trước nhà tạm nguyện rằng : Lạy Chúa Giêsu, Chúa làm nên cớ để nhà dòng đuổi con về nhà đấy. Chúa Giêsu phán : Con đi trình với bề trên cứ cho con khấn dòng, chẳng có gì mà phải lưỡng lự, ngại ngùng, sợ sệt, vì có Cha bảo lãnh cho con rồi.

     Vậy là mọi sự xong xuôi. Soeur Magarita Maria lo tĩnh tâm, dọn mình để khấn dòng và Chúa Giêsu cho Magarita lo hoàn tất mọi việc bề trên giao phó. Mẹ Thouvant càng chú ý đến soeur Magarita Maria hơn. Hễ thấy Magarita vào nhà nguyện gối quỳ tay chắp, người bất động, mặt sáng ngời, thì ngại cho sức khỏe của Magarita nên nhiều khi tìm cớ để Magarita ra khỏi giây phút mặc niệm trầm tư, vì sự kiện nầy làm cho những chị ơ hờ nguội lạnh khó chịu.

     Hôm nọ, Mẹ Thouvant vào nhà nguyện bảo soeur Magarita : Nhờ soeur ra ngoài vườn trông nom hai mẹ con con lừa, cho nó ăn cỏ và coi chừng kẻo chúng nó ăn luống rau nhé!. Soeur Magarita vâng lời, rời nhà nguyện ngay, và ra vườn đùa với con lừa con, lưu ý không cho mẹ con nó đến gần mấy luống rau. Chẳng bao lâu tâm hồn Magarita lại trầm tư, chỉ biết có Chúa Giêsu đang hiện diện trước mặt mình nên quỳ gối xuống nguyện cầu.

     Các nữ tu từ cửa sổ nhìn ra vườn, thấy soeur Magarita đang suy gẫm, lại thấy cả hai con lừa đang ở trong vườn rau thì la lên : Thưa mẹ, soeur Magarita đang đi vào cung trăng để lừa nó ăn hết rau rồi.

Mẹ Thouvant hốt hoảng ra vườn, sẵn sàng mắng phạt. Nhưng khi nhìn thấy soeur Magarita bình tĩnh ngồi, tay chắp, mặt sáng ngời, tâm hồn đang nguyện ngắm, còn hai con lừa đứng trong vườn rau thật đấy, song chẳng đá động gì đến rau.

     Ngạc nhiên, mẹ Thouvant nhất quyết rằng soeur Magarita được Chúa Giêsu hướng dẫn nên khi soeur Magarita nguyện gẫm thì Chúa Giêsu làm việc thay cho. Chăn lừa liên tục nhiều ngày từ sáng đến chiều và sau cơm tối, soeur Magarita phải đi quét dọn chuồng lừa, trong khi cả dòng vào nhà nguuyện đọc kinh. Thế mà Magarita lại thích, vì được Chúa Giêsu sát cánh với mình.

Suốt thời gian tĩnh tâm, soeur Magarita được đối thoại với Chúa Giêsu, rồi đến ngày 6.11.1672, Magarita khấn dòng dâng hiến trọn đời mình cho Chúa Giêsu, đúng như ước nguyện của mình từ thuở nào.

 

Thánh Margarita Maria Alacoque: Cảm Nghiệm Thánh Tâm

 

Được Chúa Giêsu chọn làm bạn tâm giao

     Soeur Magarita trung thành với lời khấn hứa, càng ra sức tỏ lòng mến yêu Chúa Giêsu cách can đảm và khiêm tốn, nên Chúa Giêsu trao cho Magarita một sứ mệnh mà Ngài sẽ cho biết nay mai.

     Ngày 27.12.1673, lễ thánh Gioan (tông đồ và thánh sử), soeur Magarita được rảnh rỗi đôi chút, liền sang nhà nguyện để kính viếng Thánh Thể. Nhưng, soeur Magarita sửng sốt vì chẳng biết là mình đang ở đâu nữa, vì được Chúa Giêsu diễn lại hoạt cảnh buổi chiều ngày thứ năm năm xưa, trong bữa tiệc ly, Chúa đã để cho Gioan - người môn đệ Chúa mến yêu - dựa đầu vào ngực của Chúa, thì nay Chúa cũng cho soeur Magarita dựa đầu vào ngực của Ngài một hồi lâu, rồi Chúa tỏ cho biết những kỳ công tuyệt diệu của tình thương Ngài và những bí nhiệm mà trước đây Ngài còn giữ kín.

     Chúa phán : �Trái Tim Cha yêu nhân loại cách say đắm và yêu thương con cách riêng, lửa mến yêu đang bừng cháy trong Trái tim Cha và cần phải được lan rộng ra. Cha đã chọn con để trao cho con nhiệm vụ truyền bá việc tôn thờ Trái Tim cực thánh của Cha. Chính vì sự yếu hèn, ngu muội của con mà Cha chọn con, có như vậy nhân loại mới nhận thức rằng mọi việc đều bởi Thánh ý Cha mà ra.

Bây giờ soeur Magarita cảm thấy Chúa Giêsu lấy quả tim của mình để nhúng vào trong trái tim của Chúa; từ đó quả tim của soeur Magarita nóng bừng bừng luôn mãi, thuốc men đều vô hiệu. Chúa còn phán thêm : Từ trước đến nay con đã chỉ muốn được làm tôi đòi nô lệ của Cha nhưng, từ nay con được làm môn đệ yêu dấu của Cha.

     Vậy là, cho đến mãn đời, soeur Magarita Maria được mang dấu thánh lưỡi đòng đã đâm thủng Trái Tim cực trọng Chúa Giêsu, cũng như trước đó mấy trăm năm, thánh Phanxicô khó khăn và thánh nữ Têrêxa thành Avila được mang năm dấu thánh của Chúa Giêsu.

     Bây giờ Chúa Giêsu còn đòi hỏi thêm nhiều điều nữa là :

1. Mỗi thứ sáu đầu tháng soeur Magarita phải rước Mình Thánh Chúa (thời bấy giờ giáo hữu ít được rước Mình Thánh Chúa, dầu là tu sĩ).

2. Mỗi ngày thứ năm trong tuần, từ 11giờ đến nửa đêm, soeur Magarita phải thông công với Chúa Giêsu lúc Ngài hấp hối cầu nguyện trong vườn Giêtsêmani, gọi là �giờ thánh, để cùng chịu đau khổ, cùng với Chúa cầu xin ơn thứ tha tội lỗi của nhân loại.

      Soeur Magarita vừa run sợ, đi trình mẹ bề trên để xin phép. Bề trên đáp : Không, không! Đừng bày đặt ra nữa. Tôi cấm hẳn đấy nhé.

     Soeur Magarita yên lòng vì đã vâng lời bề trên, song bị cơn sốt và thọ bệnh, làm cho bề trên bối rối nên bảo : Soeur cầu xin với Chúa đi, nếu được lành, tôi mới tin và cho soeur được toại nguyện.

     Soeur Magarita vâng lời, cầu nguyện và được lành bệnh vì chính Mẹ Maria - vì thấy con đường còn dài nên đã chữa cho Magarita. Mẹ Maria phán : Con đừng sợ, Mẹ không bỏ con, Mẹ sẽ mãi mãi phù hộ con.

     Thật ra, trong thâm tâm mẹ bề trên dòng, mỗi ngày đinh ninh chắc chắn rằng Magarita được ơn huệ đặc biệt, nhưng không để lộ ra ngoài, nhiều lần quở trách Magarita trước mặt các chị khác; những lần rủi ro làm đổ bể gì thì chị em trách móc, chế nhiễu tha hồ. Là người tế nhị và đa cảm, soeur Magarita cũng biết khổ tâm nhưng vẫn vui vẻ chấp nhận mọi chê trách chế nhiễu, hầu đền bồi phạt tạ mọi tội lỗi xúc phạm đến Trái tim Chúa Giêsu và còn muốn tìm cách hãm mình nhiều hơn nữa. Vậy mà Chúa Giêsu cũng chưa bằng lòng; Chúa còn cho Magarita biết Chúa rất buồn vì có nhiều nữ tu kém nhân đức và Chúa dạy Magarita phải dâng mình làm của lễ đền tội cho các nữ tu ấy.

     Soeur Magarita được Chúa Giêsu tâm sự như vậy nên rất khổ tâm, nhưng không dám tự ý mình quyết định vì còn phải xin phép bề trên. Trước Thánh Thể, soeur Magarita say sưa cầu nguỵện và khóc lóc đến nỗi không thấy rằng các chị em đã đi ăn cơm tối. Chị em chạy quanh kiếm tìm rồi dẫn Magarita đến gặp bề trên.

     Bề trên bảo soeur Magarita phải thuật lại lời Chúa đã phán dạy trước mặt cả nhà dòng. Tội nghiệp cho soeur Magarita, thập tử nhất sanh vì ngại ngùng, nhưng cũng phải vâng lời Chúa Giêsu và vâng lời bề trên nên, thuật lại nguyên văn lời Chúa dạy là phải dâng hiến mình làm của lễ đền tội cho các chị em nữ tu kém nhân đức.

     Thế là các nữ tu đồng loạt la ó phản đối kịch liệt; mặc sức công kích, xoi bói mỉa mai, khinh chê nhạo báng; có người cho rằng soeur Magarita bị quỷ ám nên chạy đi lấy nước thánh rảy lên người soeur Magarita để đuổi quỷ, để trừ quỷ; người ta tha hồ hạ nhục soeur Magarita. Cứng hơn đá, vững hơn đồng, soeur Magarita được dịp kết hợp những khổ nhục của mình với cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.

 

Được Cha de la Colombière hướng dẫn

     Magarita lại hoài nghi, sợ rằng mọi sự việc đã xảy ra là do trí tưởng tượng, nên tự đấu tranh khắc phục, để lấy lại bình tĩnh thăng bằng, sống như mọi chị em trong dòng, song không làm sao khỏi áy náy sợ sệt. Nhưng trong lương tâm lại có tiếng nói : Đã ở trong tay Đấng Toàn Năng rồi mà con còn sợ gì nữa chứ?�

     Năm 1675, cha Claude de la Colombière thuộc dòng Chúa Giêsu (Việt nam thường gọi là dòng Tên), là một nhân vật kiến thức sâu rộng và thánh thiện, được phái đến làm linh hướng cho dòng. Mẹ bề trên giới thiệu các nữ tu, rồi từng người vào toà giải tội để bày tỏ linh hồn mình cho cha linh hướng. Khi đến phiên mình thì soeur Magarita nghe tiếng lương tâm bảo : Này là người Cha sai đến với con đấy.

Thật vậy, trong tòa giải tội, cha De la Colombière thấy rằng đây là một linh hồn được mở rộng để trình bày mọi ẩn khuất. Magarita sợ trình bày về mình lâu quá e không tiện, nên cha De la Colombière hẹn gặp lại một lần khác; Magarita cũng thưa rằng mình sẽ vâng lời bề trên mọi đàng.

     Mấy hôm sau, cha De la Colombière trở lại và giải thích cho soeur Magarita biết rằng mọi sự việc đã xảy ra đều là hồng ân Thiên Chúa ban cho. Từ đó tâm hồn của cha linh hướng cũng như của Magarita cùng chung một quan niệm, là cả hai đều có bổn phận làm cho người ta biết lòng Chúa Giêsu thương yêu con cái loài người.

     Cha linh hướng dạy Magarita phải ghi chép lại những hồng ân đã lãnh nhận. Magarita lấy làm cực lòng nhưng bất đắc dĩ phải vâng lời; bắt đầu ghi chép rồi lại đốt đi, nhiều lần như vậy; cuối cùng bị ép buộc nên, vì đức vâng lời mà viết cho xong; nhờ vậy ngày nay chúng ta mới biết được nhiều chi tiết ly kỳ hi hữu của đời sống phi thường của thánh nữ Magarita Maria.

     Cũng trong năm 1675, Chúa Giêsu mạc khải cho Magarita nhiều điều rất quan trọng. Ngày 13 tháng 6, lễ kính Mình Thánh Chúa, được dịp chầu Thánh Thể lâu hơn ngày thường, soeur Magarita Maria thưa với Chúa Giêsu rằng mình muốn lấy tình thương để đáp lại tình thương, thì được Ngài phán : Con chỉ có thể đáp lại tình thương của Cha bằng cách thi hành những gì Cha truyền cho con. Nói xong, Chúa Giêsu liền chỉ vào quả tim của Ngài và phán : Đây là Trái tim đã yêu dấu loài người quá bội nên chẳng hề từ chối bất cứ điều gì để chứng minh tình yêu ấy; đáng lý ra Cha phải được loài người biết ơn, trái lại, phần đông đã lãnh đạm và bội bạc, lại còn khinh mạn dể duôi trong phép Thánh Thể. Cha càng đau đớn hơn nữa vì cũng có nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ, cũng vô ơn bạc nghĩa như vậy. Chúa truyền phải lập một lễ đặc biệt vào ngày thứ sáu sau lễ kính Mình Thánh Chúa để kính thờ Trái Tim Chúa hằng yêu thương nhân loại.

     Trong thánh lễ ấy, phải dọn mình để rước Mình Thánh Chúa để đền bồi phạt tạ Trái Tim Chúa, cầu xin cách riêng cho loài người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa, đoạn Chúa hứa sẽ ban nhiều ơn lành cho những ai trung thành tuân giữ những điều Chúa đã truyền dạy và còn phổ biến cho nhiều người khác thi hành.

     Soeur Magarita run sợ vì biết rằng nếu tường thuật những điều Chúa truyền dạy thì chẳng mấy ai tin nên thưa với Chúa Giêsu : Lạy Chúa, Chúa truyền dạy những điều quan trọng như thế cho con là kẻ nhỏ bé dốt hèn khốn nạn. Có biết bao nhhiêu người khác sẽ làm hay hơn con. Chúa Giêsu : Thế thì con không biết rằng Cha thường dùng những kẻ thấp hèn để làm những việc trọng đại sao?�

     Soeur Magarita : Vậy thì Chúa ban phương tiện cho con. Chúa Giêsu : Con cứ trình bày với người đầy tớ của Cha. Vì lý do ấy mà Cha sai y đến; y phải thực hiện cho được những gì Cha đã truyền dạy cho con.

     Soeur Magarita vào tòa cáo giải trình bày rõ ràng tỉ mỉ mọi chi tiết cho cha linh hướng mệnh lệnh của Chúa Giêsu. Cha De la Colombière biết rõ đức vâng lời và đức khiêm nhường của soeur Magarita nên chẳng ngần ngại lo lắng xin lập Lễ Kính Trái Tim Chúa Giêsu đồng thời nâng đỡ hướng dẫn kẻ đã được Chúa chọn để làm bạn tâm giao. Song rủi thay! Được một năm thì cha Colombière bị thuyên chuyển sang Anh quốc. Soeur Magarita buồn lắm, thì được Chúa Giêsu dạy : Việc gì mà phải buồn! Một mình Cha không đủ cho con sao?�

 

Lại sống cuộc đời thử thách

     Mẹ De Saumaise mãn nhiệm kỳ bề trên năm 1678, rời Paray le Monial để sang Dijon. Mẹ rất hiểu tâm hồn soeur Magarita nên cũng đã hết sức nâng đỡ theo phạm vi của mình trong nhiệm vụ hết sức khó khăn tế nhị đối với chị nữ tu thánh thiện của dòng.

    Mẹ Greyfié từ Annecy đến thay thế mẹ De Saumaise. Bên trong, Mẹ Greyfié cũng rất tốt với soeur Magarita, nhưng bên ngoài lại tỏ ra cứng rắn. Ban đầu mẹ chẳng nói gì nhưng có ý tự riêng mình quan sát, hầu có thái độ đối với những gì có liên hệ đến nữ tu đặc biệt nầy.

    Cũng như các bề trên tiền nhiệm, mẹ Greyfié biết rõ sự thánh thiện của soeur Magarita và các mạc khải quan trọng là có thật, nhưng vẫn thử thách Magarita bằng cách quở trách trước mặt các chị khác, cho rằng Magarita là người vụng về, biếng nhác, không tế nhị. Soeur Magarita không bao giờ tự bào chữa vì nghĩ rằng mình đáng nhận mọi nhục nhã ấy, nên sung sướng dâng mọi đau khổ cho Chúa. Tuy vậy, mẹ Greyfié thường gửi cho soeur Magarita những mảnh giấy nho nhỏ, theo lối hàm thụ đầy tình thương yêu thán phục, ví dụ : Linh hồn của con là sở hữu của Chúa Giêsu và Ngài cũng thuộc về linh hồn của con; con hãy hồi âm cho mẹ, mẹ luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ con. Linh hồn của con cũng được mẹ yêu chuộng như linh hồn của mẹ vậy.

    Chúa Giêsu dạy cho soeur Magarita phải xin mẹ bề trên ra lệnh bằng giấy trắng mực đen theo như luật của dòng. Từ hôm ấy Chúa cho Magarita hưởng Trái tim Chúa làm gia nghiệp đời tạm nầy và cả đời sau. Chúa tuyên bố : Con sẽ được Cha cứu giúp cho đến ngày Cha không còn quyền năng nữa mới thôi.

     Phần cha De la Colombière vì bệnh, nên từ Anh quốc trở về Pháp. Ngài đến Paray le Monial vài ngày và vui vẻ gặp lại soeur Magarita, con người luôn luôn khiêm nhượng vâng lời bề trên như cha đã từng viết thư cho mẹ bề trên Saumaise.

     Phần soeur Magarita, trải qua thời gian đau khổ phần xác vì hãm mình phạt xác và khổ đau về tinh thần vì bị chị em trong dòng châm biếm mỉa mai, nên thọ bệnh, phải vào ra phòng bệnh liên miên. Ngày 19.6.1680, áp lễ kính Mình Thánh Chúa, soeur Magarita nhờ chị y tá trình bề trên cho mình được tham dự thánh lễ để được rước lễ, nhưng chị y tá quên thưa với mẹ bề trên. Mẹ bề trên Greyfié bắt gặp, quát mắng : À, chị đi dự lễ được mà khai bệnh là nghĩa làm sao?  Thôi lo mang chăn mền và đồ dùng về phòng ngay và tiếp tục sinh hoạt như mọi chị em trong dòng.

     Không một lời thanh minh, mặc dầu còn bệnh, Magarita vừa run vì cơn sốt, vội vã mang áo xống chăn mền về phòng. Chúa Giêsu thấy Magarita vâng lời nhanh chóng, lại không muốn tố cáo điều vô ý của chị y tá, nên cho Magarita hoàn toàn bình phục.

     Cha De la Colombière lâm bệnh. Tháng 8 năm 1681, đến tỉnh dưỡng ở Paray le Monial và gặp Magarita nhiều lần. Người ta nghĩ rằng ngài được về quê quán, mong sẽ bình phục; song Magarita gửi cho ngài một mảnh giấy với hàng chữ : Chúa Giêsu muốn cha tận hiến đời sống ở xứ nầy. Vậy là cha De la Colombière chỉ còn dọn mình để về chầu Chúa.

     Trong lúc còn sanh tiền, cha De la Colombière cũng hết sức mình lo nhiệm vụ đã được giao phó, nhờ vậy mà người ta bắt đầu hiểu biết Trái tim Chúa rất yêu mến loài người, song những đòi hỏi của Chúa Giêsu cũng chưa được thỏa mãn nên soeur Magarita Maria rất cực lòng, tuy bây giờ trong dòng các chị em cũng bớt xoi mói châm biếm, chế nhạo, lại cũng có nhiều nữ tu kín đáo khen ngợi sự thánh thiện của soeur Magarita.

     Một hôm, có một đệ tử của dòng tên là Antoinette Rosalie bệnh nặng và thình lình mê man bất tỉnh. Sợ rằng cô ấy không hồi tỉnh được nên cả dòng buồn lắm. Mẹ Greyfié liền bảo soeur Magarita xin Chúa Giêsu cho Antoinette Rosalie hồi tỉnh, ít nữa là để được lãnh phép Xức Dầu Thánh và được rước Mình Thánh Chúa, làm của ăn đi đường.

     Vào nhà nguyện, soeur Magarita cầu xin với Chúa Giêsu và được phán truyền như sau : Cha ban cho ơn ấy với ba điều kiện; một là con phải lãnh nhận công việc bề trên trao cho con; hai là con phải đến phòng khách mỗi khi có người đến xin gặp con; ba là con phải viết lại những gì người ta bảo con viết ra. Ba điều kiện ấy làm cho Magarita cực lòng lắm vì bản tính chỉ muốn làm thinh và được quên lãng, vì vâng theo ý Chúa nên Antoinette được hồi tỉnh, lãnh các phép bí tích cuối cùng và qua đời một cách êm ái.

 

Làm bề trên tập viện

     Kể từ đây, Chúa Giêsu đòi hỏi những điều kiện mà Ngài đã đề ra. Mẹ bề trên Greyfié mãn nhiệm và soeur Melin được bầu lên thay thế. Mẹ Melin chỉ định soeur Magarita Maria làm phụ tá. Tuy trái hẳn ý riêng mình thật : làm mẹ nhì một tu viện đã lâu nay khinh chê mình!

     Sau đó soeur Magarita làm bề trên Tập viện. Nhờ sự hướng dẫn đầy tình mẫu tử của soeur nên tập viện trở nên lành thánh. Bấy giờ dư luận chuyển hướng rõ rệt. Ngay trong phố phường người ta nói đến soeur Magarita với một lòng cung kính mộ mến, nhiều người muốn đến gặp để xin ý kiến hướng dẫn chỉ bảo đàng lành, hoặc xin cầu nguyện để được ơn nọ ơn kia. Soeur Magarita không thể nào từ chối được vì đã hứa với Chúa Giêsu rồi.

     Để bù lại những vị nể mà trong dòng dành cho mình, soeur Magarita cũng thân hành rửa chén bát, đi khuân củi, quét dọn nhà cửa, ngay cả nhà vệ sinh. Các tập sinh rất mến phục bề trên trực tiếp của mình vì được hướng dẫn dìu dắt vui vẻ, song không kém phần cương quyết. Soeur Magarita thường nói : Một tu sĩ mà không thích nguyện gẫm thì cũng giống như một binh sĩ không vũ khí.

    Nhờ vậy, có vài nữ tu tuy đã khấn dòng rồi nay xin trở lại tập viện để được bổ túc. Đầu năm 1685, bị mụt nhọt ở ngón tay, người ta phải dùng loại dao cạo để giải phẫu thấu xương song soeur Magarita can đảm nghiến răng không kêu la rên siết. Giải phẫu xong soeur còn nói : Ngợi khen Chúa. Trong năm ấy, gần đến lễ thánh nữ Magarita, quan thầy của bề trên tập viện, các tập viên cùng nhau thảo luận tìm cách làm vui lòng thầy của mình. Tất cả đều biết rằng bằng cách này hay cách khác, tỏ lòng tôn sùng Trái Tim Chúa Giêsu mà vị bề trên khả kính khả ái của mình hằng dạy một cách say mê là đúng điệu.

     Hôm ấy, các tập viên xin đưọc phép thức dậy lúc nửa đêm để chuẩn bị, họ dựng một bàn thờ ngay trong tập viện, họ trang hoàng, chính giữa bàn thờ họ trưng ảnh Trái Tim Chúa Giêsu vẽ bằng bút chì, chung quanh bức ảnh có hoa có nến trang nghiêm.

     Sáng ngày, cả thầy lẫn trò, ai nấy đều vui vẻ. Soeur Magarita mặt mày sáng ngời, đọc kinh dâng mình cho Trái Tim Chúa, cứ mỗi câu các tập viên đều lập lại và suốt ngày hôm ấy, các tập viên thay phiên nhau, cầu nguyện trước bàn thờ này. Món quà ấy làm cho soeur Magarita thỏa lòng vì là lần đầu tiên TráiTim Chúa Giêsu được công khai thờ kính. Chiều đến, soeur Magarita khuyên các tập viên nên tiếp tục cầu nguyện để Chúa Giêsu ngự trị trong lòng mọi người, phải yêu mến Trái Tim Ngài, phải trọn hiến dâng đời sống mình để được hạnh phúc đời nầy và đời sau.

     Khi trong dòng biết được biến cố nầy thì ai cũng ngạc nhiên vì cho đấy là một phát minh mới lạ, rồi công kích bề trên tập viện. Mẹ bề trên Melin cũng lấy làm khó chịu và phân vân không biết phải xử sự như thế nào. Song Chúa Giêsu phán với môn đệ mình rằng : Con đừng sợ gì cả vì Cha sẽ thống trị, mặc cho kẻ địch thù, mặc cho kẻ chống đối.

     Cha De la Colombière, trước khi qua đời, đã để lại nhiều tài liệu xuất bản thành sách. Một ngày nọ, tại nhà cơm, các cữ tu đọc quyển sách nhan đề Tỉnh tâm thiêng liêng nói đến một linh hồn được Chúa Giêsu chọn để truyền những mệnh lệnh của Ngài. Khi nghe đọc sách ấy, các chị ngừng ăn, chăm chú nhìn soeur Magarita làm cho soeur tái mặt, bẻn lẻn cúi đầu, cuối cùng mọi người mới xác nhận rằng soeur Magarita không phải là người mất thăng bằng, trái lại là người rất khiêm nhượng, từ bi, được Chúa Giêsu chọn để truyền mệnh lệnhcủa Ngài.

     Nhờ có tác phẩm ấy, nhờ các bề trên tiền nhiệm như mẹ Saumaise, mẹ Greyfié nên việc tôn thờ Trái Tim Chúa Giêsu được truyền bá đến các tu viện khác. Dầu vậy, soeur Magarita cũng chưa hết khổ đau. Nguyên do là người ta dẫn đến tu viện Paray le Monial một thiếu nữ con nhà quý tộc để xin vào tập viện.

     Soeur Magarita không nhận nên bị thân nhân cô ấy phản đối quyết liệt, bị dọa dẫm thưa kiện v.v... vì đã làm trái ý nhà quý tộc; sự thật là cô thiếu nữ ấy không muốn đi tu và cuối cùng cô ta mang hành lý về nhà.

 

Cha linh hướng mới

     Thiên Chúa phái cha Rolin, dòng Chúa Giêsu, đến làm linh hướng cho nhà dòng Paray le Monial. Thoạt nghe người ta nói về nữ tu đặc biệt là soeur Magarita Maria, cha Rolin do dự, song khi đã biết đời sống nội tâm của nữ tu nầy thì ngài hiểu mức độ thánh thiện của một linh hồn do Chúa Giêsu ngự trị và ban cho nhiều ơn cao trọng.

      Soeur Magarita xưng tội chung làm cho cha Rolin cảm phục nên dạy phải viết lại trọn đời sống của mình và mọi chi tiết về các hồng ân được Chúa ban. Kể từ ngày các tập viên tổ chức lập bàn thờ kính Trái Tim Chúa Giêsu để mừng lễ quan thầy của bề trên tập viện vừa trọn một năm, thì cũng đến giai đoạn Chúa Giêsu chọn để Trái tim Ngài được chính thức tôn thờ. Nguyên do là mẹ Greyfiégởi biếu soeur Magarita một bức ảnh Trái Tim Chúa. Bây giờ một bàn thờ được lập trong nhà nguyện dòng do soeur Des Escures để trưng bức tượng ấy.

     Soeur Des Escures trước kia là một trong những người chống đối soeur Magarita, thì nay lại là người sốt sắng tôn kính Trái Tim Chúa. Vậy là cả dòng đã bị chinh phục, soeur Magarita mừng đến nỗi không cầm được giọt lệ. Mẹ Melin lại còn quyết định xây nguyện đường riêng để tôn thờ Trái Tim Chúa. Các đệ tử góp tiền túi để hợp công xây dựng nguyện đường nầy. Soeur giữ vườn phát triển trồng hoa và các loại thảo dược (plantes médicinales) để có thêm lợi tức xây nhà nguyện. Soeur Magarita hết lòng cám ơn soeur Des Escures : Em chẳng còn ước ao gì hơn nữa vì nay Trái Tim Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, sau đó viết thư thăm mẹ Greyfié : Bây giờ con được toại nguyện rồi, con ước ao được chết lắm. Với một bề trên khác, soeur Magarita viết :Trái tim Chúa Giêsu là nguồn mạch không bao giờ khô cạn, mà chỉ muốn tuôn tràn hồng ân cho những ai có lòng thờ kính.

     Năm 1686, soeur Magarita mãn nhiệm. Ảnh Trái tim Chúa được vẽ bằng bút chì mấy năm trước được rời khỏi nhà tập và được trưng bày một nơi khác, các tập viên cũ, dù đã khấn dòng rồi, vẫn tiếp tục đến kính viếng, riêng soeur Des Escures xem đó là một vật kỷ niệm quý báu.

 

Làm nữ y tá

      Soeur Magarita được chỉ định làm y tá phụ cho soeur Marest, vì bề trên cũng muốn cho soeur Magarita có thì giờ để cầu nguyện. Một hôm nọ, soeur Marest nói với y tá phụ : Nhờ chị thay em để chầu Mình Thánh Chúa độ nửa giờ, mọi công việc ở bệnh xá em quán xuyến cho. Soeur Magarita vào nguyện đường cung kính quỳ trước Mình Thánh Chúa, sốt sắng chiêm ngắm như không còn biết gì ở trần gian nầy nữa.

     Bác sĩ của dòng, từ khi chữa bệnh cho soeur Magarita, không ngớt khen ngợi sự can đảm phi thường của soeur qua mọi cơn đau dằn vặt nên ngạc nhiên nói : Làm thánh cũng tốt lành thật, soeur Magarita lòng khiêm nhượng, biết rằng sở dĩ được như vậy là nhờ Đấng đã dùng mình làm máng xối để chuyển hồng ân của Ngài đến các linh hồn, nên đáp : Chúng ta chỉ cần phải yêu mến Chúa để được nên thánh, có ai ngăn cấm mình đâu, vì mỗi người chúng ta đều có một quả tim để mến yêu.

    Bấy giờ dân chúng càng ngày càng biết đến dòng Đức Bà ở Paray le Monial, nên Chúa Giêsu cũng tỏ ra hài lòng. Ngài cho soeur Magarita biết rằng các nữ tu dòng Đức Bà Đi Viếng lãnh nhiệm vụ tiên khởi để phát động việc tôn thờ Trái Tim Chúa thì các linh mục dòng Tên có nhiệm vụ rao giảng khắp nơi việc tôn thờ nầy, để được hưởng vô vàn hồng ân Chúa ban cho.

     Cũng từ đó, các linh mục dòng Tên giảng dạy, cổ võ việc lành nầy, xuất bản sách vở báo chí, thành lập các hội đoàn để cầu nguyện, tôn thờ Trái Tim Chúa. Thời gian nầy soeur Magarita còn sống.

Tại Bretagne, năm 1678, cha Huby thành lập Hội cấm phòng cho những ai muốn sống trong tình yêu Chúa Giêsu. Cùng hợp tác với cha Huby có bà Claude Thérèse de Karmeno và các bạn, cha đi khắp tỉnh giảng về việc tôn thờ Trái Tim Chúa và lập dòng Trái Tim Chúa Giêsu.

     Ở Paray le Monial, nhà nguyện dâng kính Trái Tim Chúa Giêsu khởi công xây dựng năm 1686, được hoàn thành năm 1688. Ngày 07.09.1688 nghi lễ làm phép nhà nguyện thật long trọng. Giáo dân được mời tham dự và được phép vào nội cung, ai cũng tò mò muốn nhìn thấy mặt nữ tu đặc biệt mà ngoài phố phường thiên hạ đã không ngần ngại gọi là �thánh�, nhưng soeur Magarita rất điềm nhiên, không lưu ý đến mọi sự việc chung quanh mà chỉ tâm niệm cầu nguyện.

     Được dịp may hiếm có, nhiều giáo dân xin được gặp soeur Magarita để được nghe lời lành, được yên ủi, được hướng dẫn. Về sau nầy, tự thấy các chị trong nhà có phần kiêng dè mến chuộng mình nên soeur Magarita đột nhiên nói : Chắc tôi không còn sống bao lâu nữa vì không lãnh được khốn khó khổ đau nào nữa, vả chăng mẹ bề trên săn sóc tôi cẩn thận quá.

     Trong thời gian ấy, trong lúc khuân và sắp củi, có một thỉnh sinh vô ý nên bị thương nơi ống chân đau lắm mà không dám than van vì sợ bị hoàn tục. Thỉnh sinh ấy tự nghĩ rằng

     Ước gì tôi được đưa ống chân nầy chạm vào gấu áo của soeur Magarita... Đến chiều, trong giờ giải trí, thỉnh sinh nầy lợi dụng cơ hội thuận tiện, đến sau lưng soeur Magarita, nhẹ nhàng nắm gấu áo của soeur đặt lên ống chân mình mà chẳng ai hay biết gì cả. Sau đó mấy ngày, ống chân của thỉnh sinh nầy lành hẳn.

 

Dọn mình về chầu Chúa

     Soeur Magarita biết rằng cha Croiset đang viết một quyển sách nói về Trái Tim Chúa Giêsu nên sung sướng lắm vì như thế các mệnh lệnh và các điều Chúa hứa sẽ được phổ biến rộng rãi, soeur được lệnh phải ghi lại đầy đủ mọi chi tiết mà Chúa đã truyền dạy; song vì đức khiêm nhượng, soeur Magarita lại ước ao được chết trước khi quyển sách được xuất bản.

     Tự cảm thấy Chúa sắp gọi mình về, nên ngày 22.7.1690, soeur Magarita tĩnh tâm 40 ngày, dọn mình để hoàn toàn phú dâng mạng sống trong tay Đấng mà soeur thường gọi là nơi nương tựa độc nhất của mọi cậy trông của tôi.

     Xong cuộc tĩnh tâm thì soeur Magarita lâm bệnh ngày 08.10.1690, được rước Mình Thánh Chúa. Trong đêm, bệnh tình nghiêm trọng, soeur Magarita thầm thĩ cầu nguyện, xin lỗi mọi chị em rồi nói : Yêu mến Chúa thì hạnh phúc biết ngần nào, đoạn nói với chị canh bệnh : Xin chị hỏa thiêu quyển vở trong hộc tủ của em, trong ấy, vì vâng lời bề trên mà em đã ghi chép đấy. Soeur canh bệnh do dự, tự nghĩ quyển ấy chứa đựng một kho tàng vô giá, nên đáp : Xin chị trao chìa khóa tủ cho mẹ bề trên và cố gắng hy sinh ý muốn ấy đi.

     Ngày 17.10.1690, soeur Magarita quá yếu nên được lãnh bí tích Xức Dầu Thánh. Trong cơn hấp hối, ngẫu nhiên mà hai nữ tu (cựu tập viên) đến thăm, một đứng bên phải một đứng bên trái như từ trước soeur Magarita tiên báo. Soeur Magarita kêu tên Giêsu, linh hồn lìa khỏi xác về thiên cung, muôn muôn đời chiêm ngắm thánh nhan Đấng đã dạy mình phải loan truyền cho nhân loại biết tình thương vô lượng vô biên của Trái Tim Chúa Giêsu.

     Dân chúng ngoài phố bảo nhau : Bà thánh của dòng Đức Bà qua đời rồi. Soeur Magarita Maria về thiên cung nhưng sứ mạng của người được các cha dòng Tên tận tâm tận lực nối tiếp. Năm 1691, cha Croiset cho xuất bản quyển tóm lược hạnh tích vị nữ tu khả kính nầy Phát triển việc tôn thờ Trái tim Chúa Giêsu khắp hoàn cầu

    

Gioan Baotixita Hồ Đắc Hóa

https://hoaxuongrong.org/tac-gia/ho-dac-hoa/thanh-margarita_a111

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tái bố cục bằng 4 tiêu đề chính (mầu nâu) căn cứ vào từng đoạn đời của vị thánh này liên quan đến Thánh Tâm Chúa Giêsu

 

Thánh Margarita Maria Alacoque: Sứ Vụ Thánh Tâm Chúa

Thánh nữ Magarita Maria Alacoque sinh ngày 22/7/1647 ở L’Hautecour, Burgundy, Pháp quốc, và qua đời ngày 17/10/1690, ở Paray-le-Monial, Burgundy, Pháp quốc, hưởng dương 43 tuổi. Chị được Đức Thánh Cha Piô IX phong chân phước ngày 18/9/1864, và được Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV phong thánh ngày 13/5/1920. Lễ kính hằng năm của nữ thánh là ngày 16/10, cùng ngày kính với Thánh Nữ Hedwig.

 

Năm gần 24 tuổi, chị đã vào Dòng Thăm Viếng ở Paray-le-Monial ngày 25/5/1671. Chị khấn dòng ngày 6/11/1672. Chị đã được tiếp xúc với Thánh Tâm Chúa Giêsu từ ngày 27/12/1673 và lần cuối cùng 18 tháng sau, với sứ điệp chị nhận được từ Thánh Tâm Chúa liên quan tới 3 điều chính: 1) Rước Lễ vào Thứ Sáu Đầu Tháng, 2) Làm Giờ Thánh vào các ngày Thứ Năm, và 3) Lễ Kính Thánh Tâm Chúa. Tu viện của chị đầu tiên rất chống lại những thị kiến của chị, nhưng cuối cùng đã chấm dứt vào năm 1683, và vào đầu năm 1686 còn cử hành Lễ Thánh Tâm Chúa nữa. Hai năm sau tại địa phương tu viện của chị, chị còn thấy một nguyện đường được dựng nên để kính Thánh Tâm Chúa.

 

Sau khi chị qua đời, lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa được các linh mục Dòng Tên phát động và đồng thời cũng trở thành đề tài tranh luận trong Giáo Hội. Lòng tôn sùng này chỉ được chính thức công nhận 75 năm sau khi chị qua đời. Vào năm 1928, Đức Piô XI, qua Thông Điệp Miserentissimus Redemptor đã công nhận tính cách chân thực của việc chị được thụ khải. Bản viết La Devotion au Sacré-Coeur de Jesus – Tôn Sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu đã được phổ biến vào năm 1698 và đã trở nên phổ thông trong giới Công Giáo. Ngoài ra chị còn để lại một cuốn Tự  Truyện nữa, trong đó chị thuật lại đời sống nội tâm của chị với Thánh Tâm Chúa. Sau đây là 4 đoạn tiêu biểu liên quan trực tiếp đến Thánh Tâm Chúa: một liên quan tới vai trò của chị thánh, hai liên quan tới việc đền tạ Chúa, ba liên quan tới Lễ  Thánh Tâm, và bốn liên quan tới việc đền bù cho tội nhân.

 

1) “Cha đã chọn con như một vực thẳm bất xứng và vô thức…”

                  

Một ngày kia, được rỗi rãi hơn một chút - vì những công việc trao cho con không cho con được thảnh thơi tí nào - đang cầu nguyện trước Thánh Thể thì con cảm thấy toàn thân con bị chiếm đoạt bởi sự Hiện Diện Thần Linh, cho đến độ con mất đi tất cả ý thức về mình cũng như về nơi con đang ở, và con đã phú mặc cho Vị Thần Linh quyền năng của Người trên trái tim con. Người đã để con nghỉ ngơi qua một thời gian dài trên Lồng Ngực Linh Thánh của Người, nơi mà Người đã tỏ cho con thấy những kỳ diệu của tình yêu Người và những bí mật khôn tả của Thánh Tâm Người mà Người vẫn giấu con cho tới bấy giờ. Thế rồi, bấy giờ là lần đầu tiên Người mở ra cho con thấy Trái Tim Thần Linh của Người, một cách thế hết sức chân thực và cảm thức vượt lên trên tất cả mọi ngờ vực bởi những tác dụng của hồng ân này tạo ra nơi con, trên tất cả mọi sợ hãi như con vẫn hằng lo sợ về việc tự lừa dối mình ở bất cứ sự gì xẩy ra nơi con. Đối với con thì đây là điều đã xẩy ra. Người nói:      

                  

       Trái Tim Thần Linh của Cha nung nấu yêu thương con người và yêu thương riêng con đến nỗi không thể chất chứa trong mình được nữa những ngọn lửa Đức Ái bừng bừng của mình, Trái Tim Thần Linh của Cha cần phải bung tỏa những ngọn lửa này ra qua con, và tỏ mình ra cho nhân loại, để thăng hóa họ bằng những kho tàng qúi giá mà Cha mở ra cho con, kho tàng chất chứa những ơn thánh hoá và cứu rỗi cần thiết trong việc lôi kéo họ ra khỏi vực thẳm đời đời trầm hư. Cha đã chọn con như một vực thẳm bất xứng và vô thức cho việc hoàn thành dự định cao cả này, để mọi sự đều do Cha mà được thực hiện.

                       

Sau đó, Người hỏi đến trái tim con, vật mà con xin Người hãy nhận lấy. Người làm theo và đặt nó trong Trái Tim Đáng Suy Tôn của Người, nơi mà Người cho con thấy tim con như một hạt nguyên tử tí xíu đang bị tiêu hao đi trong hỏa lò vĩ đại này, rồi nó được Người lấy ra như một ngọn lửa rực cháy dưới hình thể của một con tim và đặt nó về đúng vị trí cũ mà nói với con:

                       

       Hỡi người tình thân ái của Cha, đây Cha cho con một dấu hiệu cao qúi của tình yêu Cha, bằng cách ghép vào cạnh sườn con một tia sáng nhỏ của những ngọn lửa bung tỏa của tình yêu Cha, để nó có thể thay cho trái tim con mà thiêu đốt con cho đến giây phút sau cùng của cuộc đời con; sức nóng của nó sẽ không bao giờ tàn lụi, và con chỉ đổ máu mới có thể tìm được một chút xả hơi. Ngay cả cách chữa trị này đi nữa, Cha sẽ ghi đậm dấu Thánh Giá của Cha, đến nỗi, cách chữa trị này sẽ mang đến cho con khổ đau và khiêm hạ hơn là được nhẹ mình. Thế nên, Cha muốn rằng con hãy đơn thành hỏi xin cách chữa trị này để con có thể thực hành điều buộc con theo lệnh truyền, cũng như cho con niềm an ủi được đổ máu con trên thập giá của những lần hạ mình khiêm tốn. Để có chứng cớ về hồng ân cao cả Cha ban cho con không phải là tưởng tượng và là một chứng cớ xây nền tảng cho tất cả những gì Cha dự tính sẽ ban xuống trên con, mặc dù Cha đã đóng vết thương ở cạnh sườn của con lại, nhưng đớn đau sẽ vẫn luôn còn mãi. Nếu cho đến nay con mới chỉ nhận lấy danh xưng là nô lệ của Cha, thì giờ đây Cha tặng cho con tên gọi là môn đệ của Thánh Tâm Cha.

 

(Tự Truyện: đoạn 53). 

 

2) “Ít là có con an ủi Cha, bao nhiêu có thể, thay cho sự vô ơn bậc tình của họ” 

                 

Vào mỗi Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng, ân huệ được đề cập đến trên đây cùng với đớn đau ở cạnh sườn con tái diễn như thế này: Con thấy Thánh Tâm Chúa như một vầng dương sáng chói, với những tia nóng tuôn xuống trên trái tim con làm cho nó bùng cháy với một ngọn lửa nóng nảy, đến nỗi, ngọn lửa như có thể làm con biến thành tro. Vào những dịp đặc biệt này, Vị Thần Sư của con dạy con những điều Người đòi hỏi nơi con và tỏ cho con biết những bí mật của Trái Tim thương yêu của Người. Có một lần, trước Thánh Thể được đặt ra ngoài, con cảm thấy mình hoàn toàn chìm đắm vào một cuộc suy niệm phi thường bằng cả giác quan lẫn năng lực của con, thì Chúa Giêsu Kitô, vị Sư Phụ dịu ngọt của con tỏ mình ra cho con với tất cả vinh quang sáng ngời, và Năm Dấu Tích của Người chiếu sáng như thật nhiều mặt trời. Những ngọn lửa phát ra từ các phần của nhân tính Người, nhất là từ Lồng Ngực Đáng Suy Tôn của Người, giống như một lò lửa không đậy nắp, để lộ ra cho con thấy Trái Tim khả ái nhất và yêu thương nhất, Trái Tim là một nguồn mạch sống động của những ngọn lửa này. Đoạn Người tỏ cho con thấy những diệu kỳ không thể xóa mờ nơi tình yêu tinh tuyền của Người, cùng tỏ cho con biết cái gì đã làm Người yêu con người quá lẽ, mà Người lại chỉ nhận được vô ơn bạc nghĩa và khinh mạn dể duôi. Người nói:

                       

       Cha cảm thấy điều này còn hơn tất cả những gì Cha phải chịu trong cuộc khổ nạn của Cha. Chỉ cần họ đáp lại một phần nào tình yêu của Cha, thì Cha vẫn nghĩ rằng Cha dù sao cũng mới hy sinh cho họ chút xíu, và nếu có thể, Cha còn muốn chịu khổ hơn nữa. Thế nhưng, họ chỉ đáp lại tất cả nhiệt huyết của Cha trong việc làm ích cho họ bằng cách loại trừ Cha và lạnh lùng đối xử với Cha. Ít là có con an ủi Cha, bao nhiêu có thể, thay cho sự vô ơn bậc tình của họ.  

           

             (Tự Truyện: đoạn 55)

 

3) “Hãy giành Ngày Thứ Sáu sau Tuần Bát Nhật của lễ kính Mình Thánh Chúa Kitô để làm một ngày lễ kính Trái Tim Cha” 

 

Ở trước Mình Thánh Chúa vào một ngày trong tuần bát nhật, con nhận được từ Thiên Chúa những dấu chứng tỏ hiện của tình yêu Người, và cảm thấy được thôi thúc đáp đền Người một phần nào, bằng cách lấy tình yêu trang trải tình yêu cho Người. Người nói:

                       

       Con không thể trả lại cho Cha tình yêu nào cao cả hơn là làm theo điều Cha rất thường xin con làm.

                       

Rồi tỏ cho con thấy Trái Tim Thần Linh của Người, Người nói:

                       

       Hãy nhìn xem Trái Tim này, Trái Tim yêu thương con người quá sức, đến nỗi đã không tiếc xót một sự gì, cho đến cạn kiệt và tiêu hao chính mình, để chứng tỏ cho họ thấy tình yêu của mình; và đáp lại, Cha chẳng nhận được gì từ phần đông con người, ngoài sự vô ơn bạc nghiã được tỏ ra qua những việc bất kính và phạm thánh của họ, qua sự lạnh nhạt và khinh mạn mà họ tỏ ra đối với Cha trong Bí Tích Tình Yêu này. Thế nhưng, cái làm cho Cha cảm thấy nhức nhối nhất đó là chính các con tim đã tận hiến cho Cha lại đối xử với Cha như vậy. Bởi đó, Cha xin con hãy dành Ngày Thứ Sáu sau Tuần Bát Nhật của lễ kính Mình Thánh Chúa Kitô để làm một ngày lễ kính Trái Tim Cha, bằng việc liên minh trong ngày đó mà đền tạ Trái Tim Cha với một nghi thức long trọng, hầu có thể bù đắp tất cả những bất xứng mà Trái Tim Cha phải chịu trong thời gian Trái Tim Cha được đặt lộ ra trên các bàn thờ. Cha hứa với con rằng Trái Tim Cha sẽ rộng mở để tràn tuôn muôn vàn ảnh hưởng của tình yêu thần linh trên những kẻ tôn kính Trái Tim Cha và làm cho Trái Tim Cha được kính tôn. 

 

(Tự Truyện: đoạn 92) 

 

4) “Cha sẽ tha cho họ nếu con đứng ra bảo đảm thay cho họ

 

Con nhận thức được rằng con không thể nào chịu đựng tình trạng quá đau đớn được lâu nữa, nếu tình thương ưu ái của Người không nâng đỡ con dưới sự nghiêm khắc của đức công chính Người. Đúng như thế, con đã ngã bệnh khó lòng mà bình phục nổi. Người thường đặt con vào trạng thái đớn đau này, và có một lần Người cho con biết hình phạt mà Người sắp giáng xuống trên một số linh hồn; nhưng con gieo mình xuống Bàn Chân Linh Thánh của Người mà nói:

 

"Ôi Đấng Cứu Tinh của con, con xin Chúa thà đổ cơn oán hận của Chúa xuống trên con và xóa con khỏi Sách Sự Sống hơn là để những linh hồn đã được Chúa hết sức dấu yêu hy sinh cho này bị hư mất đời đời!"

Và Người trả lời:

                       

       Thế nhưng họ đâu có thương con, lại không thôi làm khổ con.

                       

"Cũng không sao, lạy Chúa Trời con, miễn là họ yêu Chúa, con sẽ không thôi xin Chúa tha thứ cho họ"

                       

       Hãy để cho Cha làm như Cha muốn, Cha không chịu được họ nữa rồi.

                       

Càng ôm chặt lấy Người, con đáp lại: "Không được, Chúa ơi, con sẽ không rời Chúa cho đến khi Chúa tha cho họ mới thôi". Người nói:

                       

       Cha sẽ tha cho họ nếu con đứng ra bảo đảm thay cho họ.

                       

"Vâng, lạy Chúa Trời con, thế nhưng, con sẽ đền lại cho Cha bằng chính các sự thiện hảo của Cha đó là các kho tàng của Thánh Tâm Cha".

 

Thế là Người mãn nguyện.    

(Tự Truyện: đoạn 100)

Tuy nhiên, để việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa của chúng ta có một nền tảng vững chắc, chúng ta cũng cần biết thêm đâu là lý do, đối tượng, bản chất, hình thành và thiết lập việc Tôn Sùng Thánh Tâm Chúa. Và chúng ta sẽ không tìm đâu ra nền tảng vững chắc này ngoài giáo huấn của Giáo Hội qua Đức Thánh Cha Piô XII nơi bức Thông Điệp Haurietis Aquas ban hành ngày 15/5/1956 để kỷ niệm 100 năm ĐTC Piô IX truyền mừng lễ kính Thánh Tâm Chúa trong toàn thể Giáo Hội.

(Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp và chuyển dịch theo Tự Truyện của Chị Thánh)

 

Thánh Tâm Chúa - Thông Điệp "Kín Lấy Nước Haurietis Aquas" (ĐTC Piô XII)

       

111.     Thế nên, Ta biết rằng, việc sùng kính mà chúng ta suy tôn tình yêu của Chúa Giêsu Kitô dành cho loài người, qua dấu hiệu cao cả là Trái Tim Bị Thương Tích của Đấng Cứu Chuộc bị đóng đanh trên Thánh Giá, đã chưa bao giờ hoàn toàn bị lòng đạo đức của Kitô hữu lãng quên cả. Tuy nhiên, trong những thời gian gần đây, việc sùng kính này đã được biết đến nhiều hơn và được phổ biến cách lạ lùng khắp Giáo Hội, nhất là sau khi chính Chúa mạc khải mầu nhiệm thần linh này cho riêng một số con cái của Người, thành phần được đặc biệt ban cho dồi dào ân phúc thiêng liêng, trở nên những sứ giả được tuyển chọn để loan truyền việc tôn sùng này. (Phụ chú của người trích dịch: Ở đây ĐTC có thể ngầm nói đến cả chị nữ tu Maria Josefa Menéndez, mà ngài, khi còn là hồng y, trong thơ đề tháng 4-1938,  đã viết cho mẹ bề trên của chị để chúc lành cho cuốn sách "The Way of Divine Love" trong lần xuất bản thứ nhất của nó)

           

116.     Ta đề cập đến những tên tuổi tiêu biểu của những người chiếm được một vị trí  đặc biệt trong việc thiết lập cũng như cổ động việc tôn sùng Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu: đó là thánh Bonaventura, thánh Albêtô Cả, thánh Catarina Siena, chân phước Henry Suso, thánh Phêrô Canisiô, thánh Phanxicô Salêsiô, và thánh Gioan Euđê là tác giả soạn ra bộ kinh nguyện phụng vụ đầu tiên để dùng vào việc cử hành tôn kính Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu.           

 

117.     Được nhiều giám mục Pháp ban phép, lễ trọng này đã được cử hành vào lần đầu tiên ngày 20-10-1672.

           

118.     Trong số những người cổ động việc tôn sùng tuyệt hảo này, chiếm chỗ danh dự là thánh nữ Magarita Maria Alacoque. Được lòng nhiệt thành nung nấu và được hỗ trợ bởi vị linh hướng là chân phước Claude de la Colombrère, thánh nữ đã hết sức tiến hành để làm cho việc tôn sùng, không thiếu gì tín hữu hết sức ca tụng, dồi dào phúc lành thiêng liêng này, được thiết lập và, bởi bản chất đặc biệt nơi những tác động yêu mến cũng như đền tạ của nó, được trổi vượt hơn những hình thức đạo đức khác của Kitô hữu.

           

119.     Việc ôn lại lịch sử của giai đoạn bắt đầu việc sùng kính Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu đủ cho chúng ta  thêm sự hiểu biết về sự phát triển lạ lùng của việc tôn sùng này, một việc tôn sùng hoàn toàn hợp với bản chất của Kitô giáo, một tôn giáo đích thực là một đạo giáo yêu thương.         

   

           

123.     ... Thánh Bộ Lễ Nghi, trong sắc lệnh đề ngày 25-1-1765, được vị tiền nhiệm của Ta là Đức Clementê XIII phê chuẩn ngày 6-2 cùng năm, đã ban phép cử hành thánh lễ phụng vụ cho các giám mục Ba-Lan cũng như cho Roman Archfraternity of the Sacred Heart.           

 

125.     Việc chuẩn nhận đầu tiên này được ban phép theo thể thức của một đặc ân và hạn hẹp cho những vùng nào đó thôi. Sau gần một thế kỷ, một chuẩn nhận khác quan trọng hơn được ban cho, với những ngôn từ trịnh trọng. Ta đang nói đến, như Ta đã đề cập trước đây, sắc lệnh của Thánh Bộ Lễ Nghi ban hành ngày 23-8-1856. Qua sắc lệnh này, vị tiền nhiệm của Ta là Đức Piô IX, ưng thuận với những thỉnh cầu của các Giám Mục Pháp quốc cũng như của hầu hết thế giới Công Giáo, đã truyền cho lễ Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu được phổ biến khắp Giáo Hội và phải được cử hành xứng đáng. Tín hữu phải luôn luôn nhớ đến sắc lệnh này, vì, như chúng ta đọc trong phụng vụ của lễ này: "Từ khi việc tôn sùng Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu, phát xuất như một giòng suối mãnh liệt, đã lan truyền khắp thế giới, tẩy xoá đi mọi chướng ngại trong giòng nước của nó."

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, chuyển dịch

 

Thánh Tâm Chúa - Thứ Sáu Đầu Tháng

 

 

Đó là thời điểm nửa đêm về sáng giữa Thứ Năm và Thứ Sáu Đầu Tháng để thực hiện "Một Giờ Với Thày".

 

Có 4 thông điệp về Thánh tâm của 3 Đức Thánh Cha sau đây

ĐTC Lêô XIII với Thông Điệp ANNUM SACRUM về việc Tận Hiến cho Thánh Tâm ban hành ngày 25/5/1899, ấn định ngày 11/6/1899 là ngày Tận Hiến cả loài người cho Thánh Tâm Chúa.

ĐTC Piô XI với 2 thông điệp MISERENTISSIMUS REDEMPTOR về việc Đền Tạ Thánh Tâm Chúa, ban hành ngày 8/5/1928, và thông điệp CARITATE CHRISTI COMPULSI: về Thánh Tâm Chúa ban hành ngày 3/5/1932.

Đức Piô XII với Thông Điệp HAURIETIS AQUAS về Việc Tôn Sùng Thánh Tâm Chúa, ban hành ngày 15/5/1956

Tuy không có một thông điệp nào nói một cách rõ ràng đến riêng truyền thống Thứ Sáu Đầu Tháng, nhưng chúng ta cũng thấy nhắc đến một cách gián tiếp ở thông điệp MISERENTISSIMUS REDEMPTOR như sau:

"Hơn nữa, nhờ tác động của ân sủng Chúa, việc thực hành đạo đức đối với Trái Tim Rất Thánh Chúa Giêsu đã gia tăng rất nhiều qua giòng thời gian; từ đó đã có các hiệp hội đạo đức phát động việc tôn thờ Trái Tim Thần Linh này ở khắp mọi nơi, cũng từ đó lệ rước Lễ vào các Thứ Sáu đầu tháng theo lòng mong ước của Chúa Giêsu Kitô là một thứ lệ giờ đây đã được thịnh hành" (đoạn 3)

"Để những lỗi lầm này (bỏ bê quên lãng Tình Yêu Chúa) được tẩy sạch, thì Người (Chúa Giêsu) đã khuyên dạy mấy điều cần phải làm, nhất là việc sau đây là việc đẹp lòng Người nhất, đó là người ta cần phải tiến đến Bàn Thờ với mục đích đền bồi tội lỗi, bằng việc được gọi là Rước Lễ Đền Tạ, và họ cũng cần phải thực hiện các lời nguyện cầu đền bồi kéo dài nguyên cả một tiếng đồng hồ, được gọi là 'Giờ Thánh'. Những việc thực hành đạo đức này đã được Giáo Hội chuẩn nhận và cũng được phong phú hóa bởi các ân sủng dồi dào" (đoạn 12)

Như thế, căn cứ vào hai đoạn của ĐTC Piô XI trên đây thì Thứ Sáu Đầu Tháng trở thành lệ không phải trực tiếp từ Giáo Hội mà là từ Cộng Đồng Dân Chúa, một lệ được căn cứ vào khoản Tự Truyện 55 của Chị Thánh Margarita Maria Alacoque. Và những việc làm cho/trong Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng này, như Rước Lễ Đền Tạ và làm Giờ Thánh, là những gì đã được Giáo Hội chuẩn nhận.

 

Sau đây là chính lời của Chúa Giêsu kêu gọi Chị Thánh Margarita Maria Alacoque:

 

"Cũng trong lần Trái Tim Thần Linh của Người mở ra, thì có một ngọn lửa từ đó bắn ra, nồng nhiệt đến nỗi, con nghĩ con bị thiêu rụi đi mất tiêu rồi, vì con hoàn toàn bị ngọn lửa này chiếm đoạt cho đến độ, không chịu đựng được nữa, con đã xin Người thương đến sức yếu đuối của con. Người nói với con rằng:

 

"Cha sẽ là mãnh lực của con, đừng sợ gì cả, nhưng hãy lắng nghe Tiếng Cha và những gì Cha sẽ đòi hỏi nơi con, để con có thể trở thành một trong những yếu tố tiên quyết trong việc hoàn thành dụ định của Cha. Trước hết, con sẽ thường xuyên hiệp lễ, bao lâu đức vâng lời cho phép con, cho dù con có phải bỏ mình hay hạ mình đi nữa, thì con cũng phải nhận lấy chúng như những lời đoan hứa của tình Cha yêu thương con. Hơn thế nữa, con sẽ liên minh hiệp thông với Cha vào mỗi Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng. - Vào nửa  đêm giữa ngày Thứ Năm và Thứ Sáu, Cha sẽ cho con thông phần vào cuộc buồn sầu đến chết được mà Cha sẵn sàng cảm nhận trong Vườn Cây Dầu, và nỗi buồn sầu ngoài khả năng thấu hiểu của con này sẽ kéo con vào một cuộc khổ não còn khốn cực hơn là chính sự chết nữa. Và, để thông hiệp với Cha trong buổi cầu nguyện nhu hạ mà Cha bấy giờ dâng lên Cha Cha giữa cơn khổ não của Cha, con sẽ chỗi dậy giữa 11 và 12 giờ khuya, sấp mình xuống với Cha một tiếng đồng hồ, không những để làm nguôi cơn giận thần linh, bằng việc van xin tình thương cho các tội nhân, mà còn để xoa dịu phần nào nỗi đắng cay mà bấy giờ Cha đã cảm thấy, khi Cha bị các tông đồ bỏ rơi, làm cho Cha phải trách họ không thể thức với Cha lấy một giờ. Trong một tiếng đồng hồ ấy, con sẽ làm theo điều Cha sẽ dạy con. Nhưng hãy nghe này, hỡi đứa con gái của Cha ơi, đối với mọi thần linh, con đừng tin theo một tí nào cũng đừng tin tưởng gì cả, vì Satan hậm hực sẽ tìm cách đánh lừa con đấy nhé. Thế nên, đừng làm sự gì mà không được chấp nhận bởi những vị hướng dẫn của con; ở dưới thẩm quyền của đức tuân phục, nỗ lực làm hại con của hắn sẽ trở thành vô hiệu, vì hắn không có quyền hạn gì trên một con người vâng phục cả". (Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tự Truyện của Chị Thánh Margarita Maria Alacoque đoạn 57).

 

Nguồn gốc và Mục đích của Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng thì tất cả ở đoạn Tự Truyện số 55 của Thánh Nữ Margarita Maria Alacoque (1647-1690) sau đây (những chỗ in nghiêng và đỏ là do chính tôi là người dịch tự ý muốn nhấn mạnh cho rõ hơn vấn đề ông hỏi):

 

"Vào mỗi Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng, ân huệ được đề cập đến trên đây (biệt chú của người dịch thì 'ân huệ' đó 'được đề cập đến' ở đoạn 53, đoạn đã được chị thánh diễn tả tác động và lời của Chúa Giêsu nói với chị rằng 'Cha... ghép vào cạnh sườn con một tia sáng nhỏ của những ngọn lửa bung tỏa của tình yêu Cha, để nó có thể thay cho trái tim con mà thiêu đốt con cho đến giây phút sau cùng của cuộc đời con') cùng với đớn đau ở cạnh sườn con tái diễn như thế này: Con thấy Thánh Tâm Chúa như một vầng dương sáng chói, với những tia nóng tuốn xuống trên trái tim con làm cho nó bùng cháy với một ngọn lửa nóng nảy, đến nỗi, ngọn lửa như có thể làm con biến thành tro. Vào những dịp đặc biệt này, Vị Thần Sư của con dạy con những điều Người đòi hỏi nơi con và tỏ cho con biết những bí mật của Trái Tim thương yêu của Người. Có một lần, trước Thánh Thể được đặt ra ngoài, con cảm thấy mình hoàn toàn chìm đắm vào một cuộc suy niệm phi thường bằng cả giác quan lẫn năng lực của con, thì Chúa Giêsu Kitô, vị Sư Phụ dịu ngọt của con tỏ mình ra cho con với tất cả vinh quang sáng ngời, và Năm Dấu Tích của Người chiếu sáng như thật nhiều mặt trời. Những ngọn lửa phát ra từ các phần của nhân tính Người, nhất là từ Lồng Ngực Đáng Suy Tôn của Người, giống như một lò lửa không đậy nắp, để lộ ra cho con thấy Trái Tim khả ái nhất và yêu thương nhất, Trái Tim là một nguồn mạch sống động của những ngọn lửa này. Đoạn Người tỏ cho con thấy những diệu kỳ không thể xóa mờ nơi tình yêu tinh tuyền của Người, cùng tỏ cho con biết cái gì đã làm Người yêu con người quá lẽ, mà Người lại chỉ nhận được vô ơn bạc nghĩa và khinh mạn dể duôi. Người nói: 'Cha cảm thấy điều này còn hơn tất cả những gì Cha phải chịu trong cuộc khổ nạn của Cha. Chỉ cần họ đáp lại một phần nào tình yêu của Cha, thì Cha vẫn nghĩ rằng Cha dù sao cũng mới hy sinh cho họ chút xíu, và nếu có thể, Cha còn muốn chịu khổ hơn nữa. Thế nhưng, họ chỉ đáp lại tất cả nhiệt huyết của Cha trong việc làm ích cho họ bằng cách loại trừ Cha và lạnh lùng đối xử với Cha. Ít là có con an ủi Cha, bao nhiêu có thể, thay cho sự vô ơn bậc tình của họ'". (Đoạn trên đây tôi trích dịch từ cuốn The Autobiography of Saint Margaret Mary, Tan Books and Publishers, Inc, 1986, trang 66-67)

 

Căn cứ vào đoạn 55 trên đây trong cuốn Tự Truyện của Chị Thánh Margarita Maria Alacoque thì Nguồn Gốc của Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng được xuất phát từ những gì Chúa Giêsu muốn tỏ ra Vào mỗi Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng cho vị thánh nữ này chẳng những được thấy Thánh Tâm Chúa mà còn được biết cả những bí mật của Thánh Tâm Người: cái gì đã làm Người yêu con người quá lẽ, nhưng thảm thương thay, Thánh Tâm vô cùng nhân hậu của Người lại chỉ nhận được vô ơn bạc nghĩa và khinh mạn dể duôi, bởi đó Thánh Tâm Chúa đã kêu gọi thực hiện việc đền tạ như là Mục Đích của Ngày Thứ Sáu Đầu ThángÍt là có con an ủi Cha, bao nhiêu có thể, thay cho sự vô ơn bậc tình của họ. 

 

(Đaminh Maria cao tấn tĩnh truy tầm và chuyển dịch theo Tự Truyện của Chị Thánh)

 

 

Thánh Tâm Chúa Giêsu - Phong Trào Tôn Sùng

 

Năm 1715, cha bề trên Cả dòng Tên bắt đầu vận động xin Tòa Thánh phong soeur Magarita Maria lên hiển thánh song bị chậm trễ vì cuộc cách mạng đã làm chodòng Tên bị phân tán. Tuy vậy việc tôn thờ Trái Tim Chúa chẳng những được duy trì mà còn đều đều phát triển.

     Năm 1758, 143 vị giám mục của nhiều quốc gia trên thế giới xin với Đức Giáo Hoàng cho in vào sách lễ Lễ kính Trái tim Chúa Giêsu.

     Năm 1765, đã có trên một nghìn hội đoàn Trái Tim Chúa nhưng rồi cuộc nội chiến của Pháp đã giết hại rất nhiều linh mục cũng như rất nhiều linh mục phải vượt biên tị nạn.

     Từ đầu thế kỷ XIX, các nhà dòng, các tu viện đều tăng cường việc tôn thờ Trái Tim Chúa. Năm 1800, cha Pierre Coudrin, quê ở Poitiers, lập một hội dòng gồm có ngành nam và ngành nữ gọi là Picpus, chuyên giảng dạy và khuyến khích việc tôn thờ Trái Tim Chúa trong phép Thánh Thể; phong trào này phát triển và lan tràn nhanh chóng tại các đảo thuộc Úc dương châu (Océanie).

     Năm 1801, một thanh nữ ở Joigny tỉnh Yonne (Pháp) hiến dâng trọn đời mình để chuyên giáo dục thanh thiếu nữ, được cha Varin (dòng Tên) hướng dẫn, thành lập một dòng nữ chuyên việc tôn thờ Trái Tim Chúa. Dòng nầy được phát triển tại các quốc gia; về sau, vị sáng lập dòng được phong hiển thánh tức thánh Madeleine Sophie Barat.

     Năm 1835, một linh mục người Basque, mỹ danh Michel Garicoits thành lập tại  Bétharam, gần Lourdes hội Linh mục của Trái Tim Chúa. Cha Michel Garicoits qua đời năm 1863 và được Đức Piô XII phong hiển thánh năm 1947.

     Năm 1854, tại Issoudin, linh mục Chevalier thuộc Hội Giáo sĩ thừa sai Trái Tim Chúa Giêsu, chuyên giảng đạo tại các vùng thôn quê để trùng hưng đạo thánh Chúa. Sau đó ngài thành lập - khoảng 1847 - dòng nữ thừa sai Notre Dame Du Sacré Coeur.

     Năm 1856, Đức Piô IX truyền cho toàn thể Giáo hội phải mừng lễ kính Trái Tim Chúa Giêsu theo như Chúa đã truyền dạy rồi đến ngày 19.08.1864, ngài long trọng phong soeur Magarita Maria lên Á thánh.

     Năm 1861, cha Henri Ramière (cũng dòng Tên) xuất bản tạp chí Messager du Coeur de Jésus phát động việc tôn thờ Trái Tim Chúa.

     Năm 1866, cha Braun, người Lorraine, thành lập Hội Nữ tỳ Trái Tim Chúa để cứu giúp giới phụ nữ thất thân ở các thành phố lớn và giáo dục trẻ mồ côi.

     Sau chiến tranh 1870, cha Dehon lập Hội linh mục của Trái Tim Chúa tại Saint Quentin (Pháp). Ngài bênh vực giới thợ thuyền và giới nghèo khó nên người ta chụp mũ ngài là đảng viên xã hội, tuy vậy hội của ngài vẫn sinh hoạt và phát triển không ngừng.

     Lúc còn sanh tiền, soeur Magarita Maria đã có ý muốn xin vua Louis XIV dâng nước Pháp cho Trái Tim Chúa song chưa thực hiện được.

     Ngày 23.07.1873, Quốc hội Pháp bỏ phiếu chấp thuận luật xây dựng một Vương cung kính Trái Tim Chúa gọi là Vương cung của lời nguyện ước quốc gia (Basilique du Voeu National). Vì sau bao nhiêu đau thương do chiến tranh 1870 gây ra, nước Pháp muốn minh chứng lòng mình muốn ăn năn, trở lại trung thành thờ phượng Thiên Chúa là Chúa của mình. Vậy người ta quyết định xây dựng công trình ấy trên đồi Montmartre trông xuống thủ đô Paris; viên đá đầu tiên được đặt ngày 16.06.1875; tiền dâng cúng từ khắp nơi gởi về, ngay cả những người gia sản tầm thường cũng dâng số tiền dành dụm của mình. Kiến trúc sư chọn mẫu Byzantin của thế kỷ XII. Thật là một công trình vĩ đại, đẹp đẽ. Tháp chuông cao hơn 100m, quả chuông lớn nhất tên là La Savoyarde cân nặng 26.215 kg do giáo dân Chambéry dâng cúng. Sau đệ nhất thế chiến, Vương cung được làm phép và trên bàn thờ chính có một ít hài cốt của thánh Magarita Maria.

      Ngày 13.05.1920, Đức Benoit XV tuyên phong Hiển thánh cho Á thánh Magarita Maria. Trở lại năm 1899, Đức Léon XIII đọc kinh dâng toàn thể nhân loại cho Trái Tim Chúa Giêsu và dạy các nước khắp hoàn cầu phải đọc kinh ấy trước Mình Thánh Chúa long trọng trưng bày trên bàn thờ trong ngày lễ Chúa Giêsu là Vua Vũ Trụ.

     Cứ theo đà ấy, việc tôn thờ Trái Tim Chúa Giêsu từ đời nọ sang đời kia được tiếp tục theo nhiều nghi thức để đền bồi phạt tạ mọi tội lỗi phạm đến Trái Tim Chúa hằng yêu thương nhân loại vô ngần.

Từ đầu thế kỷ XX, cha Matéo Crawlay dòng Picpus, sau cuộc hành hương Paray, liền có sáng kiến tổ chức việc tôn thờ Trái Tim Chúa trong gia đình. Ảnh tượng Trái Tim Chúa đặt vào nơi trịnh trọng nhất trong nhà để dâng toàn thể gia đình cho Trái Tim Chúa để Ngài làm chủ gia đình, rồi cha mẹ con cái đọc kinh cầu nguyện trước bàn thờ Trái Tim Chúa. Hằng triệu gia đình công giáo đã nghe theo và Đức Piô XII ban thưởng cho cha Matéo tước hiệu Tông đồ của Trái Tim Chúa.

    

Thánh Tâm Chúa - Những Lời Hứa

1. Những kẻ thật lòng dâng trọn mình cho Trái Tim Chúa Giêsu sẽ không mất linh hồn.

2. Những nơi nào trưng bày và tôn thờ Trái Tim Chúa Giêsu sẽ được hưởng nhiều hồng ân.

3. Những gia đình bị ly tán và những gia đình có lòng tin cậy cầu xin Trái Tim Chúa Giêsu thì sẽ được Ngài hộ phù giúp đỡ bảo vệ trong mọi cơn túng ngặt.

4. Chúa Giêsu sẽ bảo vệ cách riêng những cộng đoàn có lòng tôn thờ Trái Tim Ngài cho khỏi án công thẳng.

5. Những ai lo cho phần rỗi người ta, nếu có lòng tôn thờ Trái Tim Chúa Giêsu thì Ngài sẽ ban cho nhiều thành quả.

6. Những ai rước Mình Thánh Chúa liên tục trong chín ngày thứ sáu đầu tháng thì chắc chắn được Chúa ban cho ơn cứu rỗi.

     Những vị Giáo hoàng cận đại đối với việc tôn thờ Trái tim Chúa Giêsu Đức Gioan XXIII, trong thời gian còn là Sứ thần của Tòa Thánh tại Pháp, đã hành hương kính viếng Paray le Monial năm lần. Ngài nói : Việc tôn thờ Trái Tim Chúa Giêsu đã hướng dẫn trọn cuộc đời của tôi. Trái Tim Chúa muốn tôi phải là một người được hưởng nhiều hồng ân đặc biệt nên tôi sẵn sàng đổ máu mình để Trái Tim Chúa thống trị khải hoàn.

     Đức Phaolô VI, năm 1965, đã ra hai tông thư về việc tôn sùng Trái Tim Chúa Giêsu. Trái Tim Chúa Giêsu là hình ảnh đầy đủ ý nghĩa của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Việc tôn thờ Trái Tim Chúa Giêsu phải được nẩy nở và phát triển không ngừng nơi mọi người và đó là hình thức chính đáng để chứng minh lòng sốt sắng sùng đạo.

     Ngày 17.10.1965, đức Hồng Y Wojtyla, Tổng Giám mục Cracovie, đã chủ tế tại Paray le Monial lễ thánh nữ Magarita Maria. Mười ba năm sau, vào ngày lễ thánh nữ Magarita Maria, 16.10.1978, ngài đắc cử Giáo Hoàng, niên hiệu Gioan Phaolô II - một trùng hợp lạ lùng - Tháng 10.1988, công du mục vụ lần thứ ba tại Pháp quốc, ngài đã không quên hành hương Paray le Monial.

(Hồ Đắc Hóa)

 

 


Thứ Bảy

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 1, 15-23

"Thiên Chúa tôn Ðức Kitô làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, khi nghe biết lòng tin của anh em đối với Chúa Giêsu, và lòng mến của anh em đối với hết thảy các thánh, tôi không ngừng tạ ơn Chúa cho anh em, khi nhớ đến anh em trong kinh nguyện. Xin Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người. Xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau.

Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Ðấng chu toàn mọi sự trong mọi người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 8, 2-3a. 4-5. 6-7

Ðáp: Chúa đã đặt Con Chúa cai trị các công trình tay Chúa tác thành (c. 7).

Xướng: 1) Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu! Chúa đã nâng cao oai nghiêm Ngài trên cõi trời xanh. Từ miệng thiếu nhi và trẻ con đang bú sữa. - Ðáp.

2) Khi con ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, vầng trăng và muôn tinh tú mà Chúa gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa nhớ tới? Con người là chi mà Chúa để ý chăm nom? - Ðáp.

3) Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang; Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo. Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. - Ðáp.

 

Alleluia: Gc 1, 18

Alleluia, alleluia! - Do ý định của Thiên Chúa, Người đã sinh chúng ta bằng lời sự thật, để chúng ta nên như của đầu mùa các tạo vật. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 12, 8-12

"Trong giờ ấy, Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hễ ai xưng nhận Thầy trước mặt người đời, thì Con Người cũng sẽ xưng nhận nó trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa; nhưng ai chối bỏ Thầy trước mặt người đời, thì sẽ bị chối bỏ trước mặt thiên thần của Thiên Chúa. Và hễ kẻ nào nói phạm đến Con Người, thì nó sẽ được tha. Nhưng kẻ nào nói phạm thượng đến Thánh Thần, thì sẽ không được tha.

"Khi người ta điệu các con vào các hội đường, đến trước mặt vua quan và chính quyền, các con chớ lo lắng phải thưa làm sao, hay phải nói thế nào, vì trong giờ ấy, Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào".

Ðó là lời Chúa.

 

Renovate Life Church of GodDevotionals

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Tuyên xưng Con Người và phạm đến Con Người

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho Thứ Bảy cuối Tuần XXVIII Thường Niên hôm nay vẫn cùng với Bài Đọc 1 cho năm lẻ trong ngày tiếp tục đề tài về đức tin công chính hay về người lành sống bởi đức tin. 

Thật vậy, theo lời Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm, thì người lành sống bởi đức tin là người tỏ ra hiên ngang làm chứng cho sự thật, tức làm chứng cho Chúa Kitô, không sợ hãi khi bị bách hại, hay sợ hãi kẻ bắt bớ mình, trái lại, họ sống như đang ở trước nhan Thiên Chúa là Đấng ngự trong họ bằng Thánh Thần của Ngài, để Ngài có thể tỏ mình ra trong họ và qua họ ở vào chính những cơn gian nan thử thách cần đến đức tin bất khuất của họ.  

Đó là tất cả ý nghĩa của những gì "Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Hễ ai xưng nhận Thầy trước mặt người đời, thì Con Người cũng sẽ xưng nhận nó trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa; nhưng ai chối bỏ Thầy trước mặt người đời, thì sẽ bị chối bỏ trước mặt thiên thần của Thiên Chúa. Và hễ kẻ nào nói phạm đến Con Người, thì nó sẽ được tha. Nhưng kẻ nào nói phạm thượng đến Thánh Thần, thì sẽ không được tha. Khi người ta điệu các con vào các hội đường, đến trước mặt vua quan và chính quyền, các con chớ lo lắng phải thưa làm sao, hay phải nói thế nào, vì trong giờ ấy, Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào'".  

Trong đoạn "Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ" trên đây, có tất cả là 3 câu, nhưng hình như câu thứ hai hơi lạc đề, không dính dáng gì với câu trước và câu sau, đó là câu: "Và hễ kẻ nào nói phạm đến Con Người, thì nó sẽ được tha. Nhưng kẻ nào nói phạm thượng đến Thánh Thần, thì sẽ không được tha". Chẳng lẽ câu này Người có ý cảnh báo cho các môn đệ của Người về hai thứ tội: một tội có thể tha được là tội phạm đến Con Người và một tội không thể tha được là tội phạm đến Thánh Thần? 

Có nghĩa là nếu các môn đệ của Người chẳng may vì yếu đuối sợ hãi quá hoặc đau đớn quá không dám làm chứng cho Người, "chối bỏ Thầy trước mặt người đời", thì tội của họ vẫn có thể được tha thứ, như trường hợp đã xẩy ra cho tông đồ Phêrô sau này, vị tông đồ đã chối Thày 3 lần nhưng vẫn được tha, bởi ngài vẫn tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa sau khi ngài vừa chối lần thứ ba xong liền bắt gặp ánh mắt nhân hậu của Thày quay lại nhìn ngài (xem Luca 22:61). 

Sở dĩ tội "phạm đến Con Người, thì nó sẽ được tha" là bởi vì, đối với chính Con Người là Chúa Giêsu Kitô, những ai phạm đến Người nhìn bề ngoài cũng chỉ là một con người tầm thường như họ, không thể nào là Thiên Chúa như họ nghĩ, đều là những con người hoàn toàn "lầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34).  

Thậm chí dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo dân chúng nói riêng, bề ngoài nhất định chối bỏ Người, cố ý lên án tử cho Người và cương quyết xin Tổng Trấn Philato giết Người cho bằng được, vẫn được vị tông đồ đã chối Thày 3 lần là Phêrô tỏ ra hoàn toàn cảm thông trong bài giảng ở Giêrusalem sau khi ngài chữa lành cho một người què ở Cửa Đẹp, như sau: "Thưa anh em, tôi biết rằng anh em đã tác hành một cách vô thức, như các vị lãnh đạo của anh em đã làm vậy" (Tông Vụ 3:17). 

Thế nhưng, một khi tình trạng "vô thức - ignorance" (Tông Vụ 3:17) ấy của con người, tình trạng "không biết - do not know" (Luca 23:34) ấy nơi con người, một tình trạng vẫn còn có thể được tha thứ, một tình trạng mà một khi đã được Thiên Chúa bù đắp cho bằng Thánh Thần của Ngài là Đấng thấu suốt mọi sự kể cả thâm tâm của Thiên Chúa (xem 1Corinto 2:10), để "Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào", con người vẫn chối bỏ Thiên Chúa, vẫn không từ chối sự thật, vẫn cứ "ưa thích tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan 3:19), vẫn không chịu chấp nhận Chúa Kitô, vẫn cương quyết phủ nhận Chúa Kitô cho đến cùng, thì bấy giờ mới là tội "phạm thượng đến Thánh Thần, thì sẽ không được tha".

Chính vì đức tin là yếu tố then chốt bất khả thiếu để được cứu độ lẫn công chính hóa mà Thánh Phaolô, trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã phải cầu cho giáo đoàn Epheso của ngài rằng: "xin Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người. Xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Ðấng chu toàn mọi sự trong mọi người".

Chỉ nhờ đức tin nhận biết Thiên Chúa, mà thấy được "thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin", chúng ta mới thấm thía những lời Thánh Vịnh 8 trong Bài Đáp Ca hôm nay và đồng thanh tri ân cảm tạ dâng lên Thiên Chúa tâm tình của chúng ta như sau:

 

1) Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu! Chúa đã nâng cao oai nghiêm Ngài trên cõi trời xanh. Từ miệng thiếu nhi và trẻ con đang bú sữa. 

2) Khi con ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, vầng trăng và muôn tinh tú mà Chúa gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa nhớ tới? Con người là chi mà Chúa để ý chăm nom?

3) Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang; Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo. Chúa đặt muôn vật dưới chân con người.

 

Ngày 17 tháng 10

Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a, giám mục, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Giám mục I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a đã bị án quăng làm mồi cho thú dữ, tại Rô-ma, quãng năm 110. Tại các chặng dừng chân trên con đường tiến đến nơi hành hình, người đã gửi bảy thư cho nhiều giáo đoàn. Trong các thư đó, người nói về Chúa Ki-tô, về Hội Thánh và về đời sống Ki-tô hữu một cách khôn ngoan và thông thái. Trong các thư đó còn có một trong những bài tình ca thốt lên từ một trái tim thấm nhuần tinh thần Ki-tô giáo : “Hãy để tôi lãnh nhận ánh sáng tinh tuyền. Nơi tôi chỉ còn một dòng nước sống động đang thầm thì : Hãy đến với Chúa Cha.”

Ngày 17/10: Thánh Inhaxiô thành Antiokia, giám mục tử đạo

I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

Không có một tài liệu lịch sử nào rõ rệt về lý lịch của vị Giám mục đáng kính này.

Truyền thuyết cho rằng thánh Ignatiô là môn đệ Thánh sử Gioan. Ngài có một lòng yêu mến Chúa Kitô đến say mê, luôn ước ao được chết vì Chúa, do đó người ta đã tặng thánh nhân danh hiệu “Đền thờ Thiên Chúa”.

Thánh Ignatiô được tấn phong làm Giám mục thành Antiôkia kế vị Đức Giám mục Êvôđa dưới triều hoàng đế Trajanô. Truyền thuyết cho rằng ngài chính là em bé đã được Chúa Giêsu ẵm bế đặt giữa các môn đệ trong Tin Mừng 18,3 hay câu bé bán bánh đã dâng cho Chúa năm chiếc bánh và hai con cá để Ngài làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho ba ngàn người ăn trong Tin Mừng Matthêô (Mt 14,15-20).

Khoảng năm 110, ngài bị bắt vì đức tin và bị giải về Rôma dưới trào hoàng đế Trajanô. Trước khi lên đường tử nạn, ngài chúc phúc lành cho đoàn con cái và trao phó cả giáo đoàn Antiôkia cho Chúa Kitô. Rồi Ngài giúp lính xiềng tay ngài và vui vẻ đi theo bọn lính áp tải ngài về Rôma. Bọn lính hành hạ Ngài rất tàn nhẫn. Chúng cố ý hành hạ ngài cốt để cho các giáo hữu động lòng cảm thương ngài đút lót tiền bạc cho chúng.

Các Kitô hữu ở Antiôkia khóc thương tiếc vị Giám mục đáng kính của họ. Họ buồn phiền vì phải ly biệt chủ chăn yêu quí nhất đời. Đứng trước cảnh ly biệt đau thương đó, Đức Giám mục Ignatiô vẫn giữ vẻ mặt tươi tỉnh, Ngài khuyên nhủ họ nên đặt tin tưởng độc nhất vào Chúa Giêsu.

Đức Giám mục Ignatiô được dẫn theo đường bộ về Rôma. Ngài đi qua thành Smyrna. Tại đây, thánh Ignatiô đã gặp thánh Pôlycarpô. Vị Giám mục thánh thiện này cũng là môn đệ của thánh Gioan như thánh Ignatiô.

Gặp nhau tay bắt mặt mừng, hai vị Giám mục ôm chầm lấy nhau, Đức Giám mục Pôlycarpô khóc nức nở vì quá vui mừng. Toàn dân địa phận Smyrna kéo đến vây quanh Đức Giám mục đáng kính Ignatiô để được hân hạnh nghe ngài khuyên răn, khích lệ và ban phép lành. Các giáo đoàn Đông phương còn đề cử nhiều Giám mục, linh mục, giáo dân đến chúc mừng vị thánh tử đạo tương lai đáng kính. Các Kitô hữu đều coi Ngài như một người cha thiêng liêng.

Trong cuộc hành trình gian nan này, ngài viết 7 lá thơ, nói lên tình yêu nồng suy của ngài đối với Đức Kitô và ưu tư của ngài về sự hiệp nhất của cộng đoàn dưới sự lãnh đạo của vị Giám mục. Ngài gởi về giáo đoàn Rôma lá thơ, van xin họ đừng làm gì để người ta thả ngài.

Từ biệt giáo đoàn Smyrna, Đức Giám mục lên đường đi thẳng tới Macêdônia, Albaniô và nhiều thành phố khác. Đi tới đâu, Ngài cũng khuyên bảo, khích lệ các Kitô hữu và khẩn khoản nài xin họ cầu nguyện cho ngài được trung thành tới cùng. Ngài thăm viếng tất cả các giáo đoàn ngài đi qua, viết thư thăm các Đức Giám mục, các linh mục thuộc quyền ngài. Tới Rôma, Ngài bị tống ngục và chờ ngày đại lễ sẽ đưa ra công trường hành hình mua vui cho quần chúng.

Truyền thuyết cho rằng: Đức Giám mục Ignatiô đã phải chịu rất nhiều nhục hình trước khi bị đưa ra cho thú dữ dầy xéo.

Tới ngày đại lễ, Đức Giám mục Ignatiô với nét mặt tươi tỉnh, hiên ngang tiến ra công trường để được chết vì Chúa Kitô. Ra tới công trường, Ngài quay về phía dân chúng cao giọng nói lên đôi lời:

"Kính thưa toàn thể đồng bào, xin đồng bào đừng ngộ nhận tôi đây vì có trọng tội nên bị thú dữ dầy xéo. Không phải thế đâu, sở dĩ tôi bị thú dữ cắn xé là vì tôi muốn được kết hợp với Thiên Chúa."

Vừa dứt lời, đoàn sư tử  hùng hổ tiến về phía Đức Giám mục Ignatiô. Nghe tiếng sư tử gầm thét, Ngài kêu lớn tiếng:

"Tôi là hạt lúa mì của Thiên Chúa. Tôi muốn được nghiền nát dưới nanh vuốt thú dữ để trở nên bánh tinh tuyền dâng tiến Chúa Kitô."

Đoàn sư tử thi nhau cắn xé thánh nhân. Khi bị đoàn vật xâu xé, thánh nhân luôn miệng kêu tên Chúa Giêsu. Có người hỏi thánh nhân tại sao cứ kêu tên Giêsu hoài như thế. Thánh nhân trả lời: “Tôi kêu tên Giêsu vì chính tôi đã ghi khắc tên đó trên trái tim tôi và đời đời không bao giờ quên được”. Sư tử ăn hết thịt thánh nhân và để xương lại nguyên vẹn.

Các Kitô hữu kính cẩn thu lượm xương thánh nhân đưa về an táng ở ngoại ô thành Rôma. Đến thời hoàng đế Thêôđô trẻ (Thédode le Jeune), giáo doàn Antiôkia rước xương thánh đó về Antiôkia cách rất trọng thể. Đám rước diễn hành đi theo những con đường thánh nhân đã đi về Rôma chịu tử đạo.

II. GƯƠNG TRUNG THÀNH

Tháng Giêng năm 107, hoàng đế Trajanô tới thăm Antiôkia. Được biết tại đây có Giám mục Ignatiô đã không vâng lệnh thờ cúng tượng thần, lại còn ngăn cản người khác, ông truyền điệu ngài tới để xét hỏi. Trước mặt hoàng đế, thánh Ignatiô nói cho ông ta biết về các tín hữu của ngài. Ngài bảo: Các tín hữu của ngài như những người nghèo khó có phúc vì tâm hồn của họ có Chúa. Tâm hồn họ đã trở nên “Đền thờ Thiên Chúa”.

Lúc đó nhà vua thắc mắc:

- Vậy ra nhà ngươi cho rằng: chúng ta đây không có các thần minh bất tử ở trong tâm hồn chúng ta sao?

- Xin hoàng đế đừng nhắc tới những thần tượng câm điếc đó. Chỉ có mình Thiên Chúa chân thật đã tạo dựng nên trời đất và muôn vật. Thiên Chúa đã sai con một Ngài xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Nếu như hoàng đế tôn thờ Thiên Chúa thì đế quốc và vương quyền của hoàng để sẽ vững mạnh hơn thạch trụ.

- Ta cấm nhà ngươi không được nói đến điều đó nữa. Nếu nhà ngươi muốn sống, nhà ngươi hãy nghe ta tế lễ các thần minh bất tử đi. Ta sẽ coi ngươi như bạn hữu của ta và ta sẽ chọn làm thầy tư tế chuyên lo phụng sự thần Jupiter.

- Bổn phận chúng tôi là phải biết ơn, biết ơn hết mọi người, nhất là hoàng đế một khi Ngài ban cho chúng tôi những ân huệ cao quí. Nhưng nếu như ngài ban cho chúng tôi những gì làm tổn thương tới linh hồn chúng tôi, chúng tôi sẽ không bao giờ dám nhận. Tôi đây là linh mục của Chúa Kitô dâng hiến lễ hàng ngày trên bàn thờ. Và giờ đây tôi ao ước được hy sinh chính mạng sống tôi cho Chúa Kitô, cũng như chính Chúa Kitô đã hy sinh mạng sống Người cho tôi.

Không chịu nổi những lời châm biếm và lăng mạ các thần minh, Hoàng đế Trajanô truyền điệu Đức Giám mục Ignatiô về Rôma để ném cho sư tử cắn xé mua vui cho dân chúng.

Thánh nhân đã chấp nhận sự đau khổ trong vui tươi, đã chấp nhận cái chết với tất cả niềm yêu mến, đến nỗi khi đương đầu với sư tử sẽ phân thây, xé xác mình, thánh nhân đã thốt lên lời đầy an ủi và xác tín: "Tôi là miếng mồi ngon của Ðức Kitô. Ước gì nhờ răng của thú dữ, tôi trở thành bánh được tuyển chọn!"

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-17-10-thanh-inhaxio-thanh-antiokiagiam-muc-tu-dao-47714

 

Bài đọc 2

Tôi là hạt lúa mì của Thiên Chúa :
tôi sẽ được nanh thú dữ nghiền tán

Trích thư của thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a, giám mục, tử đạo, gửi tín hữu Rô-ma.

Tôi viết cho tất cả các Hội Thánh và loan báo cho mọi người biết : tôi sẽ vui lòng chết vì Thiên Chúa, nếu anh em không ngăn cản. Tôi nài xin anh em đừng tốt với tôi không đúng lúc. Hãy cứ để thú dữ ăn thịt tôi, nhờ thế, tôi sẽ được về cùng Thiên Chúa. Tôi là hạt lúa mì của Thiên Chúa và sẽ được nanh thú dữ nghiền tán để thành tấm bánh tinh tuyền của Đức Ki-tô. Xin khẩn cầu cùng Đức Ki-tô cho tôi, để nhờ đám thú dữ này, tôi được nên của lễ tiến dâng Thiên Chúa.

Vui thú trần gian chẳng ích gì, vương quốc đời này cũng chẳng lợi chi cho tôi. Đối với tôi, chết trong Đức Ki-tô Giê-su thì còn hơn trị vì cả trăm cõi. Tôi kiếm tìm Đấng đã chết cho chúng ta ; tôi mong mỏi Đấng sống lại vì chúng ta. Đã sắp đến giờ tôi được sinh ra để được hưởng sự sống đời đời. Xin anh em hãy buông tha tôi : đừng cản không cho tôi sống đời sống ấy, đừng muốn cho tôi phải chết muôn đời. Tôi đang khao khát được thuộc về Thiên Chúa, xin đừng nộp tôi cho thế gian, đừng đem vật chất ra quyến rũ tôi. Hãy để tôi đón nhận ánh sáng tinh tuyền. Về được cõi ánh sáng, tôi mới thật là người. Hãy cho tôi được bắt chước Thiên Chúa tôi mà chịu khổ nạn. Ai có Thiên Chúa trong lòng, người đó mới hiểu tôi đang muốn gì, mới thông cảm với tôi, vì biết được những gì đang thôi thúc tôi.

Thủ lãnh thế gian này muốn cướp lấy tôi, muốn làm cho ý chí tôi ra hư hoại không còn khát khao Thiên Chúa nữa. Vậy đừng ai trong anh em đang có mặt đây giúp nó làm gì. Đúng hơn, hãy đứng về phía tôi và đó cũng là đứng về phía Thiên Chúa. Còn ham sự đời thì đừng nói đến Đức Giê-su Ki-tô. Đừng ôm ấp trong lòng ý định ghét bỏ tôi. Nếu tôi đến tận nơi mà xin anh em điều gì, đừng có tin. Tốt hơn, hãy tin những gì tôi đang viết cho anh em. Tôi viết cho anh em lúc vẫn còn sống, nhưng cũng đang mong chết. Lòng yêu mến sự đời đã bị đóng đinh vào thập giá và trong tôi, lửa ham mê vật chất đã tắt hẳn rồi. Trong tôi, một dòng nước chảy rì rào cứ bảo lòng tôi : “Về nhà Cha đi !” Tôi không ham đồ ăn thức uống sẽ hư thối, cũng chẳng thích lạc thú đời này. Tôi muốn được ăn bánh Thiên Chúa, đó chính là thịt Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sinh ra trong dòng tộc vua Đa-vít. Và tôi muốn được uống máu Đức Giê-su Ki-tô, Đấng là chính tình yêu chẳng hư hao bao giờ.

Tôi không muốn sống như người phàm nữa. Nhưng có được như vậy hay không thì còn tuỳ anh em. Tôi xin anh em hãy bằng lòng đi, để chính anh em cũng sẽ được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc. Tôi có ít lời nài xin anh em : hãy tin tôi. Đức Giê-su Ki-tô sẽ cho anh em thấy rõ là tôi nói thật. Chính Người là môi miệng chân thật cho Chúa Cha phán dạy sự thật. Hãy khẩn cầu cho tôi để tôi được về cùng Thiên Chúa. Tôi đã không dựa theo xác thịt mà viết thư này cho anh em, nhưng dựa vào thượng trí của Thiên Chúa. Tôi phải chịu khổ nạn, là anh em đã muốn điều tốt cho tôi. Tôi được tha về, là anh em đã ghét bỏ tôi.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho các anh hùng tử đạo can đảm tuyên xưng đức tin để làm vẻ vang cho toàn thể Hội Thánh. Hôm nay chúng con mừng thánh giám mục I-nha-xi-ô đã qua đường khổ nạn mà đạt tới vinh quang. Xin cho chúng con cũng được nhờ công đức của người mà giữ vững một niềm tin bất khuất. Chúng con cầu xin

 

 

Thánh Ignatiô Antiôkia

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 14/3/2007

Bài Giáo Lý 33 trong loạt bài Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

Thánh Ignatio Antiokia