SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

Tuần XXXI Thường Niên Năm C (Chúa Nhật) Năm Chẵn (trong tuần)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Ml 1, 14b - 2, 2b. 8-10

"Các ngươi đã đi sai đường lối, và làm cho nhiều người vấp phạm lề luật".

Trích sách Tiên tri Malakhi.

Chúa các đạo binh phán rằng: Ta là Vua cao cả, và danh Ta đáng kính sợ trong các dân tộc. [Ta sẽ làm cho các ngươi phải túng thiếu.]

{Và bây giờ, trên các ngươi có án lệnh này, hỡi các tư tế: Nếu các ngươi không nghe, và nếu các ngươi không lưu tâm mà tôn vinh danh Ta, Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ phóng (sự) chúc dữ xuống trên các ngươi; và Ta sẽ chúc dữ cho sự chúc lành của các ngươi.}

Các ngươi đã đi sai đường lối, làm cho nhiều người vấp phạm lề luật và huỷ bỏ giao ước Lêvi, Chúa các đạo binh phán như vậy. Bởi thế, Ta để cho các ngươi bị khinh rẻ và đốn mạt trước mọi dân tộc, vì các ngươi đã không tuân giữ đường lối của Ta, và vị nể trong khi thi hành lề luật. Chớ thì mỗi người chúng ta không có một người cha sao? Chớ thì không phải có một Thiên Chúa tạo thành chúng ta sao? Vậy tại sao mỗi người chúng ta lại khinh rẻ anh em mình mà phản bội giao ước của tổ phụ chúng ta?

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 130, 1. 2. 3

Ðáp: Lạy Chúa, xin giữ linh hồn con trong bình an của Chúa.

Xướng: 1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn. - Ðáp.

2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con. - Ðáp.

3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Tx 2, 7b-9, 13

"Chúng tôi muốn trao phó cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn mạng sống chúng tôi nữa".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, chúng tôi đã trở thành như những kẻ bé mọn giữa anh em. Như người vú nuôi nâng niu con cái mình thế nào, thì chúng tôi yêu thương anh em đến nỗi chúng tôi rất vui lòng trao phó cho anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống chúng tôi nữa: vì anh em đã nên thiết nghĩa với chúng tôi. Anh em vẫn còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em. Bởi thế chúng tôi không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, vì anh em nhận lãnh lời Thiên Chúa do chúng tôi rao giảng, anh em đã nhận lãnh lời ấy không phải như lời của người phàm, mà như lời Thiên Chúa, và thực sự là thế, lời đó hoạt động trong anh em là những kẻ đã tin.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ep 1, 17-18

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 1-12

"Họ nói mà không làm".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là Thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha: vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo: vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi.

"Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".

Ðó là lời Chúa.

 

 Image result for Mt 23, 1-12

 

 

Suy Nguyện Lời Chúa


Từ duy luật chỉ thiên đến duy ngã độc tôn

 

 

 

Nếu theo dõi kỹ  các bài Phúc Âm liên tục từ Chúa Nhật XXV trở đI cho tới tuần này, chúng ta thấy liên quan đến thành phần “các trưởng tế và các kỳ lão tromg dân” (Tuần XXV-XXIX),  “những người biệt phái” (Tuần XXX), “các luật sĩ và các người biệt phái” (Tuần XXXI), thành phần hầu hết ở trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái, nếu không muốn nói làm nên tổ  chức đầu não Do Thái giáo này, vì đã thuộc về thành phần đầu mục trong dân và của dân tất phải thông luật và  giữ  luật mới xứng đáng và hội đủ điều kiện tối yếu. 

Trong Bài Phúc Âm tuần trước, Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm A, Chúa Giêsu, qua câu Người trả lời cho “một người thông luật trong nhóm họ” về vấn đề then chốt nhất đối với họ, cũng là vấn đề liên quan đến căn gốc lầm lạc và lệch lạc trong việc giữ đạo duy luật chỉ thiên của họ là “trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?", Người đã khôn khéo nhắc nhở cái sai lầm chính yếu của họ, cái sai lầm đã khiến họ sống hoàn toàn phản lại với những gì họ dạy dân chúng liên quan đến lề luật của Thiên Chúa. 

Chính Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm A tuần này, đã cảnh giác “dân chúng và các môn đệ rằng: ‘Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là ‘Thầy’". 

Thật vậy, chính trong việc họ “duy luật chỉ thiên”, nghĩa là chỉ giữ luật mến Chúa mà không biết yêu người mà cả ngay ở việc “duy luật chỉ thiên” này của họ cũng sai luôn: “họ nói mà không làm” thật là chí lý, đúng như Chúa Giêsu đã nhận xét quá chính xác về họ - “Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử”. 

Và cũng chính vì họ sống đạo theo kiểu “duy luật chỉ thiên” mến Chúa mà không yêu người như thế họ mới đi đến chỗ cho mình là nhất thiên hạ, "duy ngã độc tôn", đáng mọi người kính phục, bằng những hành vi cử chỉ phô trương kèm theo những lời xưng tụng được dân chúng trọng vọng, như Chúa Giêsu điểm mặt họ khi nói với “dân chúng và các môn đệ rằng … Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là ‘Thầy’". 

Như thế, việc giữ đạo “duy luật chỉ thiên” của thành phần biệt phái và luật sĩ thực tế chẳng những không yêu người mà cũng chẳng mến Chúa nữa, trái lại, còn nhân danh Thiên Chúa để khủng bố tha nhân nói chung và thành phần tội lỗi nói riêng, nhất là lạm dụng danh Thiên Chúa để tôn vinh danh mình. Đó là lý do, qua miệng tiên tri Malachi ở Bài Đọc 1 hôm nay chúng ta mới nghe thấy lời cảnh báo nghiêm minh như sau (những chỗ in nghiêng do người viết tự ý nhấn mạnh và chứng thực những gì đang được diễn giải): 

“Chúa các đạo binh phán rằng: Ta là Vua cao cả, và danh Ta đáng kính sợ trong các dân tộc. Và bây giờ, trên các ngươi có án lệnh này, hỡi các tư tế: Nếu các ngươi không nghe, và nếu các ngươi không lưu tâm mà tôn vinh danh Ta, Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ phóng (sự) chúc dữ xuống trên các ngươi; và Ta sẽ chúc dữ cho sự chúc lành của các ngươi. Các ngươi đã đi sai đường lối, làm cho nhiều người vấp phạm lề luật và huỷ bỏ giao ước Lêvi, Chúa các đạo binh phán như vậy. …Tại sao mỗi người chúng ta lại khinh rẻ anh em mình mà phản bội giao ước của tổ phụ chúng ta?” 

Những ai sống đạo trọn vẹn và trọn hảo là những người chẳng những “mến Chúa” mà còn “yêu người” nữa thì họ mới có được những tâm tình của “những ai tôn thờ Thiên Chúa đích thực trong tinh thần và chân lý“ (Gioan 4:24), những tâm tình được Thánh Vịnh gia bày tỏ trong Thánh Vịnh 123 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn.

2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con.

3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời. 

Một trong những tấm gương đã sống trọn vẹn “giới luật trọng nhất” bao gồm cả mến Chúa lẫn yêu người đó là gương của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, vị đã đạt đến tầm mức tu đức hiệp sinh đến độ như ngài tự thú: “Sự sống tôi đang sống không phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi“ (Galata 2:20), nên ngài mới có thể như Chúa Kitô là Đấng “đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Mathêu 20:28), một Chúa Kitô đã được phản ảnh sống động nơi cuộc sống tông đồ của ngài, như chính ngài bày tỏ với Giáo Đoàn Thessalonica trong Thư Thứ Nhất gửi họ ở Bài Đọc 2 hôm nay sau (những chỗ in nghiêng do người viết tự ý nhấn mạnh và chứng thực những gì đang được diễn giải): 

 “Anh em thân mến, chúng tôi đã trở thành như những kẻ bé mọn giữa anh em. Như người vú nuôi nâng niu con cái mình thế nào, thì chúng tôi yêu thương anh em đến nỗi chúng tôi rất vui lòng trao phó cho anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống chúng tôi nữa: vì anh em đã nên thiết nghĩa với chúng tôi”.

 Chính nhờ đời sống của Vị Tông Dồ Dân Ngoại này, không còn “duy luật chỉ thiên” như thời còn là một biệt phái nữa, mà những gì ngài nói và làm không còn tính cách ngẫu tượng và phản tác dụng nơi chính bản thân ngài cũng như nơi quần chúng nữa, trái lại, còn mang lại muôn vàn hoa trái thiêng liêng nơi thiện chí lắng nghe lời rao giảng của ngài, như ở trường hợp của các Kitô hữu thuộc Giáo đoàn Thessalonica được ngài cảm nhận trong Bài Đọc 2 hôm nay (những chỗ in nghiêng do người viết tự ý nhấn mạnh và chứng thực những gì đang được diễn giải):

“Anh em vẫn còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: chúng tôi, phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em. Bởi thế chúng tôi không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, vì anh em nhận lãnh lời Thiên Chúa do chúng tôi rao giảng, anh em đã nhận lãnh lời ấy không phải như lời của người phàm, mà như lời Thiên Chúa, và thực sự là thế, lời đó hoạt động trong anh em là những kẻ đã tin”.

 

 

 

Ngày 1 tháng 11

Lễ Các Thánh Nam Nữ

Lễ Trọng

 

 

Đại Lễ kính toàn thể Các Thánh Nam Nữ hôm nay cho ta chiêm ngưỡng đám đông hằng hà sa số những người đã được Chúa Ki-tô cứu chuộc, đồng thời cũng cho ta thấy trước tương lai chúng ta đang hướng tới. Nhưng lễ này còn giúp ta ý thức mối dây liên đới giữa ta với các anh chị em đã đi trước vào thế giới vô hình. Nay, họ đang được ở bên Thiên Chúa và đang chuyển cầu cho chúng ta. Họ là sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng ta.

 

Thánh thi (Phụng Vụ Giờ Kinh Ban Mai)

 

Quỳ lạy Đấng Cứu Tinh cao cả,
Xin cứu dân Ngài đã chuộc về,
Cậy trông Thánh Mẫu quyền uy
Ra tay tế độ phù trì chúng sinh.

Xin toàn thể đạo binh thiên sứ,
Và ngàn muôn tổ phụ bao đời
Hợp cùng ngôn sứ muôn nơi
Chuyển cầu cho hết mọi người trần gian.

Khấn nguyện thánh Gio-an Tẩy Giả,
Thánh Phê-rô giữ cửa thiên đàng,
Bậc tông đồ Chúa cao sang,
Xích xiềng tội lỗi xin thương giải trừ.

Hàng tử đạo năm châu bốn bể,
Và chư huynh tư tế hiển vinh,
Cùng bao liệt nữ trung trinh,
Xin mau rửa sạch tội tình chúng tôi.

Mong các thánh sống đời ẩn sĩ,
Cùng chư tôn liệt vị Nước Trời
Cầu thay nguyện giúp chúng tôi,
Đáng cho Chúa thưởng cuộc đời kiên trung.

Lời vinh chúc tán dương cảm tạ,
Dâng Ba Ngôi một Chúa thiên đình
Hằng ban phúc lộc trường sinh
Cho hàng thần thánh hiển vinh muôn đời.

 

Bài Ðọc I: Kh 7, 2-4, 9-14

"Tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng".

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan đã nhìn thấy một thiên thần khác từ phía mặt trời mọc đi lên, tay cầm ấn Thiên Chúa hằng sống, và lớn tiếng kêu gọi bốn thiên thần được lệnh tàn phá đất và biển mà rằng: "Chớ có tàn phá đất, biển và cây cối trước khi ta đóng ấn trên trán những tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta". Và tôi đã nghe biết số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel.

Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: "Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Ðấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên".

Rồi tất cả các thiên thần đến đứng chung quanh ngai vàng, và các trưởng lão cùng bốn con vật sấp mình xuống trước ngai mà thờ lạy Thiên Chúa rằng: "Amen! Chúc tụng, vinh hiển, khôn ngoan, cảm tạ, vinh dự, uy quyền và dũng lực cho Thiên Chúa chúng tôi muôn đời. Amen". Rồi một trong các trưởng lão lên tiếng hỏi rằng: "Những người mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu mà đến?" Tôi đáp lại rằng: "Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ". Và người bảo tôi rằng: "Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6

Ðáp: Lạy Chúa, này là dòng dõi của những kẻ tìm Chúa (c. 6a).

Xướng: 1) Trái đất và muôn loài trên mặt đất là của Chúa, hoàn cầu và muôn vật trên địa cầu. Vì chưng Chúa đã xây dựng nền móng trái đất trên biển cả, và Người đã tạo dựng nó trên các sông ngòi. - Ðáp.

2) Ai sẽ được trèo lên núi Chúa? Ai sẽ được dừng bước trong thánh điện? Ðó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá. - Ðáp.

3) Người đó sẽ hưởng phúc lành của Chúa và lượng từ bi của Chúa, Ðấng giải thoát họ. Ðấy là dòng dõi của những kẻ tìm Người, những kẻ tìm tôn nhan Thiên Chúa của Giacóp. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Ga 3, 1-3

"Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, các con hãy coi: Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và thực sự là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy. Và bất cứ ai đặt hy vọng nơi Người, thì tự thánh hoá mình cũng như Người là Ðấng Thánh.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Mc 11, 28

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các con". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 1-12a

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.

"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".

Ðó là lời Chúa.

 

Bài đọc 2

Chúng ta hãy mau đến với các anh em đang chờ đợi chúng ta

(Giờ Kinh Sách Phụng Vụ 1-11)

Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.

Chúng ta ca ngợi các thánh để làm gì ? Chúng ta tôn vinh các thánh để làm gì ? Chúng ta mừng ngày đại lễ này để làm gì ? Những vinh dự trần gian ích gì cho các ngài, một khi Chúa Cha trên trời tôn vinh các ngài đúng như lời Chúa Con đã hứa ? Lời tán dương của chúng ta ích gì cho các ngài ? Các thánh không cần chúng ta tôn vinh và lòng tôn kính của chúng ta cũng chẳng thêm gì cho các ngài. Thật ra, chúng ta kính nhớ các ngài thì ích lợi cho chúng ta chứ không phải cho các ngài. Phần tôi, tôi phải thú thật là khi tưởng nhớ các ngài, tôi cảm thấy bừng lên trong tôi một khát vọng mãnh liệt.

Thật vậy, việc kính nhớ các thánh hoặc khơi lên hoặc thôi thúc mãnh liệt hơn trong ta niềm khát vọng đầu tiên này : đó là mong được họp đoàn với các ngài, được xứng đáng làm người đồng hương và làm bạn hữu với các thánh, được liên kết với chư vị tổ phụ, với hàng ngôn sứ, với bậc tông đồ, với hàng hàng lớp lớp các vị tử đạo, với cộng đoàn các vị tuyên xưng đức tin, với đoàn trinh nữ. Tóm lại, chúng ta được hân hoan sum họp trong mối dây hiệp thông với toàn thể các thánh. Cộng đoàn các con đầu lòng của Thiên Chúa đang đợi chúng ta, thế mà chúng ta vẫn vô tình ! Các thánh đang mong chúng ta, thế mà chúng ta lại coi thường ! Các bậc công chính đang đợi chúng ta, thế mà chúng ta vẫn hờ hững !

Cuối cùng, thưa anh em, chúng ta hãy thức dậy, hãy trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô. Chúng ta hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới. Chúng ta hãy mong những người đang mong chúng ta, hãy mau đến với những người đang đợi chúng ta, hãy hết lòng ước nguyện tiến đến với những người đang chờ chúng ta. Không những chúng ta phải ao ước được hợp đoàn với các thánh, mà còn phải ao ước được chia sẻ hạnh phúc với các ngài, để khi chúng ta mong được ở với các ngài, thì chúng ta cũng nóng lòng ôm ấp tham vọng được chia sẻ vinh quang với các ngài. Quả vậy, ôm ấp tham vọng như thế chẳng có chi là xấu xa, khao khát được vinh quang như thế không có gì là nguy hiểm.

Việc kính nhớ các thánh đốt lên trong chúng ta khát vọng thứ hai : đó là mong mỏi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta, xuất hiện cho các thánh thế nào thì Người cũng xuất hiện cho chúng ta như thế, và chúng ta cũng được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang. Trong khi chờ đợi, hẳn nhiên Người tỏ mình ra cho chúng ta không phải theo bản chất thường hằng của Người, nhưng theo thân phận Người đã đón nhận vì chúng ta : Người cho thấy Người là đầu của chúng ta, nhưng không phải là đầu đội triều thiên vinh quang, mà là đầu cuốn vòng gai vì tội lỗi chúng ta. Thật đáng xấu hổ khi đầu đội vòng gai mà một chi thể lại theo đuổi lạc thú, vì toàn thể chiếc áo đỏ thẫm khoác trên mình Người chưa phải là áo vinh dự cho bằng là áo nhạo cười. Sẽ có ngày Đức Ki-tô ngự đến, và ngày đó không còn phải loan báo về cái chết của Người nữa, để chúng ta biết rằng chính chúng ta cũng đã chết và sự sống của chúng ta hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô. Đầu hiển vinh sẽ xuất hiện và, cùng với đầu, các chi thể đã được tôn vinh sẽ chiếu sáng, khi Người biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống đầu vinh hiển là chính Người.

Vậy chúng ta hãy hết lòng bền chí khát khao vinh quang ấy. Và để chúng ta có quyền hy vọng đạt tới vinh quang ấy, có quyền hướng tới hạnh phúc lớn lao chừng ấy, chúng ta cũng phải hết sức ước ao được các thánh cầu nguyện cho, ngõ hầu những gì tự sức chúng ta không xin được, thì nhờ lời chuyển cầu của các ngài, Chúa sẽ ban cho chúng ta.

 

 

 Đức Thánh Cha Phanxicô - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật Lễ Các Thánh 1/11/2015   

"Các thánh chúng ta tưởng nhớ hôm nay chính là những ai sống trong ân sủng của Bí Tích Rửa Tội các vị lãnh nhận, các vị giữ nguyên tuyền 'ấn tín' ấy, tác hành như là thành phần con cái của Thiên Chúa, tìm cách noi gương bắt chước Chúa Giêsu, và giờ đây các vị đã đạt tới đích điểm của các vị ở chỗ cuối cùng các vị 'thấy Thiên Chúa như Ngài là'".

 

Xin chào Anh Chị Em thân mến và chúc mừng ngày quan thày!


Trong việc cử hành hôm nay, Lễ Các Thánh, chúng ta cảm thấy thực tại Các Thánh Thông Công đặc biệt trở nên sống động, tức là đại gia đình của chúng ta, được làm nên bởi tất cả mọi phần tử của Giáo Hội, có thành phần chúng ta còn đang h
ành trình trên trần gian, có những người - đông đảo hơn - đã ra khỏi trần gian và đã về Trời. Tất cả chúng ta đều được hiệp nhất, được gọi là "Các Thánh Thông Công", tức là cộng đồng của tất cả những ai đã lãnh nhận Phép Rửa. 


Trong phụng vụ, Sách Khải Huyền nhắc nhở chúng ta một đặc tính thiết yếu của các thánh như thế này: các vị là những con người h
oàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Cuốn Sách này cho thấy các vị là một đám đông "được tuyển chọn", mặc áo trắng và có in "ấn tín của Thiên Chúa" (7:2-4,9-14). Qua cái cá biệt cuối cùng này, được nhấn mạnh bằng thứ ngôn từ bóng bẩy, cho thấy các thánh thuộc về Thiên Chúa một cách trọn vẹn và chuyên biệt; các vị là tài sản của Ngài. Mang ấn tín của Thiên Chúa trong đời sống của mình và nơi con người của mình nghĩa là gì? Tông Đồ Gioan cũng cho biết rằng nó có nghĩa là trong Chúa Giêsu Kitô, chúng ta đã thực sự trở nên con cái của Thiên Chúa (xem 1Gioan 3:1-3). 


Chúng ta có nhận thức được đại tặng ân này hay chăng? Chúng ta có nhớ rằng nơi Phép Rửa chúng ta đã được Cha Trên Trời "niêm ấn" và đã trở nên con cái của Ngài hay chăng? Nói đơn giản là 
chúng ta mang tên họ của Thiên Chúa, tên họ của chúng ta là Thiên Chúa, vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Đây là gốc gác của ơn gọi nên thánh! Các thánh chúng ta tưởng nhớ hôm nay chính là những ai sống trong ân sủng của Bí Tích Rửa Tội các vị lãnh nhận, các vị giữ nguyên tuyền "ấn tín" ấy, tác hành như là thành phần con cái của Thiên Chúa, tìm cách noi gương bắt chước Chúa Giêsu, và giờ đây các vị đã đạt tới đích điểm của các vị ở chỗ cuối cùng các vị "thấy Thiên Chúa như Ngài là".


Đặc tính thứ hai thích đáng với các thánh đó là 
các vị trở nên những tấm gương để bắt chước. Chúng ta hãy lưu ý nhé: chẳng những các vị Thánh được tôn phong mà có thể nói cả những vị Thánh "ở bên cạnh" chúng ta, những vị nhờ ơn Chúa đã nỗ lực thực hành Phúc Âm nơi những cái thường tình trong đời sống của họ. Chúng ta cũng đã gặp những vị Thánh này: có lẽ chúng ta đã có một ai đó trong gia đình của chúng ta, hay trong số bạn bè quen biết của chúng ta. Chúng ta cần phải biết ơn họ và nhất là cần phải tạ ơn Chúa là Đấng đã ban họ cho chúng ta, Đấng đặt họ gần chúng ta, như là những tấm gương sống động và lây lan về cách sống chết trung thành với Chúa Giêsu cũng như với Phúc Âm của Người. Biết bao người tốt lành chúng ta đã biết đến và đang biết đến và chúng ta nói rằng: "Người này là một vị Thánh!", chúng ta nói như thế một cách bộc phát. Đó là những vị Thánh kề bên chúng ta, những vị chưa được tôn phong nhưng đang sống với chúng ta.


Để bắt chước các hành vi cử chỉ yêu thương và nhân hậu của họ là một cái gì đó như thể kéo dài sự hiện diện của họ trên thế gian này. Thật vậy, 
những hành vi cử chỉ phúc âm ấy là những hành vi cử chỉ duy nhất chống lại cái hủy hoại của sự chết: một hành động êm ái dịu dàng, một hành động quảng đại giúp đáp, giành thời gian lắng nghe, một cuộc viếng thăm, một lời nói tử tế, một nụ cười tươi... Những hành vi cử chỉ này có vẻ tầm thường chẳng là gì trước con mắt của chúng ta, thế nhưng trước con mắt của Thiên Chúa chúng lại là những gì thường hằng, vì tình yêu và lòng thương cảm mạnh hơn cả sự chết. 


Chớ gì Trinh Nữ Maria, Nữ Vương Các Thánh, giúp chúng ta tin tưởng hơn nữa vào ân sủng của Thiên Chúa, tiến bước nhanh chóng
 trên đường thánh thiện. Chúng ta hãy ký thác cho Người Mẹ của chúng ta nỗ lực hằng ngày của chúng ta, và chúng ta cũng nguyện cầu cùng Mẹ cho kẻ chết của chúng ta với niềm hy vọng sâu xa rằng chúng ta sẽ được gặp lại họ một ngày kia tất cả cùng nhau ở trong mối hiệp thông vinh hiển trên Thiên Đàng.  

http://www.zenit.org/en/articles/full-text-pope-s-angelus-address--3

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (kèm theo nhan đề và những chỗ nhấn mạnh tự ý)

 

ĐTC PHANXICÔ: HUẤN TỪ TRUYỀN TIN LỄ CÁC THÁNH THỨ TƯ NGÀY 1-11-2017

"Các Thánh không phải là những mẫu gương mô phạm hoàn hảo, mà là những con người được Thiên Chúa đụng chạm"

 

Xin chào và mừng lễ Anh Chị Em thân mến!

Lễ Trọng Các Thánh là lễ của "chúng ta", không phải vì chúng ta tốt lành mà vì sự thánh thiện của Thiên Chúa đã đụng chạm tới chúng ta. Các Thánh không phải là những mẫu gương mô phạm hoàn hảo, mà là những con người được Thiên Chúa đụng chạm. Chúng ta có thể so sánh các vị với những cửa sổ ở các nhà thờ, nơi ánh sáng lọt qua bằng các bóng mầu khác nhau. Các Thánh là những người anh chị em của chúng ta, thành phần đã lãnh nhận ánh sáng của Thiên Chúa nơi tâm hồn của mình và truyền đạt ánh sáng này cho thế giới, mỗi vị theo cái bóng của mình. Tuy nhiên, tất cả các vị đều trong sáng; các vị đã chiến đấu để loài bỏ đi các dấu vết và bóng tối của tội lỗi, để cho ánh sáng tốt lành của Thiên Chúa chiếu qua. Đó là mục đích của đời sống: để cho ánh sáng của Thiên Chúa chiếu qua nhờ đó đời sống của chúng ta cũng mới có mục đích.

Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu hướng về thành phần của Người, về tất cả chúng ta, mà nói với chúng ta rằng "Phúc thay - Blessed" (Mathêu 5:3). Người đã mở đầu việc giảng dạy của Người bằng lời ấy, có nghĩa là "Phúc Âm - Gospel", là Tin Mừng - Good News, vì đó là lối sống hạnh phúc. Ai ở với Chúa Giêsu thì có phúc - blessed, thì hạnh phúc - happy. Hạnh phúc không phải là ở chỗ có một cái gì đó hay trở nên một ai đó, không phải thế. Hạnh phúc thật là ở với Chúa và sống cho tình yêu. Anh chị em có tin như thế chăng? Hạnh phúc không phải là ở chỗ có một cái gì đó hay trở nên một ai đó, không phải thế. Hạnh phúc thật là ở với Chúa và sống cho tình yêu. Anh chị em có tin như thế chăng? Chúng ta cần phải tiến tới chỗ tin như thế. Bấy giờ các thứ yếu tố làm thành một đời sống hạnh phúc mới được gọi là các mối Phúc Đức - Beatitudes: phúc cho ai đơn sơ, cho ai khiêm hạ biết giành chỗ cho Thiên Chúa, những người có thể khóc thương kẻ khác và khóc vì lầm lỗi của mình, những người hiền lành, chiến đấu cho công lý, biết thương xót tất cả mọi người, biết canh giữ tính chất tinh tuyền của tâm can, luôn hoạt động cho hòa bình và sống hân hoan; họ không biết thù ghét, thậm chí ngay cả khi chịu khổ đau, họ đáp lại sự dữ bằng sự lành.

Đó là những mối Phúc Đức. Chúng không đòi hỏi những cử chỉ hào nhoáng; chúng không giành cho thánh phần siêu việt - supermen, mà là cho những ai sống các thứ thách đố và khốn khó hằng ngày, mà là cho chúng ta. Các Thánh là như thế đó: như tất cả chúng ta, các vị hít thở bầu khí phóng uế của sự dữ xầy ra trên thế giới này; tuy nhiên, trong cuộc hành trình các vị vẫn không bao giờ lạc mất dấu vết của Chúa Giêsu - Jesus' trace, được nói đến trong các mối Phúc Đức, như tấm bản đồ của đời sống Kitô hữu. Hôm nay là lễ của những ai đã đạt tới đích điểm được phác họa nơi tấm bản đồ ấy: không những của các Thánh nhân theo niên lịch, mà còn cả của rất nhiều anh chị em "cận kề" chúng ta nữa, những con người có lẽ chúng ta đã gặp gỡ và biết đến. Đó là một lễ của gia đình - a family feast, của nhiều con người đơn sơ và kín đáo thực sự giúp Thiên Chúa trong việc đẩy mạnh thế giới này. Có rất nhiều người hôm nay đây! Rất nhiều. Xin cám ơn những người anh chị em ẩn danh đang giúp Thiên Chúa đẩy mạnh thế giới này, những con người sống giữa chúng ta. Chúng ta chào họ bằng một tràng pháo tay nhiệt liệt!

Trước hết - hãy nói đến mối Phúc Đức thứ nhất - họ là những người "có tinh thần nghèo khó" (Mathêu 5:3). Nghĩa là gì? Nghĩa là họ không sống vì thành đạt, quyền năng và tiền của; họ biết rằng ai tích lũy giầu sang phú quí cho bản thân mình thì không làm giầu trước nhan Thiên Chúa (xem Luca 12:21). Trái lại, họ tin rằng Chúa mới là kho tàng của đời sống, tình yêu thương tha nhân là nguồn lợi tức duy nhất thực sự. Đôi khi chúng ta không cảm thấy hạnh phúc về một cái gì đó chúng ta đang thiếu hay quan tâm, một khi chúng ta không được cứu xét đến như chúng ta mong muốn; chúng ta hãy nhớ rằng mối Phúc Đức của chúng ta không ở trên đời này, mà là ở trong Chúa và nơi tình yêu thương: con người thực sự có phúc chỉ khi nào ở với Người, chỉ ở chỗ yêu thương mà thôi.

Sau hết, tôi muốn nói đến một mối Phúc Đức khác, mối phúc đức không có trong Phúc Âm mà là ở cuối cuốn Thánh Kinh, mối phúc đức về việc kết thúc đời sống: "Phúc cho thành phần chết trong Chúa" (Khải Huyền 14:13). Ngày mai chúng ta sẽ được kêu gọi hỗ trợ người chết của chúng ta bằng việc cầu nguyện, nhờ đó họ được hoan hỉ muôn đời trong Chúa. Chúng ta hãy tưởng nhớ đến những người thân yêu của chúng ta bằng tấm lòng tri ân và chúng ta hãy nguyện cầu cho họ.

Xin Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Các Thánh và là Cửa Thiên Đàng, chuyển cầu cho cuộc hành trình nên thánh của chúng ta và cho những người thân yêu của chúng ta đã ra đi trước chúng ta và giờ đây đang ở quê hương thiên đình.

https://zenit.org/articles/angelus-address-solemnity-of-all-saints/

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu 

Thiên Chúa ngự giữa triều thần thánh. Chúng ta hãy vui sướng cầu xin :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời !

Lạy Chúa, cùng với các thiên thần, các tổ phụ và ngôn sứ, chúng con xin dâng lời ca tụng :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời !

Cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Thân Mẫu Chúa Cứu Thế, chúng con xin khen ngợi suy tôn :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời !

Cùng với các Tông Đồ và môn đệ Chúa Giê-su, cùng với các tác giả Sách Tin Mừng, chúng con xin chân thành cảm tạ :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời !

Cùng với các nhân chứng của Đức Ki-tô, chúng con xin dâng cả xác hồn làm lễ tế :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời !

Cùng với các thánh nam nữ, thành phần của Giáo Hội, chúng con xin tận hiến cuộc đời cho Chúa :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời !

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho chúng con được mừng kính toàn thể các thánh trên trời. Nhờ bấy nhiêu vị thánh hằng nguyện giúp cầu thay, chúng con tin tưởng nài xin Chúa cho chúng con được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong. Chúng con cầu xin

 

 

 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 2, 1-4

"Anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một niềm vui".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, nếu có sự an ủi nào trong Ðức Kitô, nếu có sự khích lệ nào trong đức mến, nếu có sự hiệp nhất nào trong Thánh Thần, nếu có lòng thương xót nào, thì anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một niềm vui, được cùng chung một lòng mến, được đồng tâm nhất trí với nhau; chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh, hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình; mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 130, 1. 2. 3

Ðáp: Lạy Chúa, xin giữ linh hồn con trong bình an của Chúa.

Xướng: 1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn. - Ðáp.

2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con. - Ðáp.

3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 11, 29ab

Alleluia, alleluia! - Các ngươi hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 12-14

"Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật".

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

 

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: "Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

Suy Nguyện Lời Chúa

 

Lòng Thương Xót Chúa không loại trừ một ai

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XXXI Thường Niên hôm nay là bài Phúc Âm tiếp theo hai bài Phúc Âm cuối tuần trước, vì cùng ở trong một bối cảnh của một bữa ăn diễn ra tại nhà của một trong những lãnh đạo viên của thành phần biệt phái.

Nếu trong bài Phúc Âm cho Thứ Bảy tuần vừa rồi huấn dụ của Chúa Giêsu liên quan đến thái độ của khách được mời đến dự tiệc, thì ở bài Phúc Âm hôm nay huấn dụ của Người liên quan đến người mời khách là chính vị gia chủ đã mời Người:

"Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: 'Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn'". 

 Ở đây chắc hẳn Chúa Giêsu không cố ý nói rằng chúng ta chẳng bao giờ mời thân nhân và thân hữu đến dự bữa khoản đãi của chúng ta nhân một dịp nào đó, như chúng ta theo khuynh hướng tự nhiên vẫn làm và luôn làm, mà chỉ khuyên chúng ta rằng dầu sao chúng ta cũng: 

1- Trước hết, đừng quên những con người xa lạ khác, nhất là những người anh chị em hèn mọn nhất trong xã hội đáng thương, cần thương yêu, ưu đãi và giúp đỡ hơn ai hết; 

2- Sau nữa, chúng ta có làm gì cho ai, dù cho người thân yêu hay xa lạ, chúng ta cũng đừng làm chỉ vì mình, ở chỗ để được đền đáp xứng đáng, hơn là chỉ vì yêu thương họ, cho dù họ "không có gì đền ơn".

Tại sao làm ơn hay yêu thương mà không cần đền ơn hay đáp trả như thế? - Ở cuối bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã hướng thượng chúng ta về đời sau như thế này: "vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn". 

Nghĩa là, theo tinh thần của lời Chúa này: 1- việc làm yêu thương bác ái không bao giờ qua đi, sẽ vĩnh viễn tồn tại (được ám chỉ ở chữ "sống lại"); 2- việc yêu thương trọn hảo mới làm cho con người nên "công chính"; 3- việc bác ái yêu thương mới làm cho con người phản ảnh Thiên Chúa (một tình trạng liên hệ với ý nghĩa "được đền ơn").

 

Và đó là lý do Thánh Phaolô Tông Đồ, trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã nhắc nhở và huấn dụ Kitô hữu thuộc Giáo đoàn Philiphê như thế này: "Anh em thân mến... chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh, hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình; mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác".

Muốn đặt người khác và lợi ích của người khác hơn của mình: "coi kẻ khác vượt trổi hơn mình", nghĩa là muốn coi trọng và ưu đãi tất cả những người hèn kém hơn mình: "hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác", thành phần Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô không thể nào không có một ý thức và tâm tình như Thánh Vịnh 130 ở Bài Đáp Ca hôm nay sau đây:

 

1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn.

2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con.

3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời.


 

Ngày 02 tháng 11

Cầu cho các tín hữu đã qua đời

Cầu nguyện cho những người đã qua đời là một trong những truyền thống cổ kính nhất của Hội Thánh. Vì thế, sau ngày mừng các anh chị em đã được sống thân mật với Thiên Chúa trên thiên đàng, ta lại hướng về các anh chị em chúng ta đã qua đời trong niềm hy vọng phục sinh, và cũng hướng về “tất cả mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ”.

Này tang tóc gieo u sầu ảm đạm,
Con nhìn Ngài mà lòng những xôn xao,
Ôi Giê-su, nguồn hy vọng dạt dào,
Chúa là sự phục sinh, là sức sống !

Xưa Ngài cũng trải qua cơn dao động,
Từng băn khoăn đau đớn bởi tử thần,
Rồi gục đầu trước Thánh Phụ từ nhân
Mà kính cẩn trao dâng luồng sinh khí.

Tật nguyền của chúng con, Ngài chia sẻ,
Ôi tấm lòng Mục Tử lớn lao thay,
Muốn chúng con cùng đau khổ với Ngài,
Cùng an nghỉ ngay trong lòng Thánh Phụ !

Trên thập giá, đôi tay Ngài rộng mở
Như đón chờ để ấp ủ vào tim
Hết những ai vì bệnh hoạn ưu phiền
Còn khắc khoải chưa yên mà nhắm mắt.

Ngài phá vỡ cửa âm ty ngục thất,
Đầy chiến công, lên mở cửa Nước Trời,
Nỗi sầu này : xin cho đổi niềm vui,
Và chết đoạn, được trường sinh vĩnh cửu.

Mong toàn thể người thân yêu bạn hữu
Đã ly trần, nay nghỉ giấc bình an
Được Ngài thương cho hưởng phúc thiên đàng,
Hầu ca tụng tán dương Ngài muôn thuở.

 

 

Tâu Vua Cả Ki-tô đầy uy dũng
Đã đập tan xiềng xích của tử thần,
Quả thật Ngài làm rạng rỡ Phụ Thân,
Trả vinh dự cho loài người hèn yếu.

Tật nguyền của chúng con, Ngài gánh chịu,
Quyết dấn thân vào cuộc chiến phi thường,
Hầu đập tan mãnh lực của xà vương,
Ngài thắng trận khi cam lòng chịu chết.

Rồi hùng dũng ra khỏi mồ oanh liệt,
Để muôn người nhờ mầu nhiệm Phục Sinh,
Dẫu bao phen từng chết bởi tội tình,
Vẫn được hưởng ơn Ngài thương cứu sống.

Xin ban tặng chuỗi ngày đầy ân sủng,
Đợi Ngài về mời ăn cưới nửa đêm,
Đoàn chúng con đã chuẩn bị dầu đèn,
Đáng dự tiệc trên quê trời mãi mãi.

Xin Thẩm Phán thương mở lòng từ ái,
Đón nhận vào nguồn ánh sáng thiên cung.
Chúng con đây tin cậy mến một lòng,
Hằng gắn bó cùng Ba Ngôi vĩnh cửu.

Mong toàn thể người thân yêu bạn hữu
Đã ly trần, nay nghỉ giấc bình an,
Được Ngài thương cho hưởng phúc thiên đàng,
Hầu ca tụng tán dương Ngài muôn thuở.

 

 

Ngày 2 tháng 11

Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Ðã Qua Ðời

Lễ Nhớ

 

Lễ Nhất

Bài Ðọc I: Rm 6, 3-9

"Chúng ta phải sống đời sống mới".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống như vậy.

Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi. Mà nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Ðức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 5).

Hoặc đọc: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 4a).

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 11, 25-26

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 6, 51-59

"Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"

Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".

Ðó là lời Chúa.

 

Lễ Nhì

Bài Ðọc I: Kn 3, 1-9

"Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu".

Trích sách Khôn Ngoan.

Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài đã chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao: vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.

Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 6-7bc. 17-18. 20-21

Ðáp: Lạy Chúa, con vươn linh hồn con lên tới Chúa (c. 1b).

Hoặc đọc: Lạy Chúa, phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi (c. 3b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

2) Xin cho lòng con được nhẹ bớt lo âu, và giải thoát con khỏi cảnh ưu tư phiền muộn. Xin Chúa coi cảnh lầm than khốn khổ của con, và tha thứ hết mọi điều tội lỗi. - Ðáp.

3) Xin gìn giữ mạng sống con và giải thoát con, đừng để con bẽ bàng vì đã tìm nương tựa Chúa. Nguyện cho lòng con vô tội và trung thứ bảo vệ con, vì con trông cậy vào Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Tm 2, 11-12a

Alleluia, alleluia! - Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô, thì chúng ta cùng sống với Người; nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 23, 33. 39-43

"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".

Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Lễ Ba

Bài Ðọc I: Rm 5, 5-11

"Chúng ta đã nên công chính trong Máu của Người, và nhờ Người chúng ta được cứu khỏi cơn thịnh nộ".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đã ban cho chúng ta. Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, họa chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.

Vậy phương chi bây giờ, chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô. Và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 7 và 8b và 9a. 13-14

Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).

Hoặc đọc: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).

Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin nghe con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa con. - Ðáp.

4) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy trông đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và trông đợi Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 6, 39

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ý của Cha là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết Ta sẽ cho nó sống lại". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 17, 24-26

"Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, (Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng:) "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

ĐTC Biển Đức XVI - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật XXXI Thường Niên 5/11/2006 về Ý Nghĩa Sự Chết

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Trong những ngày theo sau việc phụng vụ tưởng nhở đến kẻ chết, nhiều giáo xứ cử hành một tuần bát nhật cho người chết, một cơ hội thuận lợi để tưởng nhớ nguyện cầu cho những người thân yêu cũng như để suy niệm về thực tại của sự chết, một thực tại bị “thứ văn minh của tiện nghi” thường cố gắng loại bỏ khỏi tâm thức của con người, nhận chìm vào những bận bịu lo âu thường nhật.

 

Thật vậy, chết là những gì thuộc về cuộc sống, và không phải chỉ là cái kết thúc cuộc sống mà, nếu chúng ta chú ý, nó còn ở hết mọi lúc trong cuộc đời nữa. Cho dù có xẩy ra đủ mọi thứ phân tâm đi chăng nữa, việc mất mát đi một người thân yêu cũng là những gì giúp cho chúng ta nhận thức được ‘cái trục trặc’ này, khiến chúng ta cảm thấy sự chết như là một sự hiện diện hoàn toàn đối địch với ơn gọi tự nhiên muốn sống và hạnh phúc của chúng ta.

 

Chúa Giêsu đã làm đảo lộn ý nghĩa của sự chết. Người đã làm như thế bằng giáo huấn của Người, nhất là bằng việc đích thân đương đầu với sự chết. Phụng vụ mùa Phục Sinh xướng lên rằng: ‘Người chết để hủy diệt sự chết’. Một vị Giáo Phụ đã viết ‘Nhờ vị Thần Linh bất tử, Chúa Kitô đã đánh bại sử chết là những gì đã sát hại con người’ (Melito of Sardis, "On Easter," 66). Nhờ đó, Con Thiên Chúa đã muốn chia sẻ thân phận loài người của chúng ta, hướng nó đến chân trời hy vọng. Thật ra Người đã được sinh ra để có thể chết đi và nhờ đó giải thoát chúng ta khỏi làm tôi cho sự chết. Thư gửi giáo đoàn Do Thái đã viết: ‘Bằng ân sủng của Thiên Chúa Người đã nếm trải sự chết cho hết mọi người’ (2:9).

 

Từ đó, sự chết không còn như trước nữa: Nó thực sự đã bị tước đoạt đi cái ‘nọc độc’ của nó. Tình yêu thương của Thiên Chúa, một tình yêu thương tác động nơi Chúa Giêsu, đã cống hiến một ý nghĩa mới cho tất cả cuộc sống của con người, nhờ đó cũng đã biến đổi chính sự chết. Nếu nơi Chúa Kitô, sự sống của con người là ‘việc lìa bỏ’ thế gian về nhà Cha’ (Jn 13:1) thế nào, thì giờ chết chính là giây phút diễn ra một cách cụ thể và cuối cùng việc lìa bỏ này vậy.

 

Những ai dấn thân sống như Người đều được thoát khỏi nỗi hãi sợ sự chết, họ không còn nở ra nụ cười châm biếm của một kẻ thù nữa, mà là tỏ ra một dung mạo thân tình của ‘người chị em’, như Thánh Phanxicô đã viết trong bài ‘Ca Vịnh Tạo Sinh’. Nhờ đó, Thiên Chúa vì thế được chúc tụng ngợi khen: ‘Lạy Chúa, chúc tụng Chúa về người Chị Em Tử Thần Về Xác Thân của chúng con’. Đức tin nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không được sợ hãi sự chết, vì nó chỉ là một giấc mơ mà một ngày kia chúng ta tỉnh giấc thôi.

 

Cái chết thực sự mà người ta cần phải sợ đó là sự chết về phần linh hồn, một sự chết được Sách Khải Huyền gọi là ‘cái chết thứ hai’ (x 20:14-15, 21:8). Thật vậy, người nào chết trong tình trạng có tội trọng mà không chịu ăn năn thống hối, cứ nhất định ngạo mạn phủ nhận tình yêu thương của Thiên Chúa, là người tự loại mình khỏi Vương Quốc của sự sống vậy.

 

Nhờ lời chuyển cầu của Rất Thánh Nữ Maria và Thánh Giuse, chúng ta hãy nguyện cầu cùng Chúa ban cho chúng ta ơn biết nghiêm chỉnh dọn mình ra khỏi đời này vào lúc Ngài gọi chúng ta, với niềm hy vọng được đời đời ở cùng Ngài, cùng với các thánh và những người quá cố thân yêu của chúng ta.

 

(Sau khi nguyện Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói tiếp bằng tiếng Ý liên quan tới tình hình Thánh Địa:)

 

Tôi hết sức lo âu theo dõi tin tức về tình hình suy thoái ở Giải Gaza, nên tôi muốn bày tỏ với thành phần dân chúng ở đó việc tôi lưu ý tới nỗi khổ đau họ chịu gây ra bởi bạo lực.

 

Tôi xin anh chị em hãy cùng tôi cầu nguyện xin Thiên Chúa Tòan Năng và Nhân Hậu sáng soi thành phần thẩm quyền Do Thái và Palestine, cũng như những quốc gia có trách nhiệm đặc biệt ở miền này, để họ quyết tâm ngăn chặn tình trạng đổ máu, gia tăng những hoạt động trợ giúp nhân đạo, và cổ võ việc tái diễn ngay một cuộc thương thảo nghiêm chỉnh và cụ thể.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/11/2006 

 

Năm điểm chính yếu trong bài huấn từ truyền tin 5/11/2006 ngắn gọn về sự chết của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh, BVL

        

Qua bài huấn từ truyền tin ngắn gọn về sự chết trên đây của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, không biết chúng ta có cảm thấy hết sức thấm thía về 5 điểm chính yếu sau đây hay chăng?

 

Thứ nhất, ngài nhận định rằng thế giới văn minh ngày nay hầu như quên đi hay không muốn nghĩ tới sự chết. Ngài nói: “Sự chết là một thực tại bị ‘thứ văn minh của tiện nghi’ thường cố gắng loại bỏ khỏi tâm thức của con người, nhận chìm nó vào những bận bịu lo âu thường nhật”.

 

Thứ hai, ngài còn cảm nhận rằng “chết là những gì thuộc về cuộc sống, và không phải chỉ là cái kết thúc cuộc sống mà, nếu chúng ta chú ý, nó còn ở hết mọi lúc trong cuộc đời nữa”. Tại sao thế? Ngài đã tiếp tục diễn giải cái lý do của nó là vì, ngài nói: “chúng ta cảm thấy sự chết như là một sự hiện diện hoàn toàn đối địch với ơn gọi tự nhiên muốn sống và hạnh phúc của chúng ta”.

 

Thứ ba, thế nhưng, theo niềm tin Kitô Giáo được ngài xác tín rằng: “Chúa Giêsu đã làm đảo lộn ý nghĩa của sự chết bằng việc đích thân đương đầu với sự chết”. Đó là lý do, cũng theo niềm tin Kitô Giáo, ngài đã tuyên xưng rằng: “Từ đó, sự chết không còn như trước nữa: Nó thực sự đã bị tước đoạt đi cái ‘nọc độc’ của nó”.

 

Thứ bốn, nếu sự chết đã được hoàn toàn biến đổi như thế thì tự nhiên phát sinh ra hai hệ quả, hệ quả trước nhất ở ngay chính ý nghĩa tích cực của sự chết – chết là về cùng Cha, như ngài cảm nhận: “nếu nơi Chúa Kitô, sự sống của con người là ‘việc lìa bỏ’ thế gian về nhà Cha’ (Jn 13:1) thế nào, thì giờ chết chính là giây phút diễn ra một cách cụ thể và cuối cùng việc lìa bỏ thế gian này vậy”; và hệ quả thứ hai xẩy ra nơi tâm trạng có tính cách tích cực của người chết, như ngài khẳng định: “chúng ta không được sợ hãi sự chết, vì nó chỉ là một giấc mơ mà vào một ngày kia chúng ta tỉnh giấc thôi”.

 

Thứ năm, cái làm cho con người sợ chết là trọng tội, là ở trong tình trạng liều mất linh hồn, và tình trạng chết về phần hồn này, tình trạng chết hoàn toàn mất Ơn Nghĩa Chúa này mới là những gì đáng sợ và đáng tránh, vì nó là cái chết thứ hai, cái chết đời đời, không còn bao giờ được cứu độ nữa. Đức Thánh Cha đã cảnh báo như sau: “Cái chết thực sự mà người ta cần phải sợ đó là sự chết về phần linh hồn, một sự chết được Sách Khải Huyền gọi là ‘cái chết thứ hai’ (x 20:14-15, 21:8). Thật thế, người nào chết trong tình trạng có tội trọng mà không chịu ăn năn thống hối, cứ nhất định ngạo mạn phủ nhận tình yêu thương của Thiên Chúa, là người tự loại mình ra khỏi Vương Quốc của sự sống vậy”.

 

Bài đọc 2

Chúng tôi mang nơi thân mình cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách Thứ Bảy Tuần XXXI Thường Niên A ngày 7/11/2020)

Trích khảo luận của thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, về khía cạnh tốt lành của sự chết.

Thánh Phao-lô tông đồ nói : Thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian. Sau đó, để chúng ta biết rằng sống trên cõi đời này, người ta phải chết, nhưng cũng có cái chết tốt lành, thánh nhân khuyên chúng ta hãy mang trong thân mình sự chết của Đức Giê-su ; vì ai có sự chết của Đức Giê-su nơi mình, thì cũng có sự sống của Đức Giê-su nơi thân xác mình nữa.

Vậy ước gì sự chết hoạt động trong chúng ta để sự sống cũng hoạt động nữa. Có chết mới được sống tốt đẹp, nghĩa là có chiến thắng mới được sống tốt đẹp. Chúng ta chỉ được sống tốt đẹp khi cuộc chiến đã ngừng hẳn, khi luật xác thịt không thể chống lại luật tinh thần nữa, khi không còn một cuộc đối đầu nào nữa với thân xác phải chết của chúng ta, và nơi thân xác phải chết này chỉ còn chiến thắng thôi. Chính tôi cũng không biết sự chết ấy có mạnh hơn sự sống không. Chắc một điều là tôi xúc động trước lời đầy thế giá của thánh Phao-lô tông đồ : Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì hoạt động nơi anh em. Cái chết của một người duy nhất đem lại sự sống cho biết bao dân tộc ! Vì thế, thánh Phao-lô dạy những ai đang sống trên đời này hãy ước ao được chết như vậy, để cái chết của Đức Ki-tô rực sáng lên nơi thân xác chúng ta. Đó là cái chết hồng phúc khiến con người bên ngoài của chúng ta tiêu tan đi và con người bên trong được đổi mới, ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất bị phá huỷ và ngôi nhà trên trời mở rộng cửa đón chúng ta.

Ai từ khước không chịu hiệp thông với xác thịt này, ai cởi bỏ những xiềng xích trói buộc, người ấy được coi như đã chết. Chúa đã nói với bạn về những xiềng xích đó qua lời ngôn sứ I-sai-a : Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm.

Chúa đã cam lòng chịu chết để chấm dứt tội lỗi ; muốn cho cái chết không phải là giới hạn cuối cùng của con người, Chúa đã cho kẻ chết sống lại. Như vậy, nhờ cái chết mà tội lỗi bị huỷ diệt, và nhờ sự sống mà con người được tồn tại mãi.

Bởi đó, chết là cửa ngõ mọi người phải đi qua. Bạn phải kiên trì mà đi qua : đi từ mục nát qua bất hoại, từ thân phận phải chết qua tình trạng bất tử, từ hỗn loạn qua an bình. Vậy bạn đừng nao núng khi nghe nói đến cái chết, nhưng hãy vui mừng vì những lợi ích do cuộc vượt qua lành thánh đem lại. Bởi vì, chết là gì nếu không phải là chôn vùi thói hư và làm nảy sinh nhân đức ? Do đó có câu : Ước chi tôi được chết cái chết của người công chính, nghĩa là cùng được mai táng với họ để cởi bỏ tính hư tật xấu của mình, mặc lấy ân sủng Chúa ban cho họ, những người đã từng mang trong linh hồn và thân xác mình cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô.

 

ĐTC Phanxicô - Giảng Lễ Các Đẳng Linh Hồn ở Hầm Mộ Pricislla Roma 2019

 

Nếu chúng ta quả thực tin có đời sau thì chúng ta đang tìm kiếm những gì ở đời này?

      Hôm nay, 2/11, Giáo Hội tưởng nhớ đến và cầu nguyện cho Các Linh Hồn Tín Hữu đã Qua Đời còn ở trong Luyện Ngục, một ngày lễ bao gồm nhiều ý nghĩa Giáo Hội muốn nhắc nhở con cái của mình như sau:

1- Có đời sau, có cõi vĩnh hằng bất biến, chứ không phải chỉ có đời này mà thôi, chết là hết;

2- Linh hồn của con người bất tử, không chết như thân xác của họ sau thời gian sống tạm gửi trên trần gian hữu hình và hữu hạn này;

3- Quê hương đích thực của con người tạo vật được Thiên Chúa dựng nên trên đời này là Thiên đàng, một thực tại hiệp thông thần linh với Thiên Chúa Ba Ngôi toàn thiện và toàn ái là Cha và Con và Thánh Thần;

4- Muốn được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa Ba Ngôi trên Thiên Đàng, linh hồn của con người cần phải tuyệt đối tinh tuyền thánh hảo, xứng đáng với Vị Thiên Chúa Chí Thánh Chí Tôn;

5- Được Thiên Chúa cứu chuộc toàn thể bản tính của mình, nên cả thân xác của con người nữa, cuối cùng cũng sẽ phục sinh, để cùng với linh hồn thiêng liêng bất tử, được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa trên Thiên Đàng sau cuộc Chung Thẩm của Chúa Kitô Vượt Qua, Đấng sẽ đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Với niềm tin tưởng như Giáo Hội trong Ngày Lễ Cầu Hồn Cho Các Tín Hữu đã Qua Đời 2/11 hằng năm này, chúng ta hãy cùng nhau lợi dụng dịp lễ này để suy niệm một chút nhé, và vấn đề trên hết và trước hết, vấn đề then chốt nhất cần phải đặt ra ở đây hôm nay đó là:

1- Nếu chúng ta quả thực tin có đời sau thì chúng ta đang tìm kiếm những gì ở đời này?

2- Nếu chúng ta tin thế gian này chỉ là tạm bợ mau qua, Thiên Đàng mới là quê hương vĩnh hằng vinh phúc của chúng ta thì chúng ta đã sẵn lòng về với Chúa bất cứ lúc nào Ngài gọi chúng ta chưa??

3- Trên thực tế, chúng ta có tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài trước hết mọi sự hay chăng? (Mt 6:33)

Tất cả những gì chúng ta làm trên trần gian này đều chứng thực cho chúng ta thấy chúng ta có thực sự đang tìm kiếm những gì trên trần gian này, có thực sự tìm Nước Chúa trước hết và trên hết hay chăng! Không phải chỉ ở chỗ tham dự Thánh Lễ,  trong đó chúng ta nghe lời Chúa và hiệp lễ hằng ngày mà đủ, vì Chúa vẫn có thể phủ nhận chúng ta rằng "Ta không hề biết các ngươi" dù chúng ta có biện minh rằng chúng ta đã từng nghe Người giảng dạy (có thể hiểu là nghe lời Chúa trong lễ) và ăn uống với Người (có thể hiểu là hiệp lễ) - (xem Lk 13:25-27). 

     Hơn thế nữa, chúng ta còn cần phải: 1- cương quyết chống lại các chước cám dỗ, 2- phải chọn những gì trọn lành hơn là những gì dễ chịu thoải mái, và 3- phải chịu đựng mọi trái ý xẩy đến cho mình nữa v.v., mới chứng tỏ chúng ta quả thực tin có đời sau và tìm kiếm những gì chân thật và hoàn hảo bất diệt, và chúng ta quả thực tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài trước hết và trên hết mọi sự. 

     Giả sử Chúa cho các linh hồn dưới hỏa ngục được trở về trần gian nhưng phải chịu khổ gấp trăm ngàn lần hơn ở dưới hỏa ngục và liên lỉ suốt cả nghìn năm như thế thì họ có sẵn sàng trở lại trần gian hay chăng? Theo tôi, chắc chắn họ sẽ vui mừng hết sức vì biết rằng cho dù có khổ đến mấy đi nữa nhưng họ vẫn còn hy vọng được cứu rỗi và nắm chắc được phần rỗi của mình.  

     Và giả sử Chúa cho cả các thánh trên trời trở lại trần gian, một chuyện không bao giờ xẩy ra, như trường hợp các linh hồn đã muôn đời hư đi trong hỏa ngục, nhưng nếu được phép, theo tôi, các thánh cũng chấp nhận liền, không phải vì thiên đàng không đủ cho các ngài, mà là vì các ngài tự mình vẫn cảm thấy mình kính mến Chúa chưa đủ Đấng vô cùng toàn thiện chí ái, nên được dịp là các ngài lợi dụng để yêu Chúa hơn bao nhiêu có thể, nhất là bằng những hy sinh đau khổ chỉ ở trên thế gian này mới có.

     Thế thì:

     1- Về thời gian: Tại sao chúng ta lại phung phí thời gian từng giây từng phút qua đi không bao giờ trở lại ở trên trần gian này với những thứ phù du chứ! Thời gian sống trên trần gian này quá ư là ngắn ngủi (hầu như là hư không) so với cõi đời đời, nhưng phải nói là nó quí "vô cùng", vì chỉ một tíc tắc cuối đời thôi của cuộc sống trần gian, chúng ta một là được Chúa hai là mất Chúa đời đời kiếp kiếp?  

     Nếu chúng ta biết lợi dụng thời gian mau qua ngắn ngủi trên đời này thì chúng ta chẳng những có thể biến mỗi ngày từ 24 tiếng thành 36 tiếng hay 48 tiếng, mà còn biến thời gian thành vĩnh cửu nữa, nhờ tinh thần sống siêu nhiên của chúng ta. Thật vậy, với sức tự nhiên mỗi ngày chúng ta chỉ làm được một số việc giới hạn nào đó, nhưng với lòng yêu mến Chúa, chúng ta có thể làm gấp đôi như vậy, thì không phải một ngày đã trở thành 2 ngày rồi hay sao, chỉ nhờ lòng yêu mến Chúa của chúng ta. Chưa hết, nếu chúng ta chỉ tìm ý Chúa và làm trọn ý Chúa trong mọi sự, thì chúng ta quả thực đã sống đời đời ngay trong thời gian và ngay trên trần gian này rồi vậy. Bởi vì: "Thế gian cùng với những quyến rũ của nó đang qua đi, nhưng ai làm theo ý muốn của Thiên Chúa sẽ tồn tại muôn đời" (1Jn 2:17).

     2- Về đau khổ: Tại sao chúng ta lại không chấp nhận tất cả những đau khổ, so với vinh quang bất diệt đời sau hay với hình phạt muôn đời trong hỏa ngục, thì chẳng là gì trên trần gian mau qua tạm gửi này, những đau khổ chẳng là gì đó lại có thể chẳng những đền bù tội lỗi của chúng ta, mà còn được thông hiệp với cuộc khổ nạn và tử giá vô cùng quí báu của Chúa Kitô cho phần rỗi "những linh hồn cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn", nhất là được dịp chịu đựng để tỏ lòng kính mến hơn nữa Đấng toàn ái chí tôn đã vô cùng yêu thương từng con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh thần linh và tương tự như Ngài, đến độ đã trở thành đáng thương hơn cả đối tượng đáng thương của Ngài?   

       Nếu chúng ta đã không sợ đau khổ, trái lại, còn như Thánh Phaolô, coi Thánh Giá Chúa Kitô là vinh dự của chúng ta (xem Galata 6:14), thì tại sao chúng ta không xin Chúa cho chúng ta được chết vì Chúa và như Chúa cho phần rỗi của anh chị em chúng ta, một cái chết vô cùng ý nghĩa và vô giá, vì được diễm phúc nên giống Chúa Kitô, và được như Mẹ Maria vô nhiễm đồng công với Người cứu các linh hồn, được trở thành sự sống đời đời cho các linh hồn cần đến LTXC hơn, được LTXC tỏ hiện rạng ngời nhất qua cái chết như Chúa và với Chúa của chúng ta.

      3- Về Đức Ái: Tất cả mọi sự trên đời này rồi cũng qua đi, kể cả đức tin bất khả thiếu để được cứu độ, chỉ duy đức ái là không qua đi, trái lại, đức ái sẽ tồn tại muôn đời, và chỉ có đức ái mới làm nên ý nghĩa và giá trị của cuộc đời, đến độ, không có đức ái chỉ toàn là thù hằn, bất an, đau khổ, trái lại, với đức ái con người luôn trong bình an, bất chấp mọi khổ đau gây ra bởi bất cứ ai cho mình, thậm chí còn dám chịu khổ với tha nhân, như tha nhân và cho tha nhân nữa, và chính đức ái là hoa trái thực sự của đức tin, một mầm mống sự sống nhỏ như hạt cải nhưng đã biến thành một cây vĩ đại đức ái, đến độ chim trời là các linh hồn đến làm tổ cứu độ nơi đức ái là chính Thiên Chúa này. Đức ái quả thực chính là thiên đàng trần thế vậy, và ai sống đức ái là hoan hưởng niềm vui bất diệt Thiên Đàng ngay trên trần gian này.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Thiên Chúa là Cha toàn năng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô sống lại từ cõi chết, và sẽ cho thân xác yếu hèn của chúng ta được phục sinh. Vậy ta hãy tha thiết nguyện cầu :

Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.

Lạy Chúa là Cha chí thánh, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng con đã cùng chết, cùng được mai táng với Đức Ki-tô, và cùng sống lại với Người, - xin cho chúng con bước vào đời sống mới, để sau khi chết, chúng con được sống mãi với Người.

Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.

Chúa nuôi sống chúng con bằng bánh bởi trời, - xin cho chúng con nhờ đó mà tìm được sức sống, và đến ngày sau hết được phục sinh vinh hiển.

Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.

Chúa đã sai thiên thần đến an ủi Đức Ki-tô khi Người hấp hối, - xin cho chúng con vững lòng trông cậy trong giờ phút lâm chung.

Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.

Xưa Chúa đã giải thoát ba thiếu niên khỏi lửa hồng thiêu đốt, - xin đừng chấp tội anh chị em chúng con đã qua đời.

Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.

Chúa là Thiên Chúa kẻ sống và người chết, đã cho Đức Giê-su sống lại, - xin cho những ai đã qua đời được phục sinh, và cho chúng con được cùng họ hưởng vinh quang muôn đời.

Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.

 

Đức Ki-tô sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người. Vì thế, ta hãy thiết tha cầu nguyện :

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Con Đức Chúa Trời hằng sống, Chúa đã làm cho bạn của Chúa là ông La-da-rô được sống lại, - xin cho những người đã được Chúa đổ máu ra cứu chuộc cũng được sống lại hiển vinh.

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Đấng an ủi kẻ ưu phiền, Chúa đã lau sạch nước mắt cho những kẻ thương khóc người thân, - xin nâng đỡ anh chị em chúng con đang phải ưu phiền vì tang tóc.

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Đấng chiến thắng tử thần, Chúa đã chết để đập tan quyền lực tội lỗi đang hoành hành nơi thân xác chúng con, - xin cứu chúng con khỏi chết muôn đời, và cho chúng con được hưởng phúc trường sinh với Chúa.

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Đấng Cứu Thế, xin nhớ đến những người chưa biết Chúa, và sống không hy vọng, - xin cho họ tin rằng có một Đấng đã phục sinh, và có một cuộc đời bất tận.

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Đấng chúng con hằng trông đợi, khi Chúa gọi chúng con từ giã cuộc đời chóng qua này, - xin dẫn đưa chúng con vào quê trời vĩnh cửu.

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là ánh sáng của trần gian, Chúa đã mở mắt cho người mù được thấy, - xin cho anh chị em chúng con đã qua đời được vui hưởng ánh sáng ngàn thu.

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

 

Lạy Chúa, Con Một Chúa từ cõi chết sống lại đã tăng cường niềm tin của chúng con. Giờ đây, xin Chúa thương nhậm lời chúng con khẩn nguyện mà làm cho lòng chúng con luôn trông cậy vững vàng : Chính Đức Giê-su sẽ cho các tín hữu đã lìa cõi thế được phục sinh vinh hiển. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

Thứ Ba



Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 2, 5-11

"Người đã tự hạ mình, vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Ðức Giêsu Kitô: Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm.

Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 21, 26b-27. 28-30a. 31-32

Ðáp: Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong Ðại hội (c. 26a).

Xướng: 1) Bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong Ðại hội. Con sẽ làm trọn những lời khấn hứa của con, trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: "Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn đời". - Ðáp.

2) Thiên hạ sẽ ghi lòng và trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một Chúa. - Ðáp.

3) Miêu duệ con sẽ phục vụ Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh biết đức công minh Chúa, rằng: "Ðiều đó Chúa đã làm". - Ðáp.


Alleluia: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 15-24

"Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi".

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

 

Khi ấy, một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa". Người phán cùng kẻ ấy rằng: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi. Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: "Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu". Người thứ hai nói: "Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu". Người khác lại rằng: "Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được".

"Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt". Người đầy tớ trở về trình rằng: "Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ". Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi".

Ðó là lời Chúa.



 


Suy Nguyện Lời Chúa


                    Lòng Thương Xót Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ


m nay, Thứ Ba Tuần XXXI Thường Niên Quanh Năm, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta trong Bài Phúc Âm của ngài về bữa tiệc mời và thái độ đáp ứng của khách được mời.


Chúng ta nên nhớ rằng, Bài Phúc Âm hôm nay tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua và 2 Bài Phúc Âm cuối tuần trước, những Bài Phúc Âm ở nửa đầu của Đoạn 14 này cho biết rằng Người đang tham dự bữa ăn ở nhà của một trong những người lãnh đạo nhóm biệt phái, một môi trường hiếm quí Người muốn lợi dụng để có thể tỏ mình ra cho riêng thành phần hầu như toàn biệt phái lúc ấy. 


Theo thứ tự của các Bài Phúc Âm này thì đầu tiên, ở Bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước, Người đã dạy cho thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật một cách duy luật này về ý nghĩa nhân bản đích thực của bản chất luật, bằng cách chữa lành nạn nhân bị thủy thủng ngay trong ngày hưu lễ và tại nhà của gia chủ biệt phái. 


Sau đó, ở Bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, Người dạy cho thành phần biệt phái ham danh đầy khoe khoang này về thái độ họ cần phải có khi họ được mời đến dự tiệc nơi công cộng, ở chỗ "hãy đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" ở chỗ sẵn sàng chấp nhận bất cứ chỗ nào đã ấn định cho mình, chứ không phải "hãy chọn chỗ cuối cùng mà ngồi", tức những gì theo ý riêng chủ quan đầy tham vọng của mình.


Rồi trong Bài Phúc Âm hôm qua, Thứ Hai, cũng liên quan đến bữa ăn, Người trực tiếp ngỏ cùng gia chủ biệt phái mời Người hôm ấy về tinh thần mà ông cần có trong việc mời mọc khách đến tham dự tiệc tùng do ông khoản đãi, ở chỗ, đặc biệt là mời những ai không thể nào đền đáp lại lòng tốt của ông.


Cũng lợi dụng bối cảnh của một bữa ăn hôm ấy và chẳng những theo tư cách là khách tham dự (như Bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước), mà còn theo tư cách của người đãi tiệc (như Bài Phúc Âm hôm qua), hôm nay, qua Bài Phúc Âm theo ngày, và lợi dụng câu hỏi của "một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa'", Người đã nói đến cả 2 vế: vế người đãi tiệc lẫn vế khách được mời.


Về vế người đãi tiệc, Bài Phúc Âm hôm nay cho biết Chúa Giêsu đã tiếp tục dùng dụ ngôn mà dạy như thế này: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi".


Về vế của khách được mời, Bài Phúc Âm cho biết phản ứng của "mọi người" trong họ, nại đủ những lý do riêng tư chính đáng của họ như sau: "Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: 'Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu'. Người thứ hai nói: 'Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu'. Người khác lại rằng: 'Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được'".


Trước thái độ có vẻ coi thường của khách được mời, của "mọi người", của tất cả mọi khách được vinh dự mời như thế, khiến cho bữa tiệc thịnh soạn của mình dọn ra chỉ để đãi khách như bị ế ẩm như thế, người đãi tiệc đã tỏ thái độ ra sao, Bài Phúc Âm hôm nay đã thuật lại như sau: 


"Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: 'Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt'. Người đầy tớ trở về trình rằng: 'Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ'. Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: 'Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi'".


Ở đây, trong dụ ngôn của Chúa Giêsu về người đãi tiệc và khách được mời này có ít là hai điều cần chú ý, nhờ đó có thể biết được ẩn ý của dụ ngôn, nghĩa là biết được dụ ngôn này ám chỉ về ai, điều chú ý thứ nhất liên quan đến phía khách được mời và điều chú ý thứ hai liên quan đến phía người đãi tiệc.


Về phía khách được mời, dụ ngôn cho biết là "mọi người đồng thanh xin kiếu" và thành phần "mọi người" đây phải chăng ám chỉ chung dân do Thái, cho đến nay, họ vẫn từ chối tham dự bữa tiệc Nước Trời được Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ dọn ra cho họ và mời họ đầu tiên, bằng cách, cho đến nay họ vẫn chưa chấp nhận Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai của họ?


Về phía người đãi tiệc, dụ ngôn cho thấy thái độ của người này tỏ ra trước phản ứng bất lợi của khách được mời, một thái độ rất tuyệt vời trong việc giải quyết theo chiều hướng biến dữ thành lành. Ở chỗ, người đãi tiệc này đã mời đủ mọi loại khách xa lạ khác đến tham dự thay chỗ cho đám khách quí thân quen trước đó, một thái độ được tỏ ra đúng như những gì Chúa Giêsu đã dạy cho gia chủ biệt phái trong bài Phúc Âm hôm qua trong việc mời khách thì mời thành phần không thể đáp trả. 


Đám khách xa lạ được mời đến sau để thay chỗ cho nhóm khách được mời đến trước nhưng từ chối đó là ai, nếu không phải là thành phần dân ngoại, thành phần, như Thánh Phaolô, Tông Đồ Dân Ngoại, đã nhận định trong Bài Đọc 1 Thứ Bảy tuần trước: "một phần dân Israel cứng lòng mãi cho đến khi toàn thể Dân ngoại nhập giáo, và bấy giờ toàn thể Israel cũng sẽ được cứu độ", cũng như trong Bài Đọc 1 Thứ Hai hôm qua: "Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin nên anh em được thương xót, cũng thế, nay họ không tin, vì Thiên Chúa muốn tỏ lòng thương anh em mà họ cũng được xót thương".


Nghĩa là, theo dự án cứu độ của Thiên Chúa, Ngài muốn cứu độ tất cả mọi người (xem 1Timôthêu 2:4) chứ không riêng gì dân Do Thái hay chỉ có dân ngoại, mà là cả hai, theo đường lối khôn ngoan nhất của Ngài để nhờ đó Ngài có thể tỏ lòng thương tất cả mọi người (xem Roma 11:32), và cũng nhờ đó mọi người được Ngài cứu độ đều phải công nhận rằng ơn cứu độ của họ là do họ được Thiên Chúa thương mà thôi. 

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô đã cho chúng ta biết về "bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa" và "mọi sự đã dọn sẵn sàng" cho thành phần được Bài Đáp Ca hôm nay nhắc tới, một bữa tiệc được dọn ra "trước mặt những người tôn sợ Chúa", vì họ là thành phần "cơ bần", chỉ biết trông cậy vào Chúa thôi, do đó cũng chỉ có họ mới cảm nhận được giá trị cao quí của bữa tiệc ấy, đối với thân phận bất xứng của mình, nên không dám khinh chê, giống như thành phần khách ưu tiên được mời trước họ, và vì thế nên họ "sẽ ăn và được no nê", như thế này:

 

1- "Bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa" đây ở nơi Vị Thiên Chúa làm người: "Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm".

 

2- "Mọi sự đã dọn sẵn sàng" đây là ở nơi cuộc Vượt Qua của vị Thiên Chúa làm người này: "Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang".

 

Kính Thánh Martin de porres (03/11)Tướng tiên phong đức ...

 



Hạnh Tích Thánh Martino Porres



Tấm Lòng Vàng: Thánh Martin de Porres




San Martin de Porres huaycan.jpg

Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 2, 12-18

"Anh em hãy lo cho mình được ơn cứu độ; Thiên Chúa tạo nên trong anh em cả ý muốn lẫn việc làm".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, như anh em vẫn luôn luôn vâng lời, không phải trong lúc tôi có mặt mà thôi, nhưng hơn nữa, cả lúc này là lúc tôi vắng mặt, anh em cũng phải kinh hãi run sợ mà lo cho mình được ơn cứu độ. Vì chưng, Thiên Chúa là Ðấng tạo nên trong anh em cả ý muốn lẫn việc làm theo sở định của Người.

Anh em hãy thi hành mọi việc, đừng kêu ca và nghi ngại, để anh em biến thành những người không có gì đáng chê trách, và trở nên những người con vẹn toàn không ai bắt lỗi được của Thiên Chúa ở giữa một thế hệ hư hốt và gian tà. Giữa những kẻ ấy, anh em hãy chiếu sáng ra như những vì sao trong vũ trụ, hãy tích trữ lời hằng sống, để làm sáng danh tôi trong ngày của Ðức Kitô, vì tôi đã không bôn tẩu cách hư luống và đã không uổng công lao nhọc.

Và nếu tôi phải đổ máu làm lễ vật tiến dâng vì đức tin anh em, tôi sẽ vui mừng và hân hoan với tất cả anh em. Và cả anh em nữa, anh em cũng sẽ được vui mừng và hân hoan với tôi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 13-14

Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).

Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài. - Ðáp.

3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! - Ðáp.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 25-33

"Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

 

Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: "Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi".

"Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".

Ðó là lời Chúa.

 


Sept. 4 Gathering: Haters gonna hate — Luke 14:25-35 – New Wineskins


Suy Nguyện Lời Chúa

Một món nợ tình bất khả đáp trả (return) nhưng vẫn có cách bù đắp (reimbursement / refund)

 

i Phúc Âm cho Thứ Tư Tuần XXXI Thường Niên hôm nay tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua, nhưng hoàn toàn với một bối cảnh khác, không còn ở trong bữa ăn tại nhà của một trong nhũng người lãnh đạo của thành phần biệt phái nữa, mà là đã xong bữa ăn ấy và đang thực hiện một cuộc hành trình, tiếp tục tiến về Giêrusalem, một cuộc hành trình đến một đích điểm chất chứa một ý nghĩa cần phải được Chúa Giêsu khẳng định và cảnh giác cho rất ư là nhiều người đang hào hứng đồng hành với Người bấy giờ, như Bài Phúc Âm thuật lại như sau:

 

"Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: 'Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta'". 

 

Ở đây, Chúa Giêsu chẳng những khẳng định và cảnh giác những ai theo Người lên Giêrusalem, một số người đông thật là đông, số người đồng hành với Người ấy không biết có phải vì đã xem thấy đầy những phép lạ Người làm, nghe những lời Người giảng vô cùng khôn ngoan xuất chúng, nên tưởng rằng theo Người đến giáo đô Giêrusalem là thủ phủ của Do Thái giáo họ sẽ được vinh dự một cách nào đó trước mặt dân chúng bởi họ thuộc về nhóm của Người hay chăng, Người còn cho họ biết rằng họ cần phải lượng sức mình kẻo bị thất vọng, như Người đã khuyên họ ngay sau khi cảnh giác họ về thân phận của những ai muốn theo Người cần phải từ bỏ và vác thập giá trên đây:

 

"Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: 'Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi'. Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".

 

Tại sao theo Chúa Kitô cần phải bỏ mình và vác thập giá, nếu không phải vì Người là Đấng "đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" (Mathêu 20:28)? Nghĩa là ai muốn theo Người không thể nào không phục vụ, mà phải phục vụ hết mình, phục vụ đến sẵn sàng thí mạng sống mình cho tha nhân như Người, và vì thế nếu không từ bỏ chính bản thân mình, đến độ còn có thể sẵn sàng chịu tất cả mọi gian nan khốn khó cho đến cùng vì phần rỗi của tha nhân nữa, không thể nào theo Người được

 

Và vì thế chúng ta cần phải "yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34,15:12). Chúng ta nợ tình với Thiên Chúa, một món nợ tình của Vị Thiên Chúa vô cùng không thể nào chúng ta là tạo vật có thể đền đáp cho chính Ngài, có thể đáp trả một cách tương xứng, nhưng chúng ta vẫn có thể đền đáp Ngài nơi chính tha nhân nói chung, nhất là những người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô (xem Mathêu 25:40,45). Trong Kinh Lạy Cha Chúa Giêsu cũng đã dạy các môn đệ của Người thực hành nguyên tắc trả nợ sòng phẳng này với Thiên Chúa qua tha nhân qua câu nguyện: "Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" (Mathêu 6:12).

 

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã đặt điều kiện bất khả thiếu để theo Chúa là một hành động khôn ngoan, ở chỗ biết coi Người trên hết mọi sự, nên từ bỏ tất cả mọi sự và vác thập giá mà theo Người cho đến cùng, thì trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô khuyên Kitô hữu Giáo đoàn Philiphê là phải chẳng những khôn ngoan tính toán, như việc xây nhà hay nghênh chiến được Chúa Kitô nêu lên trong Bài Phúc Âm, mà nhất là phải cậy dựa vào ân sủng, phải tin tưởng vào Chúa là "Ðấng tạo nên trong anh em cả ý muốn lẫn việc làm theo sở định của Người", nhờ đó, họ mới có thể theo một Đấng khổ nạn và tử giá, như chính bản thân của Thánh Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Nếu tôi phải đổ máu làm lễ vật tiến dâng vì đức tin anh em, tôi sẽ vui mừng và hân hoan với tất cả anh em. Và cả anh em nữa, anh em cũng sẽ được vui mừng và hân hoan với tôi".

 

Lòng tin tưởng của những ai khôn ngoan muốn theo Chúa Kitô như gương Thánh Phaolô, một lòng tin tưởng vào Đấng "Ðấng tạo nên trong anh em cả ý muốn lẫn việc làm theo sở định của Người" như thế, là những gì đã được Thánh Vịnh 26 diễn tả một cách vừa bóng bẩy: "một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi", vừa thực tê như sau: "Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!", ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài. 

3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!

 

 

Ngày 04 tháng 11

Thánh Ca-rô-lô Bo-rô-mê-ô, giám mục

lễ nhớ bắt buộc

Thánh nhân sinh năm 1538 tại A-rô-na, miền Lom-ba-đi-a. Sau khi đã học xong luật đạo luật đời, người được cậu là đức giáo hoàng Pi-ô IV nhận vào hàng hồng y, rồi được đặt làm giám mục Mi-la-nô. Người ra sức thể hiện gương mẫu một giám mục như đã được Công Đồng Tren-tô nêu lên. Người cố công cải tổ hàng giáo sĩ, lập các công đồng miền và các chủng viện. Người cũng canh tân phong hoá của các tín hữu bằng cách thăm viếng họ, trình bày cho họ biết thế nào là sống trung thành thật sự với Hội Thánh. Người qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1584.

(Phụng Vụ Giờ Kinh 4/11)

 

Ngày 04.11 Thánh CARÔLÔ BORRÔMÊÔ Giám Mục (1538 – 1584) | Giáo Phận Bà Rịa

1. Đôi dòng tiểu sử

 

Bôrômêô chào đời tại Milan ngày mồng 2 tháng 10 năm 1538. Song thân ngài là ông Bôrômêô Arôma và bà Magatita Mêđixê, chị ruột của Đức Giáo Hoàng Piô IV. Hai ông bà thuộc dòng quý tộc và có lòng đạo đức, ngay nên ngay khi vừa lên năm tuổi, Bôrômêô đã được gởi đi học. Ngày tháng trôi qua, mặc dầu trí khôn không thuộc vào hàng xuất sắc, nhưng do sự siêng năng cần mẫn, Bôrômêô chẳng mấy chốc đã qua hết bậc trung học, rồi lên đại học Pavia. Cuối năm 1559, khi vừa đúng 21 tuổi, Bôrômêô được vinh dự lãnh hai cấp bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật một trật qua sự khảo hạch của giáo sư Phanxicô Anxia, một giảng sư về luật nổi tiếng lúc ấy.

Theo tục lệ thời bấy giờ người ta có thể xin gia nhập hàng giáo sĩ ngay từ hồi còn nhỏ. Chính vì thế nên vừa mới được 12 tuổi, Bôrômêô đã được thâu nhận vào hàng giáo sĩ. Năm 1560, tức là một năm sau ngày lấy hai bằng tiến sĩ, Bôrômêô được Đức Giáo Hoàng triệu về Rôma. Mặc dù ngài thuộc về một gia đình quý tộc ở Milan và có bà con với dòng họ Medici rất uy thế, nhưng ngài lại muốn tận hiến cho Giáo Hội. Khi người bác của ngài là Ðức Hồng Y de Medici được chọn làm giáo hoàng năm 1559 với tước hiệu là Piô IV, Đức Giáo Hoàng đã đặt ngài làm làm Hồng y -Phó tế” và Quản trị Tổng Giáo Phận Milan trong khi ngài chỉ là một  giáo dân và một sinh viên. Vì sự thông minh xuất chúng nên ngài được giao cho nhiều chức vụ quan trọng có liên hệ đến Tòa Thánh, và sau này được bổ nhiệm làm Quốc Vụ Khanh của tòa thánh. Cái chết đau đớn của người anh đã đưa ngài đến quyết định làm linh mục, mặc dù họ hàng ngài muốn ngài phải kết hôn. Ngài được thụ phong linh mục năm 25 tuổi, và sau đó không lâu được tấn phong làm giám mục của Milan.

Tên của Thánh Carôlô Borrômêô đi liền với chữ cải cách. Ngài sống trong thời kỳ Cải Cách Tin Lành, và đã đóng góp trong công cuộc cải cách toàn thể Giáo Hội trong những năm cuối của Công Ðồng Triđentinô. 

Chính thánh nhân là người đã thúc giục đức giáo hoàng phục hồi Công Ðồng Triđentinô vào năm 1562 sau 10 năm bị ngưng trệ. Ðứng ở đằng sau và âm thầm làm việc, thánh nhân là người có công trong việc duy trì sự liên tục của các khóa họp Công Ðồng mà nhiều khi tưởng đã đổ vỡ. Thời gian này, ngài phụ giúp Đức Piô IV hoàn tất một cách tốt đẹp Công đồng Triđentinô đã được khai mạc vào năm 1545 dưới triều Đức Giáo Hoàng Phaolô III. Ngài giữ vai trò điều phối chương trình làm việc của các nghị phụ, thu thập tài liệu, đúc kết ý kiến và viết dự thảo nghị quyết của Công đồng. "Ngài làm việc có khi thâu đêm suốt sáng để soạn lại các báo cáo khắp nơi gởi về, lãnh ý kiến và thi hành chỉ thị của Đức Thánh Cha. Đúng ra ngài là người chấp hành sự vụ hơn là thực hiện chức vụ của một vị một cố vấn".

Do mắc cộng việc tại công đồng Triđentinô, nên ngài không được phép cư trú tại Milan, cho tới khi công đồng bế mạc. Trong giai đoạn cuối của Công Ðồng, ngài chịu trách nhiệm hoàn toàn công việc giao dịch thư tín. Trong thời gian công đồng, ngài cũng được phép lo công việc cuả Tổng Giáo Phận Milan là nơi mà bức tranh tôn giáo và luân lý không sáng sủa lắm. Công đồng kết thúc, ngài còn phải lo lắng tới những công chuyện còn sót lại và mãi tới tháng 9 năm 1565, ngài mới được Đức Giáo Hoàng cho phép về ở tại nhiệm sở của mình. Khó khăn lắm mới được trở về Milan, ngài lại bị triệu hồi để giúp cậu ngài bên giường bệnh, và sau đó góp phần chọn lựa Đấng kế vị là Đức Giáo Hoàng Piô V. Ngài trở lại Milan vào tháng 4.1566.Chỉ sau lễ an táng người cậu yêu quí là Đức Giáo Hoàng Piô IV và sau cuộc bầu cử Đức Tân Giáo Hoàng, Đức Hồng Y Tổng Giám mục mới trở về phục vụ giáo phận Milan, một giáo phận rộng lớn nhất nhì của Giáo Hội. 18 năm trời phục vụ giáo phận Milan đối với ngài là 18 năm làm việc vất vả nhất, nhưng lại thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp nhất.

Kể từ lúc đó cho đến khi qua đời, ngày 3.10. 1584, cuộc đời của thánh Carôlô được dành trọn cho giáo phận với tư cách của một Tổng Giám mục. Việc canh tân khẩn thiết nhất trong mục vụ của vị Giám mục tập chú vào sơ đồ canh tân Công đồng Triđentinô để ra. Thánh Carôlô đã trở thành Giám mục "kiểu mới" của Công đồng Triđentinô, ngài đã thành công đến nỗi trở thành gương mẫu và gợi hứng cho toàn thể Giáo Hội. Có lẽ hơn bất cứ một cá nhân nào khác ngài đã chuyển các sắc lệnh của Công đồng ra hành động trong Giáo Hội Công giáo, ngài đã thực hiện cuộc canh tân, tổ chức lại hàng giáo sĩ và đời sống thiêng liêng trong cả địa phận lẫn tỉnh Milan. Nhưng nỗ lực này được ghi lại đầy đủ chi tiết qua một số qui luật do sáu hội nghị Giáo tỉnh và mười một hội nghị Giáo phận.
 
Ngài kiên trì viếng thăm toàn Giáo phận rộng rãi bao la được giảng dạy, ban các phép bí tích tới những làng mạc xa xôi nhất và những vùng thung lũng núi Alpels. Cuộc hồi sinh đạo Công giáo tại Thụy sĩ mà nhiều phần nằm trong quyền hạn của ngài đã là ảnh hưởng quyết định của ngài, ngài đã thiết lập nhiều học viện và chủng viện, ngài là người bạn của dòng tên, dòng thánh Barnaba và nhiều dòng mới thời đó. Chính ngài cũng đã thiết lập dòng cho những tu sĩ thánh Ambrôsiô (bây giờ là thánh Carôlô) để đặc biệt giúp đỡ ngài. Ngài còn liên hệ một cách chủ động tới cuộc canh tân dòng cổ. Có một nhóm bất mãn dòng Umiliati là ngài muốn canh tân và sau này đã biến mất, đã tìm cách sát hại khi ngài đang cầu nguyện năm 1569.
 
Ngài đã khích lệ những hội đạo đức và tổ chức lại các trường Công giáo. Ngài cố gắng bảo tồn nghi thức thánh Ambrôsiô cho Milan khi nghi thức này bị đe dọa và cố gắng theo gương thánh Ambrôsiô. Nhưng sự cương quyết không chịu thoả hiệp và sự nghiêm khắc về những nguyên tắc luân lý đã không khỏi gây nên những chống dối. Sức chống đối không chỉ từ vài nhóm giáo sĩ và còn từ phía uy quyền thế tục đại diện bởi những nhà cầm quyền Tây Ban Nha và nghị viện thành phố nữa.
 
Dầu vậy, như một thánh nhân và một nhà canh tân, thánh Borrômêô không đòi những người khác điều gì mà chính ngài đã thi hành. Đời sống cầu nguyện và bỏ mình của ngài còn tân tiến với những nỗ lực mục vụ. Tai họa dịch hạch năm 1576 đến 1578 cho thấy sự hy sinh xả kỷ tột cùng của ngài, ngài đã hiến mình làm hiến tế, bố thí tất cả những gì ngài có như động sản, áo quần; lột bỏ những màn trướng để phủ che những người bất hạnh, chính ngài cũng ngủ trên sàn nhà, ngài gọi các linh mục và tu sĩ đến, chỉ định cho họ những ngả đường để giải tội cho nhưng bênh nhân, an ủi và chuẩn bị cho họ chết lành. Để những người hấp hối có thể tham dự thánh lễ, ngài cho dựng những bàn thờ nơi các ngã tư. Thánh giá mọc lên khắp nơi cho mọi người nhìn thấy. Chuông nhà thờ reo vang, những bản thánh ca được hát lớn trong mỗi gia đình vào giờ nhất định.
 
Như thế, bệnh nhân được tham dự vào đời sống cộng đoàn, thành phố thoát khỏi cảnh tang thương vô vọng để sống như trong một tu viện. Đức Tổng Giám mục đến với người bị dịch hạch, những trẻ em lăn lóc bên xác mẹ, ngài cuốn áo choàng mang về nhà. Người ta tổ chức những cuộc đi chân không theo đám rước tay cầm chặt thánh giá. Cuối cùng khi tai họa chấm dứt, Đức Hồng y đã xác tín rằng : dù cho có bao nhiêu nạn nhân, đoàn chiên ngài phải cảm ơn Thiên Chúa vì cơn thử thách đã đổi mới các tâm hồn.
 
Nhiều dịp khác cũng cho thấy sáng kiến và lòng tận tâm của thánh nhân, Milan nhiều lần bị nạn đói, thánh Carôlô cho trồng bắp, tổ chức những bữa cháo nghèo, lập các nhà từ thiện. Nhờ ngài, những người giàu có nên quảng đại hơn. Thánh nhân đã không tìm nghĩ ngơi sau những nỗ lực không ngừng cho công việc bác ái và mục vụ. Mỗi lúc đêm về người ta còn thấy ngài tiến vào nhà nguyện để đọc kinh suy gẫm. Tới cuối đời, ngài còn tìm tòi học hỏi, không lãng quên sách thánh, ngài thích đọc sách cổ, sách thuốc và sách chiêm tinh Ả Rập. Ngài rất ưa thích nghệ thuật và nếu phải bán bộ sưu tầm của ngài đi, thì đây là một hy sinh lớn lao cho ngài.
 
Chính Thánh Carôlô tiên phong trong việc làm gương. Ngài chia sẻ hầu hết phần lương của ngài cho công việc bác ái, tự ý từ bỏ đời sống sang trọng của một tổng giám mục, và ăn chay đền tội. Ngài hy sinh giầu sang, danh vọng, sự mến mộ và ảnh hưởng để trở nên nghèo hèn. Trong thời kỳ dịch tễ và đói kém năm 1576, ngài cố tìm cách để nuôi ăn 60,000 đến 70,000 người mỗi ngày. Ðể thực hiện điều này, ngài phải mượn một số tiền rất lớn mà nhiều năm sau mới trả hết. Khi nạn dịch hoành hành đến mức tối đa, các giới chức hành chánh dân sự bỏ trốn thì ngài vẫn ở lại thành phố để thi hành công việc mục vụ cho những người đau yếu, người hấp hối và những ai cần sự giúp đỡ.

Vào năm 1578, ngài thành lập một tổ chức các linh mục triều, gồm Các người Tận hiến của Thánh Ambrôsiô (bây giờ là Người tận Hiến của thánh Carôlô Borrômêô), đồng thời ngài tích cực rao giảng, chống lại sự xâm nhập của giới Tin Lành Cải cách, và đưa những người Công Giáo bỏ đạo trở về với Giáo Hội. Ngài gặp sự chống đối từ mọi phía trong các nỗ lực của ngài nhằm cải tổ con người cùng các cơ chế. Công việc và gánh nặng của chức vụ đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ngài.

Không nghỉ ngơi, thánh Carôlô Borrômêô giống như một người nghèo không bao giờ biết đến nghỉ ngơi. Cơn bệnh đến, thánh nhân bất động, mắt nhắm nghiền. Vài người nói : "Kìa cơn mê của Giám mục thánh Modèna".
 
Vào những ngày cuối đời, nhắm mắt lại để người ta tưởng ngài ngủ và như thế có thể hồi tâm cầu nguyện mà không bị lo ra, ngài cười khi người ta khuyên ngài đừng sợ chết. Rồi sau khi lãnh nhận các bí tích sau hết, ngài lịm vào trong sự tôn thờ. Ngài từ trần khi mới 46 tuổi. Tin loan báo cái chết của thánh Carôlô Borrômêô đã làm cho cả Milan đau đớn. Sử gia viết truyện đời ngài nói: "Đêm ấy, ít có ai ngủ được".
 
Đức Phaolô V đã phong thánh cho ngài ngày 10 tháng 11 năm 1610.

2. Bài học

Mỗi vị thánh có một nét đặc biệt. Có thánh nổi bật về sự khó nghèo, có thánh lưu tâm hơn về sự vâng phục, có thánh lại say mê việc truyền giáo. Và tất cả các ngài là những người đã sống những nhân đức anh hùng, đến nỗi các ngài trở thành những đóa hoa đẹp tô điểm cho vườn hoa Giáo Hội.

Nhìn lại cuộc đời của thánh Carôlô chúng ta thấy nổi bật lên một vài đức tính đặc biệt. Đó là lòng nhiệt thành và một ước vọng muốn luôn thăng tiến.

Chính lòng nhiệt thành và ước muốn luôn thăng tiến này đã khiên ngài không quản ngại những hy sinh vất vả để phục vụ Giáo Hội và đoàn chiên Chúa trao cho ngài dẫn dắt.

Làm sao người ta có thể quên được những đóng góp của ngài và sự thành công của công đồng Triđentinô và những thành quả sau 18 năm trời phục vụ Giáo phận Milan, một Giáo phận có tầm cỡ, có lẽ chỉ kém Giáo phận Roma mà thôi.

Lịch sử còn ghi lại việc ngài cải tổ canh tân đời sống linh mục và tu sĩ theo sự chỉ dẫn của Công đồng Triđentinô. Làm sao mà ngài có thể thản nhiên trước việc một số tu sĩ và linh mục không còn giữ được phẩm chất của đời sống dâng hiến. Chính vì thế mà ngài đã ra công bỏ sức ra để hướng dẫn, giúp đỡ giúp các linh mục tu sĩ tìm lại được đời sống đạo đức của mình.

Chúng ta hãy nghe một đoạn bài giảng trong kỳ họp hội đồng lần cuối cùng:

"Bạn có nhiệm vụ rao giảng và dạy dỗ ư? Hãy học hỏi và nghiên cứu những gì cần biết khả dĩ giúp bạn chu toàn nhiệm vụ ấy một cách tốt đẹp; chính bạn hãy thực hành trước đi, như thế là bạn giảng bằng đời sống và đức hạnh đó. Nếu không, những kẻ thấy bạn nói một đàng làm một nẻo, sẽ phải lắc đầu, to nhỏ với nhau về lời bạn nói.

Bạn coi sóc các linh hồn ư? Thì đừng vì thế mà bỏ bê chính mình, cũng đừng phung phí tất cả cho người khác đến độ không giữ gì cho bạn cả. Vì phải nhớ rằng bạn coi sóc các linh hồn, nhưng không được quên bản thân mình.

Thưa anh em, anh em phải biết rằng: không có gì cần thiết đối với mọi người trong hàng giáo sĩ cho bằng tâm nguyện; đó là một việc phải đi trước, đi cùng và theo sau mọi hoạt động của chúng ta, như tác giả thánh vịnh nói: Con đàn hát và nguyện chủ tâm.

Này bạn, nếu bạn cử hành bí tích, thì hãy suy gẫm về việc bạn làm; nếu dâng thánh lễ, hãy suy gẫm về của lễ bạn dâng; nếu đọc thần vụ trong cung nguyện, hãy nghĩ xem bạn nói với ai và nói gì; nếu bạn coi sóc các linh hồn, hãy nghĩ xem họ đã được tẩy rửa bằng máu nào; như thế, hãy làm mọi sự vì đức ái; nhờ vậy, chúng ta sẽ có thể dễ dàng lướt thắng vô vàn khó khăn chắc chắn sẽ gặp phải trong đời sống hằng ngày (vì địa vị của chúng ta là như thế) ; nhờ vậy, chúng ta sẽ có sức sinh Đức Kitô nơi bản thân mình cũng như nơi kẻ khác."

Lịch sử cũng còn ghi lại những đóng góp của ngài trước biến cố đau thương  xảy đến cho con cái ngài. Làm sao người ta có thể quên được đại họa dịch tả và nạn đói kém xảy ra tại Milan vào hai năm 1576 và 1577. Thị trấn Locarnô, một thắng cảnh du lịch ở ngay dưới đãy núi Alpe, với dân số 4.800 chỉ còn lại 700  người. Trước cảnh đau thương ấy, Đức Tổng Giám mục đã không từ bỏ một sự giúp đỡ nào mỗi khi có thể. Ngài đã bán tất cả đồ đạc trong nhà để lấy tiền cứu trợ. Ngài đã quên ăn quên ngủ để lo thăm viếng và giúp đỡ các bệnh nhân dọn mình chết. Chính vì sự tận tụy hy sinh ấy cùng với nỗi vất vả của việc mục vụ và tông đồ trong gần hai mươi năm trời, khiến ngài kiệt sức rồi ngã bệnh nặng. Và chiều ngày thứ bảy, mùng 3 tháng 11 năm 1584 ngài đã ra đi thanh thản và bình an ở tuổi 47 tuổi tại Milan.

Với những công nghiệp lớn lao và những nhân đức hết sức anh hùng của một Hòng Y Giám mục, Chúa đã thưởng công cho ngài. Ðức Thánh Cha Phaolô V đã nâng Ngài lên bậc hiển thánh vào năm 1610.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp

 

Bài đọc 2

Bạn đừng nói một đàng làm một nẻo

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 4/11)

Trích bài giảng của thánh Ca-rô-lô Bo-rô-mê-ô trong kỳ họp hội đồng lần cuối cùng.

Tôi nhìn nhận rằng hết thảy chúng ta đều là những con người yếu đuối, nhưng Thiên Chúa là Chúa chúng ta đã ban cho chúng ta những phương tiện giúp chúng ta dễ dàng hành động, nếu chúng ta muốn. Linh mục nọ muốn có một đời sống tinh tuyền theo lương tâm đòi hỏi, muốn sống tiết độ và có phong cách của bậc thiên thần : đó là điều hợp lý ; nhưng vị ấy lại không quyết tâm dùng những phương tiện cần thiết là : ăn chay, cầu nguyện, tránh tiếp xúc với những người xấu, tránh những cuộc giao du thân mật nguy hại.

Vị linh mục đó phàn nàn rằng mỗi khi vào nhà nguyện để đọc thần vụ hay đi dâng thánh lễ, thì tức khắc cả trăm ngàn chuyện nảy ra trong tâm trí, làm cho mình lo ra, không thể hướng lòng về Thiên Chúa. Nhưng thử hỏi : trước khi vào nhà nguyện hoặc đi dâng thánh lễ, vị đó đã làm gì trong phòng thánh, đã chuẩn bị tâm hồn như thế nào, đã sử dụng những phương thế nào để hồi tâm ?

Có phải bạn muốn tôi dạy bạn làm sao để tiến tới trên đường nhân đức, và nếu trong nhà nguyện, bạn đã cầm trí được rồi thì làm thế nào lần sau bạn cầm trí hơn nữa, và lời cầu nguyện của bạn cũng đẹp lòng Thiên Chúa hơn ? Hãy nghe tôi đây. Nếu bạn đã có được một chút lửa tình yêu bốc cháy trong lòng, thì đừng vội trưng ra, đừng phơi ra trước gió. Hãy giữ lò lửa cho kín, kẻo nó nguội đi và mất sức nóng ; hãy loại bỏ những sự chia trí, hãy hồi tâm kết hợp với Thiên Chúa và tránh những cuộc chuyện trò vô ích.

Bạn có nhiệm vụ rao giảng và dạy dỗ ư ? Hãy học hỏi và nghiên cứu những gì cần biết khả dĩ giúp bạn chu toàn nhiệm vụ ấy một cách tốt đẹp ; chính bạn hãy thực hành trước đi, như thế là bạn giảng bằng đời sống và đức hạnh đó. Nếu không, những kẻ thấy bạn nói một đàng làm một nẻo, sẽ phải lắc đầu, to nhỏ với nhau về lời bạn nói.

Bạn coi sóc các linh hồn ư ? Thì đừng vì thế mà bỏ bê chính mình, cũng đừng phung phí tất cả cho người khác đến độ không giữ gì cho bạn cả. Vì phải nhớ rằng bạn coi sóc các linh hồn, nhưng không được quên bản thân mình.

Thưa anh em, anh em phải biết rằng : không có gì cần thiết đối với mọi người trong hàng giáo sĩ cho bằng tâm nguyện ; đó là một việc phải đi trước, đi cùng và theo sau mọi hoạt động của chúng ta, như tác giả thánh vịnh nói : Con đàn hát và nguyện chủ tâm. Này bạn, nếu bạn cử hành bí tích, thì hãy suy gẫm về việc bạn làm ; nếu dâng thánh lễ, hãy suy gẫm về của lễ bạn dâng ; nếu đọc thần vụ trong cung nguyện, hãy nghĩ xem bạn nói với ai và nói gì ; nếu bạn coi sóc các linh hồn, hãy nghĩ xem họ đã được tẩy rửa bằng máu nào ; như thế, hãy làm mọi sự vì đức ái ; nhờ vậy, chúng ta sẽ có thể dễ dàng lướt thắng vô vàn khó khăn chắc chắn sẽ gặp phải trong đời sống hằng ngày (vì địa vị của chúng ta là như thế) ; nhờ vậy, chúng ta sẽ có sức sinh Đức Ki-tô nơi bản thân mình cũng như nơi kẻ khác.

Lạy Chúa, xin hằng ban ơn Thánh Thần cho Giáo Hội, như xưa Chúa đã ban cho thánh giám mục Ca-rô-lô, để Giáo Hội biết không ngừng canh tân theo đường lối Tin Mừng, nhờ đó, thế giới sẽ tìm thấy hình ảnh trung thực của Đức Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

 

 

Thứ Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 3, 3-8

"Những điều xưa kia được kể là lợi ích cho tôi, thì nay tôi coi là bất lợi vì Ðức Kitô".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, chính chúng ta là những người chịu cắt bì, chúng ta phụng thờ Thiên Chúa theo thần trí, và khoe mình trong Ðức Giêsu Kitô, chứ không tin tưởng vào xác thịt, mặc dầu chính tôi cũng có thể ỷ lại vào xác thịt. Nếu có ai khác nghĩ mình có lý để ỷ lại vào xác thịt, thì tôi còn có lý hơn: tôi đã chịu cắt bì từ ngày thứ tám, là người chủng tộc Israel, thuộc chi họ Bengiamin, là người Do-thái sinh bởi người Do-thái, là người biệt phái chiếu theo lề luật. Bởi lòng đạo đức nhiệt thành, tôi đã bách hại Hội Thánh Thiên Chúa, chiếu theo đức công chính do lề luật công bố, tôi được coi là người không có gì đáng trách.

Nhưng những điều xưa kia được kể là ích lợi cho tôi, thì nay vì Ðức Kitô tôi coi là bất lợi. Vả lại tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Ðức Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui (c. 3b).

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.

2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Cr 5, 19

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian, để chúng ta nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 15, 1-10

"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.

"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất". Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".

Ðó là lời Chúa.





Suy Nguyện Lời Chúa

Nơi Thiên Chúa chỉ có Niềm Vui Thương Xót


Thứ Năm Tuần XXXI Thường Niên hôm nay Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca bắt đầu 10 câu đầu của đoạn 15, một đoạn từ đầu đến cuối hoàn toàn về Lòng Thương Xót Chúa, bao gồm 3 dụ ngôn, 2 ngắn đầu và 1 dài cuối.

Sở dĩ Chúa Giêsu phải nói đến 3 dụ ngôn về Lòng Thương Xót Chúa ấy, là vì, như đầu Bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: 'Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng'".  


Để đáp lại thái độ có vẻ kỳ thị và khinh người của nhóm biệt phái tự cho mình là công chính bấy giờ, Chúa Giêsu đã cho họ biết đâu là tinh thần họ phải có đối với tội nhân, đối với thành phần bị họ cho là "những kẻ tội lỗi", bằng 3 dụ ngôn về Lòng Thương Xót Chúa liền. Và Hai dụ ngôn ngắn về Lòng Thương Xót Chúa trong Bài Phúc Âm hôm nay ấy như sau:

"Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: 'Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!' Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải".

"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'. Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".

Hai dụ ngôn trên đây, một dụ ngôn về con chiên lạc, đúng hơn về việc tìm kiếm con chiên lạc, và dụ ngôn về đồng bạc bị thất lạc, đúng hơn về việc tìm kiếm đồng bạc bị thất lạcđều cho thấy Lòng Thương Xót Chúa yêu thương và lưu ý đền từng người, yêu thương cho tới cùng, hoàn toàn không bỏ mất một ai, không bỏ mất một sự gì, dù nhỏ mọn mấy chăng nữa. 

Hơn thế nữa, cả hai dụ ngôn này thậm chí còn cho thấy thái độ của các vị chủ nhân sau khi tìm thấy con chiên lạc hay đồng bạc bị mất nữa, ở chỗ các vị chẳng những không trút cơn giận dữ xuống trên đầu trên cổ con chiên lạc hay đồng bạc bị mất là những gì làm cho các vị chủ nhân của chúng đã mất giờ tìm kiếm và hết sức vất vả kiếm tìm, trái lại, cả hai còn tỏ ra hết sức hân hoan vui sướng nữa

"Khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: 'Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!'... khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'".

Nếu "trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải", thì dụ ngôn về nhân vật tìm kiếm con chiên lạc đây ám chỉ chính Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10) bằng mầu nhiệm nhập thể và vượt qua của Người. 

Và con chiên lạc và đồng bạc thất lạc đây ám chỉ chẳng những chung loài người sa ngã phạm tội (99 con chiên không lạc được bỏ lại một nơi để đi tìm con chiên lạc có thể hiểu là ám chỉ các thiên thần vì liên quan đến hình ảnh "trên trời sẽ vui mừng... " sau khi con chiên lạc được tìm thấy, hay "các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng..." sau khi kiếm được đồng bạc thất lạc)mà còn ám chỉ đến từng cá nhân ("một người tội lỗi hối cải" được lập lại 2 lần như nhau ở cuối 2 dụ ngônvướng mắc nguyên tội luôn chiều theo xác thịt, thế gian và ma quỉ. 

Nếu Chúa Kitô là hiện thân đích thực và sống động của Lòng Thương Xót Chúa và cho Lòng Thương Xót Chúa nhập thể giáng sinh và khổ giá phục sinh là để mang ơn cứu độ và sự sống thần linh cho chung nhân loại cũng như cho riêng từ người, thì ai đã được Người cứu độ nhờ Phép Rửa đều phải quan tâm đến phần rỗi của nhau, phải sống chết cho phần rỗi của nhau, như Chúa Kitô đã đối xử với họ, bằng không, chính phần rỗi của riêng mình cũng chưa chắc được bảo đảm, vì chúng ta đã tỏ ra coi thường ơn cứu độ vô giá nơi anh chị em mình. 

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô đã tâm sự với Kitô hữu Giáo đoàn Philiphê về bản thân ngài trước kia chỉ là một con chiên lạc, và là một đồng bạc bị thất lạc, ở chỗ: "tôi đã chịu cắt bì từ ngày thứ tám, là người chủng tộc Israel, thuộc chi họ Bengiamin, là người Do-thái sinh bởi người Do-thái, là người biệt phái chiếu theo lề luật. Bởi lòng đạo đức nhiệt thành, tôi đã bách hại Hội Thánh Thiên Chúa, chiếu theo đức công chính do lề luật công bố, tôi được coi là người không có gì đáng trách". Nhưng lại là những gì đã được LTXC tìm kiếm và đã mang về với Người: "Những điều xưa kia được kể là ích lợi cho tôi, thì nay vì Ðức Kitô tôi coi là bất lợi. Vả lại tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Ðức Kitô".

 

Và chỉ có tâm hồn nào cảm nghiệm được LTXC đối với bản thân yếu hèn bất xứng và cuộc đời lầm lạc lỗi lầm của mình mới mới là "những ai tìm Chúa, hãy mừng vui", như câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay, và mới có được tâm tình của Thánh Vịnh 104 trong bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa.

2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.


Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 3, 17 - 4, 1

"Chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.

Anh em thân mến, anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi. Bởi chưng như tôi đã thường nói với anh em, và bây giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Ðức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này. Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người.

Bởi thế, anh em thân mến và quý yêu, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi. Anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5

Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa"(c. 1).

Xướng: 1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. - Ðáp.

2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên. - Ðáp.

3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavit. - Ðáp.

 

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 16, 1-8

"Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

 

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: "Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa". Người quản lý thầm nghĩ rằng: "Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ".

"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: "Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi". Rồi anh hỏi người khác rằng: "Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa miến". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi".

"Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".

Ðó là lời Chúa.





Suy Nguyện Lời Chúa

                                                                    Khôn sống mống chết trong đời sống thiêng liêng

 

Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXXI Thường Niên, Bài Phúc Âm không tiếp ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua là bài Phúc Âm về việc tìm kiếm con chiên lạc và đồng bạc bị thất lạc. 

Sau 2 dụ ngôn này là dụ ngôn về người cha nhân lành thương 2 người con đáng thương của mình tùy theo hoàn cảnh của mỗi đứa, nhưng lại không được Giáo Hội chọn đọc, mà lại chọn đọc Bài Phúc Âm ở đầu Đoạn 16 về người quản lý bất lương bị chủ báo cho nghỉ việc nên đang mưu toan tìm cách sống còn. 

 

Người quản lý bất lương bị chủ báo cho nghỉ việc: "Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa'". 

Người quản lý bất lương đang mưu toan tìm cách sống còn: "Người quản lý thầm nghĩ rằng: 'Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ'. Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: 'Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm thùng dầu'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi'. Rồi anh hỏi người khác rằng: 'Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm giạ lúa miến'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi'".

Mục đích của dụ ngôn này là gì, hay Chúa Giêsu muốn nói đến dụ ngôn này để làm gì, nếu không phải Người muốn khuyên "các môn đệ" là đối tượng được Người nói với trong bài Phúc Âm hôm nay, như câu Người kết luận cũng trong cùng Bài Phúc Âm rằng các vị là "con cái ánh sáng" thì ngây thơ khù khờ, cần phải "hành động cách khôn khéo... khi đối xử với đồng loại" như "con cái đời này" vậy! 


"Người quản lý bất lương" này "khôn khéo" ở chỗ nào, nếu không phải ở chỗ anh ta chẳng những đánh lừa được chủ nợi mà cả con nợ của chủ nợ nữa. Bằng cách, anh ta đã biến các con nợ của chủ thành con nợ của mình, khi tự động giảm nợ cho các con nợ số nợ của họ với chủ nợ. 

Có thể các con nợ cũng biết rằng người quản lý này gian lận ở việc anh ta giảm nợ cho họ, nhưng dầu sao cũng vẫn có lợi cho họ thì họ vẫn cứ hướng chứ dại gì mà vạch trần việc làm gian lận của anh ta làm chi với chủ của anh ta, hoàn toàn không hề biết gì đến tình trạng sắp bị thất nghiệp của anh ta, một con người quen làm nghề quản lý, chứ không quen làm việc tay chân mệt nhọc phần xác hay chẳng làm gì mà vẫn có tiền như ngồi ăn xin xấu hổ mất mặt.  

Thế nhưng, cho tới khi anh ta bị thất nghiệp, đi lang thang kiếm sống, ghé vào các nhà con nợ đã được anh ta giảm nợ cho để xin giúp đỡ, thì chẳng lẽ những người ấy lại phũ phàng từ chối xua đuổi anh ta hay sao? Bấy giờ cho dù họ mới biết bị anh ta lừa đảo song đã muộn và không thể không giúp anh ta cách nào đó, không nhiều thì ít, không trước thì sau, miễn là đừng hoài hoài mãi mãi.  

Chắc chủ nợ của anh ta có nhiều con nợ đã được anh ta lạm dụng ban ơn giảm nợ cho, nên anh ta cứ tháng này đến nhà người này, tháng sau đến nhà người khác gõ cửa, và anh ta ăn xin một cách ngon lành, không xấu hổ, vì anh ta là ân nhân của các con nợ từ người chủ đã sa thải anh ta. Thật là "khôn khéo", đúng như người chủ nhận xét về anh ta ở cuối bài Phúc Âm hôm nay.     

Như thế phải chăng Chúa Giêsu đã chấp nhận cái khôn lanh trần gian có vẻ gian dối lừa đảo của người quản lý bất lương trong dụ ngôn là tốt, đáng các môn đệ của Người noi gương bắt chước. Vì Chúa Kitô "là sự thật" (Gioan 14:6) nên Người không thể nào hợp với những gì là gian dối lừa đảo, và vì Người "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) nên Người không chấp nhận bóng tối. 

Bởi vậy, Người không khuyên các môn đệ bắt chước đường lối gian manh của người quản lý bất lương, mà chỉ khuyên các vị hãy bắt chước ước muốn lành mạnh của nhân vật này để khôn khéo làm sao có thể sống sót qua cơn gian nan khốn khó mà thôi: "phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ". 

Thật ra, theo luân lý Công giáo (xem Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo các khoản 1755-1756), một việc tốt cần phải hội đủ ba điều kiện bất khả thiếu, đó là, thứ nhất việc làm tự bản chất là tốt, thứ hai là phải có ý hướng tốt khi làm việc ấy, và thứ ba là làm việc ấy một cách thích đáng. 

Chẳng hạn, đi làm việc tông đồ tự nó là việc làm tốt, với ý hướng chính yếu là để giúp cho giáo xứ hay cộng đoàn dân Chúa của mình thêm sinh động và thăng tiến, thế nhưng, nếu làm việc tông đồ này đến độ bỏ bê trách nhiệm trong gia đình thì việc tông đồ ấy không tốt nữa. 

Hay làm việc tông đồ này khi nào có thể nhưng với ý hướng lợi dụng việc tông đồ để quen biết mà trục lợi trong vấn đề làm ăn tư riêng cũng không tốt. Nếu chính việc làm tự bản chất là xấu, chẳng hạn việc trộm cắp, cho dù để giúp người nghèo thì việc trộm cắp cũng không thể trở thành việc tốt v.v. 

Con người dù có ý tốt đến đâu cũng không thể nào biến một việc tự bản chất là xấu thành lành. Chẳng hạn nguyên tổ Eva dù có ý muốn chính đáng và tốt lành là nên giống như Thiên Chúa, vì con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và xu hướng về lý tưởng nên giống như Ngài, thế nhưng cách thức để đạt tới đích điểm ấy, đạt được ý hướng ấy lại không tốt, ở chỗ bất tuân ý Chúa bằng cách nghe theo rắn quỉ ăn trái cấm không được phép, thì việc làm của bà bấy giờ là xấu, tội lỗi.

Việc làm cho người quản lý bất lương trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay, cho dù có ý hướng tốt là làm sao có thể sống còn, nhưng cách làm của nhân vật này lại có tính cách dối trá, gian lận của chủ (và cũng chính vì máu "phung phí" như thế mà hắn đã bị sa thải), nên việc làm của hắn trở thành xấu xa. Giá hắn đến xin chủ thương tình để hắn sửa mình và đền bù những gì hắn đã phung phí cho chủ, hoặc xin chủ cho làm việc khác nhẹ nhàng mà không dính dáng gì đến tiền bạc có phải hơn không.  

 

Áp dụng thực tế vào đời sống đức tin bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể hiểu như thế này:

 

1- tất cả những gì con người có đều là của Chúa và từ Chúa là chủ nhân ông của tất cả những sự chúng ta có, dù là sự sống, linh hồn và thân xác, dù là tài năng hay của cải vật chất;

 

2- chúng ta chỉ đóng vai trò quản lý của Chúa là chủ nhân ông tất cả những gì Chúa ban cho chúng ta chứ không phải là chính chủ nhân ông có quyền định đoạt hay muốn sử dụng chúng tùy ý muốn của chúng ta;

 

3- một khi chúng ta lạm dụng những gì Chúa ban cho chúng ta theo ý của chúng ta hơn là đem phục vụ tha nhân theo ý muốn của Thiên Chúa là chúng ta phung phí những gì Chúa ban cho chúng ta như người quản lý trong bài dụ ngôn hôm nay;

 

4- để cảnh tỉnh việc làm sai trái của chúng ta trong vai trò chỉ làm quản lý của chúng ta, Chúa có thể cảnh giác chúng ta bằng một tai họa gì đó, như bị lường gạt thiệt hại về của cải, như chủ đòi viên quản lý tính số trước khi cho nghỉ việc, bởi hắn lạm dụng không đáng làm việc của ông nữa;

 

5- bấy giờ chúng ta có thể nhờ đó mà nhận thức lỗi lầm sai trái lạm quyền của mình trên những gì Chúa ban cho mình để tỏ lòng ăn năn hoán cải bằng cách tha thứ cho những ai đã lường gạt chúng ta, như thể chúng ta tha bớt nợ nần cho họ về tội gian dối họ phạm đến Chúa nơi chúng ta;

 

6- và cũng nhờ chính thái độ thứ tha này, ở chỗ tha phần nợ của phạm nhân gây ra cho chúng ta trong số nợ họ mắc với chủ nơi hành động gian dối lường gạt của họ, mà chúng ta được Chúa thương khi ra trước tòa phán xét của Chúa, ở chỗ chúng ta biết tha cho nhau thì cũng sẽ được tha.

 

Về người quản lý bất lương trong Bài Phúc Âm hôm nay, đối với Thánh Phaolô ở Bài Đọc 1 hôm nay, sở dĩ nhân vật quản lý này "bất lương" bởi "bị tố cáo đã phung phí của chủ", là vì, như ngài đã nhắc nhở và cảnh giác Kitô hữu Giáo đoàn Philiphê, "chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này".

 

Tuy nhiên, khi bị chủ nhân cảnh báo đuổi việc thì đã khôn lanh nghĩ đến tương lai sống còn của mình, một tương lai an toàn bảo đảm, một thứ khôn lanh được Chúa Giêsu khen, như Thánh Phaolô tiếp tục huấn dụ giáo đoàn Philiphê trong Bài Đóc 1 như sau: "Quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người".

 

Đúng thế, chỉ có một nơi an toàn nhất cho tương lai của loài người nói chung và của những ai kính sợ Thiên Chúa và tin vào Ngài nói riêng, đó là "nhà Chúa", là "Giêrusalem", đích điểm của đời sống tạm bợ, ngắn ngủi và phù vân của con người trên trần gian này, nơi "được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên" (Đáp Ca hôm nay câu xướng 2). Bởi thế mới là nơi đáng cho ai khao khát thần linh: "Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi" (Đáp Ca hôm nay câu xướng 1).


 


Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 4, 10-19

"Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, tôi rất vui mừng trong Chúa vì sự săn sóc của anh em đối với tôi đã sinh hoa kết quả: anh em đã nghĩ tới vấn đề đó từ lâu rồi nhưng anh em không có dịp tỏ bày ra. Tôi nói thế không phải vì sự túng thiếu của tôi, vì chưng tôi đã học tập để tự túc trong mọi hoàn cảnh. Tôi biết chịu thiếu thốn và biết hưởng sung túc. Trong mọi trường hợp và hết mọi cách, tôi đã học cho biết no, biết đói, biết dư dật và thiếu thốn. Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi.

Nhưng anh em đã hành động chí lý khi san sẻ mọi quẫn bách của tôi. Này anh em, người thành Philipphê, anh em cũng đã thừa biết là ngay lúc bắt đầu rao giảng Tin Mừng, khi tôi rời bỏ Macêđônia, không một giáo đoàn nào đã đóng góp vào sổ chi tiêu của tôi, trừ một mình anh em mà thôi: vì một đôi lần, anh em đã gửi đồ về thành Thêxalônica cho tôi dùng. Không phải tôi cầu ơn cầu nghĩa gì, nhưng tôi cầu cho vốn liếng anh em được sinh hoa kết quả dồi dào. Hiện tôi có đủ mọi sự và có dư thừa: tôi đã được đầy đủ sau khi nhận lãnh những tặng vật anh em nhờ Êpaphrôđitô gửi đến, là hương thơm ngạt ngào, là lễ vật được Thiên Chúa vui lòng chấp nhận.

Xin Thiên Chúa cung cấp dư dật những nhu cầu của anh em, theo sự phú túc vinh quang của Người, trong Ðức Giêsu Kitô. Vinh danh Thiên Chúa là Cha chúng ta muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 111, 1-2. 5-6. 8a và 9

Ðáp: Phúc đức thay người tôn sợ Chúa (c. 1a).

Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.

2) Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời. - Ðáp.

3) Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi. Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.

 

Alleluia: Ep 1, 17-18

 

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 16, 9-15

 

"Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao của chân thật cho các con".

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

 

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời. Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con.

 

"Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được". Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người. Vậy Người bảo các ông rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa".

 

Ðó là lời Chúa.




Suy Nguyện Lời Chúa

Không thể bắt cá hai tay

 

Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXXI Thường Niên, Bài Phúc Âm theo Thánh ký Luca được Giáo Hội chọn đọc tiếp tục với Bài Phúc Âm hôm qua, liên quan đến người quản lý bất lương bị chủ sa thải nên đã tìm cách để tồn tại trong tình trạng thất nghiệp khốn khổ ấy, và cách thức người quản lý bất lương này làm liên quan đến tiền bạc gian lận của chủ.

Đó là lý do, trong Bài Phúc Âm hôm nay, tiếp tục huấn dụ "các môn đệ", Chúa Giêsu đã nói với các vị về tiền bạc.

Trước hết, đối với tha nhân, Người bảo các vị hãy lợi dụng tiền bạc mà làm việc bác ái, hay nói đúng hơn, đừng coi của hơn người mà ngược lại phải coi người hơn của: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời". 

 

Nếu chúng ta coi người hơn của, thì theo lời Chúa dạy, có nghĩa là chúng ta đã "trung tín trong việc nhỏ (là sử dụng chính đáng tiền bạc nhỏ mọn chẳng là gì so với đức ái cao cả)thì cũng trung tín trong việc lớn (tức mới có thể sống bác ái là những gì trọng đại được)". Ngược lại, nếu chúng ta coi của hơn người, tức là "gian dối trong việc nhỏ (ở chỗ sử dụng tiền của một cách bất chính) thì cũng gian dối trong việc lớn (ở chỗ sống vị kỷ chẳng biết sống bác ái yêu thương gì hết)". 

Đến đây chúng ta mới thấy dụ ngôn hôm qua về người quản lý bất lương gian lận tiền bạc bị sa thải vì "phung phí" của chủ có thể sẽ trở thành trường hợp của chính các môn đệ là những người theo Chúa Kitô, qua lời Ngưòi khẳng định với các vị trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật (có thể Chúa ám chỉ các linh hồn được các vị coi sóc hay ơn cứu độ cần các vị ban phát) cho các con".

Sau nữa, đối với Thiên Chúa, Người bảo các vị đừng lệ thuộc vào tiền của mà hãy chỉ phụng sự Thiên Chúa mà thôi, tức hãy coi Thiên Chúa hơn tiền của: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ". Đó là lý do, Chúa Giêsu đã cảnh giác các môn đệ là thành phần theo Người rằng: "Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được". 

Đúng thế, theo tâm lý chung cũng như theo kinh nghiệm sống đạo thực tế, một khi con người ham thích tiền bạc, mê man của cải trần gian, lúc nào cũng tìm cách và tính toán sao cho có tiền, có nhiều bao nhiêu tốt bấy nhiêu, rồi xài sang, sống hết sức tiện nghi đến xa xỉ, thiếu thốn một chút gì thì không chịu được, thì kêu ca nhăn nhó v.v., họ sẽ dễ dàng quên Chúa và bỏ Chúa, thậm chí có những lúc lạm dụng chính đức bác ái để làm tiền, và cũng chỉ vì tiền, vì lợi lộc đâm ra lỗi đức bác ái yêu thương cao cả, mất lòng Chúa. Chẳng hạn, phũ phàng thay và mâu thuẫn thay, họ tranh nhau gây quĩ bác ái cứu trợ v.v. 

 

"Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời" nghĩa là gì, nếu không phải nếu "tiền bạc gian dối" ở đây chẳng những theo nghĩa đen, có nghĩa là tiền bạc chúng ta kiếm chác một cách bất chính, mà theo nghĩa bóng, còn có nghĩa là Kitô hữu chúng ta lạm dụng tiền bạc của cải, hay tất cả những gì Chúa ban cho chúng ta, như là một quản lý viên để hưởng thụ hơn là phục vụ và chia sẻ với tha nhân, như trường hợp của tên quản lý trong bài Phúc Âm hôm qua, thì hãy sử dụng chúng mà "mua lấy bạn hữu", nghĩa là nếu bị ai làm thiệt hại đến những gì "của" chúng ta, do chúng ta đã sử dụng bất chính trái với ý Chúa là chủ ban cho chúng ta, thì hãy tha thứ cho họ, để nhờ đó, chúng ta cũng được thứ tha trước vị chủ mà chúng ta đã lạm dụng vai trò quản lý của mình phung phí những gì Ngài ban cho chúng ta, đến độ, Ngài phải gián tiếp cảnh giác chúng ta bằng một phạm nhân nào đó, thành phần phạm nhân này, do đó, lại trở thành ân nhân của chúng ta, "bạn hữu" của chúng ta, giúp chúng ta được "vào chốn an nghỉ đời đời".

Giáo huấn trong Bài Phúc Âm hôm nay của Chúa Giêsu đề cao tinh thần hơn vật chất, đề cao Thiên Chúa và tha nhân cao cả hơn tiền bạc thường hèn, một huấn dụ Người chỉ khuyên dạy riêng cho riêng các môn đệ của Người, nhưng không ngờ đã trở thành như một cái tát vào mặt thành phần tham lam của cải trần gian, cũng hiện diện và nghe thấy giáo huấn này của Người bấy giờ, và vì thế, cuối Bài Phúc Âm hôm nay còn có thêm chi tiết: "Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người". Một thái độ "nhạo cười" như thể họ cho giáo huấn của Người là những gì không tưởng, chẳng thực tế, không bao giờ thực hiện được, chẳng ai theo nổi.

Thế nhưng, đáp lại, Chúa Giêsu đã thẳng thắn vạch trần bộ mặt giả dối và lối sống giả hình của thành phần "biệt phái", có vẻ thông luật và giữ luật hơn người, như là các thày dạy luật này rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta (chẳng hạn như tiền của hay danh giá hoặc chức quyền được người ta sùng bái như ngẫu tượng trên hết của họ), thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa".

 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu huấn dụ các môn đệ của Người 2 điều: một liên quan đến tha nhân, đó là "hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu", và một liên quan đến Thiên Chúa, đó là: "không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ". Tuy nhiên, hai điều này là những gì bất khả phân ly, ở chỗ, chỉ khi nào con người biết "làm tôi" một mình Thiên Chúa, thì họ mới biết "dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu", bởi bấy giờ "tiền của" đối với họ chỉ là phương tiện, là đầy tớ, hơn là cùng đích, là chủ nhân ông của họ.

 

Việc hỗ trợ Thánh Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay đã cho thấy họ chỉ làm tôi Thiên Chúa mà thôi, nên họ mới sốt sắng chia sẻ "tiền của" họ có với Thánh Phaolô, ở chỗ "san sẻ mọi quẫn bách của tôi", và kết quả họ gặt hái được đó là: "sự săn sóc của anh em đối với tôi đã sinh hoa kết quả", "đó là hương thơm ngạt ngào, là lễ vật được Thiên Chúa vui lòng chấp nhận". Về phần Thánh Phaolô, vì ngài cũng chỉ làm tôi cho một mình Thiên Chúa, nên cũng chẳng lệ thuộc vào tiền của từ họ cung ứng cho ngài, nhất là khi "túng thiếu", đến độ: "Tôi biết chịu thiếu thốn và biết hưởng sung túc. Trong mọi trường hợp và hết mọi cách, tôi đã học cho biết no, biết đói, biết dư dật và thiếu thốn. Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi".

 

Những con người chỉ biết làm tôi một chủ duy nhất là Thiên Chúa, chứ không làm tôi cho tiền của, hay vừa làm tôi cho Thiên Chúa vừa làm tôi cho cả tiền của, nghĩa là coi Thiên Chúa ngang hàng với tiền của, chỉ gắn bó với Ngài khi bất hạnh, và bỏ Ngài khi sung túc v.v., nhờ đó, nhờ biết đặt để giá trị tiền bạc như phương tiện đạt đến cùng đích của mình là Thiên Chúa, mà họ cũng biết lợi dụng tiền của vật chất để mua chuộc bạn bè, bằng đức bác ái yêu thương phục vụ và tha thứ, thì họ chính là những con "người biết tôn sợ Chúa", như được Thánh Vịnh 111 trong Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:

1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.

2) Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời.

3) Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi. Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang.