TÔNG HUẤN

 BÍ TÍCH YÊU THƯƠNG  SACRAMENTUM CARITATIS
  Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

Gửi Các Vị Giám Mục, Hàng Giáo Sĩ, Đời Tận Hiến và Giáo Dân

 về

Thánh Thể là Nguồn Mạch và là Tột Đỉnh

của Đời Sống và Sứ Vụ Giáo Hội

  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Chuyển dịch trực tiếp từ

mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20070222_sacramentum-caritatis_en.html

(các chỗ được in nghiên đậm là do người dịch tự ư muốn

làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng cần lưu ư)

 

 

Phần Một

 

 

THÁNH THỂ, MỘT MẦU NHIỆM CẦN PHẢI TIN TƯỞNG

 

Thánh Thể và Các Bí Tích

 

Tính chất bí tích của Giáo Hội

 

16.       Công Đồng Chung Vaticanô II đă nhắc lại rằng “tất cả mọi bí tích, và thật sự là tất cả mọi thừa tác vụ của Giáo Hội và những hoạt động tông đồ, đều liên kết với Thánh Thể và hướng về Thánh Thể. V́ nơi Thánh Thể cực thánh này chất chứa tất cả mọi phong phú thiêng liêng của Giáo Hội, tức là chính Chúa Kitô là Sự Vượt Qua của chúng ta và là bánh hằng sống của chúng ta, Đấng ban sự sống cho nhân loại nơi xác thịt của Người – một xác thịt bởi Thánh Linh được ban cho sự sống và đang ban sự sống. Bởi thế những con người nam nữ được mời gọi và dẫn đến chỗ, hiệp với Chúa Kitô, hiến dâng bản thân ḿnh, công việc của ḿnh cùng tất cả mọi tạo vật” (41). Mối liên hệ chặt chẽ của Thánh Thể với các bí tích khác và đời sống Kitô hữu có thể được hiểu một cách trọn vẹn nhất khi chúng ta chiêm ngưỡng mầu nhiệm của chính Giáo Hội như là một bí tích (42). Về vấn đề này Công Đồng đă nói rằng “Trong Chúa Kitô, Giáo Hội là một bí tích – một dấu hiệu và dụng cụ – của mối hiệp thông với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại” (43). Theo lời Thánh Cyprian, như “một dân tộc được làm nên bởi mối hiệp nhất Cha, Con và Thánh Thần” (44), Giáo Hội là bí tích của mối hiệp thông Ba Ngôi.

 

Sự kiện Giáo Hội là “bí tích cứu độ phổ quát” (45) cho chúng ta thấy cách thức làm thế nào công cuộc về bí tích là những ǵ cuối cùng cho thấy được đường lối Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất, nhờ Thần Linh, đến với đời sống của chúng ta nơi tất cả những ǵ là chuyên biệt của cuộc đời này. Giáo Hội tiếp nhận và đồng thời cũng thể hiện những ǵ chính Giáo Hội là ở nơi bảy bí tích, những bí tích nhờ đó ân sủng của Thiên Chúa cụ thể ảnh hưởng đến đời sống của tín hữu, để tất cả cuộc sống của họ được Chúa Kitô cứu chuộc có thể trở thành một tác động thờ phượng đẹp ḷng Thiên Chúa. Từ quan điểm này, ở đây tôi muốn chú trọng tới một số yếu tố được các vị Nghị Phụ nêu lên có thể giúp chúng ta nắm bắt được mối liên hệ của mỗi một bí tích với mầu nhiệm Thánh Thể.

 

I. Thánh Thể và việc gia nhập Kitô giáo

 

Thánh Thể viên trọn việc gia nhập Kitô giáo

 

17.       Nếu Thánh Thể thực sự là nguồn mạch và là tột đỉnh của sự sống và sứ vụ của Giáo Hội, th́ tiến tŕnh gia nhập Kitô giáo cần phải liên lỉ hướng về việc đón nhận bí tích này. Như các Nghị Phụ nói, chúng ta cần tự hỏi ḿnh rằng các cộng đồng Kitô hữu của chúng ta có nhận thấy đầy đủ mối liên hệ chặt chẽ giữa Phép Rửa, Thêm Sức và Thánh Thể chăng (46). Không bao giờ được quên rằng việc chúng ta lănh nhận Phép Rửa và Thêm Sức là việc hướng tới Thánh Thể. Theo đó, việc thực hành mục vụ của chúng ta cần phải phản ảnh một ư thức duy nhất hơn nữa về tiến tŕnh gia nhập Kitô giáo này. Bí tích Thánh Tẩy, nhờ đó chúng ta được nên giống Chúa Kitô (47), được tháp nhập vào Giáo Hội và trở nên con cái Thiên Chúa, là một cái đ̣n bẩy cho tất cả mọi bí tích. Bí tích này làm cho chúng ta thuộc về một Thân Thể duy nhất của Chúa Kitô (cf. 1Cor 12:13), một dân tư tế. Tuy nhiên, việc chúng ta tham dự vào hy tế Thánh Thể là những ǵ làm hoàn hảo trong chúng ta những tặng ân được ban cho chúng ta nơi Phép Rửa. Những tặng ân của Thần Linh được ban phát là để xây dựng Thân Ḿnh của Chúa Kitô (1Cor 12) cũng như để làm chứng hơn nữa cho Phúc Âm trên thế giới (48). Bởi vậy, Thánh Thể làm cho việc gia nhập Kitô giáo được nên trọn và trở thành tâm điểm và đích điểm của tất cả đời sống bí tích (49).

 

Thứ tự của các bí tích gia nhập Kitô giáo

 

18.       Về vấn đề này, cần phải chú trọng tới thứ tự của các bí tích nhập môn. Có những truyền thống khác nhau hiện hữu trong Giáo Hội. Có một khác biệt rơ ràng giữa, một đàng là những tập tục của Đông phương (50) với việc thực hành của Tây phương liên quan tới việc gia nhập của thành phần người lớn (51), và một đàng, phương thức được thích ứng cho trường hợp trẻ em (52). Tuy nhiên, những khác biệt này không phải là những ǵ thích đáng thuộc lănh vực tín điều mà chỉ có tính cách mục vụ. Trên thực tế cần phải xem việc thực hành nào hay hơn giúp tín hữu có thể đặt bí tích Thánh Thể ở tâm điểm, như là đích điểm của toàn thể tiến tŕnh gia nhập này. Trong việc hợp tác chặt chẽ với những văn pḥng có thẩm quyền của Ṭa Thánh Rôma, các Hội Đồng Giám Mục cần phải xem xét tính chất hiệu năng của các đường lồi hiện tại cho vấn đề gia nhập Kitô giáo, nhờ đó tín hữu có thể được giúp đỡ để vừa trưởng thành nhờ được hướng dẫn trong cộng đồng vừa qui đời sống của ḿnh theo chiều hướng Thánh Thể thực sự, để họ có thể cống hiến lư do về niềm hy vọng nơi họ một cách xứng hợp với thời đại của chúng ta (cf. 1Pet 3:15).

 

Việc gia nhập, cộng đồng Giáo Hội và gia đ́nh

 

19.       Cần phải nhớ rằng toàn thể việc gia nhập Kitô giáo là một tiến tŕnh hoán cải được thực hiện theo ơn Chúa giúp và liên lỉ qui về cộng đồng Giáo Hội, cả khi một người lớn t́m kiếm việc gia nhập Giáo Hội, như xẩy ra ở những nơi mới được truyền bá phúc âm hóa và ở những vùng bị tục hóa, lẫn khi cha mẹ muốn con cái ḿnh lănh nhận các bí tích. Về vấn đề này, tôi muốn đặc biệt chú ư tới mối liên hệ giữa việc gia nhập Kitô giáo và gia đ́nh. Trong hoạt động mục vụ, bao giờ cũng cần phải làm cho các gia đ́nh Kitô hữu tham dự vào tiến tŕnh gia nhập này. Việc lănh nhận Phép Rửa, Thêm Sức và Rước Lễ Lần Đầu là những giây phút chính yếu chẳng những đối với cá nhận lănh nhận các bí tích này mà c̣n đối với toàn thể gia đ́nh nữa, thành phần cần phải được nâng đỡ ở vai tṛ giáo dục của ḿnh bởi những yếu tố khác nhau của cộng đồng giáo hội (53). Ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc Rước Lễ Lần Đầu. Đối với nhiều tín hữu th́ ngày này tiếp tục đáng nhớ, cho dù một cách sơ đẳng, như là giây phút họ mới hiểu được tầm quan trọng của một cuộc hội ngộ riêng tư với Chúa Giêsu. Những chương tŕnh mục vụ giáo xứ cần phải làm cho giây phút này trở thành giây phút quan trọng nhất.

 

II. Thánh Thể và bí tích ḥa giải 

 

Mối liên hệ nội tại của hai bí tích này  

 

20.       Các Nghị Phụ đă có lư khi nói rằng t́nh yêu đối với Thánh Thể làm gia tăng cảm nhận về bí tích Ḥa Giải (54). V́ mối liên hệ giữa hai bí tích này, giáo lư thực sự về ư nghĩa của Thánh Thể cần phải bao gồm cả việc thực hiện thống hối (cf. 1 Cor 11:27-29). Chúng ta biết rằng tín hữu được bủa vây bởi một thứ văn hóa có khuynh hướng loại trừ đi cảm quan tội lỗi (55) và cổ vơ một đường lối hời hợt trong việc coi thường nhu cầu sống trong t́nh trạng ân sủng để tiến đến với mối hiệp thông về bí tích một cách xứng đáng (56). T́nh trạng mấy ư thức tội lỗi bao giờ cũng bao gồm một thứ thiển cận nào đó trong việc hiểu biết về t́nh yêu Thiên Chúa. Việc tŕnh bày những yếu tố trong nghi thức Thánh Lễ thể hiện việc ư thức tội lỗi của ḿnh, đồng thời ư thức được t́nh thương của Thiên Chúa, có thể là những ǵ hữu ích nhất cho tín hữu (57). Hơn nữa, mối liên hệ giữa Thánh Thể và bí tích Ḥa Giải nhắc nhở chúng ta rằng tội lỗi không bao giờ chỉ là một sự vụ riêng tư; nó bao giờ cũng tác hại đến mối hiệp thông với Giáo Hội là những ǵ chúng ta được hưởng khi lănh nhận Phép Rửa. Đó là lư do Bí Tích Ḥa Giải, như các Nghị Phụ nói, là laboriosus quidam baptismus (58); bởi vậy các vị nhấn mạnh rằng thành quả của tiến tŕnh hoán cải cũng là việc phục hồi toàn vẹn mối hiệp thông với Giáo Hội là những ǵ được thể hiện nơi việc trở về cùng Thánh Thể (59).  

 

Một số quan tâm về mục vụ

 

21.       Thượng Nghị này cũng nhắc nhở rằng các vị Giám Mục có phận sự về mục vụ trong việc phát động trong Giáo Phận của ḿnh giáo lư vững chắc về ḷng hoán cải xuất phát từ Thánh Thể, và khuyến khích việc thường xuyên xưng tội nơi tín hữu. Tất cả mọi vị linh mục cần phải quảng đại dấn thân và thi hành việc ban bí tích Ḥa Giải (60). Về vấn đề này, các ṭa giải tội ở các nhà thờ cần phải là những biểu hiện hữu h́nh minh bạch cho thấy tầm quan trọng của bí tích này. Tôi xin các vị mục tử hăy khôn ngoan tỉnh táo lưu ư tới việc cử hành bí tích Ḥa Giải, và giới hạn việc xá giải chung chỉ cho những trường hợp được phép (61), v́ việc tha tội cho từng cá nhân là h́nh thức duy nhất được ấn định cho việc sử dụng b́nh thường này (62). V́ nhu cầu tái nhận thức việc thứ tha tội lỗi theo bí tích, hết mọi Giáo Phận cần phải có một Kinh Sĩ xá giải (63). Sau hết, việc có được những ân xá một cách quân b́nh và lành mạnh, hoặc cho bản thân hay cho người chết, cũng lợi ích đối với việc cảm nhận mới mẻ về mối liên hệ giữa bí tích Thánh Thể và Ḥa Giải. Nhờ ân xá tín hữu được “Thiên Chúa tha cho h́nh phạt tạm thời gây ra bởi những tội đă được thứ lỗi” (64). Việc sử dụng các ân xá giúp chúng ta hiểu rằng nhờ nguyên nỗ lực của ḿnh, chúng ta không thể đền bù những sai lầm chúng ta vấp phạm, và tội lỗi của từng người là những ǵ tác hại tới toàn thể cộng đồng. Ngoài ra, việc lănh nhận các ân xá, một việc chẳng những liên quan tới tín lư về những công nghiệp vô cùng của Chúa Kitô, mà c̣n đến tín lư các thánh cùng thông công nữa, nhắc nhở chúng ta rằng “chúng ta liên kết với nhau trong Chúa Kitô chặt chẽ biết bao… và sự sống siêu nhiên của mỗi một người có thể giúp người khác ra sao” (65). V́ những điều kiện để có được một ân xá bao gồm việc đi xưng tội và rước lễ, nên việc làm này có thể hiệu nghiệm bảo tŕ tín hữu trong cuộc hành tŕnh hoán cải và trong việc tái nhận thức cái tâm điểm của Thánh Thể trong đời sống Kitô hữu.

 

III. Thánh Thể và việc xức dầu cho bệnh nhân  

 

22.       Chúa Giêsu không chỉ sai môn đệ của ḿnh đi để chữa lành thành phần bệnh nhân (cf. Mt 10:8; Lk 9:2, 10:9); Người cũng thiết lập một bí tích đặc biệt cho họ nữa, đó là Xức Dầu Bệnh Nhân (66). Thư Thánh Giacôbê đă chứng thực việc hiện hữu của dấu hiệu về bí tích này trong cộng đồng Kitô hữu sơ khai (cf. 5:14-16). Nếu Thánh Thể chứng tỏ cho thấy những khổ đau và cái chết của Chúa Kitô đă được biến thành t́nh yêu ra sao th́ về phần ḿnh, việc Xức Dầu Bệnh Nhân liên kết bệnh nhân với việc tự hiến của Chúa Kitô v́ phần rỗi của tất cả mọi người, nhờ đó, cả họ nữa, trong mầu nhiệm các thánh cùng thông công, có thể tham dự vào việc cứu chuộc thế giới. Mối liên hệ giữa hai bí tích này trở nên sáng tỏ nơi những trường hợp bị bệnh trầm trọng: “Ngoài việc Xức Dầu Bệnh Nhân, Giáo Hội cống hiến cho những ai sắp ra khỏi đời này Thánh Thể như của ăn đường” (67). Trong cuộc hành tŕnh về với Cha th́ việc hiệp thông với Ḿnh và Máu của Chúa Kitô như là một hạt giống của sự sống trường sinh và của quyền năng phục sinh: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi th́ có sự sống đời đời và Tôi sẽ làm cho họ sống lại vào ngày sau hết” (Jn 6:54). V́ của ăn đường ban cho bệnh nhân một thoáng hiện của trọn vẹn Mầu Nhiệm Vượt Qua mà việc ban phát của ăn ấy cần phải được sẵn sàng (68). Việc chuyên chú chăm sóc mục vụ được tỏ ra cho những ai yếu bệnh mang lại lợi ích thiêng liêng cao cả cho toàn thể cộng đồng, v́ bất cứ những ǵ chúng ta làm cho một người hèn mọn nhất trong anh chị em của chúng ta là chúng ta làm cho chính Chúa Giêsu (cf. Mt 25:40).

 

IV. Thánh Thể và Bí Tích Truyền Chức Thánh

 

In persona Christi capitis – Nhân danh Chúa Kitô là đầu

 

23.      Mối liện hệ nội tại giữa Thánh Thể và bí tích Truyền Chức Thánh hiển nhiên được xuất phát từ những lời Chúa Giêsu nói ở Căn Thượng Lầu: “Các con hăy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19). Vào đêm trước khi chịu chết, Chúa Giêsu đă thiết lập Thánh Thể và đồng thời thiết lập cả chức linh mục Tân Ước. Người là linh mục, là tế vật và là bàn thờ: vị trung gian môi giới giữa Thiên Chúa Cha và dân của Người (cf Heb 5:5-10), tế vật đền tội (cf. 1Jn 2:2,4:10), Đấng đă hiến ḿnh trên bàn thờ Thập Giá. Không ai có thể nói “này là ḿnh Thày” và “này là chén máu Thày” trừ phi nhân danh Chúa Kitô và đại diện Chúa Kitô, vị thượng tế duy nhất của Giao ước mới và vĩnh cửu (cf Heb 8:9). Những cuộc họp trước kia của các vị Giám Mục Thượng Nghị đă cứu xét tới vấn đề về linh mục thánh chức, liên quan tới cả bản chất của thừa tác vụ này (69) và việc huấn luyện thành phần ứng sinh (70). Ở đây, theo chiều hướng được bàn luận trong cuộc Thượng Nghị này, tôi thấy cần phải nhắc lại những điểm quan trọng về mối liên hệ giữa bí tích Thánh Thể và Truyền Chức Thánh. Trước hết, chúng ta cần nhấn mạnh một lần nữa rằng mối liên hệ giữa Bí Tích Truyền Chức Thánh và Thánh Thể được thấy hầu như tỏ tường nơi Thánh Lễ, khi vị Giám Mục hay linh mục chủ sự thay cho Chúa Kitô là Đầu.

 

Giáo Hội dạy rằng việc chịu chức linh mục là một điều kiện bất khả thiếu cho việc cử hành Thánh Thể hiệu thành (71). Thật vậy, “trong việc phục vụ Giáo Hội của vị thừa tác viên thánh chức, chính Chúa Kitô là Đấng hiện diện với Giáo Hội của Người như Đầu của Thân Ḿnh, như Mục Tử của đàn chiên, như Thượng Tế của hy tế cứu chuộc” (72). Vị thừa tác viên thánh chức thật sự cũng tác hành “nhân danh toàn thể Giáo Hội, khi dâng lên Thiên Chúa lời nguyện cầu của Giáo Hội, nhất là khi dâng hiến hy tế Thánh Thể” (73). Bởi thế, các vị linh mục cần phải ư thức về sự kiện là theo thừa tác vụ của ḿnh các vị không bao giờ được đặt ḿnh hay những ư nghĩ riêng tư của ḿnh lên trên hết mà là Chúa Giêsu Kitô. Bất cứ nỗ lực nào muốn làm cho ḿnh trở thành tâm điểm của hành động phụng vụ đều phản lại với chính căn tính là linh mục của ḿnh. Vị linh mục trên hết là một người tôi tớ của kẻ khác, và ngài cần phải tiếp tục hoạt động để trở thành một dấu chỉ dẫn đến cùng Chúa Kitô, một dụng cụ dễ dạy trong bàn tay Chúa. Điều này được tỏ hiện đặc biệt nơi sự khiêm tốn của ngài trong khi hướng dẫn cộng đồng phụng vụ, tuân theo nghi thức, liên kết ḷng trí của ḿnh với nghi thức, và tránh đi bất cứ những ǵ có thể gây ấn tượng về một thứ lệch lạc đề cao con người riêng của ngài. Tôi khuyến khích hàng giáo phẩm hăy luôn luôn coi thừa tác vụ Thánh Thể của ḿnh như một việc phục vụ khiêm tốn đối với Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Chức linh mục, như Thánh Âu Quốc Tinh nói, là amoris officium – sứ vụ yêu thương (74), nó là sứ vụ của vị mục tử tốt lành, vị đă hiến ḿnh cho chiên (cf Jn 10:14-15).

 

Thánh Thể và việc độc thân linh mục

 

24.       Các Nghị Phụ của Thượng Nghị muốn nhấn mạnh rằng chức linh mục thừa tác, qua việc thụ phong, được kêu gọi hoàn toàn nên giống Chúa Kitô. Cho dù vẫn tôn trọng việc thực hành và truyền thống khác của các Giáo Hội Đông phương, cần phải tái khẳng định ư nghĩa của vấn đề độc thân linh mục, một việc độc thân thực sự được coi là một kho tàng vô giá, và cũng được xác nhận bởi việc Giáo Hội Đông phương chọn các vị Giám Mục chỉ từ hàng ngũ thành phần độc thân. Những Giáo Hội này cũng hết sức trân quí quyết định của nhiều linh mục muốn theo đuổi đời sống độc thân. Việc chọn lựa này về phần các linh mục là những ǵ bày tỏ một cách đặc biệt việc hiến thân làm cho họ nên giống Chúa Kitô và việc họ hoàn toàn dấn thân cho Vương Quốc của Thiên Chúa (75). Sự kiện chính Chúa Kitô, vị linh mục đời đời, đă sống sứ vụ của ḿnh thậm chí cho tới khi hy sinh trên Thập Giá trong t́nh trạng trinh khiết là những ǵ làm nên một điểm tựa vững chắc để hiểu được ư nghĩa của truyền thống này nơi Giáo Hội Latinh. Việc hiểu biết cuộc sống độc thân linh mục theo thuần nghĩa về phần vụ mà thôi chưa đủ. Sống độc thân thực sự là một đường lối đặc biệt để làm cho ḿnh nên giống lối sống của Chúa Kitô. Việc chọn lựa này trước hết và trên hết có một ư nghĩa phối ngẫu; nó là một thứ đồng hóa sâu xa với con tim của Chúa Kitô Hôn Phu, Đấng hiến sự sống ḿnh cho Hôn Thê của ḿnh. Tiếp tục với truyền thống cao cả này của Giáo Hội, với Công Đồng Chung Vaticanô II (76) và với các vị tiền nhiệm trong vai tṛ làm giáo hoàng (77), tôi tái xác nhận vẻ đẹp và tầm quan trọng của một cuộc đời linh mục sống độc thân như dấu hiệu bày tỏ việc hoàn toàn và chỉ nguyên dấn thân cho Chúa Kitô, cho Giáo Hội và cho Vương Quốc của Thiên Chúa, và v́ thế tôi khẳng định rằng nó vẫn là điều buộc phải giữ theo truyền thống Latinh. Cuộc đời độc thân linh mục sống một cách trưởng thành, hân hoan và dấn thân là một phúc lành vĩ đại cho Giáo Hội và cho chính xă hội.

 

T́nh trạng thiếu hụt giáo sĩ và việc chăm sóc mục vụ cho các ơn gọi

 

25.       Theo chiều hướng của mối liên hệ giữa bí tích Truyền Chức Thánh và Thánh Thể, Thượng Nghị này đă cứu xét tới trường hợp khó khăn diễn ra ở các Giáo Phận khác nhau đang phải đương đầu với t́nh trạng thiếu linh mục. T́nh trạng này xẩy ra chẳng những ở một vài miền mới được truyền bá phúc âm hóa mà c̣n ở nhiều xứ sở có một truyền thống Kitô giáo lâu đời. Thật sự là việc phân phối đồng đều hơn hàng giáo sĩ sẽ giúp được giải quyết vấn đề này. Cần phải thực hiện những nỗ lực phấn khích một tầm ư thức hơn nữa về t́nh trạng này ở mọi cấp độ. Các vị Giám Mục cần phải bao gồm những Hội Ḍng Sống Đời Tận Hiến và những nhóm mới trong giáo hội vào những nhu cầu mục vụ của ḿnh, đồng thời tỏ ra tôn trọng những đặc sủng chuyên biệt của họ, và các vị cần phải mời gọi hàng giáo sĩ trở nên cởi mở hơn trong việc phục vụ Giáo Hội bất cứ nơi nào cần, cho dù cần phải hy sinh (78). Thượng Nghị này cũng bàn đến những sáng kiến về mục vụ nhắm đến chỗ cổ vơ, nhất là trong giới trẻ, một thái độ cởi mở nội tâm đối với ơn gọi linh mục. T́nh trạng này không thể nào được giải quyết bởi nguyên những quyết định cụ thể. Ở bất cứ trường hợp nào, các vị Giám Mục không được phản ứng đối với những quan tâm thực sự và có thể hiểu được về t́nh trạng thiếu linh mục bằng việc không thi hành đầy đủ vấn đề nhận thức về ơn gọi, hay bằng việc nhận huấn luyện chủng sinh và truyền chức cho các ứng sinh thiếu những phẩm chất cần thiết cho thừa tác vụ linh mục (79). Một giáo sĩ thiếu huấn luyện, được thụ phong thiếu nhận thức cần thiết, sẽ không dễ có thể cống hiến một chứng từ có thể tác động nơi người khác ước muốn quảng đại đáp ứng lời mời gọi của Chúa Kitô. Việc chăm sóc mục vụ cho các ơn gọi cần phải bao gồm cả cộng đồng Kitô hữu ở hết mọi lănh vực trong đời sống của cộng đồng này (80). Hiển nhiên là hoạt động mục vụ này ở tất cả mọi tầm cấp cũng bao gồm cả việc thăm ḍ vấn đề với gia đ́nh, những gia đ́nh thường tỏ ra lạnh lùng hay thậm chí c̣n chống lại ư nghĩ về ơn gọi làm linh mục. Các gia đ́nh cần phải quảng đại chấp nhận tặng ân sự sống và nuôi dưỡng con cái ḿnh hướng về việc làm theo ư muốn của Thiên Chúa. Tắt một lời, họ phải can đảm đề ra trước giới trẻ việc quyết định trọn vẹn theo Chúa Kitô, cho họ thấy quyết định này là những ǵ hết sức đáng làm biết bao.

 

Niềm tri ân và hy vọng

 

26.       Sau hết, chúng ta cần có một đức tin hơn bao giờ hết và hy vọng vào việc quan pḥng của Thiên Chúa. Cho dù có thiếu linh mục ở một số miền, chúng ta cũng không bao giờ được mất niềm tin tưởng rằng Chúa Kitô tiếp tục tác động những nam nhân từ bỏ mọi sự để dấn thân trọn vẹn trong việc cử hành các mầu nhiệm thánh, rao giảng Phúc Âm và phục vụ đàn chiên. Về vấn đề này, tôi muốn bày tỏ ḷng biết ơn của toàn thể Giáo Hội với tất cả những vị Giám Mục và linh mục đang thi hành các sứ vụ hiện nay của ḿnh một cách trung thành, tha thiết và nhiệt thành. Dĩ nhiên ḷng biết ơn của Giáo Hội cũng được gửi tới các phó tế, những người được đặt tay “không phải để lănh chức linh mục mà là để phục vụ” (81). Như Thượng Nghị đề nghị, tôi xin đặc biệt cám ơn những linh mục Fidei Donum đang trung thành và quảng đại hoạt động để xây dựng cộng đồng này bằng việc rao truyền lời Chúa và bằng việc bẻ Bánh Sự Sống, dồn tất cả nỗ lực của ḿnh vào việc phục vụ sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội (82) Chúng ta hăy cám ơn Chúa về tất cả những vị linh mục đă chịu khổ thậm chí tới hy sinh mạng sống ḿnh để phụng sự Chúa Kitô. Gương sáng sống động của các vị cho thấy ư nghĩa của những ǵ là một vị linh mục cho tới tận cùng. Gương sáng của họ là một chứng từ cảm kích gây hứng khởi nhiều giới trẻ theo Chúa Kitô và tiêu hao cuộc sống ḿnh cho kẻ khác, nhờ đó khám phá ra sự sống đích thực.

 

V. Thánh Thể và hôn phối 

 

Thánh Thể, một bí tích phối ngẫu 

 

27.       Thánh Thể, là bí tích yêu thương, có một liên hệ đặc biệt với t́nh yêu nam nữ trong đời sống hôn nhân. Cần phải hiểu biết sâu xa hơn về mối liên hệ ấy vào lúc này đây (83). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thường nói đến đặc tính phối ngẫu này của Thánh thể và mối liên hệ đặc biệt của Thánh Thể với bí tích Hôn Phối: “Thánh Thể là bí tích của ơn cứu chuộc chúng ta. Thánh Thể là bí tích của vị Hôn Phu và của vị Hôn Thê” (84). Ngoài ra, “toàn thể cuộc sống Kitô hữu ghi dấu của t́nh yêu phu thê giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Ngay Phép Rửa là cửa ngơ tiến vào dân Chúa đă là một mầu nhiệm phu thê rồi; có thể nói phép rửa là bể phu thê xẩy ra trước bữa tiệc cưới Thánh Thể” (85). Thánh Thể kiên cường một cách khôn lường mối hiệp nhất bất khả phân ly và t́nh yêu của hết mọi cuộc hôn nhân. Nhờ quyền năng của bí tích này, mối liên hệ hôn nhân được liên kết một cách nội tại với mối hiệp nhất Thánh Thể của Chúa Kitô Hôn Phu với Hôn Thê Giáo Hội (cf. Eph 5:31-32). Việc ưng thuận nhau được vợ chồng trao đổi trong Chúa Kitô, một ưng thuận thiết lập họ thành một cộng đồng của sự sống và yêu thương, cũng có cả chiều kích Thánh Thể. Thật vậy, theo thần học của Thánh Phaolô, t́nh yêu phu thê là một dấu hiệu bí tích của t́nh yêu Chúa Kitô đối với Giáo Hội của Người, một t́nh yêu lên đến tột đỉnh nơi Thập Giá, một thể hiện của việc Người “kết hôn” với nhân loại và đồng thời là nguồn gốc và là tâm điểm của Thánh Thể. Đó là lư do Giáo Hội bày tỏ mối thân thiết thiêng liêng đặc biệt của ḿnh với tất cả những ai xây dựng gia đ́nh của ḿnh trên bí tích Hôn Phối (86). Gia đ́nh – Giáo Hội tại gia (87) – là lănh vực cơ bản của đời sống Giáo Hội, nhất là v́ vai tṛ quyết liệt của nó trong việc giáo dục Kitô giáo cho thành phần trẻ em (88). Theo chiều hướng ấy, Thượng Nghị này cũng kêu gọi hăy nhận thức sứ vụ đặc biệt của nữ giới trong gia đ́nh cũng như trong xă hội, một sứ vụ cần phải được bênh vực, bảo vệ và cổ vơ (89). Hôn nhân và vai tṛ làm mẹ là những ǵ tiêu biểu cho những thực tại thiết yếu không bao giờ được chê bai phỉ báng.  

 

Thánh Thể và tính chất duy nhất của hôn nhân 

 

28.       Theo ư nghĩa của mối liên hệ nội tại này giữa hôn nhân, gia đ́nh và Thánh Thể, chúng ta có thể hướng tới một số rắc rối trục trặc về mục vụ. Mối quan hệ bất khả phân ly, duy nhất và trung thành liên kết Chúa Kitô và Giáo Hội, mối quan hệ được thể hiện một cách bí tích nơi Thánh Thể, là những ǵ tương hợp với sự kiện căn bản về nhân loại học đó là người nam được ấn định vĩnh viễn liên kết với một người nữ và ngược lại (cf. Gen 2:24, Mt 19:5). Ư thức như thế, Thượng Nghị Giám Mục giải quyết vấn đề của việc thực hành mục vụ liên quan tới thành phần đến với Phúc Âm từ những nền văn hóa theo tập tục đa thê. Những ai sống trong t́nh trạng này, những người cởi mở với niềm tin Kitô giáo, cần phải được trợ giúp để hội nhập dự án sự sống của ḿnh với cái mới mẻ trọn vẹn của Chúa Kitô. Trong thời gian học giáo lư tân ṭng, Chúa Kitô gặp gỡ họ trong những hoàn cảnh đặc biệt của họ và kêu gọi họ theo đuổi trọn vẹn sự thật của t́nh yêu thương, thực hiện bất cứ hy sinh cần thiết nào để tiến tới mối hiệp thông trọn hảo của Giáo Hội. Giáo Hội đồng hành với họ bằng việc chăm sóc về mục vụ dịu dàng nhưng cứng rắn (90), trên hết, bằng việc tỏ cho họ thứ ánh sáng được chiếu tỏa bởi các mầu nhiệm Kitô giáo trên bản tính và những cảm t́nh của con người. 

 

Thánh Thể và tính chất bất khả phân ly của hôn nhân 

 

29.       Nếu Thánh Thể thể hiện bản chất bất khả văn hồi của t́nh yêu Thiên Chúa nơi Chúa Kitô đối với Giáo Hội của Người, th́ chúng ta có thể hiểu được tại sao Thánh Thể bao hàm, liên quan tới bí tích Hôn Phối, tính chất bất khả phân ly được tất cả mọi t́nh yêu chân thực không thể nào không khát vọng (91). Thượng Nghị này có lư để tỏ mối quan tâm mục vụ đối với những trường hợp đau thương được trải qua bởi một số tín hữu, thành phần sau khi cử hành bí tích Hôn Phối đă ly dị và tái hôn. Điều này cho thấy cái trục trặc phức tạp và rắc rối về mục vụ, một thứ tai họa thực sự đối với xă hội đương đại, và là tai họa đang càng ngày càng ảnh hưởng tới cộng đồng Công giáo nữa. Các vị chủ chăn của Giáo Hội, v́ ḷng yêu chuộng chân lư, buộc phải thận trọng nhận thức những trường hợp khác nhau, để có thể hướng dẫn thiêng liêng một cách thích đáng cho thành phần tín hữu trong cuộc (92). Thượng Nghị Giám Mục này đă khẳng định việc thực hành của Giáo Hội, căn cứ vào Thánh kinh (cf. Mk 10:2-12), không cho thành phần ly dị rồi tái hôn lănh nhận các bí tích, v́ t́nh trạng của họ và điều kiện sống của họ khách quan nghịch lại với mối hiệp nhất yêu thương của Chúa Kitô và Giáo Hội được biểu hiệu và hiện thực nơi Thánh Thể. Tuy nhiên, thành phần ly dị rồi tái hôn này vẫn tiếp tục thuộc về Giáo Hội, một Giáo Hội đồng hành với họ bằng mối quan tâm đặc biệt và khuyến khích họ sống hoàn toàn bao nhiêu có thể cuộc đời Kitô hữu qua việc thường xuyên tham dự Thánh Lễ, cho dù không được hiệp lễ, lắng nghe lời Chúa, tôn thờ Thánh Thể, nguyện cầu, tham gia sinh hoạt của cộng đồng, thành tâm đối thoại với một vị linh mục hay cha linh hướng, dấn thân sống bác ái, thực hiện các việc thống hối, và chuyên chăm giáo dục con cái của ḿnh.  

 

Khi có lư hồ nghi về tính chất hiệu thành của hôn nhân theo bí tích trước đó, th́ cần phải thi hành việc điều tra cần thiết để t́m hiểu xem những hồ nghi ấy có ǵ là vững chắc hay chăng. Bởi thế, cần phải bảo đảm, một khi hoàn toàn tôn trọng giáo luật (93), sự hiện diện của các ṭa án thuộc Giáo Hội địa phương, tính chất mục vụ của những ṭa án ấy, và phần vụ sửa chữa và nhắc nhở của những ṭa này (94). Mỗi Giáo Phận cần phải có đủ số người được trang bị cần thiết, nhờ đó các ṭa án của Giáo Hội có thể hoạt động một cách mau mắn. Tôi xin lập lại rằng “thật là một trọng trách trong việc mang hoạt động về cơ cấu của Giáo Hội này nơi các ṭa án của Giáo Hội gần gũi hơn nữa với tín hữu” (95). Đồng thời, không được hiểu việc chăm sóc mục vụ như thể là một cái ǵ đó xung khắc với luật lệ. Trái lại, người ta cần phải bắt đầu bằng việc cho rằng điểm nồng cốt cho việc gặp gỡ giữa lề luật và việc chăm sóc mục vụ là ḷng yêu mến sự thật: sự thật không bao giờ là một cái ǵ đó hoàn toàn trừu tượng, mà là “một phần của cuộc hành tŕnh của nhân loại và Kitô hữu đối với hết mọi phần tử trong tín hữu” (96). Sau hết, khi việc hủy hôn không được ban bố và những hoàn cảnh khách quan làm cho việc thôi ăn ở vợ chồng không thể thực hiện nổi, th́ Giáo Hội khuyến khích những phần tử tín hữu này hăy dấn thân sống mối liên hệ của ḿnh một cách trung thành theo những đ̣i hỏi của luật Chúa, như là bạn hữu của nhau, như anh chị em với nhau, nhờ đó, họ mới có thể trở về với bàn tiệc Thánh Thể, lo tuân giữ việc thực hành được ấn định và chuẩn nhận bởi Giáo Hội về vấn đề này. Đường lối ấy cần phải được nâng đỡ bởi các vị mục tử và bởi những khởi động thích đáng của Giáo Hội mới trở nên khả dĩ và thành công, bằng không những mối liên hệ ấy không được chúc phúc, gây lẫn lộn nơi tín hữu về giá trị của hôn nhân (97).

 

Trước bối cảnh phức tạp về văn hóa Giáo Hội ngày nay gặp phải ở nhiều xứ sở, Thượng Nghị cũng khuyên hăy tối đa chuyên chú đến việc mục vụ huấn luyện cho các cặp dự bị hôn nhân và việc giúp họ nắm vững được các niềm xác tín của họ về những đ̣i buộc cần thiết cho vấn đề hiệu thành của bí tích Hôn Phối. Việc nghiêm cẩn nhận thức về vấn đề này sẽ giúp vào việc tránh được những trường hợp đi tới những quyết định hấp tấp bốc đồng hay những lư do nông nổi khiến hai con người trẻ lănh lấy những trách nhiệm mà họ bấy giờ không có khả năng tôn trọng (98). Thiện ích mà Giáo Hội và toàn thể xă hội mong đợi nơi hôn nhân cũng như nơi gia đ́nh được căn cứ trên hôn nhân là những ǵ cao cả tới nỗi cần phải thực hiện việc hoàn toàn dấn thân về mục vụ ở lănh vực này. Hôn nhân và gia đ́nh là những cơ cấu cần phải được cổ vơ và bênh vực cho khỏi hết mọi thứ tŕnh bày sai lạc có thể về bản chất thực sự của chúng, v́ bất cứ những ǵ làm tổn thương tới chúng là gây thương tổn đến chính xă hội.