SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XX Thường Niên Năm B và Lẻ

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cn 9, 1-6

"Các ngươi hãy ăn bánh của ta, và hãy uống rượu ta đã pha cho các ngươi".

Trích sách Châm Ngôn.

Sự khôn ngoan đã xây nhà mình và dựng bảy cột trụ, đã giết các sinh vật, pha rượu, dọn bàn tiệc, và sai những nữ tỳ lên các nơi cao trong thành mà công bố rằng: "Ai ngây thơ, hãy đến cùng ta". Và bảo những kẻ mê muội rằng: "Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi. Các ngươi hãy bỏ sự ngây dại đi, thì sẽ được sống, và hãy bước theo đường lối khôn ngoan".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 10-11. 12-13. 14-15

Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Các thánh nhân của Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi; bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. - Ðáp.

3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. - Ðáp.

4) Hãy giữ lưỡi đừng nói ra điều ác, và ngậm môi cho khỏi thốt ra lời gian ngoa. Hãy lo tránh ác và hành thiện, hãy tìm kiếm và theo đuổi bình an. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Ep 5, 15-20

"Anh em hãy ăn ở khôn ngoan theo thánh ý Chúa".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, anh em hãy xét coi phải ăn ở thế nào cho thận trọng, đừng như những kẻ dại dột, song như những người khôn ngoan: biết lợi dụng thời giờ, vì thời buổi này đen tối. Vì thế anh em chớ ăn ở bất cẩn, nhưng hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa. Anh em chớ say sưa rượu chè, vì rượu sinh ra dâm dục, nhưng hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần, cùng nhau hát lên những thánh vịnh, những ca vãn và những bài ca đạo đức và hết lòng ca tụng Chúa. Hãy luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa là Cha trong mọi nơi mọi sự, nhân danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 6, 51-59

"Thịt Ta thật là của ăn, và Máu Ta thật là của uống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".

Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"

Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha, là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".

Ðó là lời Chúa.

Image result for jn 6, 51-59

Suy Nghiệm Lời Chúa

Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh vẫn tiếp tục với Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XX Thường Niên Năm B hôm nay, qua đoạn 6 Phúc Âm của Thánh ký Gioan về Bánh Hằng Sống.


Thật vậy, nếu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, Chúa Giêsu đã khẳng định ở câu cuối cùng cũng là câu đầu của bài Phúc Âm hômn nay, rằng "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Tôi sẽ ban, chính là thịt Tôi cho thế gian được sống", thì trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu còn khẳng định hơn nữa về tác dụng của Bánh Hằng Sống này, như sau:


"Thật, Tôi bảo thật quí vị: Nếu quí vị không ăn thịt Con Người và uống máu Người, quí vị sẽ không có sự sống trong quí vị. Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì có sự sống đời đời, và TôiTôi sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống. Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì ở trong Tôi và Tôi ở trong kẻ ấy".


Trong bài suy niệm cho Chúa Nhật tuần trước, chúng ta đã suy diễn câu khẳng định của Chúa Kitô "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Tôi sẽ ban, chính là thịt Tôi cho thế gian được sống" như sau: 


1- "Bánh hằng sống từ trời xuống" đây trước hết và trên hết là chính bản thân Chúa Kitô; 2- "ai ăn bánh này sẽ sống đời đời" nghĩa là ai nhận biết và tin tưởng Chúa Kitô thì được sự sống đời đời (xem Gioan 17:3); 3- "bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sống" ám chỉ cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô và việc Người thiết lập Bí Tích Thánh Thể là hy tế hiện thực Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, một biến cố mang lại sự sống đời đời cho trần gian qua thừa tác vụ thánh của Giáo Hội. 


Nếu "bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sống", mà "bánh Tôi sẽ ban" đây ám chỉ cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, được hiện thực nơi Bí Tích Thánh Thể trong Phụng Vụ của Giáo Hội thì quả thực "thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống". Ở chỗ, "Này là mình Thày sẽ bị nộp vì các con" (Luca 22:19) và "Này là máu Thày sẽ đổ ra cho nhiều người(Mathêu 26:28; Marcô 14:24).


Đúng thế, Chúa Giêsu Kitô là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), như "Bánh hằng sống từ trời xuống" để "ai tin ("ăn") Người thì được sống đời đời" (xem Gioan 6:40 và 51 / Gioan 3:16), và "Lời đã hóa thành nhục thể" đây đã "ban sự sống" cho riêng các môn đệ cũng như qua trung gian Giáo Hội Nhiệm Thể Người cho chung thế gian, bằng cuộc Vượt Qua của Người, một biến cố nhờ đó các vị đã tin vào Người mà được sự sống đời đời (xem Gioan 17:19,3), một sự sống làm cho họ nên một với Chúa Kitô: "Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì ở trong Tôi và Tôi ở trong kẻ ấy".


Và chính vì được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô mà họ cũng được nên một với Cha để thế gian cũng được thông phần vào sự sống thần linh hiệp nhất nên một này: "Con sống trong họ, Cha sống trong Con - để mối hiệp nhất của họ được nên trọn. Nhờ đó thế gian sẽ nhận biết rằng Cha đã sai Con, và Cha yêu thương họ như Cha đã yêu thương Con" (Gioan 17:23).  


Tuy nhiên, Cuộc Vượt Qua ban sự sống đời đời của Chúa Kitô là một mầu nhiệm siêu việt, trí khôn tự nhiên của loài người không thể nào nắm bắt được, thấu hiểu nổi, như phản ứng trong bài Phúc Âm cho thấy: "Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: 'Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?'".


Đó là lý do, trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô mới khuyên Kitô hữu Thành Êphêsô về cả 2 phương diện tiêu cực và tích cực như sau: "Anh em chớ ăn ở bất cẩn, nhưng hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa. Anh em chớ say sưa rượu chè, vì rượu sinh ra dâm dục, nhưng hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần". Về tiêu cực: "chớ ăn ở bất cẩn" và "chớ say sưa rượu chè", về tích cực: "hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa" và "hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần". Có thế họ mới có thể "ở trong Tôi và Tôi ở trong (họ)".


Theo chiều hướng của Bài Đọc 2, về việc sống khôn ngoan hơn là khờ dại, ở chỗ tìm kiếm những thứ lương thực ăn uống làm cho mình được sống trường sinh bất tử, Sách Cách Ngôn trong Bài Đọc 1 hôm nay cũng kêu gọi "những kẻ mê muội rằng: 'Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi. Các ngươi hãy bỏ sự ngây dại đi, thì sẽ được sống, và hãy bước theo đường lối khôn ngoan'".


Chiều hướng sống khôn ngoan của Bài Đọc 1 và 2 để được sự sống chân thật còn phản ảnh nơi Bài Đáp Ca hôm nay, một Bài Đáp Ca chất chứa tâm tình chúc tụng ngợi khen Chúa (câu 1), cùng với lời kêu gọi tôn sợ Chúa (câu 2), nhờ đó mà được sống trường sinh phúc lộc (câu 3), và cũng nhờ đó mới có thể làm lành lánh dữ mà bình an vui sống (câu 4). 


1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. 

 

2) Các thánh nhân của Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi; bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. 


3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. 


4) Hãy giữ lưỡi đừng nói ra điều ác, và ngậm môi cho khỏi thốt ra lời gian ngoa. Hãy lo tránh ác và hành thiện, hãy tìm kiếm và theo đuổi bình an. 


  

 

 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 2, 11-19

"Chúa khiến các quan án đứng ra, nhưng chúng không muốn nghe các ông".

Trích sách Thủ Lãnh.

Trong những ngày ấy, con cái Israel làm điều gian ác trước mặt Chúa và phụng thờ các thần Baal. Chúng lìa bỏ Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ chúng, Ðấng đã dẫn chúng ra khỏi đất Ai-cập, mà theo các thần ngoại, những thần các dân tộc cư ngụ chung quanh chúng, và thờ lạy các thần ấy, khiêu khích cơn nghĩa nộ Chúa, chối bỏ Người, và phụng thờ thần Baal và Astaroth. Chúa thịnh nộ Israel, trao chúng vào tay bọn cướp. Bọn này bắt chúng mà bán cho quân thù ở chung quanh chúng, chúng không sao chống lại được địch thù của chúng. Dù chúng muốn đi nơi nào, tay Chúa vẫn đè trên chúng, như Người đã phán và đã thề với chúng, như thế chúng phải chịu khổ cực nặng nề.

Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột, nhưng chúng cũng chẳng muốn nghe theo các vị thủ lãnh. Chúng hướng lòng về các thần ngoại và thờ lạy các thần ấy. Chúng đã vội bỏ đường lối các tổ tiên chúng đã đi, dù chúng có nghe biết các điều răn của Chúa, nhưng chúng vẫn làm mọi điều trái nghịch. Khi Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra, Người tỏ lòng thương xót chúng, nghe lời những kẻ khốn cực kêu van, và giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột sát hại. Nhưng sau khi vị thủ lãnh chết, chúng lại đổi lòng, làm những điều xấu xa hơn cha ông chúng đã làm, theo các thần ngoại, phụng sự và thờ lạy các thần ấy. Chúng không từ bỏ những điều chúng bày đặt ra và đường lối quá ương ngạnh chúng quen đi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 34-35. 36-37. 39-40. 43ab và 44

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Chúa (c. 4a).

Xướng: 1) Họ không chịu tiêu diệt những dân mà Chúa đã có lệnh truyền cho họ. Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm. - Ðáp.

2) Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần. - Ðáp.

3) Bởi những việc đó, họ tự làm ô uế bản thân, và do hành động tội lỗi, họ đã ngoại tình. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Người. - Ðáp.

4) Nhiều lần Chúa đã thương giải phóng nhưng họ manh tâm chống lại Người. Nhưng Người đã nhìn đến cảnh gian truân của họ, khi Người nghe lời họ kêu xin. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 34

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 19, 16-22

"Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, có một người đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?" Người bảo kẻ ấy rằng: "Sao ngươi hỏi Ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng nhân lành là Thiên Chúa. Nếu ngươi muốn vào nơi hằng sống, ngươi hãy tuân giữ các giới răn". Người ấy hỏi rằng: "Những giới răn nào?" Chúa Giêsu đáp: "Ngươi chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình". Người thanh niên thưa lại rằng: "Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng? Chúa Giêsu bảo anh: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 19, 16-22

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Tốt Lành vẫn chưa Thánh Đức

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XX Thường Niên hôm nay tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm của Thứ Bảy tuần trước, bài Phúc Âm về "Nước Trời thuộc về những người" sống tinh thần khiêm hạ như trẻ nhỏ.

Về nội dung, có thể nói bài Phúc Âm hôm nay tiếp nối bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước. Vì trong bài Phúc Âm hôm nay Nước Trời dường như không thuộc về thành phần giầu có như người giầu có trong bài Phúc Âm, cho dù người giầu có này sống đạo đàng hoàng chứ không vì giầu mà bê bối. 

Trước hết, người giầu trong bài Phúc Âm sống đạo đàng hoàng, đến độ dường như vẫn còn cảm thấy thiếu một cái gì đó cho dù về vật chất giầu sang phú quí, nên mới lên tiếng hỏi Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?" 

Sau nữa, "người thanh niên" này không vì giầu mà sống bê bối, như lời anh ta đã thưa cùng Chúa Giêsu, Đấng đã liệt kê các giới răn căn bản trong Thập Giới để được cứu rỗi hay "để được sống đời đời", những giới răn "chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình", những giới răn mà anh ta đã tự thú với Người rằng"Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng?" 

Đúng thế, con người được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa nên lòng luôn khắc khoải cho tới khi được nghỉ yên trong Ngài mà cho dù giầu sang phú quí về vật chất họ vẫn cảm thấy xao xuyến bất an làm sao ấy. Thái độ của người thanh niên giầu sang trong bài Phúc Âm đã cho thấy rõ tâm trạng này, chẳng những ở vấn nạn được anh ta đặt ra hỏi Chúa Giêsu: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?", mà còn ở hành động cuối cùng của anh ta được Phúc Âm thuật lại rằng: "Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp".

Tuy nhiên, tâm trạng vẫn còn "thiếu sót" này của chàng thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay cũng dễ hiểu thôi. Bởi vì, ơn gọi nên trọn lành không phải ai cũng có thể theo đuổi, hễ muốn là được, mà cần phải được kêu gọi và tuyển chọn như các vị tông đồ. Mà muốn nên trọn lành thì điều kiện tiên quyết đó là từ bỏ tất cả những gì con người sở hữu, nhờ đó họ mới có thể tiến đến chỗ bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa Kitô Vượt Qua được, như chính Người đã kêu gọi trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải anh có và bố thí cho người nghèo khó, thì anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Tôi".

Dấu hiệu còn cảm thấy "thiếu sót" và "buồn rầu" của người thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm dầu sao cũng đáng mừng, vì chúng chứng tỏ người thanh niên giầu có này vẫn còn ý thức đức tin, vẫn còn khao khát nên trọn lành, tuy chưa thể thực hiện ngay được, hơn là những con người tham lam làm giầu đến độ bỏ Chúa, bỏ lễ Chúa Nhật, cho đến khi Chúa để cho thất bại, tan gia bại sản thì đâm ra trách Chúa, hận Chúa, tại sao Chúa để cho họ bị khốn khó như vậy v.v. Tại sao họ không tự trách mình bỏ Chúa mà lại trách Chúa bỏ họ nhỉ?! Thật là đáng thương...

Thái độ tỏ ra luyến tiếc thế gian, dính bén với tất cả những gì mình có, đến độ không thể từ bỏ mà sống trọn lành hơn của chàng thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay, là bằng chứng cho thấy mầm mống nguyên tội của con người vẫn còn đó, với đam mê nhục dục và tính mê nết xấu, một mầm mống cho dù đã được lãnh nhận Phép Rửa, và nhờ đó đã như dân Do Thái vào Đất Hứa, nhưng Kitô hữu vẫn cần phải chiến đấu với bản thân mình để Sống Thánh xứng với thân phận là con cái của Thiên Chúa là Đấng Thánh. Thân phận của dân Chúa ở Đất Hứa cũng thế, như hai nguyên tổ ở trong Vườn Địa đường, cũng vẫn phải chiến đấu với chính bản thân mình trước mọi cám dỗ của đủ mọi thứ thần tượng thế gian rất thích hợp với con người của mình, nhưng lại không phải là chính Thiên Chúa của mình. Bài Đọc 1 hôm nay đã được Sách Thủ Lãnh / Quan Án ghi nhận về tình trạng của dân Chúa vẫn còn xu hướng dân ngoại và hằng được Thiên Chúa tìm hết cách để cải hoá họ, như sau:

 

Trong những ngày ấy, con cái Israel làm điều gian ác trước mặt Chúa và phụng thờ các thần Baal. Chúng lìa bỏ Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ chúng, Ðấng đã dẫn chúng ra khỏi đất Ai-cập, mà theo các thần ngoại, những thần các dân tộc cư ngụ chung quanh chúng, và thờ lạy các thần ấy, khiêu khích cơn nghĩa nộ Chúa, chối bỏ Người, và phụng thờ thần Baal và Astaroth. Chúa thịnh nộ Israel, trao chúng vào tay bọn cướp... Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột, nhưng chúng cũng chẳng muốn nghe theo các vị thủ lãnh. Chúng hướng lòng về các thần ngoại và thờ lạy các thần ấy. Chúng đã vội bỏ đường lối các tổ tiên chúng đã đi, dù chúng có nghe biết các điều răn của Chúa, nhưng chúng vẫn làm mọi điều trái nghịch. Khi Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra, Người tỏ lòng thương xót chúng, nghe lời những kẻ khốn cực kêu van, và giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột sát hại. Nhưng sau khi vị thủ lãnh chết, chúng lại đổi lòng, làm những điều xấu xa hơn cha ông chúng đã làm, theo các thần ngoại, phụng sự và thờ lạy các thần ấy. Chúng không từ bỏ những điều chúng bày đặt ra và đường lối quá ương ngạnh chúng quen đi".

 

Thánh Vịnh 105 ở bài Đáp Ca hôm nay đã cho thấy nguyên do dân Do Thái vẫn còn xu hướng dân ngoại (câu 1), đã sống như dân ngoại (câu 2), đến độ đã trở nên bất xứng với Thiên Chúa (câu 3), nhưng Chúa là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ vẫn không bao giờ bỏ rơi họ (câu 4), tất cả 4 câu Thánh Vịnh này như sau:

1) Họ không chịu tiêu diệt những dân mà Chúa đã có lệnh truyền cho họ. Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm.

2) Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần.

3) Bởi những việc đó, họ tự làm ô uế bản thân, và do hành động tội lỗi, họ đã ngoại tình. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Người.

4) Nhiều lần Chúa đã thương giải phóng nhưng họ manh tâm chống lại Người. Nhưng Người đã nhìn đến cảnh gian truân của họ, khi Người nghe lời họ kêu xin.

 

Thánh Stêphanô Vua Nước Hung Gia Lợi (16/8)

Stephano-Hungary-628x1097

Đọc hạnh các thánh, con người sẽ không ngớt đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Mỗi vị thánh là một viên gạch, mỗi vị thánh mang một nét đặc thù riêng biệt, tất cả họ đều có một mẫu số chung là: ” …mặc lấy Chúa Giêsu “ ( Rm 13, 14) và sống như  Ngài. Việc lạ lùng nơi các thánh là các Ngài thuộc mọi lớp, mọi chủng tộc, mọi màu da, mọi ngôn ngữ ; Chúa đã tuyển chọn các Ngài để chính các Ngài làm chứng cho Chúa. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một bộ mặt nổi, Giáo Hội tôn kính một số vị thánh có thể nói là nổi bật nhất, nhưng còn biết bao vị thánh, Hội Thánh không nhận ra hoặc chưa tôn vinh trên bàn thờ vì số này đông vô kể, họ vẫn đang trên Nước Trời chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi, cùng với Đức Mẹ và triều thần thánh trên Trời.

Thánh Tê-Pha-nô Hung-ga-ri là một trường hợp đặc biệt trong muôn vàn trường hợp mà Hội Thánh nhận ra công đức và những công việc của Ngài làm ở dưới thế gian này dù rằng Ngài ở trên ngai tòa cao nhất của đất nước Hung-ga-ri, thánh nhân vẫn thực hiện được những điều làm vinh danh Chúa. Thánh Tê-pha-nô Hung-ga-ri sinh vào khoảng năm 975 và được lãnh nhận phép rửa tội làm con Chúa và con của Giáo Hội năm 985. Năm 997, thánh nhân lên kế vị Vua Cha. Ngài đã trị vì trên ngôi Vua, lãnh đạo đất nước Hung-ga-ri được 42 năm. Lên ngôi được 3 năm, thánh nhân được Đức Giáo Hoàng Sylvestre II phong vương với tước hiệu :” Vị Vua loan báo Tin Mừng của nước Hung-ga-ri “vào ngay dịp lễ Chúa giáng sinh năm 1000. Thánh nhân có thân hình nhỏ bé chứ không cao ráo, quắc thước như những vị Vua khác, nhưng tấm lòng của Ngài thật bao la, quảng đại. Ngài có con tim rộng mở, nhạy bén, tiên đoán chính xác thời cuộc, Ngài có rất nhiều khả năng lãnh đạo, điều khiển đất nước và tấm lòng nhiệt thành, quả cảm đối với mọi công việc của đất nước Hung-ga-ri. Thánh nhân đã xây dựng đất nước Hung-ga-ri với tất cả tấm lòng, với tất cả đức tin vững chắc, sâu xa của mình vì Ngài thấm nhuần lời thánh Phaolô dậy: “ Anh em là thân thể của Đức Kitô, anh em là các chi thể của Ngài “( 1 Co 12, 27 ). Ngài coi  các thần dân của Ngài như là những người anh em trong Chúa đã” được thanh tẩy, nên cùng chết và cùng sống lại với Đức Kitô “. Được phong Vương với tước hiệu: “ Vua truyền giáo của đất nước Hung-ga-ri “, thánh nhân đã nỗ lực sống tình yêu của Chúa Kitô đối với thần dân, đối với đất nước của Ngài. Suốt 42 năm trên ngai Vua, thánh nhân đã xây dựng đất nước Hung-ga-ri với đôi bàn tay vững chắc, với con tim yêu thương, với tấm lòng quảng đại bao la của Ngài. Trên ngai Vua, thánh nhân đã tổ chức Hội Thánh thấm nhuần đức tin sâu xa trên quê hương, đất nước của Ngài : Ngài đã thiết lập các giáo phận và xây dựng nhiều nhà thờ nguy nga, hoành tráng, lộng lẫy và đồ sộ trên đất nước Hung-ga-ri. Thánh nhân đã từ giã cõi đời, từ bỏ ngôi Vua trần thế vào chính ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời và dân chúng Hung-ga-ri thường gọi ngày đó là ngày lên trời của đất nước Hung-ga-ri.

Thánh Tê-pha-nô Hung-ga-ri đã sống đúng lời thánh Phaolô dạy : ”Các bạn hãy vui mừng, tôi nói lại một lần nữa các bạn hãy vui mừng”( Philip 4, 4 ). Thánh nhân đã hoàn toàn tín thác cho Chúa, đã đáp lại lời mời gọi nên thánh của Chúa. Làm Vua có nghĩa là được tận hưởng mọi vinh dự và vinh quang do chức vị Vua mang lại, nhưng thánh Tê-pha-nô Hung-ga-ri đã sống như một Vua hiền từ, khiêm nhượng và phục vụ như lời Vua Giêsu đã nói : “…đến để phục vụ chứ không phải để được hầu hạ “.

Lạy thánh Tê-pha-nô Hung-ga-ri  xin giúp chúng con luôn có tấm lòng quảng đại và khiêm tốn để chúng con làm chứng nhân truyền giáo cho Chúa với tất cả tình yêu của Chúa. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT 

https://davangvn.wordpress.com/2018/08/16/16-8thanh-stephano-o-hung-gia-loi-975-1038/

 

Giáo Hội là của chung mọi người, nhưng sự biểu hiện của Giáo Hội luôn luôn bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa địa phương – có thể tốt hoặc có thể xấu. Không ai được gọi là Kitô Hữu “thuần chủng”; nhưng là Kitô Hữu Việt Nam, Kitô Hữu Hoa Kỳ, Kitô Hữu Mễ Tây Cơ. Sự kiện này rất hiển nhiên trong cuộc đời của Thánh Stêphanô, vị anh hùng dân tộc và quan thầy của nước Hung Gia Lợi.

Sinh trong một gia đình ngoại giáo, ngài được rửa tội khi lên 10 tuổi cùng với người cha, là tù trưởng của sắc tộc Magyar, một bộ lạc chuyên nghề cướp bóc chiếm đóng vùng Danube trong thế kỷ thứ chín. Khi lên nối ngôi cha, Stêphanô đã thay đổi hẳn đường lối cai trị, đưa sắc tộc Magyar theo tinh thần Kitô Giáo và dồn mọi nỗ lực để quảng bá đức tin. Ngài bảo trợ các vị lãnh đạo Giáo Hội, giúp xây dựng các nhà thờ, và là một phần tử ủng hộ quyền lợi của Tòa Thánh.

Nhưng sự đối xử của ngài đối với người ngoại giáo có phần nào quá cứng rắn. Ngài đưa Kitô Giáo trở thành quốc giáo và trừng phạt nặng nề các thói tục dị đoan phát xuất từ ngoại giáo. Ngài cũng ra lệnh mọi người phải kết hôn, ngoại trừ hàng giáo sĩ, và cấm người Kitô giáo không được lấy người ngoại giáo.

Stêphanô cũng dẹp tan nhiều cuộc nổi loạn của các phe quý tộc ngoại giáo nổi lên chống với Kitô Giáo. Ðể thừa nhận công trạng của ngài, vào năm 1000, Stêphanô được Ðức Giáo Hoàng Sylvester II xức dầu tấn phong làm vua Hung Gia Lợi và được nhận vương miện cũng như thánh giá từ tay đức giáo hoàng.

Tuy là vua nhưng đời sống cá nhân của Stêphanô là một bài học thầm lặng cho những người biết đến ngài. Ai ai cũng có thể đến với ngài và mọi người, nhất là người nghèo được ngài đối xử cách công bằng. Ngài dùng tiền của để giúp đỡ người nghèo, nhiều khi ngài ngụy trang để giúp đỡ họ và có lúc tưởng đã thiệt mạng vì hoạt động này.

Stêphanô làm vua Hung Gia Lợi trong bốn mươi hai năm. Ngài từ trần năm 1038 và được Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô VII phong thánh năm 1083.

Lời Bàn

Ðể nên thánh cần có lòng yêu thương Thiên Chúa và tha nhân như Ðức Kitô. Ðức ái đôi khi mang một bộ mặt lạnh lùng nghiêm khắc vì mục đích thiện hảo. Ðức Kitô đả kích sự giả dối của người Pharisiêu, nhưng khi từ trần Ngài đã tha thứ cho họ. Thánh Phaolô ra vạ tuyệt thông một người loạn luân ở Côrintô “để hy vọng linh hồn của họ được cứu rỗi.” Một số Kitô Hữu chiến đấu trong các cuộc Thập Tự Chinh với sự hăng say cao quý, dù rằng có nhiều người tham gia với động lực bất chính. Ngày nay, sau các cuộc chiến vô nghĩa, và với sự hiểu biết sâu đậm hơn về các động lực phức tạp của con người, chúng ta dường như không dám dùng đến bất cứ hình thức bạo lực nào. Sự hiểu biết tốt đẹp này vẫn còn tiếp tục mỗi khi người ta tranh luận rằng, một Kitô Hữu thì có nên là người tuyệt đối yêu chuộng hòa bình, hoặc đôi khi sự dữ cần phải được dẹp tan bằng võ lực.

https://dongten.net/2019/08/15/hanh-cac-thanh-16-08-thanh-stephano-vua-nuoc-hungary/

 


Thứ Ba

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 6, 11-24a

"Hỡi Giêđêon, hãy đi giải thoát Israel: ngươi biết Ta thương xót ngươi".

Trích sách Thủ Lãnh.

Trong những ngày ấy, Thiên thần Chúa đến ngồi dưới gốc cây sồi ở đất Êphra, thuộc sở hữu của ông Gioas, tổ gia tộc Abiêzer. Khi ấy, Giêđêon, con trai của ông, đang đập và rê lúa trong nhà ép nho để tránh mắt quân Mađian, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông và nói rằng: "Hỡi người dũng sĩ, Chúa ở cùng ngươi". Giêđêon thưa lại rằng: "Thôi, xin Ngài, nếu Chúa ở cùng chúng tôi, tại sao chúng tôi phải chịu tất cả những sự này? Nào đâu những việc kỳ diệu của Chúa mà cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi mà rằng: "Chúa đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập"? Nhưng nay Chúa lại bỏ rơi chúng tôi và trao chúng tôi vào tay quân Mađian". Chúa nhìn ông mà phán rằng: "Ngươi hãy mạnh mẽ tiến đi mà giải thoát Israel khỏi tay quân Mađian: chính Ta sai ngươi đó". Ông thưa lại rằng: "Thôi, xin Chúa, con dựa vào đâu mà giải thoát Israel? Ðây gia đình con là gia đình rốt hết trong chi tộc Manassê, và con là con út trong nhà cha con". Chúa phán cùng ông rằng: "Ta sẽ ở cùng ngươi: ngươi sẽ đánh ngã quân Mađian như đánh một người vậy". Ông thưa rằng: "Nếu con đẹp lòng Chúa, thì xin Chúa ban cho con một dấu chứng rằng chính Chúa phán dạy con. Xin Chúa chớ lìa khỏi nơi đây cho đến khi con trở lại cùng Chúa, mang theo của lễ dâng lên Chúa". Chúa đáp lại rằng: "Ta sẽ đợi ngươi trở lại".

Vậy Giêđêon vào nhà làm thịt một con dê đực, lấy một đấu bột làm bánh không men: để thịt vào giỏ, đổ nước thịt vào nồi, mang các món đó đến dưới cây sồi mà dâng cho Chúa. Thiên thần Chúa bảo ông rằng: "Ngươi hãy đem thịt và bánh không men đặt trên tảng đá kia, rồi đổ nước thịt lên trên". Khi ông làm như vậy, thì Thiên thần Chúa giơ cây gậy Người cầm trong tay lên và chạm đến thịt và bánh không men, tức thì có lửa từ tảng đá bốc lên thiêu đốt thịt và bánh không men. Thiên thần Chúa liền biến đi khuất mắt ông. Giêđêon nhận biết đó là Thiên thần Chúa, liền thưa rằng: "Ôi, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con đã nhìn thấy Thiên thần Chúa nhãn tiền". Chúa phán cùng ông rằng: "Bình an cho ngươi. Ðừng sợ, ngươi không chết đâu". Giêđêon liền dựng một bàn thờ dâng kính Chúa, và gọi bàn thờ đó là "Bình an của Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 84, 9. 11-12. 13-14

Ðáp: Chúa phán bảo về sự bình an cho dân tộc Người (x. c. 9).

Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người. - Ðáp.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.

3) Vâng Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất Nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 36a và 29b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 19, 23-30

"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời". Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: "Vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: "Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Một tí ti bất khả lọt nhưng cũng bất khả thiếu



Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XX Thường Niên tiếp tục bài Phúc Âm hôm qua là bài phúc âm về người thanh niên giầu có chưa thể nên trọn lành được vì còn ham của cải trần gian tuy vẫn sống đạo đàng hoàng.
Bài Phúc Âm hôm nay, trước hết, liên quan đến tình trạng người giầu có khó vào Nước Trời, ngoại trừ có ơn đặc biệt của Thiên Chúa, như chính Chúa Giêsu khẳng định:
"'Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời'. Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: 'Vậy thì ai có thể được cứu độ?' Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: 'Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được'". 

Ở đây, hình ảnh con lạc đà to lớn so với lỗ kim tí ti có thể ám chỉ hay tiêu biểu cho 2 điều: con người vào qua cửa Thiên Đàng và cõi lòng của con người trước tác động thần linh của Thiên Chúa. Trước hết, con người muốn vào Nước Trời "phải vào qua cửa hẹp" (Mathêu 8:13), nghĩa là phải "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêy 18:3), bằng không, không thể nào vào Nước Trời được, khi lòng của con người to lớn kềnh càng như con lạc đà, lưng còn cong lên lại càng khó chui lọt, ám chỉ lòng của họ còn đầy những tham lam, tham vọng, tự cao, tự đại, kiêu căng, tự ái v.v.

Tuy nhiên, cho dù con người có hư đốn đến đâu, có tội lỗi đến mấy, miễn là đừng cứng lòng và tuyệt vọng, thì vẫn được rỗi, nghĩa là vẫn còn một khe hở cho dù tí ti như lỗ kim, quyền năng vĩ đại của Chúa lớn lao hơn con lạc đà vẫn có thể lọt vào lòng họ để biến đổi họ thành những vị đại thánh một cách đốt giai đoạn (short cut) như người trộm lành cuối cùng đã đánh cắp được cả Nước Trời, như người thu thuế sấp mình đấm ngực ăn năn ra khỏi đền thờ đã nên công chính, trong khi con lạc đà biệt phái lại không, vì vươn mình lên tự cao tự đại tự đắc.
Bài Phúc Âm hôm nay còn liên quan đến thành phần đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, thành phần đã được bù đắp bằng những thứ về cả đời này lẫn đời sau như thế này:

"Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: 'Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết'".

 

Trước hết, thành phần "bỏ mọi sự mà theo Thày" - "sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel": Nghĩa là nhân loại sẽ được xét xử căn cứ vào chứng từ của thành phần theo Chúa, một chứng từ cho thấy "đức tin hoạt động qua đức ái" (Galata 5:6), một chứng từ nhờ đó họ có thể nhận biết Thiên Chúa mà được sống

 

Đó là lý do trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao đã phân loại chiên dê theo tiêu chuẩn "đức tin hoạt động qua đức ái" này, khi Người phán xét cả hai về đức bác ái theo bề ngoài nhưng thật ra phán xét đức tin của họ, ở chỗ dê không thấy Người nơi thành phần anh chị em hèn mọn nhất của Người nên không thương giúp bởi đó bị loại trừ, còn chiên dù không thấy vẫn ra tay bác ái cứu trợ nên được cứu độ (xem Mathêu 25:31-46). 

 

Sau nữathành phần "bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy" - "sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời": Theo Phúc Âm Thánh Marco đoạn 10 câu 30 thì câu nói của Chúa Kitô đây còn được xác định rõ ràng "đời này" và "đời sau" nữa: "sẽ được gấp trăm" ngay "ở đời này" và "được sự sống trường sinh" "ở đời sau". Mà nếu thành phần môn đệ theo Chúa Kitô mà quả thực "được gấp trăm" ngay "ở đời này" thì chắc chắn họ sẽ "được sự sống trường sinh" "ở đời sau". 

 

Đúng thế, ngay "ở đời này" thành phần môn đệ theo Chúa Kitô không phải là thành phần "có tinh thần nghèo khó" nên đã được "Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy" (Mathêu 5:3) hay sao, và họ cũng không phải là thành phần "hiền lành" nên đã "được đất làm của mình vậy" (Mathêu 5:5) hay sao, một thứ "đất" biểu hiệu cho thế gian hay nhân loại. Nghĩa là họ dám đánh đổi tất cả mọi sự họ có để tậu cho bằng được thửa ruộng thế gian là nơi kho tàng Chúa Kitô được chôn giấu (xem Mathêu 13:44). Như thế không phải là họ đã thực sự được "gấp trăm" ngay "ở đời này" hay sao, là được cả Chúa Kitô lẫn ơn cứu chuộc thế gian của Người?


Thật vậy, "đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Đối với trường hợp của thành phần giầu có, theo tự nhiên, khó được rỗi, nếu không muốn nói là bất khả, như lạc đà to lớn cồng kềnh không thể chui qua lỗ kim nhỏ xíu, và ngược lại, thành phần bỏ hết mọi sự để có thể theo Chúa, như các vị tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay, một từ bỏ cũng là những gì bất khả theo bản năng tự nhiên vị kỷ chỉ muốn hưởng thụ của mình. Bởi thế, Thiên Chúa bao giờ cũng lợi dụng những gì con người bất xứng, bất lực và bất hạnh để tỏ mình ra cho họ, nhờ đó họ từ từ nhận biết Ngài hơn, như trong trường hợp của dân Do Thái trong Bài Đọc 1 được Sách Thủ Lãnh cho thấy Thiên Chúa lợi dụng chính tình trạng dân Ngài bỏ Ngài để chứng thực Ngài là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, bằng việc Ngài tìm cách giải cứu họ, qua một số nhân vật của họ, như chàng Giêđêon:

 

"Khi ấy, Giêđêon, con trai của ông, đang đập và rê lúa trong nhà ép nho để tránh mắt quân Mađian, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông và nói rằng: 'Hỡi người dũng sĩ, Chúa ở cùng ngươi'. Giêđêon thưa lại rằng: 'Thôi, xin Ngài, nếu Chúa ở cùng chúng tôi, tại sao chúng tôi phải chịu tất cả những sự này? Nào đâu những việc kỳ diệu của Chúa mà cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi mà rằng: Chúa đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập? Nhưng nay Chúa lại bỏ rơi chúng tôi và trao chúng tôi vào tay quân Mađian'. Chúa nhìn ông mà phán rằng: 'Ngươi hãy mạnh mẽ tiến đi mà giải thoát Israel khỏi tay quân Mađian: chính Ta sai ngươi đó'. Ông thưa lại rằng: 'Thôi, xin Chúa, con dựa vào đâu mà giải thoát Israel? Ðây gia đình con là gia đình rốt hết trong chi tộc Manassê, và con là con út trong nhà cha con'. Chúa phán cùng ông rằng: 'Ta sẽ ở cùng ngươi: ngươi sẽ đánh ngã quân Mađian như đánh một người vậy'".

 

Thánh Vịnh 84 ở bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy những ai được Thiên Chúa ở cùng, như nhân vật Giêđêon trang Bài Đọc 1 hôm nay, thì luôn quan tâm đến Ngài (câu 1), nhờ đó xứng đáng được Ngài tỏ mình ra và sử dụng, như thể "lòng nhân hậu (của Chúa) và lòng trung thành (của con người) gặp gỡ nhau" (câu 2), và cũng nhờ đó, dân Chúa được giải cứu, theo đức công minh của Thiên Chúa, Đấng "công minh" thấu suốt tất cả mọi sự về thành phần dân được Ngài tuyển chọn, để tìm cách ban "ơn cứu độ" của Ngài cho họ, như thể  "Ðức công minh sẽ đi trước ... và ơn cứu độ theo sau" vậy (câu 3), những câu Thánh Vịnh tuyệt vời diễn tả về Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất ở chỗ Ngài tỏ lòng nhân hậu xót thương:

1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.

3) Vâng Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất Nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài.

 

 



Thứ Tư 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 9, 6-15

"Ðang khi Chúa ngự trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói: "Xin cho một vua cai trị chúng tôi".

Trích sách Thủ Lãnh.

Khi ấy, mọi người Sikem và tất cả các gia tộc thành Mêllô tụ họp lại, rồi kéo nhau đến gần cây sồi ở Sikem, và tôn Abimêlech lên làm vua.

Khi ông Giotham nghe tin ấy, liền đi lên đứng trên đỉnh núi Garizim, lớn tiếng kêu lên rằng: "Hỡi người Sikem, hãy nghe ta, để Thiên Chúa cũng nghe các ngươi. Các cây cối đều đến xức dầu phong một vị vua cai trị chúng, và nói cùng cây ôliu rằng: "Hãy đi cai trị chúng tôi". Cây ôliu đáp lại rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ việc sản xuất dầu mà các thần minh và loài người quen dùng, để được lên chức cai trị cây cối sao?" Các cây cối nói cùng cây vả rằng: "Hãy đến cầm quyền cai trị chúng tôi". Cây vả trả lời rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ sự ngọt ngào của ta, bỏ hoa trái ngon lành của ta, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?" Các cây cối nói với cây nho rằng: "Hãy đến cai trị chúng tôi". Cây nho đáp rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ việc cung cấp rượu, là thứ làm cho Thiên Chúa và loài người được vui mừng, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?" Tất cả những cây cối nói với bụi gai rằng: "Hãy đến cai trị chúng tôi". Bụi gai trả lời rằng: "Nếu các ngươi thật lòng đặt ta làm vua các ngươi, thì các ngươi hãy đến nghỉ dưới bóng ta. Nhưng nếu các ngươi không muốn thì sẽ có lửa từ bụi gai phát ra thiêu huỷ các cây hương nam núi Liban".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 20, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.- Ðáp.

2) Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng. - Ðáp.

3) Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 135

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 20, 1-16a

"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.

"Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.

"Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".

"Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết". Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?" Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"

"Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

Ân Sủng - Một đảo lộn Thần Linh

 

Lời Chúa cho Thứ Tư Tuần XX Thường Niên hôm nay được tiếp tục trước hết với Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu với 16 cầu đầu ở đoạn 20 về dụ ngôn thuê thợ làm vườn nho và trả công đồng đều cho họ bao gồm cả người làm nhiều giờ nhất, từ "giờ thứ ba" trong ngày đến người ít giờ nhất, từ "giờ thứ 11" trong ngày, tức cách nhau 8 tiếng đồng hồ.

Sự kiện chủ trả lương đồng đều cho cả nhóm thợ được thuê sớm nhất lẫn nhóm thợ thuê muộn nhất bề ngoài có vẻ bất công, như chính cảm nhận của nhóm thợ đến làm sớm nhất: 
"Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: 'Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết'. Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: 'Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?'" 
Thật ra, theo lý thì người chủ này chẳng những không bất công một chút nào với nhóm thợ được ông thuê làm vườn nho cho ông sớm nhất mà còn theo tình tỏ ra hết sức rộng lượng nữa là đằng khác với nhóm thợ được ông thuê làm vườn nho cho ông muộn nhất và ít vất vả nhất nữa, như chính câu trả lời của ông với nhóm thợ than phần hành động của ông cho thấy:
"Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?" 
Đúng thế, ông chủ vườn nho không bất công với nhóm thợ đầu tiên và 2 nhóm thợ sau đó. Bởi vì 3 nhóm thợ đến sớm này và ông đã thỏa thuận với nhau về tiền công đâu vào đấy rồi: 
"Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: 'Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng'. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy'". 
Còn việc ông chủ này trả cho nhóm thợ sau cùng bằng nhóm thợ đầu tiên là do lòng quảng đại của ông, bởi nhóm thợ sau cùng này không hề mặc cả và đòi hỏi gì, có việc làm là tốt rồi, bằng không sẽ bị ế lao công và thiện chí của họ, trong khi đó ông chủ cũng chẳng hứa trả cho họ bao nhiêu và họ phải làm như thế nào: "Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: 'Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?' Họ thưa rằng: 'Vì không có ai thuê chúng tôi'. Ông bảo họ rằng: 'Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta'".
Riêng với nhóm thợ cuối cùng này, theo lý họ chẳng những đáng được hưởng 1 đồng như nhóm thợ đầu tiên mà còn gấp 3 nữa, nghĩa là đáng 3 đồng.  Đồng thứ nhất - bởi vì họ cũng đã sẵn sàng đi làm từ ban đầu, đến độ họ cứ đợi mãi mà chẳng có ai thuê mướn. Đồng thứ hai - họ chẳng những đã sẵn sàng làm việc từ sáng sớm, mà còn tỏ ra nhẫn nại chờ đợi được thuê mướn nữa, nhất là khi được thuê mướn không mặc cả gì như ba nhóm thợ đầu tiên, có việc là vui rồi, làm gì cũng được, lương bao nhiêu cũng OK, đủ cho họ xứng đáng lãnh nhận bằng đồng lương của nhóm đầu tiên. Đồng thứ ba - vì trong thời gian chờ đợi dược thuê mướn, họ có thể cảm thấy chán nản và cảm thấy bị bỏ rơi khi thấy 3 nhóm thợ trước được thuê mướn, như thể họ chỉ là đồ bỏ, là những gì vô dụng, không đáng được thuê mướn như 3 đám trước, nhưng họ vẫn nhẫn nại đợi chờ, vẫn chấp nhận thân phận cuối rốt của mình, nhất là khi chiều về, gần hết ngày mà chẳng có việc làm thì không biết lấy gì cho vợ con ăn uống đang hết lòng trông đợi mình ở nhà. Như thế có nghĩa là họ thật là xứng đáng được lương nhiều hơn các đám thợ trước.

Chưa hết, vấn đề còn được đặt ra với nhóm thợ cuối cùng đặc biệt này là tại sao chủ vườn nho đã ra thuê thợ làm vườn nho cho mình cả 3 lần trước đó mà lại không thấy họ là những người mà chính ông chủ cũng phải công nhận "sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Phải chăng vì họ đứng ở chỗ khác với 3 nhóm trước, và ông chủ mỗi lần đi một chỗ khác để tìm thuê thêm thợ, để rồi cuối cùng ông mới tới chỗ của họ đứng chờ, biểu hiệu cho vị thế và thân phận của mỗi người ở trong sự quan phòng thần linh của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi họ vào lúc nào Ngài muốn.

C
ăn cứ vào dụ ngôn trong bài Phúc Âm này, vào nguyên tắc đối xử của ông chủ vườn nho với các nhóm thợ được ông thuê vào làm vườn nho cho ông, thì chúng ta thấy rằng chúng ta được quyền yêu thương người này hơn người kia, chẳng hạn Chúa Giêsu yêu Tông Đồ Gioan một cách đặc biệt trong số các tông đồ của Người, nhưng đừng vì thế, vì người được mình yêu hơn bởi một lý do chính đáng nào đó mà đối xử bất công với những người khác. Có nghĩa là, theo nguyên tắc, theo lý, phải yêu thương hết mọi người như nhau, như bản thân mình, nhưng, theo tình, chúng ta vẫn có thể yêu một người nào đó hơn, vì hoàn cảnh đáng thương cần cứu giúp của họ, hay vì khả năng phục vụ đắc lực cho công ích của họ v.v.
Trong lịch sử Giáo Hội cũng xẩy ra những trường hợp được Chúa Giêsu cảnh giác ở câu cuối của bài Phúc Âm hôm nay: "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết". Chẳng hạn một Tông Đồ của Các Tông Đồ Mai-Đệ-Liên, hay Một Đại Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, hoặc một Giáo Phụ Tiến Sĩ Âu Quốc Tinh v.v. Trường hợp của người thu thuế và người Pharisiêu trong dụ ngôn cả hai cầu nguyện trong đền thờ cũng cho thấy rõ đường lối "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết" ngược đời này vậy (xem Luca 18:9-14). Hay trường hợp của người con cả tính toán với cha như là một người làm công cho cha và của người con thứ chỉ muốn làm tôi tớ của cha vì cảm thấy bất xứng làm con của cha (xem Luca 15:11-32) cũng vậy: "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết". 

Trường hợp điển hình nhất về đường lối khách quan của Chúa "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết", đó là dân Chúa, một thành phần dân, được Ngài tuyển chọn và luôn được Ngài ở với, nhất là được Ngài tỏ mình ra dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, nhất là những lúc họ được Ngài giải phóng qua một nhân vật Quan Án hay Thủ Lãnh nào đó, như Giêđêon ở Bài Đọc 1 hôm qua, nhưng, về phần mình, họ vẫn có xu hướng "kẻ trước hết (về ơn Chúa) sẽ nên sau hết (về bất trung)", như được Sách Thủ Lãnh ở Bài Đọc 1 hôm nay cho biết "Ðang khi Chúa ngự trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói: 'Xin cho một vua cai trị chúng tôi'", ở chỗ, họ "nói cùng cây ôliu... cây vả... cây nho... bụi gai rằng: 'Hãy đi cai trị chúng tôi'".

Thậm chí kể cả khi lòng họ muốn khao khát có một vị vua, tức muốn độc lập khỏi Thiên Chúa, như chúng ta thấy ở Sách Samuel ngay sau Sách Thủ Lãnh này, Thiên Chúa vẫn sẵn sàng đáp ứng họ, nhưng không phải là một vị vua như lòng họ mong ước, thành phần vua chúa, như Sách Chư Vương sau này cho thấy, toàn là băng hoại, mà là vị vua ám chỉ Đức Kitô Thiên Sai của Ngài, thuộc giòng dõi Đavít, để Ngài tiếp tục làm chủ họ. Và đó là lý do Thánh Vịnh 20 ở bài Đáp Ca hôm nay đã hướng về vị vua thiên sai ấy, vị vua đến để dứt khoát giải thoát họ khỏi tội lỗi và sự chết:

1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.

2) Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng.

3) Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan.

 

 

Thứ Năm

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 11, 29-39a

"Hễ người nào ra khỏi cửa nhà trước hết, tôi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu".

Trích sách Thủ Lãnh.

Trong những ngày ấy, Thần Trí của Chúa ngự trên ông Giéphtê, ông liền đi quanh đất Galaad, Manassê, (rồi) Maspha (của) Galaad, và từ đó tiến sang đánh con cái Ammon. Ông thề hứa với Chúa rằng: "Nếu Chúa trao con cái Ammon vào tay con, thì khi con từ đất con cái Ammon trở về bình an, hễ người nào ra khỏi nhà con và đón tiếp con trước hết, con sẽ dâng nó cho Chúa làm của lễ toàn thiêu".

Ông Giéphtê liền trẩy sang đánh con cái Ammon, Chúa đã trao chúng trong tay ông. Ông đã đánh phá hai mươi thành trong một trận ác liệt, từ Arôê đến cửa thành Mennith, và đến Abel Kêramim. Con cái Ammon bị con cái Israel hạ nhục. Khi ông Giéphtê trở về nhà ở Maspha, người con gái duy nhất ra với hội hát trống phách đón rước ông, vì ông chẳng có người con nào khác. Khi thấy đứa con gái, ông liền xé áo mình ra mà kêu lên rằng: "Con ơi, con làm khổ cha, con cũng khổ nữa, vì cha đã khấn hứa cùng Chúa, và cha không thể làm gì khác được". Người con gái đáp: "Cha ơi, nếu cha đã khấn hứa cùng Chúa, thì cha cứ làm cho con mọi điều cha đã thề hứa, vì Chúa ban cho cha được trả thù và thắng kẻ thù của cha". Cô lại nói với cha rằng: "Con chỉ xin cha điều này: xin cha cho con hai tháng, để con cùng các bạn con đi quanh núi đồi mà than khóc tuổi thanh xuân của con". Người cha đáp: "Con cứ đi". Và ông đã cho cô đi hai tháng. Khi cô ra đi làm một với bạn nghĩa thiết của cô, thì cô than khóc tuổi thanh xuân của cô trên núi đồi. Sau hai tháng, cô trở về nhà cha cô, và ông đã thi hành như ông đã thề hứa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 39, 5. 7-8a. 8b-9. 10

Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa (c. 8a & 9a).

Xướng: 1) Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà. - Ðáp.

2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.

3) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.

4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 22, 1-14

"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.

Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!" Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".

 

Ðó là lời Chúa.

 

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

 

Ân Sủng - Một thông ban nhưng không... cần đáp ứng tương xứng

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XX Thường Niên, không còn liên tục với các bài Phúc Âm trong tuần như các ngày trước, mà là một bài Phúc Âm bắt đầu từ đầu Đoạn 22, hoàn toàn bỏ Đoạn 21 và 17 câu của Đoạn 20. Tất nhiên, việc Giáo Hội cố ý chọn đọc các bài Phúc Âm hằng ngày trong tuần hay Chúa Nhật này phải liên tục với nhau về nội dung, cho dù có những đoạn và những câu Phúc Âm bị cắt bỏ như vậy, vì có thể những chỗ ấy chỉ là những biến cố không hợp vào thời điểm phụng vụ này. 

 

Chẳng hạn như biến cố Chúa Giêsu vào Thánh Giêrusalem và thanh tẩy đền thờ rồi nguyền rủa cây vả và vấn đề thẩm quyền của Chúa Giêsu (xem Mathêu 21:1-27), những gì mà hầu hết đã được Giáo Hội cho đọc theo Phúc Âm của Thánh ký Marco ở các ngày Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần VIII Thường Niên rồi, không cần đọc lại hay lập lại nữa.

 

Nếu bài Phúc Âm hôm qua về dụ ngôn người chủ vườn nho thuê thợ làm vườn nho và trả công cho họ bằng nhau liên quan cả đến ân sủng của Thiên Chúa thì bài Phúc Âm hôm nay về dụ ngôn một "vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử" lại càng liên quan đến ân sủng của Thiên Chúa

 

Thật vậy, nếu 4 nhóm thợ được chủ vườn nho thuê làm vườn nho cho ông để được trả công tương xứng, một khoản tiền công chẳng những công bằng về lý đối với 3 nhóm thợ đầu mà còn về tình với nhóm thợ cuối cùng, thì thành phần được mời đến dự tiệc cưới trong bài Phúc Âm hôm nay đây hoàn toàn liên quan đến tình nghĩa của Thiên Chúa, tức là họ chỉ việc đến hoan hưởng mà chẳng phải vất vả làm gì hết, một đặc ân bao gồm chẳng những thành phần được ấn định ám chỉ dân Do Thái mà còn tất cả mọi người không trừ ai ám chỉ chung nhân loại hay dân ngoại nữa:

 

Thành phần đã được ấn định: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: 'Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới'. Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi".

 

Thành phần không được mời trước cũng được tham dự: "Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: 'Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới'. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc".

 

Căn cứ vào dụ ngôn về việc mở tiệc cưới và mời khách đến dự hôm nay, chúng ta thấy nếu tiệc cưới đây ám chỉ mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô, Đấng là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng đã kết hiệp thiên tính và nhân tính lại với nhau nơi ngôi vị thần linh của mình, thì thành phần được mời đến tham dự tiệc cưới này, tức thành phần được tham phần vào chính mầu nhiệm nhập thể này tất nhiên phải bao gồm cả dân Do Thái là giòng dõi Chúa Giêsu được sinh ra về thể lý, lẫn dân ngoại vì Người mặc lấy nhân tính của cả loài người của họ và như họ.

Chính vì dân Do Thái đã được mời trước, ở chỗ đã được Thiên Chúa tuyển chọn và lập giao ước với qua các tổ phụ của họ, mà họ không chấp nhận Chúa Kitô đã đến trong xác thịt, lại còn giết Người nữa, nên họ đúng là thành phần đã từ chối không đến dự tiệc cưới vậy.

Tuy nhiên, để xứng đáng với đặc ân tự nhiên được tham dự tiệc cưới cứu độ này, một ân sủng được ban cho chẳng những dân Do Thái mà còn cả dân ngoại, chẳng những ban cho những người tốt lành mà còn cả những người không tốt lành: "bất cứ ai", "bất luận tốt xấu", thành phần tham dự một khi đã được mời và đã đến tham dự thì cần phải tỏ ra xứng đáng nữa, bằng không sẽ bị loại trừ:

 

"Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: 'Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?' Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: 'Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!' Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".

 

Như bài Phúc Âm về việc trả lương cho thợ làm vườn nho, mới nghe qua thì có vẻ bất công thế nào thì việc ông vua đối xử với thành phần được ông lùa vào dự tiệc cưới của con ông đã bị ông trừng phạt vì không mặc áo cưới cũng thế. Ở chỗ, nếu những người này biết trước là cần phải mặc áo cưới thì có lẽ họ đã không vào, bởi bấy giờ họ không kịp sửa soạn áo cưới hay không có tiền mua áo cưới v.v.

 

Thế nhưng, áo cưới đây là gì, nếu không phải, trước hết là chính việc chấp nhận Lời Nhập Thể, Đấng Thiên Sai, Đấng "đã đến trong xác thịt" (xem 2Gioan 7), "đã mặc lấy thân phận tôi đòi, được sinh ra như loài người" (Philiphê 2:7), "bởi một người nữ" (Galata 4:4): "Người đã ở trong thế gian, và nhờ Người mà thế gian đã được tạo thành, nhưng thế gian đã không nhận biết Người là ai. Người đã đến với những ai thuộc về Người nhưng họ đã không chấp nhận Người. Bất cứ ai chấp nhận Người thì Người đã ban cho họ được quyền trở nên con cái của Thiên Chúa" (Gioan 1:10-12).

 

Chưa hết, áo cưới đây, nếu áp dụng vào thành phần dân ngoại Kitô hữu thì có thể còn được hiểu là lòng biết ơn, do đó không thể tỏ ra thờ ơ lãnh đạm với ơn cứu độ được ban cho mình và chính mình đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa, thờ ơ lãnh đạm đến độ khi được chất vấn tại sao không mặc áo cưới cũng không lên tiếng trả lời. Và một khi thờ ơ lãnh đạm với ơn cứu chuộc thì Kitô hữu sẽ khinh thường và không sống xứng đáng với ơn cứu độ, như thể không mặc áo cưới vậy.

 

Sau hết, và bởi thế, áo cưới đây còn được hiểu là chính phẩm vị làm con Thiên Chúa của Kitô hữu - không mặc áo cưới nghĩa là không sống với phẩm vị con Thiên Chúa của mình. Nhất là bằng những tội trọng, như thể họ đã cố tình lột bỏ chiếc áo rửa tội của mình đi. Đó là lý do khi người con hoang đàng phung phá trở về, nó đã được cha của nó phục hồi lại cho nó tất cả những gì của một người con, chẳng những thân phận làm con (qua hình ảnh mang giầy, chứ không phải đi chân không như thân phận của một tên nô lệ) và quyền làm con (qua hình ảnh đeo nhẫn), mà còn chính phẩm vị làm con (qua hình ảnh mặc lại cho nó áo đẹp nhất).

 

Số phận của con người được mời vào dự tiệc cưới mà không chịu mặc áo cưới nên đã bị trừng phạt tương xứng ở trong bài Phúc Âm hôm nay đã chứng thực cho thấy tác động đáp ứng ân dủng thần linh nhưng không của Thiên Chúa là những gì bất khả thiếu. Việc đáp ứng ân sủng thần linh đã được Sách Thủ Lãnh thuật lại ở Bài Đọc về nhân vật Giéphtê hôm nay, một nhân vật, sau khi thắng trận do Chúa ban, đã giữ đúng lời thế hứa của mình với Ngài, bất chấp điều ấy như thế nào, nghĩa là hoàn toàn bất lợi cho người con gái của mình, liên quan đến thân phận son sẻ suốt đời của nó, nhưng chính nó cũng cùng với cha của nó đáp ứng ân sủng thần linh một cách can đảm như sau:

 

"Trong những ngày ấy, Thần Trí của Chúa ngự trên ông Giéphtê, ông liền đi quanh đất Galaad, Manassê, (rồi) Maspha (của) Galaad, và từ đó tiến sang đánh con cái Ammon. Ông thề hứa với Chúa rằng: 'Nếu Chúa trao con cái Ammon vào tay con, thì khi con từ đất con cái Ammon trở về bình an, hễ người nào ra khỏi nhà con và đón tiếp con trước hết, con sẽ dâng nó cho Chúa làm của lễ toàn thiêu'. Ông Giéphtê liền trẩy sang đánh con cái Ammon, Chúa đã trao chúng trong tay ông. Ông đã đánh phá hai mươi thành trong một trận ác liệt, từ Arôê đến cửa thành Mennith, và đến Abel Kêramim. Con cái Ammon bị con cái Israel hạ nhục. Khi ông Giéphtê trở về nhà ở Maspha, người con gái duy nhất ra với hội hát trống phách đón rước ông, vì ông chẳng có người con nào khác. Khi thấy đứa con gái, ông liền xé áo mình ra mà kêu lên rằng: 'Con ơi, con làm khổ cha, con cũng khổ nữa, vì cha đã khấn hứa cùng Chúa, và cha không thể làm gì khác được'. Người con gái đáp: 'Cha ơi, nếu cha đã khấn hứa cùng Chúa, thì cha cứ làm cho con mọi điều cha đã thề hứa, vì Chúa ban cho cha được trả thù và thắng kẻ thù của cha'".

 

Đúng thế, không việc gì đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng nhận biết Ngài bằng việc đáp ứng tác động thần linh của Ngài, nghĩa là luôn tuân theo Thánh Ý tối hậu của Ngài, để Ngài hoàn toàn có thể tỏ mình ra cho họ và qua họ cho ngưòi khác nữa. Thánh Vịnh 39 ở bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa niềm xác tín chân thật này như sau:

1) Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà.

2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến".

3) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con.

4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi.

 

 

 

Thánh Gioan Eude (19/8)

 

Vietnamese Catholic Community Sydney | Cộng đồng Công Giáo Việt Nam | Tổng  Giáo Phận Sydney

Thánh Gioan Euđê là một trong số những người chấn hưng tôn giáo tại Pháp thời vua Luy XVI. Isaac Euđê, cha Ngài là nhà nông kiêm nghề giải phẫu tại thành Ri gần Argentan, đã có ý định trở thành linh mục, nhưng rồi lại bỏ ý định để lập gia đình. Mẹ Ngài là bà Mattha Corbin tưởng sẽ phải son sẻ. Nhưng rồi sau nhờ cầu nguyện, họ sinh được Gioan với bốn em gái và hai em trai nữa.

Gioan có tính nóng nảy, nhưng hiến mình cho Đức Trinh Nữ Maria, Ngài quyết sửa mình bằng cách ngày càng mến Mẹ hơn. Hồi 9 tuổi, có lần Ngài bị một thằng bạn vả mặt, nhớ lời Chúa Ngài đưa má kia ra: còn má này nữa, nếu muốn anh cứ vả tiếp đi. Thằng bạn ngượng ngùng và sau này đã kể lại sự kiện đó với niềm thán phục sâu xa.

15 tuổi Gioan theo học các cha dòng Tên tại Caen. Từ trong huyết quản Gioan đoan hứa dâng mình cho mẹ Thiên Chúa. Nhưng khi trở về nhà, cha mẹ nói với Ngài về việc hôn nhân. Ngài bày tỏ ước vọng với cha mẹ và phải khó khăn lắm mới được cha mẹ ưng thuận. Ngài nhập dòng giảng thuyết và năm 1625 thụ phong linh mục.

Sau ngày thụ phong, Gioan phục vụ giáo xứ ở Aubervilliers. Hai năm sau, một cơn dịch xảy tới tàn phá giáo phận Sees. Các bệnh nhân bị những người khác bỏ mặc và trốn chạy. Gioan chỉ muốn bay tới để giúp đỡ họ. Trong suốt hai tháng trời, Ngài hết mình phục vụ. Khi cơn dịch hạ giảm, Ngài thực hiện sứ vụ tại Caen. Nhưng cơn dịch chưa dứt mà chỉ dời chỗ. Lần này cơn dịch tràn tới Caen. Gioan lại tận tâm quên mình phục vụ. Không có gì làm cho Ngài sợ hãi cả. Nhưng dân chúng lại sợ Ngài truyền bệnh. Bởi đó Ngài bị giam mình trong một cái thùng để ở ngoài đồng ruộng, khiến lúc đó cánh đồng được gọi là “cánh đồng của thánh nhân”. Các nữ tu thương hại Ngài ngày ngày mang của ăn đến cho Ngài. Ngài trở về dòng hiến mình phục vụ hai tu sĩ và bề trên sắp chết vì bệnh dịch. Cuối cùng, cơn dịch tan biến, nhưng Gioan lên cơn sốt, dân chúng khẩn cầu tha thiết cho Ngài được chữa lành và niềm vui thật lớn lao khi người “Samaritanô nhân hậu” tái xuất hiện.

Bây giờ bắt đầu công trình rao giảng và truyền giáo của Ngài. Ngài chống lại lạc thuyết Calvinô, những kinh hoàng của cuộc nội chiến, sự dốt nát của hàng giáo sĩ, những tật xấu của các tín hữu. Chúng ta có thể đo lường hoạt động của một vị thánh như thế nào: 15 ngàn người chen lấn nghe thánh nhân giảng, các tội nhân sám hối và để được xưng tội, họ phải chờ 4 hay 5 ngày mới đến lượt. Trong khi để tiết kiệm thì giờ của họ. Ngài chỉ dùng vài miếng bánh để dưỡng sức. Các thói tục ngoại giáo biến dạng. Ở Autun, cuộc rước Trinh nữ thay thế cho những gương mù ngày Mi-Careme.Ở Meaux dân chúng mang các sách đồi trụy đến công trường để đốt bỏ.

Cha Gioan Euđê đã giảng thuyết khắp vùng Normandie Bretagne, tới tận Saint Etienne. Tại Paris, cha sở thánh thiện của Saint – Sulpice, M.Olier, đã tổ chức cho Ngài 5 kỳ giảng thuyết. Ngài danh tiếng đến nỗi có 10 giám mục hiện diện. Ở Saint Germain-Laye, vua và hoàng hậu đến ngồi vào ghế thính giả. Cha Gioan Euđê thuyết giảng lần cuối cùng tại Sain-Lô.

Suốt 40 năm, cha Gioan đi rao giảng đó đây. Nhưng việc rao giảng chỉ là một phần hoạt động của Ngài. Nhận thấy hàng giáo sĩ không được đào tạo đầy đủ, Ngài từ giã dòng giảng thuyết năm 1643, để lập hội dòng Chúa Giêsu và Đức Maria lo việc tổ chức các chủng viện. Theo lời đề nghị của Đức Hồng Y Richelieu, Ngài lập đại chủng viện ở Caen rồi sau này ở Lisieux, Rouen, Eureux và Renner. Đàng khác Ngài rất thương cảm các thiếu nữ bất hạnh hoàn lương, năm 641 Ngài đã lập dòng Chúa chiên lành để săn sóc họ.

Giữa bao nhiêu công chuyện, ước mơ lớn nhất của thánh Gioan Euđê là phổ biến lòng tôn sùng Thánh Tâm, Ngài là người khởi xướng, viết sách và các thánh thi ca tụng Thánh Tâm. Đây là nỗ lực chống lại chủ trương sai lầm của thuyết Giansêniô.

Ngày 19 tháng năm 1680, thánh Gioan Euđê từ trần, Ngài được phong chân phước năm 1925 được tôn phong hiển thánh.     

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-19-8-thanh-gioan-eude-linh-muc-42318

 

Mỗi thánh đều có một nét đặc biệt. Ơn gọi của mỗi vị đều có những sắc thái khác nhau, không ai giống ai, không ai như ai cả. Tựu trung, tất cả các vị thánh đều có một mẫu số chung là muốn trở nên trọn lành và họa lại càng giống bao nhiêu càng tốt hình ảnh của Đức Giêsu Kitô.

THÁNH GIOAN ÊUĐÊ LÀ AI ?

Thánh Gioan Êuđê sinh tại miền Normandie nước Pháp, thuộc địa phận Sées ngày 14 tháng 11 năm 1601 ở làng Ri. Thoạt đầu, thánh nhân theo học với các cha Dòng Tên tại Caen và sau đó đi vào Đại Học. Được gần gũi các cha Dòng tên, được hun đúc về tình yêu Chúa và phục vụ tha nhân, thánh Gioan Eâuđê muốn đáp trả lại lời mời gọi của Chúa, nhưng gia đình Ngài ngăn cản Ngài trở thành linh mục. Ý Chúa thật nhiêm mầu, Ngài không bao giờ nản chán và quyết tâm theo đuổi lý tưởng trở thành linh mục của Chúa, Ngài gia nhập hội dòng giảng thuyết do Đức Hồng y Bérulle vào năm 1623 và rất hăng say với công việc loan báo Tin Mừng. Thánh nhân nhiệt thành với công việc, chuyên cần học triết học và thần học, Ngài được gọi lãnh sứ vụ linh mục và sau đó được chỉ định làm cha xứ ở Aubervillier, đồng thời kiêm nhiệm chức vụ giảng dậy ở nhiều nơi trong nước Pháp. Đời sống đạo đức, lối sống thánh thiện, gương mẫu đi đôi với lời giảng dậy có sức thu hút, lôi cuốn nhiều linh hồn. Thánh nhân có tinh thần truyền giáo cao độ, khi trong vùng có dịch bệnh hoành hành, lan rộng khắp nơi, thánh nhân đã tình nguyện đi săn sóc bệnh nhân và an táng những người qua đời.

NHỮNG CÔNG VIỆC NỔI BẬT CỦA THÁNH NHÂN:

Thánh nhân có đời nội tâm sâu sắc, chính Ngài đã chấn chỉnh lại đời sống đạo đức và uy thế của các giáo sĩ bị sa sút, và thánh Gioan Eâuđê đã thiết lập nhiều chủng viện để thực hiện dự tính tốt lành của Ngài trong việc chấn hưng đạo đức và đào tạo giáo sĩ. Năm 1662, thánh nhân đã lập Hội sùng kính trái tim Chúa Giêsu, sau này được  đổi tên là Dòng Đấng Chăn Chiên Lành để giáo dục các thiếu nữ trụy lạc, hư đốn, sa đọa.

CHÚA THƯỞNG CÔNG VÀ GIÁO HỘI TÔN VINH THÁNH NHÂN:

Với cố gắng tận lực, với lòng hy sinh, nhiệt thành cao độ, thánh Gioan Eâuđê đã được Chúa gọi về vào ngày 19 tháng 8 năm 1680. Đức thánh Cha Piô X đã cất nhắc Ngài lên bậc chân phước. Đức Giáo Hoàng Piô XII, vào dịp năm thánh 1925, đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh, và truyền cho Giáo Hội kính Ngài trên toàn thế giới vào năm 1928.

Lạy Chúa, Chúa đã chọn thánh Gioan linh mục làm người rao giảng sự phong phú khôn lường của Đức Kitô. Xin cho chúng con cũng biết theo gương sáng của thánh nhân và nghe lời Người dạy dỗ để ngày càng thêm hiểu biết Chúa và trung kiên sống theo Tin Mừng( Lời nguyện nhập lễ,lễ thánh Gioan Eâuđê).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

http://giaophanthaibinh.org/ngay-19-8-thanh-gioan-eude-st-john-eudes-linh-muc.html

 

Thật không thể nào biết được ơn Chúa sẽ đưa dẫn đến đâu. Thánh Gioan sinh ngày 14 tháng 11 năm 1601 tại Ri, Normandy, miền bắc nước Pháp. Ngài là một tu sĩ, một tông đồ tuần đại phúc, sáng lập hai tu hội và là người cực lực cổ võ lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

 

Ngài gia nhập dòng Ôratôriô và thụ phong linh mục năm 24 tuổi. Trong thời kỳ dịch hạch tấn công Normandy năm 1627 và 1631, ngài tình nguyện chăm sóc bệnh nhân trong giáo phận. Ðể khỏi lây bệnh cho các tu sĩ trong dòng, ngài phải sống trong một cái thùng thật lớn ở giữa cánh đồng.

 

Vào năm 32 tuổi, Cha Gioan trở thành vị tông đồ tuần đại phúc. Tài rao giảng và ơn khuyên bảo người hối nhân đã khiến ngài nổi tiếng. Ngài rao giảng tuần đại phúc trên 100 giáo xứ, có khi kéo dài từ vài tuần đến vài tháng.

 

Trong sự lưu tâm đến linh đạo của hàng giáo sĩ, ngài nhận thấy trước hết cần phải thăng tiến tâm linh các chủng sinh. Với sự cho phép của bề trên, là giám mục và Hồng Y Richelieu, ngài bắt đầu việc canh tân, nhưng vị bề trên kế tiếp lại không tán thành. Sau khi cầu nguyện và hội ý, Cha Gioan quyết định từ bỏ dòng và sáng lập một tổ chức mới, được gọi là Tu Hội Ðức Giêsu và Mẹ Maria (Dòng Thánh Gioan Eudes), chuyên đào tạo các giáo sĩ qua việc thiết lập và trông coi các chủng viện. Công việc táo bạo này, trong khi được sự tán thành của các giám mục địa phương, lại bị chống đối kịch liệt bởi phe Jansen và chính các linh mục dòng Ôratôriô. Cha Gioan thành lập được một vài chủng viện ở Normandy, nhưng không đạt được sự phê chuẩn của Rôma (người ta nói, một phần là vì ngài không biết khéo đối xử).

 

Trong việc tổ chức tuần đại phúc giáo xứ, Cha Gioan thật lo âu khi thấy các phụ nữ nghèo đói tìm cách thoát ra khỏi đời sống khó khăn qua nghề làm điếm. Lúc bấy giờ, bà Madeleine Lamy, đang chăm sóc một số phụ nữ hoàn lương, đến nói với Cha Gioan: “Ðầu óc cha đang ở đâu vậy? Có lẽ cha đang nghĩ đến nhà thờ là nơi cha chiêm ngắm các ảnh tượng và nghĩ mình đạo đức. Trong khi đó, những gì cần nơi cha là một căn nhà tử tế cho những người khốn cùng này.” Những lời lẽ ấy, và có lẽ những tiếng nhạo cười đã thức tỉnh ngài. Kết quả là một tu hội mới được thành lập, mang tên Nữ Tu Bác Ái của Nơi Nương Tựa để chăm sóc các phụ nữ bất hạnh hoàn lương.

 

Có lẽ Cha Gioan nổi tiếng nhất là vì các sáng tác của ngài về chủ đề: Ðức Giêsu là nguồn thánh thiện, Ðức Maria là gương mẫu đời sống Kitô Hữu.

 

Cha Gioan qua đời ngày 19 tháng 8 năm 1680 tại Caen, Normandy, Nước Pháp. Cha được Đức Thánh Giáo Hoàng Pius X tôn phong Chân Phước ngày 25/4/1909 và Đức CP Giáo Hoàng Pius XI đã nâng Cha Gioan lên hàng hiển thánh năm 1925 và tuyên xưng ngài là cha đẻ việc sùng kính Thánh Tâm Ðức Giêsu và Mẹ Maria.

Lời Bàn

Thánh thiện là mở lòng cho tình yêu của Thiên Chúa và được tỏ lộ qua nhiều hình thức, nhưng các hình thức ấy đều có một đặc điểm chung: lưu tâm đến nhu cầu của tha nhân. Trong trường hợp của Thánh Gioan Eudes, những người có nhu cầu là các bệnh nhân dịch hạch, các giáo dân trong xứ, những người chuẩn bị làm linh mục, các người gái điếm và mọi Kitô Hữu được mời gọi để bắt chước tình yêu của Chúa Giêsu và mẹ của Người.

Lời Trích

Sự khao khát của chúng ta, mục tiêu của chúng ta, sự bận tâm của chúng ta phải là việc uốn nắn chính mình để trở nên giống Chúa Giêsu, để thần khí của Người, sự tận tụy của Người, lòng thương mến của Người và ý định của Người sống động và ngự trị trong chúng ta. Mọi luyện tập nhân đức phải hướng đến cùng đích này. Ðó là công việc mà Thiên Chúa đã trao cho chúng ta để thi hành một cách không ngừng nghỉ” (Thánh Gioan Eudes, “Ðời Sống và Sự Ngự Trị của Ðức Giêsu trong Tâm Hồn Kitô Hữu”).

https://dongten.net/2019/08/18/hanh-cac-thanh-19-08-thanh-gioan-eudes/

 

 

Thứ Sáu

Phụng Vụ Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: (Năm I) R 1, 1. 3-6. 14b-16. 22

"Bà Nôêmi cùng nàng dâu người Moab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem".

Khởi đầu sách truyện Bà Ruth.

Khi các quan án cầm quyền, thì dưới thời một quan án kia, trong xứ xảy ra nạn đói kém. Có một người thành Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, đem vợ và hai con sang cư ngụ trong miền Môab.

Và Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực.

Bà Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: "Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị con". Bà Ruth thưa lại rằng: "Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con".

Vậy bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt lúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 145, 5-6. 7. 8-9a. 9bc-10

Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng. - Ðáp.

2) Người là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.

3) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.

4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 11, 25

Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 22, 34-40

"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Ðoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Tình Yêu Bất Diệt - Vinh Hiển Phục Sinh

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XX Thường Niên, cũng không liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, cách bài Phúc Âm hôm qua 16 câu, trong đó có hai vấn đề được đặt ra cho Chúa Giêsu, trước hết là vấn đề được nhóm biệt phái cố tình gài bẫy Chúa Giêsu về việc nộp thuế cho Cesar (xem Mathêu 22:22:15-22), và sau đó là vấn đề được nhóm Saducê đặt ra về niềm tin phục sinh (xem Mathêu 22:23-33), cả hai vấn đề đã được Phúc Âm Thánh ký Marcô thuật lại ở Thứ Ba và Thứ Tư Tuần IX Thường Niên trước đây.

 

Tuy nhiên, bài Phúc Âm hôm nay, bài Phúc Âm trước hết về điều răn trọng nhất, dù đã được Giáo Hội chọn đọc theo Thánh ký Marcô cho Thứ Năm Tuần IX Thường Niên, Giáo Hội vẫn chọn đọc lại một lần nữa, vì giới răn trọng nhất trong bài Phúc Âm hôm nay cũng liên hệ với 2 bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia trong tuần này. 

 

Ở chỗ, nếu con người sống trọn giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", thì các nhóm thợ làm vườn nho lâu giờ đã không tỏ thái độ bất mãn với chủ và ghen tị với nhóm thợ cuối giờ, và thành phần bất ngờ được mời đến dự tiệc cưới trong hoàng cung sẽ mặc áo cưới xứng đáng với đặc ân diễm phúc khôn lường của mình.

 

Và vấn đề giới răn trọng nhất này còn liên quan cả đến mầu nhiệm phục sinh nữa. Ở chỗ, tất cả mọi sự trên trần gian này sẽ qua đi, kể cả đức tin, ngoại trừ duy có đức mến. Vì "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16). Bởi vậy, nếu hai yếu tố làm nên bản tính của con người là linh hồn và thân xác, nhưng linh hồn chi phối thân xác và thân xác lệ thuộc linh hồn thế nào, thì một khi thân xác của con người trở thành khí cụ của lòng mến, tác hành theo lòng mến, theo tình yêu Thiên Chúa, theo đức ái trọn hảo, thì thân xác đó đã chứng tỏ nó mang sẵn mầm sống vĩnh cửu, bất diệt, và trọn hảo nhờ linh hồn thiêng liêng bất tử và trọn lành của nó, và nhờ quyền năng của Thánh Thần, nó sẽ trở nên như thân xác phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô (xem Philiphê 3:21).

 

Một thanh sắt cho dù có bị rỉ xét đến đâu chăng nữa, một khi được nung bằng lửa thì nó cũng trở nên sáng rực như lửa thế nào thì thân xác của con người cũng thế. Cho dù thân xác đó khi còn sống có dâm ô nhục dục đàng điếm chăng nữa, nhưng một khi tâm hồn của thân xác đó biết ăn năn thống hối với tất cả lòng mến, thì thân xác đó sẽ trở nên tinh tuyền. Bởi xác của con người ngày sau sống lại thì trở nên thiêng liêng như thiên thần, như Chúa Giêsu khẳng định (xem Mathêu 22:30).

 

Trong các thánh nữ đồng trinh, ngoài Mẹ Maria là đệ nhất trinh nữ và là trinh nữ trên hết, một trinh nữ sinh con duy nhất trên trần gian này, thì vị thánh nữ đồng trinh thứ nhất trong hàng ngũ các thánh trinh nữ là Thánh Catarina Tử Đạo, sau đó đến Thánh Nữ Mai Đệ Liên đàng điếm và Thánh Nữ Magarita Cortone cũng thuộc về loại ưu hạng trong số các thánh trinh nữ, như chính Chúa Giêsu đã tỏ cho chị thánh biết, và dấu chứng thực đó là thân xác sống dâm dục 9 năm trời với một người tình và có một đứa con hoang (ngoại hôn) với chàng của chị chẳng những không bị hư hoại mà vẫn còn nguyên.

 

Thật vậy, vào ngày lễ của Thánh Catherine thành Alexandria Tử Đạo (25/11 theo lịch phụng vụ cũ), khi Thánh Nữ Margarita đang ở bàn thờ để rước lễ thì nghe thấy Chúa Giêsu nói cùng mình rằng:

 

Con Cha ơi, chỗ của con sẽ ở giữa thần Seraphim cùng với các trinh nữ bừng cháy tình yêu thần linh”.

 

Nghe thấy thế Thánh nữ sửng sốt đáp lại rằng:

 

Lạy Chúa, làm sao điều ấy có thể xẩy ra được với một con người nhớp nhúa tội lỗi chứ?

 

Chị đã nghe thấy câu giải đáp của Chúa như sau:

 

Những đau khổ vô vàn của con sẽ thanh tẩy tâm hồn con khỏi tất cả mọi thứ thu hút phạm tội, và trong nỗi đớn đau và ăn năn thống hối của mình, con sẽ phục hồi sự tinh tuyền đồng trinh của con”.

 

Thánh nữ lại càng cảm thấy sợ hãi trước câu trả lời của Chúa và đã than lên rằng:

 

Ôi Chúa Kitô là Sư Phụ của con, phải chăng Thánh Mai Đệ Liên thuộc về thành phần các trinh nữ trong vinh quang thiên đình?” Chúa liền tiết lộ cho chị biết rằng: “Ngoại trừ Mẹ Maria và Catherine Tử Đạo, không ai hơn Mai Đệ Liên trong hàng ngũ trinh nữ”.

 

(A Tuscan Petinent: The Life and Legend of Saint Margaret of Cortona, by Father Cuthbert, Burns Oates and Washbourne, Ltd, 1900, pages 160-161).

 

Giới răn trọng đại nhất là giới răn mến Chúa yêu người được Chúa Giêsu tóm gọn và khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay được tỏ hiện nơi một con người dân ngoại, được Sách Bà Ruth thuật lại ở Bài Đọc 1 hôm nay, một nữ nhân vật vì trung thành với người mẹ chồng của mình nên cũng tôn thờ Thiên Chúa của bên chồng mình nữa, dù chồng mình không còn sống, và dù có được mẹ chồng khuyên giục trở về quê quán của mình, nhờ đó có thể lập gia đình với người khác:

"Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực. Bà Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: 'Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị con'. Bà Ruth thưa lại rằng: 'Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con'. Vậy bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt lúa".

 

Những con người nhận biết Thiên Chúa là những con người có phúc, dù cuộc đời họ có khốn khổ bần cùng chăng nữa, vì Thiên Chúa muốn để cho họ như vậy để họ càng trở nên đáng thương hơn, càng tin tưởng cậy trông vào Ngài hơn, và nhờ đó Ngài càng tỏ mình ra cho họ hơn, như chủ tể của cõi lòng họ và cuộc đời của họ như Thánh Vịnh 145 ở bài Đáp Ca hôm nay cảm nhận:

1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng.

2) Người là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.

3) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.

4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.

 

Ngày 20 tháng 8

Thánh Bê-na-đô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Thánh nhân sinh năm 1090 gần Đi-giông, nước Pháp. Được giáo dục theo nếp sống đạo đức, năm 1111 người nhập dòng các đan sĩ Xi-tô. Ít lâu sau, người được chọn làm viện phụ. Người đã dùng hoạt động và gương sáng để hướng dẫn các đan sĩ tập luyện các nhân đức. Vì có sự phân ly trong Hội Thánh, người đã đi khắp châu Âu để lo vãn hồi sự hoà bình và hợp nhất. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Người qua đời năm 1153.

Bài đọc 2

Tôi yêu vì tôi yêu, tôi yêu để tôi yêu

Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ, về sách Diễm ca.

Tình yêu tự mình đủ cho mình, tự mình và vì mình đem lại niềm vui. Chính tình yêu là công trạng, nhưng cũng chính tình yêu là phần thưởng cho mình. Tình yêu không tìm lý do, không tìm hiệu quả ngoài mình : hiệu quả của tình yêu là chính tình yêu. Tôi yêu vì tôi yêu, tôi yêu để tôi yêu. Tình yêu là một điều cao cả, miễn là luôn trở về với nguyên lý của mình, miễn là luôn trở lại với nguồn gốc của mình, miễn là ngược trở lại nguồn mạch của mình để luôn luôn được tuôn trào. Trong mọi hoạt động, cảm xúc và tâm tình của linh hồn, chỉ có tình yêu có thể giúp thụ tạo đáp lại Đấng Tạo Hoá, dầu không tương xứng, thì ít ra cũng giống nhau được phần nào. Vì khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu : Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó.

Tình yêu của hôn phu, đúng hơn tình yêu là hôn phu, không đòi hỏi gì khác hơn là được yêu lại và giữ lòng chung thuỷ. Do đó người được yêu có quyền yêu lại. Sao hôn thê có thể không yêu, khi chính nàng là hôn thê của tình yêu ? Sao tình yêu lại không được yêu ?

Thế nên hôn thê có lý khi từ bỏ mọi tình cảm khác để hoàn toàn hiến mình cho một tình yêu duy nhất, vì hôn thê phải đáp lại chính tình yêu bằng cách yêu lại. Nhưng khi hôn thê hoà nhập hoàn toàn với tình yêu, thì tình yêu sẽ là gì so với dòng chảy bất tận của nguồn mạch tình yêu ? Người yêu và tình yêu, linh hồn và Ngôi Lời, hôn thê và hôn phu, tạo hoá và thụ tạo không tuôn đổ dòng yêu thương phong phú như nhau, chẳng khác gì người khát với nguồn nước.

Vậy thì sao ? Không lẽ vì thế mà làm mai một và tan biến hoàn toàn lời ước nguyện của vị hôn thê, niềm khát khao của kẻ mong chờ, lòng rạo rực của kẻ đang yêu, lòng tin tưởng của người hãnh diện, vì vị hôn thê đâu có thể chạy sóng đôi với người khổng lồ, tranh đua vị ngọt với mật ong, tính hiền lành với con chiên, màu trắng với hoa huệ, vẻ sáng chói với mặt trời, tình yêu với Đấng là chính tình yêu ? Không phải thế. Vì thụ tạo nhỏ bé hơn, nên vẫn yêu mến ít hơn. Dầu vậy, nếu thụ tạo yêu trọn tình, thì nơi đâu đã trọn vẹn, nơi ấy chẳng thiếu chi. Vậy yêu như thế là đã thành hôn rồi, bởi không thể yêu đến vậy mà chỉ được yêu lại ít, nên khi hai bên đã thuận tình, thì hôn phối trọn vẹn và hoàn hảo đã được kết ước. Nếu không, lại có kẻ nghi ngờ sự thật này : linh hồn vẫn được Ngôi Lời yêu thương trước và yêu thương nhiều hơn.

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh viện phụ Bê-na-đô đầy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa để trở nên ngọn đèn cháy sáng trong Giáo Hội. Nhờ lời người nguyện giúp cầu thay, xin cho chúng con cũng được lòng hăng hái như người, để sống thế nào cho xứng danh là con cái ánh sáng. Chúng con cầu xin

 

 

ThanhBenado.mp3 (20/8)

 


Thứ Bảy

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) R 2, 1-3. 8-11; 4, 13-17

"Chúa không nỡ để cho bà thiếu kẻ nối dòng. Ðó là thân phụ của Isai, cha của Ðavít".

Trích sách truyện Bà Ruth.

Bấy giờ ông Êlimêlech, chồng bà Nôêmi có một người họ hàng, là người quyền thế và giàu có, tên là Booz. Bà Ruth, người Môab, thưa với mẹ chồng rằng: "Nếu mẹ cho phép, con xin ra đồng mót lúa mà các thợ gặt bỏ sót, nơi nào mà chủ ruộng nhân từ vui lòng cho con mót". Bà mẹ trả lời rằng: "Hỡi con, con cứ đi". Nàng liền đi mót lúa đàng sau các thợ gặt. Bất ngờ chủ ruộng ấy tên là Booz, người có họ với Êlimêlech.

Ông Booz bảo bà Ruth rằng: "Hỡi con, hãy nghe đây, con đừng đi mót lúa ở ruộng khác, đừng rời khỏi nơi này: nhưng hãy đi theo các tớ gái của ta, chúng nó gặt ở đâu, con cứ đi theo đó; vì ta bảo các đầy tớ ta đừng ai làm phiền con. Cả khi con khát nước, cũng cứ đến các vò nước và uống nước mà các đầy tớ ta uống". Bà sấp mình xuống đất, lạy ông ấy mà nói rằng: "Bởi đâu tôi được ơn trước mặt ông, và ông đoái thương tôi là người nữ ngoại bang?" Ông trả lời rằng: "Ta đã nghe đồn mọi sự con đã làm đối với mẹ chồng, sau khi chồng con qua đời, con đã lìa bỏ cha mẹ quê hương và đến cùng dân tộc mà trước đây con không hề biết".

Vậy ông Booz cưới bà Ruth làm vợ. Ông ăn ở với bà, và Chúa ban cho bà có thai, bà sinh được một con trai. Các phụ nữ nói cùng bà Nôêmi rằng: "Chúc tụng Chúa là Ðấng không nỡ để cho gia đình bà thiếu kẻ nối dòng! Và nguyện danh Chúa được ca tụng khắp Israel! Cầu chúc bà có người an ủi tâm hồn và phụng dưỡng tuổi già; vì người đó sẽ sinh ra do người con dâu yêu mến bà, và người con dâu đó đáng quý hơn bảy người con trai". Bà Nôêmi ẵm con trẻ vào lòng, và nuôi nấng nó như người vú. Các phụ nữ láng giềng đến mừng bà mà rằng: "Bà Nôêmi đã được một cháu trai". Họ đặt tên cho con trẻ là Obed: đó là thân phụ của Isai cha của Ðavít.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5

Ðáp: Ðó là ơn phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Chúa (c. 4).

Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Ðáp.

3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn. - Ðáp.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 1-12

"Họ nói mà không làm".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta: còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là "Thầy", vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là "cha", vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là "người chỉ đạo": vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"thày", "cha" và "xếp- không hưởng thụ nhưng phục vụ

 

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XX Thường Niên hôm nay cách bài Phúc Âm hôm qua 5 câu, 41-46, những câu cuối của Đoạn 22, những câu Phúc Âm về vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho thành phần biệt phái khiến "không ai dám hỏi Người một điều gì nữa từ đó trở đi" (Mathêu 22:46), đó là vấn đề nếu Đấng Kitô Thiên Sai là con của Vua Đavít thì tại sao chính vua lại gọi Người là Chúa


Phải, Giáo Hội đã không chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu về vấn đề ấy, vì vấn đề này đã được Giáo Hội chọn đọc cho ngày Thứ Sáu Tuần IX Thường Niên theo Phúc Âm của Thánh ký Marcô rồi. Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc hôm nay liên quan đến thành phần luật sĩ và biệt phái, thành phần bị Người thậm tệ quở trách và vạch trần bộ mặt giả hình của họ, như chúng ta đã thấy 1 chút trong bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô ở Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên, và sẽ thấy tt cả ở trong các bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho 3 ngày đầu của tuần tới, tuần cuối cùng theo Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Phụng Vụ Lời Chúa ngày thường trong tuần từ Tuần X Thường Niên.


Đúng thế, ngay từ bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm thẳng vạch trần chân tướng của hai thành phần luật sĩ và biệt phái đầy kiêu hãnh và ham danh trong dân này:


"Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là 'rabbi'".

 

Tuy hai thành phần luật sĩ và biệt phái vốn được coi là thày dạy trong dân này có những cử chỉ và hành động đầy gương mù gương xấu phản tác dụng bất khả chấp như vậy, nhưng "Đức Giêsu (vẫn) nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: 'Các kinh sư và các người Pharisiêu ngồi trên toà ông Moisen mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm'".  

 

Thế nhưng, trên thực tế rất khó thực hành theo bản tính tự nhiên của loài người. Chúng ta hay có khuynh hướng đồng hóa tội nhân với tội lỗi hay với gương mù gương xấu của họ. Ở chỗ, chúng ta chẳng những tỏ ra ghê tởm việc làm xấu xa hay tội lỗi của họ mà còn ghê tởm và khinh bỉ chính con người của họ nữa. Có những lúc hay nhiều lúc chúng ta thường tấn công họ bằng những lời nói nhục mạ họ, (thậm chí công khai qua phương tiện truyền thông: báo chí, email, internet, truyền thanh, truyền hình, thơ nặc danh, hay ngay cả trên tòa giảng v.v.), hơn là tế nhị và nhẹ nhàng khôn khéo sửa lỗi cho họ để họ dễ cảm nhận bản thân hèn yếu lỗi lầm của mình mà hoán cải trở về cùng Chúa theo tinh thần và đường lối được Chúa Giêsu huấn dạy trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước. 

 

Chúng ta thường đối xử với anh chị em lầm lỗi của chúng ta như thể chúng ta là con người toàn hảo, không bao giờ sai lỗi, động một tí là ném đá nhau, thậm chí như thể là quan án của họ, có quyền tối thượng trong việc thưởng pht nhau, trong khi chúng ta chưa thấu suốt được thâm tâm của nhau như Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền phán quyết mọi người. Quả thực Chúa Giêsu nói về chúng ta quá đúng khi Người vừa khiển trách vừa nghiêm trọng cảnh giác chúng ta rằng: "Đồ giả hình! trước hết ngươi hãy lấy khỏi mắt của mình cái xà đi đã rồi ngươi mới thấy được một cách rõ ràng mà lấy đi cái rằm trong con mắt của anh chị em của ngươi" (Mathêu 7:5). 

 

Tuy nhiên, không phải đối xử một cách cảm thông với những người anh chị em lỗi lầm của mình đến độ không còn biết phân biệt đâu là phải là trái nữa. Ở chỗ, thương tội nhân nhưng không chấp nhận tội lỗi của họ. Bởi thế, cho dù ở ngay đầu bài Phúc Âm Chúa Giêsu khuyên hãy tôn trọng quyền giáo huấn của thành phần luật sĩ và biệt phái, cuối bài Phúc Âm Người vẫn khuyên dạy dân chúng và các môn đệ của Người "đừng có làm theo những việc của họ", mà hãy sống ngược lại như sau:

 

"Phần anh em, đừng để ai gọi mình là 'rabbi', vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên".
Trong huấn dụ của Chúa Kitô trên đây, về hình thức thì nên tránh ba danh xưng "thày", "cha" và "xếpđối với bản thân mình, ở chỗ, về tinh thần, cho dù mình có thực sự đóng vai là "sư phụ", là "thân phụ", là "lãnh tụ" chăng nữa, mình cũng phải dấn thân phục vụ hơn là hưởng thụ, hãy lợi dụng chức vụ là "thày", là "cha", là "xếp" của mình để mang lại lợi ích cho thành phần được trao phó cho mình, theo đúng dự định thần linh của Đấng đã tuyển chọn mình, theo gương của chính Đấng Kitô Thiên Sai, Đấng đã "đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28). 

Nếu để ý kỹ thứ tự và ba chức vụ được Chúa Giêsu nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay: 1. sự phụ - thày, 2. thân phụ - cha và 3. lãnh tụ - xếp, chúng ta mới thấy được rằng Chúa Giêsu ám chỉ huấn dụ của Người cho thành phần môn đệ tông đồ của Người hơn là dân chúng. Bởi vì chỉ có các tông đồ mới bao gồm cả 3 nhiệm vụ hay vai trò này, những nhiệm vụ và vai trò được thừa kế bởi hàng giáo phẩm sau các vị, bao gồm cả giáo hoàng lẫn các vị giám mục. Ba nhiệm vụ và vai trò của các tông đồ cũng như của hàng giáo phẩm thừa kế các ngài là gì, nếu không phái là 1- giảng dạy (với tư cách là thày), 2- thánh hóa (với tư cách là cha - điển hình nhất là ban Bí Tích rửa tội tái sinh và Bí Tích Thánh Thể dưỡng nuôi và Bí Tích Hòa Giải tha thứ hồi sinh v.v.), và quản trị (với tư cách là xếp, là mục tử v.v.)

Tóm lại, nội dung của bài Phúc Âm hôm nay chính yếu và thành phần luật sĩ và biệt phái nhưng đối tượng mà Chúa Giêsu nhắm tới để giáo huấn lại là thành phần dân chúng và môn đệ. Sở dĩ bao gồm cả hai thành phần này cần phải nghe những gì Người nói về thành phần có thẩm quyền giảng dạy trong dân là vì hai loại người này dễ bị ảnh hưởng bởi gương mù gương xấu của họ, nhất là khi họ lại đóng vai trò làm thày dạy nữa. Gương mù gương xấu dễ gây ảnh hưởng nên cả dân chúng lẫn các môn đệ của Người cần phải tránh vì những gương mù gương xấu của họ rất hợp với bản tính tự nhiên và khuynh hướng phô trương tuụ cao tự đại của con người.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà Chúa Kitô phủ nhận danh xưng hay vai trò thực sự của những người làm thày (sư phụ - người có quyền về tinh thần của con người), của những người làm cha (thân phụ - người có quyền theo huyết nhục tự nhiên), và của những người làm đầu (lãnh tụ - người có quyền lãnh đạo về hành chính). Chúa chỉ có ý dạy dân chúng và các môn đệ của Người rằng dù họ có thực sự làm cha mẹ trong gia đình theo huyết nhục, có là giám mục hay linh mục trong Giáo Hội, có tài năng thế giá và chức quyền về bất cứ phương diện nào (nhất là về chính trị) trong xã hội đi nữa v.v. họ hãy phục vụ hơn là hưởng thụ, đó mới đúng ý nghĩa kẻ làm đầu là làm đầy tớ như Người làm gương (xem Mathêu 20:26-28).

Vai trò làm đầu theo tinh thần phục vụ hơn hưởng thụ, đúng như ý nghĩa và mục đích về quyền hạn được ban cho mình, được Chúa Kitô khuyên dạy các môn đệ và dân chúng trong bài Phúc Âm hôm nay, hoàn toàn ngược lại với khuynh hướng hưởng thụ hơn phục vụ của thành phần biệt phái và luật sĩ bấy giờ, một vai trọ làm đầu đích thực theo đúng tinh thần Phúc Âm này đã được phản ảnh qua nhân vật Booz trong Sách Bà Ruth ở Bài Đọc 1 hôm nay:

"Ông Booz bảo bà Ruth rằng: 'Hỡi con, hãy nghe đây, con đừng đi mót lúa ở ruộng khác, đừng rời khỏi nơi này: nhưng hãy đi theo các tớ gái của ta, chúng nó gặt ở đâu, con cứ đi theo đó; vì ta bảo các đầy tớ ta đừng ai làm phiền con. Cả khi con khát nước, cũng cứ đến các vò nước và uống nước mà các đầy tớ ta uống'. Bà sấp mình xuống đất, lạy ông ấy mà nói rằng: 'Bởi đâu tôi được ơn trước mặt ông, và ông đoái thương tôi là người nữ ngoại bang?' Ông trả lời rằng: 'Ta đã nghe đồn mọi sự con đã làm đối với mẹ chồng, sau khi chồng con qua đời, con đã lìa bỏ cha mẹ quê hương và đến cùng dân tộc mà trước đây con không hề biết'".

 

Đúng thế, việc làm đầu là phục vụ của nhân vật Booz, vì đúng ý Chúa và đẹp lòng Chúa, nên đã trổ sinh hoa trái tốt đẹp, ở chỗ "Ông Booz cưới bà Ruth làm vợ. Ông ăn ở với bà, và Chúa ban cho bà có thai, bà sinh được một con trai... Bà Nôêmi ẵm con trẻ vào lòng, và nuôi nấng nó như người vú. Các phụ nữ láng giềng đến mừng bà mà rằng: 'Bà Nôêmi đã được một cháu trai'. Họ đặt tên cho con trẻ là Obed: đó là thân phụ của Isai cha của Ðavít". Đó là lý do Thánh Vịnh 127 ở bài Đáp Ca hôm nay mới xướng lên một tâm tình ca ngợi người biết kính sợ Chúa như sau:

1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.

3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn.

 

ThanhGiaoHoangPioX.mp3 (21/8)