SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXII Thường Niên 

Năm A (Chúa Nhật) và Năm Lẻ (trong tuần)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Gr 20, 7-9

"Lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Lạy Chúa, Chúa đã khuyến dụ tôi, và Chúa đã khuyến dụ được tôi. Chúa đã hùng mạnh hơn tôi và thắng được tôi: suốt ngày tôi đã trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi. Mỗi lần tôi nói, tôi phải la lớn và loan báo sự hung bạo và điêu tàn, cho nên lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã và bị chế nhạo suốt ngày. Tôi đã nói rằng: "Tôi sẽ không nhớ đến Người nữa, sẽ không nhân danh Người mà nói nữa, thì lúc đó trong lòng tôi như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt tôi, tôi kiệt sức, không chịu nổi nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khát khao Chúa (c. 2b).

Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước! - Ðáp.

2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quang của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài. - Ðáp.

3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con; con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thỏa dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ. - Ðáp.

4) Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. Linh hồn con bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người con. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 12, 1-2

"Anh em hãy tiến thân làm của lễ sống động".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi nài xin anh em vì lượng từ bi Thiên Chúa, hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Ðó là việc phụng thờ hợp lý anh em phải làm. Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 21-27

"Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".

Bấy giờ Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm".

Ðó là lời Chúa.

 

Antonio Valencia ن sur Twitter : "O Y E A ti te digo: "Toma tu ...


 

Suy Nguyện Lời Chúa

 

 

"Thể xác con mong đợi Chúa con" đây nghĩa là gì?

Làm sao "thể xác" hữu hình lại có thể "mong đợi Chúa" là Thần Linh?

 

 

Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXII Thường Niên Năm A hôm nay bao gồm 2 đoạn. Đoạn trên được trích lại nguyên văn phần hai của bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI tuần trước. Sở dĩ Giáo Hội cần phải lấy lại đoạn Phúc Âm này của Chúa Nhật tuần trước cho bài Phúc Âm của Chúa Nhật tuần này là vì đoạn Phúc Âm này bất khả phân ly với đoạn thứ hai của bài Phúc Âm hôm nay. Như thể Giáo Hội ngầm nói rằng "chình vì thế nên": Chính vì "Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại", thế nên "ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy".

 

Nếu tôi tớ không hơn chủ và môn đệ không hơn thày (xem Mathêu 10:24; Gioan 13: 16,15:20) thì những ai theo Chúa Kitô là môn đệ của Người không còn con đường nào khác để đi ngoài chính con đường hẹp, con đường chính Người đã mở đường: "Tuy thân phận là Thiên Chúa, Người vẫn không tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Người đã tự hủy ra như không, mặc lấy thân phận tôi đòi... đã vâng lời cho đến chết, cho dù chết trên thập tự giá" (Philiphe 2:6-8).

 

Nếu Chúa Kitô không có gì là xấu mà cần phải bỏ đi thì thành phần tôi tớ hay môn đệ không muốn hay không chịu bỏ mình đi thì, theo khách quan, tự hành động của họ, có nghĩa là tôi chẳng có gì là xấu mà phải bỏ đi. Nghĩa là tôi ngang hàng với Chúa Kitô. Vậy mà Chúa Kitô bỏ mình đi tại sao họ không bỏ mình đi chứ? Trong khi đó, cái "mình" của họ không bỏ đi thì chỉ có chết mà thôi.

 

Bởi cái mình của họ đã bị rắn quỉ cắn, do họ bị nhiễm lây nguyên tội, với đầy mọi đam mê nhục dục tính mê nết xấu là mầm mống tội lỗi và chết chóc. Đó là lý do khi bị rắn độc cắn mà không chặt ngay phần thân thể bị độc ấy thì toàn thân con người sẽ bị thiệt mạng thế nào thì quả thực "ai giữ mạng sống mình sẽ mất sống như vậy", như chính Chúa Kitô đã cảnh báo trong bài Phúc Âm hôm nay. 

 

Bài Phúc Âm có hai phần bất khả phân ly hôm nay cũng tương ứng với hai Bài Đọc I và II trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay. Phần trên của bài Phúc Âm về một Chúa Kitô khổ nạn hợp với Bài Đọc I và phần dưới của Bài Phúc Âm về ơn gọi theo Chúa Kitô hợp với bài Đọc II.

 

Phần trên của Bài Phúc Âm về một Chúa Kitô khổ nạn hợp với Bài Đọc I. Đúng thế, lời "Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại" cũng đã được chính Thiên Chúa, qua môi miệng và cuộc đời cùng bản thân của Tiên Tri Giêrêmia, đã báo trước về Người như sau: "suốt ngày tôi đã trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi. Mỗi lần tôi nói, tôi phải la lớn và loan báo sự hung bạo và điêu tàn, cho nên lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã và bị chế nhạo suốt ngày".

 

Phần dưới của Bài Phúc Âm về ơn gọi theo Chúa Kitô hợp với bài Đọc II. Thật vậy, "nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy"  mà Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại đã xin Kitô hữu thuộc Giáo đoàn Rôma "hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Ðó là việc phụng thờ hợp lý anh em phải làm. Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo".

 

Trong hai đoạn của Bài Phúc Âm hôm nay, Giáo Hội muốn nhấn mạnh đến đoạn thứ hai hơn đoạn thứ nhất, một đoạn thứ nhất được Giáo Hội nhắc lại hay trích lại từ Bài Phúc Âm tuần trước để làm nền cho đoạn Phúc Âm thứ hai hôm nay. Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay thường theo chiều hướng của Bài Đọc I nhưng ở đây lại hợp với Bài Đọc II hơn, nghĩa là không gắn liền với một Chúa Kitô khổ giá mà là với một người môn đệ gắn bó theo Thày của mình: "Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khát khao Chúa" (Câu Họa).

 

Thực tế sống đạo cho thấy, chỉ có những người môn đệ trung thực của Chúa Kitô, biết "từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy", ở chỗ như Chúa Kitô "hiến thân làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa", họ mới có được tâm tình siêu thoát của Thánh Vịnh gia trong câu xướng thứ nhất của Bài Đáp Ca hôm nay: "1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước!"

 

"Thể xác con mong đợi Chúa con" đây là gì, nếu không phải là những gì liên quan đến "của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa", một "thể xác" sẵn sàng hiến tế như một "của lễ" theo Thánh ý Chúa như Chúa Kitô khổ nạn vậy. 

 

Tuy nhiên, để làm những gì đẹp lòng Chúa, con người cần phải biết Ngài muốn gì nơi mình để mà mau mắn hưởng ứng và đáp ứng một cách trọn vẹn. Muốn được thế, Thánh Tông Đồ Phaolô đã khôn ngoan khuyên dạy một nguyên tắc rất chính thực và quan trọng như ngài đề cập tới ở Bài Đọc 2 hôm nay đó là: "Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo".

 

Nhờ đó mà chỉ có tâm hồn nào biết "thao thức chạy kiếm Ngài", biết "khát khao Chúa của con", ở chỗ "canh tân lòng trí để biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo", mới thực sự có được một cảm nghiệm thần linh tuyệt vời như Thánh Vịnh gia ở câu xướng thứ 2 của Bài Đáp Ca hôm nay: 2) "Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài (dường như ám chỉ Chúa Kitô tử giá là "thiên nhan" thương xót trên Thánh Giá / "thánh đài"), để nhìn thấy quyền năng và vinh quang của Chúa (dường như ám chỉ Chúa Kitô phục sinh đầy "quyền năng và vinh quang"). Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài". Như thế, câu Thánh Vịnh hay câu xướng thứ 2 của bài Đáp Ca hôm nay đã được ứng nghiệm nơi lời Chúa Kitô nói ở đoạn đầu Bài Phúc Âm hôm nay: "Người sẽ ... bị giết và ngày thứ ba thì sống lại".

 

Một khi đã có được một cảm nghiệm thần linh về Chúa Kitô Vượt Qua như thế thì người môn đệ đích thực của Chúa Kitô được hiệp nhất nên một với Người, chẳng những có uy thế để chuyển cầu cho phần rỗi của anh chị em mình: "con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa" (Câu Đáp Ca Xướng 3), mà còn được nếm hưởng những tâm tình nhân hậu của chính Chúa Kitô: "được no thỏa dường như bởi mỹ vị cao lương" (Câu Đáp Ca Xướng 3), và chính bản thân cùng cuộc đời tín thác của họ còn "được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài": "Linh hồn con bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người con" (Câu Xướng Đáp Ca 4).

 

 

 

Ngày 03 tháng 9

Thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Thánh nhân sinh quãng năm 540 tại Rô-ma. Người theo con đường công danh, nhưng đã từ chối chức thái thú Rô-ma. Người gia nhập đan viện và sau khi làm phó tế, người nhận nhiệm vụ sứ thần Công-tăng-ti-nốp. Ngày 3 tháng 9 năm 590, người được chọn làm người kế vị thánh Phê-rô suốt mười bốn năm phục vụ Hội Thánh (590-604). Dầu sức khoẻ không dồi dào, người đã tận tuỵ chu toàn bổn phận, giúp đỡ người nghèo, củng cố và truyền bá đức tin. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm về luân lý và thần học. Hoạt động của người được nuôi dưỡng nhờ chiêm niệm. Người qua đời ngày 12 tháng 3 năm 604.

 

ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Grêgôriô Cả ở 2 cái links dưới đây:


Thánh Gregory Cả - 1 & 
Thánh Gregory Cả - 2

 

Vì yêu mến Chúa Ki-tô, tôi không quản ngại nói về Người

(Giờ Kinh Sách Phụng Vụ ngày 3/9)

Trích bài giảng của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, về sách Ê-dê-ki-en.

Hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en. Cần lưu ý rằng Chúa gọi kẻ Người sai đi rao giảng là người canh gác. Người canh gác luôn luôn phải đứng trên cao, để thấy được từ xa bất cứ chuyện gì xảy tới. Và bất cứ ai được đặt làm người canh gác cho dân đều phải đứng trên cao nhờ cuộc sống của mình, để có thể đem lại lợi ích cho dân nhờ khả năng tiên liệu.

Ôi thật khổ tâm biết bao khi tôi phải nói lên những điều trên. Quả thật, nói như thế là tôi tự đánh mình, bởi lẽ miệng tôi đã không giảng cho xứng đáng, và nếu có giảng cho đầy đủ thì đời sống của tôi cũng chẳng đi đôi với lời giảng.

Tôi nhìn nhận là tôi có lỗi, tôi thấy mình uể oải và lơ là. Biết đâu chính việc thú nhận lỗi lầm sẽ trở thành lời nài xin Vị Thẩm Phán nhân từ ban ơn tha thứ. Khi ở đan viện, tôi có thể vừa giữ miệng lưỡi không nói lời vô ích, vừa hầu như liên lỉ cầm trí lo việc cầu nguyện. Nhưng một khi đã ghé vai mang gánh nặng mục vụ, thì tôi bị chi phối về nhiều chuyện nên không thể dễ dàng hồi tâm được.

Thật vậy, tôi buộc phải suy xét về các vấn đề của các Giáo Hội cũng như của các tu viện, nhiều lần tôi phải nghĩ tới nếp sống và hành vi của các cá nhân ; hơn nữa, tôi còn phải giải quyết một số công việc của người dân, phải lo lắng vì quân man di xông vào giết chóc, phải đề phòng những con sói đang rình rập đàn chiên đã được uỷ thác cho tôi. Có khi tôi phải lo đem lại những trợ giúp cần thiết cho chính những người có bổn phận tuân giữ kỷ luật tu trì ; có lúc phải bình tĩnh chịu đựng những quân trộm cướp, nhưng cũng có lúc phải đối đầu với chúng để bảo trì đức ái.

Khi tâm trí còn bị phân tán và xâu xé vì phải nghĩ đến biết bao chuyện như thế, thì bao giờ tôi mới có thể hồi tâm để chỉ nghĩ đến việc rao giảng và không bỏ bê tác vụ công bố Lời Chúa ? Vì địa vị bó buộc tôi phải tiếp xúc với người đời, nên đôi khi tôi lơi lỏng trong việc giữ miệng lưỡi. Bởi nếu tôi luôn tự kiềm chế mình một cách nghiêm ngặt, thì tôi biết những kẻ yếu đuối sẽ xa lánh tôi, và chẳng bao giờ tôi lôi kéo được họ đến điều tôi mong ước. Cho nên tôi thường phải kiên nhẫn nghe cả những chuyện vô ích của họ. Thế nhưng, vì bản thân tôi cũng yếu đuối, nên dần dần tôi bị lôi cuốn vào những chuyện vô ích và bắt đầu thích nói những điều mà trước kia tôi chỉ nghe một cách miễn cưỡng ; nơi mà trước kia tôi sợ ngã vào, thì nay tôi lại khoái nằm xuống.

Vậy tôi là ai và tôi thi hành nhiệm vụ canh gác như thế nào, nếu tôi không đứng trên núi cao là công việc phải làm, mà vẫn nằm bẹp dưới thung lũng là tính yếu đuối của tôi ? Nhưng dù tôi bất xứng, thì Đấng tạo dựng và cứu chuộc loài người vẫn có khả năng ban cho tôi cả đời sống cao quý lẫn tài nói năng thuyết phục, bởi lẽ, vì yêu mến Người mà tôi không quản ngại nói về Người.

 

Lạy Chúa, Chúa luôn hướng dẫn và âu yếm chăm nom đoàn dân Chúa, xin nhậm lời thánh Ghê-gô-ri-ô chuyển cầu, mà ban thần trí khôn ngoan cho các vị mục tử Chúa đã đặt làm đầu Hội Thánh, và ban cho các ngài được niềm vui vì thấy đoàn chiên phát triển không ngừng. Chúng con cầu xin


 

Thứ Hai

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tx 4, 13-17

"Nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem những người đã chết đến làm một với Người".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người.

Bởi vậy, chúng tôi dựa vào lời Chúa để nói cùng anh em điều này: chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sót lại khi Chúa đến, thì chúng ta không đi trước những người đã an nghỉ. Vì khi nghe lệnh và tiếng Tổng lãnh Thiên thần, và tiếng loa Thiên Chúa, thì chính Chúa từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Ðức Kitô sẽ sống lại trước hết, rồi đến chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sống sót, chúng ta sẽ được nhắc lên cùng với họ trên các tầng mây, đi đón Ðức Kitô trên không trung, và như vậy, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa luôn mãi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 95, 1 và 3. 4-5. 11-12. 13

Ðáp: Chúa ngự tới cai quản địa cầu (c. 13ab).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.

2) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả úy hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. - Ðáp.

3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan, biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên, đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. - Ðáp.

4) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 110, 8ab

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi giới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 4, 16-30

"Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó... Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".

Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"

Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình"; "điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông". Người nói tiếp: "Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".

Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lc 4, 16-30

 


Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Hôm nay, Thứ Hai, ngày trong Tuần XXII Thường Niên, chúng ta bắt đầu Phúc Âm của Thánh ký Luca cho tới hết Tuần XXXIV Thường Niên, tức kéo dài liên tục 13 tuần lễ, như Phúc Âm của Thánh ký Mathêu kéo dài 12 tuần, từ Tuần X đến hết Tuần XXI Thường Niên, và Phúc Âm của Thánh ký Marcô kéo dài 9 tuần đầu của Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh. 

 

Mỗi Phúc Âm theo thứ tự trên đây cho các ngày thường trong tuần (chứ không phải cho Chúa Nhật), được Giáo Hội chọn đọc theo thứ tự từ đầu đến cuối, tất nhiên sẽ có những chỗ trùng hợp nơi bộ Phúc Âm nhất lãm của 3 vị thánh ký 3 cuốn Phúc Âm đầu tiên này, và vì thế sẽ không được Giáo Hội lập lại. Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu cho các ngày thường trong tuần được bắt đầu từ đoạn 5 liên quan đến Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi, và Phúc Âm theo Thánh ký Luca cho các ngày thường trong tuần được bắt đầu từ đoạn 4, từ câu 14, vì 13 câu đầu của đoạn 4 này liên quan đến biến cố Chúa Giêsu chay tịnh 40 ngày trong hoang địa, một biến cố đã được đọc vào Chúa Nhật Mùa Chay Năm C

 

Một điều chúng ta nên nhớ nữa là nếu Phúc Âm của Thánh ký Marcô và Mathêu được viết cho dân Do Thái thì Phúc Âm của Thánh ký Luca, một người dân ngoại trở lại, được viết cho dân ngoại, bởi thế, Phúc Âm của ngài mang tính chất của Lòng Thương Xót Chúa, bao gồm nhiều dụ ngôn về Lòng Thương Xót Chúa không có trong bất cứ một Phúc Âm nào, và liên quan đến Thánh Linh, từ biến cố Truyền Tin đến Phục Sinh (xem Luca 24:49), một Thánh Linh là Hồn Truyền Giáo cho Dân Ngoại trong Sách Tông Vụ của ngài. 

 

Đó là lý do mở đầu Phúc Âm Thánh ký Luca cho các ngày trong Tuần của Mùa Thường Niên, chúng ta đã thấy xuất hiện cả Thánh Linh lẫn các nhân vật thuộc thành phần dân ngoại. Đúng thế, bài Phúc Âm hôm nay trước hết quả thực có liên quan đến Thánh Linh

 

"Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nazarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: 'Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".

 

Ngoài ra, bài Phúc Âm hôm nay của Thánh ký Luca còn hướng về dân ngoại nữa, thành phần được tiêu biểu nơi bà góa xứ Sidon và quan Naaman người Syria: 

 

"Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".

 

Thật ra, trong câu thứ nhất về Chúa Thánh Thần đã chất chứa tính chất truyền giáo cho dân ngoại rồi. Bởi vì trong đó đối tượng chính yếu được Thánh Thần nhắm tới là "người nghèo khó, những tâm hồn sám hối, kẻ bị giam cầm, người mù, những kẻ bị áp bức", thành phần không phải chỉ có duy ở nơi dân Do Thái mà là tất cả mọi người trên thế gian này, trong đó có bà góa xứ Sidon thời Elia và quan Naaman xứ Syria thời Elisê được nhắc đến trong bài Phúc Âm hôm nay, bởi vì nếu Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái thì Người phải là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại, Đấng đã được xức dầu Thánh Linh: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi", và được Thánh Linh "sai đi rao giảng Tin Mừng". 

 

Nếu Chúa Kitô, Đấng Thiên sai của dân Do Thái, đồng thời cũng chính vì thế mà Người còn là chính Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại, Đấng đã đến thế gian lần thứ nhất để "rao giảng Tin Mừng", nhất là cho những con người đáng thương cần cứu độ hơn ai hết trên trần gian này nói chung là thành phần "người nghèo khó, những tâm hồn sám hối, kẻ bị giam cầm, người mù, những kẻ bị áp bức", nhất là cứu độ những ai tin vào Người, nên khi "xuất hiện lần thứ hai", Người sẽ "mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28), tức là thành phần được Thánh Phaolô nói đến trong Bài Đọc 1 hôm nay: "tin Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại... những người đã chết nhờ Ðức Giêsu... những người đã chết trong Ðức Kitô".

 

Chúa Kitô đã đến thế gian lần thứ nhất, "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) cũng là thời điểm mở màn cho mầu nhiệm cánh chung, mầu nhiệm Thiên Chúa "canh tân lại tất cả mọi sự" (Khải Huyền 21:5) bởi Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, qua thừa tác vụ Thiên sai của Người, như bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy, nhất là bằng biến cố Vượt Qua của Người, một mầu nhiệm cũng được sự kiện Người bị dân làng của mình ra tay sát hại Người ở cuối bài Phúc Âm hôm nay báo trước. Nhưng chính Người đã lợi dụng tất cả những gì là yếu hèn và xấu xa của con người để tỏ mình ra một cách càng lạ lùng hơn bao giờ hết. Đó là lý do chúng ta cần phải cùng với Thánh Vịnh 95 ở bài Đáp Ca hôm nay hân hoan cất tiếng chúc tụng Chúa:

 

1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.

2) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả úy hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh.

3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan, biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên, đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở.

4) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành.

 

 

 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tx 5, 1-6. 9-11

"Người đã chết vì chúng ta, để chúng ta cùng được sống với Người".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, về thời nào và lúc nào, anh em không cần chúng tôi viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ ngày Chúa sẽ đến như kẻ trộm trong đêm tối. Khi người ta nói rằng: "Yên ổn và an toàn", thì chính lúc đó, tai hoạ thình lình giáng xuống trên họ, như cơn đau đớn xảy đến cho người mang thai và họ không sao thoát khỏi. Phần anh em, hỡi anh em thân mến, anh em không còn tối tăm, đến nỗi ngày đó bắt chợt anh em như kẻ trộm, vì tất cả anh em là con cái sự sáng, con cái ban ngày; chúng ta không thuộc về ban đêm và tối tăm. Vậy chúng ta đừng mê ngủ như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và điều độ.

Vì Thiên Chúa không đặt để chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng là để chúng ta chiếm lãnh ơn cứu độ nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng đã chết vì chúng ta, để dù thức hay ngủ, chúng ta được cùng sống với Người. Bởi đấy, anh em hãy an ủi nhau, hãy lo xây dựng cho nhau, như anh em vẫn thường làm.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 13-14

Ðáp: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).

Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. - Ðáp.

3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Ga 2, 5

Alleluia, alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 4, 31-37

"Tôi biết Ngài là ai rồi, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thành Capharnaum, xứ Galilêa, và ở đó Người giảng dạy họ trong các ngày Sabbat. Người ta bỡ ngỡ về giáo lý của Người, vì lời giảng dạy của Người có uy quyền. Bấy giờ trong hội đường, có một người bị quỷ ô uế ám, thét to lên rằng: "Hỡi Giêsu Nadarét, giữa chúng tôi và Ngài có chuyện chi đâu? Ngài đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai rồi, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa". Nhưng Chúa Giêsu trách mắng nó rằng: "Hãy câm đi và ra khỏi người này". Và quỷ vật ngã người đó giữa hội đường và xuất khỏi nó, mà không làm hại gì nó. Mọi người kinh hãi và bảo nhau rằng: "Lời gì mà lạ lùng vậy? Vì Người dùng quyền năng mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất ra". Danh tiếng Người đồn ra khắp nơi trong xứ.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lc 4, 31-37

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XXII Thường Niên tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua, không phải vì cùng một đoạn và ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, không bị mất một câu nào, mà vì nội dung của bài Phúc Âm hôm nay thuật lại một trường hợp đầu tiên như muốn chứng tỏ cho thấy những gì được chất chứa trong bài Phúc Âm hôm qua, như một chứng nghiệm tỏ tường vậy. 

 

Đúng thế, nếu bài Phúc Âm hôm qua có câu: "giải thoát cho kẻ bị giam cầm, ... trả tự do cho những kẻ bị áp bức" thì bài Phúc Âm hôm nay cho thấy Chúa Giêsu quả thực đã ứng nghiệm lời Tiên Tri Isaia đã nói về Người rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi ... giải thoát cho kẻ bị giam cầm, ... trả tự do cho những kẻ bị áp bức" nhất là bởi ma quỉ, như trường hợp trong một hội đường ở Caphanaum, một thành phố lớn và chính yếu có đông đảo dân ngoại chung sống và sinh hoạt với dân Do Thái, như sau:

 

"Bấy giờ trong hội đường, có một người bị quỷ ô uế ám, thét to lên rằng: 'Hỡi Giêsu Nazaret, giữa chúng tôi và Ngài có chuyện chi đâu? Ngài đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa'. Nhưng Chúa Giêsu trách mắng nó rằng: 'Hãy câm đi và ra khỏi người này'. Và quỷ vật ngã người đó giữa hội đường và xuất khỏi nó, mà không làm hại gì nó".

 

Sự kiện phi thường này đã khiến cho "mọi người kinh hãi và bảo nhau rằng: 'Lời gì mà lạ lùng vậy? Vì Người dùng quyền năng mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất ra'". Thật vậy, chính Thánh Thần là "Quyền Năng Đấng Tối Cao" (Luca 1:35), là "quyền lực từ trên cao" (Luca 24:49; xem Tông Vụ 1:8), ở nơi Đức Giêsu Kitô làm điều ấy, hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã nhờ Thánh Linh mà trừ quỉ, bởi Người "là Đấng Thánh của Thiên Chúa", đầy Thánh Thần, đến độ đã khiến cho ma quỉ vừa thấy đã hoảng sợ kinh hoàng: "Ngài đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa".

 

Tuy nhiên, cho dù chịu thua Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế, ma quỉ vẫn cảm thấy ấm ức làm sao ấy, do đó, trước khi xuất ra khỏi nạn nhân của mình ma quỉ đã "vật ngã người đó giữa hội đường", như thể tiếc nuối và cho dù có muốn cho nạn nhân chết đi luôn hay ít là bị thương tích cách nào, hắn vẫn "không làm hại gì nó" khi hắn bấy giờ như bị uy hiếp bởi một uy thế vô cùng mãnh liệt của Đấng duy nhất có thể khống chế hắn.

 

Ma quỉ, trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay, thật ra không muốn bỏ con mồi nạn nhân của hắn. Bởi thế, ngay từ khi chợt thấy Chúa Kitô, hắn đã như thể vừa điều đình vừa van xin Người rằng: "Hỡi Giêsu Nazaret, giữa chúng tôi và Ngài có chuyện chi đâu?" mà tại sao "Ngài đến tiêu diệt chúng tôi chứ". Nói thì nói vậy thôi chứ hắn thừa biết hắn và Người không đội trời chung. Người một khi đã xuất hiện thì hắn tất yếu phải biến khuất liền, như ánh sáng tỏa ra thì tăm tối biến tan vậy. Bởi thế, Người chưa kịp nói gì hay ra tay thì hắn đã biết rằng Người đến là để tiêu diệt hắn: "Chính vì để tiêu hủy các công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (1Gioan 3:8)


Chính vì Chúa Kitô đã đến như "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không thể át được ánh sáng" (Gioan 1:5), điển hình là việc Người đã trừ quỉ ô uế đã ám vào con người ta ở bài Phúc Âm hôm nay, như một thứ bóng tối dầy đặc luôn bao phủ và chi phối con người, nhưng đã bị Lời Nhập Thể là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9) xua tan, nhất là bằng cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua vĩnh viễn dẹp tan bóng tối sự dữ và sự chết từng ám vào con người từ sau nguyên tội. Chính vì thế mà Thánh Phaolô đã khuyên giáo đoàn Thessalonica trong Bài Đọc 1 hôm nay rằng:

 

"Phần anh em, hỡi anh em thân mến, anh em không còn tối tăm, đến nỗi ngày đó bắt chợt anh em như kẻ trộm, vì tất cả anh em là con cái sự sáng, con cái ban ngày; chúng ta không thuộc về ban đêm và tối tăm. Vậy chúng ta đừng mê ngủ như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và điều độ. Vì Thiên Chúa không đặt để chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng là để chúng ta chiếm lãnh ơn cứu độ nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng đã chết vì chúng ta, để dù thức hay ngủ, chúng ta được cùng sống với Người".

 

Đúng thế, chỉ có những "ai theo Tôi sẽ được ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12), họ mới có thể sử dụng Thánh Vịnh 26 ở bài Đáp Ca hôm nay để bày tỏ tâm tình của họ đối với Thiên Chúa như sau:

 

1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người.

3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!

 

 

 

Ngày 05/09: Lễ Thánh Têrêsa Calcutta, nữ tu

 Một Biểu Tượng Bác Ái Kitô Giáo Trên Thế Giới

Chân Phước - 19/10/2003; Hiển Thánh - 4/9/2016

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp và chuyển dịch

Từ Màn Điện Toán Của Văn Phòng Tín Liệu Phong Chân Phước Cho Mẹ Têrêsa Calcutta
(HTTP://WWW.MOTHERTERESACAUSE.INFO/)

 

 

“Về huyết nhục thì tôi là người Albany.

Theo tính cách công dân thì tôi là một người Ấn Độ.

Với đức tin thì tôi là một nữ tu Công Giáo.

Theo ơn gọi của mình thì tôi thuộc về thế giới.

Với tâm hồn của mình thì tôi hoàn toàn thuộc về Trái Tim Chúa Giêsu”

Mẹ Têrêsa Calcutta: Cuộc Đời

Một con người sống cho đời

Agnes Gonxha Bojaxhiu, sau này là Mẹ Têrêsa, vào đời ngày 26/8/1910 ở Skopje, Macedonia, theo huyết tộc Alnania. Cha của bé là một thương gia được trọng vọng ở địa phương, qua đời khi bé mới được 8 tuổi, để lại mẹ của bé, một người phụ nữ sốt sắng đạo hạnh, làm nghề thêu thùa như kế sinh nhai cho gia đình. Sau thời gian niên thiếu hiết sức tham gia các hoạt động giáo xứ, Agnes đã rời gia đình vào tháng 9/1928 để nhập Nữ Tu Viện Loreto ở Rathfarnam (Dublin), Ái Nhĩ Lan, nơi cô đã được trở thành thử sinh ngày 12/10 và mang tên Têrêsa, tên của vị thánh quan thày là Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu.

Thử sinh Agnes đã được nhà dòng Loreto sai đến Ấn Độ, tới Calcutta ngày 6/1/1929. Khi đến nơi, chị thử sinh này nhập tập viện ở Darjeeling. Chị tập sinh này đã khấn trọn đời như là một sơ dòng Loreto ngày 24/5/1937, và sau đó sơ được gọi là Mẹ Têrêsa. Trong thời gian sống ở Calcutta vào thập niên 1930 và 1940, sơ đã dạy ở Trường Trung Học đệ nhất cấp Bengali Thánh Mary.

Vào ngày 10/9/1946, trên chuyến xe lửa từ Calcutta đến Darjeeling, Mẹ Têrêsa đã nhận được điều Mẹ gọi là “ơn gọi trong ơn gọi”, một ơn gọi làm phát sinh ra gia đình Thừa Sai Bác Ái của các Sư Muội, Sư Huynh, Linh Mục và Cộng Tác Viên. Nội dung của ơn soi động này được thể hiện nơi mục đích và sứ vụ Mẹ phác họa cho cơ cấu mới của Mẹ, đó là “làm giản cơn khát vô cùng của Chúa Giêsu trên thập giá vì yêu thương vì các linh hồn”, bằng “việc tận lực hoạt động cho phần rỗi và sự thánh hóa của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo”. Vào ngày 7/10/1950, hội dòng mới Thừa Sai Bác Ái được chính thức thành lập như là một tổ chức tu trì đối với Tổng Giáo Phận Calcutta.

Suốt thập niên 1950 và 1960, Mẹ Têrêsa đã phát triển công cuộc của hội dòng Thừa Sai Bác Ái cả ở Calcutta lẫn khắp Ấn quốc. Ngày 1/2/1965, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ban Sắc Lệnh Khen Tặng cho Hội Dòng này bằng việc nâng hội dòng này lên cấp trực thuộc Tòa Thánh. Cơ sở đầu tiên được thành lập ngoài Ấn Độ ở Cocorote, Venezuela năm 1965. Hội dòng này lan tới Âu Châu (ở Tor Fiscale ngoại ô Rôma) và Phi Châu (Tabora, Tanzania) năm 1968.

Từ hậu bán thập niên 1960 cho đến năm 1980, hội dòng Thừa Sai Bác Ái phát triển cả về địa dư khắp thế giới lẫn về nhân số phần tử. Mẹ Têrêsa đã thành lập những nhà ở Úc Đại Lợi, ở Trung Đông và Bắc Mỹ Châu, cũng như mở nhà tập đầu tiên ở Luân Đôn ngoài Calcutta. Năm 1979, Mẹ được giải thưởng Nobel Hòa Bình. Cũng trong năm nay đã có tới 158 cơ sở của hội dòng Thừa Sai Bác Ái.

Hội dòng Thừa Sai Bác Ái lan tới các nước Cộng sản vào năm 1979, với một nhà ở Zagreb, Croatia, và vào năm 1980 một nhà ở Đông Bá Linh, cứ thể tiếp tục phát triển suốt thập niên 1980 và 1990 với những nhà ở hầu như tất cả mọi quốc gia Cộng sản, kể cả 15 cơ sở ở Liên Sô trước đây. Tuy nhiên, cho dù đã nhiều lần cố gắng, Mẹ Têrêsa cũng không thể thiết lập một cơ sở nào ở Trung Hoa.

Mẹ Têrêsa đã nói trước Tổng Hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 10/1985, dịp kỷ niệm thành lập 40 năm của tổ chức này. Vào ngày áp Lễ Giáng Sinh cùng năm, Mẹ đã mở “Món Quà Yêu Thương” ở Nữu Ước, nhà đầu tiên Mẹ đã thiết lập cho các bệnh nhân bị chứng liệt kháng AIDS. Những năm sau đó các nhà khác theo nhau xuất hiện, ở Hiệp Chủng Quốc cũng như ở các nơi khác, đặc biệt dấn thân cho những ai mắc hội chứng liệt kháng này.

Từ cuối thập niên 1980 tới hết thập niên 1990, mặc dù tăng phát vấn đề sức khỏe, Mẹ Têrêsa cũng du hành khắp thế giới về vấn đề khấn hứa của các tập sinh, vấn đề mở các nhà mới, cũng như vấn đề phục vụ thành phần nghèo khổ và gặp tai ương hoạn nạn. Những cộng đồng mới được thành lập ở Nam Phi Châu, ở Albania, Cuba và Iraq tàn khốc chiến tranh. Cho tới năm 1997, con số Nữ Tu lên đến gần 4 ngàn phần tử, và được thiết lập ở hầu hết 600 cơ sở ở 123 quốc gia trên thế giới.

Sau một mùa thu đi đến Rôma, Nữu Ước và Washington, với tình trạng sức khỏe suy yếu, Mẹ Têrêsa trở lại Calcutta vào tháng 7/1997. Vào lúc 9 giờ 30 tối ngày 5/9, Mẹ Têrêsa qua đời ở Nhà Mẹ của Hội Dòng. Thân thể của Mẹ được chuyển đến Nhà Thờ Thánh Tôma, gần nữ tu viện Loreto, nơi đầu tiên Mẹ đã đến Ấn Độ gần 69 năm trước. Hằng trăm ngàn người thuộc tất cả mọi tầng lớp và mọi tôn giáo, từ Ấn Độ cũng như ngoại quốc đã tỏ lòng ngưỡng mộ Mẹ. Mẹ đã được quốc táng vào Ngày Thứ Bảy 13/9/1997, thi thể của Mẹ đã được rước trên chiếc xe đã từng chở thi thể của Mahandas K. Gandhi và Jawaharlal Nehru, qua các đường phố Calcutta. Các vị tổng thống, thủ tướng, nữ hoàng và đặc sứ thay mặt quốc gia trên khắp thế giới đã hiện diện trong cuộc lễ an táng Mẹ.

Một con người được tuyên phong

Ngay còn tại thế, Mẹ Têrêsa Calcutta đã được tiếng là thánh thiện, là một vị thánh sống, một con người phi thường đối với con mắt của tín đồ Ấn giáo, một con người cứu nhân độ thế trước con mắt của tín đồ Phật giáo. Vì đời sống thánh thiện quá hiển nhiên của Mẹ như thế, đến nỗi, văn kiện tuyên phong chân phước cho Mẹ đã gọi Mẹ là “biểu hiệu của Đức Bác Ái Kitô giáo”, trường hợp của Mẹ đã không cần phải chờ đợi cho đến sau 5 năm qua đời theo qui định của Giáo Hội Công giáo. Sau đây là tiến trình phong thánh cho Mẹ, khởi đầu là bậc chân phước.

23/10/1997, tức mới có gần 2 tuần Mẹ qua đời, hay 10 ngày sau khi Mẹ được an táng, ĐTGM Henry D’Souza đã thỉnh nguyện Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh chuẩn chước cho trường hợp của Mẹ qui định thời hạn 5 năm sau khi qua đời, để ngài có thể bắt đầu những bước đòi hỏi đầu tiên ở giáo phận của ngài.

12/12/1998, Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh ban chuẩn chước cho vị TGM này.

19/3/1999, Các vị bề trên tổng quyền của dòng Các Thừa Sai Bác Ái chỉ định linh mục Brian Kolodiejchuk, MC, làm Cáo Thỉnh Viên thay họ làm việc trong tiến trình tuyên phong này.

8/4/1999, các ĐGM thuộc miền Tây Bengal Ấn Độ đồng ý Hồ Sơ Tuyên Phong trước hạn kỳ 5 năm.

21/4/1999, Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh chứng nhận không gì ngăn trở “Nihil Obstat” cho hồ sơ tuyên phong.

6/6/1999, Sơ M. Lynn Mascarenhas, MC, được chỉ định làm phó cáo thỉnh viên.

11/6/1999, vị cáo thỉnh viên nộp thỉnh nguyện lên ĐTGM Calcutta xin bắt đầu việc điều tra ở cấp giáo phận, đồng thời ngài cũng gửi kèm theo tiểu sử của Mẹ và danh sách các nhân chứng.

12/6/1999, ĐTGM công khai công bố thỉnh nguyện thư tuyên phong của cáo thỉnh viên và tuyên bố việc ngài bắt đầu Hồ Sơ Phong Chân Phước và Hiển Thánh cho Tôi Tớ Chúa là Mẹ Têrêsa Calcutta.

26/7/1999, Thánh Lễ Chính Thức Tiến Trình Tuyên Phong tại Nhà Thờ Thánh Maria ở Calcutta. ĐTGM đã ban hành lời thề cho 12 phần tử thuộc Nhóm Tìm Hiểu Của Giáo Phận. Thánh Lễ này mở màn cho giai đoạn nghiên cứu, phỏng vấn với những nhân chứng và xem xét các văn kiện và tài liệu liên quan đến đời sống và hoạt động của Mẹ Têrêsa. Công việc này được kết thúc vào tháng 8/2001, với 80 tập tài liệu, mỗi tập dầy khoảng 450 trang, để trình bày cho Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh.

15/8/2001, buổi kết thúc ở Nhà Thờ Thánh Maria về Việc Giáo Phận Tìm Hiểu Đời Sống, Nhân Đức và Tiếng Tăm Thánh Thiện của Mẹ Têrêsa Calcutta Đầy Tớ Chúa. Vị cáo thỉnh viên mang Các Việc Tìm Hiểu Của Giáo Phận đến Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh ở Rôma.

29/8/2001, Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh mở Hồ Sơ Các Việc Giáo Phận Tìm Hiểu Đời Sống, Nhân Đức và Tiếng Tăm Thánh Thiện của Mẹ Têrêsa Calcutta.

22/9/2001, Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh tuyên bố hiệu thành Việỉc Tìm Hiểu của Giáo Phận Calcutta và Những Lời Khai Nhân Chứng. Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh chỉ định Đức Ông José Luis Gutiérrez Gómez làm Tường Trình Viên.

26/4/2002, Điều Kiện Phong Thánh được hoàn tất và đệ trình lên Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh để cứu xét.

20/12/2002, tại Điện Vatican của Tòa Thánh, trước sự hiện diện của Đức Thánh Cha, ĐHY Saraiva Martins đã công bố 17 sắc lệnh về 7 vị tân chân phước, 7 vị thánh mới và 3 vị đáng kính. Trong 7 vị tân chân phước có Mẹ Têrêsa Calcutta. Giáo Hội đã xác nhận việc khỏi chứng xưng bướu bao tử của chị Monika Besra, một chứng bệnh không thể mổ như các vị bác sĩ của chị cho biết, là một phép lạ do Mẹ Têrêsa làm để đáp lại lời cầu của chị phụ nữ Ấn Giáo này đã tin tưởng đặt bức ảnh của Mẹ lên chỗ dạ dầy của chị.


Mẹ Têrêsa Calcutta: Di Sản

Huân Chương

Trong số 124 Bằng Tưởng Thưởng Mẹ nhận được, trong đó có 10 bằng đặc biệt là:

1. Padmashree Award (từ Tổng Thống Ấn Độ) 8/1962;
2. Pope John XXIII Peace Prize 1/1971;
3. John F. Kennedy International Award 9/1971;
4. Jawahalal Nehru Award for International Understanding 11/1972;
5. Templeton Prize for "Progress in Religion" 4/1973;
6. Nobel Peace Prize 12/1979;
7. Bharat Ratna (Jewel of India) 3/1980;
8. Order of Merit (từ Nữ Hoàng Elizabeth) 11/1983;
9. Gold Medal of the Soviet Peace Committee 8/1987;
10. United States Congressional Gold Medal 6/1997.

 

Sự Nghiệp

7/10/1950:
Hội dòng Thừa Sai Bác Ái được chính thức hình thành trước Giáo quyền. (Bấy giờ hội dòng mới có 12 người. Người đầu tiên theo Mẹ vào tháng 3/1949. Người thừa kế đầu tiên thay Mẹ làm bề trên tổng quyền của cả hai ngành hoạt động và chiêm niệm là Sơ M. Nirmala, MC).

25/3/1963:
Ngành NamThừa Sai Bác Ái được chính thức thành hình ở Calcutta. (Cha Ian Travers-Ball, SJ, dòng Tên đã gia nhập ngành này năm 1965, với tên gọi là Sư Huynh Andrew, MC, và là bề trên tiên khởi của ngành nam. Bề trên tổng quyền của ngành nam được gọi là Tổng Phục Vụ [The Servant General] và vị Tổng Phục Vụ hiện nay là Sư Huynh Yesudas, MC)

3/1969:
Ngành Cộng Tác Viên của Mẹ Têrêsa được chính thức bắt đầu. (Ngành này bao gồm tất cả mọi giáo dân, thuộc đủ mọi tôn giáo, quốc gia và nếp sống, muốn cùng với Mẹ Têrêsa làm giãn cơn khát yêu thương và các linh hồn của Thiên Chúa, bằng việc hiến dâng cho Ngài tình yêu của họ và làm cho tình yêu của Ngài được cảm nhận, cách riêng nơi thành phần nghèo nhất trong các người nghèo, nhất là nơi những ai thuộc gia đình riêng của các phần tử ngành này. Ngành Cộng Tác Viên giáo dân đây còn có thể được thực hiện bởi một người “Cộng Sự Viên Bệnh Nhân và Đau Khổ” với một vị Thừa Sai Bác Ái).

25/6/1976:
Ngành chiêm niệm Nữ được thành hình ở Nữu Ước. (Sứ vụ của các nữ tu MC ngành chiêm niệm này là tìm kiếm các linh hồn nghèo nhất trong các người nghèo qua việc tông đồ cầu nguyện, nhất là việc tôn thờ Thánh Thể, cũng như qua các hoạt động tình thương về tinh thần)

19/3/1979:
Ngành chiêm niệm Nam được thành hình ở Rôma. (Dưới sự hướng dẫn của Cha Sebastian Vazhakala, MC, ngành nam chiêm niệm đã chính thức cộng nhận như một hội dòng thuộc giáo phận ở Rôma vào năm 1993).

1980:
Thành lập Phong Trào Thân Thể Chúa Kitô Cho Linh Mục (Corpus Christi Movement for Priests) cho các vị linh mục muốn thông dự vào linh đạo của Mẹ. (Cha Joseph Langford đã cộng tác vào việc này. Phong trào này đã tiếp tục lan rộng nơi các linh mục triều trên khắp thế giới dưới sự lãnh đạo hiện nay của Cha Pascual Cervera ở Nữu Ước. Ngoài ra, Mẹ Têrêsa còn muốn hỗ trợ các vị linh mục hơn nữa bằng chương trình Veronica Intercessors For Priests - Verônica Chuyển Cầu Cho Các Vị Linh Mục, một chương trình thừa nhận thiêng liêng giữa một vị linh mục với một nữ tu hy sinh cầu nguyện cho ngài, theo chiều hướng của Chị Thánh Têrêsa Nhỏ trước đây. Chương trình này đã được các vị giám mục cổ võ và lan truyền đến nhiều dòng tu khác nhau).

16/4/1984:
Ngành Thừa Sai Bác Ái Giáo Dân được thành hình. (Mục đích là để giáo dân sống đời sống thiêng liêng được tổ chức theo đặc sủng của Mẹ Têrêsa).

13/10/1984:

Ngành Thừa Sai Bác Ái Linh Mục được thành hình ở Bronx, Nữu Ước. (Cha Joseph Langford đã cộng tác vào việc thành lập ngành này. Mục đích của ngành này là để tạo cơ hội cho các vị linh mục phục vụ người nghèo nhất trong các người nghèo, giúp vào việc thiêng liêng cho gia đình Thừa Sai Bác Ái, cũng như để truyền bá linh đạo cùng sứ vụ của Mẹ Têrêsa. Ngành này đã trở thành một hội dòng thuộc giáo phận ở Tijuana, Mễ Tây Cơ năm 1992. Như thế, ngành nữ chiêm niệm và hoạt động chỉ là một dòng, thì ngành nam, kể cả Sư Huynh và Linh Mục, lại có ba dòng (ngành chiêm niệm Nam MC, ngành Sư Huynh MC và ngành Linh Mục MC). Nhưng tất cả đều có một mục đích duy nhất là thực hiện đặc sủng của Mẹ Têrêsa, người “Mẹ” duy nhất của tất cả các ngành, trong việc làm giãn cơn khát của Thiên Chúa, bằng đời sống thánh thiện cũng như bằng việc phục vụ phần rỗi và thánh hóa thành phần nghèo nhất trong các người nghèo).

Khi Mẹ Têrêsa qua đời 5/9/1997, tổng số Chị Em Thừa Sai Bác Ái là 3.914 ở 594 cộng đồng tại 123 quốc gia trên khắp thế giới. (Có thể vì nhiều ngành khác nhau như được kể đến trên đây mà con số này hơi khác với con số được Zenit phổ biến ngày 29/8/2003 như sau: “Vào năm 1997, năm đấng sáng lập qua đời, dòng này có 456 nhà ở 101 quốc gia, giờ đây, kể cả 10 nhà nguyên trong năm 2003 này, tất cả số nhà lên đến 710 ở 132 quốc gia. Theo niên giám 2003 của Tòa Thánh dòng này có 4.690 nữ tu kể cả tập sinh”).
 

Danh Ngôn (của Mẹ Têrêsa)

Về Đức Bác Ái:

• “Hãy làm những sự bình thường với một tình yêu phi thường”.
• “Chúng ta hãy thương yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu thương mỗi một người chúng ta. Mà tình yêu này được bắt đầu ở đâu? Ở ngay gia đình của chúng ta. Nó được bắt đầu ra sao? Ở việc cùng nhau cầu nguyện”.
• “Thiên Chúa đã bảo chúng ta rằng ‘Hãy yêu thương tha nhân như bản thân mình’. Bởi vậy trước hết tôi phải yêu bản thân tôi một cách thích đáng, rồi yêu thương tha nhân của mình như bản thân mình. Thế nhưng làm sao tôi có thể yêu bản thân mình trừ phi tôi chấp nhận bản thân tôi như Thiên Chúa đã dựng nên tôi?”
• “Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta để yêu thương và được thương yêu, và đây là khởi đầu của việc cầu nguyện, đó là biết rằng Ngài yêu thương tôi, tôi được dựng nên cho những gì là cao cả”.
• “Những việc làm yêu thương bao giờ cũng là những việc làm hòa bình”.


Về gia đình

• “Gia đình cùng nhau cầu nguyện là gia đình cùng nhau chung sống, và nếu họ cùng nhau chung sống họ sẽ yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương mỗi một người trong họ”.
• “Con trẻ là quà tặng của Thiên Chúa ban cho gia đình. Mỗi một con trẻ được dựng nên theo hình ảnh đặc biệt và tương tự như Thiên Chúa cho những sự cao cả, đó là yêu thương và được thương yêu”.

Về tình đoàn kết

• “Điều tôi làm được quí vị lại không làm được. Điều quí vị có thể làm thì tôi lại bất lực. Thế nhưng, cùng nhau chúng ta vẫn có thể làm một điều gì tuyệt vời cho Thiên Chúa”.

Về hoạt động và chiêm niệm

• “Chúng ta không phải là những cán sự xã hội. Trước mắt một số người chúng ta đang làm việc xã hội, nhưng chúng ta cần phải là những con người chiêm niệm giữa lòng thế giới”.

Về sự thánh thiện

• “Thánh thiện không phải là vấn đề hào nhoáng của một số người; thánh thiện chẳng qua chỉ là một nhiệm vụ đối với quí vị và đối với tôi mà thôi”.

Về cảm nghiệm phục vụ

“Vào một buổi tối kia, chúng tôi ra đường và thấy được 4 người. Một người trong họ hết sức thê thảm. Tôi nói với các chị em rằng: ‘Các con hãy chăm sóc 3 người kia; còn mẹ lo cho người tệ nhất ấy’. Thế là tôi đã làm tất cả những gì tình yêu của tôi có thể làm cho người phụ nữ này. Tôi đặt người phụ nữ ấy lên giường và chị đã nở ra một nụ cười tuyệt vời. Chị đã nắm lấy tay tôi nói lời duy nhất ‘cám ơn Mẹ’, rồi chị qua đời. Tôi không thể nào không xét mình trước chị phụ nữ ấy. Tôi ngẫm nghĩ: ‘Tôi sẽ nói gì nếu ở vào trường hợp của chị?’ Câu trả lời của tôi rất dễ thôi. Tôi sẽ nói rằng: ‘Tôi đói khát, tôi chết mất, tôi lạnh lẽo, tôi đau đớn’ hay một câu nào đó. Thế nhưng, chị đã cho tôi còn hơn thế nữa. Chị đã cho tôi tấm lòng ưu ái tri ân của chị. Và chị đã chết với một nụ cười trên khuôn mặt.

“Sau đó chúng tôi đã nhặt được một người đàn ông ở một cái cống rãnh, một nửa thân mình đã bị sâu bọ rúc rỉa, và sau khi chúng tôi đã mang ông ta vào nhà, ông chỉ nói rằng: ‘tôi đã sống như một con thú trên đường phố, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc’. Đoạn, sau khi chúng tôi đã lấy hết mọi thứ sâu bọ khỏi mình mẩy của ông, tất cả những gì ông nói với chúng tôi kèm theo nụ cười tươi là ‘Sơ ơi, tôi sắp về cùng Thiên Chúa’, rồi ông tắt thở. Thật là tuyệt vời khi chứng kiến thấy sự cao cả của con người đàn ông đã có thể nói như thế mà không trách cứ bất cứ một ai, không so sánh bất cứ sự gì. Như một thiên thần, đó là sự cao cả của con người phong phú về tinh thần ngay cả trong lúc nghèo khổ về vật chất”.


ĐTGM Angelo Comastri, TGP Loreto

“Mẹ Têrêsa đã sống cho người nghèo. Thế nhưng, giờ đây thế giới đã trở nên nghèo hơn nữa từ đó, từ tối ngày Thứ Sáu 5/9, tối Mẹ đã không thể chống trả nổi cuộc tấn cống cuối cùng của bệnh tim và đã chết tại nhà mà Mẹ và chị em của Mẹ đã sống ở Calcutta từ thập niên 1940. Mẹ hưởng thọ 87 tuổi và dung nhan của Mẹ, nhỏ nhắn như toàn thân của Mẹ, và hết sức nhăn nheo, đã trở thành một thứ tuyệt phẩm của đức bác ái cũng như của việc Mẹ hoàn toàn hiến thân cho kẻ khác. Mẹ được gọi là Mẹ của kẻ nghèo. Thế nhưng, ngay trong số các hình thức khác nhau của bần cùng, Mẹ Têrêsa đã sống đến mức độ tận cùng, như tình của Mẹ đã triệt để và hoàn toàn yêu Chúa Kitô. Mẹ đã muốn sống với thành phần nghèo nhất trong các người nghèo, và trong cuộc tìm kiếm này Mẹ đã làm cho thế giới, kẻ có tín ngưỡng cũng như vô tín ngưỡng, đọc được những trang Phúc Âm sống, một thứ Phúc Âm tác động giữa những chiếm đạt và mẫu thuẫn của thời đại chúng ta. Cái chết của Mẹ Têrêsa đã gây xúc động và đau buồn sâu xa khắp thế giới. Đức bác ái của Mẹ đã lưu dấu vết ở hết mọi lục địa”

 

ÐTC Gioan Phaolô II, ở Bài Giảng Phong Chân Phước ngày 19/10/2003 cho Mẹ Têrêsa Calcutta, đã nhận định về người nữ tu phục vụ những người anh chị em hèn mọn nhất mà chính Mẹ "chẳng thấy Chúa đâu"

1- Mẹ Têrêsa Calcutta, vị sáng lập dòng Chư Thừa Sai Bác Ái, vị mà hôm nay đây Tôi hân hoan ghi danh vào sổ bộ chân phước, vị đã đi theo lý lẽ tôi tớ phục vụ này. Bản thân Tôi lấy làm biết ơn người phụ nữ can trường này, người phụ nữ Tôi cảm thấy lúc nào cũng kề cận bên Tôi. Là hình ảnh của một người Samaritanô Nhân Lành, Mẹ đã đi khắp nơi để phục vụ Chúa Kitô nơi thành phần nghèo khổ nhất trong những người nghèo. Chẳng có một thứ xung đột nào và một thứ chiến tranh nào có thể cản ngăn bước tiến của Mẹ.

Từ đó đến nay, Mẹ vẫn hằng nói với Tôi về các cảm nghiệm của Mẹ trong việc phục vụ các giá trị của phúc âm. Chẳng hạn Tôi nhớ đến những gì Mẹ nói khi Mẹ lãnh Giải Thưởng Hòa Bình Nobel: “Nếu quí vị nghe thấy có người đàn bà nào không muốn sinh con và muốn phá thai, xin hãy cố thuyết phục chị ta mang đến cho tôi đứa bé ấy. Tôi sẽ yêu thương bé, vì thấy nơi bé dấu hiệu hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa” (Oslo, Dec. 10, 1979).

Mẹ muốn là dấu chứng cho “tình yêu của Thiên Chúa, sự hiện diện của Thiên Chúa, lòng cảm thương của Thiên Chúa”, nhờ đó nhắc nhở tất cả mọi người giá trị và phẩm vị của mỗi một người con Chúa “được dựng nên để yêu thương và được yêu thương”. Bởi vậy Mẹ Têrêsa đã “mang các linh hồn về cho Thiên Chúa và đưa Thiên Chúa đến cho các linh hồn”, cũng như đã làm giãn cơn khát của Chúa Kitô, nhất là con khát đối với những người khẩn thiết nhất, những người có nhãn quan về Thiên Chúa đã bị lu mờ bởi khổ đau và đớn đau.

5- Mẹ Têrêsa đã thông phần cuộc khổ nạn của Đấng Chịu Đóng Đanh, một cách đặc biệt trong những năm dài sống trong “tăm tối nội tâm”. Cuộc thử thách này có những lúc rất gắt gao mà Mẹ đã chấp nhận như ‘tặng ân và đặc ân” chuyên biệt.

Trong những giờ phút tối tăm nhất, Mẹ đã thiết tha nguyện cầu hơn nữa trước Thánh Thể. Cuộc thử thách dữ dội này đã khiến Mẹ nhận thấy mình hơn bao giờ hết giống hệt như thành phần Mẹ phục vụ hằng ngày, bằng cảm nghiệm đớn đau và có những lúc bị loại trừ. Mẹ thích lập đi lập lại rằng tình trạng bần cùng nhất là tình trạng bị bỏ rơi, tình trạng không được ai chú ý chăm sóc cho anh chị em.

6- Chúng ta hãy ca ngợi người phụ nữ nhỏ bé phải lòng Thiên Chúa này, vị sứ giả khiêm hạ của Phúc Âm đây, và là một vị ân nhân không ngừng của nhân loại. Chúng ta tôn kính nơi Mẹ một con người nổi bật nhất trong thời đại của chúng ta. Chúng ta hãy chấp nhận sứ điệp của con người này và hãy noi theo gương của con người ấy.

 

(Chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 19/10/2003)

 

 

Để kết thúc bài giảng phong hiển thánh cho vị nữ tu được thế giới Ấn giáo kính trọng quốc táng này ngày 4/9/2016 của mình, ĐTC Phanxicô đã nói về Mẹ Têrêsa Calcutta như thế này:

 

Mẹ Têrêsa, trong tất cả mọi khía cạnh của đời sống mình, đã là một con người quảng đại ban phát lòng thương xót Chúa, bằng cách mẹ tỏ ra sẵn sàng đối với hết mọi người, nhờ việc mẹ đón nhận và bênh vực sự sống của con người, sự sống của những thai nhi cũng như của những ai bị bỏ rơi và những ai bị loại trừ. Mẹ đã dấn thân để bênh vực sự sống, không ngừng tuyên bố rằng: "thai nhi là con người hèn yếu nhất, bé mọn nhất, dễ bị tổn thương nhất". Mẹ đã cúi mình xuống trước những ai vất vưởng, bỏ mặc cho chết trên vệ đường, khi nhìn thấy nơi họ cái phẩm giá thiên phú của họ; mẹ đã lên tiếng với các quyền lực trên thế giới này, để họ có thể nhìn nhận lỗi lầm của họ về tội ác nghèo khổ do họ gây ra. Đối với Mẹ Têrêsa, lòng thương xót là "muối đất" mang lại mùi vị cho công việc của mẹ, là "ánh sáng" chiếu soi trong bóng tối của nhiều người không còn nước mắt để khóc cho tình trạng bần cùng và khổ đau của họ.

Sứ vụ của mẹ đến với những ngoại biên xa xôi hẻo lánh, đối với chúng ta ngày nay, vẫn còn là một chứng từ sống động cho việc Thiên Chúa gần gũi những người anh chị em nghèo khổ nhất trong giới nghèo. Hôm nay, tôi muốn truyền đạt hình ảnh tiêu biểu của vai trò nữ giới cũng như của đời sống thánh hiến cho tất cả thế giới của anh chị em tình nguyện viên: chớ gì mẹ là mô phạm thánh thiện của anh chị em! Chớ gì nhân viên không mệt mỏi của lòng thương xót này giúp chúng ta càng hiểu hơn rằng tiêu chuẩn duy nhất cho hành động của chúng ta đó là tình yêu thương nhưng không, không bị chi phối bởi các thứ ý hệ và những gì bó buộc, một tình yêu cống hiến cho mọi người không phân biệt ngôn ngữ, văn hóa, chủng tộc hay tôn giáo. Mẹ Têrêsa thích nói rằng: "Có lẽ tôi không nói được ngôn ngữ của họ, nhưng ít là tôi có thể mỉm cười".  Chúng ta hãy mang nụ cười của mẹ trong lòng của chúng ta và cống hiến nó cho những ai chúng ta gặp gỡ trong cuộc hành trình của chúng ta, nhất là những ai đau khổ. Nhờ đó chúng ta sẽ tạo nên nhiều cơ hội vui tươi và hy vọng cho nhiều anh chị em của chúng ta đang chán chường và đang cần được cảm thông cùng xoa dịu.

 

http://www.news.va/en/news/homily-for-the-canonization-of-mother-teresa-full

 

Sau đây là một số hình ảnh lưu niệm tại Nhà Mẹ Dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta chuyến truyền giáo Calcutta Ấn Độ của Nhóm TĐCTT 11-24/10/2022

 

 

Ngôi mộ của một vị sáng lập dòng, một vị đại thánh thời đại của Giáo hội, nhưng lại rất đơn sơ thanh bần,

và cũng ở trên ngôi mộ này, phái đoàn TĐCTT thấy được hình ảnh Thánh Mẫu Fatima vào ngày đến Calcutta 13/10/2022.

 

 

Nhà nguyện của Nhà Mẹ ở lầu hai, bên trên mộ mẹ, trừ phi bất khả vì đau yếu, đa số Các Sơ ngồi trên sàn nhà nguyện, theo gương Mẹ sáng lập Têrêsa Calcutta của mình

 

 

Bức tượng Mẹ Thánh têrêsa Calcutta chuyên môn ngồi trên sàn nhà nguyện ở chính vị trí Mẹ ngồi khi còn sống tại cuối nhà nguyện và gần cửa ra vào như bức tượng được ghi chú

 

 

 

Khi chủ tế dâng Mình Thánh sau lời truyền phép thì các sơ đều phục xuống sàn nhà nguyện để thờ lạy Chúa

 

 

Sơ Mercy Maria phụ trách tình nguyện viên (4 từ phải vào) đã cho biết Nhóm TĐCTT là nhóm VN đầu tiên tham gia chương trình tình nguyện viên của Dòng Sơ,

và như thế, chiếc áo dài VN duyên dáng cũng mới lần đầu tiên xuất hiện tại Nhà Mẹ của Dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta

 



Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 1, 1-8

"Lời chân thật đã đến với anh em, như đã đến trong khắp thiên hạ".

Khởi đầu bức thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Phaolô, Tông đồ của Ðức Giêsu Kitô do ý định của Thiên Chúa, và anh Timôthêu, kính gửi các thánh ở Côlôxê, và anh em tín hữu trong Ðức Giêsu Kitô. Nguyện xin ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô, ở cùng anh em.

Chúng tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa, là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, khi chúng tôi cầu nguyện cho anh em, bởi nghe biết lòng tin của anh em vào Ðức Giêsu Kitô, và lòng yêu mến của anh em đối với tất cả các thánh. Chúng tôi cảm tạ vì niềm hy vọng dành cho anh em trên trời, mà anh em đã nghe biết trong lời chân thật của Tin Mừng. Tin Mừng đó đã đến với anh em, như đã đến trong khắp thiên hạ, sinh hoa kết quả và gia tăng nơi anh em, từ ngày anh em đã nghe và nhận biết ơn Thiên Chúa trong chân lý. Như anh em đã thụ giáo cùng Êpaphra là đồng liêu rất yêu dấu của chúng tôi, là kẻ trung tín giúp việc Ðức Giêsu Kitô thay cho chúng tôi. Ông cũng đã tỏ cho chúng tôi biết lòng yêu mến của anh em trong Thánh Thần.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 51, 10. 11

Ðáp: Tôi tin cậy vào lượng từ bi Chúa tới muôn đời (c. 10b).

Xướng: 1) Phần tôi như cây ô-liu xanh tốt trong nhà Thiên Chúa; tôi tin cậy vào lượng từ bi Chúa tới muôn đời. - Ðáp.

2) Tôi sẽ ca ngợi Chúa muôn đời vì Chúa đã hành động, và tôi sẽ chúc tụng danh Ngài, vì danh Ngài thiện hảo trước mặt chư tín hữu. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Tm 1, 10b

Alleluia, alleluia! - Ðấng Cứu Chuộc chúng ta là Ðức Giêsu Kitô, đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết, và chiếu soi sự sống. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 4, 38-44

"Ta còn phải rao giảng Tin Mừng cho các thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu chỗi dậy ra khỏi hội đường, Người đến nhà Simon. Nhạc mẫu ông Simon phải cơn sốt nặng, và người ta xin Người chữa bà ấy. Người đứng bên bà, truyền lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến khỏi bà. Tức thì bà chỗi dậy, và dọn bữa hầu các ngài. Khi mặt trời lặn, mọi người có bệnh nhân đau những chứng bệnh khác nhau, đều dẫn họ đến cùng Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân, và chữa họ lành. Các quỷ xuất khỏi nhiều người và kêu lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa". Nhưng Người quát bảo không cho chúng nói, vì chúng biết chính Người là Ðức Kitô.

Ðến sáng ngày (hôm sau), Người ra đi vào hoang địa, dân chúng liền đi tìm đến cùng Người, họ cố cầm giữ Người lại, kẻo Người rời bỏ họ. Người bảo họ rằng: "Ta còn phải rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa cho những thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến". Và Người giảng dạy trong các hội đường xứ Giuđêa.

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Là Đấng được xức dầu Thánh Linh và được huy động bởi Thánh Linh, nên cho dù đi đâu, Chúa Kitô cũng thực hiện sứ vụ Thiên Sai của Người, một sứ vụ được tóm tắt trong bài Phúc Âm hôm Thứ Hai là thời điểm mở màn cho Phúc Âm của Thánh ký Luca kéo dài 13 tuần lễ ngày thường của Mùa Thường Niên, đó là sứ vụ "đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng". 

 

Nghĩa là Người luôn mang ơn cứu độ đến cho mọi người, bằng lời giảng và quyền năng chữa lành của Người, trước khi Người hoàn tất Cuộc Vượt Qua tối hậu của Người với tư cách chính thức là một Đấng Cứu Thế duy nhất của toàn thể loài người và cho loài người. 

 

Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, sau khi đã trừ quỉ cho một nạn nhân trong một hội đường ở Carphanaum thì "Chúa Giêsu chỗi dậy ra khỏi hội đường, Người đến nhà Simon". Thì ra nhà của chàng Simon, sau này là tông đồ Phêrô, ở trong thành phố lớn có nhiều dân ngoại sinh sống này. Nên nhớ rằng, theo Phúc Âm của Thánh ký Luca thì cho tới lúc này Chúa Giêsu chưa chọn gọi các môn đệ

 

Bởi thế, việc Người "đến nhà Simon" đây, mà không đến một nhà nào khác trong thành phố đông đảo này, có thể là vì Người được chính chàng Simon đầy nhiệt huyết này mời, nhờ đó lần Người viếng thăm nhà của chàng ấy như là một dạo khúc làm quen trước khi Người chính thức tuyển chọn chàng cùng với mấy chàng thanh niên khác cùng lứa tuổi với chàng và nghề nghiệp như chàng, một biến cố tuyển chọn được Phúc Âm ngày mai ở đầu đoạn 5 thuật lại.

 

Dạo khúc làm quen của Chúa Giêsu với chàng Simon được thể hiện nơi bà mẹ vợ của chàng, như Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Nhạc mẫu ông Simon phải cơn sốt nặng, và người ta xin Người chữa bà ấy. Người đứng bên bà, truyền lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến khỏi bà. Tức thì bà chỗi dậy, và dọn bữa hầu các ngài". Sự kiện chàng Simon trước khi gặp Chúa Giêsu và được Người tuyn chọn mà có vợ là chuyện bình thường, chẳng có gì là sai trái

 

Thế nhưng, một khi chàng tuyên bố "đã bỏ mọi sự mà theo Thày" (Mathêu 19:27) thì chàng cũng bỏ cả vợ nữa, một người vợ không biết còn sống hay chăng, vì trong bài Phúc Âm hôm nay, không thấy Thánh ký Luca tiết lộ, chỉ thắc mắc rằng nếu vợ của chàng còn sống và ở đó bấy giờ (vì mẹ của nàng đang bị bệnh sốt nặng rất cần nàng chăm sóc) thì tại sao nàng không phụ mẹ hay thay mẹ để tiếp đãi Người, đến độ phải để cho một người mới lành bệnh phải làm: "bà chỗi dậy, và dọn bữa hầu các ngài".

 

Ở đây, chi tiết về nhạc mẫu của chàng Simon sau này là tông đồ Phêrô khiến chúng ta liên tưởng đến luật giáo sĩ độc thân của Giáo Hội Công Giáo Rôma. Thật ra, tự bản chất của thừa tác vụ thánh nơi hàng giáo phẩm và giáo sĩ không buộc phải giữ mình độc thân. Theo lịch sử của Giáo Hội, ngay từ ban đầu, các vị giáo sĩ và giám mục đều có gia đình (xem 1Timotheu đoạn 3), vì khi Giáo Hội mới được thành hình ở các nơi thì làm gì đã có các tiểu chủng viện và đại chủng viện như từ sau Công Đồng Triđentino vào năm 1563, thời điểm Giáo Hội Công Giáo bắt đầu chính thức hóa vấn đề độc thân linh mục. 

 

Sở dĩ Giáo Hội ra luật độc thân cho hàng giáo sĩ của mình là để cho các vị có thể nhờ đó sống xứng với vai trò mục tử của mình (pastor) và đúng với thừa tác mục vụ của mình (pastoral care / ministry), thành phần mục tử hoàn toàn sống vì chiên và cho chiên, như chính Chúa Kitô là Vị Mục Tử Nhân Lành đến cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn cho dù có cần phải hiến mạng sống mình (xem Gioan 10:10-11), một tinh thần dấn thân phục vụ và "yêu cho đến cùng" (Gioan 13:1) như thế không thể nào hay khó có thể thực hiện nếu hàng giáo sĩ sống gia đình và vì thế họ cần phải lưu tâm và chăm sóc cho vợ con của mình trên hết và trước hết theo phận vụ làm chồng và làm cha của họ.

 

Chúa Giêsu là Đấng được sai đến với tất cả mọi người để cứu độ họ, nên Người không phải chỉ chữa lành cho nhạc mẫu của chàng Simon bấy giờ mà còn cho tất cả mọi bệnh nhân khác nữa, kể cả những ai bị quỉ ám, như Thánh ký Luca ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay: "Khi mặt trời lặn, mọi người có bệnh nhân đau những chứng bệnh khác nhau, đều dẫn họ đến cùng Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân, và chữa họ lành. Các quỷ xuất khỏi nhiều người và kêu lên rằng: 'Ông là Con Thiên Chúa'. Nhưng Người quát bảo không cho chúng nói, vì chúng biết chính Người là Đức Kitô".

 

Trong Bài Phúc Âm cho Thứ Tư Tuần XXII hôm nay, chúng ta còn thấy chiều hướng truyền giáo của Thánh ký Luca rất rõ ràng ở ngay câu cuối cùng: "Người bảo họ rằng: 'Tôi còn phải rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa cho những thành khác, bởi chính vì thế mà Tôi đã được sai đến'. Và Người giảng dạy trong các hội đường xứ Giuđêa", cho dù Người có được dân chúng ở đó bấy giờ tỏ ra hết sức lưu luyến muốn Người ở lại với họ: "Đến sáng ngày (hôm sau), Người ra đi vào hoang địa, dân chúng liền đi tìm đến cùng Người, họ cố cầm giữ Người lại, kẻo Người rời bỏ họ".

 

"Xứ Giuđêa" trong câu Phúc Âm của Thánh ký Luca "Người giảng dạy trong các hội đường xứ Giuđêa" cũng cho thấy chiều hướng truyền giáo ngay tại mảnh đất chính yếu của dân Do Thái và của đạo Do Thái, vì là nơi có Thành cùng Đền Thánh Giêurusalem và Hội Đồng Đầu Mục Do Thái. Bởi vì, trong lệnh sai đi truyền giáo của Người trước khi về trời, nơi mà Người muốn các tông đồ đến đầu tiên là "Giêrusalem" và "Giuđêa" trước cả "Samaria và tận cùng trái đất(xem Tông Vụ 1:8). Quả thực, "Giêrusalem" ở "Giuđêa" là địa điểm và khu vực truyền giáo đầu tiên ngay sau biến cố Thánh Thần Hiện Xuống vào Ngày Lễ Ngũ Tuần tại Nhà Tiệc Ly ở "Giêrusalem" vậy. 

 

Đúng thế, Chúa Kitô là của mọi người chứ không phải của riêng ai, hay của một nơi nào, như của những ai đã xin Người ở lại với họ trong bài Phúc Âm hôm nay. Chính vì biết được sứ vụ Thiên Sai Cứu Thế của mình mà Chúa Kitô đã từ biệt họ mà lên đường đến với những nơi khác, như một Tin Mừng cho những nơi khác ấy, trong đó có giáo đoàn Côlôsê, một giáo đoàn được Thánh Phaolô nhắc nhở cho họ nhớ lại rằng: "Tin Mừng đó đã đến với anh em, như đã đến trong khắp thiên hạ, sinh hoa kết quả và gia tăng nơi anh em, từ ngày anh em đã nghe và nhận biết ơn Thiên Chúa trong chân lý".

 

Chính Tin Mừng đi tới đâu là niềm vui đi tới đó, nhất là đối với thành phần khao khát thần linh, mong chờ ơn cứu độ thần linh, những con người nhờ Tin Mừng mà phát triển trong lãnh vực thiêng liêng và càng sống tin tưởng cậy trông vào Chúa, như tâm tình của họ được phản ảnh trong Thánh Vịnh 51 ở bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Phần tôi như cây ô-liu xanh tốt trong nhà Thiên Chúa; tôi tin cậy vào lượng từ bi Chúa tới muôn đời.

2) Tôi sẽ ca ngợi Chúa muôn đời vì Chúa đã hành động, và tôi sẽ chúc tụng danh Ngài, vì danh Ngài thiện hảo trước mặt chư tín hữu.

 

 



Thứ Năm



Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 1, 9-14

"Người đã cứu chúng ta thoát khỏi quyền lực u tối, và đem chúng ta vào nước Con yêu dấu của Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Anh em thân mến, từ ngày chúng tôi nghe biết về anh em, chúng tôi không ngừng cầu nguyện cho anh em, xin cho anh em được đầy sự hiểu biết thánh ý Chúa, với tất cả sự khôn ngoan và sự thông hiểu thiêng liêng, để anh em ăn ở xứng đáng đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự, và sinh hoa kết quả trong mọi việc lành, cùng phát triển trong sự nhận biết Thiên Chúa. Ðược củng cố bằng một sức mạnh dồi dào, chiếu theo quyền năng cả sáng của Người, anh em nhẫn nại và vui mừng khoan dung trong mọi sự. Anh em cảm tạ Chúa Cha, Ðấng đã làm cho anh em xứng đáng lãnh phần gia nghiệp các thánh trong ánh sáng. Người đã cứu chúng ta thoát khỏi quyền lực u tối, đem chúng ta về nước Con yêu dấu của Người, trong Ngài chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ máu Ngài, và được ơn tha tội.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 2-3ab. 3cd-4. 5-6

Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người (c. 2a).

Xướng: 1) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.

2) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.

3) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Tx 2, 14

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được chiếm lấy vinh quang của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 5, 1-11

"Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Chúa Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Ghênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng.

Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: "Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá". Ông Simon thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới". Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm.

Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi". Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế. Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: "Ðừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta". Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lc 5, 1-11

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Nếu thành Carphanaum là phố hội Chúa Giêsu thường lui tới gặp gỡ dân chúng thì Biển Hồ Galilêa cũng gọi là Gennesaret hay Tiberias cũng là khu vực tỏ mình ra của Chúa Giêsu, cách riêng cho thành phần môn đệ của Người, kể cả sau khi Người sống lại từ trong cõi chết như Phúc Âm của Thánh Gioan thuật lại ở đoạn 21 cuối cùng.  

 

Biển Hồ này rộng nhất ở nước Do Thái, với diện tích bao gồm 21 km chiều dài và 13 km chiều ngang. Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy Chúa Giêsu lần đầu tiên tỏ mình ra cho một thiểu số người trẻ mà Người đã có ý tuyển chọn họ. Tiến trình tỏ mình để tuyển chọn các môn đệ đầu tiên này của Người được Phúc Âm thuật lại như sau:

 

"Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Chúa Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Gennesaret. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng".

 

Hình như Chúa Giêsu cứ muốn làm quen với chàng Simon sao ấy. Trong bài Phúc Âm hôm qua, Người đã cố ý vào nhà của chàng, chứ không vào nhà của một ai khác trong một thành phố đông người ở, và trong bài Phúc Âm hôm nay, Người lại cố ý xuống thuyền của chàng, cho dù bấy giờ có "hai chiếc thuyền đậu gần bờ", có thể là hai chiếc thuyền của 2 cặp anh em được Thánh ký Mathêu thuật lại: "Simon được gọi là Phêrô và anh mình là Anrê" và "Giacôbê con của Zêbêđê và em mình là Gioan" (4:18,21). 

 

Chưa hết, việc nhờ chiếc thuyền của chàng Simon để "giảng dạy dân chúng" mới là bước thứ hai trước khi Người tiến sang bước thứ ba cũng là bước quyết liệt, bước Người muốn lợi dụng để tỏ mình ra trước khi kêu gọi và tuyển chọn mấy môn đệ đầu tiên này. Và bước thứ ba được Phúc Âm hôm nay thuật lại đó là: "Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: 'Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá'".

 

Đây không phải là một lệnh truyền của Thày đối với các môn đệ của mình, mà chỉ là một lời mời gọi, một thách đố, và là một thách đố đã được chàng Simon thành thực thưa lại và sẵn sàng tuân theo vì lòng cảm phục tự nhiên của mình đối với một Đấng mà chàng không biết làm sao cứ theo đuổi từ thành phố kia ra đến biển hồ này: "Ông Simon thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới'".

 

Qua câu đối đáp đầu tiên vô cùng dễ thương này của chàng Simon chân thành trực tính thuộc dân chài lưới chuyên nghiệp thân thưa cùng Chúa Giêsu, chúng ta thấy ngài quả thực xứng đáng được Chúa Giêsu sau này tuyển chọn lãnh đạo tông đồ đoàn và thay Người chăn dắt đàn chiên thuộc Giáo Hội được Người thiết lập trên ngài là tảng đá (xem Gioan 21:15-17; Mathêu 16:18-19). Tại sao? 

 

Tại vì "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) của chàng. Ở chỗ, cho dù chàng là một tay chuyên nghiệp đánh cá, đánh cá thâu đêm suốt sáng mà chẳng được gì, thế mà sẵn sàng tin tưởng nghe theo một Giêsu nào đó mới quen, một nhân vật dù sao quá khứ cũng chỉ là con của một bác thợ mộc quèn (xem Marco 6:3) và thậm chí còn hành nghề thợ mộc nữa (xem Mathêu 13:55), một đức tin tuân phục có thể bất chấp mệt mỏi về phần xác bởi cả đêm không ngủ, lẫn chán nản về tâm lý vì hoàn toàn thảm bại chưa từng thấy.

 

Thế nhưng, cũng chính nhờ "đức tin tuân phục" của chàng, tức nhờ quyền năng của Đấng mà chàng tin tưởng tuân phục, mà việc chàng làm đã đạt được thành quả ngoài sức tượng tượng của chàng, vượt sức tự nhiên của chàng, như Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm".

 

Cho đến lúc ấy, đến lúc thấy được mẻ cá vô cùng lạ lùng như vậy, nghĩa là sau khi cả đêm thất bại theo sức tự nhiên chuyên nghiệp của mình và sau khi chỉ cần nghe lời của một tay chuyên nghề thợ mộc, tất cả mọi người trong cuộc, đặc biệt nhất là chàng Simon, mới bàng hoàng trước Đấng Tối Cao, đến độ chàng cảm thấy mình vô cùng bất xứng mới thành thực thưa với Người rằng

 

"Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: 'Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi'. Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế".

 

Đạt được mục đích của mình là làm cho đối tượng kinh ngạc và vô cùng cảm phục, Chúa Giêsu mới chính thức công khai tuyển chọn họ để họ có thể làm một cái nghề còn cao cả hơn nghề đánh cá bấy giờ của họ nữa, còn quan trọng hơn nữa, còn khẩn thiết hơn nữa: "Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: 'Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta'. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người".

 

 

Nếu "từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta", ám chỉ thành phần đánh cá người chuyên nghiệp, bằng chứng từ trung thực và sống động của mình về Chúa Kitô, thì Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại đã có lý để mà nhắc nhủ và khuyên bảo những con cá người mà ngài đã bắt được, tiêu biểu như ở giáo đoàn Côlôsê được Bài Đọc 1 hôm nay nhắc đến, trong việc sống đức tin xứng với ơn cứu độ của Chúa Kitô như sau:

 

"Ðược củng cố bằng một sức mạnh dồi dào, chiếu theo quyền năng cả sáng của Người, anh em nhẫn nại và vui mừng khoan dung trong mọi sự. Anh em cảm tạ Chúa Cha, Ðấng đã làm cho anh em xứng đáng lãnh phần gia nghiệp các thánh trong ánh sáng. Người đã cứu chúng ta thoát khỏi quyền lực u tối, đem chúng ta về nước Con yêu dấu của Người, trong Ngài chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ máu Ngài, và được ơn tha tội".

 

Các vị tông đồ được kêu gọi trở thành những tay đánh cá người không phải chỉ quanh quẩn ở Biển Hồ Galilê, một môi trường tỏ mình ra của Chúa Kitô, hay "ở Giêrusalem, khắp Giuđêa và Samaria" (Tông Vụ 1:8) thuộc mảnh Đất Hứa của mình thôi, mà là trên khắp thế giới, mà là ra khơi, là vượt đại dương trần thế để loan tin mừng cứu độ cho "tất cả mọi tạo vật" (Marco 16:16), "tất cả dân nước" (Mathêu 28:19), "cho tới tận cùng trái đất" (Mathêu 28:20). Và chính vì ơn cứu độ có tính cách phổ quát hay tính cách công giáo như thế mà những ai được tuyển chọn và sai đi đánh cá người cần phải cùng với Thánh Vịnh 97 ở bài Đáp Ca hôm nay xướng lên rằng:

 

1) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.

2) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca.

3) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua.

 

 

Ngày 08 tháng 9

SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MA-RI-A

lễ kính

Tiểu sử 
Sinh nhật của Đức Ma-ri-a vượt hẳn cả sinh nhật của thánh Gio-an, vị tiền hô. Sinh nhật của Đức Ma-ri-a loan báo Sinh Nhật của Đức Giê-su, là khúc dạo đầu của Tin Mừng. Một người con gái ra đời trong gia đình bà An-na và ông Gio-a-kim đã làm cho “niềm hy vọng và bình minh ơn cứu độ mọc lên chiếu soi thế giới”. Chính vì thế, Hội Thánh mời gọi chúng ta cử hành ngày lễ này trong tâm tình hân hoan.

 

Bài Ðọc I: Mk 5, 2-5a

"Ðến khi người nữ phải sinh, sẽ sinh con".

Trích sách Tiên tri Mikha.

Ðây lời Chúa phán: "Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Ðấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người, cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an".

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc: Rm 8, 28-30

"Những kẻ Chúa đã biết trước thì Người đã tiền định họ".

Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, chúng ta biết rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành. Họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. Vì chưng, những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Nhưng những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; và những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 12, 6ab. 6cd

Ðáp: Con sẽ hớn hở vui mừng trong Chúa (c. Is 91,9a).

Xướng: 1) Xin chớ để kẻ thù con hân hoan vì con quỵ ngã: bởi con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa. - Ðáp.

2) Xin cho lòng con hân hoan vì ơn Ngài cứu độ; con sẽ hát mừng Chúa, vì Ngài ban ân huệ cho con. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ là người có phúc và rất đáng mọi lời ca tụng, vì Mẹ đã sinh ra Mặt trời Công Chính là Ðức Kitô, Chúa chúng con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 1, 1-16. 18-23

"Bà đã thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.

Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.

Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.

Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Sala-thiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:

"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc bài vắn này: Mt 1, 18-23

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:

"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Ðó là lời Chúa.

 

The Expectation of the Blessed Virgin Mary (A Novena)

Đấng cả địa cầu đại dương tinh tú
Hằng tin yêu và thờ lạy kính tôn,
Đấng trị vì khắp vũ trụ càn khôn,
Nay lại muốn đầu thai trong lòng Mẹ.

Đấng bóng nguyệt vầng ô tuân chỉ thị,
Đấng lấy thời gian điều khiển muôn loài
Đã chẳng nề bằng phép lạ trinh thai
Để cho Mẹ cưu mang tròn chín tháng.

Mẹ diễm phúc vì giờ đây mang nặng
Chúa tạo thành trời đất cõi vô biên,
Đấng Toàn Năng, tay nắm trọn uy quyền :
Thân xác Mẹ là Hòm Bia Giao Ước.

Người trinh bạch, thiên sứ chào diễm phúc,
Đã thụ thai do quyền lực Thánh Thần
Vẫn tinh tuyền khi sinh hạ Thánh Nhân,
Đấng toàn thể muôn dân từng mong đợi.

Ôi Thánh Tử Giê-su đầy lân ái
Đã sinh ra làm con Đức Nữ Trinh,
Kính dâng Ngài, cùng Thánh Phụ, Thánh Linh
Bài ca tụng đến muôn đời muôn thuở.

 

Tấu lạy Bà, quả thật Bà vinh hiển,
Ôi cao vời trên cả chín tầng mây,
Chúa Giê-su, Đấng đã dựng nên Ngài
Là Thánh Tử, chính Ngài cho bú mớm !

Ân sủng mất tại E-và xuẩn động,
Tay Ngài phục hồi nhờ bởi Chúa Con,
Để từ đây nhân loại hết tủi hờn,
Được Ngài dẫn vào thiên đường vinh phúc !

Ngài chính là cửa ngọ môn sáng rực
Đã mở ra cho Thiên Tử giáng trần,
Hãy reo hò, nào muôn nước muôn dân,
Này Trinh Nữ tặng cho ta Nguồn Sống !

Lòng hớn hở, xin hợp lời ca tụng
Dâng Chúa Cha cùng Thánh Tử, Thánh Thần,
Lượng hải hà đã ghé mắt từ nhân,
Cho Ngài mặc áo hồng ân tuyệt diệu. 

Thánh ca Tin Mừng “Chúc tụng Đức Chúa” (Benedictus)

ĐCLạy Trinh Nữ, Đức Mẹ Chúa Trời,
ngày sinh của Mẹ đem Tin Mừng cho cả trần gian,
vì Đức Ki-tô, Chúa chúng con
là Mặt Trời soi đường ngay nẻo chính,
đã từ cung lòng Mẹ sinh ra,
Người là Đấng huỷ bỏ lời chúc dữ,

đem lại muôn phúc lành,
Đấng tiêu diệt thần chết, và ban phúc trường sinh.

 

 

 

 

Cái cũ đã qua, này đây mọi sự đều đổi mới

Trích bài giảng của thánh An-rê, giám mục Cơ-rê-ta.

Cứu cánh của Lề Luật là Đức Ki-tô. Người không đẩy chúng ta xa Lề Luật cho bằng nâng chúng ta lên tới tinh thần của nó. Quả thật, nơi Người, Lề Luật được hoàn tất, vì sau khi kiện toàn và kết thúc mọi sự, thì chính Đấng lập Luật đã chuyển chữ viết sang tinh thần. Thật vậy, Người thâu hồi tất cả nơi bản thân và sống theo luật ân sủng. Luật thì Người bắt phục tùng, còn ân sủng thì Người phối hợp và liên kết với Luật. Đặc tính của bên này, Người không trộn lẫn và hoà tan với bên kia, nhưng hoán chuyển cách thần kỳ, khiến điều xưa kia nặng nề nay trở nên nhẹ nhàng và tự do, để chúng ta không phải làm nô lệ những yếu tố của vũ trụ, như thánh Phao-lô tông đồ đã nói, và chúng ta cũng chẳng phải mang ách nô lệ dựa trên chữ viết của Luật.

Quả thế, đây là hồng ân cao cả nhất Đức Ki-tô ban cho chúng ta, đây là mặc khải mầu nhiệm cứu độ, đây là sự trút bỏ vinh quang, khi Thiên Chúa làm người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ mầu nhiệm Nhập Thể. Vì khi Thiên Chúa vinh hiển và rất mực quang minh đến với nhân loại, thì cần phải có Đức Mẹ là niềm vui đi trước để chuẩn bị ơn cứu độ lớn lao cho chúng ta. Đó là ý nghĩa của buổi lễ hôm nay, mà khởi điểm là biến cố Mẹ Thiên Chúa chào đời, còn kết thúc và tận điểm là biến cố Ngôi Lời mặc lấy xác phàm. Quả thật, Đức Trinh Nữ nay được sinh ra, được cho bú mớm và được chuẩn bị để xứng đáng trở nên Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Vua muôn đời.

Điều đó đem lại cho chúng ta hai mối lợi : một là đưa chúng ta tới chân lý, hai là giải thoát chúng ta khỏi làm tôi và sống theo nghĩa đen của Lề Luật. Điều đó xảy ra thế nào và vì lý do gì ? Thưa, ánh sáng đến đẩy lui bóng tối và ân sủng mang lại tự do thay cho mặt chữ. Lễ hôm nay là mốc phân ranh giữa hai điều đó, vì lễ này nối kết chân lý với hình ảnh tượng trưng, lấy cái mới thay cho cái cũ.

Vậy, mọi loài thụ tạo hãy đồng ca, hãy nhảy múa và biểu lộ niềm vui thích hợp với ngày lễ. Hôm nay, mọi loài trên trời dưới dất hãy cùng nhau hoan hỷ và bất cứ vật nào ở trong trần gian cũng như bên trên trần gian hãy hợp nhau mừng lễ. Quả thật, hôm nay thánh điện của Đấng tạo thành muôn vật đã được xây lên, và một thụ tạo, vì một lý do mới mẻ và thích đáng, đã được chuẩn bị làm nơi cư trú mới cho Đấng Hoá Công.

 

Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giê-su Con Một Chúa, Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu Người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc, và cho chúng con hưởng bình an. Chúng con cầu xin

 

Thần Đô Huyền Nhiệm (Đoạn truyện về biến cố Mẹ Maria được sinh vào trần gian)

Ngày mồng tám tháng chín, thánh nữ Anna hiểu rằng bà sắp sinh Người Con bà hằng ước nguyện. Bà xấp mình cầu xin Thiên Chúa chúc phúc cho con mình. Lúc đó, Mẹ Maria được Chúa cho xuất thần rất cao cả, không thấy được mình sinh vào trần gian như thế nào. Lúc ra khỏi cơn xuất thần ấy, Mẹ đã thấy mình đẹp đẽ nằm trên tay thân mẫu mình.

Thánh nữ Anna được gìn giữ khỏi mọi đau đớn thông thường nơi các bà mẹ sinh con, bà dâng lên Thiên Chúa lời nguyện rằng: "Lạy Đấng Sáng Tạo mọi loài, con xin dâng Chúa người con mà con vừa được lòng lành Chúa ban cho. Con xin cảm tạ Chúa. Xin Chúa định đoạt cho mẹ con con theo ý Chúa. Con xin chúc tụng Chúa muôn đời. Con là một kẻ bất xứng, xin dạy con biết cách nuôi nấng người con của Chúa".

Thiên Chúa trả lời trong lòng bà, là bà cứ cư xử như mọi người Mẹ cư xử với con mình, đừng tỏ ra một niềm tôn kính nào bề ngoài, cứ tôn kính trong tâm hồn là đủ. Nhưng phải hết sức cẩn trọng và yêu đương.

Các thiên thần hầu cận Mẹ, cùng với vô số thiên thần khác tháp tùng, đến tỏ niềm tôn kính Mẹ. Họ hát lên một khúc ca thiên đàng, rồi bắt đầu phục vụ Mẹ. Lần đầu tiên Mẹ nhìn thấy họ dưới hình người. Mẹ mời họ ca tụng Chúa với Mẹ và nhân danh Mẹ.

Đức tổng thiên thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến báo cho các thánh ở u ngục biết tin mừng Mẹ sinh ra, một tin mừng làm các ngài hoan hỉ và tri ân vô ngần.

Tất cả những sự việc đó qua đi rất mau chóng. Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ Maria nhiều sự việc rất lạ lùng khác nữa. Việc đầu tiên là sai các thiên thần rước Mẹ lên thiên đàng. Các ngài chỉnh đốn hàng ngũ thành một cuộc khải hoàn long trọng, vừa rước Mẹ lên cao vừa ca hát cho tới trước uy nghi Thiên Chúa. Mẹ xấp mình thờ lạy Chúa.

Ngôi Lời nâng Mẹ lên, đặt bên hữu mình. Lĩnh nhận nhiều mạc khải mới, tất cả các tài năng của Mẹ tăng triển thêm. Mẹ được nhìn thấy thần tính Thiên Chúa tỏ ra ở một góc độ tuyệt vời. Bừng cháy nhiệt tâm cho danh Chúa cả sáng, Mẹ nài xin Thiên Chúa mau thi hành ơn Nhập Thể để cứu chuộc thế gian. Thiên Chúa đoan quyết với Mẹ là ước nguyện ấy của Mẹ sắp được thực hiện.

Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ cho các thiên thần biết rằng từ đời đời Ngài đã tác tạo cho Mẹ và cho Ngôi Con danh hiệu Maria và Giêsu. Trong hai danh hiệu đó, Ngài được thỏa lòng hoàn toàn. Rồi Ngài phán: "Danh hiệu Maria phải được hiển vinh lạ thường. Những ai thành thực sốt sắng kêu cầu danh hiệu ấy sẽ được ban nhiều ân sủng. Những ai kính cẩn đọc lên sẽ được ủi an. Mọi người đều tìm được trong danh hiệu ấy phương dược trị liệu bệnh tật mình; được ánh sáng soi đường; được kho tàng cứu giúp sự túng nghèo. Danh hiệu Maria làm run sợ hoả ngục và đạp nát đầu cựu xà Satan".

Chính Chúa đặt danh hiệu ấy cho Mẹ. Mẹ đón nhận với những lời ca ngợi lạ lùng. Lúc Thiên Chúa đọc danh hiệu ấy lên, các thiên thần đều phủ phục, bái chào, hát lên thánh ca tán tụng, nhất là những vị mang biểu hiệu danh hiệu ấy càng nhiệt liệt tán tụng hơn. Sau đó, cũng các Thiên Thần đã rước Mẹ lên trời lại rước Mẹ xuống đặt trên tay Thánh Nữ Anna nhưng bà không hề biết gì về sự mẹ vắng mặt. Trong lúc đó, bà được ơn xuất thần, biết được nhiều sự kiện cao cả về chức phẩm Mẹ Thiên Chúa.

Tám ngày sau, rất đông thiên thần từ trời xuống, mang theo một biểu ngữ sáng láng, ghi danh hiệu Maria. Họ nói với Thánh Nữ Anna phải mau kíp đặt tên ấy cho Con bà. Bà đi nói với Thánh Gioan Kim. Ông bà liền tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn, mời bà con thân thuộc và một tư tế đến dự. Trong niềm trịnh trọng hân hoan, ông bà đặt tên rất dịu dàng Maria cho Con Rất Thánh của mình. Các thiên thần lại tấu lên một khúc nhạc tuyệt vời, chỉ có hai mẹ con bà Anna được thưởng thức. Hạnh phúc cho trái đất biết bao, vì đã có Mẹ Đấng Cứu Chuộc.

Luật ghi trong chương 12 sách Lêvi buộc mọi người mẹ, 60 ngày sau khi sinh hạ một con gái, phải lên Đền Thờ Giêrusalem dâng một con chiên một tuổi và một con chim gáy hay một bồ câu nhỏ. Thánh nữ Anna sung sướng vì được dâng lên Thiên Chúa Người Con chí thánh Chúa đã ban cho bà, Người Con chính bà đang ẵm trên tay.  Khi bà tới Đền Thờ, đại tư tế Simeon đã ra tiếp đón. Thánh nữ Anna dâng của lễ cách sốt sắng đến rơi lệ.  Bà tuyên lại lời khấn sẽ hiến dâng Con gái mình vào Đền Thờ Thiên Chúa khi con tới tuổi thích hợp. 

Khi các nghi lễ đã xong, hai mẹ con hoan hỉ trở về Nagiarét.  Ở đây, Mẹ Maria được nuôi dưỡng y như các trẻ đương thời.  Lương thực Mẹ dùng cũng là lương thực chung mọi người, nhưng Mẹ dùng rất ít.  Mẹ ngủ đã ngắn giấc, mà còn phải ru phải dỗ mới ngủ được.  Mẹ rất ngoan ngoãn, nhưng cũng rất đoan trang, ai đến gần cũng phải tôn kính.  Mẹ cũng hay khóc và khóc nức nở, song chỉ là khóc để thương cho tội lỗi thế gian, và nài xin Đấng Cứu Chuộc đến.  Nơi Mẹ, không bao giờ có chút gì là con nít, tuy vậy Mẹ cũng sẵn lòng để thánh nữ Anna chiều chuộng.

M liên lỉ cầu nguyện cùng Thiên Chúa, dù giấc ngủ cũng không gián đoạn việc cầu nguyện ấy, vì trí năng có thể hoạt động không cần giác quan giúp đỡ.  Mẹ được hưởng đặc ân ấy cho tới khi ly trần. Không bao giờ Mẹ ngưng chuyện vãn với Chúa. Nhưng với loài người  suốt 18 tháng đầu tiên đời Mẹ, Mẹ đã im lặng y như các trẻ thơ khác. Sau mười tám tháng, Mẹ mới bắt đầu nói. Chúa dạy Mẹ cầu nguyện mỗi ngày nhiều lần để Con Chúa mau Nhập Thể, và hãy khóc lóc vì tội lỗi loài người. Trong mười tám tháng tiếp đó, nghĩa là cho tới khi Mẹ lên ba tuổi, Mẹ nói rất ít.

Cha mẹ của Mẹ không giầu lắm, cũng không nghèo lắm.  Ông bà có đủ của để may sắm cho Mẹ những bộ y phục đẹp đẽ nhưng rất đoan trang.  Trong thời gian Mẹ chưa nói, Mẹ để mặc thánh nữ Anna sắm liệu cho Mẹ, không tỏ dấu gì cưỡng lại.  Nhưng khi đã được Chúa ban lệnh nói năng,  Mẹ xin thân mẫu may cho mình những y phục vải thô, nghèo nàn, đơn bạch, mầu tro xám và, nếu có thể,  đã cũ, đồ thừa.  Thánh nữ Anna rất kính nể và tôn trọng con mình như Bà Chủ, nhưng bà không đành lòng để cho con còn thơ dại yếu đuối phải mặc áo thô.  Bà chỉ theo ý con về mầu áo và kiểu cắt may, tức mầu xám và kiểu áo của những trẻ nữ cha mẹ đã khấn hứa cho một điều nào đó.

Trong ba năm đầu đời Mẹ, Mẹ luôn thực hiện đức vâng lời hoàn thiện này.  Mẹ thường đón trước ý của thánh nữ Anna mà làm.

Khi đã lên trọn hai tuổi, Mẹ bắt đầu thi hành đức ái đối với người nghèo.  Mẹ đến xin thân mẫu của này vật nọ bố thí cho họ.  Đôi lần Mẹ còn bớt cả phần ăn của mình để cho họ nữa.  Mẹ cũng cầu nguyện cho linh hồn họ.

Mặc dầu Mẹ đầy tràn tri thức thiên phú về mọi sự vật thụ tạo, Mẹ cũng sẵn sàng được người ta dạy dỗ y như các trẻ khác, như là không biết gì. Mẹ hết sức ngoan ngoãn học hỏi nơi cha mẹ. Khi có ai chỉ dẫn thêm điều gì, hoặc khiển trách điều gì, Mẹ luôn luôn cúi đầu chấp nhận, không hề cãi trả.

Lời Mẹ nhắn nhủ:

Con hãy gắng noi gương Mẹ trong việc Mẹ đã làm suốt đời Mẹ từ khi Mẹ sinh ra. Lúc ngày mới bắt đầu, Mẹ sấp mình dưới chân Chúa, ca tụng Chúa vì những ưu phẩm vô cùng của Ngài, rồi nhìn nhận chủ quyền tuyệt đối của Ngài trên vạn vật. Mẹ cũng cảm tạ Chúa vì Ngài đã kéo Mẹ ra khỏi hư vô. Mẹ hoàn toàn phó thác dâng mình cho Ngài, để Ngài định đoạt về Mẹ tùy ý Ngài muốn trong ngày, cũng như trong suốt cuộc sống của Mẹ. Mẹ cầu xin Ngài cho Mẹ biết được những gì đẹp lòng Ngài để Mẹ chu toàn. Mẹ xin Ngài hướng dẫn, ban phép lành và chúc phúc cho hết mọi việc Mẹ làm. Mẹ còn nhắc đi nhắc lại những hành vi đó nhiều lần trong ngày.

Càng thực tâm nhiệt thành tôn kính danh hiệu rất dịu ngọt của Mẹ, con càng đi trên đường của Mẹ. Con nên biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Danh Hiệu ấy không biết bao nhiêu là ân sủng và đặc ân. Mẹ không thể nghĩ đến hay nghe đọc đến Danh Hiệu ấy mà lại không dâng lời cảm tạ Chúa. Cho nên Mẹ quyết định làm những việc cả thể cho Chúa là Đấng đã ban cho Mẹ Danh Hiệu quí báu ấy. 

 

 


Thứ Sáu

(Nếu ngày Thứ Sáu này không bị át bởi Lễ Kính Sinh Nhật Đức Mẹ như năm 2023)

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 1, 15-20

"Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Ðức Giêsu Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật, vì trong Người, muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình, dù là các Bệ thần hay Quản thần, dù là Chủ thần hay Quyền thần: Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người. Và Người có trước mọi loài, và mọi loài tồn tại trong Người. Người là đầu thân thể, tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng, Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 99, 2. 3. 4. 5

Ðáp: Hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá (c. 2c).

Xướng: 1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.

2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người, ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. - Ðáp.

3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui, hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.

4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ. - Ðáp.

 

Alleluia: Cl 3, 16a và 17c

Alleluia, alleluia! - Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em; anh em hãy nhờ Ðức Kitô mà tạ ơn Thiên Chúa Cha. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 5, 33-39

"Khi tân lang phải đem đi khỏi họ, bấy giờ họ ăn chay".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, những người biệt phái và luật sĩ nói với Chúa Giêsu rằng: "Tại sao môn đồ của Gioan năng ăn chay và cầu nguyện, cả môn đồ của những người biệt phái cũng vậy, còn môn đệ của Thầy lại cứ ăn uống?" Người đáp lại rằng: "Các ông có thể bắt các bạn hữu đến dự tiệc cưới, ăn chay, đang khi tân lang còn ở với họ chăng? Nhưng sẽ đến những ngày mà tân lang phải đem đi khỏi họ, bấy giờ họ sẽ ăn chay trong những ngày ấy".

Người còn nói với họ thí dụ này rằng: "Không ai xé miếng vải áo mới mà vá vào áo cũ; chẳng vậy, áo mới đã bị xé, mà mảnh vải áo mới lại không ăn hợp với áo cũ. Cũng chẳng ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; chẳng vậy, rượu mới sẽ làm vỡ bầu da, rượu chảy ra và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới phải đổ vào bầu da mới, thì giữ được cả hai. Và không ai đang uống rượu cũ mà lại thèm rượu mới, vì người ta nói: 'Rượu cũ thì ngon hơn' ".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XXII Thường Niên hôm nay không liên tục với bài Phúc Âm hôm qua. Bài Phúc Âm hôm qua bao gồm 11 câu đầu của Đoạn 5, liên quan đến việc Chúa Giêsu tuyển chọn các môn đệ tiên khởi, còn bài Phúc Âm hôm nay bao gồm 6 câu cuối cùng của Đoạn 5, liên quan đến lần đối đầu lần thứ ba giữa Người với "những người biệt phái và luật sĩ".

 

Thật vậy, Giáo Hội đã không chọn đọc những câu giữa của Đoạn 5 này, bao gồm 3 biến cố: 1- Chúa Giêsu chữa một người phong cùi (5:12-16), một biến cố đã được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại trong bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XII Thường Niên; 2- Chúa Giêsu chữa một người bất toại được thòng xuống từ mái nhà (5:17-26), một biến cố cũng đã được Thánh ký Mathêu thuật lại trong Phúc Âm cho Thứ Tư Tuần XIII Thường Niên, và 3- Chúa Giêsu kêu gọi chàng thu thuế Levi là tông đồ Mathêu (6:27-32), một sự kiện cũng đã được Thánh ký Mathêu thuật lại trong bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XIII Thường Niên.

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, như đã nói, Chúa Giêsu đã đụng độ với thành phần luật sĩ và biệt phái là loại thông luật kiêm thày dạy trong dân. Lần thứ nhất về quyền tha tội của Người khi Người chữa lành một người bất toại được thòng xuống từ trần nhà (xem Luca 5:21), và lần thứ hai về việc Người giao du với thành phần thu thuế và tội lỗi trong nhà của tên thu thuế Levi được Người kêu gọi (xem Luca 5:33)

 

Lần đụng độ thứ ba là lần đụng độ liên quan đến vấn đề được họ đặt ra với Chúa Giêsu là: "Tại sao môn đồ của Gioan năng ăn chay và cầu nguyện, cả môn đồ của những người biệt phái cũng vậy, còn môn đệ của Thầy lại cứ tha hồ ăn uống?". Biến cố đụng độ lần này thật ra đã được Giáo Hội cho đọc theo bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên rồi. 

 

Tuy nhiên, so sánh hai bài Phúc Âm về cùng một sự kiện đối chất này, chúng ta thấy có 3 chi tiết khác nhau như sau: 

 

1-  Phúc Âm Thánh ký Mathêu thì vấn đề được đặt ra bởi các môn đệ của Tiền hô Gioan Tẩy Giả, còn ở Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay thành phần đặt vấn đề là luật sĩ và biệt phái; 

 

2-  Phúc Âm Thánh ký Luca hôm nay, trong câu chất vấn của những người luật sĩ và biệt phái dài hơn một chút, không phải chỉ vắn gọn "còn môn đệ của Thày thì không (tức là chẳng kiêng cữ gì hết)?" như ở Phúc Âm Thánh Mathêu, mà còn thòng thêm một mệnh đề phụ: "còn môn đệ của Thầy lại cứ tha hồ mà ăn uống"; 

 

3-  Phúc Âm Thánh ký Luca hôm nay, trong câu trả lời của Chúa Giêsu còn thêm câu cuối cùng như sau: "Không ai đang uống rượu cũ lại thèm rượu mới. Họ cho rằng: 'Rượu cũ ngon hơn'".

 

Những chi tiết khác đã được suy diễn và chia sẻ ở Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên: Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XIII Thường Niên. Ở đây chúng ta chỉ tập trung vào chi tiết thứ 3, một chi tiết hơi liên quan đến chi tiết thứ 1 mà thôi. Vậy vấn đề  "rượu cũ" được đặt ra ở đây nghĩa là gì và "ai đang uống rượu cũ" đây ám chỉ thành phần nào?? Câu trả lời rất đơn giản. Ở chỗ, Chúa Giêsu đang đối đáp với thành phần nào trong bài Phúc Âm hôm nay đây? 

 

Nếu không phải là "những người biệt phái và luật sĩ", thành phần mà, căn cứ vào những lần đụng độ với Chúa Giêsu, phải nói là thành phần "đang uống rượu cũ", ám chỉ khuynh hướng duy luật của họ, họ say sưa với thứ "rượu cũ" lề luật, và họ cảm thấy "ngon hơn" thứ "rượu mới" được Chúa Kitô cống hiến cho họ là "lòng nhân lành" (Mathêu 9:13), là niềm cảm thương, những gì họ vì không có hay chưa có hoặc không muốn chấp nhận hay không thể nào hiểu được, nên họ cứ lẩn quẩn đặt hết vấn đề này vấn đề kia với Chúa Giêsu, kiểu lè nhè lảm nhảm của kẻ say "rượu " được họ thưởng thức đến độ không còn đủ tỉnh táo để biết mình, do đó sống một đời "giả hình". 

  

Các tông đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem sau khi Chúa Giêsu Thăng Thiên về cùng Cha của Người cũng đã trở thành những kẻ "đầy rượu" (Tông Vụ 2:13) nhờ các vị ngay trước đó mới được "đầy Thánh Linh" (Tông Vụ 2:4), nhưng là một tình trạng "đầy rượu" có sức thu hút và chinh phục lòng người (xem Tông Vụ 2:6,7,12) chứ không phải kiểu lè nhè lảm nhảm của thành phần biệt phát và luật sĩ cứ say sưa với thứ "rượu cũ ngon hơn" của họ. 

 

Đúng thế, thành phần môn đệ của Chúa Kitô, thành phần chứng nhân của Người, chỉ chay tịnh bằng việc sống đức tin "khi chàng rể được mang đi", nghĩa là khi chàng rể hoàn thành sứ vụ Thiên sai Cứu thế của Người. Bởi vì, theo dự án cứu độ của Thiên Chúa, thì, như Thánh Phaolô đã xác tín trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người. Và Người có trước mọi loài, và mọi loài tồn tại trong Người. Người là đầu thân thể, tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng, Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất".

 

Phần con người, thành phần được cứu chuộc, nhờ đó mọi tạo vật đang rên xiết mong đợi sự tỏ hiện vinh quang của con cái Thiên Chúa (xem Roma 8:19) cũng được giải phóng khỏi thân phận hư hoại của chúng, mới có thể cùng nhau xướng lên Thánh Vịnh 99 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:

 

1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá.

2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người, ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.

3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui, hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người.

4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ.

 

 

 


Thứ Bảy

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 1, 21-23

"Người đã giao hoà anh em, để làm cho anh em nên thánh thiện và tinh tuyền".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Anh em thân mến, xưa kia anh em là những kẻ xa lạ và thù nghịch trong tư tưởng và trong hành động xấu xa. Nhưng hiện nay, Thiên Chúa đã giao hoà anh em trong xác thịt của Ðức Kitô, nhờ cái chết của Người, làm cho anh em nên thánh thiện, tinh tuyền, không có gì đáng trách trước mặt Người, miễn là anh em được xây dựng, kiên trì trong đức tin, bền vững và không lay chuyển khỏi lòng trông cậy vào Tin Mừng, mà anh em đã được nghe biết và đã được loan báo cho mọi tạo vật dưới bầu trời, là Tin Mừng mà chính tôi, Phaolô, là người phục vụ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 53, 3-4. 6 và 8

Ðáp: Kìa, Thiên Chúa phù trợ tôi (c. 6a).

Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, xin cứu sống con nhân danh Ngài, và xin sử dụng uy quyền phán quyết cho con! Ôi Thiên Chúa, xin nghe tiếng con cầu, xin lắng tai nghe lời miệng con xin. - Ðáp.

2) Kìa, Thiên Chúa phù trợ tôi, Chúa đang nâng đỡ tâm hồn tôi. Con sẽ tự nguyện hiến dâng lễ vật lên Chúa, lạy Chúa, con sẽ ca tụng danh Ngài, vì danh Ngài thiện hảo. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 110, 8ab

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi giới răn Chúa được lập ra cho tới muôn ngàn đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 1-5

"Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong một ngày Sabbat, khi Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, thì các môn đệ bứt bông lúa miến, vò xát trong tay, rồi ăn. Có mấy người biệt phái nói với các ông rằng: "Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?" Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Các ông chưa đọc điều Ðavit đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi". Và Người bảo họ rằng: "Con Người làm chủ cả ngày Sabbat".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lc 6, 1-5

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Thứ Sáu Tuần XV Thường Niên Giáo Hội đã chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu có nội dung như bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho ngày hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXII Thường Niên, về lời đối chất giữa "mấy người biệt phái" và Chúa Giêsu liên quan đến sự kiện "trong một ngày Sabbat, khi Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, thì các môn đệ bứt bông lúa miến, vò xát trong tay, rồi ăn".

 

Theo Phúc Âm của Thánh ký Luca thì đây là lần đụng độ thứ 4 xẩy ra hầu như liên tục giữa thành phần thông luật này với Chúa Giêsu, vào lúc Người mới xuất thân rao giảng và tỏ mình ra (như các bài Phúc Âm trong tuần này cho thấy). So sánh với bài Phúc Âm về cùng sự kiện này được Thánh ký Mathêu thuật lại thì có mấy chi tiết khác nhau nhưng lại là những chi tiết cần để bổ túc cho nhau như sau:

 

1- Các môn đệ sở dĩ "bứt bông lúa miến, vò xát trong tay, rồi ăn", như trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay cho biết là bởi "vì cảm thấy đói" (Mathêu 12:1), nên trong câu trả lời của mình, cũng trong Phúc Âm Thánh Mathêu, Chúa Giêsu đã viện chứng trường hợp Vua Đavít và đoàn tùy tùng của vua cũng chỉ vì "đói" mà ăn thứ bánh tiến trong đền thờ họ không được phép ăn (12:3), trong khi Thánh ký Luca không hề bao gồm chi tiết "đói" này trong câu trả lời của Chúa Giêsu. 

 

2- Thành phần biệt phái trong bài Phúc Âm của thánh ký Luca hôm nay đặt vấn đề với chính các môn đệ của Người, thành phần bị họ coi là phạm nhân "ai làm người ấy chịu" trách nhiệm: "Có mấy người biệt phái nói với các ông rằng: 'Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat'", còn trong Phúc Âm Thánh Mathêu thì vấn đề được đặt ra với chính Chúa Giêsu là Thày của các môn đệ như thể "tội qui vu trưởng" - tại sao ông là thày mà không biết dạy cho các môn đệ của ông làm điều đúng, điều ngay, điều phải chứ

 

3- Trong câu trả lời của Chúa Giêsu, cả Phúc Âm Thánh ký Luca hôm nay và Thánh ký Mathêu đều ghi lại giống nhau lời tuyên bố khẳng định của Người rằng: "Con Người làm chủ cả ngày Sabbat" (xem Mathêu 12:8; Luca 6:5). Tuy nhiên, Thánh Mathêu còn ghi lại 2 chi tiết nữa ở cuối câu trả lời của Chúa Giêsu vừa liên quan đến uy thế của Người lại vừa liên quan đến lòng nhân hậu Người mong muốn

 

3.1- Trước hết, về uy thế của Người, Thánh ký Mathêu ghi lại thế này: "Các ông chưa đọc trong sách Luật rằng ngày sa-bát, các tư tế trong Đền Thờ vi phạm luật sabat mà không mắc tội đó sao? Tôi nói cho các ông hay: ở đây còn lớn hơn Đền Thờ nữa".

 

3.2- Sau nữa, về lòng nhân hậu được Người mong muốn, Thánh ký Mathêu còn ghi thêm như sau: "Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội".

 


 

Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Giáo Hội lại chọn đọc lại bài Phúc Âm có nội dung giống nhau như vậy, như hôm qua, Thứ Năm Tuần XXII cũng thế. Phải chăng là vì Bài Phúc Âm có nội dung chính yếu tương tự như nhau này có liên hệ với Bài Đọc 1 cho năm lẻ của từng ngày? Chẳng hạn Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu trước đây có liên hệ với Bài Đọc 1 cho năm lẻ bấy giờ được trích từ Sách Xuất Hành thuộc bộ Thánh Kinh Cựu Ước, trong khi Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm qua và hôm nay có liên hệ với Bài Đọc 1 cho năm lẻ là bài đọc được trích từ Thư Thánh Phaolô thuộc Bộ Thánh Kinh Tân Ước.

 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nhẫn nại với thành phần biệt phái liên tục theo dõi và bắt bẻ Người cũng như các môn đệ của Người, thậm chí Người còn lợi dụng chính những thắc mắc và chất vấn thật cụ thể nhưng đầy ngây ngô khờ khạo của họ để mở lòng mở trí họ ra, cho họ thấy được những gì là trọng yếu và chính yếu họ cần xác tín và tuân giữ, lại là những gì mà họ chiều theo khuynh hướng lệch lạc của họ đã tỏ ra coi thường, những điều bất khả chấp đến độ chính Người cuối cùng đã phải thậm tệ khiển trách họ ở các Bài Phúc Âm của Thánh Ký Mathêu đoạn 23 trong 3 ngày đầu Tuần XXI Thường Niên vừa rồi.

 

Tuy nhiên, chính vì con người tỏ ra mù quáng trước chân lý, như được Thánh Phaolô diễn tả trong Bài Đọc 1 hôm nay: "xưa kia anh em là những kẻ xa lạ và thù nghịch trong tư tưởng và trong hành động xấu xa", mới cần đến chân lý chiếu soi cho họ, cần đến ân sủng của Thiên Chúa, một tình trạng cũng được Thánh Phaolô đề cập đến trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "Nhưng hiện nay, Thiên Chúa đã giao hoà anh em trong xác thịt của Ðức Kitô, nhờ cái chết của Người, làm cho anh em nên thánh thiện, tinh tuyền, không có gì đáng trách trước mặt Người".

 

Đúng thế, chỉ có tâm hồn nào cảm nghiệm được ân sủng cứu độ của "Thiên Chúa đã giao hoà anh em trong xác thịt của Ðức Kitô, nhờ cái chết của Người" mới có thể vang lên  những lời Thánh Vịnh 53 ở bài Đáp Ca hôm nay:


1) Ôi Thiên Chúa, xin cứu sống con nhân danh Ngài, và xin sử dụng uy quyền phán quyết cho con! Ôi Thiên Chúa, xin nghe tiếng con cầu, xin lắng tai nghe lời miệng con xin. 

2) Kìa, Thiên Chúa phù trợ tôi, Chúa đang nâng đỡ tâm hồn tôi. Con sẽ tự nguyện hiến dâng lễ vật lên Chúa, lạy Chúa, con sẽ ca tụng danh Ngài, vì danh Ngài thiện hảo.

 

 

Ngày 9/9 - Thánh Phêrô Claver, linh mục

Ngày 09/09: Thánh Phêrô Claver, linh mục

 

Vào lúc đó, việc buôn bán nô lệ đã được thịnh hành ở Mỹ Châu khoảng 100 năm, và Cartagena là trung tâm. Hàng năm, có đến mười ngàn người nô lệ từ Tây Phi Châu đổ về hải cảng này sau khi vượt biển Atlantic trong những điều kiện tệ hại và bất nhân đến nỗi có đến một phần ba đã chết trong cuộc hành trình. Mặc dù việc buôn bán nô lệ bị Ðức Giáo Hoàng Phaolô III lên án và sau này Ðức Piô IX gọi là “hành động vô cùng ghê tởm“, nhưng nó vẫn phát đạt.

Thánh Phêrô Claver sinh năm 1580 tại Verdu, nước Tây Ban Nha, trong một gia đình nghèo. Nhờ một ân nhân, ngài được đi học. Năm 16 tuổi, ngài học văn chương và triết lý tại Barcelona. Năm 22 tuổi, ngài gia nhập Dòng Tên tại Tarragona. Năm 24 tuổi, ngài được gởi đến học viện Montesion của Dòng tại thành phố Palma, trên đảo Mallorca ở Địa Trung Hải. Tại đây, Tại đây, học viên trẻ Phêrô Claver kết thân với tu huynh gác cổng là thánh Anphong Rodriguez. Vị tu huynh thánh thiện đã thấy được khao khát cháy bỏng muốn phục vụ Chúa Kitô và những người nghèo khổ nơi học viên này, nên đã khuyến khích anh đi truyền giáo ở Nam Mỹ.

Sau khi hoàn tất chương trình thần học tại Barcelona, Phêrô Claver được bề trên cho phép đi Nam Mỹ. Năm 1610, ngài đến Cartagena, thường được gọi là chợ nô lệ, miền bắc nước Colombia, để sống và chết với người da đen bị bán làm nô lệ. Sau khi thụ phong linh mục, ngài làm Năm Tập Ba, rồi khấn lần cuối với lời khấn phụ suốt đời làm nô lệ cho người da đen: “TÔI PHÊRÔ CLAVER, MÃI MÃI LÀ NÔ LỆ CỦA NHỮNG NGƯỜI ETHIÔPI”.

Cha Alfonso de Sandoval, là một linh mục dòng Tên đã hy sinh cuộc đời để phục vụ người nô lệ ở đây trước khi Cha Phêrô Claver đến để tiếp tục công việc của ngài, và cha tự nhận mình là “người nô lệ muôn đời của người da đen.” 

Ngay sau khi thuyền chở người nô lệ cập bến, Cha Phêrô Claver đi xuống khoang thuyền hôi hám để giúp đỡ những người đau yếu và những hành khách khốn cùng. Sau khi người nô lệ bị lùa ra khỏi tầu và bị xích với nhau như đàn vật trong một khu đất có hàng rào để người ta chọn lựa, Cha Claver lại lẩn quẩn trong bọn họ để cung cấp thuốc men, thực phẩm, rượu, chanh và thuốc lá. Với sự giúp đỡ của thông dịch viên, ngài nói về giáo lý căn bản và đảm bảo các anh chị em của ngài về nhân phẩm và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Trong 40 năm phục vụ, Cha Claver đã giảng dạy và rửa tội cho khoảng 300,000 người nô lệ.

Khi gửi huấn thị cho các vị thừa sai lên đường đi Châu Mỹ La Tinh, Thánh Phanxicô Borgia, vị bề trên tổng quyền thứ 3 của Dòng tên, đã viết cho họ rằng: nếu hoàn cảnh đưa đẩy họ đến việc phục vụ những người nô lệ, “thì điều duy nhất phải làm là lo giải phóng cho họ, chứ không phải là làm điều gì khác.”

Sự mù quáng của các Kitô hữu thời bấy giờ đã không cho phép ngài đòi hỏi gì hơn, như người ta có thể nói ngày nay, là cầm đầu cuộc đấu tranh cho công bằng. Điều này cũng không hơn gì sự mù quáng hiện nay của nhiều Kitô hữu đã không hiểu rằng việc phá thai mà hằng trăm hàng ngàn người đang làm là “một tội ác ghê tởm” như công đồng Vatican II tuyên bố.

Sau khi chân nhận rằng “có những lời chí trích chống lại việc chấp nhận cho có nô lệ,” Borgia ra lệnh “chỉ dùng những thổ dân tự do và tự nguyện, là những người hiểu rõ việc họ làm và tự do muốn lao động trong một thời hạn với một giá lương tương xứng mà ta sẽ thỏa thuận với họ.” Lối xử sự này là một điều chưa từng nghe thấy đối với nhiều người thời bấy giờ, vì ngay cả những người lương thiện thời ấy cũng nghĩ rằng ở Mỹ châu cần có những lao động lực lưỡng làm thay cho họ, và đó là những người Phi Châu bị cưỡng bức đem đi làm nô lệ.

Trong bối cảnh xã hội ấy, Phêrô Claver đã hào hùng khám phá thấy một vấn đề lớn lao và rất nghiêm trọng. Ngài đã tìm ra một lối giải quyết theo cách thức của Mẹ Têrexa: trở thành nô lệ hơn cả những người nô lệ để trả lại cho họ phẩm giá con người. 

Sứ vụ tông đồ của ngài không chỉ hạn hẹp trong việc săn sóc người nô lệ, ngài trở nên một người có uy quyền về luân lý, quả thật, ngài là tông đồ của Cartagena. Ngài rao giảng trong trung tâm thành phố, truyền giáo cho các thủy thủ và thương gia, và nếu có thể, ngài cố tránh né lòng quý mến của các nông gia và chủ nhân mà chỉ muốn sống trong các khu dành riêng cho người nô lệ.

Thời ấy, người Châu âu da trắng thường đến Châu Phi dùng vũ lực bắt người da đen dồn xuống tàu đem qua Châu Mỹ bán cho các chủ đồn điền. Được tin một chiếc tàu nô lệ sắp đến, ngài chờ sẵn ở cảng. Tàu vừa cập bến, ngài xuống giúp đỡ những người đau yếu, bệnh tật, thiếu ăn, thiếu mặc… Tiếp đến, ngài ở bên cạnh họ khi họ bị dồn vào những khu tập trung và bị đem bán như súc vật. Rồi khi họ đã được ông chủ nào đó mua về làm nô lệ, ngài thăm viếng, bênh vực khi họ bị đối xử bất công. Ngài kiên trì trong công việc bác ái này suốt 40 năm trời, cho đến khi ngài bệnh tật. Sau bốn năm bị bệnh khiến thánh nhân ngừng hoạt động và hầu như bị lãng quên, ngài chết ngày 8-9-1654. Ông toà của thành phố, trước đây rất khó chịu vì sự quan tâm của ngài đối với người da đen thấp hèn, đã ra lệnh chôn cất ngài với công quỹ và với nghi thức long trọng.. Ngài rửa tội cho khoảng 100 ngàn người, phần lớn trong số họ là người da đen. Ngài được gọi là Thiên sứ hòa bình của thành phố Cartagena.

Với lòng yêu mến và ao ước phục vụ Chúa Giêsu và các linh hồn, cha Phêrô Claver luôn tâm niệm bốn nguyên tắc: 1- Nỗ lực tìm kiếm và nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi sự, 2- hoàn toàn tuân phục bề trên, 3- làm mọi sự cho vinh danh Thiên Chúa hơn,  4- nỗ lực bằng mọi giá để giúp cho các linh hồn được ơn cứu độ. Cha cũng luôn tự nhắc mình và các bạn của cha rằng: “Chúng ta phải nói với họ bằng đôi tay, trước khi nói với họ bằng miệng lưỡi của chúng ta.”

Ngài được Đức Thánh Cha Lêô XIII tuyên thánh năm 1888 và được Hội Thánh biểu dương như một Phanxicô Xavier của người da đen. Ngài được đặt làm quan thầy các xứ truyền giáo cho người Châu Phi; ngài còn là quan thầy cho xứ Colombia.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ website của Dòng tên, của GP Lạng Sơn và TGP Sài Gòn