SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Chay Tuần 2

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

 

Chúa Nhật


Lời Chúa


Bài Ðọc I: St 15, 5-12. 17-18

"Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với Abraham".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: "Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao". Rồi Chúa nói tiếp: "Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế". Abram tin vào Thiên Chúa, và vì đó ông được công chính.

Và Chúa lại nói: "Ta là Chúa, Ðấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho ngươi xứ này làm gia nghiệp". Abram thưa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, làm sao con có thể biết con sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?" Chúa đáp: "Ngươi hãy bắt một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu non". Abram bắt tất cả những con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nửa này đối diện với phân nửa kia; nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mãnh cầm lao xuống trên những con vật vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời lặn, Abram ngủ mê; một cơn sợ hãi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông.

Khi mặt trời đã lặn rồi, bóng tối mịt mù phủ xuống, có một chiếc lò bốc khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật bị chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đã thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: "Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai-cập cho đến sông Eu-phrát".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 7-8a. 8b-9abc. 13-14

Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng Cứu Ðộ tôi. (c. 1a)

Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng Cứu Ðộ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: "Hãy tìm ra mắt Ta".- Ðáp.

3) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong cơn thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ, xin đừng hất hủi con. - Ðáp.

4) Con tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Pl 3, 17 - 4, 1

"Chúa Kitô sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác hiển vinh của Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.

Anh em thân mến, anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi. Bởi chưng như tôi đã thường nói với anh em, và giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Ðức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này.

Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người.

Bởi thế, anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc bài vắn sau đây: Pl 3, 20 - 4, 1

Anh em thân mến, quê hương chúng ta ở trên trời nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người. Bởi thế, anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 17, 5

Từ trong đám mây sáng chói có tiếng Chúa Cha phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người".

 

Phúc Âm: Lc 9, 28b-36

"Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.

Ðó là lời Chúa.

 




Suy niệm

 

 

Sự Sống biến đổi


Hôm nay, Chúa Nhật Tuần 2 Mùa Chay, và chính vì là Mùa Chay, thời điểm gắn liền với ý nghĩa và tinh thần chay tịnh là những gì liên quan tới thân xác của con người, mà phụng vụ lời Chúa hướng đến một chân trời mới đầy huy hoàng trọn hảo của thân xác con người, theo đúng chủ đề của chung Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh về một Chúa Kitô "đã tự ý bỏ sự sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17) "để cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10) nơi cả thân xác của họ nữa.

Đúng thế, ngay trong Bài Đọc 1 chúng ta đã thấy tính chất của một sự sống viên mãn ở ngay nơi thân xác của con người ngay từ trong Cựu Ước, nơi tổ phụ Abraham, khi ông còn mang tên cũ của mình là "Abram", một tên gọi dính liền với tình trạng son sẻ của vợ chồng ông không có con nối dõi, và cũng chính là lúc ông "được công chính" nhờ ông "tin vào Thiên Chúa", Đấng đã tự động hứa với ông về một giòng dõi vô số kể xuất phát từ ông:

"Trong những ngày ấy, Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: 'Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao'. Rồi Chúa nói tiếp: 'Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế'".

Tất nhiên ở đây, lời hứa thần linh này ám chỉ về một giòng dõi thiêng liêng, giòng dõi của những kẻ tin mà vị tổ phụ này là cha của các kẻ tin (xem Roma 4:16), cũng như ám chỉ về chính Chúa Kitô là tột đỉnh của mạc khải thần linh và là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, đối tượng chính yếu và tối hậu của đức tin cứu độ, bao gồm cả Cựu Ước lẫn Tân Ước.

Tuy nhiên, lời hứa thần linh liên quan đến giòng dõi tin tưởng thần linh này được Thiên Chúa thực hiện ở ngay tại miền Đất Hứa, một địa dư về thể lý được Thiên Chúa giành sẵn cho một dân tộc là giòng dõi về thể xác của vị tổ phụ này. Đó là lý do Bài Đọc 1 chẳng những mở đầu bằng lời hứa thần linh ấy mà còn kết lại ở chi tiết liên quan đến một địa dư về thể lý cũng như đến một giòng dõi v thể xác của vị tổ phụ này:

"Khi mặt trời đã lặn rồi, bóng tối mịt mù phủ xuống, có một chiếc lò bốc khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật bị chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đã thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: 'Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai-cập cho đến sông Eu-phrát'".

Chính vì lời hứa thần linh trong Bài Đọc 1 hôm nay liên quan đến đức tin nơi nhân vật Abram, một con người được Thiên Chúa tuyển chọn làm tổ phụ của một giòng dõi chẳng những là một cộng đồng đức tin mà còn là một dân tộc dân Do Thái về xác thịt của ông, mà tâm tình và cảm nhận được bày tỏ trong Bài Đáp Ca hôm nay có thể nói phản ảnh cảm nhận và tâm tình của một người được xưng tụng là cha đức tin trong Bài Đọc 1 hôm nay:

1) Chúa là sự sáng, là Ðấng Cứu Ðộ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? 

2) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: "Hãy tìm ra mắt Ta".

3) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong cơn thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ, xin đừng hất hủi con. 

4) Con tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! 

Nếu khi sống lại, con người ta vốn sống trong thân xác ở trên trần gian bị giới hạn trong không gian và thời gian này, sẽ trở nên như các thần trời thiêng liêng sáng láng (xem Mathêu 22:30), một thực tại thiêng liêng được Thiên Chúa ám chỉ trong lời hứa thần linh ở Bài Đọc 1 hôm nay nơi hình ảnh: "các ngôi sao" ở "trên bầu trời" mà "Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế". 

Thật vậy, con người tạo vật được sinh ra trên trần gian này, cho dù bản tính đã bị hư đi theo nguyên tội và bởi nguyên tội, nhưng họ cũng đã được Chúa Kitô cứu độ, và được cứu độ cả hồn lẫn xác chứ không phải chỉ có nguyên phần hồn, mà xác của con người cuối cùng cũng sẽ phục sinh như chính thân xác của Chúa Kitô, một thực tại đã được Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô xác tín và loan truyền trong Bài Đọc 2 hôm nay như sau:

"Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người".

Thế nhưng, ngay đầu câu nói này, Thánh Phaolô sử dụng cụm từ "phần chúng ta", vì ngài muốn phân biệt thành phần luôn tìm kiếm "quê hương ở trên trời" mà nhờ đó, nhờ sống đức tin, "thân xác hèn hạ của (họ mới được) nên giống như thân xác hiển vinh của Người", hoàn toàn khác với số phận của thành phần được ngài đề cập đến trước đó là "có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Ðức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này"

Cho dù tất cả loài người sẽ được sống lại, vì Thiên Chúa, nơi Chúa Kitô Thiên Sai Cứu Thế, đã cứu độ chung tất cả loài người, nhưng thân xác của thành phần bị "hư vong", vì đã lấy "cái bụng" làm "chúa tể" của họ và "chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này", chắc chắn không thể chung phần với những ai được cứu độ nhờ sống đức tin, thành phần có một "thân xác hèn hạ", nhưng được Chúa Kitô "biến đổi cho nên giống như thân xác hiển vinh của Người".

Thực tại hay hình ảnh về "thân xác hiển vinh của Người" ra sao đã được Thánh ký Luca thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến hiện tượng cũng là sự kiện biến hình của Chúa Kitô. Trong trình thuật này, được bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại, và được Giáo Hội bao giờ cũng cho vào Chúa Nhật II Mùa Chay tùy bài Phúc Âm hợp với Chu Kỳ Phụng Niên A-B-C, không chỉ cho thấy Chúa Kitô "hiển dung" (biến hình ở dung nhan diện mạo của Người) mà còn biến hình ở cả toàn thân thể của Người nữa

"Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng".

Thật vậy, nếu "diện mạo" của Người ám chỉ linh hồn của Người thì "áo của Người" ám chỉ thân xác của Người, có nghĩa là nhân tính của Người trở nên thiêng liêng sáng láng như các thần trời, hoàn toàn phản ảnh Thần Tính tự bản chất là Thần Linh vô cùng thánh hảo, toàn hảo và tuyệt hảo của Người, đồng thời cũng báo trước Cuộc Phục Sinh vinh hiển của Người sau cuộc khổ nạn và tử giá, một cuộc chiến thắng tội lỗi và sự chết của Người nơi bản tính loài người được Người mặc lấy và cho bản tính của nhân loại đã bị hư đi .

Trong biến cố biến hình này của Chúa Kitô, chúng ta thấy 2 chi tiết cần phải để ý, chi tiết thứ nhất liên quan đến các nhân vật trần gian, bao gồm 3 nhân vật Tân Ước là "Phêrô, Giacôbê và Gioan" và 2 nhân vật Cựu Ước "đó là Môsê và Êlia". 

Phải chăng hai nhân vật Cựu Ước là Moisen, biểu hiệu cho lề luật của Thiên Chúa, và Elia, biểu hiệu cho các lời tiên tri, cả hai đều nói về và qui về Chúa Kitô, được chính Chúa Kitô sử dụng để chứng thực với các tông đồ rằng Người quả thực đã sống lại, hay đúng hơn để chứng thực với các vị là thành phần chứng nhân tiên khởi của Người rằng Người quả thực là Đấng Thiên Sai Cứu Thế như Thánh Kinh Cựu Ước nói đến (xem Luca 24:44)?

Nếu đúng như thế thì Người quả thực là tột đỉnh của mạc khải thần linh Thiên Chúa đã tỏ ra cho dân Do Thái của Ngài trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, một mạc khải thần linh là "tất cả sự thật" (Gioan 16:13), được chất chứa nơi lề luật và lời tiên tri Cựu Ước, mà "Thiên Chúa là Thần Linh" (Gioan 4:24) muốn tỏ ra cho chung loài người, nhất là cho riêng Giáo Hội của Con Ngài biết.

Giáo Hội của Con Ngài bấy giờ phải chăng được đại diện bởi 3 vị môn đệ thân tín nhất của Người, ba vị môn đệ thứ tự đóng vai tiêu biểu cho 3 thần đức tin, cậy và mến, những thần đức mang tính cách là những năng lực hay khả năng chính yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly để nhờ đó con người Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô có thể chẳng những được tham phần vào mà còn phải truyền đạt hay thông truyền "sự sống viên mãn" (Gioan 10:10) từ cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô nói chung và từ cuộc Phục Sinh của Người nói riêng, được Bài Phúc Âm hôm nay tiên báo ở sự kiện biến hình. 

Trong sự kiện biến hình được Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại còn một chi tiết liên quan đến trời cao nữa, đó là chi tiết liên quan đến Ba Ngôi Vị Thần Linh: "Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàngBấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: 'Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người'. Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu".

Nếu "đám mây" đây, theo ý nghĩa của Thánh Kinh, nhất là qua các cuộc thần hiển của Thiên Chúa trong Cựu Ước, ám chỉ Thánh Linh Ngôi Ba, một hình ảnh "bao phủ", như lời Thiên Sứ nói với Trinh Nữ Nazarét trong biến cố Truyền Tin (xem Luca 1:35), thì "tiếng phán từ đám mây" ám chỉ Ngôi Cha, Đấng đã từng chứng nhận nhân vật Giêsu Nazarét ở Sông Jordan khi Người chịu phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (xem Luca 3:22), cũng là Đấng, trong biến cố biến hình của cũng nhân vật Giêsu Nazarét này, một Con Người là tất cả mạc khải thần linh Ngài muốn tỏ ra cho chung loài người biết, đã chẳng những tái xác nhận mà còn truyền cho các môn đệ của Người, tiêu biểu cho Giáo Hội của Người, rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người".

"Các ngươi hãy nghe lời Ngườiđây có nghĩa là hãy sống đức tin, theo chiều hướng của Bài Đọc 1, nhất là của Bài Đọc 2 hôm nay, nghĩa là sống một đời sống siêu nhiên, một đời sống không thuộc lãnh giới tự nhiên mà là siêu nhiên dù còn sống trong tự nhiên, còn sống trên trần gian này, một đời sống chẳng những liên quan đến đức tin mà còn liên quan đến toàn bộ 3 thần đức tin, cậy, mến được tiêu biểu nơi 3 vị môn đệ thân tín của Chúa Kitô trong biến cố biến hình. 

Phụng Vụ Lời Chúa cho 2 Chúa Nhật đầu của Mùa Vọng được Giáo Hội cố ý chọn đọc bao giờ cũng về sự kiện Chúa Giêsu chay tịnh 40 ngày trong hoang địa sau đó Người bị ma quỉ cám dỗ (Chúa Nhật 1 Mùa Chay) và về sự kiện Người biến hình trên núi cao (Chúa Nhật 2 Mùa Chay), như thể Giáo Hội muốn con cái của mình ngưỡng vọng về (đúng hơn sống lại trong Mùa Chay) Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô từ khổ nạn tử giá (được tiêu biểu và báo trước nơi sự kiện Người chay tịnh và bị cám dỗ) tới phục sinh vinh hiển (được tiêu biểu và báo trước nơi biến cố biến hình của Người).

Bởi thế, chỉ có Kitô hữu nào sống Mầu Nhiệm Phép Rửa của mình trong Mùa Chay, mầu nhiệm mà họ đã được thực sự vượt qua từ sự chết mà vào sự sống (xem Gioan 6:24) với Chúa Kitô nơi Phép Rửa (xem Roma 6:4-5), họ mới có thể trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Người và cho Người, mới có thể hoan hưởng "sự sống và là sự sống viên mãn hơn" (Gioan 10:10) của Đấng "đã tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) cho họ và qua họ cho toàn thể nhân loại.


Thánh Thi (Giờ Kinh Sách Các Chúa Nhật Mùa Chay - Trích Giờ Kinh Phụng Vụ)


Ðây truyền thống thiêng liêng Giáo Hội

Sống một mùa sám hối ăn năn

Nức lòng ta hãy lo toan,

Bốn mươi ngày chẵn chuyên cần thực thi.

 

Sách Lề Luật Môsê truyền dạy,

Ngôn sứ hằng thúc đẩy không ngơi,

Kitô Vua Cả muôn đời

Cũng từng trai tịnh bốn mươi đêm ngày.

 

Ta hãy giảm mê say vui sướng

Từ nói năng, ăn uống, ngủ nghê

Tâm hồn thể xác đôi bề

Tập quen khắc khổ thiết gì xa hoa.

 

Phải cương quyết tránh xa hiểm họa

Ðã bao người nhẹ dạ tiêu vong,

Luôn luôn cảnh giác đề phòng

Kẻo sa chước quỷ, mắc vòng Xatan.

 

Muôn lạy Chúa toàn năng khôn ví

Là Ba Ngôi hiển trị thiên tòa,

Phúc lành tuôn đổ sớm trưa

Cho mùa trai tịnh thành mùa hồng ân.

 

 

Thứ Hai sau Chúa Nhật II Mùa Chay

 

Bài Ðọc I: Ðn 9, 4b-10

"Chúng con đã phạm tội và đã làm điều gian ác".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Lạy Chúa là Thiên Chúa cao cả và đáng kính sợ, Ðấng giữ lời giao ước và lòng từ bi đối với những ai kính mến Người và tuân giữ những giới răn của Người. Chúng con đã phạm tội và làm điều gian ác; chúng con đã bỏ các giới răn và lề luật Chúa. Chúng con đã không nghe lời các tiên tri tôi tớ Chúa, những người đã nhân danh Chúa nói với các vua chúa, thủ lãnh, cha ông và toàn dân trong xứ chúng con. Lạy Chúa, sự công chính thuộc về Chúa, còn phần chúng con là phải chịu hổ mặt như ngày hôm nay, chúng con là những người thuộc dòng dõi Giuđa, những dân cư ở Giêrusalem, toàn dân Israel, những kẻ gần xa, sống trong mọi nước mà Chúa đã phân tán họ tới đó, vì tội ác mà họ đã phạm nghịch cùng Chúa. Lạy Chúa, điều dành cho chúng con, các vua chúa, thủ lãnh, cha ông chúng con là phải chịu hổ mặt, vì đã phạm tội. Lòng từ bi và tha thứ thuộc về Chúa là Thiên Chúa chúng con, vì chúng con phản bội cùng Chúa. Chúng con đã không vâng theo tiếng Chúa là Thiên Chúa chúng con, để sống theo lề luật mà Chúa đã dùng các tiên tri, tôi tớ Chúa, rao giảng cho chúng con.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 78, 8. 9. 11 và 13

Ðáp: Lạy Chúa, xin đừng xử với chúng con như chúng con đáng tội (Tv 102, 10a).

Xướng: 1) Xin đừng nhớ lỗi tiền nhân để trị chúng con; xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi! - Ðáp.

2) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa; xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài. - Ðáp.

3) Xin cho tiếng tù binh rên siết vọng tới thiên nhan; xin ra tay thần lực giải thoát người mang án tử. Phần chúng con là thần dân Chúa, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi, chúng con sẽ ca tụng Chúa tới muôn đời; đời nọ sang đời kia, chúng con loan truyền lời ca khen Chúa. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 3, 16

Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Người; mọi kẻ tin Ngài, thì được sống đời đời.

 

Phúc Âm: Lc 6, 36-38

"Hãy tha thứ thì các con sẽ được thứ tha".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán thì các con khỏi bị xét đoán; đừng kết án thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho thì sẽ cho lại các con: Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy!"

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lk 6, 36-38

SUY NIỆM

 

      "Cha các con là Ðấng thương xót" 

 

"lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con"

 

 

Ngày Thứ Hai trong Tuần 2 Mùa Chay hôm nay, chủ đề "Tôi đã tự ý bỏ sự sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17) cho toàn Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh được phản ảnh trong phụng vụ lời Chúa trong ngày, ở chỗ nhờ việc Người "đã tự ý bỏ sự sống mình đi" bằng cuộc khổ nạn và tử giá của Người mà Người đã "lấy nó lạinơi việc làm cho con người nhờ đó có thể nhận biết Lòng Thương Xót của Cha Người mà được "sự sống và là sự sống viên mãn hơn" (Gioan 10:10) của Người và với Người.

Thật vậy, trong Bài Phúc Âm hôm nay, "Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán thì các con khỏi bị xét đoán; đừng kết án thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho thì sẽ cho lại các con: Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy!'"

Nội dung của Bài Phúc Âm hôm nay, cũng là những gì Chúa Giêsu muốn nói hay muốn dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay, đó là huấn dụ các môn đệ của Người làm sao để cho thể sống "nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ", một đời sống "nhân từ như Cha" được thể hiện hay được chứng tỏ ở những hành động, về phần tiêu cực: "Ðừng xét đoán ... đừng kết án", và về phần tích cực "hãy cho" đi một cách đầy đặn, một cách "tràn đầy", đến độ "như Cha các con là Ðấng nhân từ". 

Đúng thế, để biết được mình có thật sự "nhân từ" hay "thương xótchăng, và "nhân từ" hay "thương xótđến đâu, có trọn vẹn và hoàn toàn chăng, cần phải căn cứ vào mẫu mực tối hậu của "nhân từ", của "thương xót" là chính "Cha các con là Ðấng nhân từ / thương xót". 

Trước hết, về phần tiêu cực, liên quan đến việc "Ðừng xét đoán ... đừng kết án", nếu Thiên Chúa mà "xét đoán" và "kết án" thì chẳng có một tạo vật "nhân vô thập toàn" nào thoát khỏi ánh mắt vô cùng nghiêm minh thưởng phạt của Ngài, trái lại, Ngài đã "nhân từ", đã "thương xót" thành phần loài người vô cùng thấp hèn và khốn nạn trước nhan Ngài mà đã dám cả gan xúc phạm đến Ngài là Đấng vô cùng thánh hảo và uy nghi cao cả.

Và thực sự là thế, đến độ Thiên Chúa là "Cha thương xót" chẳng những không "đoán xét" và "kết án" con người chỉ là một tạo vật mà đã cả gan phạm thượng, ở chỗ đã dám nghe theo tên dối trá quay ra bất tuân ý muốn chân thật và thiện hảo tối thượng của Ngài, ngược lại, Ngài còn vô cùng cảm thương và cứu độ họ nữa, bằng cách, đã "kết án" chính Con Một của mình là Bản thân Ngài, ở chỗ, Ngài "đã không dung tha cho Con Một của mình, một đã phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32), đến độ "vì chúng ta Thiên Chúa đã làm cho Đấng không biết đến tội lỗi thành tội lỗi để trong Người chúng ta được trở nên chính sự thánh thiện của Thiên Chúa" (1Corinto 5:21). 

Sau nữa, về phần tích cực, liên quan đến việc "cho" đi một cách đầy đặn bằng "đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc" còn một cách "đầy tràn", "Cha các con là Ðấng nhân từ / thương xót" cũng đã làm gương và đã thực hiện ở chỗ, chẳng những "đã yêu thế gian đến ban Con Một của mình, để những ai tin vào Người thì không phải chết nhưng được sự sống" (Gioan 3:16), mà nhất là ở chỗ ban Thánh Linh của Ngài cho Giáo Hội là Nhiệm Thể Con của Ngài, để nhờ Giáo Hội chứng nhân của Con Ngài mà "canh tân bộ mặt trái đất" (Thánh Vịnh 104:30) như Ngài mong muốn thành một "trời mới đất mới" (Khải Huyền 21:1). 

Thiên Chúa là "Cha nhân từ / thương xót" đã ban Thánh Linh của Ngài cho chung Giáo Hội cũng như cho từng chi thể của Nhiệm Thể Giáo Hội. Ở chỗ, Chúa Cha đã ban Thánh Thần của Ngài qua việc Chúa Kitô Thăng Thiên từ Cha sai Thánh Thần đến với chung Giáo Hội của Người nơi biến cố Thánh Thần Hiện Xuống trên các vị tông đồ ở Giêrusalem vào ngày Lễ Ngũ Tuần (xem Tông Vụ 2:1-4; Gioan 15:26:). 

Chúa Cha, nơi Phép Rửa được Giáo Hội thừa tác cử hành và ban phát các mầu nhiệm thánh, cũng đã ban Thánh Thần của Ngài cũng là của Chúa Giêsu Kitô đang ngự bên hữu Ngài cho từng Kitô hữu là phần thể của Nhiệm Thể Giáo Hội Chúa Kitô, ở chỗ: "tình yêu của Thiên Chúa được tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Đấng được ban cho chúng ta" (Roma 5:5).

Và chỉ nhờ Thánh Thần được "Cha nhân từ / thương xót" ban cho chung Giáo Hội cũng như cho riêng mỗi Kitô hữu mà Nhiệm Thể Chúa Kitô mới có thể được "Thần Chân Lý ... dẫn vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13) là Chúa Kitô, nhờ đó Giáo Hội mới có thể được sâu xa hiệp thông thần linh với Cha và Con (xem Gioan 16:14) cùng nên một như Cha và Con (xem Gioan 17:21), và nhờ đó Giáo Hội mới có thể thông ban "sự sống viên mãn" của mình cho thế giới bằng chứng từ của mình về Chúa Kitô cho tới tận cùng trái đất (xem Gioan 15:26 và Tông Vụ 1:8). 

Vị Thiên Chúa là "Cha nhân từ / thương xót" quả thực đã từng tỏ hiện bản chất "nhân từ / thương xót" này của Ngài ra nơi lịch sử cứu độ của dân Do Thái, như chính họ đã cảm nhận thấy thế trong Bài Đọc 1 được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên hôm nay: "Lạy Chúa là Thiên Chúa cao cả và đáng kính sợ, Ðấng giữ lời giao ước và lòng từ bi đối với những ai kính mến Người và tuân giữ những giới răn của Người".

Và sở dĩ dân Do Thái cảm nhận được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ "nhân từ / thương xót" là vì: 

1- Trong khi họ phản bội Ngài và bất tuân lệnh Ngài: 

"Chúng con đã phạm tội và làm điều gian ác; chúng con đã bỏ các giới răn và lề luật Chúa. Chúng con đã không nghe lời các tiên tri tôi tớ Chúa, những người đã nhân danh Chúa nói với các vua chúa, thủ lãnh, cha ông và toàn dân trong xứ chúng con". 

2- Ngài vẫn "công chính" ở chỗ không bỏ họ, chứ không bất chính như họ ở chỗ họ bỏ Ngài, và chính vì họ bỏ Ngài mà họ đã phải gánh chịu hậu hoạn của việc họ làm: 

"Lạy Chúa, sự công chính thuộc về Chúa, còn phần chúng con là phải chịu hổ mặt như ngày hôm nay, chúng con là những người thuộc dòng dõi Giuđa, những dân cư ở Giêrusalem, toàn dân Israel, những kẻ gần xa, sống trong mọi nước mà Chúa đã phân tán họ tới đó, vì tội ác mà họ đã phạm nghịch cùng Chúa. Lạy Chúa, điều dành cho chúng con, các vua chúa, thủ lãnh, cha ông chúng con là phải chịu hổ mặt, vì đã phạm tội".

3- Hơn thế nữa, trái lại, Ngài còn thương cảm và thương xót họ, bằng cách theo đuổi họ để đánh động họ và lôi kéo họ về với Ngài

"Lòng từ bi và tha thứ thuộc về Chúa là Thiên Chúa chúng con, vì chúng con phản bội cùng Chúa. Chúng con đã không vâng theo tiếng Chúa là Thiên Chúa chúng con, để sống theo lề luật mà Chúa đã dùng các tiên tri, tôi tớ Chúa, rao giảng cho chúng con".

Nếu dân Do Thái tỏ ra nhận biết tội lỗi của mình trong Bài Đọc 1 hôm nay, thì trong Bài Đáp Ca cùng ngày này, họ đã bày tỏ tấm lòng tan nát khiêm cung của họ nhận biết Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ là vị Thiên Chúa "nhân từ / thương xót", vị Thiên Chúa cứu độ của họ, cứu họ vì danh của Ngài hơn là chấp tội họ, nên Ngài đáng muôn đời chúc tụng ngợi khen

1) Xin đừng nhớ lỗi tiền nhân để trị chúng con; xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi! 

2) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa; xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài. 

3) Xin cho tiếng tù binh rên siết vọng tới thiên nhan; xin ra tay thần lực giải thoát người mang án tử. Phần chúng con là thần dân Chúa, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi, chúng con sẽ ca tụng Chúa tới muôn đời; đời nọ sang đời kia, chúng con loan truyền lời ca khen Chúa. 

 

Thứ Ba sau Chúa Nhật II Mùa Chay

 

Bài Ðọc I: Is 1, 10. 16-20

"Các ngươi hãy học làm điều lành và tìm kiếm công lý".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Hỡi các Thủ lãnh thành Sôđôma, hãy nghe lời Chúa; hỡi dân thành Gômôra, hãy lắng nghe lề luật của Thiên Chúa chúng ta. Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, đừng làm điều xấu nữa, hãy làm điều lành; hãy tìm kiếm công lý, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy xét xử công bằng cho những trẻ mồ côi và bênh vực người goá bụa.

Và Chúa phán: "Các ngươi hãy đến và đối chất với Ta: cho dầu tội lỗi các ngươi như màu đỏ thắm, cũng sẽ trở nên trắng như tuyết; cho dầu đỏ như vải điều, cũng sẽ trở nên trắng như len. Nếu các ngươi quyết tâm nghe Ta, các ngươi sẽ hưởng hoa màu ruộng đất; nhưng nếu các ngươi cố chấp không nghe và khiêu khích Ta, thì lưỡi gươm sẽ tiêu diệt các ngươi, vì miệng Chúa phán như thế".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 49, 8-9. 16bc-17. 21 và 23

Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).

Xướng: 1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận từ đoàn chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.

2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta, ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn, và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Ðáp.

3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 6, 64b và 69b

Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời.

 

Phúc Âm: Mt 23, 1-12

"Họ nói mà không làm".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy, vì thế họ nới rộng thẻ Kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha, vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo, vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

SUY NIỆM

 

 

Nếu cởi mở và chỉ tìm kiếm chân lý mà thôi thì vẫn có thể thấy được chân lý nơi tất cả mọi sự,

 

Hôm nay, Thứ Ba trong Tuần 2 Mùa Chay, Bài Phúc Âm chất chứa những lời "Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ" về vai trò và uy tín của "các Luật sĩ và các người biệt phái".

Trước hết, về vai trò có quyền giảng dạy của họ là thành phần "ngồi trên toà Môsê", Chúa Giêsu khuyên giục cả "dân chúng và các môn đệ" của Người rằng: "những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ", cho dù cá nhân họ hay bản thân họ có thế nào chăng nữa, có không sống đúng như những gì họ giảng dạy, thậm chí sống ngược lại với những điều họ dạy, hoặc ít là không dám dạy những điều họ không sống hay sống trái ngược. 

Vì chính họ chỉ là phương tiện được Thiên Chúa sử dụng, không thể nào có thể làm cản trở được chính sứ điệp cứu độ của Ngài là sứ điệp tự bản chất có tác dụng thần linh cứu độ, chứ ơn cứu độ không xuất phát từ lời rao giảng của họ, từ tài thuyết phục của họ, từ sự khôn ngoan truyền đạt của họ, trái lại, từ chính Thánh Linh là Thần Chân Lý, Đấng gây tác dụng thần linh nơi thành phần thính giả, nhất là những ai chân thành tìm kiếm chân lý. 

Đó là lý do, trong Giáo Hội Công giáo, cho dù thừa tác viên tội lỗi bất xứng, mầu nhiệm thánh do ngài cử hành vẫn khách quan thành sự (valid), mặc dù chính ngài phạm thánh, như trường hợp một vị linh mục vừa mới phạm tội dâm dục xong lên làm lễ thì lễ vẫn thành, lời ngài truyền phép vẫn thành Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô, nhưng chính ngài lại phạm sự thánh nếu trước khi cử hành Thánh Lễ ngài chưa kịp xưng tội, hay ít là thật lòng ăn năn thống hối cách trọn với ý định sẽ xưng tội ngay sau Thánh Lễ do ngài cử hành.

Theo nguyên tắc thì như thế, thì sứ điệp cứu độ hoàn toàn tự mình có tác dụng cứu độ bởi Thần Linh của Thiên Chúa là Đấng sử dụng phương tiện thừa tác viên của Ngài, thế nhưng, thực tế cho thấy dầu sao uy tín và thế giá của sứ giả cũng rất ư là cần thiết và quan trọng, đến độ hầu như gắn liền bất khả thiếu và bất khả phân ly với chính sứ điệp họ loan truyền và giảng dạy, thậm chí nghe đến tên của họ một là người ta kéo đến hai là tránh xa. Đó là một thứ thành kiến tự nhiên nơi con người, một thành kiến theo chiều hướng của nhóm biệt phái luôn nghi kỵ Chúa Kitô nên khó lòng tin Người.

Tuy nhiên, về phía người nghe, nếu cởi mở và chỉ tìm kiếm chân lý mà thôi, thì vẫn có thể thấy được chân lý nơi tất cả mọi sự, kể cả nơi thành phần sư phụ bất xứng như "các Luật sĩ và các người biệt pháiđược Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Ở chỗ, họ thấy được cái mâu thuẫn nơi lời giảng và việc làm của sứ giả, và từ đó sứ điệp càng sáng tỏ hơn nơi chính những hành động hay thái độ sai quấy của thành phần sứ giả hay sư phụ sống hoàn toàn phản lại với sứ điệp mà thành phần "ngồi trên toà Môsê" này giảng dạy.

Nếu Chúa Giêsu khuyên bảo "dân chúng và các môn đệ" của Người "những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ", thì đồng thời ngay sau đó Người cũng vẫn cảnh giác "dân chúng và các môn đệ" của Người rằng "nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm". 

"Họ nói mà không làm" ở chỗ nào? Chúa Giêsu đã nói rõ hơn để cho "dân chúng và các môn đệ" của Người biết nhờ đó những người bình dân tầm thường này mới có thể "đừng noi theo hành vi của họ" đúng như Người cảnh giác và mong muốn. "Họ nói mà không làm", trước hết, ở chỗ: "Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử". 

Sau nữa, còn ở chỗ: "Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy, vì thế họ nới rộng thẻ Kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là 'thầy'". 

Và chính vì Chúa Giêsu muốn "dân chúng và các môn đệ" của Người biết rõ như thế để tránh lánh "đừng noi theo hành vi của họ" mà Người đã khuyên "dân chúng và các môn đệ" của Người hãy làm ngược lại với họ như sau: 

"Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha, vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo, vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi".

Đến đây chúng ta mới được ý nghĩa chủ đề "Tôi tự ý bỏ sự sống của mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17) của chung Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh qua bài Phúc Âm hôm nayỞ chỗ, Chúa Kitô là vị "chỉ đạo" duy nhất của chung nhân loại cũng như của riêng dân Do Thái, bao gồm cả thành phần dạy luật "mà không thực hànhtrong bài Phúc Âm hôm nay, vị được các môn đệ của Người gọi rất chính xác "là Thày và là Chúa", thế mà đã cúi xuống rửa chân cho môn sinh của Người (xem Gioan 13:1-17), đúng như Người đã dạy trong bài Phúc Âm hôm nay: "Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi".

"Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên", như lời Chúa khẳng định để kết thúc bài Phúc Âm hôm nay, thì Chúa Kitô, Đấng đã "đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" (Matheu 20:28), lời Chúa Giêsu khẳng định về mình trong bài Phúc Âm ngày mai, quả thật đã hiện thực những gì Người đã tiên báo về chính bản thân của Người: "Tôi tự ý bỏ sự sống của mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17) cho phần rỗi của chung loài người, nhất là cho chiên của Người "được sự sống và là sự sống viên mãn hơn" (Gioan 10:10).

Tuy nhiên, việc Chúa Kitô phục vụ đến cùng bằng giá hiến mạng của mình như thế lại chỉ "làm giá chuộc cho nhiều người" thôi chứ không phải cho tất cả mọi người, không phải vì tự việc cứu độ của Người chỉ có giá trị hạn hữu chứ không vô cùng, mà là chỉ giành cho những ai xứng đáng với ơn cứu chuộc vô giá của Người, những ai chấp nhận Người, những ai nhận mình là bệnh nhân cần được cứu chữa bởi một vị lương y như Người, nhờ đó, "cho dầu tội lỗi các ngươi như màu đỏ thắm, cũng sẽ trở nên trắng như tuyết; cho dầu đỏ như vải điều, cũng sẽ trở nên trắng như len".

Đó là lý do ở Bài Đọc 1 hôm nay, Tiên Tri Isaia đã chẳng những khẳng định về thành quả cứu độ bằng câu vừa được trích dẫn trên đây, mà còn kêu gọi "thủ lãnh thành Sôđôma" và "dân thành Gômôra": 1- trước hết là trở về với Chúa qua lề luật của Ngài: "hãy lắng nghe lề luật của Thiên Chúa chúng ta"; 2- sau nữa là thống hối bản thân: "hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, đừng làm điều xấu nữa, hãy làm điều lành"; và 3- sau hết là sống công bằng chính trực với tha nhân và yêu thương đặc biệt những ai yếu thế cần giúp đỡ: "hãy tìm kiếm công lý, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy xét xử công bằng cho những trẻ mồ côi và bênh vực người goá bụa".

Chỉ có những ai thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và tin tưởng vào Ngài là vị Thiên Chúa từ bi hay tha thứ mới có thể "thấy ơn Thiên Chúa cứu độ" vì bản thân họ đã cảm nhận được tâm trạng của Vị Thiên Chúa này ở trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận từ đoàn chiên ngươi những con dê đực. 

2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta, ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn, và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? 

3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ.


 

 

Thứ Tư sau Chúa Nhật II Mùa Chay

 

Bài Ðọc I: Gr 18, 18-20

"Hãy đến, và chúng ta hành hạ nó".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Thiên hạ nói rằng: "Các ngươi hãy đến và chúng ta tìm cách chống lại Giêrêmia: vì tư tế không thiếu lề luật, người khôn ngoan không thiếu lời chỉ bảo, tiên tri không thiếu lời giảng dạy! Hãy đến, chúng ta hãy dùng lời nói mà tố cáo nó và đừng để ý đến các lời nó dạy".

Lạy Chúa, xin lưu tâm đến con, và nghe tiếng quân thù của con! Làm lành mà phải gặp dữ sao, vì họ đào lỗ chôn con? Xin Chúa hãy nhớ lại con đã đứng trước nhan thánh Chúa để biện hộ cho họ, Chúa đã nguôi giận họ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 30, 5-6. 14. 15-16

Ðáp: Lạy Chúa, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa (c. 17b).

Xướng: 1) Chúa dẫn con xa lưới dò chúng ngầm trương ra để hại con, vì Ngài là chỗ con nương náu. Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa; lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành, xin cứu chữa con. - Ðáp.

2) Con đã nghe thấy lũ đông bàn tán, nỗi sợ sệt gieo nặng khắp đôi nơi; cùng một lúc, chúng tụ họp phản đối con; chúng đã âm mưu sát hại mạng con. - Ðáp.

3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài, con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con! Vận mạng con ở trong tay Ngài, xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những người bách hại. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ge 2, 12-13

Chúa phán: "Vậy từ đây các ngươi hãy thật lòng quay về với Ta, vì Ta nhân hậu và từ bi".

 

Phúc Âm: Mt 20, 17-28

"Họ đã lên án tử cho Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, đem riêng mười hai môn đệ đi theo. Dọc đường, Người nói với họ: "Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các vị thượng tế và luật sĩ. Người ta sẽ lên án tử cho Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại để chúng nhạo báng, đánh đòn, rồi treo Người lên thập giá, nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ sống lại".

Bấy giờ bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Người. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: "Bà muốn gì". Bà ta thưa lại: "Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài". Chúa Giêsu đáp lại: "Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây Ta sắp uống chăng?" Họ nói với Người: "Thưa được". Người bảo họ: "Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai, thì người ấy mới được". Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em: Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: "Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Mt 20, 17-28

 

 

SUY NIỆM

 

 "Môn đệ cần phải hân hoan được nên giống như Thày mình và tôi tớ được nên giống như chủ mình" (Mathêu 10:25).

 

Ngày Thứ Tư trong Tuần 2 Mùa Chay hôm nay, Bài Phúc Âm được Thánh ký Mathêu trình thuật lại 4 sự kiện liền, thứ nhất là sự kiện Chúa Giêsu tỏ ra cho riêng các môn đệ biết về cuộc vượt qua của Người, thứ hai là sự kiện bà mẹ của cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan đến xin với Chúa Giêsu cho hai người con của bà một đặc ân, thứ ba là sự kiện Chúa Giêsu đáp lại lời yêu cầu xin đặc ân của ba mẹ con này, và thứ bốn là sự kiện Chúa Giêsu huấn dụ chung các tông đồ nhân biến cố xin đặc ân ấy.

Thứ nhất là sự kiện Chúa Giêsu tỏ ra cho riêng các môn đệ biết về cuộc vượt qua của Người, bài Phúc Âm hôm nay thuật lại rằng: "Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các vị thượng tế và luật sĩ. Người ta sẽ lên án tử cho Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại để chúng nhạo báng, đánh đòn, rồi treo Người lên thập giá, nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ sống lại".

Thứ hai là sự kiện bà mẹ của cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan đến xin với Chúa Giêsu cho hai người con của bà một đặc ân: "Bấy giờ bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Người. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: 'Bà muốn gì'. Bà ta thưa lại: 'Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài'". 

Thứ ba là sự kiện Chúa Giêsu đáp lại lời yêu cầu xin đặc ân của ba mẹ con này: "Chúa Giêsu đáp lại: 'Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây Ta sắp uống chăng?' Họ nói với Người: 'Thưa được'. Người bảo họ: 'Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai, thì người ấy mới được'".

Thứ bốn là sự kiện Chúa Giêsu huấn dụ chung các tông đồ nhân biến cố xin đặc ân ấy: "Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em: Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: 'Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người'".

Giáo Hội chọn bài Phúc Âm hôm nay, căn cứ vào chiều hướng chung của phụng vụ lời Chúa trong ngày, thì sự kiện nổi bật nhất trong 4 sự kiện ở bài Phúc Âm không phải là sự kiện việc yêu cầu của 3 mẹ con hai anh em tông đồ Giacôbê và Gioan, mà là sự kiện 1 và 4 liên quan đến chính số phận của Chúa Kitô, là Đấng, như Người khẳng định ở câu kết của bài Phúc Âm: "đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người", đúng như lời Người tiên báo ở đầu bài Phúc Âm về bản thân Người: "Con Người sẽ bị nộp cho các vị thượng tế và luật sĩ. Người ta sẽ lên án tử cho Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại để chúng nhạo báng, đánh đòn, rồi treo Người lên thập giá, nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ sống lại".

Đúng thế, chính vì "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh, mà Người "đã tự ý bỏ sự sống mình đi", ở chỗ, "Con Người sẽ bị nộp cho các vị thượng tế và luật sĩ. Người ta sẽ lên án tử cho Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại để chúng nhạo báng, đánh đòn, rồi treo Người lên thập giá", không phải để hoàn toàn và vĩnh viễn bị hủy diệt, bị tiêu tan, bị sự dữ lấn át, trái lại "để lấy nó lại", ở chỗ: "nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ sống lại", tức để tỏ mình ra là Thiên Chúa hằng sống, bất diệt, Đấng đã hóa thân làm người và chiến thắng tội lỗi và sự chết, nhờ đó, qua nhân tính của mình, thông ban sự sống thần linh và Thánh Linh của Người, cho Giáo Hội "được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10;10). 

Giáo Hội được thừa hưởng sự sống viên mãn này của Chúa Kitô Phục Sinh, nhất là sau Biến Cố Thánh Thần Hiện Xuống ở Giêrusalem trong Ngày Lễ Ngũ Tuần mà các tông đồ là nền tảng của Giáo Hội (xem Epheso 2:20), vậy để có thể hoàn thành sứ vụ làm chứng nhân tiên khởi của mình, Giáo Hội nói chung, qua các tông đồ bấy giờ, cũng cần phải được thông phần vào cuộc vượt qua của Thày các vị và với Thày của các vị, bởi "tôi tớ không hơn chủ và môn đệ không hơn Thày. Môn đệ cần phải hân hoan được nên giống như Thày mình và tôi tớ được nên giống như chủ mình" (Mathêu 10:24-25).

Đó là lý do, bài Phúc Âm hôm nay còn bao gồm cả sự kiện 3 mẹ con của cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan, những con người, cho dù sau khi nghe thấy Chúa Giêsu báo trước về cuộc vượt qua kinh hoàng khủng khiếp của Người, ngoài sức tưởng tượng và lòng mong ước của các vị cũng là của chính đại chúng Do Thái, đã dám dấn thân theo Người bằng việc sẵn sàng "uống chén" của Người và với Người, không sợ, nhờ đó hai vị tông đồ này đã hiện thực đúng như lòng mong ước của Chúa Giêsu: "Môn đệ cần phải hân hoan được nên giống như Thày mình và tôi tớ được nên giống như chủ mình" (Mathêu 10:25).

"Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai, thì người ấy mới được". Lời Chúa Giêsu nói đây để đáp lại tinh thần dấn thân tham phần vào cuộc vượt qua của Người và với Người không phải chỉ là một lời có vẻ thoái thác quyền hạn của Người mà là, ở một nghĩa sâu xa nào đó, ám chỉ đến số phận đặc biệt của riêng hai vị tông đồ là "những đứa con sấm xét" này (xem Marco 3:17) đã được "Cha Ta chuẩn bị" rồi, để "Thày ở đâu các con cũng được ở đó với Thày" (Gioan 14:3).

Theo khách quan thì thái độ và hành động của ba mẹ con nhị vị tông đồ Giacôbê và Gioan có vẻ như ham danh, nhưng không ngờ lại hợp với Chúa Kitô, Đấng đã tiết lộ về mầu nhiệm vượt qua của Người cho các môn đệ 3 lần, lần đầu thì các vị chẳng hiểu gì nên can gián Người (xem Marco 8:31-33), lần thứ hai thì dù không hiểu cũng không dám hỏi (xem Marco 9:31-32), nhưng lần thứ ba lại có 2 môn đệ dám dấn thân theo Người như hai anh em tông đồ Giacôbê và Gioan, đến độ Người đã hứa cho họ được toại nguyện, ở chỗ: "Được các con sẽ uống chén của Thày".

Thật vậy, cuối cùng, cả hai vị tông đồ này đều được toại nguyện: Tông đồ Gioan là người môn đệ được ngồi bên phải Người khi vị này trở thành người môn đệ duy nhất được đứng dưới chân thập giá của Người (xem Gioan 19:26), và tông đồ Giacôbê là người môn đệ được ngồi bên tả Người khi vị này trở thành vị tử đạo đầu tiên trong các tông đồ và ở tại Giêrusalem như Người (xem Tông Vụ 12:2).

Số phận của Chúa Kitô, vị Ngôn Sứ chính yếu và tối hậu được Thiên Chúa sai đến trần gian nơi dân Do Thái, cũng như số phận làm ngôn sứ như Thày và với Thày của các tông đồ nói chung và của 2 người môn đệ là những đứa con sấm xét Giacôbê và Gioan trong bài Phúc Âm hôm nay nói riêng, đã được báo trước nơi các vị tiên tri, ngôn sứ ngày xưa trong lịch sử dân Do Thái, mà tiên tri Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay là tiêu biểu điển hình, như chính vị tiên tri này bày tỏ:

"Thiên hạ nói rằng: 'Các ngươi hãy đến và chúng ta tìm cách chống lại Giêrêmia: vì tư tế không thiếu lề luật, người khôn ngoan không thiếu lời chỉ bảo, tiên tri không thiếu lời giảng dạy! Hãy đến, chúng ta hãy dùng lời nói mà tố cáo nó và đừng để ý đến các lời nó dạy'. Lạy Chúa, xin lưu tâm đến con, và nghe tiếng quân thù của con! Làm lành mà phải gặp dữ sao, vì họ đào lỗ chôn con? Xin Chúa hãy nhớ lại con đã đứng trước nhan thánh Chúa để biện hộ cho họ, Chúa đã nguôi giận họ".

Đúng thế, số phận của các vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến để truyền đạt sự thật là ý muốn tối hậu của Ngài, bao gồm cả chính Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, như dụ ngôn của bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần này sẽ cho thấy, đều cảm thấy số phận bất hạnh của mình, đó là "làm lành mà phải gặp dữ": "làm lành" ở chỗ "con đã đứng trước nhan thánh Chúa để biện hộ cho họ, Chúa đã nguôi giận họ", "mà phải gặp dữ" ở chỗ "họ đào lỗ chôn con". 

Bởi thế, một trong những dấu hiệu chắc chắn nhất và chân thật nhất để thấy được ai là ngôn sứ thật sự của Thiên Chúa và được Thiên Chúa sai đến đó là số phận "làm lành mà phải gặp dữ" của họ, bởi họ loan truyền sự thật, một sự thật tự bản chất có sức giải phóng (xem Gioan 8:32) nhưng lại là sự thật phũ phàng làm mất lòng, gây phản kháng và trù dập, nhưng chính số phận bất hạnh này đã chứng thực cho vai trò ngôn sứ của họ cũng như cho sứ điệp cứu độ từ họ, chứ họ không phải là những thứ tiên tri giả, kitô giả, mị dân, sợ dân, sợ sự thật, nên không bao giờ bị hoạn nạn, trái lại, còn được quần chúng mộ mến, tôn sùng như thần tượng của thế gian!

Tuy nhiên, để có thể chu toàn vai trò ngôn sứ đích thực của mình, thành phần thiên sai cần phải có một niềm tin tưởng mãnh liệt vào chính Đấng đã sai mình, bằng những cảm nhận thần linh và tâm tình siêu nhiên như trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Chúa dẫn con xa lưới dò chúng ngầm trương ra để hại con, vì Ngài là chỗ con nương náu. Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa; lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành, xin cứu chữa con. 

2) Con đã nghe thấy lũ đông bàn tán, nỗi sợ sệt gieo nặng khắp đôi nơi; cùng một lúc, chúng tụ họp phản đối con; chúng đã âm mưu sát hại mạng con. 

3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài, con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con! Vận mạng con ở trong tay Ngài, xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những người bách hại.  

 

 

Thứ Năm sau Chúa Nhật II Mùa Chay

 

Bài Ðọc I: Gr 17, 5-10

"Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời; phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Ðây Chúa phán: "Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn. Lòng người nham hiểm khôn dò, nào ai biết được? Còn Ta, Ta là Chúa, Ta thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can, trả công cho mỗi người tuỳ theo cách sống và hậu quả hành vi của họ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5a).

Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.

3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

 

Phúc Âm: Lc 16, 19-31

"Con đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: "Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng:

"Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này. Abraham nói lại: "Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được".

Người đó lại nói: "Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này". Abraham đáp rằng: "Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài". Người đó thưa: "Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải". Nhưng Abraham bảo người ấy: "Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

SUY NIỆM

Giáo Hội không phải chỉ muốn cảnh giác con cái mình về thái độ của nhà phú hộ

mà còn kêu gọi họ sống thân phận theo tinh thần của một Lazarô bất hạnh nữa.

Hôm nay, Thứ Năm trong Tuần 2 Mùa ChayBài Phúc Âm của Thánh ký Luca về dụ ngôn Lazarô và người phú hộ, và theo chiều hướng của chung phụng vụ lời Chúa trong ngày, bao gồm cả Bài Đọc 1, thì Giáo Hội không phải chỉ muốn cảnh giác con cái mình về thái độ của nhà phú hộ mà còn kêu gọi họ sống thân phận theo tinh thần của một Lazarô bất hạnh nữa.

Bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở chúng ta một số chân lý tiêu biểu như sau liên quan đến thân phận của người phú hộ: 1- được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì? (xem Mathêu 16:26) - ăn mặc gấm vóc lụa là và yến tiệc linh đình mà làm gì để bị hư đi đời đời như thế... 2- Người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng còn bởi mọi lời bởi miệng Thiên Chúa phán ra (xem Mathêu 4:4) - người phú hộ mà sống lời Chúa nữa thì đã được cả 2 đời rồi; 3- Ai đong đấu nào sẽ bị đong lại cho đấu ấy (xem Luca 6:38) - khi xuống tới hỏa ngục người phú hộ mới "thấy Lazarô" thì đã muộn, dù một giọt nước cũng không thể nào được mãn nguyện vì trên đời ông ta đâu thấy con người khốn khổ cả một đời dù nằm ngay cổng nhà ông.

Trước hết, thái độ dửng dưng lạnh lùng của người phú hộ trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, và tinh thần sống nhẫn nhục của một Lazarô bất hạnh được Thánh ký Luca thuật lại theo lời Chúa Giêsu diễn tả như thế này:

"Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy". 

Tuy nhiên, dụ ngôn "Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái" ấy không phải chỉ cho thấy những gì xẩy ra ở trên trần gian này mà thôi, mà còn liên quan đến cả đời sau về hậu quả tai hại hay thành quả tốt đẹp của những gì con người đã làm trên đời này nữa:

"Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài..."

Ở đây, số phận đời đời, một được rỗi là Lazarô và một bị hư đi là người phú hộ, bất khả cứu vãn, bất khả đổi thay, đúng như lời khẳng định của tổ phụ Abraham đã nói với người phú hộ đang ở trong hỏa ngục: "giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được".

Số phận đời đời vô cùng quan trọng này hoàn toàn là kết quả từ cuộc sống trên trần gian của từng người, như được tổ phụ Abraham cho người phú hộ biết như sau: "Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ".

Thế nhưng, số phận đời đời được rỗi của Lazarô hay hư đi của người phú hộ không phải chỉ ở chỗ "chịu khốn khổ" như Lazarô hay "được toàn sự lành" như người phú hộ. Bởi vì, thực tế cho thấy, không phải ai "được toàn sự lành" trên thế gian này đều hư đi như người phú hộ, và cũng không phải ai "chịu khốn khổ" trên đời này đều tự động được rỗi như Lazarô đâu, mà là ở chỗ họ, trong hoàn cảnh may lành hay khốn khổ của họ, có biết thực hiện nguyên tắc "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6) hay chăng!

Ở dưới hỏa ngục, nơi không phải chỉ bao gồm thành phần vẫn được coi là đáng sa hỏa ngục như thành phần đại gian ác v.v. mà còn bao gồm cả thành phần "thiếu sót", không làm những gì có thể khi đức bác ái yêu thương đòi hỏi, và là nơi của kẻ chết, tức của thành phần bị chứng thương hàn lạnh cảm giống như một cái xác chết lạnh cứng nắm đó, và là nơi bấy giờ, trong cõi đời đời, chỉ toàn là ghen ghét, giống hệt như tâm trạng bất di bất dịch của ma quỉ và nơi ma quỉ, là tác nhân chết chóc và là cha các thứ dối trá (xem Gioan 8:44), thì cả ma quỉ lẫn các linh hồn hư đi ở đó không muốn ai được cứu rỗi, trái lại, chỉ muốn cho tất cả mọi người xuống hỏa ngục với mình và như mình. 

Thế mà, người phú hộ ở trong hỏa ngục bấy giờ hình như đã được biến đổi bản tính ghen ghét của hỏa ngục nơi mình, đến độ thay vì ghen ghét lại tỏ ra thương yêu các người thân yêu của mình còn sống trên trần gian này mà lên tiếng van xin cùng tổ phụ Abraham là cha của các kẻ tin (xem Roma 4:11) rằng: "tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này... nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải".

Cho dù xẩy ra như thế đi nữa, nghĩa là cho dù các linh hồn bị hư đi trong hỏa ngục hay ma quỉ ở đó có biết thương yêu những người còn sống và chỉ muốn cho những người ấy được lên thiên đàng hơn là xuống hỏa ngục như họ và với họ, một sự kiện không thể nào có, không thể nào xẩy ra và không bao giờ xẩy ra chăng nữa, cũng không thể nào cứu được một con người còn sống trên thế gian này, nếu người còn sống ấy không tự mình sống đức tin: "Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài... Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu".

Như thế có nghĩa là Lazaro được rỗi sau cuộc đời "chịu khốn khổ" trên đời này là nhờ Lazarô đã sống đức tin, và hình ảnh Lazarô ở trong "lòng Abraham" là cha của các kẻ tin đã chứng thực điều này. Bởi vậy, chúng ta đã không thấy chỗ nào trong dụ ngôn Chúa nói ở bài Phúc Âm hôm nay cho thấy một Lazarô kêu ca, than thân trách phận, hay nguyền rủa người phú hộ, trái lại vẫn cam chịu thân phận bị khinh rẻ và bỏ rơi, cho dù chỉ có một ước muốn vô cùng tầm thường song vẫn không được đáp ứng, đó là "ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy".

Về phần người phú hộ cũng thế, nếu Lazaro "chịu khốn khổ" được cứu rỗi nhờ đức tin của mình thì người phú hộ bị hư đi cũng là do không có đức tin, hay đúng hơn không sống đức tin, một "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6). Bài Phúc Âm không hề đề cập đến bất cứ một cử chỉ hay hành động nào lỗ mãng của người phú hộ đối với Lazarô, chẳng hạn như chửi bới hay đánh đuổi Lazarô đi, mà chỉ tỏ ra lãnh đạm dửng dưng không chịu giúp đỡ Lazarô là một con người hết sức khốn nạn đáng thương "nằm bên cổng nhà ông", không thể nào ông không thấy, và cho dù có thấy ông vẫn không hề động lòng thương, không hề bố thí cho Lazarô một tí nào, trong khi đó người phú hộ này quá ư là giầu sang hoan hưởng dư thừa: "vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình".

Bài Đọc 1 hôm nay chẳng những thích đáng với một Lazarô khốn khổ mà còn với cả người phú hộ hoan hưởng may lành trong Bài Phúc Âm hôm nay nữa.

Thật vậy, không phải hay sao, người phú hộ trong Bài Đọc 1 hôm nay là thành phần xuất hiện ở phần đầu với những diễn tả không sai về một con người giầu sang phú quí theo tự nhiên hoàn toàn không có đức tin

"Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. 

Trong khi đó, Lazarô xuất hiện ở phần thứ hai của Bài Đọc 1 này, những diễn tả rất chí lý và chính xác về đời sống của một con người sống đức tin trong cuộc đời bần cùng khốn khổ của mình:

"Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn. Lòng người nham hiểm khôn dò, nào ai biết được?" 

Câu cuối cùng của Bài Đọc 1 cũng phản ảnh dụ ngôn có hậu, một cái hậu liên quan đến vấn đề thưởng phạt thích đáng và công minh của việc con người làm trên thế gian này, được Chúa Giêsu cảnh giác trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay: "Còn Ta, Ta là Chúa, Ta thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can, trả công cho mỗi người tuỳ theo cách sống và hậu quả hành vi của họ".

Bài Đáp Ca hôm nay cũng tấu lên cùng một lời ca và cùng một nhạc điệu như Bài Đọc 1 về hai thành phần sống trên trần gian này, một theo đức tin và một không theo đức tin, như trường hợp tiêu biểu điển hình là Lazaro và người phú hộ trong Bài Phúc Âm hôm nay:

1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. 

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. 

3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. 

 

NGÀY 17 THÁNG 3
THÁNH PATRICK
Lễ Nhớ tùy ý

Patrick

Truyện Thánh Patrick

Thánh Patrick đặt nền tảng công cuộc tông đồ trên việc cầu nguyện và hãm mình.

Tuy nhiên, giữa cảnh lầm than, ngài đã hồi tưởng lại những bài học thời thơ ấu và trở về với Chúa. Giờ đây, sau khi tôi đã đến Ái nhĩ lan, công việc hằng ngày của tôi là chăn dắt đoàn vật; và tôi thường cầu nguyện vào ban ngày. Lòng yêu mến và kính sợ Chúa ngày càng gia tăng, đức tin tăng triển, tinh thần được đánh động, thành ra trong một ngày tôi thường đọc nhiều trăm kinh, và ban đêm cũng gần được chừng ấy; tôi thường ở lại trong rừng và trên núi vì mục đích ấy. Trước lúc tảng sáng, tôi thường thức dậy để cầu nguyện, trên tuyết, trong băng giá, trong mưa. Tôi không cảm thấy đau đớn, cũng không biếng trễ như giờ đây, bởi vì khi ấy tinh thần trong tôi rất sốt sắng.2

Sau đó, Patrick sang Auxerre, Pháp một vài năm để chuẩn bị cho sứ mạng bằng việc học tập dưới quyền thánh Germanus, người được Đức Celestine I giao phó việc chuẩn bị cho công cuộc truyền giảng xứ Ái nhĩ lan. Tuy nhiên, Patrick vô cùng thất vọng vì không được tuyển chọn; sứ vụ được giao phó cho một người khác tên là Palladius.4 Nhưng Palladius đã qua đời ngay khi vừa đặt chân đến Ái nhĩ lan, và thế là đoàn người đành quay về Auxerre. Lúc ấy, Patrick được chọn để thay thế và được thánh Germanus tấn phong giám mục.

http://www.dongcong.net/DoiSongKH/LeQuanhNam/Thang3/01.htm

Ngày Thánh Patrick

Dù Thánh Patrick là ai, ông chắc chắn cũng không bao giờ mong đợi sự ồn ào mà mình tạo ra 15 thế kỷ sau khi ông qua đời. Trên khắp thế giới, ngày được dành riêng cho vị Thánh bảo hộ của xứ Ireland (17/3) hiện được xem là một dịp kỷ niệm sôi động, hầu như chỉ mang tính thế tục về tất cả mọi thứ liên quan đến Ireland hoặc được cho là như vậy. Lễ diễu hành hàng năm trên Đại lộ Số 5 New York thường được mô tả là cuộc diễu hành quần chúng lâu đời nhất của nước Mỹ. Dù xuất phát từ trước cuộc Cách mạng Mỹ, sự kiện này chỉ bắt đầu sôi động kể từ những năm cuối thế kỷ 19, khi những người Ireland Công giáo di cư, chạy trốn khỏi nghèo khổ và đói khát, bắt đầu khẳng định bản sắc của mình. Những tập quán khác thì xuất hiện gần đây hơn: chỉ khoảng 50 năm qua, sông Chicago mới được nhuộm một màu xanh lá cây để đánh dấu dịp lễ này. Vậy Thánh Patrick là ai?

Về Thánh Patrick trong nền văn hóa đại chúng, chỉ có hai đặc điểm nổi bật trong cuộc đời ông: ông đã đuổi loài rắn khỏi Ireland, và ông đã sử dụng một loại cây của Ailen gọi là cây cỏ ba lá (shamrock) làm công cụ khi truyền đạo, sử dụng hình dạng ba lá để giải thích ý tưởng về một Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong ba ngôi (Chúa Ba ngôi). Cũng giống như rất nhiều nhân vật khác xuất hiện bên rìa thế giới La Mã, trong thời kỳ bóng đêm do đế chế sụp đổ, câu chuyện về cuộc đời Thánh Patrick cũng bao gồm nhiều điều không rõ ràng. Có thể thấy rằng ông đã đến Ireland để rao giảng Cơ đốc giáo vào thế kỷ thứ năm và ông đã chết vào thời điểm nửa cuối thế kỷ đó. Bằng chứng vững chắc nhất mà chúng ta biết về việc Kitô giáo được truyền bá vào Ireland là vào năm 431 Đức Giáo Hoàng đã gửi một nhà truyền giáo có tên là Palladius đến hòn đảo này. Còn sứ mệnh của Thánh Patrick thì không có ngày tháng nào rõ ràng như vậy.

Tuy nhiên, điều mà chúng ta có là tư liệu riêng của ông: hai tài liệu tiếng Latin có ảnh hưởng lớn đã làm nổi bật lên nhân cách của vị thánh này. Trong một tài liệu được biết đến nhiều hơn trong hai bản, bản “Lời thú tội” (Confessio), vị thánh kể lại những chi tiết xúc động về cuộc sống riêng của mình. Ông lớn lên trên bờ biển phía tây nước Anh (có thể là Cumbria) trong một gia đình người Anh Cơ đốc giáo La Mã. Cha ông là một thầy phó tế và ông nội của ông là một linh mục. Khi còn là một thiếu niên, ông đã bị bắt cóc bởi bọn cướp Ai-len và bị giam cầm trong sáu năm, và chính trong khoảng thời gian bị giam cầm này mà ông lần đầu tiên nghe được một tiếng gọi linh thiêng. Bằng cách nào đó ông đã trốn thoát và lên một chiếc thuyền buồm trở về Anh, và sau những hành trình nguy hiểm ông đã hội ngộ được với gia đình của mình. Nhưng một mặc thị đã cho ông hay rằng những người dân Ireland đang kêu gọi ông quay trở lại và truyền bá đức tin Cơ đốc giáo.

Một cuộc sống đầy màu sắc của Patrick đã được viết lại 200 năm sau ngày ông mất, cũng bằng tiếng Latinh, bao gồm tất cả những chi tiết trên nhưng được thêm một vài điểm mới. Tài liệu này nói rằng ông đã được đào tạo cho chuyến đi truyền giáo tại Ai-len của mình thông qua một quá trình tiếp cận lâu dài với những giáo sĩ tại tu viện ở Gaul, tức nước Pháp ngày nay. Điều đó khá hợp lý, bởi hẳn ông đã phải đi tới một nơi nào đó để đạt được trình độ tiếng Latinh và thần học được thể hiện nổi bật trong các tác phẩm của mình.

Có lẽ có một điều đã kết nối Patrick với những kẻ hội hè, những người uống bia màu xanh lá cây và hát những bản ballad ủy mị từ Chicago đến Sydney vào ngày 17 tháng 3. Ông đã trải qua một phần trong cuộc đời mình không phải ở Ireland nhưng lại gắn chặt với Ireland từ xa, và đã đạt được những điều ông không bao giờ có thể có được nếu ông tiếp tục ở lại Đảo Ngọc Lục bảo (Emerald Isle – tức Ai-len).

http://nghiencuuquocte.org/2016/04/18/chung-ta-biet-gi-ve-thanh-patrick/

 

 

 

 

Thứ Sáu sau Chúa Nhật II Mùa Chay

 

Bài Ðọc I: St 37, 3-4. 12-13a. 17b-28

"Này thằng chiêm bao đến kia rồi, anh em hãy lại đây, chúng ta bắt giết nó".

Trích sách Sáng Thế.

Israel mến thương Giuse hơn mọi đứa con khác, vì ông sinh ra Giuse trong lúc tuổi già. Ông may cho Giuse một chiếc áo nhiều mầu. Các anh của Giuse thấy cha mình thương Giuse hơn mọi đứa con, nên sinh lòng ghen ghét và không thể nói chuyện thân mật với Giuse.

Khi các anh Giuse đi chăn những đoàn chiên của cha mình tại Sikem, thì Israel nói với Giuse: "Có phải các anh con đang chăn chiên ở Sikem không? Con hãy lại đây, cha sai con đi tìm các anh con".

Giuse đi tìm các anh mình và gặp các anh tại Ðôtain. Khi các anh thấy Giuse từ đằng xa tiến lại gần, họ liền âm mưu tìm cách giết Giuse. Họ nói với nhau rằng: "Này thằng chiêm bao đến kia rồi, anh em hãy lại đây, chúng ta bắt giết nó, ném xác nó xuống một cái giếng cạn và nói nó bị thú dữ ăn thịt, rồi xem các điềm chiêm bao của nó sẽ ra sao?"

Ruben nghe nói thế, liền định cứu Giuse khỏi tay anh em, nên nói rằng: "Chúng ta đừng giết nó, đừng làm đổ máu, song ném nó xuống giếng nơi hoang vu này, và như thế, tay các em không phải vấy máu". Ruben nói như thế, vì có ý muốn cứu Giuse khỏi tay các anh em, để đem Giuse về cho cha mình. Khi Giuse vừa đến gần, các anh liền cởi áo dài Giuse đang mặc, và bắt ném xuống giếng cạn.

Ðang khi các ông ngồi ăn bánh, thì thấy một đoàn người Ismael từ Galaad tiến về Ai-cập, các con lạc đà của họ chở đầy hương liệu, nhựa thơm và dầu thơm. Giuđa nói với các anh em rằng: "Chúng ta giết em chúng ta và giấu máu nó đi, thì có ích lợi gì? Tốt hơn là chúng ta đem bán nó cho người Ismael và tay chúng ta không phải vấy máu, vì Giuse là em ruột thịt chúng ta". Các anh em nghe theo lời Giuđa, nên khi các người lái buôn từ Mađian đi ngang qua đó, các ông kéo Giuse lên khỏi giếng và đem bán cho các người Ismael với giá hai mươi đồng bạc, và họ dẫn Giuse sang Ai-cập.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 16-17. 18-19. 20-21

Ðáp: Các ngươi hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm (c. 5a).

Xướng: 1) Chúa đã gọi cảnh cơ hàn về trên đất nước, và rút đi mọi sự nâng đỡ bằng cơm bánh. Ngài đã sai một người đi trước họ: Giuse đã bị bán để làm nô lệ. - Ðáp.

2) Thiên hạ đã lấy xiềng để trói chân người, và cổ người bị cột bằng xích sắt, cho tới khi ứng nghiệm lời tiên đoán của người, lời của Chúa đã biện minh cho người. - Ðáp.

3) Vua đã sai cởi trói cho người, Chúa của chư dân cũng đã giải phóng người. Vua đã tôn người làm chủ của mình, và làm chúa trên toàn diện lãnh thổ. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab

Hôm nay các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe lời Chúa phán.

 

Phúc Âm: Mt 21, 33-43. 45-46

"Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em, chúng ta hãy giết nó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh; đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa. Ðến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: "Ðứa con thừa tự kia rồi: Nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó". Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào? Các ông trả lời: "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi". Chúa Giêsu phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh sao:

"Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc; đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta?" Bởi vậy, Ta bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái".

Các Thượng tế và biệt phái nghe dụ ngôn đó, thì hiểu Người ám chỉ về mình. Họ liền tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì thiên hạ đều tôn Người là Tiên tri.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 21, 33-43. 45-46

 

SUY NIỆM

 

 

Vẫn không thôi nhân danh Thiên Chúa để sát hại, để khủng bố

 

Tuần 2 Mùa Chay được tiếp tục với ngày Thứ Sáu hôm nay, có Bài Phúc Âm về dụ ngôn liên quan hết sức chặt chẽ với chủ đề chung cho Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh là: "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17). 

Câu chính yếu của bài Phúc Âm hôm nay chứng thực chủ đề của Mùa Chay này đó là câu: "'Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc; đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta?' Bởi vậy, Ta bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái".

Đúng thế, cả dụ ngôn trong Bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nói về số phận của "viên đá bị bọn thợ loại ra" là chính bản thân Người, được hiện thân nơi người con một duy nhất của ông chủ vườn nho, một vườn nho đã được ông chủ này "rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh; đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa". 

Chính vì "vườn nho của Chúa là nhà Israel" (Isaia 5:7) mà thành phần "tá điền" được "thuê" để làm vườn nho cho vị chủ vườn nho này chính là thành phần lãnh đạo của dân Do Thái, dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, mà đại diện cho chung thành phần này bấy giờ đang nghe Chúa Giêsu nói về dụ ngôn ấy là "các trưởng tế và các kỳ lão trong dân", và vì thế mà cuối cùng họ mới có phản ứng tiêu cực được Phúc Âm ghi nhận như sau: "Các Trưởng tế và biệt phái nghe dụ ngôn đó, thì hiểu Người ám chỉ về mình. Họ liền tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì thiên hạ đều tôn Người là Tiên tri".

Các người "đầy tớ" được chủ vườn nho là Thiên Chúa sai "đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi" đây là ai, nếu không phải là các vị tiên tri, các vị ngôn sứ của Thiên Chúa, để nhắc nhở họ về giao ước của Thiên Chúa, về lề luật họ cần phải tuân giữ, về tội tôn thờ ngẫu tượng và ngoại tình của họ mà họ cần phải từ bỏ hầu quay về với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ.

Thật ra, vườn nho là dân Do Thái này đã được Thiên Chúa "rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh", ở chỗ Ngài đã ban lề luật cho họ, như thể Ngài "rào dậu chung quanh" họ, Ngài đã thử thách đức tin của họ, như thể Ngài "đào hầm ép rượu" nơi họ, và Ngài đã liên tục tỏ mình ra cho họ bằng các cuộc thần hiển hay qua các sự lạ dấu kỳ, như thể Ngài "xây tháp canh" trên họ. Chưa hết, vườn nho này còn được canh tác bởi thành phần "tá điền" là thành phần lãnh đạo dân Do Thái được Ngài sử dụng để phục vụ cho lợi ích của vườn nho như Ngài mong muốn. Nghĩa là vườn nho dân Chúa được lòng thương xót Chúa bao bọc một cách toàn vẹn theo chiều kích không gian 4 chiều: chiều rộng (nơi hàng rào), chiều sâu (nơi hầm ép rượu), chiều cao (nơi tháp canh) và chiều dài (nơi thành phần tá điền suốt giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái).

Thế nhưng, thành phần "tá điền", với tư cách chỉ là kẻ làm thuê cho chủ, chẳng những đã không chịu nộp phần hoa lợi cho chủ qua thành phần "đầy tớ" là các vị ngôn sứ đại diện được chủ sai đến thu hoa lợi, mà thậm chí lại còn "bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác", hết đợt này đến đợt khác, chứ không phải một đợt đầu tiên: "Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy".

Tuy nhiên, vị chủ vườn nho vẫn nhân từ và đầy nhẫn nại, lại còn tỏ ra có vẻ hết sức ngây thơ đến độ điên cuồng dại dột dám sai cả đứa con trai cưng độc nhất của mình tới với bọn tá điền hung dữ tàn ác đầy sát máu này, với ý nghĩ quá ư là thành thực, tin tưởng hết cỡ vào thành phần "tá điền" được ông thuê mướn nhưng đã từng tỏ ra không coi ông ra gì khi ra tay sát hại bao nhiêu là đợt "đầy tớ" của ông, được ông sai đến với họ: "Họ sẽ kính nể con trai mình".

Quả thực không sai, bọn "tá điền" đang hăng máu đã thừa thắng xông lên, sẵn con mắt còn đang khát máu và bàn tay còn đang đẫm máu các đợt "đầy tớ" của chủ sai đến bị họ sát hại, nên đã tiến tới chỗ giết cả chính người con trai duy nhất vô cùng yêu quí của chủ vườn nho, theo tham vọng giết người cướp của, ở chỗ, theo họ, một khi họ giết được đứa con thừa tự của chủ thì tất cả gia tài của chủ mà họ đang nắm giữ trong tay là vườn nho họ đang canh tác tự nhiên sẽ thuộc về họ: "Ðứa con thừa tự kia rồi: Nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó'. Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết". 

Thực tế cho thấy xẩy ra đúng như vậy, thành phần lãnh đạo dân Do Thái đã nhân danh Thiên Chúa, hay đã bênh vực vinh quang của Thiên Chúa, mà lên án tử cho chính Con Thiên Chúa mà họ cho rằng nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét chỉ thuần túy là một con người như họ mà đã dám cả gan lộng ngôn phạm thượng, xưng mình là Con Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa (xem Mathêu 26:63-66 và Gioan 10:33). Bởi thế không lạ gì lịch sử đã cho thấy ngày xưa trong Giáo Hội đã xẩy ra hiện tượng nhân danh Thiên Chúa (chân lý / tín điều) mà sát hại, và ngày nay có một số phần tử Hồi giáo cực đoan quá khích cũng tiếp tục đường lối nhân danh Thiên Chúa để khủng bố bất cứ một kẻ thù nào mà họ coi là thành phần bội giáo.

Thế nhưng, vị chủ vườn nho này không quá ngu dại và điên cuống như đám "tá điền" gian ác tham lam ấy tưởng tí nào cả, trái lại, chính những mưu đồ xấu xa và việc làm quái gở của họ, hoàn toàn theo tính toán khôn ngoan nhất của họ, theo tự do đến độ lộng hành của họ, mà lại trở thành cơ hội vô cùng thuận lợi cho ý định cứu độ của Ngài, đúng như Con của Ngài đã tiên báo cho thành phần lãnh đạo đang nghe Người bấy giờ biết: "Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc; đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta?"

Thậm chí cho dù biết như thế đấy, ở chỗ "nghe dụ ngôn đó, thì hiểu Người ám chỉ về mình. Họ liền tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì thiên hạ đều tôn Người là Tiên tri", thành phần lãnh đạo dân Do Thái ấy nhất định vẫn không chấp nhận Người, vẫn muốn tình nguyện bất đắc dĩ trở thành "bọn thợ" nhúng tay vào việc "loại ra" "chính viên đá" theo thiên định chắc chắn sẽ "trở nên viên đá góc".

Hình ảnh và số phận của "viên đá" bị "loại ra đã trở thành viên đá góc" là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay đã được báo trước nơi số phận của tổ phụ Giuse, một trong 12 anh em trai của tổ phụ Giacóp, và được bố Giacóp thương nhất trong số các con của ông, nên đứa con trai thứ 11 này của ông, cùng cha khác mẹ với 10 người anh, đã bị các anh ghen ghét đến độ muốn sát hại, chẳng những cho bõ ghen tức mà còn để phá vỡ mộng mị của đứa em lên mặt này của họ.

Giuse là đứa em được bố tổ phụ Giacóp thương nhất, đến độ Giuse đã trở thành cái gai trước mắt các anh mình: "Israel mến thương Giuse hơn mọi đứa con khác, vì ông sinh ra Giuse trong lúc tuổi già. Ông may cho Giuse một chiếc áo nhiều mầu. Các anh của Giuse thấy cha mình thương Giuse hơn mọi đứa con, nên sinh lòng ghen ghét và không thể nói chuyện thân mật với Giuse".

Tuy nhiên, không phải vì thương Giuse nhất mà bố tổ phụ Giacóp không thương những đứa con còn lại, trái lại, ông vẫn quan tâm đến mọi đứa con của ông, như có lần ông sai Giuse đến với các anh của chàng: "Khi các anh Giuse đi chăn những đoàn chiên của cha mình tại Sikem, thì Israel nói với Giuse: 'Có phải các anh con đang chăn chiên ở Sikem không? Con hãy lại đây, cha sai con đi tìm các anh con'".

Không ngờ cơ hội tốt đã đến, các anh của người con cưng cùng một người cha khác mẹ với họ đã lọt vào tay họ một cách ngon lành, để họ nhờ đó có thể dễ dàng thực hiện ý đồ gian ác của họ là sát hại đứa em vô tội của họ, rồi bỏ xác của nó xuống một cái giếng cạn để phi tang tung tích của nó, nhưng sau theo gợi ý có lý của người anh thứ tư là Giuđa, họ đã chuyển mưu đồ giết em thành bán em của họ cho đám lái buôn đang đi sang Ai Cập.

"Giuse đi tìm các anh mình và gặp các anh tại Ðôtain. Khi các anh thấy Giuse từ đằng xa tiến lại gần, họ liền âm mưu tìm cách giết Giuse. Họ nói với nhau rằng: 'Này thằng chiêm bao đến kia rồi, anh em hãy lại đây, chúng ta bắt giết nó, ném xác nó xuống một cái giếng cạn và nói nó bị thú dữ ăn thịt, rồi xem các điềm chiêm bao của nó sẽ ra sao?'"

"Ðang khi các ông ngồi ăn bánh, thì thấy một đoàn người Ismael từ Galaad tiến về Ai-cập, các con lạc đà của họ chở đầy hương liệu, nhựa thơm và dầu thơm. Giuđa nói với các anh em rằng: "Chúng ta giết em chúng ta và giấu máu nó đi, thì có ích lợi gì? Tốt hơn là chúng ta đem bán nó cho người Ismael và tay chúng ta không phải vấy máu, vì Giuse là em ruột thịt chúng ta". Các anh em nghe theo lời Giuđa, nên khi các người lái buôn từ Mađian đi ngang qua đó, các ông kéo Giuse lên khỏi giếng và đem bán cho các người Ismael với giá hai mươi đồng bạc, và họ dẫn Giuse sang Ai-cập". 

Thế nhưng, cũng như bọn "tá điền" trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay, hoàn toàn tự do mưu tính và hành động theo sự khôn ngoan nhất của mình, thế mà Vị Thiên Chúa toàn năng quan phòng tất cả mọi sự như chủ tể lịch sử loài người vẫn có thể hoàn tất được tất cả những gì Ngài định liệu, bằng chính những âm mưu ác độc xấu xa và việc làm gian ác hung dữ của họ, như Bài Đáp Ca hôm nay chứng thực:

1) Chúa đã gọi cảnh cơ hàn về trên đất nước, và rút đi mọi sự nâng đỡ bằng cơm bánh. Ngài đã sai một người đi trước họ: Giuse đã bị bán để làm nô lệ. 

2) Thiên hạ đã lấy xiềng để trói chân người, và cổ người bị cột bằng xích sắt, cho tới khi ứng nghiệm lời tiên đoán của người, lời của Chúa đã biện minh cho người. 

3) Vua đã sai cởi trói cho người, Chúa của chư dân cũng đã giải phóng người. Vua đã tôn người làm chủ của mình, và làm chúa trên toàn diện lãnh thổ. 

 



ĐTC Bin Đức XVI: Thứ Tư 27/6/2007 - Bài Giáo Lý 43 - Thánh Giáo Phụ Cyril thành Giêrusalem 18/3

 

Saint Cyril of Jerusalem Resource Page | MYSTAGOGY RESOURCE CENTER

 

Cyrilô nhiệt thành học Kinh Thánh tại Giêrusalem. Khoảng 30 tuổi, ngài được thụ phong linh mục và sau nhiều thăng trầm ngài trở thành Giám mục Giêrusalem.
 
Một phép lạ ghi dấu khởi đầu đời Giám mục của ngài. Chính ngài đã kể lại phép lạ ấy trong một lá thư gửi cho các vua Constance. Ngày 7 tháng 5 năm 351, vào buổi sáng, trên nền trời thành phố hiện ra một cây thánh giá sáng chói. Thánh giá trải dài từ đỉnh Canvê tới cây dầu. Cảm kích tột độ, đàn ông đàn bà và trẻ em bỏ nhà chạy đến nhà thờ, lớn tiếng ca ngợi Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Các khách hành hương đến viếng đất thánh loan đi khắp nơi.
 
Nhiều lương dân và người Do thái trở lại, Cyrilô viết thư cho hoàng đế Constance biết hiện tượng lạ thường này như lời kêu gọi nhà vua trở về với đức tin Công giáo.
 
Mục đích đầu tiên của Cyrilô là nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất giữa các tâm hồn vì không có sự phân rẽ nào có thể tổn tại được trong lòng Giáo hội, lòng bác ái của ngài bao trùm hết những người đau khổ, đến nỗi ngài bị trách cứ là đã bán đồ thánh và nhất là những đồ trang hoàng đại đế Constantinô đã hiến dâng cho nhà thờ.
 
Các giáo huấn của Ngài còn giữ lại được, đã chúng tỏ rằng : trong những thế kỷ đầu, người ta đã tôn kính dấu thánh giá thế nào, ngài khuyên:

 
 
Là mục tử gương mẫu, thánh Cyrilô kiên quyết bảo vệ chân lý đức tin chống lại những kẻ lạc giáo. Ba lần ngài bị đày khỏi Giêrusalem và ba lần ngài được tái lập tại Tòa Giám mục. Dưới thời Julianô bội giáo, khi trở lại địa phận, ngài sẽ là chứng nhân của một sự lạ nữa không thể quên được.
 
Nhà vua muốn đưa ra một sự phủ nhận đối với lời tuyên bố của Chúa Giêsu về việc tàn phá đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu đã loan báo rằng : đền thờ sẽ bị phá huỷ và không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Nhà vua muốn phủ nhận lời tiên báo, định xây lại nhà thờ tái lập lại việc thờ phượng của Do thái giáo. Các công nhân đổ về Giêrusalem.
 
Để tái thiết đền thờ người ta đã dâng hiến mọi của cải cần thiết. Dân Do thái khắp nơi tụ tập lại. Hãnh diện vì sự bao bọc của nhà vua, họ khinh miệt và đe dọa các Kitô hữu. Đức Giám mục bị tấn công cả từ phía các lương dân lẫn các tín hữu quá yếu kém lòng tin.
 
Giữa những nhục mạ của một số người và nước mắt của một số người khác, ngài quả quyết rằng sự thách thức bất lương sẽ đổi thành cơn bấn loạn cho lương dân và cho người Do thái. Trong khi đó, đêm ngày triệt hạ cái nền móng cũ một cách vô tình, người Do thái đã nỗ lực hoàn thành lời tiên báo không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi họ bắt đầu thực hiện việc xây cất thì có những cơn giông thổi lửa xuống đất, thiêu đốt các công nhân, làm cho họ không ai tới nơi để thực hiện công trình được. Julianô đã nghĩ tới truyện trả thù Xi-ri-lô vì sự thất bại khủng khiếp của ông. Nhưng cái chết đã ngăn cản không cho ông thực hiện ý định.

Đang khi lo lắng cho Địa phận mình, Cyrilô lại nhận được sắc lệnh lưu đày mới thời Valens. Ngài bị lưu đày mười một năm và đã trở lại vĩnh viễn tại Giêrusalem dưới thời vua Gratianô.
 
Ngài đã tham dự công đồng Constantinople. Các Giám mục họp lại, viết thư cho Đức Giáo Hoàng để ca tụng đức tin và thái độ anh hùng của Cyrilô. Đây là chứng tích cuối cùng về con người vĩ đại đã bảo vệ đức tin Kitô giáo này.


Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý - Theo Vết Chân Người


https://giaophanphucuong.org/phung-vu-chu-thanh/thanh-cyrilo-thanh-gierusalem-896.html

 

 

 

 

Thứ Bảy sau Chúa Nhật II Mùa Chay

 

Bài Ðọc I: Mk 7, 14-15. 18-20

"Chúa ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển".

Trích sách Tiên tri Mikha.

Lạy Chúa, với cây trượng của Chúa, xin chăn dắt dân Chúa, chăn dắt những con chiên thuộc quyền sở hữu của Chúa, sống lẻ loi trong rừng, ở giữa núi Carmêlô. Tất cả được chăn dắt ở Basan và Galaad như ngày xưa. Như ngày ra khỏi Ai-cập, xin tỏ cho chúng con thấy những việc lạ lùng.

Có Chúa nào giống như Chúa là Ðấng dẹp tan mọi bất công, và tha thứ mọi tội lỗi của kẻ sống sót thuộc về Chúa? Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích lòng từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển. Chúa ban cho Giacóp biết sự trung thành của Chúa và cho Abraham biết lòng từ bi mà Chúa đã thề hứa với tổ phụ chúng tôi từ ngàn xưa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 9-10. 11-12

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.

3) Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa điều oan trái chúng tôi. - Ðáp.

4) Cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b

Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Lc 15, 1-3. 11-32

"Em con đã chết nay sống lại".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.

Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:

"Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: "Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con". Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: "Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha". Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: "Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa". Nhưng người cha bảo các đầy tớ: "Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.

"Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: "Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ". Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào, nhưng anh trả lời: "Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó". Nhưng người cha bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lk 15, 1-3. 11-32

 

 

SUY NIỆM

 

Đó là cái bí mật của lòng thương xót, là nghệ thuật siêu đẳng làm cha

 

Hôm nay là Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần 2 Mùa Chay. Bài Phúc Âm về một dụ ngôn chỉ có trong Phúc Âm Thánh Luca vẫn được gọi là dụ ngôn người con hoang đàng, một dụ ngôn cũng liên quan đến chủ đề chung cho Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh là: "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi (ở chỗ chia gia tài cho đứa con phung phá) để rồi lấy nó lại (khi đứa con phung phá trở về với cha của nó như chết mà sống lại)" (Gioan 10:17). 

Trong tuần Thứ 2 Mùa Chay này, Giáo Hội cố ý chọn 3 dụ ngôn cho 3 ngày cuối tuần này: Thứ Năm với dụ ngôn Lazarô và người phú hộ vô tâm, Thứ Sáu với dụ ngôn vườn nho và bọn tá điền gian ác, và Thứ Bảy hôm nay với dụ ngôn phải được gọi là người cha thương xót hơn là dụ ngôn người con hoang đàng.

Thật vậy, theo chiều hướng chung của phụng vụ lời Chúa hôm nay, bao gồm cả Bài Đọc 1, thì Giáo Hội, qua dụ ngôn của Bài Phúc Âm trong ngày này, cố ý nhấn mạnh đến tấm lòng vô cùng nhân hậu của người cha chẳng những đối với người con hoang đàng, hơn là đến việc hoán cải trở về cùng cha của người con hoang đàng ấy, mà còn đến cả người con trưởng lầm lạc đáng thương nữa.

Đúng thế, ngay ở đầu bài Phúc Âm, câu Phúc Âm mở màn đã khiến chúng ta thấy ngay được vai chính của dụ ngôn sau đó là người cha hơn là người con, một người cha có 2 đứa con chứ không phải một, và đứa con nào cũng được ông hết tình xót thương, trong đó bao gồm cả người con lớn, đứa con tiêu biểu cho thành phần "những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: 'Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng'", cũng chính là thành phần được Chúa Giêsu "phán bảo họ dụ ngôn này", một dụ ngôn bao gồm cả họ lẫn "những kẻ tội lỗi" là thành phần được tiêu biểu nơi người con thứ phung phá. 

Quả thực qua dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được người cha có hai người con trai này nhân hậu biết là chừng nào, một tình nhân hậu đúng là "như Cha trên trời là Đấng xót thương" (Luca 6:36), một tầm mức xót thương vô cùng trọn lành và cao cả, không một người cha người mẹ trần gian nào có thể đạt được hay vươn tới hoặc làm nổi, và vị nghĩ ra dụ ngôn này cũng phải là một vị Thần Linh mới có thể nói về một thực tại thần linh hoàn toàn siêu việt không thể nào xẩy ra trên trần gian này như thế.

Trước hết, lòng thương xót vô cùng siêu việt của người cha trong dụ ngôn được Thánh ký thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay đối với người con thứ hoang đàng phung phá. Ở chỗ, trước hết, sẵn sàng chia gia tài cho nó, dù biết rằng nó đòi chia gia tài cho nó là để nó bỏ đi, không muốn sống với ông nữa. Vì nếu nó còn ở nhà với ông như người con trưởng anh nó thì đâu cần phải chia gia tài cho nó mà làm gì. 

Và ông biết chắc rằng gia tài ông chia cho nó để nó bỏ ông mà đi như thế sẽ bị tan hoang hết thôi. Nhưng ông vẫn không can ngăn nó, không nói năng gì, cứ sẵn sàng đáp ứng yêu cầu tuy chính đáng của nó nhưng nguy hiểm cho nó và thiệt hại đến cả ông nữa. Hình như ông muốn để cho xẩy ra như vậy để cho đứa con dại khờ của ông sau khi hoang đàng trở về sẽ thấy được tất cả tấm lòng ông thương nó, bằng không, tình thương của ông không thể nào thi thố hết cỡ như với nó vậy

Nhưng ông làm sao có thể biết được là đứa con hoang đàng phung phá này của ông, một khi đã trở nên cùng cực, sẽ trở về với ông như một thân tàn ma dại: 

"Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: 'Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha'". 

Đó là cái bí mật của lòng thương xót nơi ông, cái nghệ thuật siêu đẳng làm cha của ông, ở chỗ, ông biết con ông hơn chính nó biết nó, và thương nó hơn chính nó thương nó, đến độ, ông không sợ mất nó, sẵn sàng để nó đi, vì ông biết rằng nó sẽ không thể nào tìm được hạnh phúc thật và sự sống thật ngoại trừ trở về với cha của nó, sống với cha nó, và chỉ ở trong nhà của cha nó tiêu biểu cho mối hiệp thông với cha mới có sự sống mà thôi

Không phải hay sao: 1- "Khi nó tiêu hết tiền của": ám chỉ linh hồn phạm tội trọng bị mất Ơn Nghĩa Chúa, mất Thánh Sủng, như trong trường hợp Kitô hữu Công giáo; 2- "thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu": ám chỉ tình trạng linh hồn mất Ơn Nghĩa Chúa cũng đồng thời thiếu ơn Chúa để có thể sống tốt lành; 3- "Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo": ám chỉ linh hồn trọng tình trạng tội trọng đang làm tôi cho ma quỉ và "người trong miền" mà linh hồn làm tôi là ma quỉ này bao giờ cũng xui khiến họ sống theo xác thịt đê hèn như loài "heo"; 4- "Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho": ám chỉ linh hồn thèm khát những gì con heo xác thịt tìm kiếm như đồ ăn bẩm sinh bất khả thiếu của nó là thế gian, nhưng không thỏa mãn...

Thế gian cùng với các thứ hào nhoáng thu hút của nó vô cùng thích hợp với bản tính tự nhiên của con người dù sao vẫn không thể nào hoàn toàn và tận tuyệt thỏa mãn con người, bởi tâm hồn của con người, dù tội lỗi đến đâu cũng đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa cao cả nên chỉ có thể được thỏa mãn nơi những gì chân thật thiện hảo xứng hợp với nó mà thôi... Do đó, như một khả năng được "build-in" - sẵn có nơi lòng của con người, đứa con hoang đàng từ đó và do đó, khi đã xuống tới đáy vực thì bật lên hay dội lại. Vì thế dụ ngôn mới được tiếp ngay đến chi tiết đứa con hoang đàng phung phá bật lên hay dội lại như thế này: "Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: 'Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi..."

Phải chăng đó là lý do cho dù có thương con đến thế nào chăng nữa, người cha cũng vẫn chẳng cần đi tìm đứa con dại hoang đàng phung phá của mình, mà chỉ cần ở nhà chờ nó trở về với ông, bằng tất cả tấm lòng bao dung tha thứ sẵn sàng của ông, bởi ông đã tha cho nó ngay từ khi nó xin ông chia gia tài cho nó để nó bỏ ông mà đi theo đam mê dục vọng đê hèn của nó, coi đam mê dục vọng của mình hơn tình phụ tử cao vời của ông với nó?!

Chính vì người cha đã tha cho con mình ngay từ đầu, và thấu hiểu con mình hơn ai hết như thế, mà "khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa'. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: 'Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình". 

Người cha chẳng những đã vui mừng vì đứa con hoàng đàng phung phá trở về và đã tự động mau mắn tha thứ cho nó trước khi nó lên tiếng xin lỗi ông, mà còn phục hồi lại cho nó tất cả những gì nó đã tự đánh mất khi xa ông trong đời sống bê tha hoang đàng bất xứng, đó là chức làm con, được tiêu biểu nơi việc "mặc" "áo đẹp nhất", nghĩa là được có cùng huyết nhục của cha và với cha; quyền làm con, được tiêu biểu nơi việc "đeo nhẫn vào ngón tay cậu", nghĩa là được quyền thay mặt cha khi cha còn sống và thừa hưởng phần gia tài của cha sau khi cha qua đời; và phận làm con, được tiêu biểu nơi "giầy ở chân cậu", nghĩa là ở vai trò làm chủ của thành phần nô lệ và tôi tớ trong nhà, thành phần theo văn hóa bấy giờ lúc nào cũng đi chân không.

Tình của người cha xót thương đứa con hoang đàng phung phá này đã khiến cho người con trưởng cảm thấy bất mãn và ghen tức với cả người cha lẫn người em của hắn, đến độ, hắn "nổi giận và quyết định không vào nhà", một thái độ tiêu biểu cho việc tuyệt tình và tuyệt giao của hắn với cả cha hắn với em hắn, không còn muốn hiệp thông liên hệ gì với họ nữa, cho dù cả hai đều là ruột thịt của hắn. 

Đến đây chúng ta mới thấy tình thương của người cha không phải chỉ giành riêng cho đứa con hoang đàng phung phá mà còn cho cả đứa con ở nhà với ông nữa. Có thể nói ông tỏ ra thương người con trưởng hơn cả người con thứ nữa. Ở chỗ, trong khi ông không đi tìm người con thứ hoang đàng phung phá, thì ông lại đi tìm người con trưởng của ông, vì nó ở gần ông đấy nhưng lại hoàn toàn lạc mất ông và chẳng hiểu ông bằng người con thứ hoang đàng phung phá.

Có thể nói người con trưởng mới là con chiên lạc, đến độ người cha đã phải bỏ 99 con đang linh đình dự tiệc mừng người con hoang đàng phung phá trở về ở trong nhà mà đi tìm con chiên lạc loài một mình đang sống cô lập bên ngoài mối hiệp thông cha con và huynh đệ, bằng cách người cha đã "ra xin anh vào". Nghĩa là trong khi người con thứ hoang đàng phung phá tìm về với người cha, không cần người cha đi tìm nó, thì người cha lại đi tìm người con trưởng để mang nó về đàn với em của nó.

Người con trưởng quả thực là con chiên lạc cần được người cha tìm về hơn người con thứ. Bởi vì trong khi người con thứ biết thân phận làm con của mình vì hoang đàng phung phá đã không còn xứng nữa nên chỉ xin làm đầy tớ cho cha và của cha, miễn là được cha chấp nhận cho về sống với cha và trong nhà của cha, thì người con trưởng ở nhà với cha lại chỉ muốn làm đầy tớ của cha và cho cha, chứ không muốn làm con của cha, vì hắn làm gì cũng tính công, cũng đòi công như thành phần đầy tớ: "Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn". 

Chính vì tinh thần làm công như một tên đầy tớ của cha và cho cha như thế mà người con trưởng đã không nghĩ rằng "tất cả của cha là của con", bao gồm cả đứa em của hắn, một đứa em còn quí báu hơn tất cả gia tài vật chất của người cha nữa, đến độ, người cha không thể nào không ăn mừng khi thấy đứa con hoang đàng phung phá tự động trở về với tấm lòng thương xót bất khả chống cưỡng của ông đối với nó: "Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".

Người cha trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay chính là hình ảnh về một Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu, đã tỏ mình ra cho dân được Ngài tuyển chọn như vị mục tử chăn dắt họ là đàn chiên của Ngài, vị mục tử được tiên tri Mica cảm nhận trong Bài Đọc 1 hôm nay như sau

"Lạy Chúa, với cây trượng của Chúa, xin chăn dắt dân Chúa, chăn dắt những con chiên thuộc quyền sở hữu của Chúa, sống lẻ loi trong rừng, ở giữa núi Carmêlô. Tất cả được chăn dắt ở Basan và Galaad như ngày xưa. Như ngày ra khỏi Ai-cập, xin tỏ cho chúng con thấy những việc lạ lùng".

Lịch sử cứu độ của dân Do Thái đã cho thấy không phải là dễ dàng gì mà chăn dắt họ. Bởi họ là một dân tộc rất ngang tàng bướng bỉnh, bất chấp có được Vị Thiên Chúa của cha ông họ tỏ mình ra cho thấy Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ "nhiều lần bằng nhiều cách" (Do Thái 1:1). 

Bởi thế, họ là cả một đàn chiên lạc chứ không phải chỉ lạc có một con, và vị mục tử của họ không thể nào chăn dắt họ nếu không nhẫn nại với họ, nếu cứ chấp tội họ, nếu không luôn đi tìm họ, không theo đuổi họ hơn là họ theo đuổi ngài, một vị Thiên Chúa đúng như cảm nhận và xác tín của tiên tri Mica trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Có Chúa nào giống như Chúa là Ðấng dẹp tan mọi bất công, và tha thứ mọi tội lỗi của kẻ sống sót thuộc về Chúa? Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích lòng từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển. Chúa ban cho Giacóp biết sự trung thành của Chúa và cho Abraham biết lòng từ bi mà Chúa đã thề hứa với tổ phụ chúng tôi từ ngàn xưa".

Phải, chỉ có ai cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa, ở chỗ cho dù mình có là một tội nhân nhưng đã được và hằng được Thiên Chúa vô cùng yêu thương nhận hậu tha thứ, hơn là đối xử với mình đáng tội của mình, mới có được những cảm nhận và tâm tình của Bài Đáp Ca và như Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. 

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. 

3) Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa điều oan trái chúng tôi. 

4) Cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. 

 

 

 

 

Ngày 19 tháng 3

THÁNH GIU-SE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MA-RI-A

lễ trọng

 

Thánh Giu-se, bạn trăm năm của Đức Ma-ri-a, có sứ mạng “chăm sóc Đức Giê-su như một người cha”.
Nhưng Chúa đã muốn người chủ thánh gia ở Na-da-rét tiếp tục sứ mạng ấy trong Hội Thánh, thân thể của Chúa Ki-tô.
Đức Ma-ri-a là Mẹ của Hội Thánh thì thánh Giu-se là Đấng che chở Hội Thánh.


Why St. Joseph is especially our patron when we're working from home

Phụng Vụ Giờ Kinh

 

Đây bậc Thánh cả thiên đàng hãnh diện,
Niềm cậy trông và cột trụ trần gian,
Chúng con dâng lời tán tụng đôi hàng,
Xin hiền phụ Giu-se thương nhận lãnh.

Dòng Đa-vít, Chúa tạo thành se định
Được kết duyên cùng Trinh Nữ ngọc ngà,
Con Chúa Trời âu yếm gọi là “Cha”,
Ngài cộng tác vào công trình cứu độ.

Ngài lặng lẽ ngắm nhìn Ngôi Thiên Tử,
Giờ sinh ra trong máng cỏ nghèo hèn,
Đấng bao đời ngôn sứ đã ngợi khen,
Ngài thờ lạy đầu tiên cùng Đức Mẹ.

Đây Chúa Tể càn khôn, đây Thượng Đế,
Một dấu tay là địa ngục hãi hùng,
Cả thiên đình đều phụng mệnh khiêm cung
Mà không quản vâng ý ngài trọn vẹn.

Lời vinh tụng, dâng Ba Ngôi trìu mến
Đã ban cho ngài chức trọng quyền cao,
Được ngài thương hằng nâng đỡ nguyện cầu,
Đoàn chúng tử sẽ thông phần vinh phước.

 

 

Lạy Chúa, Chúa đã giao phó Đức Giê-su cho thánh cả Giu-se, và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho Giáo Hội biết luôn luôn cộng tác với Đức Giê-su, để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16

"Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Ðavít, tổ phụ Người".

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: Khi ngày của ngươi đã viên mãn, ngươi sẽ yên nghỉ với các tổ phụ ngươi; sau đó, Ta sẽ cho miêu duệ ngươi lên kế vị và Ta sẽ làm cho triều đại người được vững bền. Chính người sẽ xây cất một ngôi nhà để kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngôi báu triều đại người được củng cố đến muôn đời. Ta sẽ là Cha của người, và người sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29

Ðáp: Miêu duệ người tồn tại đến muôn đời (c. 37).

Xướng: 1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.

2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.

3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 4, 13. 16-18. 22

"Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, không phải nhờ lề luật mới có lời hứa ban cho Abraham hay dòng dõi của ông trở nên kẻ thừa kế thế gian, nhưng là nhờ sự công chính của đức tin. Vì thế, do đức tin, được coi như là theo ân sủng, lời hứa cho mọi dòng dõi được vững bền, không phải chỉ cho kẻ sinh bởi lề luật, mà còn cho kẻ sinh bởi đức tin của Abraham, tổ phụ của mọi người chúng ta, (như có lời chép rằng: Ta đã đặt ngươi làm cha nhiều dân tộc) trước mặt Thiên Chúa, Ðấng ông đã tin, Ðấng cho kẻ chết sống lại, và kêu gọi cái không có như có. Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế". Vì vậy, ông đã được kể như sự công chính.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 83, 5

(Mùa Chay: bỏ Alleluia)

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, phúc cho những ai ngụ nơi nhà Chúa, họ sẽ khen ngợi Chúa đến muôn đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 1, 16. 18-21. 24a

"Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - -  - - - - - - 

Hoặc: Lc 2, 41-51a

"Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người.

Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà.

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Giuse trong buổi triều kiến chung 19/3/2003

1. Hôm nay chúng ta cử hành lễ trọng kính Thánh Giuse, vị hôn phu của Mẹ Maria (x Mt 1:24; Lk 1:27). Phụng vụ diễn tả Ngài là “cha” của Chúa Giêsu (x Lk 2:27,33,41,43,48), sẵn lòng thực thi các dự án thần linh, ngay cả khi những dự án này vượt quá tầm mức hiểu biết loài người. Nơi “người con Vua Đavít” (Mt 1:20; Lk 1:27) này, Sách Thánh được nên trọn và Lời Hằng Sống đã làm người, bởi quyền năng Thánh Linh, trong cung lòng của Trinh Nữ Maria. Thánh Giuse được Phúc Âm diễn tả như là “một con người công chính” (Mt 1:19), và Ngài là mẫu gương sống đức tin cho tất cả mọi tín hữu.

2. Chữ “công chính” nói lên tính cách cương trực về luân lý của Ngài, việc Ngài chân thành gắn bó với việc thực hành lề luật cũng như thái độ hoàn toàn cởi mở trước ý muốn của Cha trên trời. Ngay cả trong những lúc khó khăn, vào những lúc thảm cảnh, người thợ mộc khiêm hạ thành Nazarét này cũng không bao giờ chiếm cho mình thứ quyền thách đố dự án của Thiên Chúa. Ngài chờ đợi tiếng gọi từ trên cao và âm thầm tôn kính mầu nhiệm ấy, bằng cách để cho Chúa hướng dẫn. Một khi lãnh nhận công việc, Ngài thi hành với tất cả trách nhiệm thành tín: Ngài chuyên chú lắng nghe thiên thần khi được yêu cầu nhận Trinh Nữ Nazarét làm hiền thể của Ngài (x Mt 1:18-25), trong cuộc trốn sang Ai Cập (x Mt 2:13-15) cũng như trong cuộc trở về Do Thái (x Ibid 2:19-23). Qua một số giòng chữ, tuy ít nhưng quan trọng, các vị thánh ký đã cho thấy Ngài như là một vị bảo quản ân cần của Chúa Giêsu, một phu quân lưu tâm và trung tín, vị thi hành quyền bính của mình trong gia đình bằng một thái độ phục vụ liên lỉ. Sách Thánh không nói cho chúng ta biết hơn nữa về Ngài, nhưng trong cái câm nín này đã gói ghém chính kiểu cách sứ vụ của Ngài, đó là một cuộc hiện hữu được sống động trong âm thầm của cuộc sống hằng ngày, nhưng bằng một đức tin vững chắc vào Đấng Quan Phòng.

3. Hằng ngày Thánh Giuse phải cung ứng các nhu cầu của gia đình bằng việc làm chân tay khó nhọc của Ngài. Vì lý do này, Giáo Hội đã có lý để đặt Ngài là quan thày của thành phần lao động.

Bởi thế, lễ trọng hôm này cũng là một cơ hội rất thuận lợi để suy nghĩ về tầm quan trọng của việc làm trong đời sống con người, nơi gia đình cũng như ngoài cộng đồng.

Con người là chủ thể và là vai chính của việc làm, và theo chiều hướng của sự thật này, người ta có thể dễ dàng nhận thức được cái liên hệ trọng yếu hiện hữu giữa con người, việc làm và xã hội. Hoạt động của con người, theo Công Đồng Chung Vaticanô II, được phát xuất từ con người và qui hướng về con người. Theo ấn định và ý muốn của Thiên Chúa, nó phải phục vụ thiện ích thực sự của nhân loại và giúp cho “con người, là một cá nhân cũng như là một phần tử của xã hội, có thể vun trồng và thực thi ơn gọi toàn diện của mình” (x Vui Mừng Và Hy Vọng, 35).

Để làm trọn công việc này, cần phải vun trồng “một linh đạo thực sự của việc làm nhân bản” được sâu xa bắt nguồn từ “Phúc Âm làm việc”, và là một linh đạo các tín hữu được kêu gọi để loan truyền và làm chứng cho ý nghĩa việc làm theo Kitô Giáo trong các hoạt động nghề nghiệp khác nhau của họ (x Thông Điệp Laborens Exercens, 26).

4. Chớ gì Thánh Giuse, một vị thánh cao cả và khiêm hạ, trở thành một mẫu gương khiến thành phần lao động Kitô hữu noi theo bắt chước, kêu cầu Ngài trong hết mọi hoàn cảnh. Hôm nay đây, Tôi xin ký thác cho vị bảo quản ân cần Thánh Gia Nazarét này giới trẻ, thành phần đang sửa soạn cho một tương lai nghề nghiệp, thành phần thất nghiệp và những ai đang phải chịu khốn khó vì thiếu nghề nghiệp, các gia đình và toàn thế giới của việc làm cùng với những mong đợi và thách đố, những trục trặc và chiều kích của nó.

Xin Thánh Giuse, quan thầy chung của Giáo Hội, trông coi toàn thể cộng đồng giáo hội, và như một con người thực sự của hòa bình, cầu cho toàn thể nhân loại, nhất là cho những người đang bị đe dọa trong thời gian chiến tranh này đây, tặng ân thái hòa và bình an cao quí.

Anh Chị Em thân mến,

Thánh Giuse là vị chúng ta long trọng mừng lễ hôm nay đây, là gương mẫu sống đức tin. Là vị bảo vệ Thánh Gia, “con người công chính” (Mt 1:19) này là một con người lao động khiêm tốn, và là một phu quân và thân phụ trung thành. Đời sống của Ngài cho chúng ta thấy một lòng tin tưởng bất khả chuyên thay vào Đấng Quan Phòng thần linh.

Thánh Giuse sẵn sàng thực hiện dự án của Thiên Chúa giành cho Ngài cũng như cho Mẹ Maria, ngay cả khi dự án này dường như vượt trên mức độ hiểu biết của loài người.

Giáo Hội cũng cử hành mừng Thánh Giuse là Quan Thày của Thành Phần Lao Động nữa. Trong một thế giới toàn cầu hóa hôm nay đây chúng ta cần phải nhắc nhở mình là phẩm vị của con người phải đóng vai trò quan trọng chính yếu nơi tất cả mọi thứ phát triển về xã hội cũng như kinh tế. Là một con người của hòa bình, chúng ta hãy cầu với Thánh Giuse cho những ai đang bị de dọa bởi chiến tranh và chúng ta kêu cầu tặng ân thái hòa cao quí cho toàn thể gia đình nhân loại.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ theo tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 19/3/2003.

 

Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật III Mùa Chay về Thánh Giuse 19/3/2006

Anh Chị Em thân mến!

Hôm nay, ngày 19/3, là lễ trọng kính Thánh Giuse, nhưng vì trùng với Chúa Nhật III Mùa Chay nên phụng vụ được dời vào ngày mai. Tuy nhiên, khung cảnh Thánh Mẫu của buổi nguyện Kinh Truyền Tin kêu mời chúng ta hãy kính can suy niệm về hình ảnh vị hôn phu của Trinh Nữ Maria Rất Thánh, quan thày của Giáo Hội hoàn vũ. Tôi muốn nhắc lại là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thân yêu của chúng ta cũng rất sùng kính Thánh Giuse, vị được ngài giành hẳn một bức tông thư ‘Redemptoris Custos’, Vị Bảo Hộ Của Đấng Cứu Chuộc, và là giáo hoàng chắc chắn đã cảm thấy được sự hỗ trợ của thánh nhân trong giờ lâm tử.

Hình ảnh của vị đại thánh này, cho dù vẫn âm thầm kín ẩn, có một tầm vóc quan trọng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Trước hết, vì thuộc về chi tộc Giuđa, thánh nhân đã có liên hệ với Chúa Giêsu theo giòng dõi vua Đavít, bởi đó, khi hiện thực những lời hứa về Đấng Thiên Sai, người con của Trinh Nữ Maria mới thực sự được gọi là ‘con vua Đavít’.

Phúc Âm Thánh Mathêu nhấn mạnh một cách đặc biệt đến những lời tiên tri về đấng thiên sai được nên trọn nơi vai trò của Thánh Giuse: nơi việc Chúa Giêsu được hạ sinh (2:13-15); tên gọi ‘Nazarene’ (2:22-23). Trong tất cả những điều này, thánh nhân đã cho thấy bản thân của ngài, như vị hôn thê Maria của mình, là giòng dõi đích thực của đức tin Abraham: niềm tin nơi Thiên Chúa đã hướng dẫn các biến cố lịch sử theo dự án cứu độ thần linh của Ngài. Sự cao cả của thánh nhân, như Mẹ Maria, còn trổi vượt hơn nữa, vì sứ vụ của thánh nhân được thực hiện trong khiêm hạ cũng như trong sự khuất kín ở nhà Nazarét. Hơn nữa, chính Thiên Chúa, nơi bản thân Người Con nhập thể của Ngài, đã chọn đường lối cùng lối sống ấy trên cuộc đời trần gian.

Từ gương mẫu của Thánh Giuse, tất cả chúng ta lãnh nhận một lời mời mmạnh mẽ trong việc trung thành, đơn sơ và khiêm hạ công việc được Thiên Chúa quan phòng ấn định cho chúng ta. Trước hết tôi đang nghĩ đến những người làm cha làm mẹ, và tôi nguyện cầu để họ luôn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của một đời sống giản dị và cần cù, chuyên chú vun trồng mối liên hệ vợ chồng và nhiệt thành làm trọn sứ vụ giáo dục cao cả nhưng không dễ dàng gì.

Xin Thánh Giuse cầu cho các vị linh mục là thành phần thực thi vai trò làm cha đối với cộng đồng giáo hội biết yêu mến Giáo Hội một cách thiết tha và hoàn toàn dấn thân phục vụ, và nâng đỡ thành phần tu trì tận hiến biệt hân hoan và trung thành tuân giữ các lời khuyên của Phúc Âm sống khó nghèo, thanh tịnh và tuân phục. Xin thánh nhân bảo vệ thành phần lao động trên thế giới để họ góp phần bằng các nghề nghiệp khác nhau của họ cho sự tiến bộ của toàn thể nhân loại, và xin thánh nhân giúp cho hết mọi Kitô hữu nhận biết ý muốn của Thiên Chúa một cách tin tưởng và mến yêu, nhờ đó cộng tác vào việc làm trọn công cuộc cứu độ.

Khi Đức Thánh Cha vừa nói hết câu đầu tiên của bài huấn từ truyền tin trên đây, câu “Anh Chị Em thân mến. Hôm nay, ngày 19/3, là lễ trọng kính Thánh Giuse”, liên được đoàn hành hương cả 50 ngàn người vỗ tay vang rền khu Quảng Trường Thánh Phêrô. Có một số người cầm biểu ngữ với những chữ như “Auguri, Joseph!” (Chúc Mừng Giuse). Đức Thánh Cha đã mỉm cười và nói cám ơn mấy lần.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 19/3/2006

 

 

Lễ Phu Quân Giuse, 19/3