SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Chay Tuần IV 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật


Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1Sm 16, 1b. 6-7. 10-13a

"Ðavit được xức dầu làm vua Israel".

Trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Samuel rằng: "Hãy đổ dầu cho đầy bình và lên đường. Ta sai ngươi đến nhà Isai dân thành Bêlem, vì Ta chọn một người con của ông ấy lên làm vua".

Khi (họ) vào nhà, Samuel gặp ngay Eliab và nói: "Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?" Và Chúa phán cùng Samuel: "Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi. Ta không xem xét theo kiểu của con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn". Isai lần lượt đem bảy đứa con mình ra trình diện với Samuel. Samuel nói với Isai: "Chúa không chọn ai trong những người này". Samuel nói tiếp: "Tất cả con ông có bấy nhiêu đó phải không?" Isai đáp: "Còn một đứa út nữa, nó đi chăn chiên". Samuel nói với Isai: "Ông hãy sai người đi gọi nó về, vì chúng ta không ngồi vào bàn ăn trước khi nó về". Isai sai người đi tìm đứa con út. Ðứa út này có mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: "Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó". Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Ep 5, 8-14

"Từ trong cõi chết, ngươi hãy đứng lên và Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trên ngươi".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng bây giờ, anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật. Anh em hãy nhận biết điều gì làm đẹp lòng Chúa, và đừng thông phần vào những việc con cái tối tăm không sinh lợi ích gì, nhưng phải tố cáo thì hơn. Vì chưng, việc chúng làm cách thầm kín, dầu có nói ra cũng phải hổ thẹn. Nhưng tất cả những việc người ta tố cáo, thì nhờ sự sáng mà được tỏ bày ra; vì mọi việc được tỏ bày, đều là sự sáng. Bởi thế, thiên hạ nói: "Hỡi kẻ đang ngủ, hãy thức dậy, hãy vùng dậy ra khỏi cõi chết, và Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trên ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b

Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".

 

Phúc Âm: Ga 9, 1-41 (bài dài)

"Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" Chúa Giêsu đáp: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Ta. Ðêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian". Nói xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa" (chữ Silôê có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.

Những người láng giềng và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Ðúng hắn!" Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn". Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây". Họ hỏi anh: "Làm thế nào mắt anh được sáng?" Anh ta nói: "Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy". Họ lại hỏi: "Ngài ở đâu?" Anh thưa: "Tôi không biết".

Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt? Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt". Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat". Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Ðó là một tiên tri".

Nhưng người Do-thái không muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước khi đòi cha mẹ anh đến. Họ hỏi hai ông bà: "Người này có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại trông thấy?" Cha mẹ y thưa rằng: "Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy". Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Ðấng Kitô. Chính vì lý do này mà cha mẹ anh ta nói: "Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó".

Lúc ấy người Do-thái lại gọi người trước kia đã mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi". Anh ta trả lời: "Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy". Họ hỏi anh: "Người đó đã làm gì cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?" Anh thưa: "Tôi đã nói và các ông đã nghe, các ông còn muốn nghe gì nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng?" Họ liền nguyền rủa anh ta và bảo: "Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môsê. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môsê, còn người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến". Anh đáp: "Ðó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì". Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.

Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người. Chúa Giêsu liền nói: "Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù". Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với Người: "Thế ra chúng tôi mù cả ư?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói "Chúng tôi xem thấy", nên tội các ngươi vẫn còn".

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc bài vắn này: Ga 9, 1. 6-9. 13-17. 34-38

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa" (chữ Silôe có nghĩa là được sai)". Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.

Những người láng giềng và kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Ðúng hắn". Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn". Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây".

Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt. Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt". Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat". Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Ðó là một Tiên tri". Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.

Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for John 9, 1-41

 

Suy niệm


 

... để nhờ đó anh ta có thể nhìn thấy Người bằng cả đôi mắt thể lý của anh ta

và nhận biết Người bằng đôi mắt tâm linh của anh ta nữa: "Lạy Ngài, tôi tin".  

 

 

Vẫn theo chiều hướng dự tòng dọn mình lãnh nhận Phép Rửa Kitô giáo ở 3 tuần cuối của Mùa Chay, một chiều hướng tái sinh bởi nước và Thần Linh, vị Thần Linh được Chúa Kitô Vượt Qua ban cho các tông đồ là nền tảng của Giáo Hội khi Người phục sinh từ trong kẻ chết, Giáo Hội tiếp tục sử dụng bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan (hơn là Thánh ký Mathêu theo chu kỳ phụng vụ Năm A). Thật vậy, chủ đề cho chung phụng vụ lời Chúa, đặc biệt là nội dung của Bài Phúc Âm, nếu Chúa Nhật III Mùa Chay tuần trước phụng vụ Lời Chúa liên quan đến mạch nước sự sống, thì Chúa Nhật IV Mùa Chay tuần này phụng vụ Lời Chúa liên quan đến ánh sáng thần linh.

 

Thật vậy, ở Bài Đọc 1 được trích từ Sách Samuel quyển một, tuy không hề đề cập rõ ràng đến ánh sáng, nhưng lại gián tiếp liên quan đến ánh sáng thần linh, đến việc sáng suốt nhận thức và khôn ngoan chọn lựa đúng như ý Chúa muốn. Ở chỗ, Vị sứ giả Samuel được Thiên Chúa sai "đến nhà Isai dân thành Bêlem", vì Ngài đã "chọn một người con của ông ấy lên làm vua", nhưng không cho Samuel biết đích danh là ai, để xem vị sứ giả này tự mình khôn ngoan tới đâu, sáng suốt đến cỡ nào.

 

Thế nhưng, thực tế đã cho thấy ngài sứ giả Samuel theo trực giác tự nhiên đã bị lầm lẫn ngay từ đầu: "Samuel gặp ngay Eliab và nói: 'Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?' Và Chúa phán cùng Samuel: 'Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi. Ta không xem xét theo kiểu của con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn'". Và cuối cùng, nhờ ánh sáng thần linh, sứ giả Samuel đã xức dầu phong vương đúng con người được Thiên Chúa tuyển chọn: "'Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó'. Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi".

 

Bởi thế, tâm tình của chung Bài Đáp Ca hôm nay, cách riêng câu họa của bài Đáp Ca này thật là thích hợp cho cả sứ giả Samuel đã nhờ ánh sáng thần linh của Chúa mà xức dầu đúng nhân vật được Ngài dự tính tuyển chọn: "Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi". Phần thiếu niên Đavít, chính nhờ

"Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi" mà Đavít đã có được cảm nghiệm thần linh về sự hiện diện của Chúa nơi bản thân mình, cũng như về sự dẫn dắt của Chúa trong cuộc đời của mình từ nhỏ, nhất là trong vai trò chăn dắt dân Chúa của Đavít, một cảm nghiệm thần linh đã được chính ngài là tác giả Thánh Vịnh sau này bày tỏ trong đoạn thứ 22 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.

 

Ở Bài Đọc 2, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã nhắc nhở Kitô hữu thuộc Giáo đoàn Êphêsô gốc gác dân ngoại này rằng: "Xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng bây giờ, anh em là sự sáng trong Chúa". Bởi vì họ cũng như tất cả mọi dân tộc khác không phải là dân Do Thái là dân tộc được vị Thiên Chúa chân thật duy nhất "là ánh sáng" (1Gioan 1:5) tuyển chọn để tỏ mình ra cho trong suốt giòng lịch sử cứu độ của dân tộc ưu tuyển này, nên tất cả dân ngoại đều "ngồi trong tăm tối và trong bóng sự chết" (Luca 1:79), cho đến "thời gian viên mãn" (Galata 4:4), thời điểm "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), như "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9).

 

Chính vì họ "được kêu gọi từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng" (1Phêrô 2:9) như thế mà Thánh Phaolô đã khuyên dạy họ hãy sống xứng đáng với thân phận sáng láng của mình: "Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng" - Như thế nào? Nếu không phải bằng những gì là lành thánh chân thật: "bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật", nhờ đó họ mới sống đẹp lòng Thiên Chúa là Đấng chân thật và thiện hảo: "Anh em hãy nhận biết điều gì làm đẹp lòng Chúa, và đừng thông phần vào những việc con cái tối tăm không sinh lợi ích gì, nhưng phải tố cáo thì hơn".

 

Thật vậy, bởi nguyên tội, bản tính loài người đã bị băng hoại đến độ họ trở thành như bị mù từ lúc mới sinh, một tình trạng mù lòa về tâm linh, đã được tỏ lộ ngay nơi hai nguyên tổ sau nguyên tội. Ở chỗ, cho dù có mở mắt ra sau nguyên tội mà vẫn không nhận biết mình, đến độ vẫn chối quanh chạy tội bằng cách đổ lỗi cho nhau (xem Khởi Nguyên 3: 7,12-13). Thậm chí có thể nói con người mù lòa trước cả nguyên tội nữa. Ở chỗ họ đã tin vào rắn quỉ gian dối hơn tin vào Vị Thiên Chúa Hóa Công vô cùng chân thật của mình mà ăn trái cấm bất tuân tối thượng lệnh và Thánh Ý tối cao của Ngài. Phải, người mù từ bẩm sinh trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Mùa Chay hôm nay là hình ảnh tiêu biểu cho tình trạng mù lòa từ lúc bẩm sinh của con người ngay từ khi còn ở trong vườn địa đàng, thậm chí ngay cả trước nguyên tội nữa; cho dù họ đã được Thiên Chúa dựng nên "rất tốt đẹp" (Khởi Nguyên 1:31) nhưng tự bản chất của mình là tạo vật hữu hạn, so với Thiên Chúa toàn hảo và vô hạn, họ vẫn là loài thụ sinh "bất toàn".

 

Đúng thế, tự mình, là tạo vật thấp hèn và mang một bản tính thọ sinh không thể nào toàn hảo như Thiên Chúa và toàn hảo bằng Thiên Chúa, Đấng "là ánh sáng, nơi Ngài không có tối tăm" (1Gioan 1:5), mà con người, muốn được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa theo dự án tối hậu của việc Ngài dựng nên họ, không thể nào không nhận biết Ngài, nhưng lại cần phải được chính Ngài tỏ mình ra cho, nhờ đó họ mới có thể như người mù từ lúc mới sinh trong Bài Phúc Âm hôm nay, sau khi được chữa lành một cách lạ lùng, đã nhận biết Ngài qua Con của Ngài là Đấng "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18): "'Anh có tin Con Thiên Chúa không?' Anh thưa: 'Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?' Chúa Giêsu đáp: 'Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh'. Anh ta liền nói: 'Lạy Ngài, tôi tin', và anh ta sấp mình thờ lạy Người".

 

Người mù từ lúc mới sinh được chữa lành trong Bài Phúc Âm hôm nay, cho dù đã được chữa lành và chưa biết vị đã chữa lành cho mình, nhưng vẫn tỏ ra khôn ngoan sáng suốt hơn thành phần có thẩm quyền trong dân nói chung và thành phần biệt phái duy luật đầy giả hình nói riêng, không bị mù từ thuở mới sinh như anh ta, qua những câu đối đáp của anh ta khiến họ không thể làm gì nổi anh ta, và đã phải đuổi anh ta đi, như Thánh ký Gioan thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay:

 

"Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt. Anh đáp: 'Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt'. Mấy người biệt phái nói: 'Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat'. Mấy kẻ khác lại rằng: 'Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?' Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: 'Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?' Anh đáp: 'Ðó là một Tiên tri'. Họ bảo anh ta: 'Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?' Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài".

 

Nếu so sánh thì cái mù lòa thiêng liêng về tâm linh và đức tin của thành phần biệt phái trong Bài Phúc Âm hôm nay mới đáng thương và cần được chữa lành, hơn là nạn nhân mù từ thuở mới sinh được chữa lành, đúng như Chúa Giêsu đã nhận định và cảnh giác họ: "Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói 'Chúng tôi xem thấy', nên tội các ngươi vẫn còn".

 

Thật vậy, cái mù lòa về tâm linh mới là những gì gây ra tội, chứ cái mù lòa thể lý cho dù từ lúc mới sinh chẳng những không bởi tội mà còn là dịp để Thiên Chúa được vinh hiển nữa, như chính Chúa Kitô đã khẳng định với thành phần môn đệ của Người, thành phần, như các người biệt phái, vẫn quan niệm là do tội: "Môn đệ hỏi Người: 'Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?' Chúa Giêsu đáp: 'Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh". Mà quả thực Thiên Chúa đã được vinh hiển nơi nạn nhân mù từ lúc mới sinh này, khi đích thân anh ta đã hiên ngang bênh vực và làm chứng cho Đấng chữa lành cho anh ta, dù anh ta chưa biết rõ Người là ai, và sau khi đã được Người chính thức tỏ mình ta cho thì đã nhận biết Người ngay lập tức bằng cử chỉ sụp lậy Người.

 

Thành phần giả hình biệt phái mù quáng thật sự là bị mù về tâm linh, một cái mù nguy hiểm hơn là cái mù về thể lý của nạn nhân mù từ lúc mới sinh, vì cái mù tâm linh liên quan đến phần rỗi đời đời của họ. Nhưng, để chữa lành cái mù tâm linh ấy, họ cũng cần phải được Thiên Chúa, qua Con của Ngài "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), tái diễn phương pháp chữa lành người mù từ lúc mới sinh, như đầu bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: 'Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa' (chữ Silôe có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được".

 

Đúng thế, để chữa lành cái mù về tâm linh liên quan đến đức tin cứu độ của thành phần biệt phái giả hình trong bài Phúc Âm hôm nay, hay của bất cứ ai mang triệu chứng hoặc bệnh trạng như họ, bất cứ là thành phần nào, họ đều cần đến một yếu tố bất khả thiếu đó là "bùn", một thứ "bùn linh", vì được trộn bởi "nước miếng" từ miệng của chính Chúa Giêsu, và thứ "bùn linh" này còn phải được bôi lên "mắt" của họ, rồi sau đó họ còn cần phải tự rửa sạch thứ "bùn linh" này nữa ở nơi họ cần phải tới (được sai đi = hồ Siloe).

 

Thứ "bùn linh" đây là gì, nếu không phải là một hợp chất sang hèn lẫn lộn (sang bởi chất nước bọt từ miệng lưỡi của Vị Thiên Chúa làm người + hèn bởi đất là chất làm nên xác thể tầm thường của con người), một hợp chất "bùn linh" bất khả thiếu tiêu biểu cho cả Lời Chúa cao cả lẫn bản chất yếu hèn của con người, một hợp chất có thể nói là tiêu biểu cho mầu nhiệm ngôi hiệp (hypostatic union) ở nơi chính Ngôi Vị Thần Linh là Lời Nhập Thể, Đấng có hai bản tính: Thiên Tính cao sang và nhân tính thấp hèn, Đấng mà "ai theo Tôi sẽ không đi trong tăm tối nhưng sẽ được ánh sáng sự sống" (Gioan 8:32), Đấng đã thực sự chữa lành và tỏ mình ra cho nạn nhân mù từ lúc mới sinh: "Chính Người đang nói với anh đây", để nhờ đó anh ta có thể nhìn thấy Người bằng cả đôi mắt thể lý của anh ta và nhận biết Người bằng đôi mắt tâm linh của anh ta nữa: "Lạy Ngài, tôi tin". 

 

Cho dù đã được bôi thứ bùn linh này lên đôi mắt bị lù từ lúc mới sinh như thế, nạn nhân này vẫn chưa được sáng mắt, cho đến khi đi rửa ở Hồ Siloe, nhờ đó anh ta mới dễ dàng tỏ ra hành động tin tưởng và tôn thờ khi gặp lại chính Đấng chữa lành cho mình, một Đấng tỏ mình ra cho anh bằng tất cả ngôi vị của Người bao gồm cả thần tính lẫn nhân tính, được biểu hiệu qua bùn linh ở trên mắt anh ta, vi nước ở Hồ Siloe lẫn ý nghĩa "sai đi" của hồ này liên quan đến vai trò của Chúa Thánh Thần, một thứ "gió muốn thổi đâu thì thổi" (Gioan 3:8), nhắm đến chỗ "dẫn các con vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13) là Chúa Giêsu Kitô. Và vì thế, kinh nghiệm tu đức và sống đức tin cho thấy, cho dù Kitô hữu có được chính Chúa Kitô tỏ mình ra cho, như thể họ được Người đắp bùn lên đôi mắt mù lòa của họ, nhưng họ vẫn chưa nhận ra Người, cho đến khi họ đi rửa, tức là được tác động bởi Thánh Thần, sau đó họ mới nhận ra Chúa Kitô, như người mù từ lúc mới sinh ở đoạn cuối của Bài Phúc Âm hôm nay.

 

 

Lễ trọng kính Thánh Giuse ngày 19/3/2023 đã bị CN 4 Mùa Chay át nên được dời vào Thứ Hai hôm nay 20/3

 19 tháng 3

THÁNH GIU-SE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MA-RI-A

lễ trọng

 

Thánh Giu-se, bạn trăm năm của Đức Ma-ri-a, có sứ mạng “chăm sóc Đức Giê-su như một người cha”.
Nhưng Chúa đã muốn người chủ thánh gia ở Na-da-rét tiếp tục sứ mạng ấy trong Hội Thánh, thân thể của Chúa Ki-tô.
Đức Ma-ri-a là Mẹ của Hội Thánh thì thánh Giu-se là Đấng che chở Hội Thánh.


Why St. Joseph is especially our patron when we're working from home

Phụng Vụ Giờ Kinh

 

Đây bậc Thánh cả thiên đàng hãnh diện,
Niềm cậy trông và cột trụ trần gian,
Chúng con dâng lời tán tụng đôi hàng,
Xin hiền phụ Giu-se thương nhận lãnh.

Dòng Đa-vít, Chúa tạo thành se định
Được kết duyên cùng Trinh Nữ ngọc ngà,
Con Chúa Trời âu yếm gọi là “Cha”,
Ngài cộng tác vào công trình cứu độ.

Ngài lặng lẽ ngắm nhìn Ngôi Thiên Tử,
Giờ sinh ra trong máng cỏ nghèo hèn,
Đấng bao đời ngôn sứ đã ngợi khen,
Ngài thờ lạy đầu tiên cùng Đức Mẹ.

Đây Chúa Tể càn khôn, đây Thượng Đế,
Một dấu tay là địa ngục hãi hùng,
Cả thiên đình đều phụng mệnh khiêm cung
Mà không quản vâng ý ngài trọn vẹn.

Lời vinh tụng, dâng Ba Ngôi trìu mến
Đã ban cho ngài chức trọng quyền cao,
Được ngài thương hằng nâng đỡ nguyện cầu,
Đoàn chúng tử sẽ thông phần vinh phước.

 

Lạy Chúa, Chúa đã giao phó Đức Giê-su cho thánh cả Giu-se, và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho Giáo Hội biết luôn luôn cộng tác với Đức Giê-su, để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16

"Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Ðavít, tổ phụ Người".

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: Khi ngày của ngươi đã viên mãn, ngươi sẽ yên nghỉ với các tổ phụ ngươi; sau đó, Ta sẽ cho miêu duệ ngươi lên kế vị và Ta sẽ làm cho triều đại người được vững bền. Chính người sẽ xây cất một ngôi nhà để kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngôi báu triều đại người được củng cố đến muôn đời. Ta sẽ là Cha của người, và người sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29

Ðáp: Miêu duệ người tồn tại đến muôn đời (c. 37).

Xướng: 1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.

2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.

3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 4, 13. 16-18. 22

"Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, không phải nhờ lề luật mới có lời hứa ban cho Abraham hay dòng dõi của ông trở nên kẻ thừa kế thế gian, nhưng là nhờ sự công chính của đức tin. Vì thế, do đức tin, được coi như là theo ân sủng, lời hứa cho mọi dòng dõi được vững bền, không phải chỉ cho kẻ sinh bởi lề luật, mà còn cho kẻ sinh bởi đức tin của Abraham, tổ phụ của mọi người chúng ta, (như có lời chép rằng: Ta đã đặt ngươi làm cha nhiều dân tộc) trước mặt Thiên Chúa, Ðấng ông đã tin, Ðấng cho kẻ chết sống lại, và kêu gọi cái không có như có. Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế". Vì vậy, ông đã được kể như sự công chính.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 83, 5

(Mùa Chay: bỏ Alleluia)

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, phúc cho những ai ngụ nơi nhà Chúa, họ sẽ khen ngợi Chúa đến muôn đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 1, 16. 18-21. 24a

"Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.

Ðó là lời Chúa.

- - - - - - - -  - - - - - - 

Hoặc: Lc 2, 41-51a

"Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người.

Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà.

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Giuse trong buổi triều kiến chung 19/3/2003

1. Hôm nay chúng ta cử hành lễ trọng kính Thánh Giuse, vị hôn phu của Mẹ Maria (x Mt 1:24; Lk 1:27). Phụng vụ diễn tả Ngài là “cha” của Chúa Giêsu (x Lk 2:27,33,41,43,48), sẵn lòng thực thi các dự án thần linh, ngay cả khi những dự án này vượt quá tầm mức hiểu biết loài người. Nơi “người con Vua Đavít” (Mt 1:20; Lk 1:27) này, Sách Thánh được nên trọn và Lời Hằng Sống đã làm người, bởi quyền năng Thánh Linh, trong cung lòng của Trinh Nữ Maria. Thánh Giuse được Phúc Âm diễn tả như là “một con người công chính” (Mt 1:19), và Ngài là mẫu gương sống đức tin cho tất cả mọi tín hữu.

2. Chữ “công chính” nói lên tính cách cương trực về luân lý của Ngài, việc Ngài chân thành gắn bó với việc thực hành lề luật cũng như thái độ hoàn toàn cởi mở trước ý muốn của Cha trên trời. Ngay cả trong những lúc khó khăn, vào những lúc thảm cảnh, người thợ mộc khiêm hạ thành Nazarét này cũng không bao giờ chiếm cho mình thứ quyền thách đố dự án của Thiên Chúa. Ngài chờ đợi tiếng gọi từ trên cao và âm thầm tôn kính mầu nhiệm ấy, bằng cách để cho Chúa hướng dẫn. Một khi lãnh nhận công việc, Ngài thi hành với tất cả trách nhiệm thành tín: Ngài chuyên chú lắng nghe thiên thần khi được yêu cầu nhận Trinh Nữ Nazarét làm hiền thể của Ngài (x Mt 1:18-25), trong cuộc trốn sang Ai Cập (x Mt 2:13-15) cũng như trong cuộc trở về Do Thái (x Ibid 2:19-23). Qua một số giòng chữ, tuy ít nhưng quan trọng, các vị thánh ký đã cho thấy Ngài như là một vị bảo quản ân cần của Chúa Giêsu, một phu quân lưu tâm và trung tín, vị thi hành quyền bính của mình trong gia đình bằng một thái độ phục vụ liên lỉ. Sách Thánh không nói cho chúng ta biết hơn nữa về Ngài, nhưng trong cái câm nín này đã gói ghém chính kiểu cách sứ vụ của Ngài, đó là một cuộc hiện hữu được sống động trong âm thầm của cuộc sống hằng ngày, nhưng bằng một đức tin vững chắc vào Đấng Quan Phòng.

3. Hằng ngày Thánh Giuse phải cung ứng các nhu cầu của gia đình bằng việc làm chân tay khó nhọc của Ngài. Vì lý do này, Giáo Hội đã có lý để đặt Ngài là quan thày của thành phần lao động.

Bởi thế, lễ trọng hôm này cũng là một cơ hội rất thuận lợi để suy nghĩ về tầm quan trọng của việc làm trong đời sống con người, nơi gia đình cũng như ngoài cộng đồng.

Con người là chủ thể và là vai chính của việc làm, và theo chiều hướng của sự thật này, người ta có thể dễ dàng nhận thức được cái liên hệ trọng yếu hiện hữu giữa con người, việc làm và xã hội. Hoạt động của con người, theo Công Đồng Chung Vaticanô II, được phát xuất từ con người và qui hướng về con người. Theo ấn định và ý muốn của Thiên Chúa, nó phải phục vụ thiện ích thực sự của nhân loại và giúp cho “con người, là một cá nhân cũng như là một phần tử của xã hội, có thể vun trồng và thực thi ơn gọi toàn diện của mình” (x Vui Mừng Và Hy Vọng, 35).

Để làm trọn công việc này, cần phải vun trồng “một linh đạo thực sự của việc làm nhân bản” được sâu xa bắt nguồn từ “Phúc Âm làm việc”, và là một linh đạo các tín hữu được kêu gọi để loan truyền và làm chứng cho ý nghĩa việc làm theo Kitô Giáo trong các hoạt động nghề nghiệp khác nhau của họ (x Thông Điệp Laborens Exercens, 26).

4. Chớ gì Thánh Giuse, một vị thánh cao cả và khiêm hạ, trở thành một mẫu gương khiến thành phần lao động Kitô hữu noi theo bắt chước, kêu cầu Ngài trong hết mọi hoàn cảnh. Hôm nay đây, Tôi xin ký thác cho vị bảo quản ân cần Thánh Gia Nazarét này giới trẻ, thành phần đang sửa soạn cho một tương lai nghề nghiệp, thành phần thất nghiệp và những ai đang phải chịu khốn khó vì thiếu nghề nghiệp, các gia đình và toàn thế giới của việc làm cùng với những mong đợi và thách đố, những trục trặc và chiều kích của nó.

Xin Thánh Giuse, quan thầy chung của Giáo Hội, trông coi toàn thể cộng đồng giáo hội, và như một con người thực sự của hòa bình, cầu cho toàn thể nhân loại, nhất là cho những người đang bị đe dọa trong thời gian chiến tranh này đây, tặng ân thái hòa và bình an cao quí.

Anh Chị Em thân mến,

Thánh Giuse là vị chúng ta long trọng mừng lễ hôm nay đây, là gương mẫu sống đức tin. Là vị bảo vệ Thánh Gia, “con người công chính” (Mt 1:19) này là một con người lao động khiêm tốn, và là một phu quân và thân phụ trung thành. Đời sống của Ngài cho chúng ta thấy một lòng tin tưởng bất khả chuyên thay vào Đấng Quan Phòng thần linh.

Thánh Giuse sẵn sàng thực hiện dự án của Thiên Chúa giành cho Ngài cũng như cho Mẹ Maria, ngay cả khi dự án này dường như vượt trên mức độ hiểu biết của loài người.

Giáo Hội cũng cử hành mừng Thánh Giuse là Quan Thày của Thành Phần Lao Động nữa. Trong một thế giới toàn cầu hóa hôm nay đây chúng ta cần phải nhắc nhở mình là phẩm vị của con người phải đóng vai trò quan trọng chính yếu nơi tất cả mọi thứ phát triển về xã hội cũng như kinh tế. Là một con người của hòa bình, chúng ta hãy cầu với Thánh Giuse cho những ai đang bị de dọa bởi chiến tranh và chúng ta kêu cầu tặng ân thái hòa cao quí cho toàn thể gia đình nhân loại.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ theo tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 19/3/2003.

 

Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật III Mùa Chay về Thánh Giuse 19/3/2006

Anh Chị Em thân mến!

Hôm nay, ngày 19/3, là lễ trọng kính Thánh Giuse, nhưng vì trùng với Chúa Nhật III Mùa Chay nên phụng vụ được dời vào ngày mai. Tuy nhiên, khung cảnh Thánh Mẫu của buổi nguyện Kinh Truyền Tin kêu mời chúng ta hãy kính can suy niệm về hình ảnh vị hôn phu của Trinh Nữ Maria Rất Thánh, quan thày của Giáo Hội hoàn vũ. Tôi muốn nhắc lại là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thân yêu của chúng ta cũng rất sùng kính Thánh Giuse, vị được ngài giành hẳn một bức tông thư ‘Redemptoris Custos’, Vị Bảo Hộ Của Đấng Cứu Chuộc, và là giáo hoàng chắc chắn đã cảm thấy được sự hỗ trợ của thánh nhân trong giờ lâm tử.

Hình ảnh của vị đại thánh này, cho dù vẫn âm thầm kín ẩn, có một tầm vóc quan trọng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Trước hết, vì thuộc về chi tộc Giuđa, thánh nhân đã có liên hệ với Chúa Giêsu theo giòng dõi vua Đavít, bởi đó, khi hiện thực những lời hứa về Đấng Thiên Sai, người con của Trinh Nữ Maria mới thực sự được gọi là ‘con vua Đavít’.

Phúc Âm Thánh Mathêu nhấn mạnh một cách đặc biệt đến những lời tiên tri về đấng thiên sai được nên trọn nơi vai trò của Thánh Giuse: nơi việc Chúa Giêsu được hạ sinh (2:13-15); tên gọi ‘Nazarene’ (2:22-23). Trong tất cả những điều này, thánh nhân đã cho thấy bản thân của ngài, như vị hôn thê Maria của mình, là giòng dõi đích thực của đức tin Abraham: niềm tin nơi Thiên Chúa đã hướng dẫn các biến cố lịch sử theo dự án cứu độ thần linh của Ngài. Sự cao cả của thánh nhân, như Mẹ Maria, còn trổi vượt hơn nữa, vì sứ vụ của thánh nhân được thực hiện trong khiêm hạ cũng như trong sự khuất kín ở nhà Nazarét. Hơn nữa, chính Thiên Chúa, nơi bản thân Người Con nhập thể của Ngài, đã chọn đường lối cùng lối sống ấy trên cuộc đời trần gian.

Từ gương mẫu của Thánh Giuse, tất cả chúng ta lãnh nhận một lời mời mmạnh mẽ trong việc trung thành, đơn sơ và khiêm hạ công việc được Thiên Chúa quan phòng ấn định cho chúng ta. Trước hết tôi đang nghĩ đến những người làm cha làm mẹ, và tôi nguyện cầu để họ luôn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của một đời sống giản dị và cần cù, chuyên chú vun trồng mối liên hệ vợ chồng và nhiệt thành làm trọn sứ vụ giáo dục cao cả nhưng không dễ dàng gì.

Xin Thánh Giuse cầu cho các vị linh mục là thành phần thực thi vai trò làm cha đối với cộng đồng giáo hội biết yêu mến Giáo Hội một cách thiết tha và hoàn toàn dấn thân phục vụ, và nâng đỡ thành phần tu trì tận hiến biệt hân hoan và trung thành tuân giữ các lời khuyên của Phúc Âm sống khó nghèo, thanh tịnh và tuân phục. Xin thánh nhân bảo vệ thành phần lao động trên thế giới để họ góp phần bằng các nghề nghiệp khác nhau của họ cho sự tiến bộ của toàn thể nhân loại, và xin thánh nhân giúp cho hết mọi Kitô hữu nhận biết ý muốn của Thiên Chúa một cách tin tưởng và mến yêu, nhờ đó cộng tác vào việc làm trọn công cuộc cứu độ.

Khi Đức Thánh Cha vừa nói hết câu đầu tiên của bài huấn từ truyền tin trên đây, câu “Anh Chị Em thân mến. Hôm nay, ngày 19/3, là lễ trọng kính Thánh Giuse”, liên được đoàn hành hương cả 50 ngàn người vỗ tay vang rền khu Quảng Trường Thánh Phêrô. Có một số người cầm biểu ngữ với những chữ như “Auguri, Joseph!” (Chúc Mừng Giuse). Đức Thánh Cha đã mỉm cười và nói cám ơn mấy lần.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 19/3/2006

 

 

Lễ Phu Quân Giuse, 19/3

 

 

Thứ Hai

(Tuần IV Mùa Chay - Nếu không bị át bởi Lễ Thánh Giuse như Năm 2023)

 Lời Chúa

Bài Ðọc I: Is 65, 17-21

"Thiên hạ sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Thiên Chúa phán: "Này Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ không còn nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ vãng nữa. Nhưng các ngươi hãy hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các việc Ta tác tạo, vì đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân tộc vui mừng. Ta sẽ hân hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ đây người ta sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu, không còn người già chết sớm nữa, vì người chết trăm tuổi cũng còn gọi là chết trẻ, người không sống đến trăm tuổi, kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho và ăn trái nho".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11e-12a và 13b

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.

2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Lc 15, 18

Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha.

 

Phúc Âm: Ga 4, 43-54

"Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình". Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.

Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ðược tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin". Viên quan chức trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi". Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.

Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt". Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin. Ðó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.

Ðó là lời Chúa.

 

Suy niệm

 

 

thành phần dân ngoại dễ tin vào Người hơn là chính dân của Người

 

Hôm nay, Thứ Hai trong Tuần IV Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa bắt đầu có chiều hướng càng sát nghĩa hơn bao giờ hết với chủ đề "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17) của chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh. Bởi vì, từ hôm nay, dọc suốt 2 tuần liền của thời điểm cuối cùng của Mùa Chay, Giáo Hội cố ý chọn đọc cho các ngày thường trong tuần toàn là các bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, không còn Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, Marco hay Luca như ba tuần trước đây nữa. 

Tại sao? Tại vì chỉ có Phúc Âm của Thánh Gioan, cuốn Phúc Âm cuối cùng trong 4 cuốn Phúc Âm được Giáo Hội công nhận trong sổ bộ Thánh Kinh Tân Ước, cuốn Phúc Âm về thần tính của Chúa Kitô và về Giáo Hội, mới có những đoạn Chúa Giêsu tỏ thần tính của mình ra, hay nói cách khác, Người tỏ nguồn gốc thần linh của Người ra, vừa bằng phép lạ hay dấu lạ vừa bằng chính lời tự chứng của Người liên quan đến ý Cha là Đấng đã sai Người. 

Tuy nhiên, đa số dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo dân Do Thái bấy giờ nói riêng đã không thể chấp nhận chứng từ cùng chứng cớ rất chân thực bất khả chối cãi của Người, cho đến giờ của Người, tức cho đến thời điểm họ có thể thực hiện mưu đồ sát hại Người, theo đúng như dự án cứu độ của Thiên Chúa và công cuộc cứu độ của Người, Đấng đã "tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" bằng Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, một mầu nhiệm là tột đỉnh của chung phụng niên và của riêng Tuần Thánh, đặc biệt là của Tam Nhật Thánh!

Hai bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan đầu tiên cho 2 tuần cuối cùng của Mùa Chay liên quan đến 2 phép lạ Chúa Giêsu làm, phép lạ trước, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người làm ở Galilêa, vùng đất miền bắc xa xôi, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống, còn phép lạ sau, trong bài Phúc Âm ngày mai, Người làm ở ngay Giêrusalem xứ Giuđêa ở miền nam, một phép lạ xẩy ra ở ngay giáo đô của dân Do Thái, do đó, đã trở thành nguyên cớ dẫn đến cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và dân của Người, nhất là với thành phần lãnh đạo ở đó bấy giờ. 

Phép lạ được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, "là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa", tiếp theo phép lạ Người đã hóa nước thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana trước đó để tỏ mình ra cho các môn đệ và làm cho các vị tin vào Người là phép lạ đầu tiên (xem Gioan 2:11). Nếu phép lạ thứ nhất liên quan đến hôn nhân thì phép lạ thứ hai này liên quan đến gia đình. Bởi thế mà cuối Bài Phúc Âm Thánh ký Gioan đã cho biết tác dụng xuất phát từ phép lạ Chúa Giêsu thực hiện: "nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin".

Tuy nhiên, sở dĩ Giáo Hội chọn bài Phúc Âm về phép lạ Chúa Giêsu làm cho "một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt", không phải để cho chúng ta thấy cái cân xứng giữa hai phép lạ: phép lạ thứ nhất Người làm cho các môn đệ tin Người và phép lạ thứ hai Người làm cho dân chúng tin Người, mà chính là để cho chúng ta thấy rằng thành phần dân ngoại dễ tin vào Người hơn là chính dân của Người, như phép lạ trong bài Phúc Âm ngày mai chứng thực.

Đó là lý do ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Gioan đã ghi nhận lòng khao khát thần linh và thái độ mộ mến của dân chúng đối với Đấng Thiên Sai của chính dân Do Thái: "Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: 'Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình'. Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ".

"Chính Người đã nói: 'Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình'" ở câu Phúc Âm này không phải ám chỉ dân chúng ở Nazarét quê quán của Người đã đối xử với Người được Thánh ký Luca thuật lại (xem 4:14-30), mà là ám chỉ chung dân Do Thái là dân tộc của Người theo huyết nhục trần gian. Tuy nhiên, thành phần dân tộc của Người ít là cũng đưc chia làm hai loại hay hai hạng, hạng bình dân cởi mở và hạng trí thức lẫn quyền lực. 


Đú
ng thế, "Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình" được Chúa Giêsu nói đến ở đây không áp dụng vào thứ "quê hương của mình" về địa dư cho bằng về huyết nhục, về chủng tộc. Nếu "quê hương của mình" được Người nói đến ở đây là Nazarét nói riêng và Galilêa nói chung là miền thuộc lãnh vực hoạt động chính yếu của Người thì hoàn toàn không đúng, bởi ở đây "dân chúng ra đón tiếp Người". Như thế thì Người ám chỉ gì đây?


Câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay là chìa khóa mở nút thắt này:
"Ðó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa". Như thế có thể hiểu là Người ám chỉ Giuđêa, nơi không tiếp nhận Người, vì Người đã sinh ra ở Bêlem Xứ Giuđêa, sinh quán của Vua Đavít, và nhất là Đền Thờ Giêrusalem là "nhà Cha" của Người nữa (xem Gioan 2:16), nơi mà dân ở Galilêa cũng "đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ".

Hình như dân Do Thái ở Galilêa thuộc miền bắc xa xôi, xa giáo đô Giêrusalem và sống chung với nhiều người dân ngoại đã có được một tinh thần cởi mở và phóng khoáng hơn là những người Do Thái ở Giuđêa nói chung và ở giáo đô Giêrusalem nói riêng. Bởi thế nên, Thánh Gioan đã cho thấy dân Do Thái ở Galilêa đã cởi mở hơn với Chúa Giêsu: "Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ".

Sự kiện "dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ" đây có nghĩa là họ rất cảm phục Người, vì Người chỉ là một người Galilêa tầm thường như họ mà đã dám làm những gì không ai có thể làm và dám làm như Người. Chẳng hạn như Người đã chẳng những dám đánh đuổi đám buôn bán trong đền thờ mà còn dám thách thức những người Do Thái chính qui ở đó bấy giờ đã ngỏ ý muốn thấy dấu lạ Người làm để chứng tỏ thẩm quyền thực sự của Người trong việc Người thanh tẩy đền thờ là nhà của Cha Người như thế (xem Gioan 2:13-23).

Chính vì tấm lòng cởi mở của chung dân Do Thái ở Galilêa như vậy mà hầu như các phép lạ Người làm đều xẩy ra ở Galilêa, hơn là ở Giuđêa. Phép lạ thứ hai Người làm ở Galilêa trong Bài Phúc Âm hôm nay lại xẩy ra ở Cana là "nơi Người đã biến nước thành rượu", một phép lạ được Chúa Giêsu thực hiện cho người con trai của một viên chức triều đình (royal officer), không biết là người Do Thái hay dân ngoại, nhưng có thể nắm chắc là dân ngoại, bởi vì cuối bài Phúc Âm Thánh ký Gioan đã ghi chú thêm chi tiết: "ông và toàn thể gia quyến ông đều tin", như trường hợp của gia đình viên đại đội trưởng Roma Cornelio (xem Tông Vụ 10:1-48).

Trong Phúc Âm của Thánh Gioan, thường Chúa Giêsu tự động làm phép lạ để tỏ mình ra cho người ta tin vào Người, hơn là người ta phải có đức tin đã rồi Người mới làm phép lạ, như thường xẩy ra hầu hết ở bộ Phúc Âm Nhất Lãm. Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người lại đề cập đến đức tin như là một điều kiện cần thiết trước khi Người làm phép lạ. 


Tuy nhiên, nếu để ý chúng ta vẫn thấy chiều hướng Chúa Kitô tỏ mình ra cho con người trước để con người tin vào Người sau theo chiều hướng chính yếu của Phúc Âm Thánh Gioan. Đó là lý do sau khi Người đặt vấn đề
"nếu quí vị không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn quí vị sẽ không tin". Và Người đã tỏ uy quyền của Người ra cho người bố dân ngoại này thấy mà tin. Ở chỗ, Người không cần thực hiện những gì Người bố nghĩ là Người cần phải đến tận chỗ "đứa con trai đau liệt" của ông để chữa lành cho nó: "xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Trái lại, Người vẫn ở nguyên một chỗ mà vẫn chữa lành được nó. Thế mới hay. Mới làm cho ông càng lạ lùng và không thể không tin vào Người.


Dầu sao thì người bố dân ngoại này cũng tin tưởng Người hơn ai hết, nên vừa khi nghe Chúa Giêsu nói
"Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi", thì "Ông tin lời Chúa Giêsu nói mà trở về"
. Quả thật, ông đã tin sao thì được đúng như vậy, như bài Phúc Âm ở đoạn cuối cho thấy: "Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: 'Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt'. Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: 'Con ông mạnh rồi'. Nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin".


Nội dung của Bài Đọc 1 hôm nay quả thực đã phản ảnh ý nghĩa tỏ mình ra của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay qua việc Người tỏ thần tính của Người ra nơi phép lạ chữa lành bằng ý muốn toàn năng vô cùng hiệu lực của Người, một phép lạ cho thấy ý muốn cứu độ của Thiên Chúa trong việc tiêu diệt tội lỗi và sự chết mà ban cho con người sự sống và hạnh phúc:

"Này Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ không còn nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ vãng nữa. Nhưng các ngươi hãy hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các việc Ta tác tạo, vì đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân tộc vui mừng. Ta sẽ hân hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ đây người ta sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu, không còn người già chết sớm nữa, vì người chết trăm tuổi cũng còn gọi là chết trẻ, người không sống đến trăm tuổi, kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho và ăn trái nho".

Theo chiều hướng của Bài Phúc Âm và Bài Đọc 1 hôm nay, Bài Đáp Ca được Giáo Hội chọn đọc cùng ngày đã chất chứa tâm tình thần linh của thánh vịnh gia cũng là của những tâm hồn thực sự nhận thức được Thiên Chúa là Đấng yêu thương và cứu độ của con người nói chung và của bản thân mình nói riêng:

1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. 

2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. 

3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. 

 

 

Thứ Ba

 

 Lời Chúa

Bài Ðọc I: Ed 47, 1-9. 12

"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì tất cả đều được cứu rỗi".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Khi đó có người đàn ông đi ra về hướng đông, tay cầm sợi dây, ông đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước tới mắt cá chân. Ông đo một ngàn thước tay nữa và dẫn tôi đi qua dưới nước đến đầu gối. Ông còn đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước đến ngang lưng. Ông lại đo thêm một ngàn thước tay nữa, và đây là suối nước, tôi không thể đi qua được, vì nước suối dâng lên cao quá, phải lội mới đi qua được, nên người ta không thể đi qua được. Người ấy nói với tôi: "Hỡi người, hẳn ngươi đã xem thấy". Rồi ông dẫn tôi đi, rồi dẫn trở lại trên bờ suối. Khi trở lại, tôi thấy hai bên suối có nhiều cây cối. Người ấy lại nói với tôi: "Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến.

Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9

Ðáp: Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, và ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ (c. 8).

Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.

2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.

3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 50, 12a và 14a

Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.

 

Phúc Âm: Ga 5, 1-3a. 5-16

"Tức khắc người ấy được lành bệnh".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?" Người đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi". Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về". Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng". Anh ta trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi: "Ai là người đã bảo anh "Vác chõng mà đi?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.

Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.

Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat.

Ðó là lời Chúa.

  

 

Suy niệm

 

 

Phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho "một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm" ấy 

đã kèm theo cả một hiện tượng phải gọi là quái lạ hay quái gở chưa từng thấy.

 

 

 

Mùa Chay tiếp tục với ngày Thứ Ba trong Tuần IV Mùa Chay hôm nay, phụng vụ lời Chúa, bao gồm cả Bài Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1, đều liên quan đến hình ảnh về nước

Trước hết, nước trong Bài Phúc Âm hôm nay là một thứ nước có khả năng chữa lành, như Thánh ký Gioan thuật lại ở đầu bài Phúc Âm như sau: "Tại Giêrusalem, gần cửa 'Chiên', có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt".

Lý do tại sao cái hồ này lại "có rất nhiều người đau yếu, mù lòa, què quặt, bất toại nằm la liệt" như vậy, là vì mỗi khi nước hồ động lên đều có thể chữa lành cho bệnh nhân hay tật nguyền nhân nào xuống hồ đầu tiên. 

Đó là lý do, "có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm" đã trần tình cùng "Chúa Giêsu", Đấng bấy giờ đã "thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: 'Anh muốn được lành bệnh không?'", và đã than thở với Người về hoàn cảnh nuôi hy vọng trong thất vọng và tuyệt vọng của anh ta như sau: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi".

Ở đây, trong câu trả lời của nạn nhân "đau liệt 38 năm này", một nạn nhân cô độc chẳng ai giúp đỡ ấy, như thể đã hoàn toàn bị bỏ rơi, và đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn trông mong được khỏi tật bệnh kéo dài có thể nói gần nửa đời người như thế nữa, nên khi được Chúa Giêsu hỏi "Anh muốn được lành bệnh không?", anh ta đã trả lời một cách có vẻ rất hững hờ, chẳng có chút gì là hào hứng, chỉ trình bày và than phiền về thân phận hẩm hiu bất hạnh đến vô vọng của mình thôi.

Nếu anh ta còn một chút hy vọng, còn ham sống, thì phản ứng của anh ta khi vừa được Chúa Giêsu hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?", anh ta như chộp được thời cơ, chụp được cơ hội ngàn vàng, cơ hội ngàn năm một thuở mà thưa ngay với Người rằng: "Thưa có chứ... Vậy thì ông có thể giúp tôi được không...". 

Thế nhưng, anh ta đâu có ngờ rằng, chính lúc anh ta đã nản lòng không còn muốn sống nữa, muốn buông xuôi theo số phận hẩm hiu bất hạnh, anh ta lại được cứu, cho dù anh ta không hội đủ điều kiện là lòng tin tưởng cần có của anh ta. Nhưng vì Chúa Giêsu, ở trong trường hợp của anh ta, không cần anh ta tin, vì anh ta đã biết Người đâu mà tin, cho bằng Người làm cho anh ta tin, bằng quyền năng của Người nơi anh ta. 

Bởi thế, Người đã tự động chữa lành cho anh ta: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về", sau khi đã hỏi phép anh ta đàng hoàng trước đó. Cho dù anh ta không tỏ ra tích cực và minh nhiên theo câu hỏi của Người, nhưng nội dung của câu anh ta trả lời Người đã cho thấy rằng anh ta thực s là muốn được chữa lành. Và tác dụng thần linh của lời Người truyền đã tuyệt đối công hiệu ngay bấy giờ, nơi đương sự nạn nhân đã tỏ ý muốn được chữa lành: "Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi".

Phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho "một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm" ấy đã kèm theo cả một hiện tượng phải gọi là quái lạ hay quái gở chưa từng thấyỞ chỗ, trong bài Phúc Âm không thấy nói gì đến việc nạn nhân đương sự được chữa lành sụp lạy Chúa Giêsu để tạ ơn Người về phép lạ bất ngờ anh ta không thể nào tưởng tượng được rằng phép lạ đã xẩy ra cho anh ta ở vào lúc anh ta tuyệt vọng nhất như thế. Có thể là vì trong thời khoảng anh ta đang lồm cồm bò ngồi dậy sau 38 năm không bao giờ có thể ngồi lên như lời Người truyền thì "Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó".

Cứ cho là như thế đi! Thế nhưng, sau khi anh ta bị những người khác nhắc bảo rằng: "'Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng'. Anh ta trả lời: 'Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: Vác chõng mà đi'. Họ hỏi: 'Ai là người đã bảo anh Vác chõng mà đi?' Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai". 

Nạn nhân đương sự được chữa lành này không biết Người cũng phải và vì thế anh ta đã trả lời đúng sự thật. Tuy nhiên vấn đề ở đây là sau đó, sau khi anh ta biết được Người là ai rồi thì anh ta cũng vẫn không ngỏ lời cám ơn Người, trái lại, quái gở thay, anh ta lại đi tố cáo phản lại Người: 

"Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: 'Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước'. Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh. Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat".

Trường hợp chín trong mười người phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành cho, khi thấy mình được khỏi trên đường đi trình diện với các vị tư tế như lời Người bảo họ, mà không trở lại tạ ơn Người như một người Samaritanô trong số họ (xem Luca 17:11-19), đằng này nạn nhân đương sự bất ngờ (không hề van xin) được Chúa Giêsu chữa lành cho khỏi tật bệnh kéo dài suốt 38 năm trường lại quay ra tố cáo Người nữa thì quả là vô cùng quái gở, không thể nào tượng tưởng được.

Đó là lý do, thấy trước được con người này, Chúa Giêsu đã cảnh giác anh ta về đặc ân nhưng không anh ta vừa được hưởng về phần xác có thể sẽ trở thành tai họa về phần hồn cho anh ta rằng: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". 

Vấn đề được đặt ra ở đây là thế thì tại sao Chúa Giêsu lại chữa lành cho một nạn nhân mà Người biết rằng ân phúc nạn nhân đương sự này được hưởng có thể trở thành tai họa cho phần hồn của họ như vậy? Có thể nói, lý do Chúa Giêsu chữa lành cho nạn nhân đương sự này là vì tự mình họ đáng thương và cần được cứu vớt trong lúc anh ta không được ai cứu giúp và trong lúc anh ta có vẻ như đã hoàn toàn tuyệt vọng. 

Ngoài ra, không phải vì anh ta là con người "xấu" mà anh ta không đáng được hưởng ơn lành như những người tốt hơn anh ta và xứng đáng hơn anh ta. Ơn Chúa là của Chúa, là những gì nhưng không từ Chúa, Người muốn ban cho ai tùy ý của Ngài, hay muốn ban thế nào và ban vào lúc nào cũng không ai cản được, và không ai có quyền ghen tị với người khác và đặt vấn đề với Người. 

Nhưng về phần người nhận ân huệ của Người có biết ơn Người và đáp ứng xứng đáng với ân huệ họ lãnh nhận hay chăng, hoàn toàn là do họ. Trường hợp nạn nhân đương sự trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đâu có ép anh ta phải được lành mạnh - anh ta có thể nói với Chúa khi Người hỏi anh ta "Anh muốn được lành bệnh không?" rằng: "No, thank you. I'm fine!" 

Bởi thế, chỉ sau khi anh ta ngỏ ý muốn được chữa lành Người mới ra tay thỏa đáng ước muốn đã trở thành tuyệt vọng của anh ta thôi, nhờ đó, Người có thể làm cho anh ta phấn khởi lên mà sống, và sống một cách xứng đáng với số phn lành mạnh của con người vốn đã được Thiên Chúa ngay từ ban đầu dựng nên tốt đẹp mọi bề về cả hồn lẫn xác

Sau nữa, "nướctrong Bài Đọc 1 hôm nay được Tiên Tri Êzêkiên diễn tả xuất phát từ "nhà Chúa" và "chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ (dường như ám chỉ máu và nước chảy ra từ cạnh suờn Chúa Kitô tử giá), về phía nam bàn thờ (ám chỉ chảy xuống phía dưới cạnh sườn bị đâm thâu qua của Chúa Kitô tử giá)". Nước càng ngày càng dâng cao, đầu tiên chỉ ở mức "mắt cá chân", sau đó "đến đầu gối", rồi "đến ngang lưng" và cuối cùng "vì nước suối dâng lên cao quá, phải lội mới đi qua được".

Chưa hết, Bài Đọc 1 hôm nay còn cho thấy tác dụng của giòng suối nước này, cả ở dưới suối nước lẫn trên bờ suối nước. Ở dưới suối nước: "Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến".

Còn ở trên bờ suối nước thì sao, chúng ta thấy được Tiên Tri Êzêkiên diễn tả ở phần cuối Bài Đọc 1 hôm nay như thế này: "Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống".

Hình ảnh nước và suối nước theo Bài Đọc 1 hôm nay diễn tả, càng lúc càng dâng cao và mang lại sức sống cùng phát triển cho sinh vật cả ở dưới nước lẫn trên bờ như thế khiến cho chúng ta liên tưởng đến những gì Chúa Giêsu nói về nước ám chỉ Thần Linh, một Vị Thần Linh ban sự sống, được tuôn đổ xuống trên Giáo Hội bởi Chúa Kitô phục sinh (xem Gioan 7:37-39; 20:22) trong mầu nhiệm Vượt Qua và nhờ biến cố Vượt Qua.

Tâm tình của những ai được chữa lành bởi nước, như người đau liệt 38 năm trong Bài Phúc Âm hôm nay, và những ai được no thỏa suối nước xuất phát tự nhà Chúa trong Bài Đọc 1 hôm nay, đều có một cảm nghiệm thần linh như vị thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay: 

1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. 

2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp.

3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. 

 

From: Hoabg <hoangtho1946@yahoo.com.vn>
Date: 2017-03-31 4:05 GMT-07:00
Subject: VỀ: PVLC Thứ Ba Tuần IV Mùa Chay 28-3-2017
To: Tinh Cao <daminhmariacaotantinh@gmail.com>, TDFatima <tdfatima+noreply@googlegroups.com>, TNFatima <tnfatima@googlegroups.com>

Tôi đọc bài nầy thấy quá hay tuy nhiên xin có một nhận xét để "bênh vực" cho anh bại liệt:vì anh ta rất trung thưc .anh ta muốn tôn vinh và củng muốn mọi người tôn vinh nên ngay khi biết được người đả chửa lành anh ta đả báo cho  nhửng kẻ đả tra  khảo.... chứ không phải đẻ tố cáo. Xin chân thành góp ý.

 

From: Tinh Cao <daminhmariacaotantinh@gmail.com>
Date: 2017-03-31 10:12 GMT-07:00
Subject: Re: VỀ: PVLC Thứ Ba Tuần IV Mùa Chay 28-3-2017
To: Hoabg <hoangtho1946@yahoo.com.vn>
Cc: TDFatima <tdfatima+noreply@googlegroups.com>, TNFatima <tnfatima@googlegroups.com>

Rất cám ơn người anh em đã, trước hết tiếp nhận bài chia sẻ Phụng Vụ Lời Chúa hằng ngày của tôi mà còn đọc kỹ và góp ý nữa. Tôi cảm thấy rất vui khi có người anh chị em của mình đồng cảm với mình như thế.  

Nói chung, những gì chúng ta chia sẻ với nhau về Phụng Vụ Lời Chúa (Chúa Nhật hay hằng ngày hoặc suốt tuần như tôi đang làm) là do suy niệm, cảm nghiệm và suy diễn của từng tâm hồn với Lời Chúa được ghi lại trong chung Thánh Kinh và riêng Phúc Âm, không buộc ai cũng phải có cùng một cảm nhận như nhau, vì tác động của Chúa Thánh Thần nơi mỗi tâm hồn như "gió muốn thổi đâu thì thổi" (Gioan 3:8). 

Về trường hợp của nạn nhân bất toại 38 năm trong bài Phúc Âm được người anh cho rằng hành động cho những ai vốn ác cảm với Chúa Giêsu biết là vị đã chữa lành cho anh ta trong ngày hưu lễ là cố ý để họ cùng anh tôn vinh Người, hơn là tố cáo Người, tôi xin được lợi dụng dịp này để dẫn giải thêm một số chi tiết nữa cho sáng tỏ thêm vào bài chia sẻ khá dài của tôi nhé: 

Trước hết, vấn đề được đặt ra ở đây là nếu nạn nhân bại liệt 38 năm này có ý tốt, muốn nói ra phép lạ chỉ để tôn vinh Vị đã chữa lành cho mình thì tại sao ngay trước đó Chúa Giêsu lại tự động đến gặp lại anh ta để cảnh giác anh ta, như để ngăn ngừa anh ta về hành động anh ta sắp làm, một hành động rất nguy hiểm cho phần hồn của anh ta: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước"? Thường thì Chúa căn dặn một số nạn nhân được chữa lành "đừng nói với ai" (Mathêu 8:4; Marco 1:44) để rồi chính những nạn nhân này đã đích thân loan truyền phép lạ của Người. Ở đây, trường hợp của nạn nhân bại liệt 38 năm hoàn toàn khác hẳn. Nếu anh ta muốn tôn vinh Chúa Kitô thì tại sao anh ta không tôn vinh trước mặt chung công chúng mà chỉ cho những kẻ hạch hỏi anh ta thôi?  

Sau nữa, nạn nhân bất toại 38 năm được chữa lành này hoàn toàn khác với người mù từ lúc mới sinh trong bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Chay vừa rồi, một người mù khi Chúa Giêsu trở lại với anh ta một lần nữa, thì anh ta, sau khi biết được vị đã chữa lành và được chính Người tỏ mình ra thì tuyên xưng đức tin và phục xuống thờ lạy Người, trong khi đó, nạn nhân bại liệt 38 năm này khi đươc gặp lại chính Đấng chữa lành cho mình thì chẳng những không bày tỏ một lời cám ơn nào và chúc tụng Người thì chớ lại còn báo cho thành phần hạch hỏi anh ta nữa, một hành động anh ta chẳng cần phải làm, mà dù có làm thì anh ta đáng lẽ phải bênh vực Người như nạn nhân bị mù từ lúc mới sinh mới đáng gọi là tôn vinh Đấng đã chữa lành cho mình một tật nguyền đã tuyệt vọng. 

Sau hết, nạn nhân bại liệt 38 năm này khi bị hạch hỏi thì không biết vị chữa mình là ai, thế nhưng sau khi được gặp lại vị ấy, lần bị vị này cảnh báo việc làm tội lỗi sắp xẩy ra của anh ta, thì anh ta dường như cảm thấy bị chạm tự ái, thành ra hình như trở nên ác cảm hơn với vị đại ân nhân của mình, đến độ, anh ta đã nói thẳng tên "Giêsu" của vị ân nhân của mình ra cho những ai hạch hỏi anh ta, một tên gọi mà tự nhiên anh ta biết được, dù vị chữa lành anh ta không hề nói cho anh ta biết tên của Người, như Người tỏ mình ta cho người mù từ lúc mới sinh. Như thế thì có thể suy thêm rằng nạn nhân bại liệt 38 năm này dường như đã biết vị chữa lành cho mình là "Giêsu" ngay từ đầu, vì anh ta đâu có mù như người mù từ lúc mới sinh, nhưng khi bị hạch hỏi lần đầu thì anh ta giấu tên vị ấy đi như để bênh vực và trả ơn cho vị ân nhân của mình, sau đó anh ta lại tự động nói tên vị này ra, một tên anh ta đã biết rồi, do vị ấy đã trở lại cảnh giác anh ta một cách tiêu cực.  

Đó là một chút suy diễm thêm về trường hợp người bại liệt 38 năm được chữa lành về phần xác nhưng nếu không khéo lại bị nguy hiểm về phần hồn. Chúng ta cũng thế, nếu không biết lợi dụng ơn Chúa ban nhưng không, chúng ta cũng sẽ đi đến chỗ nguy hiểm đến phần rỗi đời đời của chúng ta. Vậy chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta xứng đáng nhận ơn của Ngài và sử dụng ơn Ngài cho xứng đáng, cho nên.  

Chúc người anh một Mùa Phục Sinh tràn đầy bình an nhé. 

Xin cầu cho tôi với. 

cao tấn tĩnh

 

 

Thứ Tư

Lời Chúa

Bài Ðọc I: Is 49, 8-15

"Ta đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: "Trong thời thuận tiện, Ta đã nghe lời ngươi; trong ngày cứu độ, Ta đã cứu giúp ngươi; Ta đã gìn giữ ngươi và đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị phân tán, để ngươi nói với tù nhân rằng: "Các ngươi hãy ra", và nói với những kẻ ở trong tối tăm rằng: "Các ngươi hãy ra ngoài sáng". Họ được nuôi dưỡng trên các nẻo đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ sẽ không còn đói khát nữa, gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì Ðấng thương xót họ sẽ là người hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối nước. Ta sẽ biến đổi tất cả các núi của Ta thành đường đi, và các lối đi của Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ từ hướng bắc và hướng tây lại, và những người từ miền nam lên.

Trời hãy ca ngợi, đất hãy nhảy mừng, núi đồi hãy hân hoan chúc tụng! Vì Chúa đã an ủi dân Người và sẽ xót thương những người cùng khổ.

Nhưng Sion nói: "Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi". Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 13cd-14. 17-18

Ðáp: Chúa là Ðấng nhân ái và từ bi (c. 8a).

Xướng: 1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.

2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. - Ðáp.

3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2

Ðây là lúc thuận tiện. Ðây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Ga 5, 17-30

"Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tuỳ ý Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy". Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng:

"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy niệm

 

 

Sở dĩ Người "hay chữa bệnh ngày sa-bát" là vì "Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc".

 

Hôm nay, Thứ Tư trong Tuần IV Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa nói chung và Phúc Âm nói riêng liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa, một mạc khải thần linh đã đạt đến tột đỉnh ở nơi bản thân của Chúa Giêsu Kitô, và được chính Chúa Kitô bắt đầu chứng thực cho dân do Thái biết bằng các cuộc đối đáp giữa Người và họ. 


Nếu để ý về tiến trình phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Chay thì gần 2 tuần đầu, tức từ Thứ Tư Lễ Tro tới hết Thứ Bảy Tuần I Mùa Vọng, các bài Phúc Âm liên quan tới các việc (chay tịnh, cầu nguyện, nhất là bác ái) Kitô hữu cần phải làm trong Mùa Chay; sau đó trong hai Tuần II và III Mùa Chay, các bài Phúc Âm nhấn mạnh đến sứ vụ và thân phận của Chúa Kitô liên quan đến Mầu Nhiệm Vượt Qua; sau cùng là Tuần IV và V, trực tiếp liên quan tới cuộc đụng độ giữa Chúa Kitô tỏ mình ra nhưng gặp chống đối nhất là của thành phần lãnh đạo trong dân, cho tới khi họ âm mưu giết Người, ngay trước khi vào Tuần Thánh.  

Như đã nhận định từ hôm Thứ Hai tuần này, chiều hướng của các bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc cho ngày trong tuần liên tục suốt 2 tuần cuối cùng IV và V của Mùa Chay, nhất là từ hôm nay trở đi, sau hai bài về 2 phép lạ Người làm như được thuật lại ở bài Phúc Âm Thứ Hai hôm kia và Thứ Ba hôm qua. 

Phép lạ Người chữa lành cho một nạn nhân yếu liệt 38 năm vào ngày hưu lễ ở Bài Phúc Âm hôm qua đã trở thành như đầu mối cho cuộc đụng độ bắt đầu công khai hóa giữa Chúa Giêsu và dân Do Thái nói chung, nhất là thành phần biệt phái và lãnh đạo của họ.

Đó là lý do ngay sau phép lạ chữa lành cho nạn nhân yếu liệt 38 năm vào trúng ngày hưu lễ ở bài Phúc Âm hôm qua, Thánh ký Gioan đã ghi chú thêm hậu quả tai hại gây ra bởi biến cố then chốt này như sau: "Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giê-su, vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát". 


Chúa Giêsu đã lợi dụng chính vấn đề ngày hưu lễ cần phải nghỉ ngơi theo luật lệ và thông lệ của dân Do Thái để mạc khải cho họ thấy tất cả ý nghĩa sâu xa về việc làm đối với Đấng hiện hữu luôn sống động và năng động không bao giờ nghỉ ngơi, như chính Chúa Kitô khẳng định ở ngày đầu bài Phúc Âm hôm nay: "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". 


Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho việc "người Do-thái chống đối (Người) vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát". Nghĩa là sở dĩ Người "hay chữa bệnh ngày sa-bát" là vì "Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Đúng thế, nếu căn cứ vào luật phải nghỉ ngày hưu lễ, tức là ngày thứ bảy, là vì ngày thứ bảy là ngày chính Thiên Chúa đã nghỉ, hoàn toàn không còn tiếp tục việc tạo dựng của Ngài như 6 ngày trước đó nữa, thì Chúa Giêsu đã làm điều sai trái, ở chỗ Người chẳng những phạm luật Moisen (cũng là luật Thiên Chúa ban cho dân do Thái qua ông) mà Người còn không đúng với ý nghĩa của ngày thứ bảy ban đầu nữa (xem Khởi Nguyên 2:2-3).


Tuy nhiên, nếu hiểu đúng nghĩa của ngày thứ bảy, thời điểm Thiên Chúa nghỉ việc tạo dựng, nhưng lại là thời điểm được thánh hóa: "
Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày này..." (Khởi Nguyên 2:3). Nghĩa là ngày thứ bảy là ngày thánh trong tuần, ngày để làm những việc thiêng liêng với Chúa và lành thánh với tha nhân, xa lánh những mối bận tâm trần thế, chỉ chú tâm đến phần hồn hơn là phần xác (như làm việc xác v.v.). Đó là lý do Kitô giáo đã giữ ngày Chúa Nhật, thay ngày thứ bảy, vì là ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Kitô phục sinh. Chúa Kitô đến không phải để hủy lề luật mà làm cho nó nên trọn là như thế và ở chỗ đó.


Con người ta là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa dựng nên sau cùng nhưng lại là loài tạo vật được Ngài chăm chú tạo dựng một cách rất đặc biệt theo chủ ý riêng của Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-28). Bởi thế, sau khi tạo dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài và tương tự như Ngài, Ngài đã tiếp tục ở với con người, tiếp tục tỏ mình ra cho họ, nghĩa là thánh hóa họ, một việc thánh hóa chỉ xẩy ra trong ngày thứ bảy là thời điểm Ngài nghỉ việc tạo dựng bề ngoài để chuyên vào việc thánh hóa bề trong, ở chỗ làm cho con người tin vào Ngài, như Chúa Giêsu đã khẳng định về công việc của Cha Người: "
Công việc của Thiên Chúa đó là hãy tin vào Đấng Ngài sai" (Gioan 6:29).


Vậy Chúa Giêsu chữa lành trong ngày thứ bảy là một việc rất chính đáng, chẳng những nên làm mà còn cần phải làm nữa, vì việc chữa lành của Người hợp với mục đích của ngày thứ bảy là ngày làm việc lành thánh, ngày thánh hóa con người, để nhờ được chữa lành nạn nhân đương sự và những ai quen biết đương sự tin vào Người mà được cứu độ, đúng như bản chất việc làm của Thiên Chúa trong ngày thứ bảy là ngày thánh, ngày Ngài thánh hóa con người nơi việc tỏ mình ra của Con Ngài, Đấng Ngài muốn con người tin tưởng mà được cứu độ và thánh hóa.


Chúa Giêsu quả thực đã chí lý khi cho dân Do Thái bấy giờ biết lý do tạo sao Người hay chữa lành vào ngày thứ bảy, đó là vì "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Trong bài Phúc Âm hôm nay, ở đoạn ngay sau đó, Người còn cho họ biết "Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy". Chẳng hạn, như Người trưng dẫn một việc quan trọng và chính yếu nhất của ngày thứ bảy là ngày thánh hóa đó là: "Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tùy ý Người",
nên "Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời".


  Cho dù việc Người làm phép lạ trong ngày hưu lễ chính đáng và chí lý mấy đi nữa, đúng như mục đích và ý nghĩa của ngày thứ bảy theo ý định thần linh của Thiên Chúa, vẫn là một hành động, theo dân Do Thái nói chung và thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật trong dân nói riêng, phạm luật và sai trái, nên Người đã bị "người Do-thái chống đối", vậy mà Người lại còn như đổ thêm dầu vào lửa qua cách xưng hô của Người với Đấng đã sai Người, mà tình hình căng thăng và đụng độ càng trở nên kịch liệt hơn nữa, đến độ họ tìm cách sát hại Người, như Thánh ký Gioan ghi nhận ở ngay câu Người nói: "Bởi vậy, người Do-thái lại càng tìm cách giết Đức Giê-su, vì không những Người phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa".

Thế nhưng là "ánh sáng thật soi chiếu mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), như "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tối tăm không át được ánh sáng" (Gioan 1:5), Chúa Giêsu đã lợi dụng cái tối tăm và lầm lạc của dân Người nơi chính tình trạng rất đạo đức tốt lành của dân mình, ở chỗ họ hết sức bảo vệ luật lệ (liên quan đến phép lạ Người làm vào ngày hưu lễ) và coi trọng phẩm vị cao cả của Thiên Chúa (liên quan đến lời Người xưng hô với Thiên Chúa), nhưng không hoàn toàn phản ảnh tất cả sự thật của mạc khải thần linh mà Người là tột đỉnh và là tất cả. 

Bởi thế, qua bài Phúc Âm hôm nay, Người đã chứng thực về Người liên quan đến mối liên hệ mật thiết với Cha của Người là Đấng đã sai Người, bằng cách Người đã nói cho họ biết rõ: Người và Cha cùng làm một việc như nhau (1); Người là hiện thân đại diện của Cha và cho Cha nơi loài người (2), và Người là thừa tác viên ban sự sống của Cha cho loài người (3).

1- Người và Cha cùng làm một việc như nhau: "Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tùy ý Ngài". 

2- Người là hiện thân đại diện của Cha và cho Cha nơi loài người: "Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống". 

3- Người là thừa tác viên ban sự sống của Cha cho loài người: "Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".

Qua lời tự chứng của Chúa Kitô về bản thân Người trong bài Phúc Âm hôm nay, như vừa được thứ tự tóm gọn làm 3 đoạn trên đây, chúng ta thấy Người muốn chứng thực với dân Do Thái rằng: 

1- Người quả thực là Đấng Thiên Sai của họ, từ Cha mà đến: "Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy"; 

2- Nên Người chỉ làm những gì Cha là Đấng đã sai Người muốn Người làm: "Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta";  

3- Mà việc Người cần phải làm trên hết theo đúng như ý muốn của Cha đó là ban sự sống của Người cũng là của Cha cho loài người: "cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tùy ý Ngài... Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy";

4- Vì con người tạo vật, bởi nguyên tội, đã bị băng hoại và sống trong chết chóc, cần được hồi sinh và tái sinh: "đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống...  vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử". 

5- Và đường lối để được sự sống đó là nhận biết Đấng Thiên Sai và chấp nhận những gì Người mạc khải cho biết: "Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống".

Đúng thế, mục đích chính yếu và duy nhất Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh thần linh của Ngài và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-27) đó là cho họ được hiệp thông thần linh với Ngài, để họ được tham phần vào sự sống thần linh của Người và với Người. 

Cho dù loài người, bởi nguyên tội, đã đánh mất sự sống thần linh vô cùng cao quí này từ mối hiệp thông thần linh ngay từ ban đầu ấy, Thiên Chúa vẫn tìm cách ban lại cho họ, ở một mức độ còn dồi dào sung mãn hơn nữa, nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14). 

Ở Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu không bao giờ bỏ rơi nhân loại được Ngài cố ý dựng nên để làm con cái của Ngài, để yêu thương họ và cho họ thông phần vào sự sống của Ngài: "Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".

Chính vì Thiên Chúa luôn chăm sóc cho tạo vật vô cùng thấp hèn lại tội lỗi vô cùng khốn nạn của Ngài như thế mà Ngài "đã yêu thế gian đến ban Con Một của Ngài để ai tin vào Con thì không phải chết nhưng được sự sống" (Gioan 3:16), đúng như những gì chính Chúa Kitô đã nói về Người trong Bài Phúc Âm hôm nay, một Người Con đã được báo trước trong Bài Đọc 1 cùng ngày về sứ vụ giải phóng của Người để mang lại sự sống mới cho những ai được trao phó cho Người

"Nên giao ước của dân, để người phục hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị phân tán, để người nói với tù nhân rằng: 'Các ngươi hãy ra', và nói với những kẻ ở trong tối tăm rằng: 'Các ngươi hãy ra ngoài sáng'. Họ được nuôi dưỡng trên các nẻo đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ sẽ không còn đói khát nữa, gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì Ðấng thương xót họ sẽ là người hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối nước. Ta sẽ biến đổi tất cả các núi của Ta thành đường đi, và các lối đi của Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ từ hướng bắc và hướng tây lại, và những người từ miền nam lên".

Trước một Vị Thiên Chúa yêu thương nhân hậu đối với nhân loại lầm than khốn khổ cần được cứu độ như thế, con người không thể nào không cùng với Tác giả Thánh vịnh trong Bài Đáp Ca hôm nay dâng lên Ngài những cảm nhận thần linh chí thiết sau đây:

1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. 

2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. 

3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. 

Ngày 23/03: Thánh Turibiô Môngrôvêjô (1538-1606)

Ngày 23/03: Thánh Turibiô Môngrôvêjô (1538-1606)

 

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Turibio Alfonso de Mongrovejo, được sinh ra tại vùng Léon xứ Tây Ban Nha vào khoảng năm 1538; học luật tại Salamanca trước khi trở thành tỉnh trưởng Grenada. Dù được phong thánh từ năm 1726, nhưng việc nhớ đến ngài cũng mới đây thôi.

Thánh Turibio là vị Tông Đồ vĩ đại của Pêru và những vùng Châu Mỹ La Tinh. Đất nước này bị Pizarro chinh phục theo lệnh nhà vua Tây Ban Nha, được vua Philippe II thiết đặt một Tổng Giáo Phận mới tại Lima và Turibio được gọi làm tổng giám mục vào năm 1580, khi ngài còn là giáo dân. Lima được nâng lên thành tòa giám mục vào năm 1541 và thẩm quyền của ngài vươn dài trên tất cả các nước nằm giữa Panama và Rio de La Plata. Địa phận mà ngài lãnh nhận từ năm 1581, trải dài 520 km dọc Thái Bình Dương: đi từ Nicaragua của Paraguay đến Argentina. Từ lúc khởi đầu sứ vụ, thánh Turibio cố gắng triệu tập nhiều Công Đồng và Công Nghị để tạo dựng hàng giáo sĩ và nâng cao nền luân lý của dân chúng, đặc biệt của người Indiens. Ngài những nơi cư trú của dân nghèo địa phương để củng cố họ. Ngài qua đời ngày 23.03.1606 trong một cộng đoàn người Indiens, vào cuối cuộc hành trình mục vụ. Đó là ngày thứ Năm Tuần Thánh. Ngài ao ước trong những giây phút cuối đời, người ta hát cho ngài nghe Thánh Vịnh 115 và 30, có đệm đàn, trong khi người ta giơ Thánh Giá cho ngài. Di hài của ngài được chuyển về Lima vào năm 1607.

2. Thông điệp và tính thời sự

Phụng Vụ gợi lên “những hoạt động Tông Đồ” của thánh Turibio và “tình yêu của ngài đối với chân lý”, đã làm cho Hội Thánh phát triển. Với một lòng can đảm, vị Tân Tổng Giám Mục Lima đảm nhiệm công tác Phúc Âm hóa và canh tân, đối mặt với các gương xấu làm cho sứ vụ của ngài hóa ra khó khăn, cũng như đối mặt với sự kháng cự của chính quyền thực dân và của một số Dòng tu chống lại sự nhiệt tình của ngài. Đối lại với những người kết án ngài cứ theo phong tục, ngài luôn nhắc lại lời của Tertullien: “Đức Giêsu không nói “Tôi là phong tục”, nhưng Người nói “Tôi là chân lý”.

Thánh Turibio rất được người Indiens yêu mến vì ngài nói chuyện với họ bằng ngôn ngữ của họ. Ngài đã thăm viếng mục vụ 3 lần trong địa phận mênh mông. Ngài thành công tái lập lại kỷ luật khi triệu tập 13 công nghị địa phận và công bố các sắc lệnh của Công Đồng miền; trong đó có Công Đồng Lima vào năm 1582-1583, có thể so sánh với Công Đồng Tridentinô đối với Châu Mỹ La Tinh. Ngài cho thấy mức độ tình yêu của mình trong lúc dịch tả hoành hành đến độ dám hy sinh mạng sống mình vì ơn cứu độ cho đoàn chiên.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIV đã so sánh thánh Turibio với thánh Charles Borromêô. Thật vậy, sự quảng đại của ngài đã làm cho dân Chúa được lớn dậy trong “một đức tin và một sự thánh thiện luôn tiến triển”, đã làm cho ngài trở thành một mẫu người truyền giáo. Bản văn được trích dẫn trong Phụng Vụ Giờ Kinh, rút từ các Sắc Lệnh của Công Đồng Vaticanô II (Trách nhiệm mục vụ của các giám mục), khuyến khích các giám mục trình bày giáo lý Kitô giáo có sự hoà hợp và luôn phải bảo vệ. Cũng thế, như tài liệu dạy, “trong việc chuyển đạt, các ngài phải xác tín sự lo lắng của Mẹ Hội Thánh đối với mọi người ...Các ngài phải đặc biệt lo cho người nghèo và người bần khổ”. Các điều này đã được thánh Turibio thực hiện cách tuyệt vời, qua việc mình sống cho mọi người, để canh tân Hội Thánh của Pêru. Trong lo lắng để mang đến cho mọi người ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, thánh Turibio đã trở thành hình ảnh của Người Mục Tử nhân lành, hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Ngài nói: “Thiên Chúa sẽ bảo tôi tường trình mọi hoạt động của tôi, nhất là trong việc thực hành sứ vụ. Ích gì khi tôi cứu được nhiều người, mà lại bỏ sót một người vì lỗi của tôi.”

Enzo Lodi (Nguồn:tgpHaNoi)

https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/23-03-thanh-turibio-mongrovegio-giam-muc-le-nho-tuy-chon/

3- Tiểu sử:

Có những trẻ em như đã biết Chúa làm gì, trong khi những người khác lo tìm kiếm. Những trẻ này biết an ủi và giúp đỡ người khác. Chẳng hạn dân Mayorga nước Tây Ban Nha, ngày kia, được thấy một em bé đến bên một phụ nữ đang giận dữ. Bà này mất một vật mà không mong tìm lại. Đứa trẻ nhã nhặn giải thích cho bà rằng: đừng nên làm như vậy bởi vì điều đó làm phiền lòng Thiên Chúa. Đứa trẻ tốt lành và tế nhị này tên là Turibiô, con thứ của lãnh chúa Mongrôvejô.

Ở trường Valladolid rồi ở Salamanca, Ngài thường nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo, Ngài còn muốn thống hối thay cho các tội nhân đến nỗi Ngài bị buộc phải bỏ những hy sinh. Người ta có thể tiên đoán là người sẽ thành một tông đồ bởi Ngài đã biết sống đúng đắn.

Khi đã lớn đủ, cùng với sự khôn ngoan, thông hiểu khá vững chãi, Ngài được vua Philippê II đặt làm chánh án tòa án Granada. Khi địa phận Lima trống ngôi năm 1578, thật ngạc nhiên khi người được chỉ định là một giám mục lại là Turibinô một giáo dân. Nghe tin này, Turibinô khóc ròng, Ngài quì dưới chân thánh giá viết thư cho nhà vua, trong đó Ngài tự diễn tả như một kẻ thù tồi tệ của vua vì những bất xứng của mình. Nhưng các lý lẽ ấy đã không lay chuyển được ai. Ngài thụ phong linh mục rồi giám mục và nhậm địa phận năm 1581.

Địa phận dành cho Turibiô có những khó khăn đến nỗi có thể ngăn chặn Ngài lại nếu Ngài không phải là một vị thánh. Địa phận có chu vi là sáu trăm dặm, gồm nhiều thành phố và làng mạc rải rác trên hai dãy núi Andes.

Người Tây Ban Nha khai phá tân thế giới, ức hiếp dân chúng cách man rợ. Muốn cải hóa bằng roi, họ bắt dân làm nô lệ và muốn khai hóa dân thì họ lại chỉ thông cho dân những tật xấu của mình. Nhìn dân da đỏ say sưa liên lỉ, Turibiô không thể cầm được nước mắt Ngài quở trách những người chinh phục vì những lạm dụng cướp bóc của họ và tuyên cáo rằng: những cớ vấp phạm ấy phải dừng lại cho chân lý và tình thương ngự trị.

Vị mục tử đi tìm kiếm mọi con chiên của mình. Sa mạc nóng cháy, núi cao tuyết phủ, thú rừng hung tợn, tất cả đều không làm Ngài nản chí, những người Tây ban Nha quyền thế trở thành phó vương, rồi đến vua Philippe II, do những báo cáo sai lầm đã trách cứ Ngài. Nhưng tất cả những lề luật nghiêm khắc đó đã không làm cho Ngài tháo lui. Ngài biện hộ rằng: Chính Chúa Kitô chứ không phải thế gian sẽ phán xét Ngài.

Turibiô học ngôn ngữ dân Peru, Ngài dạy dỗ dân da đỏ như một người cha nhân từ. Lòng bác ái nhân từ của Ngài đối với họ không có giới hạn. Khi Ngài tới một làng hẻo lánh, dân chúng đổ xô đến với Ngài. Trước hết Ngài thăm hỏi những người đau yếu và không chữa chạy cho họ được, Ngài dạy cho họ biết chết lành. Khi phân phát tình yêu Chúa Kitô, Ngài cũng tái lập sự công bình. Dần dần các thành phố và cả những nơi cô quạnh có người Kitô hữu cư ngụ đông đảo. Thánh Turibiô thiết lập các chủng viện, các viện cứu tế.

Trong hai mươi lăm năm, Ngài đi thăm viếng giáo phận rộng lớn và hoang dã của mình ba lần, mỗi lần phải mất tới bảy năm. Ngài kiên trì ngồi tòa mỗi sáng. Người ta nói rằng: khi cầu nguyện, Ngài tỏa chiếu từ khuôn mặt một tia sáng siêu nhiên. Mệt nhọc đã là một việc sám hối rồi, Ngài còn hy sinh và ăn chay thêm nữa. Khi có ôn dịch trong giáo phận, Ngài tăng gấp đôi lời cầu nguyện hãm mình, Ngài cũng tổ chức nhiều cuộc rước, khi tham dự chính Ngài rơi lệ uớt cả thánh giá cầm trong tay.

Trong khi bất dầu cuộc kinh lý mớí, Ngài đã ngã bệnh tại Santa, Ngài chỉ biết lập lại lời thánh Phaolô: “Tôi ao ước thoát khỏi những ràng buộc của thể xác để kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô”.

Gần chết Ngài xin những người chung quanh hát lời thánh vịnh: - Tôi vui mừng khi nghe nói cùng tôi: chúng ta đi về nhà Thiên Chúa.

Thế là cái chết của Ngài được coi như một thánh lễ. Lời cuối cùng của Ngài là lời chính chúa Kitô: - Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay Chúa. Ngài tự đi tới thánh đường Santa để lãnh các bí tích cuối cùng và kết hiệp với Thánh Thể, Ngài qua đời năm 1606.

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-23-03-thanh-turibio-mogrovejo-giam-muc-1536-1606-53750

 

4- Thánh Turibiô: 400 năm qua đời

SỨ ĐIỆP ĐỨC THÁNH CHA GỬI CÁC GIÁM MỤC PERU

LIMA. Trong sứ điệp gửi các GM toàn nước Peru, ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các giáo phận tại đây hăng say truyền giảng Tin Mừng, theo gương thánh Toribio.

Sứ điệp của ĐTC được gửi tới các GM Peru, công bố ngày 24-4-2006 tại Vatican, nhân dịp mừng kỷ niệm 400 năm qua đời của thánh Toribio de Mogrovejo, TGM giáo phận Lima, bổn mạng hàng GM Mỹ châu la tinh. Các buổi lễ kỷ niệm đã được gửi sự hôm 22-1 năm nay với thánh lễ đồng tế trọng thể của tất cả các GM Peru tại Nhà thờ chính tòa Lima.

ĐTC cũng đã cử ĐHY Nicholas de Jesus Lopez Rodriguez, TGM giáo phận Santo Domingo, làm Đặc Sứ của ngài, chủ sự các lễ nghi kỷ niệm kết thúc, tiến hành từ ngày hôm qua, 24-4, đến 29-4-2006 tại Lima. Đặc biệt có một hội nghị quốc tế tiến hành từ ngày 24 đến 28-4 này về đề tài: ”Thánh Toribio de Mogrovejo: mục tử, thánh nhân và ngôn sứ”.

Thánh Toribio sinh năm 1538 tại tỉnh Leon bên Tây Ban Nha, và tuy là một giáo dân, ngài được vua Filipo II bổ nhiệm làm chánh án pháp tòa điều tra (Inquisition) tại thành phố Granada. 8 năm sau đó, ngài được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Lima, Peru. Ngài thụ phong trước khi lên đường sang nhận giáo phận.

Trong sứ điệp gửi các GM Peru, ĐTC đề cao tấm gương của thánh Toribio xả thân và tận tụy xây dựng và củng cố các cộng đoàn Giáo Hội. Thánh nhân đã triệu tập Công nghị thứ 3 của giáo tỉnh Lima (1582-1583), soạn thảo sách giáo lý, và thành lập Đại chủng viện Lima vẫn còn hoạt động cho đến nay. ĐTC cầu mong chủng viện này tiếp tục mang lại những hoa trái phong phú, trong một thời đại đang cần cấp thiết thăng tiếng ở gọi LM và tu sĩ, để đáp ứng trách vụ kiến tạo các cộng đoàn Kitô..

ĐTC nhắc lại rằng: ”Tinh thần truyền giáo sâu xa của thánh Toribio đã thúc đẩy Người cố gắng học nhiều ngôn ngữ khác nhau để đích thân rao giảng cho mọi người được ủy thác cho sự săn sóc mục vụ của Thánh Nhân. Đồng thời Thánh Toribio cũng chứng tỏ lòng tôn trọng phẩm giá của mọi người, dù họ thuộc giai tầng nào trong xã hội; Người luôn nỗ lực hoạt động để họ cảm thấy mình thực sự là con cái Thiên Chúa” (SD 24-4-2006)

G. Trần Đức Anh OP
 

 

5- “Thánh Turibiô: tấm gương của người mục tử châu Mỹ Latinh”

Bước sang ngày cuối cùng, 21-01, trong chuyến tông du Chilê và Pêru, vào buổi sáng, lúc 10g30, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ các giám mục Pêru tại Tòa Tổng giám mục Lima.Tại cuộc gặp, Đức Thánh Cha chia sẻ với các giám mục Pêru những suy tư về Thánh Turibiô Mogrovejo, Tổng giám mục giáo phận Pêru và là bổn mạng của hàng giám mục châu Mỹ Latinh, tấm gương về một mục tử hết lòng vì đoàn chiên, chuyên chăm “xây dựng sự hiệp nhất của Hội thánh” và không ngừng suy tư, sáng tạo những phương cách truyền giáo mang lại hiệu quả cao nhất. Sau đây là toàn văn huấn từ của Đức Thánh Cha.

Đề tài chuyến tông du này là hiệp nhất và hy vọng. Đề tài này là cả một chương trình tuy đầy thách đố nhưng lại thôi thúc chúng ta, khiến chúng ta nhớ đến những thành tựu đầy quả cảm của Thánh Turibiô Mogrovejo, Tổng giám mục của giáo phận này và là bổn mạng của hàng giám mục châu Mỹ Latinh, tấm gương “xây dựng sự hiệp nhất của Hội thánh”, như Thánh Gioan Phaolô II, vị tiền nhiệm của tôi, đã nói về ngài trong chuyến tông du đầu tiên của ngài đến đất nước này.[1]

Đặc biệt, vị thánh giám mục này vẫn được mô tả là một “Môsê mới”. Như anh em biết, tại Vatican có bức họa Thánh Turibiô băng qua một con sông lớn, nước rẽ ra trước mặt ngài như trong biến cố Biển Đỏ, nhờ đó ngài sang được bờ bên kia, nơi có đông đảo sắc dân bản địa đang đợi ngài. Đằng sau Thánh Turibiô là cả một đoàn người đông đảo, tượng trưng cho đoàn dân trung tín bước theo vị mục tử thực thi sứ mạng Phúc âm hóa.[2] Hình ảnh này có thể dùng làm điểm tựa cho suy tư tôi muốn chia sẻ với anh em. Thánh Turibiô, một con người muốn tới được bờ bên kia.

Chúng ta gặp ngài từ lúc ngài nhận bài sai đến những vùng đất này với sứ mạng làm một người cha và vị mục tử. Ngài rời bỏ sự an toàn của khung cảnh cuộc sống quen thuộc để bước vào một thế giới hoàn toàn mới mẻ, chưa từng biết đến và đầy thử thách. Ngài lên đường đến vùng đất hứa dưới sự hướng dẫn của đức Tin “một bảo đảm cho những niềm hy vọng” (Dt 11, 1). Đức Tin và sự tín thác vào Chúa đã thôi thúc ngài, khi ấy và suốt quãng đời còn lại, để sang tới bờ bên kia, nơi chính Chúa đang đợi ngài giữa cả một đoàn người đông đảo.

1. Thánh nhân muốn sang bờ bên kia để tìm người xa lạ và kẻ lạc lối. Như vậy, ngài phải bỏ lại đằng sau cuộc sống tiện nghi ở tòa giám mục và ngược xuôi khắp lãnh thổ được trao phó cho mình trong những chuyến đi thăm mục vụ; ngài cố gắng đến thăm và ở lại bất cứ nơi nào đang cần đến ngài! Ngài đi ra gặp gỡ mọi người men theo những con đường, theo lời kể của cha bí thư, dê rừng nhiều hơn người. Turibiô phải đương đầu với khí hậu thất thường và địa hình đủ loại, “trong 21 năm làm giám mục, thì 18 năm sống bên ngoài thành phố, ba lần rảo khắp giáo phận”.[3] Ngài biết đây là cách duy nhất để làm một chủ chăn: sống gần gũi đoàn chiên của mình, ban các bí tích, và không ngừng khuyến khích các linh mục của mình cũng làm như vậy. Ngài không chỉ dùng lời nói, mà còn qua chứng từ, bằng cách đi đầu trong công cuộc Phúc âm hóa. Ngày nay chúng ta có thể gọi ngài là giám mục “đường phố”. Một giám mục mang đôi giày cũ sờn vì cuốc bộ, di chuyển không ngừng, bước ra ngoài để “rao giảng Tin Mừng cho mọi người: ở mọi nơi, trong mọi dịp, không chút chần chừ, miễn cưỡng và sợ hãi. Niềm vui Tin Mừng thì dành cho mọi người: không thể gạt ai ra ngoài”.[4] Thánh Turibiô thấu hiểu điều đó biết bao! Không chút sợ hãi và chần chừ, ngài để mình chìm vào lục địa của chúng ta để loan báo Tin Mừng.

2. Ngài muốn sang tới bờ bên kia không chỉ về mặt địa lý mà còn về phương diện văn hóa. Vì thế, ngài làm nhiều cách để Phúc âm hóa bằng ngôn ngữ của người bản địa. Với Công nghị Lima lần thứ ba, ngài soạn sách dạy giáo lý và dịch sang tiếng Quechua và Aymara. Ngài khuyến khích hàng giáo sĩ học ngôn ngữ của đoàn chiên mình coi sóc để ban các bí tích cho họ cách nào họ hiểu được. Tuy thường thăm viếng và sống với đoàn chiên, nhưng ngài thấy thế vẫn chưa đủ, vì mới chỉ hiện diện bằng thể xác, mà còn phải học ngôn ngữ của mọi người, vì chỉ bằng cách này, họ mới hiểu Tin Mừng và để Tin Mừng chạm vào cõi lòng họ. Đường hướng này cần thiết cho chúng ta biết bao, những mục tử của thế kỷ hai mươi mốt! Bởi vì chúng ta đang phải học những ngôn ngữ hoàn toàn mới, chẳng hạn, ngôn ngữ kỹ thuật số của thời đại chúng ta. Học để biết ngôn ngữ hiện nay của giới trẻ, của các gia đình, của con cái chúng ta… Như Thánh Turibiô, không những phải hiểu rõ, hiện diện và chiếm lĩnh không gian, mà còn phải có khả năng xây dựng phương pháp tiếp cận cuộc sống con người, để đức Tin có thể bén rễ và mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Để làm điều đó, chúng ta phải nói được ngôn ngữ của họ. Chúng ta phải đến được những nơi có những câu chuyện và những loại hình mới đang sinh sôi nảy nở, để mang lời Chúa Giêsu đến tận trái tim các thành phố và người dân chúng ta.[5] Việc Phúc âm hóa nền văn hóa đòi hỏi chúng ta phải bước vào tận thâm sâu của nền văn hóa đó, khai sáng nó tận bên trong bằng Tin Mừng.

3. Thánh Turibiô muốn sang tới bờ bên kia của đức ái. Đối với vị thánh bổn mạng của chúng ta, không thể Phúc âm hóa mà không có đức ái. Ngài hiểu rằng hình thức cao nhất của Phúc âm hóa là cuộc sống chúng ta phải noi theo gương Chúa Giêsu tự hiến mình vì yêu thương mọi người nam nữ. Bằng cách này sẽ nhận ra được con cái Thiên Chúa và con cái sự dữ: tất cả những ai không thực hành sự công chính đều không xuất phát từ Thiên Chúa, và những ai không yêu thương anh em, chị em mình, thì cũng vậy (x. 1 Ga 3, 10). Trong những chuyến thăm viếng mục vụ, ngài thấy những lạm dụng và hà khắc mà người bản địa phải gánh chịu, nên vào năm 1585, ngài đã không chùn tay ra vạ tuyệt thông cho viên Corregidor (quan Án sát) ở Catajambo, tự đặt mình vào thế chống lại toàn bộ hệ thống tham quan nhũng lại và cả một mạng lưới lạm quyền, chính vì thế “ngài lãnh đủ sự thù hằn của nhiều người”, trong đó có viên Phó vương.[6]Chúng ta thấy, người mục tử là thế đó, là người hiểu rằng không bao giờ điều tốt đẹp phần hồn lại tách khỏi điều tốt đẹp phần xác, hơn nữa, khi danh dự và phẩm giá con người bị đe dọa. Tinh thần ngôn sứ của vị giám mục là: không sợ tố cáo những lạm dụng và sự hà khắc đối với dân mình. Qua đó, Thánh Turibiô lưu ý toàn thể xã hội và từng cộng đồng rằng đức ái bao giờ cũng đi đôi với công bình. Đồng thời không thể thật sự Phúc âm hóa nếu không vạch trần và lên án mọi tội lỗi chống lại sự sống của anh chị em mình, nhất là những người dễ bị tổn thương nhất.

4. Thánh Turibiô muốn sang tới bờ bên kia trong việc đào tạo hàng linh mục của mình. Ngài thành lập chủng viện đầu tiên theo tinh thần hậu công đồng Triđentinô tại phần đất này của thế giới, nhờ đó đã khuyến khích việc đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ. Ngài nhận thấy việc đi thăm khắp nơi và nói cùng một ngôn ngữ thì không đủ: Giáo hội cần gầy dựng các mục tử người địa phương của mình và từ đó trở thành người mẹ sinh nhiều con cái. Để đạt mục tiêu này, ngài bảo vệ việc truyền chức linh mục cho các mestizos (thổ dân lai da trắng) – một vấn đề gây tranh cãi hồi đó – và tìm cách cho mọi người thấy rằng: nếu hàng giáo sĩ cần phải trổi vượt trong bất cứ lĩnh vực nào, thì vì sống thánh thiện chứ không phải do nguồn gốc chủng tộc.[7] Việc đào tạo này không giới hạn trong việc học hành ở chủng viện, mà còn được tiếp tục qua những cuộc thăm viếng mục vụ không ngừng của ngài. Tại những nơi đến thăm, ngài có thể thấy tận mắt “tình trạng các linh mục của mình” và nói cho họ biết những lưu ý của mình. Người ta thuật lại câu chuyện vào đêm Vọng Giáng sinh, người chị gái tặng ngài một chiếc áo mặc trong các dịp lễ. Ngay hôm đó, ngài đi thăm một linh mục, và thấy hoàn cảnh sống của vị linh mục này, ngài đã lấy chiếc áo vừa được tặng đem biếu vị linh mục.[8] Từng làm cha sở, nên ngài hiểu các linh mục của mình. Vị mục tử cố gắng đi thăm các linh mục, đồng hành, khích lệ và góp ý với các ngài. Ngài nhắc các linh mục nhớ mình là mục tử chứ không phải người trông coi cửa hàng, vì vậy phải chăm sóc và bảo vệ đoàn chiên indios như con mình.[9] Ngài không ngồi bàn giấy mà thực hiện điều đó, nên biết rõ đoàn chiên của mình và đoàn chiên nhận ra tiếng ngài, đó là tiếng của người mục tử nhân lành.

5. Ngài muốn sang tới bờ bên kia của sự hiệp nhất. Với một cách thức đáng khâm phục và mang tính tiên tri, ngài thực hiện việc mở ra các khả năng cho những thành phần khác nhau trong cộng đoàn dân Chúa được hiệp thông với nhau và tham gia vào việc chung. Thánh Gioan Phaolô II đề cập đến việc này khi nói chuyện với các giám mục Pêru; ngài lưu ý: “Công nghị Lima lần thứ ba chính là kết quả của nỗ lực đó, được thánh Turibiô hướng dẫn, khích lệ và chỉ đạo; công nghị mang lại hoa trái dồi dào là sự hiệp nhất trong đức Tin, những chuẩn mực mục vụ và tổ chức, và quan điểm thiết thực về việc hội nhập châu Mỹ Latinh như từng mong ước”[10] Chúng ta biết rất rõ sự hiệp nhất và đồng thuận này đạt được từ một bối cảnh căng thẳng với những xung đột gay gắt. Chúng ta không thể phủ nhận những căng thẳng và khác biệt; cuộc sống không thể không có sự xung khắc. Tuy nhiên chúng đòi hỏi chúng ta, là con người và là Kitô hữu, phải đương đầu và đối phó với chúng. Nhưng để đối phó với chúng trong tinh thần hiệp nhất, trung thực và đối thoại chân thành, mặt đối mặt, thì phải lưu ý đừng rơi vào cám dỗ lãng quên quá khứ, hoặc cứ bị giam cầm trong quá khứ, thiếu tầm nhìn để xem xét những con đường dẫn đến hiệp nhất và hòa bình. Công nghị đó là nguồn mang lại sự khích lệ trong cuộc hành trình của Hội đồng Giám mục chúng ta, để biết rằng sự hiệp nhất luôn chiếm ưu thế so với xung đột.[11] Anh em hãy lưu tâm xây dựng sự hiệp nhất. Đừng giam mình mãi trong những chia rẽ phát sinh bè phái và ngăn cản ơn gọi của chúng ta là trở nên bí tích hiệp thông. Anh em hãy nhớ: sức thu hút của Giáo hội tiên khởi là nhờ các tín hữu yêu thương nhau. Đó chính là – hiện tại và mai sau vẫn là – cách tốt nhất để Phúc âm hóa.

6. Đã đến lúc Thánh Turibiô tới bến bờ cuối cùng, tới miền đất ngài đã nếm trước tại mỗi bờ bến ngài để lại sau lưng. Nhưng lần này, ngài không một mình rời bến. Như trong bức họa tôi đã nhắc đến trên đây, ngài đi gặp các thánh được cả một đoàn người đông đảo vây quanh. Ngài là vị mục tử chất vào “túi xách của mình” các tên tuổi và những gương mặt. Họ là giấy thông hành đưa ngài về trời. Tôi không muốn bỏ qua giai điệu cuối cùng này, giây phút vị mục tử trao linh hồn mình cho Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện điều đó giữa dân mình, rồi một thổ dân tấu lên khúc sáo chirimíagiúp linh hồn ngài được thư thái bình an. Thưa anh em, mong sao lúc chúng ta bước vào cuộc hành trình cuối cùng này, chúng ta cũng được như vậy. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được hồng phúc ấy.[12]

 

 

 

Thứ Năm

Lời Chúa

 Bài Ðọc I: Xh 32, 7-14

"Xin Chúa tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa".

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: "Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Chúa phán cùng Môsê: "Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại".

Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: "Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa đừng để cho người Ai-cập nói rằng: "Người đã khéo dẫn họ đến đây, để giết họ trên núi và huỷ diệt họ khỏi mặt đất". Xin Chúa nguôi cơn giận và tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa. Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac, và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng: "Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời, Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi". Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 19-20. 21-22. 23

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).

Xướng: 1) Họ đã đúc con bò tại Horeb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. - Ðáp.

2) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.

3) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

 

Phúc Âm: Ga 5, 31-47

"Có người tố cáo các ngươi, đó là Môsê, người mà các ngươi vẫn tin tưởng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật. Phần Ta, Ta không cần chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời gian. Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống.

Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được? Các ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin tưởng. Vì nếu các ngươi tin Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi vì chính Môsê đã viết về Ta. Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết, thì làm sao các ngươi tin lời Ta được?"

Ðó là lời Chúa.  

 

 

 

Suy niệm


 

Khi khẳng định với dân Do Thái về họ bấy giờ rằng 
"Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó",
 

Ch
úa Giêsu đã đánh trúng tim đen của họ, đã tấn công vào ngay nhược điểm của họ. 

 

 

Thứ Năm trong Tuần IV Mùa Chay hôm nay, phụng vụ lời Chúa bề ngoài có vẻ liên quan đến hiện tượng hay khuynh hướng ngẫu tượng nơi dân Do Thái, cả Cựu Ước lẫn vào thời Chúa Kitô, nhưng sâu xa liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa, một mạc khải thần linh đã đạt đến tột đỉnh ở nơi bản thân của Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại là một mạc khải thần linh bị chính dân Người chống đối và trù dập. 

 

Ở ngay đầu đoạn cuối của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã công khai và thẳng thắn cho chung dân Do Thái đang tụ tập lại nghe Người bấy giờ biết chính vì cái khuynh hướng trần tục của họ đã trở thành lý do tại sao họ không thể nào có thể chấp nhận được chứng từ chân thực của Người về Người: 

"Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được?"

Khi khẳng định với dân Do Thái về họ bấy giờ rằng "Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó", Chúa Giêsu đã đánh trúng tim đen của họ, đã tấn công vào ngay nhược điểm của họ. Ở chỗ, họ đang mong một đấng thiên sai về chính trị để có thể giải cứu họ khỏi quyền lực của đế quốc Roma, mà ai có thể thực hiện được việc giải phóng này thì họ sẽ tin phục, hoan hô và theo đuổi, chẳng cần biết người anh hùng dân tộc đó có thực sự được Thiên Chúa sai đến hay chăng, có thể thắng được đế quốc Roma hay chăng...

Phần Chúa Giêsu, vì "không tìm vinh quang nơi loài người" mà Người không thể nào có những hành động mị dân để được họ hoan hô ủng hộ, để thu hút lòng mộ mến của họ, trái lại, Người nói tất cả sự thật về bản thân cũng như về nguồn gốc thần linh của Người, vì như Người tuyên bố với họ chỉ có chân lý mới giải thoát được họ thôi (xem Gioan 8:32), chứ không phải quyền lực chính trị nào hết, bởi họ cần phải được giải thoát trước hết và trên hết cho khỏi tội lỗi và sự chết liên quan đến phần rỗi đời đời của họ, chứ không phải được giải thoát khỏi một thứ quyền lực thế gian chỉ là những gì tiêu biểu như hình bóng cho thứ quyền lực tối tăm chết chóc của hỏa ngục.

Đó là lý do, trong bài Phúc Âm hôm nay, chứng từ của Chúa Giêsu về bản thân của Người không phải từ chứng cớ riêng của Người: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà là từ một thẩm quyền cao hơn Người: "Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực".

Và Người chỉ trưng dẫn những chứng cớ về Người mà Người thấy rằng hoàn toàn "xác thực" nơi bản thân Người, những chứng cớ được thẩm quyền cao hơn Người đã sử dụng để chứng thực về Người, hiển nhiên nhất ở trong biến cố Người biến hình trên núi cao: "Đây là Con của Ta, người Ta đã tuyển chọn; hãy lắng nghe Người" (Luca 9:35). 

Chính Người cũng đã căn cứ vào 3 chứng cớ đã được thẩm quyển sai Người sử dụng để chứng thực về Người, trước hết là chứng cớ liên quan đến loài người, sau nữa, nhất là chứng cớ liên quan đến chính Thiên Chúa cùng với mạc khải của Ngài, và sau cùng là chứng cớ liên quan đến mạc khải thần linh trong Thánh Kinh

Trước hết là chứng cớ liên quan đến loài người: "Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật. Phần Ta, Ta không cần chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời gian".

Sau nữa là chứng cớ liên quan đến chính Thiên Chúa: "Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta". 

Sau hết là chứng cớ liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa, tức liên quan đến Thánh Kinh là những gì chân thực không sai lầm mà họ cần phải tin theo: "Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống".

Cho dù Chúa Giêsu có chứng thực về mình bằng 3 nguồn chứng rõ ràng bất khả thiếu ấy, dân Do Thái nói chung vẫn không chịu chấp nhận Người, bởi khuynh hướng và tinh thần trần tục của họ, như đã đề cập đến trên đây, chẳng những vì họ "không có lòng yêu mến Thiên Chúa... không tìm vinh quang do một Thiên Chúa", trái lại, họ chỉ theo đuổi tìm kiếm "vinh quang lẫn nhau". 

Tinh thần và khuynh hướng trần tục này của họ chẳng khác gì của dân ngoại là thành phần vẫn bị họ khinh bỉ là thứ đồ nhơ nhớp tội lỗi, trong khi họ cũng chẳng hơn gì dân ngoại, thậm chí còn tệ hơn cả dân ngoại nữa, vì họ được Thiên Chúa ở cùng họ, liên lỉ tỏ mình ra cho họ, ban lề luật thánh của Ngài để dẫn dắt họ, nhờ đó họ sống xứng với phẩm vị con người và ơn gọi trở thành một dân tộc thánh hảo của Ngài giữa muôn dân nước, thế mà họ vẫn tôn thờ tà thần ngẫu tượng như dân ngoại, chứ đâu có khá hơn dân ngoại.

Không phải hay sao, lịch sử cứu độ của họ đã cho thấy dân Do Thái còn sống tệ hơn cả dân ngoại nữa, trong khi dân ngoại chẳng được diễm phúc biết đến mạc khải thần linh và cũng chẳng được ban cho lề luật thánh hảo nên tôn thờ tà thần là phải, còn dân Do Thái thì lại biến Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất từng tỏ mình ra cho họ, nhất là ở cuộc vượt qua của họ từ đất nước Ai Cập băng qua Biển Đỏ mà vào sa mạc, thành một thứ ngẫu tượng của họ, như Sách Xuất Hành thuật lại chính lời của Thiên Chúa phán cùng Moisen về họ trong Bài Đọc 1 hôm nay

"Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: 'Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập'. Chúa phán cùng Môsê: 'Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại'".

Thế nhưng, mạc khải thần linh của Thiên Chúa không phải chỉ như là ánh sáng chiếu giữa ban ngày mà là chiếu vào bóng tối để xua tan tối tăm. Bởi thế, dân Do Thái càng mù tối càng cần đến ánh sáng, nhờ đó mạc khải thần linh của Thiên Chúa mới ngày càng trở nên sáng tỏ hơn nơi họ. Ở chỗ, dân Do Thái càng phản bội Thiên Chúa của mình, càng muốn biến Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ thành ngẫu tượng của họ thì Thiên Chúa lại càng phải tỏ ra thủy chung với họ, để họ càng thấy được quả thực ngoài Ngài ra không có một vị Thiên Chúa nào khác dưới tầng trời này. 

Trong lời khẩn cầu chống đỡ của mình để ngăn cản ý định tru diệt dân Do Thái của Thiên Chúa, vị trung gian môi giới Moisen đã căn cứ vào chính Thiên Chúa, vào lời hứa của Ngài, vào mục đích giải thoát dân Do Thái của Ngài, vào tình yêu nhân hậu của Ngài, vào mối liên hệ của Ngài với các vị tổ phụ của họ để xin Ngài tha cho dân Do Thái, một lời khẩn cầu không thể nào lại không đẹp lòng Thiên Chúa vì nó đã thực sự chạm đến chính cõi lòng của Thiên Chúa và khuấy động lên lòng thương của Ngài:

"Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa đừng để cho người Ai-cập nói rằng: 'Người đã khéo dẫn họ đến đây, để giết họ trên núi và huỷ diệt họ khỏi mặt đất'. Xin Chúa nguôi cơn giận và tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa. Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac, và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng: 'Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời, Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi'. Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người".

Hành động tôn thờ ngẫu tượng của dân Do Thái trong Bài Đọc 1 hôm nay, được Bài Đáp Ca cùng ngày chẳng những thuật lại mà còn được thánh vịnh gia cảm nhận về tính cách của việc dân Do Thái ấy như là việc "Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ". "Vinh quang" của dân Do Thái đây là gì, nếu không phải là Thiên Chúa, Đấng đã tuyển chọn họ giữa muôn dân, đã ở cùng họ, đã chăm sóc cho họ, đã giải cứu họ khỏi đất nước nô lệ Ai Cập, đã thánh hóa họ xứng với Ngài v.v., nhưng họ đã biến Thiên Chúa là vinh quang của họ thành "hình tượng con bò ăn cỏ", để rồi coi con bò bằng vàng của họ được họ đúc nên như Thiên Chúa và thay Thiên Chúa chân thật duy nhất mà "sấp mình thờ lạy nó":

1) Họ đã đúc con bò tại Horeb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ.

2) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. 

3) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. 




Thứ Sáu


Lời Chúa

Bài Ðọc I: Kn 2, 1a. 12-22

"Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã".

Trích sách Khôn Ngoan.

Những kẻ gian ác suy nghĩ chín chắn, đã nói rằng: "Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta cũng cáu, thấy bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ khác, và đường lối của nó thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!" Chúng nghĩ như vậy, nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho chúng mù quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa, nên cũng chẳng hy vọng phần thưởng công chính, và chúng cũng không ưa thích vinh dự của những tâm hồn thánh thiện.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 17-18. 19-20. 21 và 23

Ðáp: Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường (c. 19a).

Xướng: 1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.

2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. - Ðáp.

3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab

Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.

 

Phúc Âm: Ga 7, 1-2. 10. 25-30

"Chúng tìm cách bắt Người, nhưng chưa tới giờ Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.

Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu".

Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta". Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm


  cho dù Chúa Kitô có làm chứng về Người thế nào chăng nữa,

dân chúng vẫn không thể nào tin tưởng được Người là Đấng Thiên Sai của họ


Mùa Chay cho tới hôm nay đã ở vào ngày Thứ Sáu trong Tuần thứ IV, phụng vụ lời Chúa nói chung và Phúc Âm nói riêng cho thấy phản ứng tiêu cực của bóng tối lòng người bị chói lòa trước ánh sáng mạc khải thần linh.

Thật vậy, ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, ở đoạn đầu tiên trong ba đoạn, Thánh ký Gioan đã ghi nhận tình hình căng thẳng đến nghẹt thở giữa bóng tối và ánh sáng như sau: 

"Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo".

Hai bài Phúc Âm hôm qua, Thứ Năm, và hôm kia, Thứ Tư, Thánh ký Gioan ở cùng đoạn 5 cho chúng ta thấy chứng từ của Chúa Giêsu chứng thực về bản thân Người và nguồn gốc của Người ở giáo đô Giêrusalem. Sau đó, ở đoạn 6 của cùng Phúc Âm, Người về Galilêa và đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để từ đó mạc khải về Người là Bánh Sự Sống. 

Câu đầu tiên mở đầu đoạn 7 của bài Phúc Âm hôm nay là câu chuyển tiếp cho việc Người đang ở Galilêa và lý do Người không muốn xuất hiện ở Giuđêa: "Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người". 

Thật ra, không phải là Người sợ chết cho bằng chưa tới giờ của Người. Nguyên sự kiện Người tạm lánh mặt đi như thế này thôi cũng đủ cho thấy Người quả thực là Đấng Thiên Sai như Người đã nói và làm bao giờ cũng chỉ theo ý Cha là Đấng đã sai Người mà thôi.

Nếu Người không phải là Đấng Thiên Sai đích thực, mà chỉ tìm vinh quang trần thế, như Người cảnh báo dân Do Thái trong bài Phúc Âm hôm qua, chắc chắn Người sẽ làm theo ý của Người, ở chỗ, một khi thấy rằng mình đã được bao nhiêu là người hậu thuẫn, thậm chí muốn tôn Người lên làm vua (xem Gioan 6:15) sau phép lạ Người hóa bánh ra nhiều để nuôi cả năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con nít, Người sẽ hô hào họ theo Người và cùng Người kéo xuống Giuđea để tiến về Giêrusalem hầu cho cả giáo quyền Do Thái lẫn chính quyền Roma thấy được quyền lực cùng thanh thế hùng mạnh đáng sợ của Người. 

Thế nhưng, vì là chính Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên Sai đích thực, mà Thánh ký Gioan đã thuật lại về Người trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo".

Tuy nhiên, cho dù lên Giêrusalem một cách kín đáo, ở tại giáo đô này, trong khu vực đền thờ, Người vẫn công khai tỏ mình ra bằng chứng từ của Người, không sợ, vì đó là giờ của Người, là lúc và là nơi Cha của Người là Đấng đã sai Người đến, bằng thúc động của Thánh Linh hằng ngự nơi Người và là Đấng luôn tác động mọi lời nói và việc làm của Người theo đúng ý muốn của Cha. Việc công khai xuất hiện của Người tuy làm cho đám đông ngạc nhiên nhưng họ vẫn không chấp nhận Người:

"Có một số người ở Giêrusalem nói: 'Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu'".

Đúng thế, cho dù Chúa Kitô có làm chứng về Người thế nào chăng nữa, dân chúng vẫn không thể nào tin tưởng được Người là Đấng Thiên Sai của họ, bởi vì, căn cứ vào nguồn gốc trần gian của Người, một tên Giêsu xuất thân từ Nazarét xứ Galilêa: "Ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu", nghĩa là ông ta chắc chắn không phải là Đấng Thiên Sai, bởi theo suy luận của họ thì nếu họ biết rõ về thân thế và xuất xứ của Người tất nhiên những gì cần phải xẩy ra đó là Đấng Thiên Sai phải là một nhân vật hoàn toàn bí mật: "khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu".

Trước những nhận định của dân chúng không sai về xuất xứ ở trần gian này của Người: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu", Chúa Giêsu lại tiếp tục tỏ mình ra cho họ một cách chính xác hơn nữa, để nhờ đó họ có thể thấy được tất cả sự thật về Người mà được sự sống, khi Người cho họ biết rằng: "Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta".

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Kitô chỉ mới đi vòng vòng ở ngoài khi nói đến các việc Người làm được Cha Người trao phó để chứng thực về Người: "Công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta", thì trong bài Phúc Âm hôm nay, Người đã bắt đầu tiến vào vòng trong, khi tuyên bố rõ hơn và mạnh hơn về vai trò Thiên Sai của Người: "Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta".

Ánh sáng càng sáng tỏ càng chói lòa bóng tối và càng xua tan bóng tối, tuy nhiên, thành phần "chuộng tối tăm hơn ánh sáng... sợ bị phơi bày ra ánh sáng" (Gioan 3:19-20), sợ chính ánh sáng, nên chỉ muốn tìm hết cách để dập tắt ánh sáng. Thánh ký Gioan đã cho thấy phản ứng của dân chúng trước mạc khải thần linh tràn đầy sự thật càng ngày càng rạng ngời hơn về Chúa Giêsu như sau: "Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người". 

Hành động và phản ứng đầy tính chất tối tăm của dân Do Thái trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước mạc khải thần linh của Chúa Kitô về bản thân Người, là những hành động và phản ứng theo tâm lý tự nhiên của con người ở mọi thời đại, như đã được Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay vạch trần cho thấy tất cả những âm mưu gian ác của họ như sau: 

"Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta cũng cáu, thấy bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ khác, và đường lối của nó thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!" 

Tuy nhiên, lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử cứu độ của dân Do Thái nói riêng đã cho thấy, như nơi trường hợp Giuse bị 10 người anh thay vì sát hại đã bán Giuse sang Ai Cập để phá hủy mộng mị của đứa em Giuse đáng ghét của họ không ngờ lại làm trọn những gì bị họ cho mà mộng mị ấy (xem Khởi Nguyên 37:20; 50:19-20), vì họ chỉ là loài người thiển cận, như cóc ngồi đáy giếng, đúng như Bài Đọc 1 hôm nay cho biết: "nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho chúng mù quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những nhận thức hoàn toàn phản lại với tâm tưởng đen tối của thành phần gian ác trong Bài Đọc 1 cùng ngày, những nhận thức hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng làm chủ mọi sự và quan phòng mọi sự theo ý định vô cùng khôn ngoan và toàn năng của Ngài:

1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. 

2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. 

3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. 



Ngày 25 tháng 3

LỄ TRUYỀN TIN

lễ trọng

 

Chín tháng trước lễ Giáng Sinh, chúng ta mừng ngày Con Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Biến cố này được thánh Lu-ca tường thuật lại trong phần đầu sách Tin Mừng của người. Phụng vụ ngày hôm nay được soi sáng nhờ lời của tác giả thánh vịnh 39. Lời này đã được tác giả thư Híp-ri đặt lên miệng Chúa Ki-tô khi Người bước vào trần gian : “Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.”

Image: Saint Mary Annunciation of Angel 02 صورة

 

 

Phụng Vụ Giờ Kinh

Rực rỡ ngày lên báo tin lành,
Thiên thần mang đến Mẹ Đồng Trinh
Lời Thiên Chúa hứa và thực hiện
Cho cả trần gian hưởng thái bình.

Đấng tự ngàn đời đã sinh ra
Từ lòng muôn thuở Chúa Ngôi Cha,
Giáng trần phải chọn người thân mẫu
Sống kiếp phàm nhân chẳng nề hà.

Chân Lý ngàn thu nay nhập thể
Trong lòng Trinh Nữ chẳng ai ngờ,
Chỉ hồn trong trắng được chiêm ngưỡng,
Xin giãi sáng vào cõi bùn nhơ.

Được phúc cưu mang Đấng Cửu Trùng,
Dẫu là tỳ nữ rất khiêm cung,
Giờ đây Bà Chúa trên Thiên Quốc
Xin Mẹ hằng thương chúng con cùng.

Muôn tiếng ngợi khen dâng kính Chúa
Giáng trần sinh bởi Mẹ Đồng Trinh.
Ngài cùng Thánh Linh và Thánh Phụ
Thiên thu hiển trị cõi thiên đình.

 

Khắp cả trần gian hãy biết rằng
Tin Mừng giải thoát đã tràn lan,
Sau thời nô lệ đầy tăm tối
Đến lúc tự do ngập huy hoàng.

Lời sấm bao đời của Ê-sai
Về người Trinh Nữ, ứng nghiệm thay !
Thiên thần loan báo, và Trinh Nữ
Nhờ Chúa Thánh Linh, đã thụ thai.

Lời Chúa, Mẹ tin rất vững vàng,
Nay thành mầm sống Mẹ cưu mang,
Đấng trời cùng đất không chứa nổi,
Giờ hoá thai nhi sống ẩn tàng.

Này A-đam mới rửa tinh tuyền
Những gì nhơ nhớp bởi tội nguyên,
Tổ phụ kiêu căng làm đổ vỡ,
Cháu con khiêm tốn dựng xây lên.

Chúc tụng Ngôi Cha, Đấng tạo thành,
Hát mừng Thánh Tử, Vị Cứu Tinh,
Đấng đầu thai xuống lòng Trinh Nữ
Do bởi phép mầu Chúa Thánh Linh.

 

Hôm nay Thiên Chúa sai thiên sứ báo tin vui cứu độ cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Vậy ta hãy tha thiết nguyện cầu :

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.

Chúa đã chọn Đức Ma-ri-a làm Mẹ Chúa Cứu Thế, - xin rủ tình thương tất cả những ai đang mong chờ ơn cứu độ.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.

Chúa đã sai thiên sứ Gáp-ri-en báo tin mừng bình an cho Đức Mẹ, - xin cho toàn thế giới nhìn nhận rằng Con Một Người chính là Đấng nhân loại đợi trông.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.

Nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã cho Ngôi Lời đến ngự trong lòng Đức Mẹ để ở giữa chúng con, - xin cho chúng con biết noi gương Đức Mẹ mà đón rước Ngôi Lời của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.

Chúa là Đấng thương xót kẻ nghèo hèn, và ban của đầy dư cho người đói khổ, - xin nâng đỡ những ai kiệt sức, trợ giúp kẻ cơ bần và an ủi người đang hấp hối.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.

Chỉ mình Chúa thực hiện những kỳ công vĩ đại, - xin thương cứu chúng con trong ngày Chúa cho kẻ chết được phục sinh.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ngôi Lời của Chúa mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a để cứu độ loài người. Này chúng con tuyên xưng Đấng Cứu Độ là Thiên Chúa thật và là người thật, xin cho chúng con cũng được thông phần bản tính Thiên Chúa của Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: Is 7, 10-14

"Này trinh nữ sẽ thụ thai".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!" Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử Chúa". Và Isaia nói: "Vậy nghe đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 11

Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).

Xướng: 1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.

2) Như trong cuốn sách đã chép về con, lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và luật pháp của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.

3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

4) Con chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng con; con đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ Chúa; con đã không giấu giếm gì với đại hội về ân sủng và lòng trung thành của Chúa. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Dt 10, 4-10

"Ở đoạn đầu cuốn sách đã viết về tôi là, lạy Chúa, tôi thi hành thánh ý Chúa".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, máu bò và dê đực không thể xoá được tội lỗi. Vì thế, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho con một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên con nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách. Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật". Ðoạn Người nói tiếp: "Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa". Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia hoặc Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 1, 14ab

(Mùa Chay: bỏ Alleluia)

Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người. -Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 26-38

"Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".

Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"

Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".

Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt Bà.

Ðó là lời Chúa. 

 

 

High Resolution Stock Art |The Annunciation, by Poussin - Restored  Traditions

 

 

"Hết mọi sự trong Giáo Hội, hết mọi cơ cấu và thừa tác vụ, bao gồm cả thừa tác vụ của Thánh Phêrô và của các vị thừa kế ngài, đều được ‘bao gồm’ trong áo choàng của Vị Trinh Nữ này"

 

ĐTC Biển Đức XVI chủ tế và giảng lễ Thánh Lễ Đồng Tế Với Tân 15 Hồng Y Thứ Bảy Lễ Mẹ Thai Lời ngày 25/3/2006 tại Quảng Trường Thánh Phêrô

 

Quí Hồng Y và Thượng Phụ thân mến,

Quí Huynh Khả Kính trong Hàng Giáo Phẩm và Linh Mục,

Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô!

 

Tôi cảm thấy hết sức hân hoan chủ sự đồng tế này với các vị tân hồng y sau cuộc mật nghị hồng y hôm qua, và tôi thấy là thích đáng thực hiện cuộc mật nghị hồng y này vào ngày lễ trọng Truyền Tin. Thật vậy, trong việc nhập thể của Con Thiên Chúa, chúng ta nhận thấy nguồn gốc của Giáo Hội. Hết mọi sự được bắt đầu từ đó. Hết mọi sự hiện thực của Giáo Hội về lịch sử và từng cơ cấu thuộc tổ chức Giáo Hội cần phải được hình thành bởi nguồn mạch nguyên khởi này.

 

Chúng phải được hình thành bởi Chúa Kitô, Lời nhập thể của Thiên Chúa. Chính Người là Đấng chúng ta liên lỉ chúc tụng là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Đấng mà nhờ Người ý muốn cứu độ của Thiên Chúa Ngôi Cha được hoàn tất. Tuy nhiên, ngày của mọi ngày hôm nay đây chúng ta chiêm ngưỡng khía cạnh này của mầu nhiệm ấy – khía cạnh suối nguồn thần linh tuôn chảy qua một mạch nước đặc biệt đó là Trinh Nữ Maria. Thánh Bênađô đã nói về điều này bằng hình ảnh ‘aquaeductus’ sống động (cf. "Sermo in Nativitate B.V. Mariae": PL 183, 437-448). Thế nên, khi cử hành việc nhập thể của Người Con, chúng ta không thể không tôn vinh Mẹ của Người.

 

Lời thiên thần loan báo cho Mẹ, Mẹ đã chấp nhận, và khi Mẹ đáp lại bằng tất cả tâm hồn của mình là ‘Này tôi… xin vâng như lời ngài truyền’ (Lk 1:38), thì Lời hằng hữu bắt đều hiện hữu như là một con người trong thời gian.

 

Mầu nhiệm khôn lường này không ngừng trở thành những gì là bàng hoàng ngỡ ngàng từ đời nọ đến đời kia. Thánh Âu Quốc Tinh tưởng tượng ra một cuộc đối thoại giữa ngài và vị thiên thần Truyền Tin, khi đặt vấn đề là: ‘Ôi Thiên Thần, xin nói cho tôi hay là tại sao điều này đã xẩy ra nơi Mẹ Maria?’ Câu trả lời được vị thiên sứ đáp lại chất chứa chính những lời chào kính: ‘Kính mừng đầy ơn phúc’ (x Sermo 291.6). Thật vậy, vị thiên thần, ‘khi hiện ra với Mẹ’, đã không gọi Mẹ theo tên trần gian của Mẹ là Maria, mà bằng tên thần linh của Mẹ, ‘Đầy ơn phúc – gratia plena’, một tên theo nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là ‘yêu dấu’ (x Lk 1:28) vì Mẹ luôn được Thiên Chúa biết đến và mang dấu vết Thiên Chúa. Giáo phụ Origen đã nhận định rằng không có danh xưng nào như thế được ban cho bất cứ một con người nào, và là một danh xưng duy nhất trong toàn bộ Thánh Kinh (cf ‘In Lucam’ 6:7). 

 

Nó là một danh hiệu ở thể thụ động, thế nhưng ‘cái thụ động’ này của Mẹ Maria, Vị luôn được và đang được Chúa mãi mãi ‘yêu thương’, bao gồm việc tự do ưng thuận của Mẹ, việc đáp ứng cá nhân và nguyên vẹn của Mẹ: Khi được yêu thương, Mẹ Maria hoàn toàn chủ động, vì Mẹ chấp nhận một cách quảng đại làn sóng yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên Mẹ. Cả ở việc này nữa, Mẹ cũng là người môn đệ trọn hảo của Con Mẹ, Đấng hiện thực tất cả tự do của mình qua việc tuân phục Chúa Cha.

 

Trong bài đọc thứ hai, chúng ta nghe một đoạn tuyệt vời được tác giả của bức Thư gửi Do Thái viết khi dẫn giải Thánh Vịnh 39 theo ý nghĩa nhập thể của Chúa Kitô: “Khi Chúa Kitô vào trần gian, Người đã thưa… ‘Này Con đây, Con xin đến để làm theo ý Cha, Ôi Thiên Chúa’” (10:5-7). Trước mầu nhiệm của hai lời ‘Này con đây’ của Chúa Kitô và Vị Trinh Nữ, lời này phản ảnh trong lời kia, làm nên câu Amen duy nhất dâng lên ý muốn yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta cảm thấy đầy những ngỡ ngàng và tri ân cảm tạ, và chúng ta cúi mình xuống tôn thờ.

 

Chư huynh thân mến, thật là một ân huệ cao cả biết bao khi thực hiện việc cử hành ý nghĩa này vào Lễ Trọng Truyền Tin đây! Chúng ta có thể nhận được dồi dào ánh sáng biết bao từ mầu nhiệm này cho đời sống chúng ta làm thừa tác viên của Giáo Hội đây! Nhất là các vị tân hồng y thân mến, chư huynh có thể lãnh nhận nhiều bổ dưỡng là chừng nào cho sứ vụ làm ‘Nghị Viên’ cao cả của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô! Cơ hội thích đáng này giúp chúng ta coi biến cố hôm nay đây, một biến cố nhấn mạnh đến nguyên tố Phêrô của Giáo Hội, theo chiều hướng của một nguyên tố khác, đó là nguyên tố Thánh Mẫu, một nguyên tố thậm chí còn quan trọng hơn nữa. Tầm vóc quan trọng của nguyên tố Thánh Mẫu trong Giáo Hội, sau công đồng chung Vaticanô II, được đề cao một cách đặc biệt bởi Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiền nhiệm yêu dấu của tôi, hợp với khẩu hiệu của ngài ‘Totus tuus’.

 

Trong linh đạo của ngài, cũng như trong thừa tác vụ liên lỉ của ngài, sự hiện diện của Mẹ Maria như là Người Mẹ và là Nữ Vương của Giáo Hội đã trở thành hiển nhiên trước mắt mọi người. Nhất là ngài đã quảng bá sự hiện diện từ mẫu của Mẹ nơi vụ ám sát ngày 13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô. Để tưởng nhớ biến cố bi thương này, ngài đã đặt một bức ảnh Đức Trinh Nữ bằng vi thạch ghép trên cao Tông Dinh Giáo Hoàng, nhìn xuống Quảng Trường Thánh Phêrô, để hỗ trợ những giây phút chính yếu và diễn tiến hằng ngày cho giáo triều dài lâu của ngài. Đúng một năm từ khi giáo triều của ngài đi vào giai đoạn cuối cùng, giai đoạn vượt qua đầy khổ đau nhưng thực sự là vinh thắng. Tấm hình Truyền Tin, hơn bất cứ tấm hình nào khác, giúp chúng ta thấy rõ lý do tại sao hết mọi sự trong Giáo Hội trở về với mầu nhiệm Mẹ Maria chấp nhận Lời thần linh, nhờ đó, qua tác động của Thánh Linh, giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại mới được hoàn toàn niêm ấn.

 

Hết mọi sự trong Giáo Hội, hết mọi cơ cấu và thừa tác vụ, bao gồm cả thừa tác vụ của Thánh Phêrô và của các vị thừa kế ngài, đều được ‘bao gồm’ trong áo choàng của Vị Trinh Nữ này, trong chân trời đầy ân phúc của lời Mẹ ‘xin vâng’ theo ý muốn của Thiên Chúa. Mối liên hệ này với Mẹ Maria tự nhiên khơi lên trong tất cả chúng ta một âm hưởng rất mến thương, thế nhưng, trước hết nó có một giá trị khách quan. Giữa Mẹ Maria và Giáo Hội thực sự có một mối liên hệ tự nhiên, được Công Đồng Chung Vaticanô II nhấn mạnh qua quyết định khéo léo của mình, trong việc đưa phần về Đức Trinh Nữ vào đoạn kết của hiến chế ‘Ánh Sáng Muôn Dân’ về Giáo Hội.

 

Đề tài về mối liên hệ giữa nguyên tố Phêrô và nguyên tố Thánh Mẫu cũng được thể hiện nơi biểu hiệu chiếc nhẫn mà tôi sắp sửa trao cho chư huynh. Chiếc nhẫn này luôn là dấu hiệu của hôn ước. Hầu hết tất cả chư huynh đã được một chiếc nhẫn vào ngày được tấn phong lên hàng giáo phẩm, như biểu lộ lòng trung thành và việc dấn thân của chư huynh trong vấn đề trông coi Hội Thánh là hiền thê của Chúa Kitô (x. Nghi Thức Tấn Phong Giám Mục). Chiếc nhẫn tôi trao cho chư huynh hôm nay đây, chiếc nhẫn hợp với phẩm tước hồng y, là để xác nhận và củng cố việc dấn thân ấy, việc dấn thân cũng xuất phát từ tặng ân hôn ước, từ việc nhắc nhở cho chư huynh nhớ rằng trước hết và trên hết chư huynh cần phải mật thiết kết hợp với Chúa Kitô để hoàn thành sứ vụ của chư huynh là thành phần phù rể của Giáo Hội.

 

Chớ gì việc chư huynh chấp nhận chiếc nhẫn này, đối với chư huynh, là việc chư huynh lập lại tiếng ‘xin vâng’ của mình, tiếng ‘này con đây’ của chư huynh, ngỏ cả cùng Chúa Giêsu là Đấng đã chọn chư huynh và ủy nhiệm chư huynh, lẫn Giáo Hội, một Giáo Hội chư huynh được kêu gọi để phục vụ bằng tình mến yêu của một người bạn đời. Bởi vậy mà hai chiều kích của Giáo Hội là Thánh Mẫu và Phêrô, gặp nhau ở giá trị cao cả của ‘đức ái’ là đức làm trọn mỗi nguyên tố. Thánh Phaolô nói rằng đức ái là đặc sủng ‘cao trọng nhất’, là ‘đường lối tuyệt hảo nhất’ (1Cor 12:31,13:13).

 

Hết mọi sự trên thế giới này sẽ qua đi. Trong cõi vĩnh hằng chỉ có tình yêu mới tồn tại mà thôi. Vì lý do này, Chư Huynh thân mến, lợi dụng dịp thuận lợi của mùa Chay này, chúng ta hãy quyết tâm bảo đảm là hết mọi sự trong đời sống riêng tư của mình, cũng như trong hoạt động của Giáo Hội chúng ta tham phần, đều được tác động bởi đức ái và dẫn tới đức ái. Cả về khía cạnh này nữa, chúng ta được chiếu soi bởi mầu nhiệm chúng ta đang cử hành hôm nay đây. Thật vậy, việc đầu tiên Mẹ Maria làm sau khi lãnh nhận sứ điệp của Thiên Thần là ‘vội vã’ lên đường tới nhà của người chị họ Isave để phục vụ người chị này (x Lk 1:39).

 

Động tác của Vị Trinh Nữ này là một động tác của đức ái chân thực, một động tác khiêm tốn và can đảm, được tác động bởi niềm tin tưởng vào lời Chúa và được Thánh Linh động viên trong lòng. Những ai yêu thương thì quên mình và dấn thân phục vụ tha nhân.

 

Ở đây chúng ta có được hình ảnh và mô phạm của Giáo Hội! Hết mọi cộng đồng giáo hội, như Người Mẹ của Chúa Kitô, đều được kêu gọi hoàn toàn quảng đại chấp nhận mầu nhiệm của Thiên Chúa là Đấng đến ngự trong Mẹ và dẫn Mẹ bước đi trên con đường yêu thương. Đó là con đường tôi đã chọn để khai triều của mình, khi mời gọi mọi người, bằng bức thông điệp đầu tiên của mình, trong việc xây dựng Giáo Hội trong đức ái như một ‘cộng đồng yêu thương’ (x Thiên Chúa Là Tình Yêu, phần 2).

 

Trong việc theo đuổi mục tiêu này, Chư Huynh Hồng Y khả kính, việc gắn bó về tinh thần và việc chủ động hỗ trợ của chư huynh là những gì hỗ trợ và an ủi tôi rất nhiều. Tôi cám ơn chư huynh về điều ấy, đồng thời tôi mời gọi tất cả mọi người trong chư huynh, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân, hãy liên kết với nhau trong việc kêu cầu Thánh Linh, xin cho Hồng Y Đoàn được nhiệt thành hơn trong đức ái mục vụ, hầu giúp cho toàn thể Giáo Hội chiếu rạng tình yêu của Chúa Kitô trên thế giới, để chúc tụng và tôn vinh Ba Ngôi Chí Tháhh. Amen!

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/3/2006  

 

 


Thứ Bảy

 

(Nếu không bị át bởi Lễ trọng kính Đức Mẹ Thụ Thai Lời Nhập Thể 25/3 như năm 2023 này)

Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Gr 11, 18-20

"Con như chiên con hiền lành bị đem đi giết".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Lạy Chúa, Chúa đã tỏ cho con và con đã biết; vì Chúa đã chỉ cho con những mưu toan của chúng. Còn con, con như chiên con hiền lành bị đem đi giết. Con đã không biết chúng mưu toan hại con khi chúng nói: "Chúng ta hãy bỏ cây vào bánh của nó, chúng ta hãy diệt trừ nó khỏi đất kẻ sống, và người ta không còn nhớ đến tên nó nữa".

Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét xử công minh, và dò xét tâm can. Chớ gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng, vì con đã phó thác việc con cho Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 7, 2-3. 9bc-10. 11-12

Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài, xin cứu con khỏi mọi người đang lùng bắt, và xin giải thoát thân con, kẻo có người như sư tử chộp bắt hồn con, xé nát ra mà không ai cứu gỡ. - Ðáp.

2) Xin minh xét cho con, thân lạy Chúa, theo sự công chính và vô tội ở nơi con. Nguyện cho chấm dứt sự độc dữ kẻ ác nhân, và xin Ngài củng cố người hiền đức, khi Ngài lục soát tâm can, ôi Chúa công minh. - Ðáp.

3) Thuẫn che thân con là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ những kẻ lòng ngay. Thiên Chúa là vị công minh thẩm phán, và Thiên Chúa hăm doạ hằng ngày. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26

Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời".

 

Phúc Âm: Ga 7, 40-53

"Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: "Ông này thật là tiên tri". Kẻ khác nói: "Ông này thật là Ðấng Kitô". Người khác nữa lại nói: "Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?" Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người. Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người. Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ rằng: "Tại sao các ngươi không điệu nó tới?" Các người thừa hành thưa rằng: "Chẳng hề có ai nói như người ấy". Các người biệt phái trả lời rằng: "Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề luật". Nicôđêmô là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với họ rằng: "Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?" Nhưng họ trả lời rằng: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa". Sau đó ai về nhà nấy.

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm


 

   Chúa Giêsu nổi bật hơn bao giờ hết,

giữa tình trạng chia rẽ trầm trọng nơi cả dân chúng cũng như thành phần lãnh đạo,

và giữa thành phần lãnh đạo với thành phần thừa hành. 


Hôm nay, Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần IV Mùa Chay, bài Phúc Âm hôm nay không hề có sự hiện diện chính thức của Chúa Giêsu một tí nào. Thế nhưng dù không có lời nào Người phán hay việc nào Người làm, mà Người lại nổi bật hơn bao giờ hết, giữa tình trạng chia rẽ trầm trọng nơi cả dân chúng cũng như thành phần lãnh đạo, và giữa thành phần lãnh đạo với thành phần thừa hành. Đó là chứng cớ cho thấy tầm ảnh hưởng quá ấn tượng của Người.

 

Trước hết, thành phần dân chúng đã chia rẽ nhau về Người như sau: "Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: 'Ông này thật là tiên tri'. Kẻ khác nói: 'Ông này thật là Ðấng Kitô'. Người khác nữa lại nói: 'Đấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?' Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người".

 

Sau nữa, giữa thành phần lãnh đạo với thành phần thừa hành: "Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người. Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ rằng: 'Tại sao các ngươi không điệu nó tới?' Các người thừa hành thưa rằng: 'Chẳng hề có ai nói như người ấy'. Các người biệt phái trả lời rằng: 'Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề luật'".

 

Sau hết, giữa chính nội bộ lãnh đạo với nhau: "Nicôđêmô là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với họ rằng: 'Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?' Nhưng họ trả lời rằng: 'Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa' Sau đó ai về nhà nấy".

 

Tình trạng chia rẽ này, cho dù giữa dân chúng với nhau hay giữa nội bộ lãnh đạo với nhau, đều giống nhau và qui tụ lại ở chỗ cả hai thành phần này cùng căn cứ vào xuất xứ của nhân vật Giêsu Nazarét là từ Galilêa chứ không phải từ Giuđêa để suy diễn và quyết đoán về Người có thực sự là tiên tri hay chăng, hoặc là đấng thiên sai hay chăng?

 

Dân chúng: "Đấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?"; Lãnh đạo: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa".

 

Đó là về phía thành phần không chấp nhận Người. Còn về thành phần chấp nhận Người thì họ lại căn cứ vào cảm nhận tự nhiên của họ, đúng hơn, căn cứ vào chính những gì Người nói mà họ cảm nhận được Người là ai, đúng như Người chứng thực về Người, rất đáng khả tín, rất đáng chấp nhận. 

 

Trong khi chung dân chúng: "sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: 'Ông này thật là tiên tri'. Kẻ khác nói: 'Ông này thật là Ðấng Kitô'", thì thành phần thừa hành của các vị trong giáo quyền cũng cảm thấy có một cái gì đó đặc biệt nơi Người: "Chẳng hề có ai nói như người ấy".

 

Đến đây và ở trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay chúng ta mới thấy thật sự và hoàn toàn ứng nghiệm lời tiên tri của tư tế Simeon là vị đã ẵm hài nhi Giêsu trên tay lúc bé mới được 40 ngày mà nói: "Con Trẻ này sẽ trở thành cớ cho nhiều người trong Israel vấp ngã hay chỗi dậy, trở thành một dấu hiệu đối chọi" (Luca 2:34). 

 

Chính Chúa Kitô cũng cho dân Do Thái biết bản thân Người là cả một mầu nhiệm vô cùng cao cả và thần linh, tự mình họ không thể nào thấu biết, cho dù Người không giấu diếm họ một chút nào, trái lại đã nhiều lần và nhiều cách tỏ mình ra cho họ biết tất cả sự thật về Người, theo kiểu cách loài người, đến độ, cả thành phần môn đệ thân tín của Người cũng thế, cũng không hơn gì dân chúng và thành phần lãnh đạo dân chúng, như chính Người đã quả quyết với các vị như đã quả quyết với chung dân Do Thái rằng: 

 

"Các con ơi, Thày không còn ở với các con bao lâu nữa. Các con sẽ tìm kiếm Thày, nhưng này Thày nói với các con những gì Thày đã từng nói với người Do Thái đó là 'nơi Tôi đi quí vị không thể nào đến được'" (Gioan 13:33; 7:33-34). 

 

Thậm chí, Người còn báo trước cho chung dân Do Thái và riêng thành phần lãnh đạo của họ biết rằng: "Quí vị sẽ tìm Tôi nhưng quí vị sẽ chết trong tội lỗi của quí vị" (Gioan 8:21), và quả thực đã xẩy ra hoàn toàn đúng như vậy, trong Tuần Thánh. Ở chỗ, chẳng những cả một Hội Đồng Đầu Mục Do Thái đã đồng thanh lên án tử cho Người ngay khi Người chân nhận mình là Đấng Thiên Sai như họ nhân danh Thiên Chúa hỏi Người, mà còn cả một tông đồ đoàn bỏ chạy, một tông đồ Giuđa phản nộp Thày mình và nhất là một lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô chối bỏ Thày mình ... 

 

Tuy nhiên, không phải vì thế, không phải thấy trước một tương lai đen tối như thế mà Người, Đấng Thiên Sai đích thực của Thiên Chúa cảm thấy sợ hãi và toan tính bỏ chạy. Trái lại, biết vai trò chủ chiên của mình, một "chủ chiên nhân lành thí mạng sống mình vì chiên... cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:11,10) mà Người đã tuyên bố và tiên báo: "Tôi tự ý bỏ mạng sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17).

 

Qua miệng tiên tri Giêrêmia ở Bài Đọc 1 hôm nay, chính Người đã chấp nhận thân phận thiên sai cứu thế đầy bất hạnh và vô cùng khốn nạn của mình một cách ngoan ngoãn như con chiên bị đem đi giết như sau:

 

"Lạy Chúa, Chúa đã tỏ cho con và con đã biết; vì Chúa đã chỉ cho con những mưu toan của chúng. Còn con, con như chiên con hiền lành bị đem đi giết. Con đã không biết chúng mưu toan hại con khi chúng nói: 'Chúng ta hãy bỏ cây vào bánh của nó, chúng ta hãy diệt trừ nó khỏi đất kẻ sống, và người ta không còn nhớ đến tên nó nữa'".

 

Thế nhưng, mục đích Người "tự ý bỏ sự sống mình đi" là "để lấy lại", chứ không phải để bị hủy diệt đời đời. Bởi thế, cũng qua miệng tiên tri Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay, Người đã an tâm chấp nhận mọi sự theo ý Đấng đã sai Người: "Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét xử công minh, và dò xét tâm can. Chớ gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng, vì con đã phó thác việc con cho Chúa", Đấng đã có cách để "báo thù" một cách kỳ diệu ngoài sức tưởng tưởng của họ. 

  

Đúng thế, cách "báo thù" của Thiên Chúa bao giờ cũng là lấy lành mà thắng dữ, lấy thiện mà báo ác, hay đúng hơn biến ác thành lành, một đường lối siêu việt đến độ thế gian không thể nào hiểu được, chứ đừng nói làm được, mà chỉ bàng hoàng ngỡ ngàng khi thấy chính mưu đồ đầy gian ác, hết sức khôn ngoan và hoàn toàn tự do của mình lại trở thành phương tiện và cơ hội để Thiên Chúa thực hiện tất cả những gì Ngài muốn, theo đúng dự án thần linh của Ngài: "Viên đá bị thợ xây loại bỏ đã trở thành viên đá gốc" (Thánh Vịnh 118:22; Mathêu 21:42; Tông Vụ 4:11).

 

Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 cùng ngày, chất chứa tâm tình của một con người hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Vị Thiên Chúa của mình, để Ngài muốn làm gì thì làm nơi mình cho ý muốn tối thượng của Ngài được nên trọn:

 

1) Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài, xin cứu con khỏi mọi người đang lùng bắt, và xin giải thoát thân con, kẻo có người như sư tử chộp bắt hồn con, xé nát ra mà không ai cứu gỡ. 

 

2) Xin minh xét cho con, thân lạy Chúa, theo sự công chính và vô tội ở nơi con. Nguyện cho chấm dứt sự độc dữ kẻ ác nhân, và xin Ngài củng cố người hiền đức, khi Ngài lục soát tâm can, ôi Chúa công minh. 

 

3) Thuẫn che thân con là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ những kẻ lòng ngay. Thiên Chúa là vị công minh thẩm phán, và Thiên Chúa hăm doạ hằng ngày.