SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

CHU KỲ CHÚA NHẬT NĂM C VÀ NGÀY THƯỜNG NĂM CHẴN

 

Mùa Phục Sinh

 

Tuần Bát Nhật

 

Biên soạn và chia sẻ: Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL

 

"Thày là sự sống lại"

Dẫn Nhập:

 

Theo phụng niên của Giáo Hội có hai mầu nhiệm được cử hành ở bậc Lễ trọng thể nhất, có tuần bát nhật trước cũng như sau chính đại lễ, đó là Mầu Nhiệm Giáng Sinh và Mầu Nhiệm Phục Sinh. Vì hai mầu nhiệm này đều cử hành vào nửa đêm: Đêm Giáng Sinh và Đêm Phục Sinh. Bởi Ngôi Lời giáng sinh vào nửa đêm và Chúa Kitô cũng phục sinh vào nửa đêm. Tại sao vậy?

 

Tại vì, nơi Mầu Nhiệm Giáng Sinh, "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5), "chiếu soi trong tăm tối" (Gioan 1:5) là thế gian nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), như để xua tan bóng đêm tội lỗi và sự chết gây ra bởi nguyên tội trên thế gian và nơi loài người, như lấy lành thắng dữ lấy thiện báo oán.

 

Và vì, nơi Mầu Nhiệm Phục Sinh, Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian... ánh sáng ban sự sống" (Gioan 8:12), đã đi từ bóng tối ra ánh sáng, như muốn biến dữ thành lành, biến án thành thiện, ở chỗ, Người đã để cho sự dữ tội lội và sự chết chụp bắt, nơi thân xác khổ nạn và tử giá của Người, để nhờ đó, cũng bằng thân xác của mình, một thân xác đã thực sự bị chết đó, Người đã biến sự chết thành sự sống và tội lỗi thành ân sủng.

 

Đó là tất cả Sứ Điệp Phục Sinh (Chúa Nhật Phục Sinh, đầu Tuần bát Nhật) cũng là Sứ Điệp của Lòng Thương Xót Chúa (Chúa Nhật II Phục Sinh, cuối Tuần Bát Nhật Phục Sinh).

 

Nếu trong Mùa Chay, nhất là từ Tuần Thư 4 trở đi, bao gồm cả Tuần Thánh, chủ đề chính yếu của phụng vụ Lời Chúa là Mầu Nhiệm Vượt Qua, hướng về (Mùa Chay) và cử hành (Tam Nhật Thánh) biến cố khổ giá và phục sinh của Chúa Kitô, tột đỉnh mạc khải thần linh của Thiên Chúa, thì trong Mùa Phục Sinh 7 tuần lễ, chủ đề của phụng vụ Lời Chúa phản ảnh đúng như lời Chúa Kitô đã tuyên bố về bản thân Người "Thày là sự sống lại và là sự sống", một chủ đề có 2 phần: phần 1 "Thày là sự sống lại" cho Tuần Bát Nhật Phục Sinh, và phần 2 "Thày là sự sống" cho 6 tuần lễ còn lại của Mùa Phục Sinh (rồi chúng ta sẽ thấy).

Thật vậy, chủ đề của phụng vụ Lời Chúa cho Tuần Bát Nhật Phục Sinh, kể từ ngày đầu tiên là Chúa Nhật Phục Sinh (ở Thánh Lễ ban ngày, chứ không phải Thánh Lễ Đêm Vọng Phục Sinh) đến ngày thứ 8 là Chúa Nhật thứ 1 sau Phục Sinh là chính Lễ Lòng Thương Xót Chúa, toàn là những bài Phúc Âm (bao gồm toàn bộ 4 cuốn, nhưng chính yếu là Phúc Âm Thánh ký Gioan có 4 trong 8 bài mà 2 bài chính vào 2 Chúa Nhật đầu và cuối Tuần Bát Nhậtđược Giáo Hội cố ý chọn đọc về các lần Chúa Kitô sau khi sống lại từ trong cõi chết hiện ra khác nhau theo thứ tự thời gian, như sau:

Trong các bài Phúc Âm đều cho thấy việc Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra là để chẳng những chứng thực Người đã sống lại đúng như Thánh Kinh và lời Người đã báo trước, mà còn để trở thành sứ vụ loan báo của thành phần chứng nhân tiên khởi là các tông đồ nữa, đúng như lời Chúa Giêsu đã tiên báo về mối liên hệ mật thiết bất khả phân ly giữa Ngài và Giáo Hội Truyền Giáo: "Thần Chân Lý từ Cha mà đến và là Đấng chính Thày sẽ sai đến từ Cha, Ngài sẽ làm chứng về Thày. Các con cũng phải làm chứng về Thày, vì các con đã ở với Thày ngay từ ban đầu" (Gioan 15:26-27). 

Đó là lý do bài đọc 1, trong suốt Mùa Phục Sinh, không trích từ Cựu Ước, mà toàn là Sách Tông Vụ, thứ tự được Giáo Hội trích đọc từ đầu đến cuối (trừ Chúa Nhật Phục Sinh ở đoạn 10 là đoạn được coi là tổng hợp), và cuối lại là đầu (với biến cố Hiện Xuống vừa kết thúc Mùa Phục Sinh vừa mở màn Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh), một cuốn sách có thể nói là Phúc Âm về Thánh Linh liên quan đến Sứ Vụ Truyền Giáo của Giáo Hội. 

 

Nếu "Thày là sự sống lại", như đã được Người đích thân chứng thực nhất là với các tông đồ là những kẻ đã được Người tuyển chọn cách riêng để "ở với Người", nhờ đó tin vào Người với sứ vụ được Người "sai đi để rao giảng tin mừng" nữa (xem Marco 3:13-14), cho "toàn thế giới" (Marcô 16:16), nhưng bắt đầu cho chính dân Do Thái là thành phần dân tuyển chọn của Thiên Chúa vẫn hằng mong đợi Đấng Thiên Sai của họ.

Đó là lý do, thành phần tông đồ đoàn toàn là người Do Thái, bao gồm cả chính bản thân của Đấng Thiên Sai và Người Mẹ của Người: "Ơn cứu độ (salvation) xuất phát từ những người Do Thái" (Gioan 4:22) là thế. Ơn cứu độ ở đây bao giờ cũng có tính chất Vượt Qua bất khả phân ly, đó là vượt qua sự chết mà vào sự sống, như chính Chúa Kitô Thiên Sai đã khổ giá và phục sinh vậy. 

Tuy nhiên, khổ giá còn có tính chất lịch sử trước mắt mọi người, kể cả giáo quyền Do Thái lẫn chính quyền Roma, còn phục sinh hoàn toàn là một mầu nhiệm thần linh hơn là biến cố lịch sử dù xẩy ra trong lịch sử. Không một ai, kể cả đệ nhất tạo vật về ân sủng là Mẹ Maria, đã được tận mắt thấy Chúa Kitô sống lại từ trong cõi chết, nhưng sự thật Người sống lại từ trong cõi chết là những gì đã được Thánh Kinh cũng như chính Người báo trước. Những lần Người hiện ra với các tông đồ là để chứng thực Người đã sống lại thật, và vì thế, chứng cớ về sự thật Chúa Kitô Phục Sinh chính là các tông đồ và ở nơi các tông đồ, và vì thế các ngài cần phải làm chứng cho Đấng Vượt Qua, bằng chính chứng từ máu đổ và giáo huấn của các ngài,

như được Sách Tông Vụ thuật lại về sứ vụ truyền giáo của chung các ngài, cho cả thành phần Do Thái giáo, nhất là cho muôn dân như được Tông Đồ Phaolô thực hiện!

 

Vì thế nên Sách Tông Vụ đã được Giáo Hội chọn đọc trong suốt Mùa Phục Sinh nói chung và Tuần Bát Nhật Phục Sinh nói riêng. Do đó, trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, xin chỉ trích lại những chi tiết về chứng tá của các tông đồ thôi, nghiã là những chi tiết chính yếu liên quan đến Lời Chứng (ngôn từ) và Dấu Chứng (hành động) về Người Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua Thiên Sai Cứu Thế của các tông đồ thôi.

 

 

Chúa Nhật Lễ Phục Sinh

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cv 10, 34a. 37-43

"Chúng tôi đã ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, Phêrô lên tiếng nói rằng: "Như anh em biết điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđêa, khởi đầu từ Galilêa, sau khi Gioan rao giảng phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu cho Người. Người đi khắp nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi vì Thiên Chúa ở cùng Người. Và chúng tôi, chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Ðấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Và Người đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết. Mọi tiên tri đều làm chứng về Người rằng: Tất cả những ai tin vào Người, thì nhờ danh Người mà được tha tội".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 22-23

Ðáp: Ðây là ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó (c. 24).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.

2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. - Ðáp.

3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Cl 3, 1-4

"Anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc: 1 Cr 5, 6b-8

"Anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.

Anh em thân mến, anh em không biết sao?: chỉ một tí men là đã đủ làm dậy men cả khối bột! Anh em hãy tẩy trừ men cũ để nên bột mới anh em là bánh không men. Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Ðức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật.

Ðó là lời Chúa.

 

Ca Tiếp Liên

(Ðọc trong Chúa Nhật Phục Sinh, còn các ngày khác trong tuần Bát nhật thì không buộc đọc)

Các Kitô hữu hãy tiến dâng

lời khen ngợi hy lễ Vượt Qua.

Chiên con đã cứu chuộc đoàn chiên mẹ:

Ðức Kitô vô tội đã hoà giải tội nhân với Chúa Cha.

Sống và chết hai bên song đấu cách diệu kỳ,

tướng lãnh sự sống đã chết đi, nhưng vẫn sống mà cai trị.

Hỡi Maria, hãy nói cho chúng tôi nghe

bà đã thấy gì trên quãng đường đi?

Tôi đã thấy mồ Ðức Kitô đang sống

và vinh quang của Ðấng Phục Sinh,

thấy các thiên thần làm chứng,

thấy khăn liệm và y phục.

Ðức Kitô là hy vọng của tôi đã phục sinh,

Người đi trước chư vị tới xứ Galilêa.

Chúng tôi biết Ðức Kitô đã sống lại thật từ cõi chết!

Lạy Chúa, Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con.

 

Alleluia: 1 Cr 5, 7b-8a

Alleluia, alleluia! - Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 20, 1-9

"Người phải sống lại từ cõi chết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.

Ðó là lời Chúa.

 

Cảm Nhận Lời Chúa

 

Cho dù trong bài Phúc Âm của ngày thứ 1 trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh hôm nay vẫn chưa thấy Thánh ký Gioan thuật lại rõ ràng Chúa Kitô hiện ra lần đầu tiên về thể lý trước mắt các môn đệ của Người như các lần sau này, nhưng vị Thánh ký này đã cho thấy một Chúa Kitô quả thực đã sống lại rồi trước con mắt đức tin của ngài là một người môn đệ được Người yêu đã trung kiên với Người cho đến cùng ở dưới chân cây thập tự giá

 

 

 


"Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó... Ông thấy và ông tin... theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết".

 

Phải chăng hai môn đệ chạy ra mồ đây, Phêrô và Gioan, là hai người môn đệ tiêu biểu cho hai thần đức quan trọng, đó là đức tin và đức mến?

 

Có thể nói môn đệ Phêrô tiêu biểu cho đức tin, ở chỗ vị môn đệ này đã đại diện cho tông đồ đoàn tuyên xưng đức tin: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), và là người môn đệ chối bỏ đức tin nên đã được Thày cầu nguyện cho để có thể hoàn thành sứ vụ củng cố đức tin cho anh em của mình (xem Luca 22:31-32).

 

Nếu môn đệ Phêrô tiêu biểu cho đức tin thì môn đệ Gioan tiêu biểu cho đức mến, ở chỗ, người môn đệ được ngả vào ngực của Thày trong Bữa Tiệc Ly (xem Gioan 13:24-25), và là "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" (Gioan 19:26, 20:2, 21:7,20), nhờ đó chỉ có người môn đệ này mới cảm nghiệm được "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16) và mới nhấn mạnh đến đức ái trọn hảo trong Thư của ngài theo tinh thần của giới răn mới của Thày là "các con hãy yêu thương nhau như Thày yêu các con" (Gioan 13:34; 15:12).

 

Chính vì môn đệ Gioan tiêu biểu cho đức ái, liên quan đến con tim cảm xúc của con người, bao giờ cũng bén nhậy hơn đức tin là thần đức liên quan đến trí khôn hiểu biết cần đến suy luện và lý lẽ của con người, mà môn đệ Gioan chẳng những, về thể lý, đã "chạy nhanh hơn" môn đệ Phêrô, mà còn, về tinh thần, tin tưởng nhanh hơn môn đệ Phêrô, ở chỗ "thấy và tin", cho dù môn đệ Gioan này vào trong mồ sau môn đệ Phêrô, trong khi môn đệ Phêrô tiến vào mồ trước mà vẫn còn chưa hoàn toàn tin tưởng, ở chỗ, theo Thánh ký Gioan cho biết thì ngài quan sát hiện tượng ở trong mồ bấy giờ, và theo Thánh ký Luca thì sau khi quan sát ngài "cảm thấy lạ lùng về những gì đã xẩy ra" (Mathêu 24:12), thế thôi.

 

Ngoài sự kiện môn đệ Gioan "chạy nhanh hơn" môn đệ Phêrô, như được suy diễn trên, còn một sự kiện khác nữa đáng chú ý, đó là môn đệ Gioan dù tới mồ trước nhưng vẫn không tự động bước vào bên trong trước, mà chờ cho tới khi môn đệ Phêrô vào rồi mới vào theo. Bởi vì, đức mến, được tiêu biểu nơi môn đệ Gioan, cần phải có nền tảng đức tin chứ không phải chỉ thuần tác hành và phản ứng theo cảm xúc tự nhiên của con người. Ở đây chúng ta thấy hai yếu tố bất khả thiếu và bất khả phân ly của Giáo Hội, đó là yếu tố phẩm trật (quản trị) nơi môn đệ Phêrô là vị lãnh đạo tông đồ đoàn với vai trò là một chủ chiên, và yếu tố đặc sủng (nội tâm) nơi môn đệ Gioan là vị được những ơn đặc biệt (xem Gioan 21:21-23), như các thị kiến huyền nhiệm về dự án thần linh đặc biệt liên quan Giáo Hội được ngài thuật lại trong sách Khải Huyền.

 

 

 

Lời Chứng (ngôn từ) và Dấu Chứng (hành động) về Người Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua Thiên Sai Cứu Thế của các tông đồ ở Bài Đọc Sách Tông Vụ:

 

"Trong những ngày ấy, Phêrô lên tiếng nói rằng: 'Người là Ðấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Và Người đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết".

 

 

Những ai tin vào Chúa Kitô, đã lãnh nhận Phép Rửa, tức đã cùng Vượt Qua với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, nhờ đó đã trở nên chi thể của Người nơi Giáo Hội, nghĩa là đã trở thành nhân chứng vượt qua của Người, phải sống làm sao để cho thế gian thấy họ thật sự đã Vượt Qua, hay Chúa Kitô đã thực sự Vượt Qua nơi họ, như những gì được Vị Tông Đồ Dân Ngoại khuyên nhủ giáo đoàn Colose ở Bài Đọc 2 hôm nay:

 

"Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang".

 

Chỉ có thành phần sống mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, thành phần chứng nhân trung thực và sống động cho về Người Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua Thiên Sai Cứu Thế mới có tâm tình của bài Thánh Vịnh 117 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở".

2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. .

3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta.

 

 

 

Thứ Hai Trong Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cv 2, 14. 22-32

"Thiên Chúa đã cho Ðức Kitô phục sinh, và tất cả chúng tôi làm chứng về Người".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: "Hỡi các người Do-thái và tất cả những ai ở Giêrusalem, xin hãy biết điều này và lắng nghe lời tôi! Hỡi những người Israel, xin hãy nghe những lời này:

"Ðức Giêsu Nadarét là người đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc vĩ đại, những điều kỳ diệu và những phép lạ, mà Thiên Chúa đã dùng Người để thực hiện giữa anh em, như chính anh em đã biết. Theo như Thiên Chúa đã định và biết trước, Người đã bị nộp, và anh em đã dùng tay kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ của cõi chết mà cho Người phục sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong đó. Vì chưng, Ðavít đã nói về Người rằng:

'Tôi hằng chiêm ngưỡng Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu tôi, để tôi không nao núng. Vì thế, lòng tôi hân hoan, miệng lưỡi tôi hát mừng, và xác tôi yên nghỉ trong niềm cậy trông; vì Chúa không để linh hồn tôi trong cõi chết, và không để Ðấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống và cho tôi tràn đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa'.

"Hỡi anh em, xin cho phép tôi được bạo dạn nói với anh em về tổ phụ Ðavít rằng: ngài đã băng hà, đã được an táng và lăng tẩm của ngài còn nằm giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì ngài là tiên tri, và biết Thiên Chúa đã thề hứa với ngài sẽ cho một người trong dòng dõi ngài ngồi trên ngai vàng của ngài, nên thấy trước, ngài đã nói về việc Chúa Kitô phục sinh, vì Người không phải bị bỏ rơi trong cõi chết, và xác Người không bị huỷ diệt. Ðức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11

Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa; con thưa cùng Chúa: "Ngài là chúa tể con. Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con". - Ðáp.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.

3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ: ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy sự hư nát. - Ðáp.

4) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 117, 24

Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 28, 8-15

"Hãy đi nói với anh em đến Galilêa mà gặp Ta ở đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta".

Ðang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu". Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.

Ðó là lời Chúa.

 

Cảm Nhận Lời Chúa

 

 

Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh, Tuần Bát Nhật có những bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc để chứng tỏ "Thày là sự sống lại", chủ đề của chung Tuần Bát Nhật Phục Sinh, mà chúng ta sẽ thấy, theo thứ tự thời gian về những lần Chúa Giêsu hiện ra, trong suốt Tuần Bát Nhật này. Hôm nay, Thứ Hai trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, Giáo Hội chọn bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại lần hiện ra đầu tiên của Chúa Kitô Phục Sinh, không phải là với chính các tông đồ mà là với các phụ nữ thuộc thành phần môn đệ đi theo phục vụ Người khi Người còn sống.

 

Thật vậy, theo bộ Phúc Âm Nhất Lãm thì có một số phụ nữ theo Chúa Kitô khi Người còn sống, bao gồm cả Mai Đệ Liên, những người phụ nữ đơn sơ chất phác đạo hạnh này đã ra mồ từ sáng sớm, nhưng chỉ thấy ngôi mồ trống, rồi lại vừa thấy và vừa nghe thiên thần báo tin rằng Chúa Kitô đã sống lại, cần phải báo tin cho các môn đệ của Người. Thế nhưng có duy Thánh ký Mathêu mới thuật lại sự kiện Chúa Kitô phục sinh lần đầu tiên hiện ra, và hiện ra với các bà như sau:

 

 

 

 


 

"Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: 'Chào các bà'. Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: 'Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta'".

 

Trong biến cố Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra lần đầu tiên với các người nữ này chúng ta thấy mấy điều đặc biệt như sau:

 

Trước hết, các bà quả thật là quá dễ tin. Vừa thấy Chúa và nghe Chúa nói "chào các bà" "các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy", trong khi đó, các tông độ là thành phần được tuyển chọn làm chứng nhân tiên khởi của Chúa Kitô và cho Chúa Kitô, thành phần được Người tỏ mình ra cho hơn các người phụ nữ này nhiều, ấy thế mà, như các bài Phúc Âm cuối Tuần Bát Nhật Phục Sinh này cho thấy, các vị rất khó tin Người sống lại, cho dù Người có tỏ tường hiện ra với các vị, băng qua cửa đóng kín, cho các vị thấy các dấu tích của Người, ăn uống trước mặt các vị, và lấy Thánh Kinh minh chứng về Người. Các vị chỉ tin sau khi được Chúa Kitô Phục Sinh soi lòng mở trí cho mà hiểu Thánh Kinh mà thôi (xem Luca 24:45).

 

Chính vì tình trạng các tông đồ khó tin như thế mà chúng ta mới thông cảm được hiện tượng vùi dập đức tin của thành phần lãnh đạo Do Thái giáo bấy giờ khi được chính đám lính do họ đích thân sai đến canh mồ đề phòng môn đệ của người chết lấy trộm xác đi (xem Mathêu 27:62-66) báo cho biết rằng xác của người chết đã biến mất thì họ mua chuộc đám lính canh này mà phao tin bậy để đánh lạc hướng dân chúng cho tới bây giờ, như chính Thánh ký Mathêu thuật lại ở đoạn cuối của bài Phúc Âm hôm nay.

 

Thánh thi (Giờ Kinh Phụng Vụ Ban Mai Các Chúa Nhật trong Mùa Phục Sinh - bản của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh)

 

Vầng Ðông dậy, ánh hồng gieo rắc

Chốn thiên cung nhã nhạc vang hòa,

Dưới trần khắp cõi âu ca

Quỷ trong địa ngục kêu la hãi hùng.

 

Ấy Vua Cả oai phong lẫm liệt

Cõi âm ty: hủy diệt tiêu tan,

Chân Người dẫm nát tử thần

Tù nhân đau khổ ân cần đưa lên.

 

Ngoài cửa mộ ngày đêm lính gác

Tảng đá to đã lấp lối vào.

Chúa từ cõi chết thẳm sâu

Hiệu kỳ chiến thắng phất cao khải hoàn.

 

Ðã im bặt câu than tiếng khóc,

Ðã hết rồi cảnh ngục thê lương,

Sứ thần áo trắng vui mừng

Loan tin Chúa đã oai hùng phục sinh.

 

Xin cho mọi lòng thành hoan hỷ

Mãi muôn đời mừng lễ Vượt Qua

Tái sinh ơn nghĩa chan hòa

Vang vang khúc khải hoàn ca reo hò.

 

Muôn lạy Chúa Giêsu từ ái

Ðấng lừng danh đánh bại tử thần,

Ngàn đời hiển trị muôn dân.

Cùng Ngôi Thánh Phụ Thánh Thần quang vinh.

 

Sau nữa, trong sứ điệp nhắn gửi các môn đệ của Người qua các bà, Chúa Giêsu muốn các bà nói với các vị là thành phần bấy giờ Người gọi là "anh em Ta" "phải trở về Galilêa gặp Ta ở đó". Tại sao vậy? Tại sao các môn đệ giờ đây, sau khi Người sống lại, trở thành "anh em" của Người, còn hơn là "bạn hữu" của Người trước đó nữa (xem Gioan 15:15), phải chăng là vì nhờ việc phục sinh của Người mà họ "được tái sinh bởi trên cao" (Gioan 3:3) hay "được tái sinh bởi nước và Thánh Linh" (Gioan 3:5), một Thánh Linh chính Người sẽ thông ban cho các vị khi hiện ra với các vị lần đầu tiên vào tối ngay thứ nhất trong tuần sau đó cùng ngày (xem Gioan 20:22).

 

Còn về sứ điệp Chúa Kitô Phục Sinh muốn các "anh em" của Người gặp lại Người ở "Galilêa" là vì Galilêa là nơi xuất phát của Người, không phải là vùng đất có quê quán Nazarét của Người mà còn là vùng đất có nhiều dân ngoại chung sống với dân Do Thái, vùng đất Người xuất hiện như ánh sáng chiếu trong u tối được Thánh ký Mathêu là tác giả của bài Phúc Âm hôm nay đã ghi nhận như vậy (4:15-16), nơi Người bắt đầu lời rao giảng tiên khởi của Người: "Hãy hoán cải đời sống! Nước Trời đã đến" (Mathêu 4:17). Nghĩa là Chúa Kitô muốn các "anh em" của Người "về nguồn" để từ đó Người ban lệnh truyền giáo cho các vị là "Hãy đi tuyển mộ các môn đồ ở khắp mọi dân nước..." (Mathêu 28:29).

 

Thật ra, trong lệnh truyền truyền giáo trước khi Chúa Kitô Vượt Qua thăng thiên (xem Tông Vụ 1:8), Người hoàn toàn không đề cập gì đến "Galilêa", trong khi Người lại bao gồm tất cả mọi nơi khác: "từ Giêrusalem cùng khắp Giuđêa và Samaria cho tới tận cùng trái đất". Phải chăng "Galilêa" là vùng đất chính Người đã chẳng những đích thân tỏ mình ra mà còn sai các tông đồ và môn đệ đi rao giảng, cả Thày lẫn trò đều "cho con chiên lạc Israel" (xem Mathêu 10:6,15:24), và chính thành phần con chiên lạc nhà Isarael này, theo Thánh Ký Luca, đã kéo theo đồng hành với Người trong cuộc hành trình tiến về Giêrusalem?

 

Tuy các tông đồ quả thực có về Galilêa, như Thánh ký Mathêu chứng nhận (xem 28:16), như để nhận lệnh truyền giáo của Chúa Kitô Phục Sinh ở ngay tại nơi xuất phát truyền giáo của Người, nhưng công cuộc truyền giáo của các vị, theo Thánh ký Luca ghi nhận lời của Chúa Kitô Phục Sinh phải được bắt đầu từ Giêrusalem (xem Luca 21:49; Tông Vụ 1:8) là giáo đô của Do Thái giáo và là nơi Chúa Kitô hoàn thành cuộc Vượt Qua của Người, nơi Người Thăng Thiên (ở Bêthany xem Luca 21:50) và là nơi Người từ Cha sai Thánh Thần xuống trên các tông đồ vào Ngày Lễ Ngũ Tuần (xem Tông Vụ 2:1-4), như chúng ta sẽ thấy qua các bài đọc Lễ Thăng Thiên (Thứ Năm Tuần VI Phục Sinh) và Hiện Xuống (Chúa Nhật kết Mùa Phục Sinh và mở màn Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh).

 

Lời Chứng (ngôn từ) và Dấu Chứng (hành động) về Người Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua Thiên Sai Cứu Thế của các tông đồ ở Bài Đọc Sách Tông Vụ:

 

"Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: ... 'Hỡi anh em, xin cho phép tôi được bạo dạn nói với anh em về tổ phụ Ðavít rằng: ngài đã băng hà, đã được an táng và lăng tẩm của ngài còn nằm giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì ngài là tiên tri, và biết Thiên Chúa đã thề hứa với ngài sẽ cho một người trong dòng dõi ngài ngồi trên ngai vàng của ngài, nên thấy trước, ngài đã nói về việc Chúa Kitô phục sinh, vì Người không phải bị bỏ rơi trong cõi chết, và xác Người không bị huỷ diệt. Ðức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy'".

 

 

 

 

Thứ Ba Trong Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cv 2, 36-41

"Anh em hãy ăn năn sám hối và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Kitô".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô nói với những người Do-thái rằng: "Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Ðấng Kitô". Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: "Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?" Phêrô nói với họ: "Anh em hãy ăn năn sắm hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em sẽ nhận lãnh Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến!"

Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ rằng: "Anh em hãy cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này". Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 4-5. 18-19. 20 và 22

Ðáp: Ðịa cầu đầy ân sủng Chúa (c. 5b).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.

2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Ngài, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.

3) Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 8

Alleluia, alleluia! - Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác, để ở cùng các con luôn mãi. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 20, 11-18

"Tôi đã trông thấy và Người đã phán với tôi những điều ấy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó, nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc, bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni!" (nghĩa là "Lạy Thầy!"). Chúa Giêsu bảo bà: "Ðừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con".

Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Cảm Nhận Lời Chúa

 

Nhân vật chính trong các phụ nữ ra thăm mộ Chúa Kitô từ sáng sớm là Mai Đệ Liên, có thể chị là người đầu tiên rồi các bà khác ra sau nhập bọn, và chị là người cuối cùng ở lại bên mộ Chúa để tìm cho bằng được xác của Vị Sư Phụ vô cùng kính mến của chị, thế mà, khi chị được chính Người hiện ra và tai của chị nghe được rõ tiếng của Chúa mà chị lại cứ tưởng là người làm vườn nào đó, cho tới khi chị được chính Người gọi đích danh của chị:  

 

 


"
Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó, nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc, bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni!" (nghĩa là "Lạy Thầy!"). Chúa Giêsu bảo bà: "Ðừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con". Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy". 

 

Thánh thi (Giờ Kinh Sáng trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh - bản của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giò Kinh)

 

Gió sớm lâng lâng quyện sáng về,

Trong bình minh nhuốm sắc pha lê,

Thấp thoáng bóng chân người thôn nữ,

Viếng mồ chẳng ngại dẫm sương khuya.

 

Vội vã dầu thơm đặt cạnh mồ,

Nhưng kìa ai lật tảng đá to?

Khăn liệm xếp đây: sầu tuyệt vọng!

Xác Người đã lạc mất phương mô?

 

Buồn ngấm hàng mi lệ ứa trào

Hương lòng thờ kính gửi trời nao?

Tín đồ mất Chúa, ôi cô quạnh!

Mỏm đất trơ vơ, cả huyệt sầu.

 

Thoạt đâu gió đẩy đất rung rinh,

Thôn nữ sầu tan vội ngoảnh nhìn:

Hai người xiêm áo in màu tuyết

Reo vang: "Con Chúa đã phục sinh!"

 

Thôi cả trào vui ngập biển lòng,

Thả buồn cho gió cuốn mông lung;

Xăm xăm quay gót băng đồng nội,

Thôn nữ vui mừng vượt nắng trong.

 

Ôi Chúa phục sinh, phút rợn trời,

Thảo nào đêm dậy ánh sao tươi,

Gió đàn, hương ngát trăng kiều diễm

Hòa tấu lừng uy đón đợi Người!

 

 

 

Tuy nữ nhân vật Mai Đệ Liên được bộ Phúc Âm Nhất Lãm liệt kê vào số những người phụ nữ ra mồ vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, như thể các bà suốt đêm không ngủ, chỉ chờ đến sáng, qua ngày hưu lễ, để ra thăm mộ của Đấng các bà kính mến và thương quí, nhưng, căn cứ vào các chi tiết được thuật lại ở cả bộ Phúc Âm Nhất Lãm cũng như Phúc Âm Thánh ký Gioan thì Mai Đệ Liên dường như là người ra mộ sớm nhất, đi một mình chứ không đi chung với các bà kia.

 

Bởi thế, theo Phúc Âm Thánh Gioan của chính Chúa Nhật Phục Sinh Lễ Rạng Đông thì Mai Đệ Liên đã chạy về báo tin ngay cho các tông đồ và vì thế 2 môn đệ đại diện là Phêrô và Gioan đã chạy ra mộ (xem Gioan 20:1-10). Còn các bà kia ra sau cũng chạy về báo tin cho các tông đồ, như Phúc Âm Thánh Luca thuật lại ở Lễ Vọng Phục Sinh Chu Kỳ Năm C, thì bấy giờ chỉ có môn đệ Phêrô chạy ra mồ (chắc lần thứ hai) và lần thứ hai này có thể đã làm cho người môn đệ ấy "cảm thấy lạ lùng" hơn lần thứ nhất.

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan hôm nay cho thấy lần hiện ra thứ hai của Chúa Giêsu, sau khi hiện ra cho chung các bà trong bài Phúc Âm hôm qua, cho riêng một mình Mai Đệ Liên, người phụ nữ ra mồ sớm nhất và đã chạy về báo cho các tông đồ, nhưng sau khi hai môn đệ Phêrô và Gioan từ mộ trở về thì chị vẫn tiếp tục ở lại mồ để "khóc" vì không thấy xác của Đấng chị đã từng được diễm phúc xức dầu thơm hai lần (xem Luca 7:37-38; Gioan 12:3) khi Người còn sống, và nhất định tìm cho bằng được thi thể vô cùng cao trọng của Người: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người".

 

Ở đây chúng ta mới thấy rằng cái tiền thức về Chúa Kitô là một con người đã chết và cái niềm tin về người chết chỉ sống lại vào ngày tận thế (xem Gioan 11:24) chứ không phải trước ngày tận thế đã hoàn toàn chi phối chính bản thân của một con người hết sức thiết tha kính mến Chúa Kitô, tha thiết tìm kiếm Người, nên chắc chắn có một cảm giác rất bén nhậy về Người, như "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" là Gioan, thế mà khi nghe thấy tiếng của Người, chị vẫn không nhận ra ngay lập tức, mà lại "tưởng là người giữ vườn". Cho đến khi, phải, cho đến khi chị nghe Người gọi đích danh tên của chị: "Maria".

 

Đúng thế, Thiên Chúa thường tỏ mình ra cho chung con người, nhưng đồng thời Ngài cũng tỏ mình ra cho từng người nữa, để họ cảm nghiệm thần linh về Ngài như Ngài tỏ mình ra cho họ, nhờ đó họ có thể trở thành chứng nhân trung thực của Ngài và cho Ngài. Cách thức Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người khiến họ dễ nhận ra nhất và cảm kích nhất đó là chạm đến đời tư của họ, như Chúa Kitô đã chạm đến đến tư của người phụ nữ Samaritanô sống với 6 người đàn ông không phải là chồng của chị (xem Gioan 4:16-18).

 

Ở đây, Chúa Kitô đã chạm tên gọi của chị Mai Đệ Liên, khiến chị nhận ngay ra Người và trở thành chứng nhân của Người và cho Người: "Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy". Đó là "Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con". Chị đã làm chứng trước mặt các tông đồ là thành phần được chính Chúa Kitô tuyển chọn để làm các chứng nhân tiên khởi của Người và cho Người. Và vì thế, vì chị đã được Chúa Kitô Phục Sinh tuyển chọn để về báo tin cho các tông đồ và làm chứng về sự kiện Người đã sống lại thật như thế mà chị đã được gọi là "tông đồ của các tông đồ / the apostle of apostles". Và đó cũng là lý do Vị Giáo Hoàng Thương Xót Phanxicô này đã nâng Lễ Thánh Mai Đệ Liên 22/7 từ bậc lễ nhớ (memorial) lên bậc Lễ Kính (feast), ngang với lễ của từng vị tông đồ, một lễ buộc phải làm (chứ không buộc làm như bậc lễ nhớ), bao gồm các bài đọc kèm theo lời cầu nguyện riêng về vị thánh này, có cả Kinh Vinh Danh long trọng nữa. 

 

Hình như chỉ có những ai đã từng có một cái gì đó tiêu cực mới được Chúa gọi đích danh. Điển hình nhất có "Matta"  (Luca 10:41) lo lắng bối rồi nhiều chuyện nên ghen với Maria em mình, hay viên trưởng ban thu thuế lùn "Giakêu" trước khi thống hối ăn năn (Luca 19:5), hoặc "Simon" (Luca 22:31) để báo trước cho vị môn đệ sắp chối Thày 3 lần, hay "Philiphê" (Gioan 14:8) là người môn đệ xin Thày tỏ cho biết Cha trong khi chính Thày là hiện thân của Cha, hoặc "Saulê" (Tông Vụ 26:14) khi nhân vật Pharisiêu nhiệt thành này đang hung hăng bắt bớ Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô, hay "Lazarô" là một tử thi chết đã 4 ngày, tiêu biểu cho hậu quả tội lỗi của con người cần được cứu độ. Riêng chị Mai Đệ Liên ở trong bài Phúc Âm này,Chúa Kitô không gọi tên của chị khi chị đang sống cuộc đời bê tha tội lỗi mà là vào lúc chị đã trung thành theo Chúa cho đến cùng.

 

Ở đây chúng ta còn thấy rằng những lời Chúa Kitô phán về thành phần mẹ của Người và anh chị em của Người, mà bấy giờ Người chỉ vào thành phần các môn đệ của Người (xem Mathêu 12:49-50), nay đã được ứng nghiệm nơi lời Người phán với chị Mai Đệ Liên: "Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con". Bởi vì, Người sống lại để ban cho họ sự sống, sự sống thần linh của Thiên Chúa, qua Thánh Thần Người thông truyền ra cho các vị (xem Gioan 20:22), nhờ đó các vị được hiệp nhất nên một với Người, "như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" (Gioan 17:21). 

 

Lời Chứng (ngôn từ) và Dấu Chứng (hành động) về Người Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua Thiên Sai Cứu Thế của các tông đồ ở Bài Đọc Sách Tông Vụ:

 

"Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô nói với những người Do-thái rằng: 'Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Ðấng Kitô'. Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: 'Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?' Phêrô nói với họ: 'Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em sẽ nhận lãnh Thánh Thần...'"

 

 

 

 

 

Thứ Tư Trong Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cv 3, 1-10

"Có cái này tôi cho anh, là nhân danh Ðức Giêsu, anh hãy đứng dậy mà đi".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, vào giờ thứ chín, là giờ cầu nguyện, Phêrô và Gioan lên đền thờ. Lúc bấy giờ có một anh què từ lúc mới sinh, hằng ngày được người ta khiêng đến cửa đền thờ, gọi là Cửa Ðẹp, để xin những người vào đền thờ bố thí cho. Khi thấy Phêrô và Gioan tiến vào đền thờ, anh liền xin bố thí. Phêrô và Gioan nhìn anh và nói: "Anh hãy nhìn chúng tôi". Anh ngước mắt chăm chú nhìn hai ngài, mong sẽ được hai ngài cho cái gì. Nhưng Phêrô nói: "Vàng bạc thì tôi không có, nhưng có cái này tôi cho anh, là: nhân danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, anh hãy đứng dậy mà đi!" Rồi Phêrô nắm tay mặt anh mà kéo dậy, tức thì mắt cá và bàn chân anh trở nên cứng cát; anh nhảy ngay lên mà đứng và đi được; anh cùng hai ngài tiến vào đền thờ, anh vừa đi vừa nhảy nhót và ngợi khen Thiên Chúa, và dân chúng đều thấy anh đi và ngợi khen Chúa. Họ nhận ra anh chính là kẻ ngồi ăn xin ở Cửa Ðẹp đền thờ, nên họ bỡ ngỡ sửng sốt về việc xảy đến cho anh.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 1-2. 3-4. 6-7. 8-9

Ðáp: Tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui (c. 3b).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Ngài, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Ngài, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.

2) Hãy tự hào vì danh thánh của Ngài, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. - Ðáp.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những người được Ngài kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

4) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 117, 24

Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 24, 13-35

"Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".

Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Ðoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.

Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Các vị đó bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.

Ðó là lời Chúa.

 

Cảm Nhận Lời Chúa

 

"Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra". Và tâm tình chia sẻ có vẻ tiêu cực và bi quan của hai vị đã được vị khách lạ trấn an bằng những lý lẽ Thánh Kinh, khiến các ông cảm thấy an lòng và ấm lòng, cho đến khi, qua cử chỉ quen thuộc của Người, họ mới nhận ra vị khách lạ vừa biến khuất khỏi mắt họ đó chính là Chúa Kitô.

 


"Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất". 

 

Theo thứ tự thời gian thì đây là lần hiện ra thứ ba của Chúa Kitô sau khi Người sống lại từ trong cõi chết. Cả 3 lần, kể cả lần ngày mai là thứ 4, đều xẩy ra vào cùng một ngày, ngày thứ nhất trong tuần. Hình như ba lần đầu, hiện ra có vẻ lẻ tẻ với thành phần môn đệ, cả nữ lẫn nam, không phải là chính các tông đồ, Chúa Kitô như muốn dọn đường hay dọn lòng cho các tông đồ để các vị khỏi quá bỡ ngỡ bàng hoàng khi gặp lại Người ở một dạng thức khác, và nhờ đó dễ tin vào người hơn.

 

Riêng trong lần hiện ra thứ ba với hai môn đệ đang đi về làng Emmau ở bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn trấn an các vị là thành phần môn đệ nam, thành phần mà, theo phái tính, vốn nghiêng về lý trí hơn tình cảm và trực giác như nữ giới, như hai trường hợp xẩy ra cho phái nữ ở hai bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia, nên Người cần phải lấy chính Thánh Kinh để nói chuyện với thành phần môn đệ phái nam này.

 

Tuy nhiên, họ vẫn không nhận ra người khách lạ mặt có vẻ chẳng biết gì về biến cố cả thể xẩy ra làm náo động cả Giêrusalem lên như thế, mà lại là một người khách lạ thông thuộc và nắm vững Thánh Kinh đến độ lấy chính Thánh kinh để chứng thực cho các vị về sự kiện sống lại không thể nào không xẩy ra của Đấng các vị trông đợi như một Đấng Thiên Sai: "Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel".

 

Đúng thế, chính vì niềm hy vọng không hoàn toàn xác thực này mà các vị nói riêng và thành phần môn đệ của Chúa Kitô nói chung đã cảm thấy quá ư là "buồn bã", đến độ chán chường thất vọng hình như hai người môn đệ này đã có ý định bỏ cuộc mà trở về quê quán Emmau của mình. Thật ra, chính vì niềm hy vọng của họ có tính cách chủ quan cố hữu thiên về chính trị mà họ đã không thể nào không tuyệt vọng khi thấy Đấng mà họ đầy lòng tin tưởng và trông mong, nhất là khi Người vinh quang khải hoàn tiến vào Thành Thánh Giêrusalem, lại chính là Đấng không thể xuống khỏi thập tự giá, đã bị giết chết và được mai táng trong mồ như bất cứ một phàm nhân nào, và đến ngày thứ ba rồi mà vẫn chưa thấy chẳng thấy bóng dáng Người đâu:

 

"Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".

 

Để củng cố niềm tin cho hai môn đệ hình như nản chí nhất này, đến độ họ đã dám ra khỏi căn phòng khóa kín là nơi thành phần môn đệ của Đấng đã bị giết chết một cách dã man tàn ác đang cùng nhau trú ngụ một cách sợ sệt, họ như không còn biết sợ hãi thành phần sát hại Đấng mà họ theo đuổi nữa, vì nếu họ có bị nhóm này chặn lại thì họ chỉ cần trả lời rằng "chúng tôi không còn thuộc về nhóm của kẻ chết nữa", thế là xong, chắc chắn họ sẽ không bị làm khó dễ hay bách hại.

 

Thế nhưng, họ đâu có ngờ rằng, chính lúc họ tuyệt vọng và bỏ về như thế họ lại gặp được ngay Đấng họ tưởng rằng họ không bao giờ còn được gặp lại trên trần gian này nữa. Và giây phút họ nhận ra Người là lúc họ thấy được cử chỉ thân quen của Người vẫn làm trước mắt các môn đệ, đó là: "Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông". Rõ ràng là lần hiện ra thứ ba này, mục đích của Chúa Kitô là để củng cố đức tin cho 2 môn đệ ấy: "Mắt họ sáng ra và nhận ra Người".

 

Để rồi, cho dù Người không sai phái các vị phải trở về loan báo tin vui cho các tông đồ, như hai lần hiện ra trước với thành phần nữ giới, nhưng một khi đã gặp được Người thì tác dụng thần linh bất khả chống cưỡng của cuộc gặp gỡ thần linh bao giờ cũng thúc đẩy con người phải loan truyền tất cả sự thật liên quan đến những gì họ đã thấy và đã nghe: "Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. ...Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào".

 

Đoạn Phúc Âm hôm nay không phải là đoạn đã trở nên mẫu thức cho Phụng Vụ Thánh Lễ, bao gồm 2 phần là phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, mà còn trở thành một đường lối lắng nghe Lời Chúa và cảm nghiệm Lời Chúa nữa. Ở chỗ, nếu hai môn đệ này không mời Vị Khách Lạ ở lại với họ thì họ đã không nhận ra Người, nghĩa là Người không được dịp tỏ hết mình ra cho họ, mà chỉ qua vai trò là một người khách đồng hành với họ thôi.

 

Kitô hữu chúng ta cũng thế, đọc Lời Chúa hay nghe Lời Chúa, bao gồm cả việc nghe giảng Lời Chúa hay nghe tĩnh tâm v.v., đôi khi chúng ta cảm thấy hay, nhưng rồi nếu chúng ta không mời Lời Chúa ở lại với tâm trí chúng ta, bằng việc lắng đọng cầu nguyện sâu xa thấm thíá hơn, nhờ đó Lời Chúa trở thành cảm nghiệm của chúng ta, tỏ mình ra chúng ta một cách tỏ hiện và sống động hơn như Bánh Sự Sống làm cho chúng ta trở thành chứng nhân cho Đấng tỏ mình ra cho chúng ta, như hai môn đệ sau khi gặp Đấng Phục Sinh đã tự động lên đường, băng qua đêm tối, để về làm chứng cho Người với các vị tông đồ....

 

Lời Chứng (ngôn từ) và Dấu Chứng (hành động) về Người Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua Thiên Sai Cứu Thế của các tông đồ ở Bài Đọc Sách Tông Vụ:

 

"Phêrô và Gioan nhìn anh và nói: 'Anh hãy nhìn chúng tôi'. Anh ngước mắt chăm chú nhìn hai ngài, mong sẽ được hai ngài cho cái gì. Nhưng Phêrô nói: 'Vàng bạc thì tôi không có, nhưng có cái này tôi cho anh, là: nhân danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, anh hãy đứng dậy mà đi!' Rồi Phêrô nắm tay mặt anh mà kéo dậy, tức thì mắt cá và bàn chân anh trở nên cứng cát; anh nhảy ngay lên mà đứng và đi được; anh cùng hai ngài tiến vào đền thờ, anh vừa đi vừa nhảy nhót và ngợi khen Thiên Chúa, và dân chúng đều thấy anh đi và ngợi khen Chúa". 

 

Related image

 

 

 

 

Thứ Năm Trong Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cv 3, 11-26

"Ðấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, khi người què được chữa lành cứ theo sát Phêrô và Gioan, toàn dân bỡ ngỡ chạy đến hai ngài đang ở hành lang gọi là hành lang Salômôn. Thấy vậy Phêrô liền nói với dân chúng rằng: "Hỡi các người Israel, tại sao anh em ngạc nhiên về việc đó và nhìn chúng tôi như là chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà làm cho người này đi được? Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta, đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Ðấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng. Và bởi đã tin vào danh Người, nên danh Người đã làm cho kẻ mà anh em thấy và biết đây, được vững mạnh, và lòng tin vào Người chữa anh này hoàn toàn lành mạnh trước mặt hết thảy anh em.

"Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Ngài dùng miệng các tiên tri mà báo trước rằng Ðức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ, như thế để Thiên Chúa ban cho anh em thời kỳ thư thái, và sai Ðức Giêsu Kitô, Ðấng mà Chúa đã phán hứa cùng anh em trước, Ðấng phải về trời cho đến thời kỳ phục hồi vạn vật, như Chúa đã dùng miệng các thánh tiên tri Ngài mà phán từ ngàn xưa. Môsê đã nói rằng:

"Vì Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ cho xuất hiện giữa anh em các ngươi một tiên tri như ta, các ngươi hãy nghe tất cả những điều Ngài sẽ nói với các ngươi. Vậy, tất cả những ai không chịu nghe theo vị tiên tri đó, thì sẽ bị khai trừ khỏi dân chúng.

"Và tất cả các tiên tri, từ Samuel và các vị kế tiếp, đều đã nói và tiên báo về ngày này. Anh em là con cháu các tiên tri và con cháu của giao ước mà Chúa đã thiết lập với các tổ phụ chúng ta, khi Người phán cùng Abraham rằng: "Chính nơi dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc". Chính vì anh em trước tiên mà Thiên Chúa đã cho Con của Ngài xuất hiện và sai đi chúc phúc cho anh em, để mỗi người từ bỏ tội ác".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 8, 2a và 5. 6-7. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu (c. 2a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu! Nhân loại là chi mà Chúa để ý chăm nom? - Ðáp.

2) Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang, Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. - Ðáp.

3) Nào chiên, nào bò, thôi thì tất cả, cho tới những muông thú ở đồng hoang, chim trời với cá đại dương, những gì lội khắp nẻo đường biển khơi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 117, 24

Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 24, 35-48

"Ðấng Kitô phải chịu thương khó như vậy, rồi mới được tôn vinh".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ". Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây". Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người phán: "Ðúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.

Người lại nói: "Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".Ðó là lời Chúa.

 

Cảm Nhận Lời Chúa

 

"Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: 'Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ'".

 


Thánh ký Luca, qua đoạn trên đây, đã thuật lại sự kiện lần đầu tiên Chúa Kitô hiện ra với chung các tông đ sau khi Người từ trong cõi chết sống lại. Tuy nhiên, Đấng Phục Sinh vẫn còn phải chứng thực Người quả thật là Thày của các vị và là Đấng đã thực sự bị đóng đanh nữa, bằng cả các dấu hiệu bề ngoài là chân tay của Người và ăn uống trước mặt các vị, lẫn soi sáng tâm trí bề trong của các vị để các vị nhờ đó mới có thể chân nhận rằng những lời Thánh Kinh về Người đã được hoàn toàn ứng nghiệm:

 

"Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: 'Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây'. Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: 'Ở đây các con có gì ăn không?' Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người phán: 'Ðúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh'. Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh".

 

Ở đây chúng ta thấy các tông đồ có khác, là nam nhân thiên về lý trí và lý sự nên khó tin hơn thành phần nữ giới tự bản chất sống theo cảm tình và trực giác, thành phần đã chẳng cần phải chứng minh gì cả đã tin ngày Đấng hiện ra với mình là Chúa Kitô, như trong bài Phúc Âm Thứ Hai (với chung các phụ nữ) và Thứ Ba (với riêng Chị Mai Đệ Liên) Bát Nhật tuần này cho thấy.

 

Đối với các vị nam nhân tông đồ này, Chúa Giêsu đã chẳng những cho các vị "xem tay chân Thày" mà còn "ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ" (nghĩa là ăn thật nên còn dư), mà còn mở lòng mở trí cho các vị hiểu được Thánh Kinh do chính Người dẫn chứng về Người nữa. Nhờ đó, các vị mới có thể làm chứng về Người, bằng một đức tin không phải thuần lý hay thuần thiêng có vẻ duy tín hay cuồng tín một cách dị đoan hoặc hoang đường nhưng có chứng cớ cụ thể hiển nhiên đàng hoàng không thể chối cãi.

 

Đó là lý do ở cuối bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã bảo các tông đồ được Người hiện ra chứng thực rằng Người cho dù đã bị chết nhưng sống lại rằng "các con là chứng nhân về những điều này", nghĩa là về những gì các vị được Người tỏ ra cho thấy, và vì thế chứng tỏ những gì chính các vị đã thấy và đã nghe về Người, cả trước và sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết.

 

Chúa Kitô khổ nạn, tử giá và được mai táng trong mồ vào chiều Thứ Sáu ấy đã hiện ra với chung các môn đệ và riêng các tông đồ lần đầu tiên này không phải chỉ để chứng thực về bản thân Người là Đấng đã bị bàn tay hận thù sắt máu của con người giết chết nhưng Người đã sống lại, hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và sự chết, mà còn để sai các vị đi "bắt đầu từ Giêrusalem, khắp Giuđêa và Samaria" (Tông Vụ 1:8) mà làm chứng về Người là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái, và đi "cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8) mà làm chứng cho Người là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại:


"P
hải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy". Phải chăng Bí Tích Hòa Giải (xem cả Gioan 20:21 cùng với Bí Tích Rửa Tội - xem Mathêu 28:19) được Chúa Giêsu thiết lập sau khi Người phục sinh từ trong kẻ chết mà theo luật Giáo Hội hằng năm Kitô hữu Công giáo buộc phải "xưng tội một năm ít là một lần trong Mùa Phục Sinh" chứ không phải trong một mùa nào khác, cho dù là Mùa Chay vốn được coi là mùa thống hối ăn năn hoán cải?

 

Nếu trong biến cố khổ nạn và tử giá, Chúa Kitô đã chứng thực mình quả là Đấng Thiên Sai, đến không phải để làm theo ý của mình mà là ý của Cha là Đấng đã sai Người, đến độ cho dù có thể Người vẫn không xuống khỏi thập giá, trái lại, "mặc dù là Con, Người đã biết tuân phục nơi những gì Người chịu" (Do Thái 5:8), thì trong biến cố phục sinh, Chúa Kitô được Chúa Cha, Đấng mà Người phó thần trí của Người cho trước khi chết (xem Luca 23:46), qua quyền năng của Thánh Thần là Đấng đã làm cho Người sống lại từ kẻ chết (xem Roma 8:11), chứng thực Người đúng là "Chúa và Thiên Chúa" (Gioan 20:28).

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan thuật lại lần hiện ra với chung các tông đồ lần đầu tiên này còn cho biết thêm các chi tiết sau đây:

 

1- Sau khi nhận ra Chúa căn cứ vào tác động tự chứng của mình (như Phúc Âm Thánh Luca hôm nay thuật lại), "các môn đệ hoan hỉ khi thấy Chúa" (Gioan 20:20);

 

2- Được các môn đệ nhận biết rồi Chúa Kitô Phục Sinh mới sai phái các vị ra đi như Người để tiếp tục sứ vụ của Người và thay Người: "Như Cha đã sai Thày thế nào, Thày cũng sai các con như thế" (Gioan 20:21);

 

3- Sau cùng, để các vị có thể thực hiện sứ vụ thừa tác viên được chính Chúa Kitô Phục Sinh sai phái như thế, sứ vụ "rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân", như trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, Người đã phải thông Thánh Linh của Người cho các vị bằng hơi thở từ chính thân xác phục sinh tràn đầy Thánh Linh của Người: "Các con hãy nhận lấy Thánh Linh" (Gioan 20:22).

 

Vì chỉ có nhờ Thánh Linh, các vị mới có thể trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Người và cho Người, khi các vị có cùng một tâm tình, ngôn từ, tác hành và phản ứng như chính Chúa Kitô, Đấng "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư trầm" (Luca 19:10). Chính vị Thánh ký Luca này cũng là tác giả của Sách Tông Vụ, trình thuật lại hoạt động của Thánh Linh qua chứng từ truyền giáo của các tông đồ nói chung và của vị tông đồ dân ngoại Phaolô nói riêng, như chúng ta đọc thấy trong suốt Mùa Phục Sinh 7 tuần lễ ở Bài Đọc 1 được Giáo Hội cố ý sắp xếp như vậy. 

 

 

 

Lời Chứng (ngôn từ) và Dấu Chứng (hành động) về Người Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua Thiên Sai Cứu Thế của các tông đồ ở Bài Đọc Sách Tông Vụ:

 

"Thấy vậy Phêrô liền nói với dân chúng rằng: 'Hỡi các người Israel, tại sao anh em ngạc nhiên về việc đó và nhìn chúng tôi như là chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà làm cho người này đi được?... Anh em đã chối bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng. Và bởi đã tin vào danh Người, nên danh Người đã làm cho kẻ mà anh em thấy và biết đây, được vững mạnh, và lòng tin vào Người chữa anh này hoàn toàn lành mạnh trước mặt hết thảy anh em".

 

 

 

Thánh Anselmo (21/4) / 2021 

21 Tháng Tư Thánh Anselmo – HUYNH ĐOÀN GIÁO DÂN ĐA MINH

ĐTC Biển Đức XVI:
 Thánh Anselm: Thần Học Gia, Thày Dạy và Mục Tử.



THÁNH ANSELMÔ, GIÁM MỤC TIẾN SĨ
(1033-1109)

"Chúa đã mở miệng Người giảng dạy trong Giáo hội. Chúa đã ban cho Người đầy khôn ngoan và minh mẫn, đã mặc cho Người áo vinh quang trên trời". Đó là lời Giáo hội hát mừng trong ngày lễ kính thánh Giám mục tiến sĩ Anselmô. Lời ca khen trên đây không có gì là quá đáng, nếu chúng ta tìm hiểu đời sống đạo đức, thánh thiện và lề lối làm việc đầy khôn ngoan của ngài. Hơn ai hết thánh Anselmô quả xứng đáng với lời chúc khen trên đây.

Thánh nhân sinh tại Aosta một thành phố nhỏ nằm trên đường ranh giới xứ Piêmontê và Thụy sĩ. Gia đình thánh nhân thuộc dòng quý tộc. Bà thân mẫu là người rất đạo đức, nhưng ông thân sinh, trái lại có vẻ khô khan. Tuy nhiên khi về già, ông đã bỏ thế gian để hiến thân cho Chúa trong một tu viện.

Anselmô được cha mẹ cho đi học rất sớm. Các bạn học ai nấy đều cảm phục trí thông minh sắc sảo của Anselmô và khen cậu là người đức hạnh. Vừa lớn lên Anselmô đã nhận rõ chân tướng của cuộc đời đầy phù vân giả trá và nguy hiểm. Vì thế năm 15 tuổi, Anselmô đã nhất quyết bỏ thế gian để đi tu dòng. Nhưng chẳng may ý định bị ông thân sinh phản đối. Dẫu thế, Anselmô vẫn cương quyết lướt thắng mọi trở ngại để thực hiện bằng được ý định của mình. Cùng với một người bạn, Anselmô qua Pháp theo học tại tu viện Bec thuộc các cha dòng Biển Đức. Trong các môn học, Anselmô thích nhất Thánh Kinh. Đi đôi với việc dùi mài kinh sử, Anselmô còn đặc biệt chú ý đến việc tập luyện và trau dồi các nhân đức ngõ hầu trở nên hoàn thiện. Cũng trong thời gian này, Anselmô cảm thấy tiếng Chúa kêu gọi càng ngày càng mãnh liệt. Nhưng trước những nẻo đường trọn lành, Anselmô rất do dự không biết nên chọn gia nhập hàng giáo sĩ địa phận hay đời sống tu trì. Được tu viện trưởng Lanfranc, giới thiệu, Anselmô đánh bạo tới hỏi ý kiến Đức Tổng giám mục thành Ruăng (Rouen). Ngài khuyên Anselmô nên vào tu dòng. Vâng theo lời khuyên của Đức Tổng giám mục, Anselmô xin vào tu tại tu viện Bec, năm đó Anselmô được 27 tuổi.

Với ơn Chúa và nghị lực của tuổi thanh xuân, Anselmô say sưa công việc tu thân luyện đức. Không bao lâu, từ miền Nômanđia nước Pháp đến cả nước Anh, ai ai cũng đều ca tụng nhân đức của thầy Anselmô. Còn nói chi đến lòng tín nhiệm và kính yêu của toàn thể anh em trong dòng. Vì thế sau ít lâu, ngài đã được bầu làm bề trên. Từ ngày đó khách thập phương tuốn đến rất đông hầu được hân hạnh đàm đạo với thánh nhân. Nhiều người thông thái đạo đức đến xin thụ giáo để được hạnh phúc sống với sự chỉ dẫn của vị bề trên thánh thiện. Tuy nhiên, tu viện trưởng Anselmô rất thận trọng trong việc định đoạt và xét đoán ơn gọi của những người đến gõ cửa. Ngài không ích kỷ để chỉ lôi kéo nhiều người về cho dòng mình, nhưng hoàn toàn vô tư trình bày tôn chỉ và luật pháp của mỗi dòng, để các người được Chúa chọn có thể tự do lựa chọn con đường tu trì thích hợp với hoàn cảnh riêng biệt của mỗi người. Ngài thi hành chức vị bề trên với một lòng đạo đức và khôn ngoan hiếm có.

Qua mấy năm sau, thánh nhân phải cấp tốc sang Anh quốc để điều chỉnh lại mấy việc tại một tu viện bên đó. Nơi đây thánh Anselmô được tiếp đón rất nồng hậu. Niềm vui sướng của thánh nhân tăng gấp bội khi ngài được hầu chuyện Đức cha Lanfranc, Tổng Giám mục thành Cantôbêry và cũng là bề trên cũ của ngài. Đặc biệt hơn nữa là chính vua nước Anh, một ông vua có tiếng kiêu căng và cứng cỏi, cũng tới đàm đạo với thánh nhân và hết lòng mến phục ngài. Nhưng rồi lại có những sự việc không hay xảy đến làm cho thánh Anselmô một lần nữa, phải bỏ tu viện đi công cán tại Anh quốc. Thời đó vua nước Anh băng hà và truyền ngôi lại cho con. Vốn tính độc tài, tham nhũng vị tân vương tìm hết cách áp chế hàng giáo sĩ và chiếm đoạt tài sản của Giáo hội. Theo lời yêu cầu của nhiều vị cao cấp trong Giáo hội, thánh Anselmô đã lên đường sang Anh để khuyên bảo nhà vua bỏ ý định trên. Trước tài lợi khẩu và đức khôn ngoan hiếm có của thánh nhân, vua đổi hẳn thái độ, tỏ vẻ quyến luyến thánh nhân. Khi Đức Tổng giám mục thành Cantôbêry tạ thế, nhà vua liền đề nghị thánh Anselmô lên thay. Thánh nhân được tấn phong làm Tổng Giám mục ngày 4-12-1093 với sự đồng ý của toàn thể các Đức Giám mục Anh quốc.

Dần dần, tính tham lam cầu lợi chưa được gột rửa sạch lại khiến nhà vua đổi lòng. Ban đầu vua vồn vã tiếp đãi Đức Tổng giám mục, với hy vọng sẽ nhận được những món hàng khổng lồ do ngài trao tặng. Ngược với ý nghĩ của nhà vua, Đức Tổng giám mục lại đem tất cả tài sản của mình phân phát cho người nghèo khó. Thế là lòng tham lam và hà tiện đã nổi dậy xúi dục nhà vua thù ghét Đức Tổng giám mục. Nhà vua và bọn nịnh thần bắt đầu mở chiến dịch vu khống và lăng mạ Giáo hội. Thấy can ngăn cũng vô ích, thánh Anselmô nghĩ chỉ còn một phương thế độc nhất để giải quyết vấn đề là ngài tự rút lui. Ngài xin phép nhà vua về Rôma bái yết Đức Thánh Cha; vua đồng ý ngay cho thánh nhân ra khỏi nước, với điều kiện là không được trở về nữa. Sau khi đã dặn dò khuyên răn hàng giáo sĩ địa phận, thánh Anselmô lên đường sang Pháp lưu trú tại toà tổng giám mục thành Lyông.

Nghe tin Đức Cha Anselmô mới bị trục xuất khỏi Anh quốc, Đức Thánh Cha mời ngài qua Rôma. Tới giáo đô, thánh Anselmô được tiếp đón rất nồng hậu. Chính Đức Thánh Cha ban lời khen ngợi lòng can đảm và chí bất khuất của thánh nhân.

Thánh Anselmô lưu trú tại Rôma một thời gian khá lâu trong tu viện thánh Biển Đức. Tại đây, nhờ lời cầu nguyện và hy sinh, thánh nhân đã làm cho từ một tảng đá chảy ra một suối nước trong ngọt. Do đó người ta đặt tên giếng nước là "Giếng thánh Giám mục thành Cantôbêry". Thánh nhân cũng được Đức Thánh Cha mời tham dự công đồng chung Bari. Trong công đồng đó, với tài lợi khẩu và trí thông minh phi thường, thánh nhân đã thuyết phục được những người Hy lạp cố chấp; ngài đã minh chứng một cách chính xác và khôn ngoan tín điều Chúa Thánh Thần do Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuất. Sau khi Đức Thánh Cha tuyên bố rút phép thông công vua nước Anh đồng loã về tội lăng mạ hàng giáo sĩ và tước đoạt tài sản của Giáo hội, thánh Anselmô bỏ Rôma trở về lưu trú tại Lyông. Một hôm, ngài được hung tin cho hay Anh hoàng trong khi đi săn đã bị quân thù ám hại. Được tin đó thánh nhân rất buồn và lo lắng cho số phận đời đời của nhà vua.

Anh hoàng băng hà nhường ngôi lại cho em là Henricô I. Vì sợ lòng dân không phục sẽ nổi loạn, nên ban đầu vua Henricô I muốn ve vãn Giáo hội để mua chuộc lòng dân. Vua tìm cách nâng đỡ hàng giáo sĩ, trùng tu các nhà thờ; vua còn cho mời thánh Anselmô về nước vì biết rằng thánh nhân được dân chúng hoàn toàn tín nhiệm. Nhưng khi hay tin Đức Thánh Cha đã ký sắc lệnh rút phép thông công vua nước Anh vì đã xâm phạm tới tài sản Giáo hội, nhà vua rất căm giận thánh Anselmô. Vua sai sứ giả sang khiếu nại với Toà thánh. Nhưng Đức Thánh Cha một mực từ chối. Ơn Chúa dần dần làm mềm lòng vua Anh. Cuối cùng vua đã chịu nhận lỗi và cam đoan tuân theo mọi chỉ thị của Toà thánh mà trả lại tài sản cho Giáo hội. Nhà vua cũng làm hòa với thánh Anselmô và triệu mời ngài về địa phận.

Trở về địa phận được một thời gian ngắn, thánh Anselmô bị bệnh đau dạ dầy rất nặng. Tuổi đã cao, sức đã kiệt, ngài linh cảm thấy giờ cuối cùng đã tới. Thánh nhân sốt sắng chịu các bí tích sau hết. Ngài cầu nguyện riêng cho vua và hoàng hậu cùng hoàng tử, các công chúa và toàn dân Anh được an ninh trường thọ và luôn luôn trung thành với giới luật Chúa. Sau khi chúc lành cho mọi người có mặt bên giường bệnh, ngài nhắm mắt từ trần. Hôm đó nhằm ngày 21-4-1109. Ngài hưởng thọ 76 tuổi.

Đương thời ngài, Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ để tuyên dương công trạng và nhân đức thánh nhân. Lần kia một người bị bệnh phong cùi được mộng báo phải đến với Đức Cha Anselmô. Người đó ra đi đến tu viện Béc; Ngài cho ông uống nước rửa tay sau khi làm lễ và tự nhiên người đó được khỏi bệnh. Có lần lửa đang bốc cháy dữ dội, đe dọa phá huỷ cả một làng, thánh Anselmô cầu nguyện sốt sắng rồi làm dấu thánh giá trên đám cháy, lửa liền tắt ngay. Ngoài ra còn nhiều bệnh nhân mắc đủ mọi chứng bệnh đã đến xin thánh Anselmô cầu nguyện cho và họ đều được khỏi bệnh cả.  Ngoài tài cai trị của thánh nhân, chúng ta còn phải kể tới tài văn chương, triết lý của ngài. Người ta có thể nói thánh Anselmô là một học giả lỗi lạc đã đề cập tới nhiều vấn đề mà trước ngài chưa ai nghĩ tới, nhất là những vấn đề thần học. Thánh nhân đã viết nhiều cuốn sách rất có giá trị làm giầu cho kho tàng giáo huấn và thư viện của Giáo hội. Thật ngài quả xứng đáng với danh hiệu là tiến sĩ của Giáo hội.

Để kết thúc, chúng ta mượn lời vị tu viện trưởng Trithêmô vẽ lại hình ảnh vị Thánh Giám mục tiến sĩ bằng mấy giòng sau: "Thánh Anselmô có một bộ mặt thần, một dáng đi bệ vệ, một cuộc sống thánh thiện, thông thạo khoa học phần đời, làu thông Kinh Thánh và là gương mẫu mọi nhân đức".

http://giaophanvinhlong.net/thanh-anselmo.html

Giám mục, Tiến Sĩ  (1033 - 1109)
  

Thánh Anselmô chào đời năm 1033 tại Aosta, trong một gia đình quí phái. Mẹ ngài, một người rất đạo đức lãnh trách nhiệm huấn luyện ngài theo đàng nhân đức. Từ nhỏ, ngài đã được theo học những bậc thầy danh tiếng. Bởi thế, ngài đã mau mắn tiến triển cả về học vấn lẫn đức hạnh. Vào tuổi 15, thánh nhân đã biết chán ghét danh vọng giả trá thế trần và quyết theo đuổi đời sống tu trì, nhưng cha ngài chống lại ý muốn này, thánh nhân buồn rầu ngã bệnh. Nhiệt tình theo đuổi đời sống tu trì không kéo dài bao lâu, nhất là bà mẹ đạo đức qua đời.
 
Anselmô rơi vào tình trạng nguội lạnh, nhiệt tình tuổi trẻ bị lôi cuốn vào những hấp dẫn thế trần. Cho đến lúc này, Anselmô vẫn còn thần tượng của cha ngài, nhưng Thiên Chúa đã tha phép cho tình âu yếm của ông biến thành cay cú, đòi hỏi và cứng cỏi, đến nỗi Anselmô đã phải bỏ nhà trốn đi. Ngài từ giã không phải khỏi nhà cha mẹ mà thôi, nhưng còn bỏ luôn quê hương xứ sở cho tới tận miền Bourgogne. Tại đây, ngài lấy lại nhiệt tình ban đầu. Ba năm sau, ngài đến thụ huấn với tu viện trưởng Lanfrane ở Bec.
 
Một ngày kia, Anselmô xét thấy mình đã khổ cực để nên thông thái nhiều hơn là để nên đạo đức. Ngài đến quì dưới chân thầy và nói :
  • Con có ba đường để theo : hoặc là trở thành tu sĩ ở Bec, hoặc sống ẩn tu, hoặc ở giữa thế gian để phân phát cho người nghèo gia sản của cha con để lại.
 
Đức Tổng Giám mục giáo phận Rouen khuyên ngài theo đuổi đời sống tu trì. Thế là Anselmô gia nhập tu viện Bec. Lúc ấy ngài được 27 tuổi, ngài đã dồn nỗ lực để nghiên cứu thần học và đời sống khiêm tốn vâng phục. Năm 1072, Đức Đan viện phụ Lanfrane được đặt làm Tổng Giám mục Canterbury. Anselmô được cử lên thay thế làm tu viện trưởng rồi làm Đan viện phụ.
 
Sự đơn sơ và nhân hậu của ngài đã đánh tan mọi ghen tương nghi kỵ. Hơn nữa sự thánh thiện và trí thông minh của thánh nhân đã khiến cho ngài trở thành danh tiếng không những đối với các vị vua Chúa và các Đức Giám mục mà cả với thánh Giáo Hoàng Grêgôriô nữa. Tu viện Đức Bà ở Bec trở thành nơi trung tâm của phong trào trí thức thế kỷ XI năm 1087. Vua William I nước Anh từ trần. William Rufus lên kế vị. Nhà độc tài này không muốn có những chủ chăn mới và sang đoạt được nhiều tài sản của Giáo hội, nên khi Đức Tổng Giám mục Lanfrane qua đời, Tòa Giám mục Canterbury bị trống ngôi, năm 1093 khi thánh Anselmô viếng thăm Anh quốc, Rufus trong cơn trọng bệnh đã xin thánh nhân lãnh nhiệm vụ cai quản Giáo phận Canterbury. Thánh nhân đã từ chối, nhưng rồi cũng phải lãnh nhận vì sự nài nỉ của các Giám mục và nhất là vì sự chỉ định của Đức Giáo Hoàng Urbanô II.
 
Nhưng rồi khi nhà vua bình phục, ông hối tiếc vì việc sám hối của mình. Khi bị Đức Anselmô buộc phải nhận quyền của Đức Urbanô, ông đã gây áp lực để truất phế Đức Tổng Giám mục. Đức Giáo Hoàng không nhận những giáo dân có thế giá cho biết sẽ không tha thứ cho việc truất phế thánh nhân, nhưng rồi năm 1097, sau nhiều cuộc cãi vã liên tục và vô hiệu, thánh Anselmô tự ý xin đi lưu đày, Rufus ưng thuận.
 
Thánh Anselmô trở về Rôma và được khen ngợi vì sự can đảm của ngài sau khi tham dự cộng đồng Bari và Rôma. Thánh nhân tìm về đời sống tu viện tại dãy núi Apennins. Nơi đây ngài hoàn thành tác phẩm : tại sao Thiên Chúa làm người. Ngài tuân thủ từng chi tiết của lề luật như một tập sinh. Ngài nói :
- Cuối cùng tôi gặp được chốn nghỉ ngơi.
Năm 1100, Rufus qua đời trong một cuộc đi săn. Henri em vua lên kế vị, nhà vua mới triệu vời vị Tổng Giám mục trở về Giáo phận. Năm 1106 ngài trở về điều khiển Giáo hội tại Anh quốc.
 
Trải qua biết bao thăng trầm thánh nhân vẫn giữ được tâm hồn bình lặng. Ngài không bỏ qua công cuộc tìm kiếm thần học. Bởi đó, ngài đã thành chiến sĩ đầu tiên của Giáo hội sau những thế kỷ đen tối. Luận chứng của ngài nhằm chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa nay vẫn còn được biết đến. Thần học của ngài là một phần linh đạo đặt trên sự cảm thông với những đau khổ của Chúa Kitô.
 
Với tư cách Tổng Giám mục Canterbury ngài đã chấm dứt việc bôi nhọ các thánh quê mùa của nước Anh quốc và góp phần khơi dậy cảm tình những gì truyền thống nước Anh từ xưa để lại. Đây là việc làm có giá trị lâu bền vì sửa lại được tình cảm phân rẽ và cuộc chinh phục của William gây nên.
 
Năm 1109, thánh Anselmô qua đời. Một con người đã luôn biết tìm kiếm Chúa.

- Tôi không tìm hiểu để tin nhưng tin để mà hiểu biết, cuối cùng ngài đã tìm về được ánh sáng vĩnh cửu.



Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý - Theo Vết Chân Người

https://giaophanphucuong.org/phung-vu-chu-thanh/thanh-anselmo---giam-muc-tien-si-1033-1109-1249.html

Là một thanh niên lãnh đạm với tôn giáo, Thánh Anselm đã trở nên một trong những nhà lãnh đạo và thần học gia vĩ đại của Giáo Hội. Ngài có danh xưng “Ông Tổ Phái Kinh Viện” vì những cố gắng phân tích và làm sáng tỏ các chân lý đức tin qua sự hỗ trợ của lý lẽ.

Thánh Anselm sinh trong một gia đình quyền quý ở Aoust, thuộc Piedmont. Ngài được người mẹ đạo đức chăm sóc và dạy dỗ về giáo lý, và ảnh hưởng tốt đẹp ấy đã kéo dài suốt cuộc đời ngài.

Khi 15 tuổi, Anselm muốn gia nhập một đan viện, nhưng bị từ chối vì người cha phản đối. Sau thời gian mười hai năm sống trong sự thờ ơ tôn giáo và theo thói đời, sau cùng ngài đã trở thành một đan sĩ như lòng mong ước. Ngài gia nhập đan viện Bec ở Normandy, ba năm sau ngài được bầu làm đan viện trưởng, và 15 năm sau ngài được bầu làm viện phụ.

Ðược coi là một nhà tư tưởng độc lập và độc đáo, Ðức Anselm được mọi người thán phục vì sự kiên nhẫn, hiền hòa và tài giảng dạy của ngài. Quả thật, ngài hiểu biết nhiều về thực chất và sự đam mê của con người đến độ dường như ngài đọc được tư tưởng và hành động của họ, bởi đó ngài nhìn thấy các nhân đức cũng như tật xấu của họ và khuyên bảo họ một cách thích hợp. Dưới sự lãnh đạo của ngài, Ðan Viện Bec trở nên trường đào tạo các đan sĩ, có ảnh hưởng đến các tư duy triết học và thần học thời ấy.

Trong những năm này, theo lời yêu cầu của cộng đoàn, Ðức Anselm bắt đầu công bố các công trình thần học của ngài, có thể sánh với các văn bản của Thánh Augustine. Công trình nổi tiếng nhất của ngài là cuốn Cur Deus Homo (“Tại Sao Thiên Chúa Làm Người”).

Khi 60 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm Ðức Tổng Giám Mục của Canterbury vào năm 1093, trái với ý muốn của ngài. Việc bổ nhiệm ngài, lúc đầu bị vua nước Anh là William Rufus chống đối nhưng sau đó phải chấp nhận. Rufus cố chấp từ chối cộng tác với các nỗ lực cải cách Giáo Hội.

Sau cùng Ðức Anselm phải đi lưu đầy cho đến khi Rufus từ trần năm 1100. Ngài được gọi về nước Anh bởi Henry I, là em và là người kế vị Rufus. Tuy nhiên, Ðức Anselm lại bất đồng với Henry về việc nhà vua nhúng tay vào các vấn đề của hàng Giám mục, do đó ngài lại phải đi lưu đầy ba năm ở Rôma.

Không chỉ lưu tâm đến hàng quý tộc, Ðức Anselm còn để ý và lo lắng cho người nghèo. Ngài là người đầu tiên trong Giáo Hội chống đối việc buôn nô lệ. Và ngài đã được Hội Ðồng Quốc Gia Westminster thông qua đạo luật cấm buôn bán con người.
Ngài từ trần ở Canterbury, Anh Quốc năm 1109, và được phong thánh năm 1494.
Thánh Anselm, cũng như bất cứ môn đệ trung kiên nào khác của Ðức Kitô, đã phải vác thập giá của mình, nhất là dưới hình thức chống đối và xung đột với những người đang nắm quyền chính trị. Mặc dù bản tính là một người hiền hòa và yêu chuộng hòa bình, Thánh Anselm không nhượng bộ trước sự đàn áp và mâu thuẫn với các nguyên tắc đang bị đe dọa.

 

Lời Trích 

“Trên thiên đàng không ai có sự khao khát nào hơn là thánh ý Thiên Chúa; và sự khao khát của một người sẽ là sự khao khát của mọi người; và sự khao khát của mọi người cũng như mỗi người sẽ là sự khao khát của Thiên Chúa” (Thánh Anselm, Opera Omnis, Thư 112).

https://hddmvn.net/21-thang-tu-thanh-anselmo/

 

 

 

Thứ Sáu Trong Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cv 4, 1-12

"Ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, đang lúc Phêrô và Gioan giảng cho dân chúng (sau khi chữa lành người què), thì các tư tế, vị lãnh binh cai đền thờ và các người thuộc nhóm Sađốc áp tới, bực tức vì các ngài giảng dạy dân chúng và công bố việc Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại. Họ ra tay bắt các ngài và đem tống giam vào ngục cho đến hôm sau, vì lúc đó đã chiều tối rồi. Nhưng trong số những kẻ nghe giảng, có nhiều người tin, và nguyên số đàn ông cũng đã tới năm ngàn người. Ðến hôm sau, các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ ở Giêrusalem, có cả Anna thượng tế, Caipha, Gioan, Alexanđê, và tất cả những người thuộc dòng tư tế, nhóm họp. Họ cho điệu hai ngài ra giữa mà chất vấn rằng: "Các ông lấy quyền hành và danh nghĩa nào mà làm điều đó?"

Lúc bấy giờ Phêrô được đầy Thánh Thần đã nói: "Thưa chư vị thủ lãnh toàn dân và kỳ lão, xin hãy nghe, nhân vì hôm nay chúng tôi bị đem ra xét hỏi về việc thiện đã làm cho một người tàn tật, về cách thức mà con người đó đã được chữa khỏi, xin chư vị tất cả, và toàn dân Israel biết cho rằng: Chính nhờ Danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng tôi, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây. Chính Người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên Ðá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác. Bởi chưng không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được ban tặng cho loài người, để nhờ vào Danh đó mà chúng ta được cứu độ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 117, 1-2 và 4. 22-24. 25-27a

Ðáp: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường (c. 22).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.

2) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Ðáp.

3) Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 117, 24

Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 21, 1-14

"Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Ðiđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.

Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách.

Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: "Ông là ai?" Vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.

Ðó là lời Chúa.

 

Cảm Nhận Lời Chúa

 

"Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến". Theo thứ tự thời gian, như được các bài Phúc Âm trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh thuật lại, thì đây là lần hiện ra thứ 6 của Chúa Giêsu sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết: lần 1 với các phụ nữ (Phúc Âm Thứ Hai); lần 2 với một mình Chị Mai Đệ Liên (Phúc Âm Thứ Ba); lần 3 với hai môn đệ về làng Emmau (Phúc Âm Thứ Tư); lần 4 với chung các môn đệ nhất là các tông đồ (Phúc Âm Thứ Năm); lần 5 với chung các môn đệ một lần nữa vào ngày thứ tám (Bài Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Lòng Thương Xót Chúa kết thúc Tuần Bát Nhật Phục Sinh); lần 6 với 7 tông đồ ở bờ biển Tibêria (Phúc Âm Thứ Sáu).

 

Chính Thánh ký Gioan trong bài Phúc Âm hôm nay thuật lại lần hiện ra thứ 6 này của Chúa Kitô Phục Sinh, nhưng ngài xác định "đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại". Lần thứ hai Người "hiện ra với môn đệ" được Giáo Hội chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho Chúa Nhật thứ 1 Phục Sinh, kết Tuần Bát Nhật Phục Sinh, Lễ Trọng Kính Lòng Thương Xót Chúa. Còn lần thứ nhất Người "hiện ra với môn đệ" đã được Giáo Hội chọn đọc trong bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho Lễ Phục Sinh Ban Ngày.

Trong lần hiện ra thứ 3 với chung các môn đệ chính yếu là các tông đồ này, cho dù chỉ có 7 vị, vẫn được kể là với chung các vị, một lần hiện ra ít là có hai điều khác lạ: trước hết là không phải xẩy ra ở trong Nhà Tiệc Ly kín mít nữa, mà là ở ngoài trời, ở trên bờ hồ Tibêria, và vì thế, sau nữa, Người cũng không còn chúc "bình an cho các con" như lần đầu nữa, bởi các vị đã tin rằng Người đã sống lại nên mới dám lò mò đi ra ngoài sinh hoạt đánh cá trở lại. 

 

Thế nhưng hình như vào buổi chiều tối thôi, cũng có vẻ còn lén lút chứ chưa hoàn toàn công khai trước mặt dân chúng. Bởi thế, thâu đêm các vị cũng chẳng bắt được con nào, cho đến "lúc rạng đông", nghe lời của một vị đứng trong bờ bảo sao làm vậy thì nhóm 7 vị tông đồ, hầu như toàn là những tay lành nghề đánh cá, mới bắt được một mẻ cá lạ lùng, nhờ đó các vị (mà đầu tiên là "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu") đã nhận ra Đấng Phục Sinh: "Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: 'Ông là ai?' Vì mọi người đã biết là Chúa".

 

Biến cố những tay lành nghề đánh cá như các tông đồ đã từng hành nghề trước khi theo Chúa Kitô mới 3 năm trước đó, như thành phần các môn đệ được Thánh ký Gioan liệt kê trong bài Phúc Âm hôm nay, bao gồm Phêrô, Giacôbê và Gioan, Toma và Nathanael (hay Botholomew) cùng "hai môn đệ nữa" không được kể đích danh, song có thể đoán được là môn đệ Anrê là em của Phêrô và Philiphê là bạn của Nathanael (xem Gioan 1:40-50), nhưng thâu đêm cả 7 vị vẫn chẳng bắt được gì, như đã từng xẩy ra hầu như 3 năm trước, khi 2 cặp anh em thuyền chài thân hữu là Phêrô - Anrê + Giacôbê - Gioan nhờ mẻ cá lạ lần thứ nhất ấy đã bỏ mọi sự mà theo Chúa (xem Luca 5:1-11).

 

Cũng như lần đầu, mẻ cá lạ đã tái diễn một lần nữa, và chính mẻ cá lạ ấy là dấu hiệu khiến cho "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" là Gioan, vị môn đệ tiêu biểu cho đức mến, bén nhậy nhất trong việc nhận ra Chúa Kitô: "Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: 'Chính Chúa đó'. Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay".

 

Con số "lưới đầy cá lớn - 153 con " được kể đến ở đây nghĩa là gì? Tại sao phải có chi tiết nhỏ nhặt con số rõ ràng như thế? "Cá lớn" chứ không phải cá nhỏ, và nhiều cá chứ không phải ít cá. Nếu "cá" liên quan đến con người ta hay phần rỗi của con người, và bắt cá hay chài lưới người đây là mang ơn cứu độ của Chúa Kitô Vượt Qua đến cho phần rỗi của nhân loại, thì "cá lớn" đây tiêu biểu cho quyền năng phục sinh của Chúa Kitô (xem Mathêu 28:18), Đấng đã làm cho tử thi Lazarô chết đã xông mùi (tiêu biểu cho thứ "cá lớn" là thành phần đại tội nhân) hồi sinh (xem Gioan 11:39-44).

 

Con số "153" đây phải chăng tiêu biểu cho 1 Thiên Chúa chân thật duy nhất là Cha ở trên trời (theo ý nghĩa những lời Chúa Kitô Phục Sinh đã nói với các phụ nữ ở bài Phúc Âm Thứ Hai và với Chị Mai Đệ Liên ở bài Phúc Âm Thứ Ba), 5 Dấu Thánh của Chúa Kitô khổ nạn và tử giá (như Chúa Kitô Phục Sinh đã tỏ cho các tông đồ thấy khi hiện ra với các vị ở bài Phúc Âm hôm qua Thứ Năm hay trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật II Phục Sinh sắp tới), và 3 Ngôi Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần (như Chúa Kitô Phục Sinh truyền cho các tông đồ rửa tội cho muôn dân trong Bài Phúc Âm Thăng Thiên Năm A)?

 

Như thế, có thể nói, con số "153" con cá trong mẻ cá lạ mà các tông đồ bắt được theo lời chỉ dẫn của Chúa Kitô Phục Sinh đây là tiêu biểu cho thành phần các linh hồn tin vào chứng từ của Giáo Hội qua các phần tử tông đồ của Giáo Hội, bắt đầu từ các vị tông đồ chứng nhân tiên khởi, thành phần chài lưới người hay đánh cá người, tức làm cho con người nhận biết và tin tưởng mà được sự sống đời đời, được hiệp thông thần linh với thiên Chúa, một con số 153 tượng trưng cho Ba Ngôi Thiên Chúa: Ngôi Cha ở nơi số 1 - một Thiên Chúa chân thật duy nhất, Ngôi Con ở nơi số 5 - năm dấu thánh của Chúa Kitô tử giá cứu chuộc, và Ngôi Thánh Thần ở nơi con số 3 - Ngôi Ba là chính mối hiệp thông thần linh Cha - Con, cũng là Đấng làm cho con người được hiệp thông thần linh "như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" (Gioan 17:21).

 

Con số "153" huyền diệu này là tóm kết tiêu biểu cho câu định nghĩa của Chúa Kitô kết Bữa Tiệc Ly về "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất (được tiêu biểu nơi số 1) và Giêsu Kitô Cha sai (số 5 tiêu biểu cho Đấng Thiên Sai tử giá vì vâng lời cho đến chết trên thập giá và vì thể đã mang 5 dấu thánh)" (Gioan 17:3), một sự sống được thông ban cho những ai tin nhờ Thánh Thần Ngôi Ba (được tiêu biểu nơi số 3) "là Đấng ban sự sống".

 

Nếu suy đoán này không sai thì có nghĩa là những ai lãnh nhận Phép Rửa (thường vào Lễ Vọng Phục Sinh) là thành phần được "ban cho quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), một Thiên Chúa chân thật duy nhất đã tỏ tất cả mình ra qua Lời Nhập Thể của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã tỏ Cha là Đấng đã sai Người ra trên Thánh Giá với 5 Dấu Thánh, để nhờ đó chẳng những cứu chuộc con người khỏi tội lỗi và sự chết còn thông ban cho con người, qua cuộc phục sinh của Người, sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần.

 

Lần đầu tiên khi Chúa Kitô hứa biến 2 cặp anh em môn đệ đầu tiên là Phêrô - Anrê và Giacôbê - Gioan thành những tay bắt "cá người" xẩy ra vào buổi sáng và trên bờ biển thế nào thì lần cuối cùng này cũng vào: "Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển", thế nhưng lại vào thời điểm sau khi Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng hiện đến với các vị để dọn sẵn món ăn cho các vị ở trên bờ: "Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh... Chúa Giêsu bảo rằng: 'Các anh hãy lại ăn'.... Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế".

 

Mẻ cá lạ lần thứ hai này đã xẩy ra sau khi Chúa Kitô Phục Sinh hỏi các môn đệ: "Các anh có gì ăn không?" và được các vị trả lời là "thưa không", chứ không phải "các con có bắt được gì không" và các vị "thưa không". Tại sao vào chính lúc các môn đệ không có gì ăn Chúa Giêsu lại chỉ chỗ cho các vị  bắt được mẻ cá lạ lùng như thế, nếu không phải "" là món ăn chính của các vị, và các vị cần phải đói khát "" là con người ta thì các vị mới "trở thành những tay bắt cá người" (Luca 5:10) và mới có thể bắt được nhiều "" người như mẻ cá lạ trong bài Phúc Âm hôm nay.

 

Và tại sao Chúa Giêsu bảo các môn đệ '"các anh hãy mang cá mới bắt được lại đây" , rồi sau khi các môn đệ làm theo như thế thì Chúa Giêsu mới mời các vị ăn và còn tận tay mang đến tận nơi cho các vị nữa: "Chúa Giêsu bảo rằng: 'Các anh hãy lại ăn'... Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế", nếu không phải là sau khi các vị đã tận lực hoàn thành sứ vụ bắt "cá người" được úy thác cho các vị, các vị được chính Người khoản đãi chính món "" do Người đích thân nướng cho các vị thưởng thức. Chính Người đã khẳng định về thành phần đầy tớ khôn ngoan tỉnh thức và trung thành của Người rằng: "phúc cho đầy tớ ấy... chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ" (Luca 12:37).

 

"Bánh" và "" ở đây là hai thứ đã được chính Chúa Kitô sử dụng trong hai lần Người hóa bánh ra nhiều để đám đông nuôi dân chúng (lần đầu 5 ngàn lần sau 4 ngàn) theo nghe Người giảng dạy (xem Mathêu 14:17-21 với chiếc bánh và 2 con cá & 15:34-38 với 7 chiếc bánh và ít cá). Nếu "" biểu hiệu cho con người hay phần rỗi của con người, thì "bánh" biểu hiệu cho Chúa Kitô, cho Thánh Thể, cho sự sống thần linh Thiên Chúa muốn thông ban cho nhân loại qua Con Ngài là Chúa Kitô, Lời Nhập Thể Vượt Qua.

 

Cử chỉ Chúa Kitô Phục Sinh đích thân sửa soạn và mang đến tiếp cho các tông đồ ở đây có nghĩa là chính Người (biểu hiệu nơi "bánh") đã hy mình làm giá chuộc cho nhiều người được rỗi (biểu hiệu nơi ""), như Người đã khẳng định trong Phúc Âm Thánh Mathêu (20:28), giờ đây, Người trao tất cả ("bánh" là bản thân Người hay sự sống thần linh của Người đã phục sinh, lẫn "" là phần rỗi các linh hồn) cho các tông đồ là thành phần thừa tác viên chính thức của Người để các vị có thẩm quyền và năng quyền thực sự thay Người (nhân danh Người) mà ban phát cho thế gian với tư cách là "những tay chài lưới người" (Luca 5:10) cho đến khi Người lại đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

 

Nhưng vấn đề quan trọng và cần thiết ở đây là các tông đồ phải luôn hưởng ứng và đáp ứng tác động của ân sủng, ở chỗ: trước hết, các vị phải hưởng ứng ân sủng, ở chỗ, thả lưới theo hướng dẫn của một con người xa lạ đứng trên bờ lúc bấy giờ, nhưng lại là một con người có một quyền lực phục sinh vô đích, đến độ từ xa đã có thể khiến cho lòng trí của các tay chuyên nghiệp đánh cá như các vị trở nên mềm mại lạ thường, nhất là sau khi các vị đã từng gặp Người vào hai lần hiện ra trước.

 

Sau nữa, các vị phải biết đáp ứng ân sủng, ở chỗ, mang hết tất cả đánh được nhờ được hướng dẫn đến cho chính vị hướng dẫn bảo hãy đem đến cho Người: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây", như một tác động trả về cho Người những gì do chính Người bắt được qua các vị, bằng không, không trả về cho Đấng đã sai mình và điều khiển hoạt động tông đồ truyền giáo của mình, các vị, cũng như các vị thừa sai hoặc các nhân chứng hậu sinh chúng ta, chắc chắn sẽ không được hoan hưởng bữa tiệc cá nướng với bánh do chính Thiên Chúa đích thân phục vụ để tặng thưởng cho chúng ta, như cho các vị tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay.

 

 

 

 

 


Lời Chứng (ngôn từ) và Dấu Chứng (hành động) về Người Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua Thiên Sai Cứu Thế của các tông đồ ở Bài Đọc Sách Tông Vụ:

 

"Lúc bấy giờ Phêrô được đầy Thánh Thần đã nói: 'Thưa chư vị thủ lãnh toàn dân và kỳ lão, xin hãy nghe, nhân vì hôm nay chúng tôi bị đem ra xét hỏi về việc thiện đã làm cho một người tàn tật, về cách thức mà con người đó đã được chữa khỏi, xin chư vị tất cả, và toàn dân Israel biết cho rằng: Chính nhờ Danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng tôi, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây. Chính Người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên Ðá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác. Bởi chưng không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được ban tặng cho loài người, để nhờ vào Danh đó mà chúng ta được cứu độ'".

 

 

 

 

 

 

Thứ Bảy Trong Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cv 4, 13-21

"Chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ nhận thấy Phêrô và Gioan kiên quyết, và biết hai ngài là những kẻ thất học và dốt nát, nên lấy làm lạ; và còn biết rằng hai ngài đã ở cùng Ðức Giêsu; họ thấy kẻ được chữa lành đứng ở đó với hai ngài, nên họ không thể nói gì nghịch lại được. Họ mới truyền lệnh cho hai ngài ra khỏi hội nghị, rồi thảo luận với nhau rằng: "Chúng ta phải làm gì đối với những người này? Vì toàn dân cư ngụ ở Giêrusalem đều hay biết, phép lạ hai ông đã làm rõ ràng quá chúng ta không thể chối được. Nhưng để sự việc không còn loan truyền trong dân nữa, chúng ta hãy đe doạ, cấm hai ông không được lấy danh ấy mà giảng cho ai nữa". Họ liền gọi hai ngài vào và cấm nhặt không được nhân danh Ðức Giêsu mà nói và giảng dạy nữa. Nhưng Phêrô và Gioan trả lời họ rằng: "Trước mặt Chúa, các ngài hãy xét coi: nghe các ngài hơn nghe Chúa, có phải lẽ không? Vì chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe". Nhưng họ lại đe doạ hai ngài, rồi thả về, vì không tìm được cách nào trừng phạt hai ngài, họ lại còn sợ dân chúng, vì mọi người đều ca tụng Thiên Chúa về việc đã xảy ra.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 117, 1 và 14-15. 16ab-18. 19-21

Ðáp: Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã nhậm lời tôi (c. 21a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Chúa là sức mạnh, là dũng lực của tôi, và Người trở nên Ðấng cứu độ tôi. Tiếng reo mừng và chiến thắng vang lên trong cư xá những kẻ hiền nhân:Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt.- Ðáp.

2) Tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên, tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. Chúa sửa trị, Chúa sửa trị tôi, nhưng Người đã không nạp tôi cho tử thần. - Ðáp.

3) Xin mở cho tôi các cửa công minh, để tôi vào và cảm tạ ơn Chúa. Ðây là ngọ môn của Chúa, những người hiền đức qua đó tiến vào. Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã nhậm lời tôi, và đã trở nên Ðấng cứu độ tôi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 117, 24

Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 16, 9-15

"Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi Chúa Giêsu sống lại, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng ở với Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin. Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy. Sau hết, Chúa hiện ra với mười một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại. Rồi Người phán: "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài".

Ðó là lời Chúa.

 

Cảm Nhận Lời Chúa

 

Hôm nay, ngày áp cuối cùng của Tuần Bát Nhật Phục Sinh, Giáo Hội sử dụng Phúc Âm của Thánh ký Marco chưa được đọc đến một tí nào trong suốt cả tuần, để gọi là tổng liệt kê các lần Chúa Kitô Phục Sinh đã thứ tự hiện ra khác nhau, (như đã được các Phúc Âm thuật lại trong tuần này), nhưng không chỉ riêng với các tông đồ, như 2 bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan, mà còn bao gồm các người khác nữa, kể cả thành phần môn đệ lẫn nữ giới:

Khi Chúa Giêsu sống lại, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng ở với Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin (bài Phúc Âm Thánh Gioan Thứ Ba Bát Nhật Phục Sinh). Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy (bài Phúc Âm Thánh Luca Thứ Tư Bát Nhật Phục Sinh). Sau hết, Chúa hiện ra với mười một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại (bài Phúc Âm Thánh Luca Thứ Năm Bát Nhật Phục Sinh). Rồi Người phán: "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài".

 

Trong bài Phúc Âm tóm gọn 3 lần hiện ra tiêu biểu này của Chúa Kitô Phục Sinh, Thánh ký Marco không bao gồm lần hiện ra đầu tiên với các phụ nữ (như Phúc Âm Thánh Mathêu cho Thứ Hai Tuần Bát Nhật Phục Sinh thuật lại), cũng như lần thứ 5 và thứ 6 với chung các môn đệ vào 8 ngày sau lần thứ nhất và với 7 vị ở ngoài bờ biển Tibêria sau 8 ngày (như được thuật lại trong Phúc Âm Thánh Gioan cho Thứ Năm và Thứ Sáu Tuần Bát Nhật Phục Sinh).

 

Trong bài Phúc Âm ngắn ngủi về 3 lần hiện ra tiêu biểu này của Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta thấy thành phần được Người hiện ra hay tỏ mình ra sau khi Người từ kẻ chết sống lại không phải chỉ duy các thánh tông đồ (ở lần hiện ra thứ ba) là thành phần chứng nhân tiên khởi của Người, thành phần được gọi thuộc về hàng giáo phẩm lãnh đạo Giáo Hội, mà còn cả thành phần môn đệ (ở lần hiện ra thứ hai) tiêu biểu cho những ai sống đời tận hiến tu trì, và thành phần giáo dân (ở lần hiện ra thứ nhất) được tiêu biểu nơi Chị Mai Đệ Liên. 

 

Trong 3 lần hiện ra với 3 thành phần khác nhau được Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại hôm nay còn cho thấy cách thức  Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với từng thành phần và cách thức Người tỏ mình ra cho từng trường hợp: Trước hết, về cách thức hiện ra: với nữ giáo dân Mai Đệ Liên, Người hiện ra ở đằng sau chị; với hai môn đệ trên đường về Emmau, Người hiện ra bên cạnh họ; và với chung các tông đồ, Người hiện ra thẳng mặt, diện đối diện. Sau nữa, về cách thức tỏ mình ra: với Mai Đệ Liên, Người gọi đích danh của chị, liên quan đến bản thân chị, có tính cách thân mật; với hai môn đệ hành trình Emmau, Người sử dụng cả lời Chúa lẫn việc bẻ bánh, liên quan đến phụng vụ, có tính cách cộng đồng, một cộng đồng tu trì; và với các tông đồ, Người khiển trách các vị và sai các vị đi rao giảng tin mừng phục sinh, liên quan đến phẩm chức và sứ vụ của các vị thuộc hàng giáo phẩm.

 

Một điểm rất quan trọng cần chú trọng đến  ở chỗ này nữa, cho dù bài Phúc Âm của Thánh Marcô hôm nay không nhắc tới, nhưng đã có ở các bài Phúc Âm Thánh Gioan cho Thứ Ba Tuần Bát Nhật Phục Sinh liên quan đến Chị Mai Đệ Liên, và Phúc Âm Thánh Luca cho Thứ Tư Tuần Bát Nhật Phục Sinh liên quan đến hai môn đệ về Emmau, đó là hai thành phần này không thuộc về hàng giáo phẩm có thẩm quyền quản trị, giảng dạy và thánh hóa, mà tất cả những gì họ đã được tỏ ra bởi Chúa Kitô, đều phải được tường trình với thẩm quyền của các vị tông đồ là nền tảng của Giáo Hội.

 

Ngoài ra, nếu Giáo Hội là đàn chiên của Chúa Kitô, Đấng "là mục tử tốt lành đến cho chiên được sự sống và là sự sống viên trọn" (Gioan 10:10) thì Giáo Hội cần được chăn dắt bởi các vị mục tử là hàng giáo phẩm, tức bởi phẩm trật có thẩm quyền của Giáo Hội. Nhưng, nếu Giáo Hội là nhiệm thể của Chúa Kitô, có "Chúa Kitô là Đầu" (Epheso 5:23), thì hết mọi phần tử trong Giáo Hội, kể cả đầu, đểu được tác động bởi hồn sống duy nhất là Thánh Linh, bằng những đặc sủng của từng phần tử được Thánh Thần tác động để phục vụ và xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô. Mai Đệ Liên và 2 môn đệ về Emmau cũng được Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra, nghĩa là, nhờ cuộc hiện ra của Người, cũng được ban Thánh Thần của Người, Đấng đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, nên cả hai trường hợp đều được đặc sủng riêng để phục vụ Giáo Hội, nên cả hai đều quí về Giáo Hội nơi các vị tông đồ bấy giờ.

 

Cũng qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta còn thấy chẳng những toàn thể mọi thành phần trong Giáo Hội, (như được đề cập đến trên đây), đều phải trở thành chứng nhân cho Chúa Kitô khi được Người tỏ mình ra cho, mà còn bao gồm cả những ai bê tha tội lỗi, như trường hợp của Chị Mai Đệ Liên "đã được Chúa đuổi bảy quỷ", hay những ai cảm thấy chán chường tuyệt vọng bỏ cuộc, như trường hợp của hai môn đệ bỏ về làng Emmau, hoặc những ai cứng lòng tin dù được loan truyền như trường hợp của các môn đệ tông đồ của Chúa. Có nghĩa là dù ai chăng nữa, Chúa Kitô Phục Sinh cũng đều có thể biến đổi họ để họ trở thành chứng nhân của Người.

 

Lần hiện ra với chung các tông đồ, Chúa Kitô Phục Sinh chẳng những "khiển trách các ông đã cứng lòng, vì các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại" mà còn sai các vị đi truyền giáo nữa "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài". Nhất là bằng chứng từ của các vị, chứng từ chẳng những ở ngôn từ và việc thuyết giảng, mà nhất là còn bằng hành động bác ái yêu thương như dấu hiệu đích thực chứng tỏ các vị thuộc về Người (xem Gioan 13:35). 

 

Lời Chứng (ngôn từ) và Dấu Chứng (hành động) về Người Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua Thiên Sai Cứu Thế của các tông đồ ở Bài Đọc Sách Tông Vụ:

 

"Trong những ngày ấy, các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ ... gọi hai ngài vào và cấm nhặt không được nhân danh Ðức Giêsu mà nói và giảng dạy nữa. Nhưng Phêrô và Gioan trả lời họ rằng: 'Trước mặt Chúa, các ngài hãy xét coi: nghe các ngài hơn nghe Chúa, có phải lẽ không? Vì chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe'. Nhưng họ lại đe doạ hai ngài, rồi thả về, vì không tìm được cách nào trừng phạt hai ngài, họ lại còn sợ dân chúng, vì mọi người đều ca tụng Thiên Chúa về việc đã xảy ra".

 

 

 

 

 

Chúa Nhật II Phục Sinh Năm C

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Cv 5, 12-16

"Số người tin vào Chúa ngày càng gia tăng".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Khi ấy, các Tông đồ làm nhiều phép lạ và nhiều việc phi thường trong dân, và tất cả mọi người tập họp tại hành lang Salômôn; nhưng không một ai khác dám nhập bọn với các tông đồ. Nhưng dân chúng đều ca tụng các ngài. Số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng, đến nỗi họ mang bệnh nhân ra đường phố, đặt lên giường chõng, để khi Phêrô đi ngang qua, ít nữa là bóng của người ngả trên ai trong họ, thì kẻ ấy khỏi bệnh. Ðông đảo dân chúng ở những thành phụ cận Giêrusalem cũng tuôn đến, mang theo bệnh nhân và những người bị quỷ ám. Mọi người đều được chữa lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 117, 2-4. 22-24. 25-27a

Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.

2) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, nên chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Ðáp.

3) Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Kh 1, 9-11a, 12-13. 17-19

"Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời".

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự gian truân, vương quyền và kiên nhẫn trong Ðức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô vì lời Chúa và vì làm chứng Ðức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe phía sau tôi có tiếng phán lớn như tiếng loa rằng: "Hãy viết những điều ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy giáo đoàn ở Tiểu Á". Tôi quay lại để xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó tôi thấy một Ðấng giống như Con Người, mặc áo dài và ngang lưng thắt một dây nịt bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã xuống như chết dưới chân Người; Người đặt tay phải lên tôi và nói: "Ðừng sợ, Ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau cùng, Ta là Ðấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này".

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 20, 29

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 20, 19-31

"Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".

Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!"

Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

Ðó là lời Chúa.

Cảm Nhận Lời Chúa

 

"Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: 'Bình an cho các con'".

Theo Thánh ký Gioan thì lần Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra này là lần hiện ra thứ hai của Người với chung các tông đồ, và lần này cũng là lần duy nhất trong cả Tuần Bát Nhật Phục Sinh được Phúc Âm cho thấy phản ứng tích cực và chủ động của chung tông đồ đoàn qua vai trò đại diện của Tông Đồ Tôma. Để đáp lại lời trắc nghiệm về lòng tin tưởng của các tông đồ về căn tính "Thày là ai?", Tông Đồ Phêrô đã đại diện tuyên xưng "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian" (Mathêu 16:16) thế nào, thì giờ đây, Tông Đồ Tôma cũng đại diện tông đồ đoàn tuyên xưng như thế: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" 

 

 


 

 

Câu tuyên xưng của Tông Đồ Tôma sau khi Chúa Kitô Phục Sinh, về hình thức có vẻ khác lạ với câu tuyên xưng chính yếu của Tông Đồ Phêrô: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con", nhưng về nội dung cũng chất chứa những gì cốt lõi trong lời tuyên xưng của Tông Đồ Phêrô về căn tính của Người: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". "Chúa" và "Thiên Chúa" nơi lời tuyên xưng của Tông Đồ Tôma đây, trước hết, "Chúa" ám chỉ nguồn gốc thần linh của "Thày là Đức Kitô" Thiên Sai, và "Thiên Chúa" ám chỉ bản tính thần linh của "Con Thiên Chúa hằng sống". 

Câu tuyên xưng của Tông Đồ Tôma vào Chúa Kitô Phục Sinh còn có một ý nghĩa làm nên chính Mùa Phục Sinh nữa: "Thày là sự sống lại và là sự sống". Bởi vì, nếu Thày không phải là "Chúa" thì Thày đã không "sống lại", nhưng nay vì Thày đã thật sự "sống lại" nên Thày quả thực là "Thiên Chúa" hằng sống, là chính "sự sống" vậy. 

Câu Chúa Giêsu phán sau lời tuyên xưng chính xác của vị tông đồ không còn hoài nghi này là "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin":

 

Trước hết, không phải là Người hoàn toàn phủ nhận đức tin không cần chứng từ, bằng không đức tin Kitô giáo sẽ dễ trở thành hoang đường, chỉ thuần linh, nhất là thiếu chứng cứ lịch sử, không hợp với tầm mức lập luận của trí khôn và cảm nhận của tâm linh, phản lại với đường lối nhập thể của Người.

 

Bởi thế , dù “thấy” không còn là “tin” và “tin” không phải là “thấy”, vì “thấy” là thấy những gì về chất thể, còn “tin” là tin những gì về bản thể, thì “thấy” một Nhân Vật Giêsu Nazarét, “thấy” chứng cớ phục sinh, nhưng chưa chắc đã “tin” Nhân Vật Giêsu Nazarét đó là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, và đã “tin” chứng cớ mộ trống, thiên thần và khăn liệm là các dấu hiệu cho thấy Người đã sống lại từ trong cõi chết.

Câu Chúa Kitô Phục Sinh phán: "Phúc cho những ai đã không thấy mà tin" còn hiểu rằng, không một ai, kể cả Mẹ Maria, được tận mắt chứng kiến thấy thân xác tử giá của Chúa Kitô sống lại cách nào, như thế nào và vào lúc nào, nghĩa là hoàn toàn "không thấy" những gì hữu hình hợp với giác quan tự nhiên bao gồm sự kiện phục sinh, và vì thế cũng "không thấy" xác của Người đâu, nhưng chính sự kiện "không thấy" đó mới đưa các vị đến một thực tại thần linh siêu nhiên, đối tượng của chính lòng "tin", đó là mầu nhiệm phục sinh, nhất là đến chính sự thật của mầu nhiệm này, đó là Đấng bị loài người giết chết đã sống lại từ trong kẻ chết chính là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), như Tông Đồ Phêrô đã tuyên xưng khi Người còn sống, "là Chúa và là Thiên Chúa", như Tông Đồ Toma đã tuyên xưng sau khi Người phục sinh.

Thực tại thần linh và sự thật về Đấng khổ nạn và tử giá bị loài người giết chết vào chiều hôm Thứ Sáu Tuần Thánh đó nay đã sống lại và tỏ mình ra cho các môn đệ được tuyển chọn làm chứng nhân tiên khởi của Người và cho Người, thành phần Người đã báo trước về cuộc Vượt Qua của Người 3 lần, nhất là lời tiên báo trong Bữa Tiệc Ly: "Thật vậy, Thày đi (ám chỉ về cuộc khổ nạn và tử giá của Người) để dọn chỗ cho các con, sau đó Thày sẽ trở lại (ám chỉ về cuộc phục sinh của Người) để mang các con đi với Thày, để Thày ở đâu các con cũng ở đó" (Gioan 14:3, và xem Gioan 21:19 là chỗ Chúa Kitô phục sinh kêu gọi tông đồ Phêrô theo Người đi chịu chết như Người và với Người cho chiên). Quả thực Người phục sinh đã hoàn toàn ứng nghiệm lời Người đã khẳng định và tiên báo: "Tôi tự bỏ mạng sống mình đi (nơi cuộc khổ nạn) rồi lấy nó lại (nơi cuộc phục sinh)" (Gioan 10:17) để làm cho các môn đệ tin vào Người cũng như cho phần rỗi của những ai tin vào người qua chứng từ của các vị.

Sau nữa, khi khẳng định "Phúc cho những ai đã không thấy mà tin", Chúa Kitô Phục Sinh muốn nhấn mạnh đến chính cốt lõi của đức tin, đến thực tại thần linh của đức tin, như chính lời tuyên xưng của Tông Đồ Tôma, vị tông đồ không tuyên xưng: "Vâng, giờ đây con đã tin rằng Thày đã sống lại từ trong cõi chết", mà là "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con", vì biến cố phục sinh, cho dù là yếu tố then chốt của Mầu Nhiệm Vượt Qua và làm nên Mầu Nhiệm Vượt Qua, một mầu nhiệm cho thấy tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, vẫn là một phương tiện hay một đường lối hơn là cùng đích, là mục tiêu, vì biến cố phục sinh cần phải có và không thể nào không xẩy ra để Vị "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24) và "vô hình" (Colose 1:15) chứng tỏ Ngài thực sự là "Chúa" và là "Thiên Chúa".

Sau hết, khi tuyên phán "Phúc cho những ai đã không thấy mà tin", Người muốn ám chỉ đến chung Giáo Hội, một Giáo Hội có nền tảng là các tông đồ (xem Epheso 2:20), tiêu biểu nhất có thể nói là Tông Đồ Gioan, "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" cũng là người môn đệ duy nhất đứng dưới chân thập giá của Người với Mẹ của Người và được Người trao phó cho Mẹ của Người và muốn phải noi gương bắt chướng Mẹ của Người (Gioan 19:25-27), một người môn đệ, như Mẹ Maria, đã tin Người sống lại rồi, cho dù chưa được Người thực sự hiện ra như với Mai Đệ Liên (xem Gioan 20:8, 13-17).

Tông Đồ Gioan và nữ môn đệ đặc biệt Mai Đệ Liên là 2 nhân vật trung kiên theo Chúa Kitô cho đến cùng, cho đến khi đứng dưới chân thập giá của Người đấy. Thế nhưng, cả hai đều thấy chứng cớ phục sinh trước khi Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra: Nữ môn đệ Mai Đệ Liên thấy trước, thấy tảng đá đã được chuyên rời (xem Gioan 20:1), thậm chí còn nhìn thấy và nghe thấy hai thiên thần ở bên trọng ngôi mộ (xem Gioan 20:12-13), đến độ "nhìn thấy Chúa Giêsu đứng đó" (Gioan 20:14) mà vẫn chưa tin..., trong khi đó, Tông Đồ Gioan, chỉ cần chứng từ các tấm khăn liệm trong ngôi mộ trống là đủ: "Ông đã thấy và đã tin" (Gioan 20:8).

Như thế cả Tông Đồ Gioan cũng "thấy" rồi mới "tin" thì có hơn gì Tông Đồ Tôma hay Nữ Môn Đệ Mai Đệ Liên đâu? Đúng thế nhưng mà vấn đề ở đây là Tông Đồ Gioan đã "tin" trước khi được Chúa Kitô hiện ra, nghĩa là cho dù Người có hiện ra hay không thì Người quả thực đã sống lại, vì đối với Tông Đồ Gioan, như với Mẹ Maria đầy ơn phúc, Vị thậm chí không cần phải tận mắt thấy chứng cứ như Tông Đồ Gioan nữa, Chúa Kitô đã thực sự là "Chúa" và là "Thiên Chúa" rồi, nên Người không thể nào chết mà không sống lại, trái lại, chính vì Người là "Chúa" và là "Thiên Chúa" mà Người phải sống lại và chắc chắn phải sống lại để chứng tỏ lời Người đã tự xưng thực tại thần linh của Người và loan báo trước về thực tại thần linh của Người: "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25). Câu "phúc cho ai không thấy mà tin" đây phải chăng Chúa Giêsu ngầm khen tặng Người Mẹ sống đức tin của Người!?! 

Phúc Âm không hề thuật lại bất cứ lần nào Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với người mẹ của mình. Tuy nhiên, cho dù Người có âm thầm hiện ra với Mẹ của Người chăng nữa, vào một lúc nào đó, mà thường là ngay sau khi Người sống lại từ trong cõi chết vào nửa đêm Thứ Bảy rạng Chúa Nhật, lúc mọi người đang yên giấc, nhất là đám phụ nữ là thành phần sẽ thức dậy sớm ra mộ sang hôm sau, thì không phải là để chứng tỏ Người thực sự sống lại đúng như Lời Thánh Kinh và lời Người đã tiên báo, cho bằng để đáp ứng lòng Mẹ tin tưởng tràn đầy hy vọng vào cuộc vinh thắng của Người, đồng thời cũng để tưởng thưởng cho Mẹ cũng như bù đắp cho Mẹ về tất cả những khổ đau đến cùng tận mà Mẹ đã hiệp nhất nên một với Người trong việc đồng công cứu chuộc nhân loại, nhờ đó Người đã biến nỗi thống khổ sầu thương của Mẹ thành niềm chất ngất hân hoan (xem Gioan 16:21-22)

Đức tin tông truyền của Giáo Hội là ở chỗ đức tin này được tuyền lại từ chính các tông đồ. Kitô hữu hậu sinh hay thậm chí ngay từ thời các tông đồ tuy không được tận mắt “thấy” Chúa hiện ra(ngoại trừ đặc biệt Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, vị nhận lãnh đức tin vừa nhờ tông truyền vừa bằng cảm nhận bản thân – xem 1Corinto 15:3-4 và 8), hay được diễm phúc sống với Người, được diễm phúc mắt thấy, tai nghe, tay sờ vào Người như các tông đồ (xem 1 Gioan 1:1), nhưng có cùng một đức tin như chính các vị, những con người có phúc được “thấy” nhưng vẫn phải “tin”, không phải chỉ "thấy" rằng quả thực có một nhân vật Lịch Sử Nazarét, đã chịu tử giá và đã phục sinh, vào thời điểm lịch sử của các vị, mà còn "tin" rằng nhân vật Lịch Sử Nazarét, đã chịu tử giá và đã phục sinh ấy chính là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25) để sấp mình xuống tôn thờ Người: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con", trước khi có thể làm chứng về Người: “chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe” (Tông Vụ 4:20, bài đọc 1 Thứ Bảy Bát Nhật Phục Sinh).

Lời Chứng (ngôn từ) và Dấu Chứng (hành động) về Người Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua Thiên Sai Cứu Thế của các tông đồ ở Bài Đọc Sách Tông Vụ:

"Lúc bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ".

 

Bài Đọc 2 hôm nay, Sách Khải Huyền của Thánh Gioan cũng đề cập đến vai trò chứng nhân của Chúa Kitô Phục Sinh, một chứng nhân đã chịu khổ vì Người và với Người, Đấng được ngài thị kiến thấy rạng ngời vinh hiển và quyền uy ở Đảo Patmo như sau:

"Tôi là Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự gian truân, vương quyền và kiên nhẫn trong Ðức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô vì lời Chúa và vì làm chứng Ðức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe phía sau tôi có tiếng phán lớn như tiếng loa rằng: 'Hãy viết những điều ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy giáo đoàn ở Tiểu Á'. Tôi quay lại để xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó tôi thấy một Ðấng giống như Con Người, mặc áo dài và ngang lưng thắt một dây nịt bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã xuống như chết dưới chân Người; Người đặt tay phải lên tôi và nói: 'Ðừng sợ, Ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau cùng, Ta là Ðấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này'".

The Things Past (Rev 1:9-20) | Pictures of jesus christ, Bible pictures,  Jesus pictures

Thánh Thi (Giờ Kinh Sách Các Chúa Nhật Mùa Phục Sinh - theo bản của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)

 

Hôm nay chính là ngày của Chúa

Ánh hồng thiêng rực rỡ tỏa lan

Khi dòng Máu Thánh tuôn tràn

Rửa muôn tội lỗi thế gian bao đời.

 

Nguồn hy vọng nuôi người nản chí

Ánh hào quang soi kẻ mù lòa

Nghe tên trộm được thứ tha

Ai còn sợ sệt ai mà chẳng yên?

 

Thiên thần cũng ngạc nhiên bỡ ngỡ

Ðang thấy y chịu khổ ngoài thân,

Một lời hối cải ăn năn

Bỗng đâu Chúa hứa chung phần thiên cung.

 

Ôi huyền diệu lạ lùng khôn ví:

Muốn chữa lành dịch tễ chúng nhân,

Chính thân thể Ðấng Cao Tôn

Ðền thay tội lỗi của muôn xác phàm!

 

Ôi mầu nhiệm suy làm sao thấu,

Tội chờ lòng nhân hậu tha cho,

Ân tình xua đuổi âu lo

Chết đi mới được thiên thu trường tồn!

 

Giêsu hỡi, chúng con nài nỉ

Ðược muôn đời mừng lễ Vượt Qua,

Tái sinh ơn nghĩa chan hòa

Vang vang khúc khải hoàn ca reo hò!

 

Muôn lạy Chúa Giêsu từ ái

Ðấng lừng danh đánh bại tử thần,

Ngàn đời hiển trị muôn dân

Cùng Ngôi Thánh Phụ Thánh Thần quang vinh.

 

 Thánh Giorgio và Adalbert (23/4), Quan Thày của ĐTC Phanxicô

Ngày 23/04: Thánh Gio-gi-ô, Tử đạo (thế kỷ thứ IV)

 

Thánh Georgiô Tử Đạo (Khoảng 303)

Thánh Georgiô sinh tại Cappadoce, thuộc gia đình quý tộc. Trong tuổi thiếu niên, ngài được giáo dục theo tinh thần Công Giáo. Lớn lên ngài tự ý xin Rửa Tội.

Là trai thời loạn, ngài đã lên đường nhập ngũ. Với lòng can đảm, ngài đã lập được nhiều chiến công hiển hách, và chẳng bao lâu được vinh thăng cấp đại đội trưởng trong lữ đoàn của hoàng đế Đioclêtianô.

Thời đó, Đioclêtianô có ý định bách hại đạo Công Giáo và tỏ lộ ý định ấy cho các sĩ quan. Ai nấy đều tán thưởng, chỉ trừ có mình đại úy Georgiô. Ngài đứng lên phản đối cho là bất công, trái với ý của Thiên Chúa. Ngài quả quyết sẽ sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đức tin. Vua và các quan cùng khuyến dụ Georgiô, nhưng đành chịu thất bại trước sự xác tín của ngài.

Với hy vọng làm ngài đổi ý, vua ra lệnh dùng các hình phạt đau đớn, nhưng cũng không làm lay chuyển được niềm tin của thánh nhân. Sau cùng, họ dẫn ngài đến các tượng thần để buộc ngài tế lễ. Nhưng sau những lời cầu nguyện của ngài, các tượng thần đổ vỡ tan tành. Các sư sãi hoảng hốt, vội xúi giục dân chúng xông vào bắt ngài và xin trảm quyết ngay.

Trước khi chịu tử hình, ngài đã sốt sắng cầu nguyện cho chính mình và cho những kẻ đã hãm hại ngài. Thánh nhân được phúc tử đạo ngày 23/4. Ngày được các quân nhân và hướng đạo sinh tôn sùng đặc biệt những đức tính can đảm và gương mẫu của ngài.

https://www.hddaminhthanhlinh.net/a4028/ngay-23-4-le-thanh-giorgio-jorge-va-adalbert-tu-dao-quan-thay-cua-dtc-phanxico

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Thánh Georges “vị thánh tử đạo vĩ đại” như người Phương Đông thường gọi, được tôn kính tại Lydda (Lod) xứ Palestina từ hậu bán thế kỷ IV, trong một thánh đường xây trên ngôi mộ của ngài. Ngài thường được Tổng phó tế Théodose và tác giả vô danh thành Plaisance nhắc đến. Lễ của ngài được Giáo hội Byzantin cử hành cùng ngày này và liên kết với lễ đã cử hành tại Rô-ma, sau khi Đức Giáo Hoàng Lêô II (682 – 683) dâng kính ngài một đại giáo đường ở Vélabre.

Hạnh tử đạo của thánh Georges là một ngụy thư. Sách này kể rằng thánh Georges sinh tại Cappadoce và được mẹ giáo dục theo tinh thần Kitô giáo. Ngài đấu tranh chống ngoại giáo, phá hủy các ngẫu tượng và sát hại các tư tế chức sắc. Sau này, khi đã trở thành chiến binh và thủ lĩnh trong đạo quân của đế quốc Rôma, ngài kháng cự lại Dioclétien người bách hại tàn bạo các kitô hữu. Hoàng đế này cho tra tấn và ra lệnh chặt đầu ngài vào năm 303.

Ở Tây Phương, người ta phổ biến rộng rãi câu chuyện ngắn về cuộc Tử đạo của thánh nhân. Các thập tự quân cũng phổ biến lòng tôn sùng ngài tại Phương Tây. Vì thế, vị thánh hiệp sĩ của chúng ta trở thành đấng bảo trợ không những miền Géorgie mà còn cả Catalogne, Aragon. Bồ Đào Nha, Anh quốc...và vài thành phố khác như Gênes, Barcelone ... hay bảo trợ cho các binh đoàn và rất nhiều Dòng hiệp sĩ. Sau cùng, ngài được Baden Powell chọn làm thánh bảo trợ cho hướng đạo sinh.

Nghệ thuật ảnh tượng biểu hiện thánh Georges hoặc đang đứng, mình mặc giáp trụ thập tự quân (tượng tại thánh đường Chartres), hoặc đang cỡi ngựa (quần tượng của Frémiet, Petit Palais). Trên các bích họa thế kỷ XIV tại thánh đường Clermont, người ta vẽ các biến cố tuần tự trong cuộc đời thánh nhân, còn điện Louvre trưng bày bức ảnh thánh Georges giao chiến với con rồng (của danh họa Raphael). Hình thánh Georges đang xung phong trước đoàn thập tự quân được xuất hiện trên những bức bích họa tại Poncé (Loir và Cher), Cressas (Charente) và tại Clermont-Ferrand. Biểu hiện của thánh Georges là Thánh giá đỏ trên nền trắng.

2. Thông điệp và tính thời sự

a. Thánh Georges được tôn kính tại Đông Phương như là vị “tử đạo vĩ đại”, một trong “Mười bốn thánh Bảo trợ” và là thánh quan thầy các quân nhân. Ngài cũng được mừng kính trên toàn thế giới trong tư cách người hiệp sĩ gương mẫu và người bảo vệ các phụ nữ. Theo truyền thuyết, thánh nhân đã giết con rồng để giải cứu công chúa đang bị tế cho rồng. Vì thế thánh Georges trở nên mẫu gương cho các hiệp sĩ. Tuy nhiên, ngày lễ của ngài nhằm vào mùa Phục Sinh, gợi lại không những sự giúp đỡ, mà còn lòng quảng đại và dũng cảm của ngài khi họa lại cuộc Thương khó của Chúa Giêsu (lời nguyện đầu lễ). Thật thế, khi đổ máu mình vì Đức Kitô, các vị tử đạo được tham dự vào mầu nhiệm vượt qua của Người. Vì lợi ích cho nhiệm thể Người là Hội thánh, họ hoàn tất trong thân xác mình những gì còn thiếu nơi những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu (Cl 1,24). Bài tin mừng Thánh lễ nói lên những thành quả do cuộc tử đạo mang lại, qua biểu tượng hạt lúa gieo vào lòng đất, phải chết đi mới sinh được nhiều hạt khác (Ga 12, 24-26).

b/ Trong bài giảng ngày lễ thánh Georges (các Bài đọc-Kinh sách), thánh Phêrô Damien cổ vũ chúng ta như sau: “Anh em thân mến, chúng ta không chỉ cảm phục, nhưng còn phải noi gương người chiến binh của đạo quân thiên quốc ... Vậy, một khi đã được tẩy sạch mọi vết nhơ tội xưa, và được bừng sáng nhờ đời sống mới, chúng ta phải cử hành mầu nhiệm vượt qua cách xứng đáng và phải thực sự noi theo gương sáng các vị tử đạo.”

Lời xướng đáp kết thúc bài đọc như sau: “Chúng ta hãy nắm vững trong tay khiên mộc đức tin và thanh gươm lời Chúa... để bắt mọi trào lưu tư tưởng tuân phục Đức Kitô”.

Enzo Lodi

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-23-4-thanh-gio-gi-otu-dao-the-ky-thu-iv-54189

 

 

 

Thánh Giorgiô chịu chết vì đạo ở Lydda, Palestine có lẽ trước thời vua Constantinô. Đó là tất cả những gì chúng ta biết chắc về vị thánh thời danh này. Nhưng lòng tôn kính dành cho Ngài lan rộng cách mau chóng. Người Đông phương gọi Ngài là vị tử đạo vĩ đại, người Hy lạp mừng kính Ngài, các hiệp sĩ suy tôn Ngài, nước Anh chọn Ngài làm thánh bổn mạng và lễ kính của Ngài được coi là lễ nghỉ bắt buộc, tại đây cho tới năm 1778.

 

Có nhiều sách viết về thánh Giorgio nhưng lại khác biệt và không liên hệ gì với nhau:

 

Một tài liệu kể rằng: Thánh nhân sinh ra tại Cappatocia trong một gia đình quyền quí. Cha Ngài là lương dân, mẹ Ngài là một Kitô hữu. Khi thân phụ qua đời, Ngài theo người mẹ về Palestine. Sau này, Ngài ôm mộng làm lính chiến. Diocletianô đã nhận thấy khả năng chiến đấu của Ngài nên dù còn rất trẻ,

 

Ngài đã được xếp vào hàng sĩ quan cao cấp. Nhưng khi vị vua này ra sắc chỉ cấm đạo, Giorgiô đã can đảm chỉ trích ông trước hội nghị về sắc chỉ bất công này. Lời biện hộ làm mủi lòng người nghe, nhưng nhà vua đã nổi giận và ra lệnh hành hạ thánh nhân, Ông còn cho cột thánh nhân lại và giam vào ngục tối. Ông còn cho cột thánh nhân vào bánh xe với dao bén và mũi nhọn mà xoay vòng. Những hình phạt còn nhiều thứ độc dữ như đánh đòn, dầu sôi...

 

Tuy nhiên, khi tưởng thánh nhân đã chết, thì một phép lạ đã chữa lành mọi vết thương. Thấy mọi cực hình đều vô hiệu, nhà vua dịu giọng mở lời khuyên nhủ. Thánh nhân xin vua cho đến đền thờ. Tưởng thành công, ông đã triệu tập dân chúng lại và dọn sẵn lễ vật cho Giorgiô dâng kính các ngẫu thần.

 

Tại đền thờ, thánh nhân dùng tượng thần Apolô mà hỏi: - Người có phải là Thiên Chúa để cho chúng tôi dâng lễ vật không ?

 

Tượng thần bỗng lên tiếng : - Không, tôi không phải là Thiên Chúa.

 

Thánh Giorgiô liền làm dấu thánh giá và tượng thần đổ vỡ tan tành.

 

Mọi người run sợ. Nhà vua truyền lệnh chém đầu thánh nhân ngày hôm đó.

 

http://giaophanvinhlong.net/thanh-giorgio-tu-dao-303.html

 

 

 

 

Tổng tóm về Tuần Bát Nhật Phục Sinh

 

Qua phụng vụ Lời Chúa của Tuần Bát Nhật Phục Sinh, từ Chúa Nhật Phục Sinh đến Chúa Nhật thứ 1 sau Phục Sinh, Giáo Hội chẳng những muốn cho con cái của mình, qua các bài phúc âm trong 8 ngày này, thấy được sự thật Chúa Kitô đã sống lại từ trong cõi chết, và qua Sách Tông Vụ, thấy được sứ vụ chứng nhân của thành phần môn đệ Chúa Kitô cho phần rỗi của nhân loại. 

Vì: thành phần chứng nhân phục sinh bất khả thiếu này, theo bài đọc 2 của Chúa Nhật Phục Sinh, được trích từ Thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Colose (3:1-4): "đã sống lại với Đức Kitô", và theo bài đọc 2 của Chúa Nhật thứ 1 sau Phục Sinh, được trích từ Thư Thứ 1 của Thánh Gioan (5:1-6), họ đã được "sinh bởi Thiên Chúa" bởi "tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô"

Nếu theo bài đọc 2 của Chúa Nhật Phục Sinh, "khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang", thì quả thật, đúng như bài đọc 2 của Chúa Nhật 1 Phục Sinh đã khẳng định: "những gì sinh bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng trận thế gian, là chính đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian, nếu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa?", đúng như những gì đã xẩy ra cho các tông đồ chứng nhân ở bài đọc 1 Thứ Bảy trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh vậy. 

"Trong những ngày ấy, các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ nhận thấy Phêrô và Gioan kiên quyết, và biết hai ngài là những kẻ thất học và dốt nát, nên lấy làm lạ; và còn biết rằng hai ngài đã ở cùng Ðức Giêsu; họ thấy kẻ được chữa lành đứng ở đó với hai ngài, nên họ không thể nói gì nghịch lại được...".


Đúng thế, không một quyền lực thế gian nào, thậm chí cả quyền lực sự chết hỏa ngục (xem Mathêu 16:18) có thể khống chế được chứng từ về Chúa Kitô Phục Sinh nơi thành phần nhân chứng tông đồ của Người, ngay từ ban đầu lịch sử của Giáo Hội.

Trái lại, lạ lùng thay, càng bị bách hại, bị tận diệt, liên lỉ, ở khắp mọi nơi và mọi thời, lịch sử lại càng chứng thực Kitô giáo càng phát triển, Giáo Hội, một quốc gia nhỏ bé nhất về cả địa dư và dân số trên thế giới, quả thực chẳng khác nào như một hạt cải nhỏ bé nhất đã thực sự càng trở thành một cây vĩ đại sừ
ng sững vững bền cho tới nay, trong khi các thế lực đối nghịch đều đã bị tiêu tan. Điển hình nhất là một đế quốc Rôma đã từng hung tàn dã man tàn sát Công giáo suốt 3 trăm năm đầu giờ đây chỉ còn lại một số di tích lịch sử tàn rụi ở Rôma, trước một Giáo Hội Công Giáo Rôma vẫn trường tồn và trở thành tâm điểm của thế giới về tinh thần và luân lý.

Sự hiện diện, tồn tại, phát triển và ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo Rôma nói riêng và Kitô giáo nói chung trên thế giới trong lịch sử loài người từ khi Thiên Chúa Giáng Thế Làm Người và Vượt Qua không phải là những gì chứng thực chẳng những Chúa Kitô "là sự sống lại" mà còn là chính "sự sống" hay sao, một "sự sống" là chủ đề cho 6 tuần còn lại của Mùa Phục Sinh chúng ta sẽ cùng nhau cảm nghiệm. 

Thánh Thi (Giờ Phụng Vụ Ban Tối các Chúa Nhật trong Mùa Phục Sinh - theo bản của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)

 

Ðoàn áo trắng mau chỉnh tề hàng ngũ,

Ðã vượt qua Hồng Hải thật diệu huyền,

Hãy tiến vào dự yến tiệc Con Chiên

Dâng lên Ðức Kitô lời ca ngợi!

 

Cùng nếm thử, nào anh em ta hỡi

Thánh Thể Ngài trên thập tự hiến dâng

Uống cho say ly bửu huyết đỏ hồng

Ðể ta sống cho Chúa Trời mãi mãi.

 

Ôi phúc cả ! Ðêm dài Vượt Qua ấy

Lúc thiên thần chinh phạt khắp dân Ai,

Bỗng vùng lên đoàn dân thánh của Ngài

Thoát xiềng xích Pharaô độc dữ.

 

Chiên Vượt Qua là Kitô Ðức Chúa

Ðổ máu đào vô tội cứu sinh linh

Này bánh không men nuôi dưỡng lòng thành

Hồn trinh trắng khỏi sa vòng tục lụy.

 

Ôi Tế Vật từ trời cao giáng thế,

Duy mình Ngài phá vỡ ngục âm ty

Bao tù nhân, Ngài giải phóng đưa về

Rồi ân thưởng phúc trường sinh bất diệt!

 

Tử thần hỡi, từ đây ngươi đã chết

Lúc Con Người ra khỏi mộ hiên ngang,

Chúa phục sinh khi mở cửa thiên đàng

Ðã ra lệnh giam ngươi vào ngục tối!

 

Ôi Giêsu, chúng con hằng mong mỏi

Ngài trở thành niềm hoan lạc Vượt Qua

Ðã tái sinh thì xin lượng hải hà

Cho gia nhập đoàn hùng binh chiến thắng!

 

Muôn vinh hiển, dâng lên tòa cao sáng

Kính tôn Cha và Thánh Tử phục sinh

Hằng trị vì cùng với Chúa Thánh Linh

Từ muôn thuở đến thiên thu vạn đại.

 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Xin xem thêm

Làm thế nào để biết / chứng minh Chúa Kitô thực sự phục sinh?