SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XX Thường Niên 

Năm A (Chúa Nhật) và Năm Lẻ (Ngày trong tuần)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Is 56, 1. 6-7

"Ta sẽ dẫn con cái Ta lên núi thánh".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Thiên Chúa phán: "Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện.

"Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8

Ðáp: Chư dân hãy ca tụng Ngài! Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).

Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin tỏ ra cho chúng con thấy long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu, thiên hạ nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.

2) Các dân tộc hãy mừng vui và khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.

3) Chư dân hãy ca tụng Ngài. Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, để cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 11, 13-15. 29-32

"Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi Israel, thì Người không hề hối tiếc".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi nói với anh em là những người gốc Dân Ngoại rằng: Bao lâu tôi là Tông đồ các Dân Ngoại, tôi sẽ tôn trọng chức vụ của tôi, nếu có cách nào làm cho đồng bào tôi phân bì, mà tôi cứu rỗi được ít người trong họ. Vì nếu do việc họ bị loại ra, mà thiên hạ được giao hoà, thì sự họ được thâu nhận sẽ thế nào, nếu không phải là một sự sống lại từ cõi chết?

Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót; cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót. Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 15, 21-28

"Này bà, bà có lòng mạnh tin".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm". Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel". Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống". Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.

Ðó là lời Chúa.

Daily Meditations with Fr. Alfonse: Mt 15:21-28 Have Pity on Me Lord

 

Cảm Nghiệm Lời Chúa


  

"Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon" - Miền Đất của dân ngoại, để tìm kiếm "con chiên lạc nhà Israel"?

 

Con chó con trừ quỉ - một tuyệt chiêu đức tin

 

 

Không có một tôn giáo nào chính yếu trên thế giới này, hay một dân nước nào trên trần gian này có một lịch sử được gọi là Lịch Sử Cứu Độ ngoài dân tộc Do Thái. Lịch sử của dân tộc Do Thái trở thành Lịch Sử Cứu Độ là vì chính Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân tộc này và ở với họ cho tới cùng, tức cho "tới thời điểm viên trọn, Thiên Chúa sai Con của Ngài sinh ra bởi một người nữ" (Galata 4:4), thời điểm cánh chung của một dân tộc Tân Ước có tính cách Công Giáo là Giáo Hội Chúa Kitô, một dân tộc Tân Ước ở "nơi tất cả mọi dân nước" (Mathêu 28:19), hiện diện trên "khắp thế gian" (Marco 16:15), "cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8).

 

Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái không được bắt đầu từ ngay sau nguyên tội, mà là từ tổ phụ Abraham, nhưng Lịch Sử Cứu Độ này được hiện tỏ nhất ở biến cố Vượt Qua của dân tộc này nhờ vai trò trung gian của Moisen, một cuộc vượt qua từ mảnh đất nô lệ Ai Cập đến vùng Đất Hứa tự do chảy sữa mạc khải thần linh và mật đức tin tuân phục, một vùng Đất Hứa của dân ngoại trước đó nhưng được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất giành cho dân tuyển chọn của Ngài qua lời hứa của Ngài với tổ phụ Abram, vị đã bỏ quê hương xứ sở thân thương của mình để đến một vùng đất hoàn toàn xa lạ, không biết ở đâu và như thế nào, theo hướng dẫn của Đấng Quan Phòng Thần Linh vô cùng khôn ngoan mà ông hoàn toàn tin tưởng tuân phục. Thậm chí ông còn dám tuân theo Thánh Ý Chúa trong việc sẵn sàng sát tế chính đứa con trai duy nhất của mình, người con được Thiên Chúa ban cho ông trong lúc cả hai vợ chồng ông đã quá tuổi sinh sản, một người con theo lời hứa cho cả một hậu duệ đông như sao trời nhiều như cát biển.

 

Bởi thế, ông đã xứng đáng là tổ phụ không phải chỉ của một dân tộc Do Thái bé nhỏ ít oi về cả địa lý lẫn dân số so với các dân chung quanh thuộc khối Ả Rập, mà còn của tất cả mọi dân nước trên thế giới nói chung, nhất là của những kẻ tin vào Thiên Chúa nói riêng. Đúng thế, ý định vô cùng khôn ngoan và toàn thiện của Thiên Chúa trong việc tuyển chọn riêng dân Do Thái để tỏ mình ra trong giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ không phải chỉ cho hạnh phúc của một mình họ, hay chỉ vì yêu thương riêng họ, mà là để nhắm đến tất cả mọi dân nước trên thế giới này, tức để hiện thực lời hứa khởi nguyên trong việc ban cho chung nhân loại một Đấng Cứu Thế (xem Khởi Nguyên 3:15), nhưng lại là Vị Cứu Thế thuộc giòng dõi loài người, được hạ sinh bởi một người nữ, đó là một trinh nữ ở Nazarét tên là Maria (xem Luca 1:26-27), một người nữ Do Thái theo gia phả của vương tộc Đavít (xem Mathêu 1:16; Luca 2:4).

 

Đó là lý do, qua miệng của Tiên Tri Isaia ở Bài Đọc I hôm nay, Thiên Chúa đã hứa hẹn "Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa" rằng "Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".

 

Thánh Vịnh gia trong Thánh Vịnh 66 ở Bài Đáp Ca hôm nay cũng bày tỏ cảm nghiệm của mình một cách hân hoan phấn khởi về ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa đối với dân ngoại qua việc Ngài mạc khải cho dân Do Thái trước như sau: "xin tỏ ra cho chúng con thấy long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu, thiên hạ nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ" (câu 1). Bởi thế: Vị Thánh Vịnh gia này đã kêu gọi dân ngoại "ca tụng" Thiên Chúa mà rằng: "Các dân tộc hãy mừng vui và khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu" (câu 2), và "Chư dân hãy ca tụng Ngài. Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, để cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài" (câu 3).

 

Tuy nhiên, Thiên Chúa tỏ lòng yêu thương và muốn cứu độ dân ngoại, bao gồm tất cả mọi dân nước trên thế giới này, không có nghĩa là Ngài muốn loại trừ đi hay hoàn toàn tẩy chay dân Do Thái của Ngài, như thể dân Do Thái đã hết thời, sau khi được Ngài sử dụng như phương tiện để tiến vào thế giới đại đồng, cho dù Ngài đã thực sự tỏ ra muốn tận diệt dân Do Thái hết sức cứng đầu và đầy những ngoan cố này hai lần, một lần họ thờ bò vàng khi mới ra khỏi Ai Cập và Vượt Qua Biển Đỏ (xem Xuất Hành 32:9-10) và một lần họ muốn truất phế Moisen để tự lập kéo nhau quay về lại Ai Cập khi gần vào Đất Hứa (xem Dân Số 14:11-12).

 

Thật vậy, đúng như xác tín của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong Thư gửi Rôma ở Bài Đọc II hôm nay: "Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc". Ở chỗ nào và ra sao? Cũng Vị Tông Đồ Dân Ngoại này trả lời ngay sau đó thế này: "Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót; cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót. Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người".

 

Nghĩa là, theo Thánh Phaolô, vì "Chúa thương xót hết mọi người" mà Ngài đã thực hiện một đường lối hoàn toàn ngoài dự tưởng tự nhiên hạn hẹp của con người, đó là "đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin", như thể Ngài lợi dụng thái độ không tin tưởng và bất tuân phục của dân Do Thái đối với Ngài để tỏ lòng thương Dân Ngoại: "vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót", rồi sau đó Ngài vẫn tỏ lòng thương dân Do Thái: "họ cũng được thương xót", thậm chí vị tông đồ này còn khẳng định về tương lai của dân Do Thái như sau: "Tình trạng mù quáng của dân Do Thái kéo dài cho tới khi đủ số Dân Ngoại thì bấy giờ tất cả dân Do Thái sẽ đươc cứu" (Roma 11:25-26).

 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra coi trọng dân tộc Do Thái theo huyết nhục trần gian của Người: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel". Vì, theo Người thì "dầu sao ơn cứu độ bắt nguồn từ dân Do Thái" (Gioan 4:22). Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao "Thày chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel" mà ở ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu lại được Thánh ký Mathêu ghi nhận rằng: "Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon" là miền đất của dân ngoại,  một miền đất ở phía tây bắc nước Do Thái và ở bên ngoài nước Do Thái, nghĩa là ở một vùng không có người Do Thái. Chẳng lẽ Chúa Giêsu đi tìm "con chiên lạc nhà Israel" nào đó ở vùng đất dân ngoại này hay sao? Hay Người ám chỉ "con chiên lạc nhà Israel" đây, không phải chỉ bao gồm thành phần dân Do Thái cứng lòng không tin vào Người, thành phần mù quáng lầm lạc, mà còn chính là dân ngoại, vì dân ngoại, theo dự án cứu độ của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, qua lời hứa với tổ phụ Abraham, được thông phần gia nghiệp cứu độ với dân Do Thái (xem Khởi Nguyên 22:17-18). 

 

Không biết có phải thực sự Chúa Giêsu "lui về miền Tyrô và Siđon " là để tìm kiếm "con chiên lạc nhà Isarel" là dân ngoại hay chăng, nhưng theo cấu trúc của bài Phúc Âm hôm nay thì lý do "Chúa Giêsu lui về (withdrew)" vùng đất của dân ngoại này, (chứ không phải, nếu căn cứ vào vị trí về địa lý Thánh ký Mathêu đáng lẽ phải viết rằng "Chúa Giêsu tiến lên" vùng đất dân ngoại ở miến tây bắc bên ngoài nước Do Thái này mới phải), như thể, qua từ ngữ "rút về" này của Thánh ký Mathêu, Người nghĩ đến, Người quay lại với dân ngoại sau khi Người thấy dân Do Thái của Người cứ tiếp tục tỏ ra mù quáng, đúng như chủ trương của Thánh Phaolô về đường lối trong Bài Đọc I hôm nay: "vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót". Đó là lý do, ngay ở đầu Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Mathêu đã ghi nhận rằng: "Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon", ra khỏi nơi mà ở đoạn phúc âm ngay trước bài Phúc Âm hôm nay, Người đã bị nhóm biệt phái và luật sĩ duy luật nhưng hoàn toàn giả hình chặn hỏi về sự kiện thành phần môn đệ của Người không chịu rửa tay trước khi ăn.

 

Trong khi thành phần duy luật biệt phái và luật sĩ Do Thái tự phụ và tự đắc là mình thuộc thành phần công chính bởi họ kỹ lưỡng và cẩn thận tuân giữ lề luật nhưng lại không tin "Con Người là Chúa của ngày hưu lễ" (Mathêu 12:8), thì người đàn bà ngoại lai ở Canaan có người "con gái bị quỷ ám khốn cực lắm" lại có một đức tin bất khuất vào một nhân vật mà bà gọi là "con Vua Ðavít", một nhân vật hình như bà mới được gặp lần đầu tiên, sau khi bà chỉ được nghe thấy tiếng tăm vang dội về Người ở cả trong lẫn ngoài nước Do Thái của Người (xem Mathêu 4:25).

 

Đức tin của người mẹ ngoại bang thương con như chính bản thân mình này: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi", "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi", mãnh liệt đến bất khuất của bà đã có thể thắng vượt tất cả những gì là kỳ thị về chủng tộc "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel", thậm chí bất chấp thái độ khinh bỉ nhân phẩm của bà từ chính Đấng bà tin tưởng cậy trông: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó", Đấng cuối cùng đã chào thua bà và đã đáp ứng đúng như ý nguyện thiết tha của bà cho người con gái của bà: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy" - "Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành".

 

Như thế có nghĩa là người đàn bà Canaan này, mặc nhiên đã "làm theo những gì Người bảo" (Gioan 2:5), đúng như Mẹ Maria đã hướng dẫn đám gia nhân phục vụ ở tiệc cưới Cana, ở choô, Người bảo bà ấy là "chó con", bà cũng nhận mình là chó con theo ý Chúa, mà ý Chúa thì "muốn sao được vậy", nhờ đó, con chó con là bản thân của bà đã có quyền lực vô địch đến độ chẳng những thắng được cả Đấng thử thách bà mà còn khiến cho cả ma quỉ kinh hoàng khiếp đảm lìa bỏ con gái bà ngay lập tức. Bởi thế mới nói con chó con trừ quỉ là như vậy.

 

Trường hợp của người đàn bà xứ Canaan ngoại bang này quả thực đã ứng nghiệm lời Chúa Giêsu phán về những ai cởi mở tin tưởng vào Người nên được Người tỏ mình ra cho, như trong câu Người phán được Giáo Hội sử dụng trước Bài Phúc Âm hôm nay: "Alleluia, alleluia! - Chúa phán: 'Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy'. - Alleluia"

 

 

 

Ngày 20 tháng 8

Thánh Bê-na-đô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử
 
Thánh nhân sinh năm 1090 gần Đi-giông, nước Pháp. Được giáo dục theo nếp sống đạo đức, năm 1111 người nhập dòng các đan sĩ Xi-tô. Ít lâu sau, người được chọn làm viện phụ. Người đã dùng hoạt động và gương sáng để hướng dẫn các đan sĩ tập luyện các nhân đức. Vì có sự phân ly trong Hội Thánh, người đã đi khắp châu Âu để lo vãn hồi sự hoà bình và hợp nhất. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Người qua đời năm 1153.

Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách

Tôi yêu vì tôi yêu, tôi yêu để tôi yêu

Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ, về sách Diễm ca.

Tình yêu tự mình đủ cho mình, tự mình và vì mình đem lại niềm vui. Chính tình yêu là công trạng, nhưng cũng chính tình yêu là phần thưởng cho mình. Tình yêu không tìm lý do, không tìm hiệu quả ngoài mình : hiệu quả của tình yêu là chính tình yêu. Tôi yêu vì tôi yêu, tôi yêu để tôi yêu. Tình yêu là một điều cao cả, miễn là luôn trở về với nguyên lý của mình, miễn là luôn trở lại với nguồn gốc của mình, miễn là ngược trở lại nguồn mạch của mình để luôn luôn được tuôn trào. Trong mọi hoạt động, cảm xúc và tâm tình của linh hồn, chỉ có tình yêu có thể giúp thụ tạo đáp lại Đấng Tạo Hoá, dầu không tương xứng, thì ít ra cũng giống nhau được phần nào. Vì khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu : Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó.

Tình yêu của hôn phu, đúng hơn tình yêu là hôn phu, không đòi hỏi gì khác hơn là được yêu lại và giữ lòng chung thuỷ. Do đó người được yêu có quyền yêu lại. Sao hôn thê có thể không yêu, khi chính nàng là hôn thê của tình yêu ? Sao tình yêu lại không được yêu ?

Thế nên hôn thê có lý khi từ bỏ mọi tình cảm khác để hoàn toàn hiến mình cho một tình yêu duy nhất, vì hôn thê phải đáp lại chính tình yêu bằng cách yêu lại. Nhưng khi hôn thê hoà nhập hoàn toàn với tình yêu, thì tình yêu sẽ là gì so với dòng chảy bất tận của nguồn mạch tình yêu ? Người yêu và tình yêu, linh hồn và Ngôi Lời, hôn thê và hôn phu, tạo hoá và thụ tạo không tuôn đổ dòng yêu thương phong phú như nhau, chẳng khác gì người khát với nguồn nước.

Vậy thì sao ? Không lẽ vì thế mà làm mai một và tan biến hoàn toàn lời ước nguyện của vị hôn thê, niềm khát khao của kẻ mong chờ, lòng rạo rực của kẻ đang yêu, lòng tin tưởng của người hãnh diện, vì vị hôn thê đâu có thể chạy sóng đôi với người khổng lồ, tranh đua vị ngọt với mật ong, tính hiền lành với con chiên, màu trắng với hoa huệ, vẻ sáng chói với mặt trời, tình yêu với Đấng là chính tình yêu ? Không phải thế. Vì thụ tạo nhỏ bé hơn, nên vẫn yêu mến ít hơn. Dầu vậy, nếu thụ tạo yêu trọn tình, thì nơi đâu đã trọn vẹn, nơi ấy chẳng thiếu chi. Vậy yêu như thế là đã thành hôn rồi, bởi không thể yêu đến vậy mà chỉ được yêu lại ít, nên khi hai bên đã thuận tình, thì hôn phối trọn vẹn và hoàn hảo đã được kết ước. Nếu không, lại có kẻ nghi ngờ sự thật này : linh hồn vẫn được Ngôi Lời yêu thương trước và yêu thương nhiều hơn.

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh viện phụ Bê-na-đô đầy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa để trở nên ngọn đèn cháy sáng trong Giáo Hội. Nhờ lời người nguyện giúp cầu thay, xin cho chúng con cũng được lòng hăng hái như người, để sống thế nào cho xứng danh là con cái ánh sáng. Chúng con cầu xin

 

Ngày 20/08: Thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội thánh

 

1. Đôi hàng tiểu sử

Thánh Bernađô sinh năm 1090 tại lâu đài Fontaine-les-Dijon, nước Pháp. Nhờ sinh trưởng trong một gia đình thượng lưu và gia giáo, Bernađô sau này đã trở thành người bặt thiệp biết xử sự khôn ngoan với mọi người. Trong số 7 anh em, Bernađô là người con thứ ba. Cậu được gia đình cưng chiều hơn cả vì có tư cách nết na và đạo hạnh hơn các anh em.

Đàng khác Bênadô còn được bà thân mẫu A-let quý mến cách riêng vì một câu chuyện chiêm bao có liên quan tới con bà. Câu chuyện mộng mị đó như sau:

Một tối kia bà Alét mơ thấy trẻ Bênadô đang nô đùa, bỗng hoá thành một con chó cất tiếng sủa vang. Bà đem hiện tượng chiêm bao đó kể lại cho mọi người nghe và ai nấy đều nghĩ đó là điềm báo sau này sẽ trở thành một nhà giảng thuyết đại tài.

Tới tuổi khôn, Bernađô được cha mẹ cho theo học tại trường các thầy kinh sĩ ở Chatillon-sur-Seine. Nhờ sư rèn cặp của các thầy, Bernađô đã dần dần bỏ được tính rụt rè và câu nệ thái quá. Tính nhút nhát đó đã khiến cậu rất sợ hãi khi phải ra trước công chúng; vì thế mà có lần Bênadô đã phải bực mình kêu lên: “Thà rằng tôi chết đi còn hơn nói trước công chúng hay đến trước mặt một người ngoại quốc”.

Năm 16 tuổi giữa lúc cuộc đời đang lên với nhiều hứa hẹn thì bà thân mẫu của Bernađô từ trần khiến cậu phải trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần nặng nề, và khiến cậu trở nên trầm lặng và suy tư. Nhưng rồi bỗng người ta thấy cuộc đời của chàng thanh niên ấy xoay hẳn một góc 180o. Chàng đứng lên, cương quyết chống lại mọi thử thách và quyến dũ của gia đình và bạn bè để dâng mình phụng sự Chúa trong dòng Xi-tô. Không những thế Bernađô còn lần lượt lôi cuốn được các anh em và cả ông thân sinh cùng nhiều người khác theo gương mình vào dòng.

Người ta kể lại rằng: Ngày kia người em út của Bênadô là Nivard đang chơi đùa với các trẻ em thì người anh cả bảo cậu rằng: “Các anh đi đây và nhường lại cho các em cả gia nghiệp, em có bằng lòng không?” Người em đáp lại: “Em không muốn thế, sao các anh chiếm nước trời còn để đất đai lại cho em”. Ít lâu sau người em cũng vào dòng.

Bênadô từ ngày dấn thân vào đời sống mới, luôn luôn tự hỏi mình: “Hỡi Bênadô, người vào đây để làm gì?”. Để nhắc nhở mình sống đúng với lý tưởng đã chọn, câu hỏi vắn tắt làm như phương châm cho đời sống, đã giúp thầy Bênadô siêng năng làm việc và làm một cách chu đáo. Một hôm các thầy xin Bênadô nghỉ ngơi để cho các thầy khác gặt lúa bởi vì thấy thầy yếu và không quen. Nhưng thầy khóc lóc xin Chúa cho mình có thể gặt lúa với anh em.

Năm 1115 thầy được cử làm tu viện trưởng Clairvaux một chi nhánh của dòng Xi-tô. Đây là một dịp để thầy hy sinh hãm mình nhiều hơn, dù yếu đuối và sức khỏe rất mỏng manh thầy cũng không chịu thua kém ai trong sự ăn uống kham khổ. Ngài còn mắc chứng đau bụng kinh niên. Tuy nhiên Ngài vẫn cố gắng tham dự các buổi phụng vụ như mọi người khác. Chỉ khi nào không chịu nổi cơn đau Ngài mới bỏ cộng đồng.

Nhận thấy tu viện trưởng Bernađô là người có đầy nhân đức và uy tín nên đức Giám mục Guillaume de Champeaux cho ngài được nhận chức linh mục và sai ngài đi giảng thuyết ở nhiều nơi. Ngài đã vâng lời vui vẻ ra đi. Nhờ đức khiêm nhường sâu thẳm, Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên tri, làm nhiều phép lạ. Hết nhiệm vụ Ngài lại trở về nhà dòng phục vụ. Trong 38 năm làm bề trên, Ngài lập thêm được 68 tu viện chi nhánh của Clervaux. Ngài viết nhiều tác phẩm để bênh vực đức tin, truyền bá lòng yêu mến Chúa và đức bác ái.

Từ bé, Ngài vốn có lòng tôn sùng mầu nhiệm Chúa xuống thế làm người thì bây giờ Ngài cũng năng suy niệm mầu nhiệm ấy. Nhận thấy thánh nhân là người có trí thông minh và tài giảng thuyết cũng như giảng hòa nội bộ. Năm 1145 - Ngài kịch liệt phản đối vua ở miền nam nước Pháp. Lúc còn thanh niên, Ngài rất sợ ra trước công chúng nhưng nhờ ơn Chúa, nay Ngài cảm thấy cương quyết và can đảm nhiều.

Một hôm Ngài tới miền Sens để gặp A-bê-la người mê trí thức và khoa học đời, trước mặt cả cộng đồng giáo sĩ, Ngài phản đối A-bê-la: “Một người công giáo lầm lạc còn nguy hiểm hơn là người theo tà giáo”. Bênadô không phản đối việc trau dồi tri thức nhưng cha nhận đó là phương tiện truyền giáo, Ngài nói: “Người ta không khuất phục tà giáo bằng khí giới nhưng bằng biện luận”. Sau cùng cha Bênadô đã góp phần vào việc tranh đấu bảo vệ mồ thánh Chúa khỏi tay người Hồi giáo. Tuy thành công và danh tiếng nhiều nhưng thánh nhân vẫn khiêm tốn. Đôi khi không làm phép lạ và người ta hỏi thì Ngài chỉ trả lời: trông cậy ở Chúa và Chúa làm còn tôi không có gì đâu.

Sau khi tận tụy và nỗ lực làm việc cho sáng danh Chúa, thánh nhân đã qua đời tại Clairvaux ngày 20 tháng 8 năm 1153 lúc ba giờ chiều ngày thứ năm, thọ 63 tuổi.

Mười năm sau, các tu viện trưởng họp lại lập án xin phong thánh cho cha Bernađô. Ngày 18 tháng 1 năm 1174, án được Đức Alexandro III châu phê. Và năm 1830 Đức Piô VIII tôn phong Ngài lên hàng tiến sĩ Giáo hội.

2. Cuộc sống chứng nhân

Như đã nói ở trên, Bernađô là một người rất khiêm nhường và thánh thiện cho nên Chúa đã thưởng công cho Ngài. Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên tri, làm nhiều phép lạ.

Đây là một giai thoại nổi tiếng khi Ngài ở Clairvaux. Hôm ấy nhà dòng hết muối. Cha Bernađô liền gọi một thầy tên là Guibert đến và bảo:

- Con hãy lấy con lừa (vì đây là con vật duy nhất mà tu viện sở hữu) và đi ra phố mua muối.

- Xin Cha con tiền để trả - thấy Guiber nói.

- Con ơi thánh - Bernađô trả lời -, đã khá lâu Cha không còn tiền cũng không còn vàng. Nhưng trên cao kia có Đấng giữ túi tiền và kho tàng của Cha!

Nghe nói thế thầy Guiber suýt nữa phì cười, nhưng thầy không thể không lưu ý Cha thánh điều này:

- Thưa Cha, nếu con đi với hai bàn tay không thì con cũng trở về chắc chắn với hai bàn tay không.

- Đừng sợ con ạ, hãy tin tưởng. Đấng giữ kho báu của Cha sẽ ở với con và người sẽ tìm cách giúp con có những gì cần thiết để làm xong công tác.

Guiber cúi đầu nhận phúc lành từ tay vị tu viện trưởng và dẫn con lừa ra đi. Các mối nghi ngờ của thầy không hoàn toàn tan biến. Nhưng khi thấy sắp băng qua cửa thành thì có một vị Linh mục đến gần và hỏi:

- Thầy từ đâu đến và đi đâu vậy?

Guiber không do dự thú nhận sự túng thiếu tột độ của tu viện và sự bối rối hiện nay của thầy. Rất cảm động, vị Linh mục dẫn thầy về nhà và cho thầy nửa thùng muối và một số tiền là 30 xu (tương đương với 300 quan Pháp thời nay).

Hãy tưởng tượng xem niềm vui của thầy Guiber lớn như thế nào. Thầy trở về lại tu viện và chỉ còn việc phải làm là ngay lập tức kể lại câu chuyện cho bề trên của thầy nghe.

- Cha đã nói rõ với con, cha Bernađô đáp, và cha lập lại với con điều đó: Đối với người Kitô hữu không có cái gì khác ngoài đức tin!

Lịch sử cũng còn ghi, Ngài lòng sùng kính Mẹ Maria rất lạ lùng. Truyền thuyết cho hay: Mỗi khi đi ngang qua ảnh tượng Đức Mẹ, thánh nhân thường hay chào Mẹ bằng câu: “Kính chào Mẹ Maria!” và một ngày kia, Đức Mẹ đã đáp lại lời chào của ngài: “Chào con, Bernađô!” Bằng cách này, Đức Mẹ cho biết tình yêu và lòng sùng kính thánh Bernađô đã dành cho Đức Mẹ thật lớn lao chừng nào; và Đức Mẹ cũng hài lòng biết bao!

Xin được kết thúc bằng chính lời của thánh Bernađô trích trong bài giảng về sách Diễm Ca Của Ngài: "Khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu: Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài việc được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó."

aminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp lại theo tài liệu của website TGP Sài Gòn)

 

Thánh Bênađô ở Clairvaux

(ĐTC Biển Đức XVI ngày 21/10/2009 Bài Giáo Lý Giáo Hội Tông Truyền thứ 92/138)

 

 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 2, 11-19

"Chúa khiến các quan án đứng ra, nhưng chúng không muốn nghe các ông".

Trích sách Thủ Lãnh.

Trong những ngày ấy, con cái Israel làm điều gian ác trước mặt Chúa và phụng thờ các thần Baal. Chúng lìa bỏ Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ chúng, Ðấng đã dẫn chúng ra khỏi đất Ai-cập, mà theo các thần ngoại, những thần các dân tộc cư ngụ chung quanh chúng, và thờ lạy các thần ấy, khiêu khích cơn nghĩa nộ Chúa, chối bỏ Người, và phụng thờ thần Baal và Astaroth. Chúa thịnh nộ Israel, trao chúng vào tay bọn cướp. Bọn này bắt chúng mà bán cho quân thù ở chung quanh chúng, chúng không sao chống lại được địch thù của chúng. Dù chúng muốn đi nơi nào, tay Chúa vẫn đè trên chúng, như Người đã phán và đã thề với chúng, như thế chúng phải chịu khổ cực nặng nề.

Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột, nhưng chúng cũng chẳng muốn nghe theo các vị thủ lãnh. Chúng hướng lòng về các thần ngoại và thờ lạy các thần ấy. Chúng đã vội bỏ đường lối các tổ tiên chúng đã đi, dù chúng có nghe biết các điều răn của Chúa, nhưng chúng vẫn làm mọi điều trái nghịch. Khi Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra, Người tỏ lòng thương xót chúng, nghe lời những kẻ khốn cực kêu van, và giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột sát hại. Nhưng sau khi vị thủ lãnh chết, chúng lại đổi lòng, làm những điều xấu xa hơn cha ông chúng đã làm, theo các thần ngoại, phụng sự và thờ lạy các thần ấy. Chúng không từ bỏ những điều chúng bày đặt ra và đường lối quá ương ngạnh chúng quen đi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 34-35. 36-37. 39-40. 43ab và 44

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Chúa (c. 4a).

Xướng: 1) Họ không chịu tiêu diệt những dân mà Chúa đã có lệnh truyền cho họ. Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm. - Ðáp.

2) Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần. - Ðáp.

3) Bởi những việc đó, họ tự làm ô uế bản thân, và do hành động tội lỗi, họ đã ngoại tình. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Người. - Ðáp.

4) Nhiều lần Chúa đã thương giải phóng nhưng họ manh tâm chống lại Người. Nhưng Người đã nhìn đến cảnh gian truân của họ, khi Người nghe lời họ kêu xin. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 34

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 19, 16-22

"Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, có một người đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?" Người bảo kẻ ấy rằng: "Sao ngươi hỏi Ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng nhân lành là Thiên Chúa. Nếu ngươi muốn vào nơi hằng sống, ngươi hãy tuân giữ các giới răn". Người ấy hỏi rằng: "Những giới răn nào?" Chúa Giêsu đáp: "Ngươi chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình". Người thanh niên thưa lại rằng: "Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng? Chúa Giêsu bảo anh: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 19, 16-22

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Tốt Lành nhưng vẫn chưa Thánh Đức

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XX Thường Niên hôm nay tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm của Thứ Bảy tuần trước, bài Phúc Âm về "Nước Trời thuộc về những người" sống tinh thần khiêm hạ như trẻ nhỏ.

Về nội dung, có thể nói bài Phúc Âm hôm nay tiếp nối bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước. Vì trong bài Phúc Âm hôm nay Nước Trời dường như không thuộc về thành phần giầu có như người giầu có trong bài Phúc Âm, cho dù người giầu có này sống đạo đàng hoàng chứ không vì giầu mà bê bối. 

Trước hết, người giầu trong bài Phúc Âm sống đạo đàng hoàng, đến độ dường như vẫn còn cảm thấy thiếu một cái gì đó, cho dù về vật chất giầu sang phú quí, nên mới lên tiếng hỏi Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?" 

Sau nữa, "người thanh niên" này không vì giầu mà sống bê bối, như lời anh ta đã thưa cùng Chúa Giêsu, Đấng đã liệt kê các giới răn căn bản trong Thập Giới để được cứu rỗi hay "để được sống đời đời", những giới răn "chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình", những giới răn mà anh ta đã tự thú với Người rằng"Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng?" 

Đúng thế, con người được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa nên lòng luôn khắc khoải cho tới khi được nghỉ yên trong Ngài mà cho dù giầu sang phú quí về vật chất họ vẫn cảm thấy xao xuyến bất an làm sao ấy. Thái độ của người thanh niên giầu sang trong bài Phúc Âm đã cho thấy rõ tâm trạng này, chẳng những ở vấn nạn được anh ta đặt ra hỏi Chúa Giêsu: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?", mà còn ở hành động cuối cùng của anh ta được Phúc Âm thuật lại rằng: "Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp".

Tuy nhiên, tâm trạng vẫn còn "thiếu sót" này của chàng thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay cũng dễ hiểu thôi. Bởi vì, ơn gọi nên trọn lành không phải ai cũng có thể theo đuổi, hễ muốn là được, mà cần phải được kêu gọi và tuyển chọn như các vị tông đồ. Mà muốn nên trọn lành thì điều kiện tiên quyết đó là từ bỏ tất cả những gì con người sở hữu, nhờ đó họ mới có thể tiến đến chỗ bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa Kitô Vượt Qua được, như chính Người đã kêu gọi trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải anh có và bố thí cho người nghèo khó, thì anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Tôi".

Dấu hiệu còn cảm thấy "thiếu sót" và "buồn rầu" của người thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm dầu sao cũng đáng mừng, vì chúng chứng tỏ người thanh niên giầu có này vẫn còn ý thức đức tin, vẫn còn khao khát nên trọn lành, tuy chưa thể thực hiện ngay được, hơn là những con người tham lam làm giầu đến độ bỏ Chúa, bỏ lễ Chúa Nhật, cho đến khi Chúa để cho thất bại, tan gia bại sản thì đâm ra trách Chúa, hận Chúa, tại sao Chúa để cho họ bị khốn khó như vậy v.v. Tại sao họ không tự trách mình bỏ Chúa mà lại trách Chúa bỏ họ nhỉ?! Thật là đáng thương...

 

Thái độ tỏ ra luyến tiếc thế gian, dính bén với tất cả những gì mình có, đến độ không thể từ bỏ mà sống trọn lành hơn của chàng thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay, là bằng chứng cho thấy mầm mống nguyên tội của con người vẫn còn đó, với đam mê nhục dục và tính mê nết xấu, một mầm mống cho dù đã được lãnh nhận Phép Rửa, và nhờ đó đã như dân Do Thái vào Đất Hứa, nhưng Kitô hữu vẫn cần phải chiến đấu với bản thân mình để Sống Thánh xứng với thân phận là con cái của Thiên Chúa là Đấng Thánh. Thân phận của dân Chúa ở Đất Hứa cũng thế, như hai nguyên tổ ở trong Vườn Địa đường, cũng vẫn phải chiến đấu với chính bản thân mình trước mọi cám dỗ trước đủ mọi thứ thần tượng thế gian rất thích hợp với con người của mình, nhưng lại không phải là chính Thiên Chúa của mình. Bài Đọc 1 hôm nay đã được Sách Thủ Lãnh / Quan Án ghi nhận về tình trạng của dân Chúa vẫn còn xu hướng dân ngoại và hằng được Thiên Chúa tìm hết cách để cải hoá họ, như sau:

 

Trong những ngày ấy, con cái Israel làm điều gian ác trước mặt Chúa và phụng thờ các thần Baal. Chúng lìa bỏ Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ chúng, Ðấng đã dẫn chúng ra khỏi đất Ai-cập, mà theo các thần ngoại, những thần các dân tộc cư ngụ chung quanh chúng, và thờ lạy các thần ấy, khiêu khích cơn nghĩa nộ Chúa, chối bỏ Người, và phụng thờ thần Baal và Astaroth. Chúa thịnh nộ Israel, trao chúng vào tay bọn cướp... Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột, nhưng chúng cũng chẳng muốn nghe theo các vị thủ lãnh. Chúng hướng lòng về các thần ngoại và thờ lạy các thần ấy. Chúng đã vội bỏ đường lối các tổ tiên chúng đã đi, dù chúng có nghe biết các điều răn của Chúa, nhưng chúng vẫn làm mọi điều trái nghịch. Khi Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra, Người tỏ lòng thương xót chúng, nghe lời những kẻ khốn cực kêu van, và giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột sát hại. Nhưng sau khi vị thủ lãnh chết, chúng lại đổi lòng, làm những điều xấu xa hơn cha ông chúng đã làm, theo các thần ngoại, phụng sự và thờ lạy các thần ấy. Chúng không từ bỏ những điều chúng bày đặt ra và đường lối quá ương ngạnh chúng quen đi".

 

Thánh Vịnh 105 ở bài Đáp Ca hôm nay đã cho thấy nguyên do dân Do Thái vẫn còn xu hướng dân ngoại (câu 1), đã sống như dân ngoại (câu 2), đến độ đã trở nên bất xứng với Thiên Chúa (câu 3), nhưng Chúa là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ vẫn không bao giờ bỏ rơi họ (câu 4), tất cả 4 câu Thánh Vịnh này như sau:

 

1) Họ không chịu tiêu diệt những dân mà Chúa đã có lệnh truyền cho họ. Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm.

2) Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần.

3) Bởi những việc đó, họ tự làm ô uế bản thân, và do hành động tội lỗi, họ đã ngoại tình. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Người.

4) Nhiều lần Chúa đã thương giải phóng nhưng họ manh tâm chống lại Người. Nhưng Người đã nhìn đến cảnh gian truân của họ, khi Người nghe lời họ kêu xin.

 

Ngày 21/08: Thánh Piô X, Giáo hoàng

 

Ngày 21/08: Thánh Piô X, Giáo hoàng

 

1. Đôi dòng lý lịch.

Thánh Piô X Giáo hoàng tên thật là Guiseppe Melchierre Sartô, sinh tại làng Riese miền Venetia, ngày 02 tháng 6 năm 1835. Cha Ngài, ông Giovanni Battista Sartô thành hôn với mẹ Ngài là bà Margherita Samon, nhỏ tuổi hơn ông rất nhiều. Vì vậy lên 17 tuổi, Ngài đã mồ côi cha. Thân phụ ngài là một nông dân nghèo, và mẹ ngài là một thợ may quần áo nữ. Ông Giovanni Battista làm nghề chạy giấy của xã, làm cha một gia đình nghèo túng. Chết đi, ông để lại một gia đình càng túng quẫn hơn nữa. Tuy nhiên nhờ lòng đạo đức của cả hai ông bà mà gia đình này đã góp phần đào tạo nên một vị thánh lớn cho Giáo hội.

Piô X là một người rất thông minh, cần mẫn và sáng trí. Ngài xuất thân từ một gia đình bình dân sinh sống tại Venexia nước Ý và là con trai thứ hai trong gia đình gồm mười anh chị em.

Ngay khi còn nhỏ, cũng giống như cha mẹ, ngài rất đạo đức và luôn ước ao được làm Linh Mục. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh kinh tế của gia đình quá eo hẹp thiếu thốn, ước muốn thánh thiện đó hầu như chỉ là một giấc mơ bất thành mà thôi. Khi được mười một tuổi, Beppo - cái tên cúng cơm người ta thường dùng để gọi ngài - hằng ngày phải đi bộ bảy cây số đến học tại trường La-tinh ở Castelfranco để kết thúc được chương trình trung học phổ thông và để theo học triết và thần học, mãi cho tới khi ngài được nhận vào Chủng Viện ở Padua.

Học tại trường làng, Guiseppe đã tỏ ra có nhiều triển vọng, Ngài luôn là một học sinh giỏi đứng đầu lớp học. Theo phong tục thời đó, dù đã vào ban giúp lễ từ hồi 7 tuổi, mãi tới năm 11 tuổi, Guiseppe mới được rước lễ lần đầu. Những ngày tháng mong đợi có lẽ đã khiến Ngài khi lên Giáo hoàng sau này, đã cho phép trẻ em được rước lễ vỡ lòng khi vừa tới tuổi khôn và nhiệt tình cổ võ lòng tôn sùng bí tích Thánh Thể. Trước bàn thờ Đức Mẹ, dịp rước lễ lần đầu, Guiseppe đã khấn dâng mình cho Chúa. Từ lâu rồi Ngài đã nuôi ý định này nhưng không dám tỏ bày với cha mẹ. Khi biết được ý định của con, mẹ Ngài đã hết sức tán thành, cha Ngài ngập ngừng vì thấy gia đình nghèo túng, nhưng rồi cũng quảng đại vâng theo ý Chúa. Mọi người đều vui mừng vì quyết định của Guiseppe, nhất là cha sở Riese. Cha phó dạy tiếng Latinh cho Ngài. Khi đã đủ lực theo bậc trung học ở Castelfrancô cách Riese 7 cây số. Suốt 4 năm trời Ngài thường vác giầy trên vai, để tiết kiệm, và đi bộ tới trường rồi lại đi bộ về nhà. Chính lý tưởng làm Linh mục là sức mạnh giúp Ngài kiên trì như vậy.

Hết 4 năm tại Castelfrancô, năm 1850, Guiseppe lên đại chủng viện Padua. Gia đình Guiseppe nghèo, cha sở xin được cho Ngài một học bổng, giáo dân trong họ hằng năm quyên tiền giúp đỡ Ngài. Thật là những nghĩa cử cao đẹp đối với một ơn gọi. Năm 17 tuổi, ông thân sinh qua đời, Guiseppe muốn bỏ về giúp mẹ và săn sóc cho 7 đứa em. Lại một nghĩa cử cao đẹp khác vun trồng cho ơn gọi Guiseppe chín mùi: mẹ Ngài không chấp nhận ý kiến, mà quyết tâm dâng con cho Chúa. Trong nếp sống nghèo khó nhưng lại giàu lòng quảng đại ấy, Guiseppe đã tiến tới chức Linh mục ngày 28 tháng 9 năm 1858, lúc 23 tuổi.

Sau ngày mở tay tại quê nhà, cha Guiseppe đi nhận phó xứ Tombolo, chín năm sau Ngài được bổ nhiệm làm chính xứ Salzano. 17 năm làm phó xứ rồi chính xứ, cha Guiseppe sống đời hy sinh tận tụy với giáo dân, nhất là với những người nghèo khó. Không hề ao ước danh vọng, Ngài lại được chiếu cố, được tín nhiệm vào chức vụ cao hơn. Đức Giám mục Trevise mời Ngài về làm trưởng ấn toà giám mục, kiêm nhiệm chức vụ giám đốc chủng viện. Ngài luôn luôn thi hành các chức vụ bề trên giao phó một cách chu đáo.

Năm 1884, Đức Lêô XIII, Đấng mà Ngài sẽ kế vị đặt Ngài làm Giám mục cai quản điạ phận Mantua, Ngài muốn từ khước nhưng đã vâng lời và quyết nên mọi sự cho mọi người.

- Dân chúng sẽ thấy tôi luôn kiên trì trong chức vụ, luôn hiền từ và đầy bác ái.

Ôm hôn mẹ hiền, Ngài cho mẹ xem chiếc nhẫn Giám mục của mình. Mẹ Ngài cũng sung sướng cho Ngài xem chiếc nhẫn cưới của mình và nói:

- Không có chiếc nhẫn của mẹ thì chẳng có chiếc nhẫn của con.

Phải thật nhân đức mới có thể đương đầu với tình trạng đáng thương của giáo phận: chủng viện gần như trống rỗng, dân chúng chịu ảnh hưởng của tâm điểm thệ phản thuyết phóng túng nên lòng đạo đức sa sút, chẳng còn nhiệt tâm gì với việc tông đồ, với đời sống nội tâm. Sợ hãi, nhưng Đức cha Sartô bắt tay ngay vào việc canh tân. Ngài đi kinh lý khắp điạ phận rộng lớn. Những cuộc tiếp xúc thường xuyên và thân mật này đã tạo nên những bước tiến cụ thể. Khi mùa gặt đã tới, Ngài lên tiếng kêu gọi cho ngân quỹ vơi cạn của chủng viện và được đáp ứng quảng đại. Ngài triệu tập một hội nghị để trao đổi và để đón nhận các ý kiến. Ngài luôn lo bảo vệ sự toàn vẹn đức tin và không muốn chấp nhận sự sống nhượng bộ khi không được phép:

- Người ta phải tranh đấu nơi thanh thiên bạch nhật.

Công việc ngày một nhiều, nhưng Ngài vẫn thường xuyên thăm viếng các giáo xứ. Buổi sáng kia tới nhà thờ một họ đạo, Ngài thấy giáo dân đứng chờ trước toà giải tội, Ngài vào ngồi tòa, khiến cha sở tới nơi phải bối rối. Trợ giúp hàng giáo sĩ về luân lý lẫn tài chánh đó là nét đặc trưng trong chức vụ của Ngài.

Mỗi hoạt động của vị Giám mục thánh thiện đều tạo thành tiếng vang. Với những cố gắng phục vụ Giáo Hội, lo lắng cho tha nhân, ngày 15 tháng 6 năm 1893, ngài được phong làm Hồng Y Giáo Chủ Venice. Lần này Ngài mau mắn vâng lời.

- Khi vị đại diện Chúa Kitô mở lời, không phải là lúc để nghiệm xét, mà là vâng phục. Không được phép cân nhắc lệnh truyền để tìm giảm thiểu mức độ vâng phục...

Sau 5 năm liền làm cha tổng đại diện ở Treviso, Giáo hoàng Lêô XIII đã chọn và tấn phong linh mục Sarto làm Giám mục Mantua vào năm 1884. Giám mục Sarto điều khiển giáo phận Mantua mãi cho tới năm 1893.

Triều đình Ý trước tiên đã từ chối chuẩn nhiệm (exequatur) ngài với lý do là việc bổ nhiệm ngài là việc của triều đình Áo–Hung. Đức Cha Sarto phải đợi đến 18 tháng sau mới nhận được giáo phận mới của mình.

Đức Hồng y tiếp tục cùng một chương trình canh tân. Ngài xây dựng nhiều thánh đường, cô nhi viện, chủng viện và một phân khoa giáo luật. Ngài can đảm thiết lập thông tấn xã công giáo. Ngài đến nhà thờ và tranh đấu cho việc tôn trọng luật Chúa.

Ngày 08 tháng 7 năm 1903, đức Lêô XIII từ trần. Đức Hồng y giáo chủ Sartô phải đi vay tiền mua vé về họp mật nghị bầu Giáo hoàng. Trong mật nghị, Đức Hồng y Puzyna cai quản Krakow cho biết Hoàng đế nước Áo phủ quyết Đức Hồng y Rampella quốc vụ khanh của Đức Lêô XIII mới từ trần. Cuộc bỏ phiếu đầu ngày 1 tháng 8, Đức Sarto chỉ được 5 phiếu. Đức Hồng y Gibbons người Mỹ xin Ngài đừng phủ quyết cuộc bầu cử và đến cuộc đầu phiếu thứ 7 ngày 4 tháng 10, Ngài được 50/62 (vì sự kiện trên, sau này người ra hiến chế Comomissum Nobis để ngăn chặn mọi mưu toan chính trị tìm khuynh đảo các cuộc bầu cử Giáo hoàng).

Sau kết quả cuộc bầu cử, Đức hồng y niên trưởng đến hỏi:

- Chúng tôi đã nhân danh Thiên Chúa tiến cử Ngài làm Giáo hoàng, Ngài có ưng thuận không ?

Sau giây phút yên lặng trong nước mắt giàn dụa, Ngài nghẹn ngào trả lời?

- Ước gì tôi không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.

Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức hồng y niên trưởng hỏi lại lần nữa và Ngài trả lời:

- Tôi xin nhận như nhận một thánh giá.

- Vậy Ngài muốn nhận tên gì ?

- Vì tôi phải chịu khổ nên tôi nhận tên của những vị đã phải đau khổ. Tôi nhận tên là PIÔ.

Thế là cuộc bầu cử Giáo hoàng đã xong. Lễ đăng quang được cử hành ngày 09 tháng 8 năm 1903. Trong thông điệp đầu tiên, E Supreni Apostolatus ngày 04 tháng 10 năm 1903 Ngài công bố:

Nếu người ta muốn hỏi chúng tôi một châm ngôn phát xuất tự đáy lòng, tôi sẽ luôn nói rằng: canh tân mọi sự trong Đức Kitô.

Suốt triều đại Giáo hoàng, Đức Piô X đã thực hiện châm ngôn ấy. Ngài cho phép các trẻ em nhỏ rước lễ sớm khi vừa tới tuổi khôn và khuyến khích việc rước lễ hàng ngày. Với thông điệp Pascendi ngày 08 tháng 9 năm 1908 kết án thuyết duy tâm. Ngài sửa lịch và sách nguyện, canh tân thánh nhạc và truyền dùng trong cả Giáo hội, Ngài thiết lập các viện nghiên cứu âm nhạc và kinh thánh tại Roma. Ngài khởi đầu công cuộc hệ thống hóa giáo luật...Về phương diện chính trị, Ngài tạo ra sự dễ dàng trong việc liên lạc giữa Giáo hội và vương quốc Ý. Khi tổ chức lại các bộ và các toà án, cùng giáo triều Roma, tông hiến Sapienti Consiliô năm 1908 cho thấy dấu hiệu sẵn sàng chấp nhận việc để mất các quốc gia của Giáo hội, cũng không cần đến cơ cấu cai trị dân sự làm khuôn mẫu. Ngay từ năm 1905 Ngài đã cương quyết từ khước hoà ước Napolêon và chấp nhận sự phân biệt Giáo hội với quốc gia vì biết rằng sự nghèo khó của Giáo hội Pháp là có lợi hơn.

Giữa những tình huống hóc búa này, Đức Piô X không bao giờ thực sự cảm thấy mình được phép ở nhà. Ngài là “tù nhân ở Vaticanô”. Một lần tiếp xúc với các bạn cũ, Ngài bật khóc:

- Xem người ta đưa tôi lên ghế này đây.

Tìm lại nếp sống cũ, Ngài đưa các em về Roma để giặt ủi và may vá đồ. Khi đau bệnh, Ngài xin Linh mục là cháu của Ngài cho rước lễ. Ngài còn đưa cả cha tuyên úy và người nấu ăn từ Venetia về. Thích sống thanh đạm, Ngài bỏ các nghi thức nhỏ nhặt và nhiều truyền thống nặng hình thức khác. Khi Ngài qua đời người ta còn thấy trong túi áo Ngài những vật của một học sinh: con dao nhỏ và cây bút chì.

Năm 1914 vào năm thứ 11 sau khi Đức Piô được bầu làm Giáo hoàng, Âu Châu lâm vào cảnh chiến tranh. Ngài ngã bệnh, Ngài dâng lễ cuối cùng vào ngày lễ Mông Triệu. Ngài qua đời ngày 20 tháng 8. Người ta nói rằng: Ngài bị vỡ tim vì lo buồn cho nhân loại, 9 năm sau đã bắt đầu hồ sơ phong thánh và ngày 03 tháng 6 năm 1951 Ngài được phong chân phước, ngày 29 tháng 5 năm 1954, sau 40 năm qua đời Ngài được phong hiển thánh.

Trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma, Giáo hoàng Piô X là một trong những Giáo hoàng vĩ đại đã canh tân Giáo Hội nhiều nhất, đúng với khẩu hiệu của ngài đã chọn khi lên ngôi Giáo hoàng: "Đổi mới tất cả trong Đức Kitô".

Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta biết học theo gương sống của thánh Piô X, canh tân đổi mới trong Đức Kitô, làm tất cả vì lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội.


2. Cuộc sống chứng nhân

Ngay từ đầu, Giáo hoàng Piô X đã quan tâm một cách đặc biệt đến chương trình mục vụ trong Giáo Hội. Ngài tìm cách quân bình giữa thế giới tân tiến và truyền thống Kitô giáo. Nhưng trước hết, ngài chăm lo đến việc canh tân nội bộ Giáo Hội, đúng với khẩu hiệu của ngài: "Đổi mới tất cả trong Đức Kitô".

Thật khó có thể kể ra đây hết những việc Đức Pio X đã làm trong cuộc đời của Ngài. Tuy nhiên sau khi đọc lại cuộc đời của Ngài người ta không thể không lưu ý đến những bài học thật sống động làm cho mọi người phải để tâm suy nghĩ:

a/ Trước hết ngài được sống trong một gia đình đạo đức và chính ngài cũng rất yêu quí gia đình của mình. Chính gia đình này đã làm nên một người con thánh thiện cho Giáo Hội.

Lịch sử còn ghi lại tuy gia đình ngài không đến nỗi bần cùng túng quẫn, nhưng được xếp vào hạng nghèo túng. Cha ngài là ông Gioan Bacti Sartô, Mẹ là Magarita Sanson. Ông thân làm nghề chạy giấy tại toà thị xã.

Vì gia đình túng thiếu, bà Magarita vừa phải lo việc nội trợ, vừa đi khâu thuê kiếm ít tiền sinh sống. Bà rất mực đạo đức, nuôi dạy các con theo đúng tinh thần đạo Công giáo. Chính tay bà đã đào tạo nên vị Giáo Hoàng cương quyết và thánh thiện sau này. Người đàn bà nhà quê ấy thật đáng làm gương mẫu cho mọi người với những đức tính nhẫn nại, hy sinh và khiêm nhường. Ngày nay ở trên mộ bà, tại nghĩa trang làng Riese, người ta còn đọc thấy những hàng sau đây mà chính Đức Piô X khi còn đang làm Hồng Y giáo chủ thành Venise, đã truyền ghi khắc vào bia để ghi công đức của mẹ mình: “Magarita Sanson, người đàn bà gương mẫu, người vợ trung thành, người mẹ khôn sánh”.

Truyền thuyết còn ghi ngài có một cuộc sống tình nghĩa rất nặng với gia đình nhất là với mẹ của ngài. Đức Giáo Hoàng Piô X khi còn là cậu bé ở làng Riese mỗi ngày phải đi bộ 7 cây số để đến trường, sáng đi 7 chiều về 7. Bà mẹ, bà Magarita dù nghèo song cũng ráng mua cho con một đôi giày cho con đỡ đau chân. Đứa con tốt lành này cũng rất thương cha mẹ cho nên sáng ra khỏi nhà thì mang giày vào chân kẻo mẹ rày, sau khi xa nhà thì cởi giấy quảy trên vai cho tới khi tới trường mới mang vào để chúng bạn khỏi cười chê. Ra khỏi trường lại cởi ra, về gần tới mới xỏ vào sợ mẹ buồn. Cậu bé Sartô làm như thế vì sợ mòn đôi giày và tốn kém cho cha mẹ.

Khi được được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Mantua, một hôm, ngài về thăm mẹ. Mẹ con ngồi nói chuyện khá lâu, ngài tếu táo khoe với mẹ chiếc nhẫn Giám mục của mình: “Mẹ xem này, chiếc nhẫn Giám mục mới của con đây”.

Mẹ ngài mỉm cười chìa bàn tay thô cộc cho thấy chiếc nhẫn cưới bình dị của mình và nói: “Không có chiếc nhẫn cưới nghèo nàn này của mẹ đây thì chẳng có chiếc nhẫn ấy đâu.”

2. Đức Piô X là người luôn để lòng chăm lo cho đời sống Giáo Hội đặc biệt là các linh mục. Theo ngài, trước hết các Linh Mục phải lo sống thế nào để có được Chúa Giêsu trong chính mình, nếu họ muốn mang Chúa đến cho những kẻ khác. Ngài viết:

Là những Linh Mục của Chúa, chúng ta cần phải giới thiệu Đức Kitô cho mọi người và hành động trong tinh thần của Người. Là bạn hữu nghĩa thiết của Người, chúng ta ‘phải có những tâm tình như Đức Kitô’ (Pl 2,5), Đấng hoàn toàn thánh thiện, vô tội và tinh tuyền. Bởi vì tình bạn luôn đòi hỏi phải cùng ước muốn hay không ước muốn như nhau."

Ngài ưu tiên sống đời sống khó nghèo. Đấy là chúc thư quí báu ngài còn để lại:

 “Tôi sinh ra khó nghèo, sống khó nghèo, và biết rằng sẽ chết trong khó nghèo…

Về phần thi hài tôi, thì tôi ra lệnh, đừng ai đụng chạm đến, và không xức ướp gì cả; tuy làm thế là trái với thói quen thông thường. Tử thi chỉ trưng bày trong mấy tiếng đồng hồ, rồi đem mai táng…”

Hiện nay trên mộ ngài, người ta ghi thấy dòng chữ

Piô X Giáo Hoàng

Khó nghèo và giàu có

Hiền lành và khiêm nhường

Mạnh mẽ bên vực đạo

Chăm chú cải tổ mọi sự trong Chúa Kitô

Đã yên nghỉ thánh thiện trong Chúa ngày 20 tháng 8 năm 1914.

Lạy Thánh Pio X, xin cầu cho Giáo Hội và chúng con. Amen.

(Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp lại theo tài liệu của website TGP Sài Gòn)

Bài đọc 2

Hội Thánh cất tiếng ca dịu dàng

Trích tông hiến Chúa Thánh Thần linh hứng của thánh giáo hoàng Pi-ô X.

Nhờ ơn linh hứng của Thiên Chúa, các thánh vịnh đã được sáng tác. Sưu tập các thánh vịnh đã được đưa vào Kinh Thánh để, ngay từ thời đầu của Hội Thánh, rõ ràng là các thánh vịnh đã có sức nung đúc lòng đạo của các tín hữu một cách lạ lùng. Họ dùng lời ngợi khen làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa, tức là dùng miệng lưỡi mà ca tụng Thánh Danh. Không những thế, theo thói quen đã có từ thời luật cũ, rõ ràng là các thánh vịnh còn góp phần hiển nhiên vào Phụng vụ thánh và Kinh Thần vụ. Từ đó phát sinh “tiếng nói của Hội Thánh”, như thánh Ba-xi-li-ô thường gọi. Tiếng nói đó chính là lối hát thánh vịnh, hay theo cách gọi của vị tiền nhiệm chúng tôi là đức U-ba-nô VIII, thì tiếng nói đó chính là ái nữ của thánh thi ca ngợi hằng được hát lên trước ngai Thiên Chúa và Con Chiên. Theo thánh A-tha-na-xi-ô thì thánh thi còn dạy cho những người đặc biệt lãnh trách nhiệm cử hành phụng tự biết phải ca ngợi Thiên Chúa làm sao, và phải dùng lời lẽ nào mà xưng tụng Người cho phải đạo. Về vấn đề này, thánh Âu-tinh cũng có những lời rất đẹp : “Vì Thiên Chúa muốn cho nhân loại ca ngợi Người một cách xứng hợp, nên Người đã tự ca ngợi mình trước ; Thiên Chúa đã vì thương mà tự ca ngợi chính mình, nên loài người mới biết cách ca ngợi Thiên Chúa.”

Các thánh vịnh cũng có một sức mạnh nội tại phi thường, có khả năng khơi dậy trong các tâm hồn nỗi khát khao mọi nhân đức. Thật vậy, theo thánh A-tha-na-xi-ô, “toàn bộ Kinh Thánh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, đều đã được Thiên Chúa linh hứng và đều hữu ích cho việc giảng dạy, như Kinh Thánh đã chép. Dầu vậy, sách Thánh vịnh ví được như địa đàng có hoa trái của mọi sách khác : sách này đem lại những bài ca, và khi những bài ca đó được hát lên, sách này lại cho ta những hoa trái đặc sắc bên cạnh các sách khác”. Thánh A-tha-na-xi-ô còn thêm một điều chí lý : “Đối với tôi, thánh vịnh ví tựa tấm gương cho người hát soi mình, để, nơi các thánh vịnh, người hát có thể ngắm nghía chính mình cùng với các rung động của riêng tâm hồn mình, và như thế, họ sẽ đầy tâm tình khi ngâm nga thánh vịnh.” Trong sách “Tự thuật”, thánh Âu-tinh cũng viết : “Con đã khóc ròng khi nghe những bản thánh thi và thánh ca dâng kính Ngài, vì quá cảm kích trước giọng ca dịu dàng của Hội Thánh Ngài. Giọng ca ấy rót vào tai con, thì chân lý cũng thấm vào lòng con, khiến rực lên trong con những tâm tình sốt mến, rồi nước mắt tuôn đổ và hạnh phúc trào dâng.”

Quả thế, ai lại không cảm động trước rất nhiều đoạn thánh vịnh hết lời xưng tụng uy nghi vô tận và uy quyền toàn năng của Thiên Chúa, xưng tụng đức công chính, lòng nhân hậu và từ tâm khôn tả, cũng như nhiều phẩm tính vô cùng đáng ca tụng khác của Người ? Ai lại không cảm thấy những tâm tình giống như thế khi dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn lành Người đã ban, hay khi khiêm tốn và tin tưởng cầu xin những điều mình đang mong đợi, hoặc khi cất tiếng kêu van tự đáy lòng thống hối tội lỗi ? Ai lại không cảm thấy bừng cháy lòng yêu mến trước hình ảnh Đức Ki-tô, Đấng Cứu Thế, được hoạ lại cẩn thận ? Thật vậy, thánh Âu-tinh “đã nghe thấy tiếng của Đấng Cứu Thế trong mọi thánh vịnh, khi thì đàn ca, khi lại rên siết, lúc thì hân hoan trong hy vọng, lúc lại thở than trong hoàn cảnh hiện tại”.


Thứ Ba

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 6, 11-24a

"Hỡi Giêđêon, hãy đi giải thoát Israel: ngươi biết Ta thương xót ngươi".

Trích sách Thủ Lãnh.

Trong những ngày ấy, Thiên thần Chúa đến ngồi dưới gốc cây sồi ở đất Êphra, thuộc sở hữu của ông Gioas, tổ gia tộc Abiêzer. Khi ấy, Giêđêon, con trai của ông, đang đập và rê lúa trong nhà ép nho để tránh mắt quân Mađian, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông và nói rằng: "Hỡi người dũng sĩ, Chúa ở cùng ngươi". Giêđêon thưa lại rằng: "Thôi, xin Ngài, nếu Chúa ở cùng chúng tôi, tại sao chúng tôi phải chịu tất cả những sự này? Nào đâu những việc kỳ diệu của Chúa mà cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi mà rằng: "Chúa đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập"? Nhưng nay Chúa lại bỏ rơi chúng tôi và trao chúng tôi vào tay quân Mađian". Chúa nhìn ông mà phán rằng: "Ngươi hãy mạnh mẽ tiến đi mà giải thoát Israel khỏi tay quân Mađian: chính Ta sai ngươi đó". Ông thưa lại rằng: "Thôi, xin Chúa, con dựa vào đâu mà giải thoát Israel? Ðây gia đình con là gia đình rốt hết trong chi tộc Manassê, và con là con út trong nhà cha con". Chúa phán cùng ông rằng: "Ta sẽ ở cùng ngươi: ngươi sẽ đánh ngã quân Mađian như đánh một người vậy". Ông thưa rằng: "Nếu con đẹp lòng Chúa, thì xin Chúa ban cho con một dấu chứng rằng chính Chúa phán dạy con. Xin Chúa chớ lìa khỏi nơi đây cho đến khi con trở lại cùng Chúa, mang theo của lễ dâng lên Chúa". Chúa đáp lại rằng: "Ta sẽ đợi ngươi trở lại".

Vậy Giêđêon vào nhà làm thịt một con dê đực, lấy một đấu bột làm bánh không men: để thịt vào giỏ, đổ nước thịt vào nồi, mang các món đó đến dưới cây sồi mà dâng cho Chúa. Thiên thần Chúa bảo ông rằng: "Ngươi hãy đem thịt và bánh không men đặt trên tảng đá kia, rồi đổ nước thịt lên trên". Khi ông làm như vậy, thì Thiên thần Chúa giơ cây gậy Người cầm trong tay lên và chạm đến thịt và bánh không men, tức thì có lửa từ tảng đá bốc lên thiêu đốt thịt và bánh không men. Thiên thần Chúa liền biến đi khuất mắt ông. Giêđêon nhận biết đó là Thiên thần Chúa, liền thưa rằng: "Ôi, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con đã nhìn thấy Thiên thần Chúa nhãn tiền". Chúa phán cùng ông rằng: "Bình an cho ngươi. Ðừng sợ, ngươi không chết đâu". Giêđêon liền dựng một bàn thờ dâng kính Chúa, và gọi bàn thờ đó là "Bình an của Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 84, 9. 11-12. 13-14

Ðáp: Chúa phán bảo về sự bình an cho dân tộc Người (x. c. 9).

Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người. - Ðáp.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.

3) Vâng Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất Nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 36a và 29b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 19, 23-30

"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời". Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: "Vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: "Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Một tí ti bất khả lọt nhưng cũng bất khả thiếu



Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XX Thường Niên tiếp tục bài Phúc Âm hôm qua là bài phúc âm về người thanh niên giầu có chưa thể nên trọn lành được vì còn ham của cải trần gian tuy vẫn sống đạo đàng hoàng.

Bài Phúc Âm hôm nay, trước hết, liên quan đến tình trạng người giầu có khó vào Nước Trời, ngoại trừ có ơn đặc biệt của Thiên Chúa, như chính Chúa Giêsu khẳng định:

"'Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời'. Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: 'Vậy thì ai có thể được cứu độ?' Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: 'Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được'". 

Ở đây, hình ảnh con lạc đà to lớn so với lỗ kim tí ti có thể ám chỉ hay tiêu biểu cho 2 điều: con người vào qua cửa Thiên Đàng và cõi lòng của con người trước tác động thần linh của Thiên Chúa. Trước hết, con người muốn vào Nước Trời "phải vào qua cửa hẹp" (Mathêu 8:13), nghĩa là phải "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêy 18:3), bằng không, không thể nào vào Nước Trời được, khi lòng của con người to lớn kềnh càng như con lạc đà, lưng còn cong lên lại càng khó chui lọt, ám chỉ lòng của họ còn đầy những tham lam, tham vọng, tự cao, tự đại, kiêu căng, tự ái v.v.

Tuy nhiên, cho dù con người có hư đốn đến đâu, có tội lỗi đến mấy, miễn là đừng cứng lòng và tuyệt vọng, thì vẫn được rỗi, nghĩa là vẫn còn một khe hở cho dù tí ti như lỗ kim, quyền năng vĩ đại của Chúa lớn lao hơn con lạc đà vẫn có thể lọt vào lòng họ để biến đổi họ thành những vị đại thánh một cách đốt giai đoạn (short cut), như người trộm lành cuối cùng đã đánh cắp được cả Nước Trời, như người thu thuế sấp mình đấm ngực ăn năn ra khỏi đền thờ đã nên công chính, trong khi con lạc đà biệt phái lại không, vì vươn mình lên tự cao tự đại tự đắc.

Bài Phúc Âm hôm nay c
òn liên quan đến thành phần đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, thành phần đã được bù đắp bằng những thứ về cả đời này lẫn đời sau như thế này:

 

"Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: 'Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết'".

 

Trước hết, thành phần "bỏ mọi sự mà theo Thày" - "sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel": Nghĩa là nhân loại sẽ được xét xử căn cứ vào chứng từ của thành phần theo Chúa, một chứng từ cho thấy "đức tin hoạt động qua đức ái" (Galata 5:6), một chứng từ nhờ đó họ có thể nhận biết Thiên Chúa mà được sống

 

Đó là lý do trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao đã phân loại chiên dê theo tiêu chuẩn "đức tin hoạt động qua đức ái" này, khi Người phán xét cả hai về đức bác ái theo bề ngoài nhưng thật ra phán xét đức tin của họ, ở chỗ dê không thấy Người nơi thành phần anh chị em hèn mọn nhất của Người nên không thương giúp bởi đó bị loại trừ, còn chiên dù không thấy vẫn ra tay bác ái cứu trợ nên được cứu độ (xem Mathêu 25:31-46). 

 

Sau nữathành phần "bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy" - "sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời": Theo Phúc Âm Thánh Marco đoạn 10 câu 30 thì câu nói của Chúa Kitô đây còn được xác định rõ ràng "đời này" và "đời sau" nữa: "sẽ được gấp trăm" ngay "ở đời này" và "được sự sống trường sinh" "ở đời sau". Mà nếu thành phần môn đệ theo Chúa Kitô mà quả thực "được gấp trăm" ngay "ở đời này" thì chắc chắn họ sẽ "được sự sống trường sinh" "ở đời sau". 

 

Đúng thế, ngay "ở đời này" thành phần môn đệ theo Chúa Kitô là thành phần "có tinh thần nghèo khó" nên không phải đã được "Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy" (Mathêu 5:3)hay sao, và họ cũng không phải là thành phần "hiền lành" nên đã "được đất làm của mình vậy" (Mathêu 5:5) hay sao, một thứ "đất" biểu hiệu cho thế gian hay nhân loại. Nghĩa là họ dám đánh đổi tất cả mọi sự họ có để tậu cho bằng được thửa ruộng thế gian là nơi kho tàng Chúa Kitô được chôn giấu (xem Mathêu 13:44). Như thế không phải là họ đã thực sự được "gấp trăm" ngay "ở đời này" hay sao, là được cả Chúa Kitô lẫn ơn cứu chuộc thế gian của Người?


Thật vậy, "đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Đối với trường hợp của thành phần giầu có, theo tự nhiên, khó được rỗi, nếu không muốn nói là bất khả, như lạc đà to lớn cồng kềnh không thể chui qua lỗ kim nhỏ xíu, và ngược lại, thành phần bỏ hết mọi sự để có thể theo Chúa, như các vị tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay, một từ bỏ cũng là những gì bất khả theo bản năng tự nhiên vị kỷ chỉ muốn hưởng thụ của mình. Bởi thế, Thiên Chúa bao giờ cũng lợi dụng những gì con người bất xứng, bất lực và bất hạnh để tỏ mình ra cho họ, nhờ đó họ từ từ nhận biết Ngài hơn, như trong trường hợp của dân Do Thái trong Bài Đọc 1 được Sách Thủ Lãnh cho thấy Thiên Chúa lợi dụng chính tình trạng dân Ngài bỏ Ngài để chứng thực Ngài là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, bằng việc Ngài tìm cách giải cứu họ, qua một số nhân vật của họ, như chàng Giêđêon:

 

"Khi ấy, Giêđêon, con trai của ông, đang đập và rê lúa trong nhà ép nho để tránh mắt quân Mađian, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông và nói rằng: 'Hỡi người dũng sĩ, Chúa ở cùng ngươi'. Giêđêon thưa lại rằng: 'Thôi, xin Ngài, nếu Chúa ở cùng chúng tôi, tại sao chúng tôi phải chịu tất cả những sự này? Nào đâu những việc kỳ diệu của Chúa mà cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi mà rằng: Chúa đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập? Nhưng nay Chúa lại bỏ rơi chúng tôi và trao chúng tôi vào tay quân Mađian'. Chúa nhìn ông mà phán rằng: 'Ngươi hãy mạnh mẽ tiến đi mà giải thoát Israel khỏi tay quân Mađian: chính Ta sai ngươi đó'. Ông thưa lại rằng: 'Thôi, xin Chúa, con dựa vào đâu mà giải thoát Israel? Ðây gia đình con là gia đình rốt hết trong chi tộc Manassê, và con là con út trong nhà cha con'. Chúa phán cùng ông rằng: 'Ta sẽ ở cùng ngươi: ngươi sẽ đánh ngã quân Mađian như đánh một người vậy'".

 

Thánh Vịnh 84 ở bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy những ai được Thiên Chúa ở cùng, như nhân vật Giêđêon trang Bài Đọc 1 hôm nay, thì luôn quan tâm đến Ngài (câu 1), nhờ đó xứng đáng được Ngài tỏ mình ra và sử dụng, như thể "lòng nhân hậu (của Chúa) và lòng trung thành (của con người) gặp gỡ nhau" (câu 2), và cũng nhờ đó, dân Chúa được giải cứu, theo đức công minh của Thiên Chúa, Đấng "công minh" thấu suốt tất cả mọi sự về thành phần dân được Ngài tuyển chọn, để tìm cách ban "ơn cứu độ" của Ngài cho họ, như thể  "Ðức công minh sẽ đi trước ... và ơn cứu độ theo sau" vậy (câu 3), những câu Thánh Vịnh tuyệt vời diễn tả về Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất ở chỗ Ngài tỏ lòng nhân hậu xót thương:

 

1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.

3) Vâng Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất Nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài.

 

 

Ngày 22 tháng 8

Đức Ma-ri-a Nữ Vương

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Vì cả thân xác cũng đã được biến đổi, Đức Ma-ri-a trong vinh quang mông triệu đã trở nên thành công tối hậu của công trình cứu chuộc. Nhưng Đức Ma-ri-a vô cùng diễm lệ đồng thời cũng rất quyền thế, bởi vì Người là Thánh Mẫu của Đấng mà “triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Chính vì thế, từ bao thế kỷ, các tín hữu đã kính chào Mẹ là Đức Nữ Vương, Đấng Trung Gian tối cao của ân sủng.

 

Nữ Vương thế giới và Nữ Vương hoà bình

Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách

Trích bài giảng của thánh A-mê-đê, giám mục Lô-dan.

Trước khi được cất lên trời, danh tuyệt diệu của Đức Ma-ri-a đã toả sáng trên toàn cõi đất và danh thơm lừng lẫy của Mẹ đã lan toả khắp nơi, trước cả khi vẻ huy hoàng lộng lẫy của Mẹ được nâng cao vượt các tầng trời. Bạn xem : điều đó thật là phải lẽ. Thật vậy, vì Mẹ đồng trinh và vì danh dự của người Con do Mẹ sinh ra, trước hết Mẹ phải cai trị ở dưới đất, rồi sau cùng đón nhận cõi trời vinh quang. Mẹ phải được đầy tràn ở dưới đất này, để rồi tiến vào trong sung mãn thánh thiện chốn trời cao. Và vì Mẹ đã được Thần Khí của Chúa đưa từ nhân đức này tới nhân đức khác, thì Mẹ cũng được đưa từ chốn rạng ngời dưới đất đến chốn rạng ngời trên trời.

Vậy tuy đang sống trong thân xác, Mẹ đã được thưởng thức trước những hoa quả đầu mùa của vương quốc mai sau : khi thì vươn lên tới Thiên Chúa nhờ sự hoàn thiện khôn thấu, lúc lại hạ cố đến với tha nhân nhờ đức bác ái khôn tả. Ở trên trời, Mẹ được các thiên sứ tới lui phục vụ, ở dưới đất, Mẹ được loài người hầu hạ kính tôn. Tổng lãnh Gáp-ri-en cùng với các thiên sứ đã cung phụng Mẹ. Còn ông Gio-an trinh khiết thì vui mừng vì Mẹ đồng trinh đã được trao phó cho mình dưới chân thập giá, ông cùng với các Tông Đồ chăm sóc Mẹ. Các thiên sứ hân hoan nhìn nhận Mẹ là nữ vương của mình, các Tông Đồ vui mừng nhìn nhận Mẹ là bà chúa của mình. Và tất cả đều đem lòng đạo đức và yêu mến mà vâng phục Mẹ.

Phần Mẹ, Mẹ đang ngự trên lâu đài cao chót vót của các nhân đức và được các ân huệ của Thiên Chúa bao la như biển cả. Mẹ trổi vượt hơn mọi người nhờ ân sủng dồi dào như vực thẳm, nhưng Mẹ lại tuôn đổ thật rộng rãi xuống trên đoàn dân đang tin tưởng và khao khát. Thật vậy, Mẹ ban sức khoẻ cho thân xác và thần dược cho linh hồn, Mẹ có khả năng giúp thân xác và linh hồn được trỗi dậy từ cõi chết. Có ai từ biệt Mẹ ra về mà vẫn còn đau yếu, buồn phiền và dốt nát không hiểu các mầu nhiệm thiên quốc bao giờ ? Có ai về tới nhà mà lại không hân hoan vui mừng, vì đã nhờ Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Chúa, mà được như lòng mong muốn ?

Mẹ là hiền thê đầy dẫy bao ân phúc cao cả, là Mẹ của Vị Hôn Phu độc nhất, Mẹ dịu dàng và rất đáng mến, vì đầy niềm hân hoan vui sướng. Mẹ như nguồn suối cho các thửa vườn thiêng liêng, như giếng đầy nước hằng sống và đem lại sức sống. Nước ấy xuất phát từ núi Li-băng của Thiên Chúa, chảy như thác lũ. Vì thế, Mẹ làm tuôn chảy những dòng sông hoà bình và những con suối ân sủng thiên quốc, từ núi Xi-on cho đến mọi nước chung quanh. Vì vậy, khi Đức Trinh Nữ trên mọi trinh nữ được Thiên Chúa và được Con của Người là Vua trên các vua dẫn vào thiên cung, trước các thiên sứ đang hân hoan, các tổng lãnh đang vui mừng và thiên cung đang reo hò ca ngợi, thì bấy giờ ứng nghiệm lời sấm đã được tác giả thánh vịnh thưa với Chúa : Bên hữu Ngài hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy.

Lạy Chúa, Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Ki-tô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương chúng con. Xin nhậm lời Đức Nữ Vương chuyển cầu mà cho chúng con đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa. Chúng con cầu xin

 

Kitô Hữu Nhìn Lên Nữ Vương Maria

(Giáo lý Thánh Mẫu của ĐTC Gioan Phaolô II)


1.- Lòng tôn sùng thịnh hành vốn kêu cầu Mẹ Maria như là một Vị Nữ Vương. Công Đồng Chung Vaticanô II, sau khi nhắc lại Việc Đức Trinh Nữ Mông Triệu “cả xác lẫn hồn vào vinh quang thiên quốc”, đã giải thích rằng Mẹ “được Chúa tôn làm Nữ Vương trên tất cả mọi sự, để Mẹ có thể hoàn toàn nên giống hơn Con Mẹ là Chúa các chúa (x Rev 19:16) và là Đấng chiến thắng tội lỗi cùng sự chết” (Lumen Gentium, 59).

Thật vậy, bắt đầu từ thế kỷ thứ năm, hầu như trong cùng một giai đoạn Công Đồng Chung Êphêsô công bố Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa”, thì tước hiệu Nữ Vương cũng đã được bắt đầu được gán cho Mẹ. Nhận biết hơn về vai trò cao cả của Mẹ như thế, dân Kitô giáo muốn đặt Mẹ lên trên tất cả mọi thụ tạo, vinh thăng vai trò và tầm quan trọng của Mẹ nơi đời sống của hết mọi người cũng như của cả thế giới.

Thế nhưng, trong một khúc bài giảng được cho rằng của giáo phụ Origen, cũng đã chất chứa lời dẫn giải này về những lời bà Elizabét thốt lên trong biến cố Thăm Viếng: “Đáng lẽ chị phải đến thăm em, vì em có phúc hơn mọi người nữ, em là Người Mẹ của Chúa chị, em là Vị Tôn Nữ của chị” (Fragment, PG 13, 1902 D).

Bản văn chuyển một cách tự nhiên từ lời diễn tả “Người Mẹ của Chúa chị” sang tước hiệu “Vị Tôn Nữ”, trước cả những gì Thánh Gioan Đamascênô sau này nói khi thánh nhân gán cho Mẹ tước hiệu “Vương Chủ”: “Khi Mẹ trở nên Mẹ của Đấng Hóa Công, Mẹ thực sự trở nên nữ vương của tất cả mọi tạo vật” (De fide orthodaxa, 4, 14, PG 94, 1157).

2.- Vị Tiền Nhiệm đáng kính Piô XII của Tôi, trong bức Thông Điệp Ad coeli Reginam, một văn kiện được bản văn của Hiến Chế Lumen Gentium qui chiếu, xác định việc Mẹ cộng tác vào công cuộc Cứu Chuộc đã là nền tảng cho vai trò nữ vương của Mẹ Maria, thêm vào vai trò mẫu thân của Mẹ. Bức Thông Điệp đã lập lại bản văn phụng vụ: “Có Thánh Maria, Nữ Vương thiên đàng và là Vị Vương Chủ thế giới, đau thương đứng kề bên cây Thập Giá của Chúa Giêsu Kitô” (AAS 46 [1954] 634). Như thế, bức Thông Điệp này đã nêu lên tính cách tương tự giữa Mẹ Maria và Chúa Kitô, một tính cách tương tự giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng nơi trạng thái trung thành của Đức Trinh Nữ. Chúa Kitô là Vua không phải chỉ vì Người là Con Thiên Chúa, mà còn vì Người là Đấng Cứu Chuộc; Mẹ Maria là Nữ Vương không phải chỉ vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, mà còn vì Mẹ đã cộng tác vào công cuộc cứu chuộc loài người, với tư cách là tân Evà cùng với tân Adong.

Trong Phúc Âm Thánh Marcô, chúng ta đọc thấy rằng, vào ngày Thăng Thiên, Chúa Giêsu “được đưa lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (16:19). Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, “ngồi bên hữu Thiên Chúa” nghĩa là chia sẻ quyền bính tối cao. Ngồi “bên hữu Cha”, Người thiết lập vương quốc của Người, vương quốc của Thiên Chúa. Được đưa lên trời, Mẹ Maria được liên kết với quyền năng của Con Mẹ, và được giành vào việc phát triển Vương Quốc này, ở chỗ thông phần vào việc ban phát ân sủng thần linh trên thế giới.

Nhìn vào tính cách tương tự giữa việc Chúa Giêsu Thăng Thiên và việc Mẹ Maria Mông Triệu, chúng ta có thể kết luận rằng, Mẹ Maria, dựa vào Chúa Kitô, là một Vị Nữ Vương nắm thượng quyền và thực hiện thượng quyền do Con Mẹ ban Mẹ trên vũ trụ.

3.- Tước hiệu Nữ Vương dĩ nhiên không thay thế cho tước hiệu Làm Mẹ, ở chỗ, vai trò làm nữ vương của Mẹ vốn là hệ quả của sứ vụ đặc biệt làm mẹ, và chỉ để thể hiện quyền năng được ban cho Mẹ để Mẹ thi hành sứ vụ ấy mà thôi.

Trích lại Trọng Sắc Ineffabilis Deus của Đức Piô IX, Đức Piô XII nhấn mạnh đến chiều kích làm mẹ nơi vai trò nữ vương của Đức Trinh Nữ: “Cảm thương chúng ta với lòng từ mẫu và quan tâm đến phần rỗi của chúng ta, Mẹ vươn vòng tay săn sóc của Mẹ ra ôm ấp tất cả loài người. Được Chúa cắt đặt làm Nữ Vương trời đất, được nâng lên trên tất cả mọi ca đoàn thiên thần cũng như tất cả mọi hàng ngũ các thánh trên trời, ngự bên hữu Người Con duy nhất của mình là Chúa Giêsu Kitô, Mẹ chắc chắn chiếm được những gì Mẹ muốn dùng lời nguyện cầu từ mẫu của Mẹ mà kêu xin; Mẹ chiếm được những gì Mẹ tìm kiếm và không bị khước từ” (xem AAS 46 [1954] 636-637).

4.- Bởi thế, Kitô hữu hãy tin tưởng nhìn lên Nữ Vương Maria, và điều này chẳng những không làm suy giảm mà thực sự làm tăng thêm việc trao phó bản thân mình với tình con thảo của họ cho Mẹ, Đấng làm mẹ theo cấp trật ân sủng.

Thật vậy, nỗi quan tâm của Nữ Vương Maria đối với loài người có thể hoàn toàn tác hiệu chính là vì trạng thái vinh hiển của Người xuất phát từ việc Mẹ Mông Triệu. Thánh Germanus I ở Contantinôpôli đã cho thấy sự kiện này rất hay. Thánh nhân chủ trương rằng trạng thái này bảo toàn mối liên hệ thân mật giữa Mẹ Maria với Con của Mẹ, và cho phép Mẹ thực hiện việc Mẹ can thiệp hộ giúp chúng ta. Ngỏ lời cùng Mẹ Maria, thánh nhân viết, Chúa Kitô muốn “có một kết nối giữa môi miệng của Mẹ với lòng trí của Mẹ; bởi thế Người đồng ý với tất cả mọi ước muốn Mẹ bày tỏ cùng Người, khi Mẹ chịu đựng vì con cái của Mẹ, Người làm tất cả mọi sự Mẹ kêu xin Người bằng quyền năng thần linh của Người” (Hom. 1 PG 98, 348).

5.- Người ta có thẻ kết luận rằng Việc Mông Triệu làm cho Mẹ Maria chẳng những hoàn toàn hiệp thông với Chúa Kitô, mà còn với mỗi một người trong chúng ta nữa, ở chỗ, Mẹ ở bên chúng ta, vì tình trạng vinh hiển của Mẹ khiến cho Mẹ có thể theo chúng ta trong cuộc hành trình trần thế hằng ngày của chúng ta. Như chúng ta cũng đọc thấy ở Thánh Germanus: “Mẹ ở với chúng con một cách thiêng liêng, và việc Mẹ hết lòng coi sóc chúng con cho thấy Mẹ hiệp thông đời sống với chúng con” (Hom. 1, PG 98, 344).

Bởi vậy, thay vì tạo nên khoảng cách giữa Mẹ và chúng ta, tình trạng vinh hiển của Mẹ Maria lại tạo nên một tình trạng liên tục gần gũi và chăm sóc. Mẹ biết hết mọi sự xẩy ra trong đời sống của chúng ta, và nâng đỡ chúng ta bằng tình yêu từ mẫu của Mẹ trong những cơn thử thách cuộc đời của chúng ta.

Được đưa về trời vinh hiển, Mẹ Maria hoàn toàn hiến mình cho công cuộc cứu độ, để thông truyền cho hết mọi con người sống động thứ hạnh phúc Mẹ lãnh nhận. Mẹ là một Vị Nữ Vương ban phát tất cả những gì Mẹ chiếm hưởng, trước hết, ở chỗ Mẹ tham dự vào cuộc sống và tình yêu của Chúa Kitô.

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 30/7/1997)

 

Vinh Quang Trên Thiên Đàng

 

(Trích Thần Đô Huyền Nhiệm, phần truyện hợp với đời sống thầm lặng của Mẹ, một đời sống làm mẫu gương của Dòng Carmêlô)

 

 

Linh hồn rất thánh của Me. Maria đã hưởng phúc thiên đàng được ba ngày, Thiên Chúa tỏ cho thần thánh biết quyết định hằng hữu của Ngài là phục sinh cho Xác Thể đáng kính của Mẹ. Tới lúc đó, Chúa Giêsu từ trời, đem theo Linh Hồn Mẹ chí ái Ngài xuống mồ Thánh của Mẹ với vô số sư đoàn các thiên thần, các vị tổ phụ và các tiên tri. Đến mồ Mẹ, Chúa phán với đoàn tháp tùng rằng: "Mẹ của Cha đã được đầu thai Vô Nhiễm, đê? Cha mặc lấy Nhân Tính Cha từ nơi bản thể vô nhiễm của Mẹ. Thể xác Cha là thể xác Mẹ hơn nữa, Mẹ còn đồng công vào hết mọi công trình việc cứu chuộc của Cha. Cho nên Cha phải phục sinh cho Me. Cha, như Cha đã sống lại, và phải phục sinh cho Mẹ vào cùng lúc Cha đã sống lại, vì Cha muốn Mẹ nên tương tư. Cha trong mọi sự". Toàn thể các Thánh đều ca tụng Chúa vì sự quyết định ấy, nhất là Adong Eva, thánh ca? Giuse và hai thánh song thân của Me.
 

Tức thì Linh Hồn Hiển Vinh của Mẹ vào lại Thân Xác Đồng Trinh của Mẹ trả lại sự sống cho Thân Xác ấy, mà không hề động chạm gì đến tảng đá che mồ hay đảo lộn những nếp áo và khăn phủ mặt. Không thể nào tả lại được vẻ mỹ lệ và ánh sáng chói ngời trang sức cho Mẹ lúc ấy. Ta chỉ cần nói rằng Chúa Giêsu muốn trả lại cho Mẹ tất cả những gì Ngài đã tiếp nhận từ Mẹ lúc Nhập Thể đã đủ. Hôm đó là ngày Chúa Nhật, mười lăm tháng tám, liền ngay sau nửa đêm. Xác Thánh Me. Maria ở trong mồ 30 giờ y như Xác Thánh Chúa Giêsu.
 

Lúc đó diễn ra từ phần mộ của Mẹ về thiên đàng một cung nghinh trang trọng không thể tả hết giữa thanh âm của một điệu nhạc say lòng. Các vị thánh và các thiên thần vào thiên đàng vị nào theo địa vị ấy. Sau cùng là Chúa Giêsu Kitô với Mẹ rất thánh Ngài ở bên hữu. Toàn thể thần thánh đều quay về phía Mẹ để nhìn ngắm và chúc tụng Mẹ trong một nguồn hoan lạc mới lạ, những khúc thánh ca mới và những lời ở trong chương ba sách Diễm Ca. Khi Mẹ tới bê. Ngai Chúa Ba Ngôi, Chúa đã tiếp đón Mẹ với một tiếp đón thỏa tình nhất. Chúa Cha phán với Mẹ: "Con rất yêu dấu của Cha, Con hãy lên cao hơn trên tất cả mọi thụ tạo". - Và Chúa Con thêm: "Me. Ạ, xin Mẹ nhận từ tay con phần thưởng Mẹ đáng được". - Đến lượt Thánh Linh nói: "Bạn dấu yêu, hãy vào hưởng nguồn vui vĩnh cửu xứng với tình trạng trinh trong của Bạn".
 

Me. Maria chìm ngập trong đại dương vô cùng của Thần Tính Thiên Chúa. Khi Mẹ đã được tôn lên Ngai Thần Linh, Chúa tuyên dương cho cả triều đình thiên đàng đang tràn ngập tán thưởng, biết những đặc ân đã thông ban cho Mẹ qua sư. Mẹ thông phần vào Uy Linh của Ngài. Chúa Cha phán: "Maria là đức nữ tỳ của chúng ta, từng làm nên những khoái lạc đầu tiên của chúng ta, và đã không bao giờ bỏ mất tước hiệu ấy. Người có toàn quyền trên cả vương quốc chúng ta. Người được nhìn nhận và tôn phong là chủ mẫu chính thức, vừa là Nữ Vương độc nhật". - Chúa Con phán: "Hết mọi thụ tạo Cha đã sáng tạo và cứu chuộc đều thuộc quyền Mẹ chân thực của Cha: Mẹ là Nữ Vương chính thức cai trị tất cả những gì Cha là vua cai trị". - Sau cùng Chúa Thánh Linh phán: "Hỡi bạn, với danh nghĩ là Hiền Thê của Ta, danh nghĩa mà bạn đã tận trung ứng đáp, bạn được lĩnh vương miện Nữ Vương cho đến muốn đời.
 

Ba Ngôi Thiên Chúa đặt trên đầu Mẹ một vương miện vinh quang cực kỳ lộng lẫy, rạng chiếu luồng sáng tuyệt kỳ, sẽ không bao giờ có nữa. Cũng lúc ấy, từ ngai Chúa phán ra lời này: "Hỡi người chí ái của chúng ta, Vương Quốc Của Chúng Ta là Vương Quốc Của Người. Người là Chu? Mẫu là Nữ Vương hết mọi thụ tạo. Từng được ân sủng nâng cao lên trên mọi loài, những người đã tự nhận mình hèn kém, hạ mình xuống dưới hết mọi loài. Giờ đây, người hãy lên chiê"m địa vị tuyệt cao xứng với người. Từ Ngai cao cả này, Người hãy thống trị toàn thể thụ tạo: hỏa ngục, trần gian và thiên đàng. Ma qủy, loài người, và thiên thần đều phải tùng phục Người. Chúng Ta trao ủy cho người quyền bính Thần Linh của Chúng Ta. Người sẽ nâng đỡ, ủi an, bảo trợ và làm Mẹ của hết mọi người công chính cũng như là Mẹ của cả giáo hội chiến đấụ để thi hành sứ mệnh đó, một lần nữa chúng ta tôn nhiệm Người làm đấng bảo quản, đấng phân phát mọi kho tàng của Chúng Ta. Những gì thuộc quyền Chúng Ta cũng thuộc quyền Người, như Người đã luôn luôn là của Chúng Ta.
 

 

Để thể hiện những đặc ân trao ban cho Đức Nữ Vương vũ trụ, Thiên Chúa ra lệnh cho toàn thể thần thánh trên trời phải tùng phục Mẹ, nhìn nhận Mẹ là chủ mẫu mình. Toàn thể thần thánh đều tôn phục Mẹ: những vị được ở thiên đàng cả hồn xác đều phủ phục trước mặt Mẹ và đều suy phục Mẹ bằng những việc tôn kính bề ngoài. Đấy chính là phần thưởng cho đức khiêm nhượng Mẹ đã tỏ ra để tôn kính các thánh khi Mẹ còn tại thế. Việc tôn phong Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng này đã trào đổ một nguôn vui phụ trội cho toàn thể thần thánh. Những vị được hoan hỉ thêm nhiều hơn cả là thánh ca? Giuse, thánh Gioan Kim, Thánh Nữ Anna rồi những thánh thân nhân và các thiên thần hầu cận Me.

 



Thứ Tư 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 9, 6-15

"Ðang khi Chúa ngự trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói: "Xin cho một vua cai trị chúng tôi".

Trích sách Thủ Lãnh.

Khi ấy, mọi người Sikem và tất cả các gia tộc thành Mêllô tụ họp lại, rồi kéo nhau đến gần cây sồi ở Sikem, và tôn Abimêlech lên làm vua.

Khi ông Giotham nghe tin ấy, liền đi lên đứng trên đỉnh núi Garizim, lớn tiếng kêu lên rằng: "Hỡi người Sikem, hãy nghe ta, để Thiên Chúa cũng nghe các ngươi. Các cây cối đều đến xức dầu phong một vị vua cai trị chúng, và nói cùng cây ôliu rằng: "Hãy đi cai trị chúng tôi". Cây ôliu đáp lại rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ việc sản xuất dầu mà các thần minh và loài người quen dùng, để được lên chức cai trị cây cối sao?" Các cây cối nói cùng cây vả rằng: "Hãy đến cầm quyền cai trị chúng tôi". Cây vả trả lời rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ sự ngọt ngào của ta, bỏ hoa trái ngon lành của ta, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?" Các cây cối nói với cây nho rằng: "Hãy đến cai trị chúng tôi". Cây nho đáp rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ việc cung cấp rượu, là thứ làm cho Thiên Chúa và loài người được vui mừng, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?" Tất cả những cây cối nói với bụi gai rằng: "Hãy đến cai trị chúng tôi". Bụi gai trả lời rằng: "Nếu các ngươi thật lòng đặt ta làm vua các ngươi, thì các ngươi hãy đến nghỉ dưới bóng ta. Nhưng nếu các ngươi không muốn thì sẽ có lửa từ bụi gai phát ra thiêu huỷ các cây hương nam núi Liban".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 20, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.- Ðáp.

2) Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng. - Ðáp.

3) Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 135

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 20, 1-16a

"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.

"Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.

"Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".

"Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết". Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?" Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"

"Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

Ân Sủng - Một đảo lộn Thần Linh

 

Lời Chúa cho Thứ Tư Tuần XX Thường Niên hôm nay được tiếp tục trước hết với Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu với 16 câu đầu ở đoạn 20 về dụ ngôn thuê thợ làm vườn nho và trả công đồng đều cho họ bao gồm cả người làm nhiều giờ nhất, từ "giờ thứ ba" trong ngày đến người ít giờ nhất, từ "giờ thứ 11" trong ngày, tức cách nhau 8 tiếng đồng hồ.


Sự kiện chủ trả lương đồng đều cho cả nhóm 
thợ được thuê sớm nhất lẫn nhóm thợ thuê muộn nhất bề ngoài có vẻ bất công, như chính cảm nhận của nhóm thợ đến làm sớm nhất: 

"Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: 'Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết'. Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: 'Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?'" 

Thật ra, theo lý thì 
người chủ này chẳng những không bất công một chút nào với nhóm thợ được ông thuê làm vườn nho cho ông sớm nhất mà còn theo tình tỏ ra hết sức rộng lượng nữa là đằng khác với nhóm thợ được ông thuê làm vườn nho cho ông muộn nhất và ít vất vả nhất nữa, như chính câu trả lời của ông với nhóm thợ than phần hành động của ông cho thấy:

"Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"
 

Đúng thế, ông chủ vườn nho không bất công với nhóm thợ đầu tiên và 2 nhóm thợ sau đó. Bởi vì 3 nhóm thợ đến sớm này và ông đã thỏa thuận với nhau về tiền công đâu vào đấy rồi: 

"Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: 'Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng'. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy'". 

Còn việc ông chủ này 
trả cho nhóm thợ sau cùng bằng nhóm thợ đầu tiên là do lòng quảng đại của ông, bởi nhóm thợ sau cùng này không hề mặc cả và đòi hỏi gì, có việc làm là tốt rồi, bằng không sẽ bị ế lao công và thiện chí của họ, trong khi đó ông chủ cũng chẳng hứa trả cho họ bao nhiêu và họ phải làm như thế nào: "Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: 'Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?' Họ thưa rằng: 'Vì không có ai thuê chúng tôi'. Ông bảo họ rằng: 'Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta'".

Riêng với nhóm thợ cuối cùng này, theo lý họ chẳng những đáng được hưởng 1 đồng như nhóm thợ đầu tiên mà còn gấp 3 nữa, nghĩa là đáng 3 đồng.  Đồng thứ nhất - bởi vì họ cũng đã sẵn sàng đi làm từ ban đầu, đến độ họ cứ đợi mãi mà chẳng có ai thuê mướn. Đồng thứ hai - họ chẳng những đã sẵn sàng làm việc từ sáng sớm, mà còn tỏ ra nhẫn nại chờ đợi được thuê mướn nữa, nhất là khi được thuê mướn không mặc cả gì như ba nhóm thợ đầu tiên, có việc là vui rồi, làm gì cũng được, lương bao nhiêu cũng OK, đủ cho họ xứng đáng lãnh nhận bằng đồng lương của nhóm đầu tiên. Đồng thứ ba - vì trong thời gian chờ đợi dược thuê mướn, họ có thể cảm thấy chán nản và cảm thấy bị bỏ rơi khi thấy 3 nhóm thợ trước được thuê mướn, như thể họ chỉ là đồ bỏ, là những gì vô dụng, không đáng được thuê mướn như 3 đám trước, nhưng họ vẫn nhẫn nại đợi chờ, vẫn chấp nhận thân phận cuối rốt của mình, nhất là khi chiều về, gần hết ngày mà chẳng có việc làm thì không biết lấy gì cho vợ con ăn uống đang hết lòng trông đợi mình ở nhà. Như thế có nghĩa là họ thật là xứng đáng được lương nhiều hơn các đám thợ trước.

Chưa hết, vấn đề còn được đặt ra với nhóm thợ cuối cùng đặc biệt này là tại sao chủ vườn nho đã ra thuê thợ làm vườn nho cho mình cả 3 lần trước đó mà lại không thấy họ là những người mà chính ông chủ cũng phải công nhận "sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Phải chăng vì họ đứng ở chỗ khác với 3 nhóm trước, và ông chủ mỗi lần đi một chỗ khác để tìm thuê thêm thợ, để rồi cuối cùng ông mới tới chỗ của họ đứng chờ, biểu hiệu cho vị thế và thân phận của mỗi người ở trong sự quan phòng thần linh của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi họ vào lúc nào Ngài muốn.

C
ăn cứ vào dụ ngôn trong bài Phúc Âm này, vào nguyên tắc đối xử của ông chủ vườn nho với các nhóm thợ được ông thuê vào làm vườn nho cho ông, thì chúng ta thấy rằng chúng ta được quyền yêu thương người này hơn người kia, chẳng hạn Chúa Giêsu yêu Tông Đồ Gioan một cách đặc biệt trong số các tông đồ của Người, nhưng đừng vì thế, vì người được mình yêu hơn bởi một lý do chính đáng nào đó mà đối xử bất công với những người khác. Có nghĩa là, theo nguyên tắc, theo lý, phải yêu thương hết mọi người như nhau, như bản thân mình, nhưng, theo tình, chúng ta vẫn có thể yêu một người nào đó hơn, vì hoàn cảnh đáng thương cần cứu giúp của họ, hay vì khả năng phục vụ đắc lực cho công ích của họ v.v.
Trong lịch sử Giáo Hội cũng xẩy ra những trường hợp được Chúa Giêsu cảnh giác ở câu cuối của bài Phúc Âm hôm nay: "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết". Chẳng hạn một Tông Đồ của Các Tông Đồ Mai-Đệ-Liên, hay Một Đại Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, hoặc một Giáo Phụ Tiến Sĩ Âu Quốc Tinh v.v. Trường hợp của người thu thuế và người Pharisiêu trong dụ ngôn cả hai cầu nguyện trong đền thờ cũng cho thấy rõ đường lối "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết" ngược đời này vậy (xem Luca 18:9-14). Hay trường hợp của người con cả tính toán với cha như là một người làm công cho cha và của người con thứ chỉ muốn làm tôi tớ của cha vì cảm thấy bất xứng làm con của cha (xem Luca 15:11-32) cũng vậy: "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết". 

Trường hợp điển hình nhất về đường lối khách quan của Chúa "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết", đó là dân Chúa, một thành phần dân, được Ngài tuyển chọn và luôn được Ngài ở với, nhất là được Ngài tỏ mình ra dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, nhất là những lúc họ được Ngài giải phóng qua một nhân vật Quan Án hay Thủ Lãnh nào đó, như Giêđêon ở Bài Đọc 1 hôm qua, nhưng, về phần mình, họ vẫn có xu hướng "kẻ trước hết (về ơn Chúa) sẽ nên sau hết (về bất trung)", như được Sách Thủ Lãnh ở Bài Đọc 1 hôm nay cho biết "Ðang khi Chúa ngự trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói: 'Xin cho một vua cai trị chúng tôi'", ở chỗ, họ "nói cùng cây ôliu... cây vả... cây nho... bụi gai rằng: 'Hãy đi cai trị chúng tôi'".

Thậm chí kể cả khi lòng họ muốn khao khát có một vị vua, tức muốn độc lập khỏi Thiên Chúa, như chúng ta thấy ở Sách Samuel ngay sau Sách Thủ Lãnh này, Thiên Chúa vẫn sẵn sàng đáp ứng họ, nhưng không phải là một vị vua như lòng họ mong ước, thành phần vua chúa, như Sách Chư Vương sau này cho thấy, toàn là băng hoại, mà là vị vua ám chỉ Đức Kitô Thiên Sai của Ngài, thuộc giòng dõi Đavít, để Ngài tiếp tục làm chủ họ. Và đó là lý do Thánh Vịnh 20 ở bài Đáp Ca hôm nay đã hướng về vị vua thiên sai ấy, vị vua đến để dứt khoát giải thoát họ khỏi tội lỗi và sự chết:

1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.

2) Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng.

3) Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan.

 

Thánh Rosa Lima 23/8

Santa Rosa de Lima: Peru's Most Iconic Female Saint | How to Peru

 

Ngày 23/08: Thánh Rosa Lima, Đồng trinh

 

Suy niệm về cuộc đời các thánh là phương thuốc có tác dụng chống lại tâm hồn yếu đuối. Các thánh dạy chúng ta rằng: trong mọi thời đại, trên mọi quốc gia, trong mọi hoàn cảnh chúng ta có thể nên thánh. Chúa Giêsu Kitô hôm nay hôm qua và mãi mãi vẫn là một. Sự hiện diện sống động của Người trong nhà tạm và trong trái tim mỗi Người, làm cho các đóa hoa của đức hạnh thiên đàng nở ra tươi thắm và trổ sinh hoa trái trong thời đại của chúng ta cũng như trong những ngày bắt bớ và trong thời đại của đức tin. Tựa như sự khai sáng của sự thật an ủi này, chúng ta hãy suy tư cuộc đời thánh Rosa, một vị thánh vĩ đại của dòng Ba Đa Minh, vị thánh Bổn Mạng của Nam Mỹ (Bổn mạng của Hội Dòng).

Tên của ngài, chúng ta được nghe kể về việc đặt tên như một phép lạ. Mẹ của ngài khi đang đứng bên cạnh nôi ngắm nhìn em bé với một tình yêu trìu mến, thì thấy một đóa hồng tuyêt đẹp trên má của em khi bé đang ngủ. Thấy rằng đây là dấu hiệu của Thiên Chúa, bà đã bất chấp mọi chống đối không gọi em bé là Isabella nữa, tên này em bé nhận được trong ngày Rửa Tội, và từ đó về sau bà gọi em là Rosa. Khi Thiên Chúa ban cho ai một cái tên thì cái tên đó có một ý nghĩa sâu sắc, nó biểu hiện tính cách và sứ vụ của người đó. Thánh Rosa là “một Hoa Hồng mầu nhiệm” là Hoa Hồng của Thánh Tâm, được trồng, lớn lên và nở hoa giữa những gai nhọn; rồi sinh xôi nảy nở đầy mảnh đất mới đang bị tha hóa bởi tội lỗi ngập tràn và bởi lòng tham, với sự ngọt ngào thiên đàng.

Đọc tiểu sử cuộc đời ngài nếu chú ý một chút thôi chúng ta có thể học cách diễn tả vẻ đẹp của đóa hoa, hoa hồng mầu nhiệm. Trong ngày lễ kính ngài, Giáo Hội dùng lời sách Khôn Ngoan và Diễm Ca để miêu tả về ngài. Thiên Chúa toàn năng phán rằng: “Ta đã yêu nàng và đã chọn nàng từ thuở Ta còn niên thiếu, và Ta ước chọn nàng làm ái nữ của Ta: và Ta trở thành người yêu kiều diễm của nàng.” Từ ngày còn thơ thánh Rosa đã cảm thấy tình yêu Thiên Chúa chiếm đoạt tâm hồn mình. Tình yêu này đã khiến ngài khấn hứa dồng trinh lúc mới chỉ có 5 tuổi. Nó khiến ngài quyến luyến đến không thể kháng cự lại việc nhận chiếc áo dòng trắng của thánh Đa Minh; nó làm cho ngài đeo chiếc nhẫn vàng có khắc dòng chữ: “Rosa của Lòng Ta, hãy cho Ta trái tim của con.” Lời ca trong thánh lễ kính ngài diễn tả rằng: “Rosa có bàn tay trong sạch và tâm hồn trắng trong, đã trèo lên núi thánh của Chúa và đứng trên nơi thánh của Người.” Giống như hoa huệ trong các bụi gai thì ngươi là người ta yêu dấu giữa các trinh nữ.”

Câu hỏi thực tế và quan trọng để chúng ta tìm hiểu là: Làm cách nào thánh Rosa lên được ngọn núi cao của hoàn thiện? Làm cách nào ngài nảy chồi đâm bông bên dòng sông? Làm cách nào để ngài trở nên hoa huệ trong sạch giữa bụi gai? Một số người nghĩ rằng đó là công trình của ơn huệ mà không cần bất cứ nỗ lực hoặc cộng tác của con người; rằng ngài là thiên thần mang hình dáng người, được đặc ân và được bảo toàn bởi Đấng Phu Quân tối cao qua những cách tuyệt vời nào đó mà ngài hoàn toàn không phải trải qua thử thách và cám dỗ; rằng lúc nào ngài cũng có thể đáp trả tình yêu Chúa, cũng có thể hát lên bài hát trong sách Diễm Ca: “Người dành tình yêu Người cho tôi. Người đổ trên tôi đầy hoa, người nâng đỡ tôi khỏi vấp ngã bởi tôi kiệt sức vì tình yêu. Cánh tay trái của Người tôi gối đầu và cánh tay phải của Người ấp ủ tôi.”

Tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời thánh Rosa, ta nhận thấy sự thật là Hoa Hồng này mọc lên và đơm hoa giữa những gai nhọn. Bông hoa hồng đỏ tượng trưng cho tình yêu nồng thắm, sự ngọt ngào và tràn đầy sự hoàn thiện của vị thánh; những gai nhọn là biểu tượng của sự đau khổ triền miên của ngài.

Các thánh phải chịu đau khổ; đây là điểm ưu tiên thánh trên hết mọi sự. Chúa Giêsu đã bị đội mão gai và bị đóng đinh. Trái tim của Mẹ Người, trong trắng và đầy ơn phúc, đã bị đâm thâu bởi sầu khổ và buồn đau. Tất cả những ai muốn theo chân Chúa và Mẹ Maria phải chọn đội mão gai và vác thánh giá của mình. Linh hồn nào càng khao khát tình Chúa và càng yêu Chúa thì linh hồn đó càng phải hi sinh nhiều hơn. Luật của Chúa trên trần gian là sự hi sinh làm cho các thánh thật gần gũi và thân thương đối với chúng ta. Rosa của chúng ta sẽ không là thánh Rosa yêu quí nếu không có gai nhọn. Các gai nhọn giữ ngài khỏi những tì vết trần gian và thanh luyện linh hồn ngài giống như vàng thử lửa.

Phần tiểu sử liên quan đến sự đau khổ của vị thánh đơn sơ này thì quá dài. Ngài đã không bao giờ cố tình làm phiền lòng Chúa hay tha nhân, ngài đã yêu mến tất cả và được tất cả mến yêu, ngài có thể cảm thông không chỉ với loài người nhưng cả đối với những con vật câm điếc, và cả với các côn trùng hay gây khó chịu.

Một số đau khổ của ngài là do tự nguyện; ngài ăn chay hầu như suốt đời, chỉ trộn một ít thức ăn nuôi sống thân xác với một ít rau đắng. Ngài bôi trên bàn tay và bàn chân nhỏ bé của mình với vỏ cây và bột tiêu Ấn Độ để làm cho chúng trở nên xấu xí, bỏng rộp, xưng tấy. Trong  suốt 15 năm trên đầu ngài luôn đội một vòng đóng 99 chiếc đinh nhọn bên trong để nhắc nhở ngài về chiếc vòng gai của Đấng Tình Quân. Chung quanh thắt lưng ngài mang một chiếc dây sắt ba, nó cấn vào trong da thịt và gây ra những cơn đau khủng khiếp. Ngài yêu mến kỉ luật nên dùng nó thường xuyên khi được cha giải tội cho phép. Trong vườn ngài cất giữ một cây thánh giá gỗ mà ngài dùng để vác trên đôi vai tiều tụy trong suốt thời gian yên lặng của đêm tối, và đây là cách tốt để suy niệm và bắt chước vác Thánh Giá. Ngài ngủ rất ít, và gối đầu trên một tảng đá. Do vậy, cơ thể ứa máu, bàn tay và bàn chân xưng rộp, cái trán thương tích, nhưng bằng một tâm hồn trong trắng Rosa đã trèo lên tới đỉnh núi hoàn thiện.

Lớn hơn cả những thương tích trên cơ thể là sự đấu tranh trong tâm hồn. những cái gai nhọn đâm thâu không chỉ da thịt mà đến cả con tim ngài. Ngài yêu mến cha mẹ mình vô cùng; niềm vui của họ là của ngài, và đau buồn của họ là của ngài. Để giúp họ, ngài quyết định ở nhà và làm việc chăm chỉ, chăm sóc và bán hoa. Ngài thêu những chiếc thảm tuyệt đẹp và nghệ thuật. Ngài vâng phục cha mẹ một cách vui vẻ cho đến khi ngài được lệnh phải kết hôn, điều này trái với ý hướng và lời thề ước của ngài. Cha mẹ ngài không hiểu ơn gọi và món quà đặc biệt của ngài, và lầm tưởng là ngài đã không vâng phục. Họ quở trách, lăng mạ và trừng phạt ngài một cách nghiêm khắc. Ngài đã cảm thấu điều này, nó đau nhói trong tim ngài. Ngài đã khóc ròng nhiều đêm liền. Tuy nhiên, ngài vẫn vững dạ trong đau khổ của mình và sống chân thật trước mặt Chúa.

Là một thành viên của dòng Ba Đa Minh, thánh Rosa cảm nhận được sự quan trọng của thinh lặng và cô tịch, nó là nhân đức cần thiết của Kitô giáo. Ngài không được hưởng phúc lành và lợi ích của một tu viện; chính vì thế ngài nhờ em trai làm cho mình một cái lều nhỏ trong góc vườn. Nơi này trở thành căn phòng, một tu viện nhỏ xinh của ngài. Hiếm hoi lắm mới có những dịp, hoặc với những lý do đặc biệt mà một số rất ít người được vào trong, phá vỡ sự thinh lặng thánh thiêng của căn phòng. Ngài không bao giờ rời phòng trừ khi phải làm nhiệm vụ hay làm tông đồ. Trong căn phòng nhỏ đó các thiên thần trên thiên đàng chứng kiến nhiều cuộc chiến đấu và nhiều lần chiến thắng vinh quang.

Có những lúc sự an ủi tuyệt diệu đến với ngài để thêm sức và lòng can đảm cho ngài, nhưng ngài cũng rất thường xuyên cảm nghiệm sự khô khan và chán nản. Thiên Chúa cho phép ma quỷ cám dỗ và quấy nhiễu ngài. Ngài cảm thấy mình bị chia cắt với Thiên Chúa và bị khinh miệt; ngài sợ đi lạc vĩnh viễn. Vào những dịp như vậy chúng ta biết được rằng ngài đã đau nỗi đau của luyện ngục. Sự đau khổ của ngài trong căn phòng nhỏ sánh với sự đau buồn của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Ngài thường dùng lời Chúa mà kêu lên, “Lạy Cha, xin cất chén đắng khỏi con, nhưng đừng theo ý con mà theo ý Cha! Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, sao Người bỏ mặc con?” Ngài đã trải qua nỗi đau đớn này 2 tiếng mỗi ngày trong suốt 15 năm. Một lần nữa chúng ta thấy được bức họa về cách mà thánh nữ trèo lên núi Chúa như thế nào. Qua việc đau nỗi đau của Thánh Tâm Chúa, Rosa đã trở nên “Ái nữ của Lòng Ta”.

Sau khi kiểm chứng những chiếc lá và gai nhọn của Hoa Hồng Mầu Nhiệm, chúng ta bắt đầu xem xét đến hương thơm của bông hoa, nó thật ngọt ngào dưới mắt Thiên Chúa và con người. Cuộc đời của Đóa Hoa này đẹp từng chi tiết; đẹp và hoàn hảo trong từng cánh hoa.

Mỗi trang sách về tiểu sử của thánh Rosa có tính chất hướng dẫn và khai trí, không trang nào đầy đủ bằng trang cuối cùng. Cái chết của Đóa Hồng này không phải là sự tàn úa của các cánh hoa, chúng rơi xuống đất và trở thành đất, nhưng chúng lại mở ra một chiếc nụ mới, phơi bày dưới ánh sáng những chiếc lá mỏng manh được giấu kín, nó tỏa ra mùi hương ngọt ngào bay tới thiên cung. Cái chết giải thoát tử thần và tỏa sáng phi thường; nó mang lại một thứ hương thơm ngát tỏa “trước tôn nhan Thiên Chúa.”

Thánh Catarina nói rằng: “Người công chính sống khoan dung nhân hậu và chết trong tình yêu, nếu họ sống trọn vẹn các đức hạnh và với trọn niềm hi vọng vào giá máu cứu chuộc của Con Chiên, thì sẽ nhìn thấy điều tốt lành mà ta đã chuẩn bị cho họ. Ta sẽ ôm ấp nó bằng cánh tay tình yêu, giữ nó thật chặt bằng tình yêu của Ta, là đấng tốt lành tối cao và vĩnh cửu. Vì vậy họ nếm trải sự sống vĩnh cửu trước khi từ bỏ thân xác hay chết của mình, tức là trước khi linh hồn lìa khỏi xác.” Thánh Rosa được hưởng ân huệ to lớn này. Khi ngài được 31 tuổi, gần đạt tới tuổi của Đấng Tình Quân, ngài cảm thấy cái chết đang dần đến, ngài không sợ nhưng chào đón nó bằng niềm hân hoan tựa như đây là giây phút hạnh phúc nhất trong đời mình. Ngài coi đó giống như là trở về nhà, là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa và Đấng Cứu Chuộc của mình, sự mở đầu của niềm hân hoan không bao giờ tàn lụi.

Ba ngày trước cơn bạo bệnh cuối cùng, ngài bắt đầu cuộc hành hương đến các nhà thờ và nhà nguyện ở Lima để tạ ơn Chúa vì những hồng ân ngài đã nhận được ở đó. Sau một thời gian chuẩn bị, khi ngài lãnh Bí tích Sức Dầu Bệnh Nhân ngài đã xuất thần, lúc tỉnh lại ngài quay qua cha giải tội và nói rằng: “Thưa cha, con có thể nói gì về những sự sung sướng và an ủi mà Thiên Chúa đổ tràn vĩnh cửu trên các thánh! Con ra đi với lòng thỏa mãn khôn tả để chiêm niệm khuôn mặt đáng tôn thờ của Đức Kitô, Người mà con đã sống trọn cuộc đời mình để chiếm hữu.”

Ngài nói trong trạng thái hoàn toàn bình tĩnh và vui tươi với các bà con và bạn bè đang đứng quanh giường mình rằng: “Giêsu ở với con,” lời của ngài như Hoa Hồng ngọt ngào và mầu nhiệm bay tới thiên đàng.

Sự thánh thiện này là hương thơm ngọt ngào trước tòa Chúa, mang đến phúc lành cho loài người như Kinh Thánh đã nói. Trong Cựu Ước chúng ta đọc thấy rằng Thiên Chúa sẵn sàng không phá hủy cả thành phố chỉ vì trong đó có 4 người công chính. Mặc dù chỉ là một nhà thần bí sống ẩn dật, thánh Rosa đã ảnh hưởng trực tiếp đến những người chung quanh. Hương thơm ngọt ngào về đức hạnh của ngài đã tràn lan trên thành phố và trên đất nước, hương thơm ấy đã đi vào con tim mọi người.

Yêu Chúa, Rosa cũng yêu tha nhân, là con cái của Chúa bằng một tình yêu nồng cháy, tình yêu thiêng liêng. Ngài giúp người nghèo và như một thiên thần nhân từ, ngài viếng thăm người đau yếu, sự hiện diện của ngài mang lại niềm an ủi và sự chịu đựng. Mỗi ngày ngài cầu nguyện, khóc than và đánh đập thân xác để cầu xin cho tội nhân trở lại. Ngài không bao giờ chỉ nhìn ngắm các ngọn núi bao quanh thành phố, nhưng ngài khao khát đi vào trong các khu vực của người nghèo da đỏ để dạy dỗ họ về Chúa Giêsu chịu đóng đinh.

Cái chết của ngài đã tiết lộ bí mật và sự ảnh hưởng thiêng liêng của những khát vọng rực cháy nơi ngài. Đời sống cầu nguyện và việc ăn chay hãm mình triền miên của ngài cho các linh hồn mà ngài chưa bao giờ gặp mặt. Tin về cái chết của ngài làm rung động thành phố và đất nước lân cận. Người giàu lẫn người nghèo, hàng giáo sĩ và giáo dân, ngay cả những người da đỏ từ các vùng đồi núi xung quanh, tất cả chạy đến để ngắm nhìn lần cuối khuôn mặt trẻ thơ của vị thánh, không bị biến dạng hoặc biến đổi bởi cái chết.

Đám tang của con người nhỏ bé đơn giản này long trọng nhất mà thành phố Lima chưa từng có. Đức tổng giám mục và các vị phụ tá, chính quyền và những người dưới quyền, tất cả các dòng tu, các cộng đoàn, các tín hữu thuộc mọi tầng lớp hiện diện để đưa tiễn thi thể ngài đến nhà thờ thánh Đa Minh. Họ yêu mến Hoa Hồng của mình và tôn kính ngài như một vị thánh, trong suốt hai ngày nhà thờ chật ních người đến nỗi thi thể ngài không thể di chuyển được.

Có bao nhiêu bài học mà cuộc đời đơn sơ này không dạy chúng ta? Tình yêu nồng cháy của Thiên Chúa, tình yêu của Thánh Tâm thay đổi mọi sự và mạnh mẽ hơn cái chết là ý niệm trước nhất và trung tâm. Tình yêu của Thiên Chúa đưa tâm hồn ra khỏi thế giới, làm thay đổi các giác quan và đóng đinh thân xác, rửa sạch và thánh hóa những ai tìm kiếm nó, nó đưa linh hồn vào nơi thanh tịnh để gặp Chúa Giêsu, để chuyện trò với Người, để đau khổ với Người, và đem ơn cứu độ cho các linh hồn. Để cứu các linh hồn không nhất thiết phải đi giảng dạy và làm phép lạ. Một cuộc sống tĩnh lặng, trong sạch và sốt sắng với Chúa là một ngọn lửa chiếu sáng, tình yêu và sự sống. Thánh Rosa loan truyền cách sống này. Còn tôi, tại sao không?

Minh Thùy (theo tài liệu)

Thánh Rosa - Rosa của LòngTa, hãy cho Ta trái tim của con

 

 

Ngày 24 tháng 8

THÁNH BA-TÔ-LÔ-MÊ-Ô, TÔNG ĐỒ

lễ kính

Saint Bartholomew, Apostle - My Catholic Life!

Tiểu sử 
Thánh nhân còn được gọi là Na-tha-na-en, quê ở Ca-na. Chính tông đồ Phi-líp-phê là người đã giới thiệu thánh nhân với Chúa Giê-su ở bờ sông Gio-đan. Người nhập nhóm các môn đệ đầu tiên được Chúa kêu gọi. Người ta không biết đích xác về hoạt động tông đồ của người sau lễ Hiện Xuống. Tương truyền rằng người đã loan báo Tin Mừng ở Ấn-độ và đã chịu tử đạo ở đó.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một lòng tin vững mạnh, để chúng con thật tình gắn bó với Đức Ki-tô, Con Một Chúa, như thánh Ba-tô-lô-mê-ô tông đồ. Xin Chúa cũng nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con sống thế nào, để muôn dân nhận biết Hội Thánh chính là bí tích cứu độ. Chúng con cầu xin

 

 

Thứ Năm

(Nếu ngày Thứ Năm trong tuần XX Thường Niên này không bị Lễ Kính Thánh Batholomeo át đi như năm 2023 này)

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 11, 29-39a

"Hễ người nào ra khỏi cửa nhà trước hết, tôi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu".

Trích sách Thủ Lãnh.

Trong những ngày ấy, Thần Trí của Chúa ngự trên ông Giéphtê, ông liền đi quanh đất Galaad, Manassê, (rồi) Maspha (của) Galaad, và từ đó tiến sang đánh con cái Ammon. Ông thề hứa với Chúa rằng: "Nếu Chúa trao con cái Ammon vào tay con, thì khi con từ đất con cái Ammon trở về bình an, hễ người nào ra khỏi nhà con và đón tiếp con trước hết, con sẽ dâng nó cho Chúa làm của lễ toàn thiêu".

Ông Giéphtê liền trẩy sang đánh con cái Ammon, Chúa đã trao chúng trong tay ông. Ông đã đánh phá hai mươi thành trong một trận ác liệt, từ Arôê đến cửa thành Mennith, và đến Abel Kêramim. Con cái Ammon bị con cái Israel hạ nhục. Khi ông Giéphtê trở về nhà ở Maspha, người con gái duy nhất ra với hội hát trống phách đón rước ông, vì ông chẳng có người con nào khác. Khi thấy đứa con gái, ông liền xé áo mình ra mà kêu lên rằng: "Con ơi, con làm khổ cha, con cũng khổ nữa, vì cha đã khấn hứa cùng Chúa, và cha không thể làm gì khác được". Người con gái đáp: "Cha ơi, nếu cha đã khấn hứa cùng Chúa, thì cha cứ làm cho con mọi điều cha đã thề hứa, vì Chúa ban cho cha được trả thù và thắng kẻ thù của cha". Cô lại nói với cha rằng: "Con chỉ xin cha điều này: xin cha cho con hai tháng, để con cùng các bạn con đi quanh núi đồi mà than khóc tuổi thanh xuân của con". Người cha đáp: "Con cứ đi". Và ông đã cho cô đi hai tháng. Khi cô ra đi làm một với bạn nghĩa thiết của cô, thì cô than khóc tuổi thanh xuân của cô trên núi đồi. Sau hai tháng, cô trở về nhà cha cô, và ông đã thi hành như ông đã thề hứa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 39, 5. 7-8a. 8b-9. 10

Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa (c. 8a & 9a).

Xướng: 1) Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà. - Ðáp.

2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.

3) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.

4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 22, 1-14

"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.

Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!" Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".

 

Ðó là lời Chúa.

 

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

 

Ân Sủng - Một thông ban nhưng không... cần đáp ứng tương xứng

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XX Thường Niên, không còn liên tục với các bài Phúc Âm trong tuần như các ngày trước, mà là một bài Phúc Âm bắt đầu từ đầu Đoạn 22, hoàn toàn bỏ Đoạn 21 và 17 câu của Đoạn 20. Tất nhiên, việc Giáo Hội cố ý chọn đọc các bài Phúc Âm hằng ngày trong tuần hay Chúa Nhật này phải liên tục với nhau về nội dung, cho dù có những đoạn và những câu Phúc Âm bị cắt bỏ như vậy, vì có thể những chỗ ấy chỉ là những biến cố không hợp vào thời điểm phụng vụ này. 

 

Chẳng hạn như biến cố Chúa Giêsu vào Thánh Giêrusalem và thanh tẩy đền thờ rồi nguyền rủa cây vả và vấn đề thẩm quyền của Chúa Giêsu (xem Mathêu 21:1-27), những gì mà hầu hết đã được Giáo Hội cho đọc theo Phúc Âm của Thánh ký Marco ở các ngày Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần VIII Thường Niên rồi, không cần đọc lại hay lập lại nữa.

 

Nếu bài Phúc Âm hôm qua về dụ ngôn người chủ vườn nho thuê thợ làm vườn nho và trả công cho họ bằng nhau liên quan cả đến ân sủng của Thiên Chúa thì bài Phúc Âm hôm nay về dụ ngôn một "vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử" lại càng liên quan đến ân sủng của Thiên Chúa

 

Thật vậy, nếu 4 nhóm thợ được chủ vườn nho thuê làm vườn nho cho ông để được trả công tương xứng, một khoản tiền công chẳng những công bằng về lý đối với 3 nhóm thợ đầu mà còn về tình với nhóm thợ cuối cùng, thì thành phần được mời đến dự tiệc cưới trong bài Phúc Âm hôm nay đây hoàn toàn liên quan đến tình nghĩa của Thiên Chúa, tức là họ chỉ việc đến hoan hưởng mà chẳng phải vất vả làm gì hết, một đặc ân bao gồm chẳng những thành phần được ấn định ám chỉ dân Do Thái mà còn tất cả mọi người không trừ ai ám chỉ chung nhân loại hay dân ngoại nữa:

 

Thành phần đã được ấn định: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: 'Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới'. Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi".

 

Thành phần không được mời trước cũng được tham dự: "Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: 'Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới'. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc".

 

Căn cứ vào dụ ngôn về việc mở tiệc cưới và mời khách đến dự hôm nay, chúng ta thấy nếu tiệc cưới đây ám chỉ mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô, Đấng là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng đã kết hiệp thiên tính và nhân tính lại với nhau nơi ngôi vị thần linh của mình, thì thành phần được mời đến tham dự tiệc cưới này, tức thành phần được tham phần vào chính mầu nhiệm nhập thể này tất nhiên phải bao gồm cả dân Do Thái là giòng dõi Chúa Giêsu được sinh ra về thể lý, lẫn dân ngoại vì Người mặc lấy nhân tính của cả loài người của họ và như họ.

Chính vì dân Do Thái đã được mời trước, ở chỗ đã được Thiên Chúa tuyển chọn và lập giao ước với qua các tổ phụ của họ, mà họ không chấp nhận Chúa Kitô đã đến trong xác thịt, lại còn giết Người nữa, nên họ đúng là thành phần đã từ chối không đến dự tiệc cưới vậy.

Tuy nhiên, để xứng đáng với đặc ân tự nhiên được tham dự tiệc cưới cứu độ này, một ân sủng được ban cho chẳng những dân Do Thái mà còn cả dân ngoại, chẳng những ban cho những người tốt lành mà còn cả những người không tốt lành: "bất cứ ai", "bất luận tốt xấu", thành phần tham dự một khi đã được mời và đã đến tham dự thì cần phải tỏ ra xứng đáng nữa, bằng không sẽ bị loại trừ:

 

"Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: 'Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?' Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: 'Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!' Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".

 

Như bài Phúc Âm về việc trả lương cho thợ làm vườn nho, mới nghe qua thì có vẻ bất công thế nào thì việc ông vua đối xử với thành phần được ông lùa vào dự tiệc cưới của con ông đã bị ông trừng phạt vì không mặc áo cưới cũng thế. Ở chỗ, nếu những người này biết trước là cần phải mặc áo cưới thì có lẽ họ đã không vào, bởi bấy giờ họ không kịp sửa soạn áo cưới hay không có tiền mua áo cưới v.v.

 

Thế nhưng, áo cưới đây là gì, nếu không phải, trước hết là chính việc chấp nhận Lời Nhập Thể, Đấng Thiên Sai, Đấng "đã đến trong xác thịt" (xem 2Gioan 7), "đã mặc lấy thân phận tôi đòi, được sinh ra như loài người" (Philiphê 2:7), "bởi một người nữ" (Galata 4:4): "Người đã ở trong thế gian, và nhờ Người mà thế gian đã được tạo thành, nhưng thế gian đã không nhận biết Người là ai. Người đã đến với những ai thuộc về Người nhưng họ đã không chấp nhận Người. Bất cứ ai chấp nhận Người thì Người đã ban cho họ được quyền trở nên con cái của Thiên Chúa" (Gioan 1:10-12).

 

Chưa hết, áo cưới đây, nếu áp dụng vào thành phần dân ngoại Kitô hữu thì có thể còn được hiểu là lòng biết ơn, do đó không thể tỏ ra thờ ơ lãnh đạm với ơn cứu độ được ban cho mình và chính mình đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa, thờ ơ lãnh đạm đến độ khi được chất vấn tại sao không mặc áo cưới cũng không lên tiếng trả lời. Và một khi thờ ơ lãnh đạm với ơn cứu chuộc thì Kitô hữu sẽ khinh thường và không sống xứng đáng với ơn cứu độ, như thể không mặc áo cưới vậy.

 

Sau hết, và bởi thế, áo cưới đây còn được hiểu là chính phẩm vị làm con Thiên Chúa của Kitô hữu - không mặc áo cưới nghĩa là không sống với phẩm vị con Thiên Chúa của mình. Nhất là bằng những tội trọng, như thể họ đã cố tình lột bỏ chiếc áo rửa tội của mình đi. Đó là lý do khi người con hoang đàng phung phá trở về, nó đã được cha của nó phục hồi lại cho nó tất cả những gì của một người con, chẳng những thân phận làm con (qua hình ảnh mang giầy, chứ không phải đi chân không như thân phận của một tên nô lệ) và quyền làm con (qua hình ảnh đeo nhẫn), mà còn chính phẩm vị làm con (qua hình ảnh mặc lại cho nó áo đẹp nhất).

 

Số phận của con người được mời vào dự tiệc cưới mà không chịu mặc áo cưới nên đã bị trừng phạt tương xứng ở trong bài Phúc Âm hôm nay đã chứng thực cho thấy tác động đáp ứng ân sủng thần linh nhưng không của Thiên Chúa là những gì bất khả thiếu. Việc đáp ứng ân sủng thần linh đã được Sách Thủ Lãnh thuật lại ở Bài Đọc về nhân vật Giéphtê hôm nay, một nhân vật, sau khi thắng trận do Chúa ban, đã giữ đúng lời thế hứa của mình với Ngài, bất chấp điều ấy như thế nào, nghĩa là hoàn toàn bất lợi cho người con gái của mình, liên quan đến thân phận son sẻ suốt đời của nó, nhưng chính nó cũng cùng với cha của nó đáp ứng ân sủng thần linh một cách can đảm như sau:

 

"Trong những ngày ấy, Thần Trí của Chúa ngự trên ông Giéphtê, ông liền đi quanh đất Galaad, Manassê, (rồi) Maspha (của) Galaad, và từ đó tiến sang đánh con cái Ammon. Ông thề hứa với Chúa rằng: 'Nếu Chúa trao con cái Ammon vào tay con, thì khi con từ đất con cái Ammon trở về bình an, hễ người nào ra khỏi nhà con và đón tiếp con trước hết, con sẽ dâng nó cho Chúa làm của lễ toàn thiêu'. Ông Giéphtê liền trẩy sang đánh con cái Ammon, Chúa đã trao chúng trong tay ông. Ông đã đánh phá hai mươi thành trong một trận ác liệt, từ Arôê đến cửa thành Mennith, và đến Abel Kêramim. Con cái Ammon bị con cái Israel hạ nhục. Khi ông Giéphtê trở về nhà ở Maspha, người con gái duy nhất ra với hội hát trống phách đón rước ông, vì ông chẳng có người con nào khác. Khi thấy đứa con gái, ông liền xé áo mình ra mà kêu lên rằng: 'Con ơi, con làm khổ cha, con cũng khổ nữa, vì cha đã khấn hứa cùng Chúa, và cha không thể làm gì khác được'. Người con gái đáp: 'Cha ơi, nếu cha đã khấn hứa cùng Chúa, thì cha cứ làm cho con mọi điều cha đã thề hứa, vì Chúa ban cho cha được trả thù và thắng kẻ thù của cha'".

 

Đúng thế, không việc gì đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng nhận biết Ngài bằng việc đáp ứng tác động thần linh của Ngài, nghĩa là luôn tuân theo Thánh Ý tối hậu của Ngài, để Ngài hoàn toàn có thể tỏ mình ra cho họ và qua họ cho ngưòi khác nữa. Thánh Vịnh 39 ở bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa niềm xác tín chân thật này như sau:

 

1) Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà.

2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến".

3) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con.

4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi.

 

 

 

Thứ Sáu

Phụng Vụ Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: (Năm I) R 1, 1. 3-6. 14b-16. 22

"Bà Nôêmi cùng nàng dâu người Moab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem".

Khởi đầu sách truyện Bà Ruth.

Khi các quan án cầm quyền, thì dưới thời một quan án kia, trong xứ xảy ra nạn đói kém. Có một người thành Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, đem vợ và hai con sang cư ngụ trong miền Môab.

Và Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực.

Bà Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: "Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị con". Bà Ruth thưa lại rằng: "Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con".

Vậy bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt lúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 145, 5-6. 7. 8-9a. 9bc-10

Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng. - Ðáp.

2) Người là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.

3) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.

4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 11, 25

Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 22, 34-40

"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Ðoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Tình Yêu Bất Diệt - Vinh Hiển Phục Sinh

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XX Thường Niên, cũng không liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, cách bài Phúc Âm hôm qua 16 câu, trong đó có hai vấn đề được đặt ra cho Chúa Giêsu, trước hết là vấn đề được nhóm biệt phái cố tình gài bẫy Chúa Giêsu về việc nộp thuế cho Cesar (xem Mathêu 22:22:15-22), và sau đó là vấn đề được nhóm Saducê đặt ra về niềm tin phục sinh (xem Mathêu 22:23-33), cả hai vấn đề đã được Phúc Âm Thánh ký Marcô thuật lại ở Thứ Ba và Thứ Tư Tuần IX Thường Niên trước đây.

 

Tuy nhiên, bài Phúc Âm hôm nay, bài Phúc Âm trước hết về điều răn trọng nhất, dù đã được Giáo Hội chọn đọc theo Thánh ký Marcô cho Thứ Năm Tuần IX Thường Niên, Giáo Hội vẫn chọn đọc lại một lần nữa, vì giới răn trọng nhất trong bài Phúc Âm hôm nay cũng liên hệ với 2 bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia trong tuần này. 

 

Ở chỗ, nếu con người sống trọn giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", thì các nhóm thợ làm vườn nho lâu giờ đã không tỏ thái độ bất mãn với chủ và ghen tị với nhóm thợ cuối giờ, và thành phần bất ngờ được mời đến dự tiệc cưới trong hoàng cung sẽ mặc áo cưới xứng đáng với đặc ân diễm phúc khôn lường của mình.

 

Và vấn đề giới răn trọng nhất này còn liên quan cả đến mầu nhiệm phục sinh nữa. Ở chỗ, tất cả mọi sự trên trần gian này sẽ qua đi, kể cả đức tin, ngoại trừ duy có đức mến. Vì "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16). Bởi vậy, nếu hai yếu tố làm nên bản tính của con người là linh hồn và thân xác, nhưng linh hồn chi phối thân xác và thân xác lệ thuộc linh hồn thế nào, thì một khi thân xác của con người trở thành khí cụ của lòng mến, tác hành theo lòng mến, theo tình yêu Thiên Chúa, theo đức ái trọn hảo, thì thân xác đó đã chứng tỏ nó mang sẵn mầm sống vĩnh cửu, bất diệt, và trọn hảo nhờ linh hồn thiêng liêng bất tử và trọn lành của nó, và nhờ quyền năng của Thánh Thần, nó sẽ trở nên như thân xác phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô (xem Philiphê 3:21).

 

Một thanh sắt cho dù có bị rỉ xét đến đâu chăng nữa, một khi được nung bằng lửa thì nó cũng trở nên sáng rực như lửa thế nào thì thân xác của con người cũng thế. Cho dù thân xác đó khi còn sống có dâm ô nhục dục đàng điếm chăng nữa, nhưng một khi tâm hồn của thân xác đó biết ăn năn thống hối với tất cả lòng mến, thì thân xác đó sẽ trở nên tinh tuyền. Bởi xác của con người ngày sau sống lại thì trở nên thiêng liêng như thiên thần, như Chúa Giêsu khẳng định (xem Mathêu 22:30).

 

Trong các thánh nữ đồng trinh, ngoài Mẹ Maria là đệ nhất trinh nữ và là trinh nữ trên hết, một trinh nữ sinh con duy nhất trên trần gian này, thì vị thánh nữ đồng trinh thứ nhất trong hàng ngũ các thánh trinh nữ là Thánh Catarina Tử Đạo ở Alexandria Ai Cập, sau đó đến Thánh Nữ Mai Đệ Liên đàng điếm và Thánh Nữ Magarita Cortone cũng thuộc về loại ưu hạng trong số các thánh trinh nữ, như chính Chúa Giêsu đã tỏ cho chị thánh Magarita Cortone biết, và dấu chứng thực đó là thân xác sống dâm dục 9 năm trời với một người tình và có một đứa con hoang (ngoại hôn) với chàng của chị chẳng những không bị hư hoại mà vẫn còn nguyên.

 

Thật vậy, vào ngày lễ của Thánh Catherine thành Alexandria Tử Đạo (25/11 theo lịch phụng vụ cũ), khi Thánh Nữ Margarita đang ở bàn thờ để rước lễ thì nghe thấy Chúa Giêsu nói cùng mình rằng:

 

Con Cha ơi, chỗ của con sẽ ở giữa thần Seraphim cùng với các trinh nữ bừng cháy tình yêu thần linh”.

 

Nghe thấy thế Thánh nữ sửng sốt đáp lại rằng:

 

Lạy Chúa, làm sao điều ấy có thể xẩy ra được với một con người nhớp nhúa tội lỗi chứ?

 

Chị đã nghe thấy câu giải đáp của Chúa như sau:

 

Những đau khổ vô vàn của con sẽ thanh tẩy tâm hồn con khỏi tất cả mọi thứ thu hút phạm tội, và trong nỗi đớn đau và ăn năn thống hối của mình, con sẽ phục hồi sự tinh tuyền đồng trinh của con”.

 

Thánh nữ lại càng cảm thấy sợ hãi trước câu trả lời của Chúa và đã than lên rằng:

 

Ôi Chúa Kitô là Sư Phụ của con, phải chăng Thánh Mai Đệ Liên thuộc về thành phần các trinh nữ trong vinh quang thiên đình?” Chúa liền tiết lộ cho chị biết rằng: “Ngoại trừ Mẹ Maria và Catherine Tử Đạo, không ai hơn Mai Đệ Liên trong hàng ngũ trinh nữ”.

 

(A Tuscan Petinent: The Life and Legend of Saint Margaret of Cortona, by Father Cuthbert, Burns Oates and Washbourne, Ltd, 1900, pages 160-161).

 

Giới răn trọng đại nhất là giới răn mến Chúa yêu người được Chúa Giêsu tóm gọn và khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay được tỏ hiện nơi một con người dân ngoại, được Sách Bà Ruth thuật lại ở Bài Đọc 1 hôm nay, một nữ nhân vật vì trung thành với người mẹ chồng của mình nên cũng tôn thờ Thiên Chúa của bên chồng mình nữa, dù chồng mình không còn sống, và dù có được mẹ chồng khuyên giục trở về quê quán của mình, nhờ đó có thể lập gia đình với người khác:

 

"Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực. Bà Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: 'Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị con'. Bà Ruth thưa lại rằng: 'Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con'. Vậy bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt lúa".

 

 

Những con người nhận biết Thiên Chúa là những con người có phúc, dù cuộc đời họ có khốn khổ bần cùng chăng nữa, vì Thiên Chúa muốn để cho họ như vậy để họ càng trở nên đáng thương hơn, càng tin tưởng cậy trông vào Ngài hơn, và nhờ đó Ngài càng tỏ mình ra cho họ hơn, với tư cách là vị chủ tể của cõi lòng họ và cuộc đời của họ như Thánh Vịnh 145 ở bài Đáp Ca hôm nay cảm nhận:

 

1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng.

2) Người là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.

3) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.

4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.

 

Ngày 25/8

 

Thánh Louis Vua Nước Pháp và Thánh Giuse Calasanzio, linh mục

Advice to a Catholic Statesman - St. Louis - Crossroads Initiative

 

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã trả lời những người hỏi chị về con đường nhỏ thiêng liêng là con đường nào. Thánh nhân không ngần ngại trả lời :”…Đó là con đường thơ ấu thiêng liêng, đó là con đường của niềm tín thác và sống hoàn toàn tín thác. Con muốn chỉ cho họ những cách thế nho nhỏ rất thành công đối với con. Con sẽ bảo họ rằng ở trần gian này chỉ có một việc phải làm : hãy tặng Chúa Giêsu những bông hoa của các việc hy sinh nho nhỏ, hãy làm Chúa vui thích bằng những sự vuốt ve. Chính đó là cách con đã làm Chúa vui thích, và nhờ đó mà con luôn được Chúa đón nhận “. Các thánh là những con người đã biết tín thác nơi Chúa, đã biết trông cậy ở nơi Ngài thật nhiều, nên các Ngài nhận được nhiều. Thánh Luy, Vua nước Pháp cũng không nằm ngoài thông lệ ấy.

 

Khi đăng quang làm vua nước Pháp, Louis thề hứa sẽ sống như một người được Thiên Chúa xức dầu, đối xử với người dân như một hiền phụ và là tướng công của Vua Hòa Bình. Dĩ nhiên, các vua khác cũng phải thi hành như vậy. Nhưng Thánh Louis khác biệt ở chỗ ngài thực sự nhìn đến bổn phận làm vua dưới con mắt đức tin. Sau những xáo trộn của hai triều đại trước, ngài đã đem lại hoà bình và công bằng trong nước.

 

Vua Louis sinh ngày 25 tháng 4 năm 1214 tại Poissy, nước Pháp, con của vua Louis VIII và hoàng hậu Blanche ở Castile. Nhờ sống trong một gia đình đạo đức, cho dù Cha Mẹ của Ngài là Vua, là Hoàng Hậu nước Pháp. Sống trong cảnh giầu sang, phú quí và có quyền hành. Nhưng chính đời sống của Mẹ Ngài đã gây ấn tượng lớn lao trong đời sống của Luy. Mẹ Ngài đã uốn nắn, dậy bảo Luy bằng đời sống thánh thiện của bà. Thánh nhân đã được Mẹ gieo vào tâm hồn những mầm mống đạo đức, thánh thiện suốt cả đời niên thiếu. Đến lúc trưởng thành, vào đời, thánh nhân luôn luôn nhắc đi nhắc lại lời Mẹ nhắn nhủ, bảo ban :” Mẹ thà thấy con chết trước mặt Mẹ, còn hơn thấy con Mẹ phạm tội trọng”.

 

Ngài được tôn vương lúc 12 tuổi, khi cha ngài từ trần. Mẹ ngài cầm quyền trong thời gian khi ngài còn nhỏ. Năm 19 tuổi, thánh nhân kết hôn với Marguerite, con gái quận công miền Provence. Ðó là một hôn nhân hạnh phúc, bất kể tính tình kiêu căng và náo động của bà hoàng hậu. Hai ông bà sinh hạ cả thảy 11 người con. Với cương vị Vua lãnh đạo, trị vì nước Pháp, Luy luôn tỏ ra công chính, liêm khiết, ngay thẳng, hết mực thương dân chúng, đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Giáo Hội lên trên những lợi ích cá nhân và danh vọng riêng tư. Thánh nhân dù là Vua nhưng đời sống lại không khác gì một thầy Dòng khổ tu : sáng tham dự thánh lễ, đọc kinh nguyện, xưng tội và đánh tội mỗi tuần. Đời sống của Vua Luy thật sự là một đời sống tín thác, trông cậy và yêu mến Chúa. Để thể hiện lòng yêu mến, thánh nhân đã hiểu rõ lời Chúa trong Tin Mừng của thánh Matthêu 25,31-46, Ngài đã tìm dịp để giúp đỡ những kẻ nghèo, thăm viếng và nâng đỡ những người đau yếu tật nguyền.

 

Khi 30 tuổi, vua Louis “vác thập giá”. Thánh nhân đã lập Đạo Binh Thánh Giá đi chiến đấu với quân phá đạo ở Giêrusalem. Ðạo quân của ngài chiếm Damietta ở sông Nile nhưng sau đó không lâu, vì bệnh kiết lị và thiếu tiếp viện, họ bị bao vây và bị bắt. Vua Louis và đạo quân được trả tự do bằng cách giao lại thành phố Damietta và nộp một số tiền chuộc. Ngài ở lại Syria trong bốn năm. Ngài đã xây một đền thờ sau khi chinh chiến trở về để tôn kính mão gai Chúa Giêsu do Vua Constantin trao lại cho Ngài.

 

Mọi người thán phục ngài với tư cách của một thập tự quân, nhưng có lẽ công trạng lớn lao hơn của ngài là những lưu tâm về sự công bằng trong nền hành chính. Ngài đặt ra các quy tắc cho các viên chức chính quyền, mà sau đó trở thành những chuỗi luật cải tổ. Ngài thay thế hình thức xét xử đầy bạo lực bằng việc điều tra các nhân chứng, và nhờ ngài thúc giục, việc ghi chép lại các chi tiết trong toà được bắt đầu.

 

Vua Louis luôn luôn tôn trọng quyền bính của đức giáo hoàng, nhưng ngài bảo vệ quyền lợi của hoàng gia chống với các giáo hoàng và từ chối không công nhận bản án của Ðức Innôxentê IV chống với hoàng đế Frederick II.

 

Vua Louis là người tận tụy cho dân chúng, ngài thành lập các bệnh viện, thăm viếng người đau yếu, và cũng giống như quan thầy của ngài là Thánh Phanxicô, ngài chăm sóc ngay cả những người bị bệnh cùi. Bởi sự thánh thiện và cá tính của ngài, vua Louis đã đoàn kết nước Pháp thời bấy giờ, với đủ loại người — tướng công, dân thành thị, nông dân, linh mục và các hiệp sĩ. Trong nhiều năm, quốc gia này sống trong an bình.

 

Vào năm 1267, lo lắng vì những cuộc tấn công mới của người Hồi Giáo vào Syria, vua Louis dẫn đầu cuộc thập tự chinh khác, khi ấy ngài đã 41 tuổi. Năm 1270, thánh nhân còn thiết lập một Đạo Binh Thánh Giá mới để chống lại quân Hồi Giáo đang hung hăng tàn sát đạo. Tuy nhiên một cơn dịch nặng nề đã khiến Đạo Binh của Ngài tan rã và thánh Luy đã lâm trọng bệnh, trở về nhà Cha vào ngày 25 tháng 8 năm 1270.Chỉ trong vòng một tháng, đạo quân bị tiêu hao nhiều vì bệnh tật, và chính vua Louis đã từ trần ngày 25 tháng 8 năm 1270 tại Tunis, Algeria khi 44 tuổi.; thánh tích của ngài để tại nhà Saint Denis, Paris, nước Pháp; bị tiêu hủy năm 1793 trong thời cách mạng Pháp. Hai mươi bảy năm sau, ngài được Đức Giáo Hoàng Bonifacius VIII phong thánh năm 1297.

 

Thánh Louis là người có ý chí mạnh mẽ và kiên quyết. Lời của ngài thực sự đáng tin, và sự can trường của ngài thật đáng kể. Ðiều đặc biệt nhất là ngài tôn trọng bất cứ ai mà ngài gặp, nhất là những “người bé mọn của Thiên Chúa.” Ðể chăm sóc dân chúng, ngài xây dựng nhà thờ, thư viện, nhà thương và cô nhi viện. Ngài cũng đối xử với các hoàng tử một cách thành thật và công bằng. Ngài hy vọng cũng sẽ được đối xử tương tự bởi Vua các vua, là Người mà ngài đã dâng hiến cuộc đời, gia đình và quê hương.

 

Chúa mời gọi mọi người nên thánh. Đường nên thánh không chỉ dành riêng cho giới tu sĩ được đặc tuyển, nhưng con đường nên thánh dành cho mọi người. Từ thứ dân đến Vua Chúa thế trần đều được Chúa mời gọi sống thánh thiện và trở nên thánh. Thánh Luy IX, Vua nước Pháp đã cậy trông nơi Chúa hết lòng, nên Ngài cũng được Chúa cho lãnh nhận thật nhiều những ơn huệ cao quí. Thánh nhân đã lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa: Hoàng Hậu và các con của Ngài quả thực là những tặng phẩm cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho Ngài để Ngài làm vinh danh Chúa và cứu vớt các linh hồn.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, tổng hợp từ website dòng tên và cộng đoàn dũng lạc

 


Thứ Bảy

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) R 2, 1-3. 8-11; 4, 13-17

"Chúa không nỡ để cho bà thiếu kẻ nối dòng. Ðó là thân phụ của Isai, cha của Ðavít".

Trích sách truyện Bà Ruth.

Bấy giờ ông Êlimêlech, chồng bà Nôêmi có một người họ hàng, là người quyền thế và giàu có, tên là Booz. Bà Ruth, người Môab, thưa với mẹ chồng rằng: "Nếu mẹ cho phép, con xin ra đồng mót lúa mà các thợ gặt bỏ sót, nơi nào mà chủ ruộng nhân từ vui lòng cho con mót". Bà mẹ trả lời rằng: "Hỡi con, con cứ đi". Nàng liền đi mót lúa đàng sau các thợ gặt. Bất ngờ chủ ruộng ấy tên là Booz, người có họ với Êlimêlech.

Ông Booz bảo bà Ruth rằng: "Hỡi con, hãy nghe đây, con đừng đi mót lúa ở ruộng khác, đừng rời khỏi nơi này: nhưng hãy đi theo các tớ gái của ta, chúng nó gặt ở đâu, con cứ đi theo đó; vì ta bảo các đầy tớ ta đừng ai làm phiền con. Cả khi con khát nước, cũng cứ đến các vò nước và uống nước mà các đầy tớ ta uống". Bà sấp mình xuống đất, lạy ông ấy mà nói rằng: "Bởi đâu tôi được ơn trước mặt ông, và ông đoái thương tôi là người nữ ngoại bang?" Ông trả lời rằng: "Ta đã nghe đồn mọi sự con đã làm đối với mẹ chồng, sau khi chồng con qua đời, con đã lìa bỏ cha mẹ quê hương và đến cùng dân tộc mà trước đây con không hề biết".

Vậy ông Booz cưới bà Ruth làm vợ. Ông ăn ở với bà, và Chúa ban cho bà có thai, bà sinh được một con trai. Các phụ nữ nói cùng bà Nôêmi rằng: "Chúc tụng Chúa là Ðấng không nỡ để cho gia đình bà thiếu kẻ nối dòng! Và nguyện danh Chúa được ca tụng khắp Israel! Cầu chúc bà có người an ủi tâm hồn và phụng dưỡng tuổi già; vì người đó sẽ sinh ra do người con dâu yêu mến bà, và người con dâu đó đáng quý hơn bảy người con trai". Bà Nôêmi ẵm con trẻ vào lòng, và nuôi nấng nó như người vú. Các phụ nữ láng giềng đến mừng bà mà rằng: "Bà Nôêmi đã được một cháu trai". Họ đặt tên cho con trẻ là Obed: đó là thân phụ của Isai cha của Ðavít.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5

Ðáp: Ðó là ơn phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Chúa (c. 4).

Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Ðáp.

3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn. - Ðáp.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 1-12

"Họ nói mà không làm".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta: còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là "Thầy", vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là "cha", vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là "người chỉ đạo": vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"thày", "cha" và "xếp- không hưởng thụ nhưng phục vụ

 

 

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XX Thường Niên hôm nay cách bài Phúc Âm hôm qua 5 câu, 41-46, những câu cuối của Đoạn 22, những câu Phúc Âm về vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho thành phần biệt phái khiến "không ai dám hỏi Người một điều gì nữa từ đó trở đi" (Mathêu 22:46), đó là vấn đề nếu Đấng Kitô Thiên Sai là con của Vua Đavít thì tại sao chính vua lại gọi Người là Chúa

Phải, Giáo Hội đã không chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu về vấn đề ấy, vì vấn đề này đã được Giáo Hội chọn đọc cho ngày Thứ Sáu Tuần IX Thường Niên theo Phúc Âm của Thánh ký Marcô rồi. Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc hôm nay liên quan đến thành phần luật sĩ và biệt phái, thành phần bị Người thậm tệ quở trách và vạch trần bộ mặt giả hình của họ, như chúng ta đã thấy 1 chút trong bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô ở Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên, và sẽ thấy tt cả ở trong các bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho 3 ngày đầu của tuần tới, tuần cuối cùng theo Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Phụng Vụ Lời Chúa ngày thường trong tuần từ Tuần X Thường Niên.

Đúng thế, ngay từ bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm thẳng vạch trần chân tướng của hai thành phần luật sĩ và biệt phái đầy kiêu hãnh và ham danh trong dân này:

"Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là 'rabbi'".

Tuy hai thành phần luật sĩ và biệt phái vốn được coi là thày dạy trong dân này có những cử chỉ và hành động đầy gương mù gương xấu phản tác dụng bất khả chấp như vậy, nhưng "Đức Giêsu (vẫn) nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: 'Các kinh sư và các người Pharisiêu ngồi trên toà ông Moisen mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm'".  

Thế nhưng, trên thực tế rất khó thực hành theo bản tính tự nhiên của loài người. Chúng ta hay có khuynh hướng đồng hóa tội nhân với tội lỗi hay với gương mù gương xấu của họ. Ở chỗ, chúng ta chẳng những tỏ ra ghê tởm việc làm xấu xa hay tội lỗi của họ mà còn ghê tởm và khinh bỉ chính con người của họ nữa. Có những lúc hay nhiều lúc chúng ta thường tấn công họ bằng những lời nói nhục mạ họ, (thậm chí công khai qua phương tiện truyền thông: báo chí, email, internet, truyền thanh, truyền hình, thơ nặc danh, hay ngay cả trên tòa giảng v.v.), hơn là tế nhị và nhẹ nhàng khôn khéo sửa lỗi cho họ để họ dễ cảm nhận bản thân hèn yếu lỗi lầm của mình mà hoán cải trở về cùng Chúa theo tinh thần và đường lối được Chúa Giêsu huấn dạy trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước. 

Chúng ta thường đối xử với anh chị em lầm lỗi của chúng ta như thể chúng ta là con người toàn hảo, không bao giờ sai lỗi, động một tí là ném đá nhau, thậm chí như thể là quan án của họ, có quyền tối thượng trong việc thưởng pht nhau, trong khi chúng ta chưa thấu suốt được thâm tâm của nhau như Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền phán quyết mọi người. Quả thực Chúa Giêsu nói về chúng ta quá đúng khi Người vừa khiển trách vừa nghiêm trọng cảnh giác chúng ta rằng: "Đồ giả hình! trước hết ngươi hãy lấy khỏi mắt của mình cái xà đi đã rồi ngươi mới thấy được một cách rõ ràng mà lấy đi cái rằm trong con mắt của anh chị em của ngươi" (Mathêu 7:5). 

Tuy nhiên, không phải đối xử một cách cảm thông với những người anh chị em lỗi lầm của mình đến độ không còn biết phân biệt đâu là phải là trái nữa. Ở chỗ, thương tội nhân nhưng không chấp nhận tội lỗi của họ. Bởi thế, cho dù ở ngay đầu bài Phúc Âm Chúa Giêsu khuyên hãy tôn trọng quyền giáo huấn của thành phần luật sĩ và biệt phái, cuối bài Phúc Âm Người vẫn khuyên dạy dân chúng và các môn đệ của Người "đừng có làm theo những việc của họ", mà hãy sống ngược lại như sau:

"Phần anh em, đừng để ai gọi mình là 'rabbi', vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên".
Trong huấn dụ của Chúa Kitô trên đây, về hình thức thì nên tránh ba danh xưng "thày", "cha" và "xếpđối với bản thân mình, ở chỗ, về tinh thần, cho dù mình có thực sự đóng vai là "sư phụ", là "thân phụ", là "lãnh tụ" chăng nữa, mình cũng phải dấn thân phục vụ hơn là hưởng thụ, hãy lợi dụng chức vụ là "thày", là "cha", là "xếp" của mình để mang lại lợi ích cho thành phần được trao phó cho mình, theo đúng dự định thần linh của Đấng đã tuyển chọn mình, theo gương của chính Đấng Kitô Thiên Sai, Đấng đã "đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28). 

Nếu để ý kỹ thứ tự và ba chức vụ được Chúa Giêsu nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay: 1. sự phụ - thày, 2. thân phụ - cha và 3. lãnh tụ - xếp, chúng ta mới thấy được rằng Chúa Giêsu ám chỉ huấn dụ của Người cho thành phần môn đệ tông đồ của Người hơn là dân chúng. Bởi vì chỉ có các tông đồ mới bao gồm cả 3 nhiệm vụ hay vai trò này, những nhiệm vụ và vai trò được thừa kế bởi hàng giáo phẩm sau các vị, bao gồm cả giáo hoàng lẫn các vị giám mục. Ba nhiệm vụ và vai trò của các tông đồ cũng như của hàng giáo phẩm thừa kế các ngài là gì, nếu không phái là 1- giảng dạy (với tư cách là thày), 2- thánh hóa (với tư cách là cha - điển hình nhất là ban Bí Tích rửa tội tái sinh và Bí Tích Thánh Thể dưỡng nuôi và Bí Tích Hòa Giải tha thứ hồi sinh v.v.), và quản trị (với tư cách là xếp, là mục tử v.v.)

Tóm lại, nội dung của bài Phúc Âm hôm nay chính yếu là thành phần luật sĩ và biệt phái nhưng đối tượng mà Chúa Giêsu nhắm tới để giáo huấn lại là thành phần dân chúng và môn đệ. Sở dĩ bao gồm cả hai thành phần này cần phải nghe những gì Người nói về thành phần có thẩm quyền giảng dạy trong dân là vì hai loại người này dễ bị ảnh hưởng bởi gương mù gương xấu của họ, nhất là khi họ lại đóng vai trò làm thày dạy nữa. Gương mù gương xấu dễ gây ảnh hưởng nên cả dân chúng lẫn các môn đệ của Người cần phải tránh vì những gương mù gương xấu của họ rất hợp với bản tính tự nhiên và khuynh hướng phô trương tự cao tự đại của con người.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà Chúa Kitô phủ nhận danh xưng hay vai trò thực sự của những người làm thày (sư phụ - người có quyền về tinh thần của con người), của những người làm cha (thân phụ - người có quyền theo huyết nhục tự nhiên), và của những người làm đầu (lãnh tụ - người có quyền lãnh đạo về hành chính). Chúa chỉ có ý dạy dân chúng và các môn đệ của Người rằng dù họ có thực sự làm cha mẹ trong gia đình theo huyết nhục, có là giám mục hay linh mục trong Giáo Hội, có tài năng thế giá và chức quyền về bất cứ phương diện nào (nhất là về chính trị) trong xã hội đi nữa v.v. họ hãy phục vụ hơn là hưởng thụ, đó mới đúng ý nghĩa kẻ làm đầu là làm đầy tớ như Người làm gương (xem Mathêu 20:26-28).

Vai trò làm đầu theo tinh thần phục vụ hơn hưởng thụ, đúng như ý nghĩa và mục đích về quyền hạn được ban cho mình, được Chúa Kitô khuyên dạy các môn đệ và dân chúng trong bài Phúc Âm hôm nay, hoàn toàn ngược lại với khuynh hướng hưởng thụ hơn phục vụ của thành phần biệt phái và luật sĩ bấy giờ, một vai trò làm đầu đích thực theo đúng tinh thần Phúc Âm này đã được phản ảnh qua nhân vật Booz trong Sách Bà Ruth ở Bài Đọc 1 hôm nay:

"Ông Booz bảo bà Ruth rằng: 'Hỡi con, hãy nghe đây, con đừng đi mót lúa ở ruộng khác, đừng rời khỏi nơi này: nhưng hãy đi theo các tớ gái của ta, chúng nó gặt ở đâu, con cứ đi theo đó; vì ta bảo các đầy tớ ta đừng ai làm phiền con. Cả khi con khát nước, cũng cứ đến các vò nước và uống nước mà các đầy tớ ta uống'. Bà sấp mình xuống đất, lạy ông ấy mà nói rằng: 'Bởi đâu tôi được ơn trước mặt ông, và ông đoái thương tôi là người nữ ngoại bang?' Ông trả lời rằng: 'Ta đã nghe đồn mọi sự con đã làm đối với mẹ chồng, sau khi chồng con qua đời, con đã lìa bỏ cha mẹ quê hương và đến cùng dân tộc mà trước đây con không hề biết'".

 

Đúng thế, việc làm đầu là phục vụ của nhân vật Booz, vì đúng ý Chúa và đẹp lòng Chúa, nên đã trổ sinh hoa trái tốt đẹp, ở chỗ "Ông Booz cưới bà Ruth làm vợ. Ông ăn ở với bà, và Chúa ban cho bà có thai, bà sinh được một con trai... Bà Nôêmi ẵm con trẻ vào lòng, và nuôi nấng nó như người vú. Các phụ nữ láng giềng đến mừng bà mà rằng: 'Bà Nôêmi đã được một cháu trai'. Họ đặt tên cho con trẻ là Obed: đó là thân phụ của Isai cha của Ðavít". Đó là lý do Thánh Vịnh 127 ở bài Đáp Ca hôm nay mới xướng lên một tâm tình ca ngợi người biết kính sợ Chúa như sau:

 

1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.

3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn.