MẦU NHIỆM NGÔI HIỆP XẨY RA NƠI CUNG LÒNG TRINH NỮ MARIA

 

 

T

hế mà giây phút “Tuyệt Đỉnh Thời Gian” ấy, giây phút của Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp ấy, lại xẩy ra nơi cung lòng của “một người trinh nữ đã đính hôn… tên là Maria ở Nazarét” (Lk 1:27). Như nơi biến cố Phục Sinh, cách thức thân xác của Chúa Kitô sống lại sẽ hoàn toàn và vĩnh viễn là một Mầu Nhiệm thế nào, nơi biến cố Nhập Thể cũng vậy, không một ai trên thế gian này có thể biết được, kể cả chính đương sự là Mẹ Maria cũng không thể nào biết được giây phút “Tuyệt Đỉnh Thời Gian” ấy đã diễn ra như thế nào ngay trong chính lòng dạ của mình, nghĩa là biết được cách thức thụ thai (theo khoa học) “có thể xẩy ra (cho một trinh nữ) không biết đến nam nhân” (Lk 1:34).

 

Vẫn biết, theo nguyên tắc, “cái gì sinh bởi thần linh là thần linh, cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt” (Jn 3:6), mà “trẻ thánh được trinh nữ sinh ra được gọi là Con Thiên Chúa” (Lk 1:35), chứ không phải chỉ là một con trẻ bình thường hay dù là một con trẻ siêu việt như “con trẻ” Gioan Tẩy Giả đi nữa (Lk 1:66; xem Mt 11:11), nên việc Mẹ Maria thụ thai, theo lời tổng thần Gabiên, là do “quyền phép Đấng Tối Cao” (Lk 1:35). Tuy nhiên, việc đậu thai của Trinh Nữ Maria trong giây phút “Tuyệt Đỉnh Thời Gian” ấy đã xẩy ra như thế nào, hay nói rõ hơn, “quyền phép Đấng Tối Cao” đã làm sao, trong khi “không bởi huyết nhục (ở đây hiểu là tinh chất đàn ông), hay bởi đam mê nhục dục, hoặc bởi ý muốn con người” (Jn 1:13), mà lại có thể tạo thành cho “Lời ở nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa” (Jn 1:1) một thân xác làm nên nhân tính của Người ở trong tử cung của Trinh Nữ Maria?

 

Theo tự nhiên, đã sinh con thì người phụ nữ không còn đồng trinh. Thế mà khoa học và kỹ thuật tối tân tiến ngày nay có thể tạo nên một trinh nữ sinh con nhân tạo cả trong việc thụ thai cũng như sinh con, bằng cách làm cho người trinh nữ nhân tạo ấy thụ thai qua việc cấy tinh trùng vào tử cung của họ thay vì họ cần phải giao hợp, cũng như làm cho trinh nữ nhân tạo ấy sinh con qua việc mổ xẻ thay vì họ phải đau đớn tự nhiên khi sinh con (x Gen 3:16). Ngoài ra, nếu khoa học và kỹ thuật thật kỳ diệu ngày nay, (vào tháng 2 năm 1997), cho thấy các ngành ấy vừa mới tạo nên được một con Dolly bằng việc phối bào nhân tạo (cloning), tức không cần đến việc sinh lý tự nhiên giữa hai giống tính đực cái nơi con vật, (hay giữa hai phái tính nam nữ nơi con người trong tương lai sắp đến?), Tuy nhiên, dù tân tiến đến đâu đi nữa, không bao giờ và mãi mãi sẽ không bao giờ khoa học và kỹ thuật có thể tạo nên được một trinh nữ sinh con thực thụ như trường hợp độc nhất vô nhị và vô tiền khoáng hậu là Mẹ Maria, một người nữ “không biết đến nam nhân” (Lk 1:34). Thật vậy, đối với Đấng “không việc gì là bất khả” (Lk 1:37; Mt 19:26), Ngài có thể tạo nên được một trinh nữ sinh con hoàn toàn tự nhiên vượt trên tầm kiến thức hạn hẹp và vượt ngoài vòng tay khả năng của con người trần thế! Không phải hay sao, Phúc Âm đã cho con người thấy rằng, “bởi Chúa Thánh Thần” (Mt 1:20), Thiên Chúa đã thực sự tạo nên “một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai”, đúng như lời Ngài tuyên phán qua miệng tiên tri Isaia (7:14) cả 7 thế kỷ trước.

 

Nếu Con Thiên Chúa nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria là một con người thật sự, thì dù được “thụ thai bởi quyền phép Đấng Tối Cao” (Lk 1:35), Người Con Thiên Chúa làm người mang tên “Giêsu” (Mt 1:21; Lk 1:31) này cũng phải có huyết nhục và hình dạng như nhân loại chúng ta, một thứ huyết nhục được phát xuất từ thân thể của người mẹ trần gian của mình là Trinh Nữ Maria, và một thứ hình dạng được cấu thành trong tử cung của Người Mẹ diễm phúc này. Ở chỗ, vào chính giây phút nhập thể “Tuyệt Đỉnh Thời Gian” ấy, “bởi quyền phép Đấng Tối Cao” (Lk 1:35), Thánh Thể của Lời Nhập Thể đã được thụ thai bởi nguyên một mình huyết nhục của thân xác Người Nữ “có phúc hơn mọi người nữ” (Lk 1:28, 42) này, để sau thời gian chín tháng được cưu mang ấy, Thai Trứng Thần Linh đã dần dần được cấu tạo và trở thành tầm vóc của “con người Đức Giêsu Kitô, Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (1Tim 2:5)!

 

Như thế, xét về xuất thân, Vị “Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” là Đức Giêsu Kitô, theo thần tính, chỉ có một Cha duy nhất đồng bản thể ở trên trời (mà không có mẹ), và theo nhân tính, Người cũng chỉ có một người mẹ ruột duy nhất dưới thế gian (mà không có cha):

 

·        Maria là người mẹ duy nhất, khi nói về Chúa Giêsu, có thể nói ‘con của Mẹ’, cũng như Chúa Cha nói: ‘Con là Con của Cha’ (Mk 1:11). Về phần mình, Chúa Giêsu gọi Chúa Cha là ‘Abba, lạy Cha’, ‘Ba’ (x. Mk 14:36), trong khi đó Người gọi Mẹ Maria là ‘Má’, bằng tất cả lòng cảm mến của mình khi xưng hô như vậy”.

 

(ĐTC Gioan Phaolô II, bài Giáo Lý Dọn Mừng Năm Thánh 2000 cuối cùng cũng là bài Giáo Lý Năm Thánh 2000 đầu tiên, thứ tư ngày 5/1/2000, đoạn 4, tuần san

L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 12/1/2000).

 

Như thế, nơi Lời Nhập Thể là Đức Giêsu Kitô, Trời đất đã chính thức trở thành một gia đình, trở thành một cộng đồng yêu thương và hiệp thông sự sống, trong đó có đủ thành phần cha mẹ và con cái, “Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất” (Jn 17:3), Mẹ là “Người Nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Rev 12:1), và con cái, nói chung, là thành phần được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, tương tự như Ngài (x Gen 1:26), nói riêng, là “những ai chấp nhận Người” (Jn 1:12), “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), “trưởng tử của tất cả mọi tạo vật, nơi Người mọi sự trên trời dưới đất được tạo thành, cả những vật hữu hình cũng như vô hình… tất cả mọi sự được dựng nên nhờ Người và cho Người” (Col 1:15-17).

 

Nơi Lời Nhập Thể là Đức Giêsu Kitô, chẳng những “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) mà Thiên Chúa thực sự còn là một Con Người, một con người “có xương có thịt” (Lk 24:39) nữa; và cũng chính vì Thiên Chúa thực sự là một Con Người “có xương có thịt” nơi “con người Đức Giêsu Kitô”, mà loài người chẳng những là một con vật có lý trí mà còn là Thiên Chúa Hiện Thân (Mt 1:23; x Is 7:14, Jn 1:14). Đúng thế, theo bản tính của mình, con người chỉ là hình ảnh Thiên Chúa, thế nhưng, nơi Đức Giêsu Kitô, thân phận của con người đã đạt đến Tuyệt Đỉnh Thần Linh, ở chỗ, con người đã Nhân Cách Hóa Thiên Chúa, đã trở thành Chân Dung của Thiên Chúa, và đã trở thành Mạc Khải của Thiên Chúa.

 

Nơi Đức Giêsu Kitô, con người đã thực sự và hoàn toàn Nhân Cách Hóa Thiên Chúa:

·        Chính Con Thiên Chúa khi nhập thể đã kết hợp với mỗi một người cách nào đó. Người đã làm việc với bàn tay của con người, đã suy nghĩ bằng trí óc của con người, đã hành động bằng ý muốn của con người, đã yêu mến bằng quả tim của con người

 

(Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, đoạn 22)

 

Nơi Đức Giêsu Kitô, con người đã thực sự trở thành Chân Dung của Thiên Chúa nhất là  qua Mẹ Maria là con người “Đầy Ơn Phúc” (Lk 1:28):

 

·        Dung nhan Mẹ Maria phản ảnh thiên nhan của Chúa Cha. Vẻ êm ái vô cùng của Thiên Chúa Tình Yêu được tỏ hiện nơi những tính chất từ mẫu của Mẹ Chúa Giêsu”.

 

(ĐTC Gioan Phaolô II, bài Giáo Lý Dọn Mừng Năm Thánh 2000 cuối cùng cũng là bài Giáo Lý Năm Thánh 2000 đầu tiên, thứ tư ngày 5/1/2000, đoạn 3, tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 12/1/2000)

 

Con người đã hoàn toàn trở thành Mạc Khải của Thiên Chúa qua Mẹ Maria là người “đã tin tưởng những gì Chúa phán sẽ được thực hiện” (Lk 1:45):

 

·        Ánh mắt tin cậy của Mẹ đặc biệt sáng gương ở chỗ, trong lúc hỗn loạn xẩy ra nơi cuộc khổ nạn của Con Mẹ, Mẹ vẫn hoàn toàn tin tưởng tận đáy lòng mình vào Người cũng như vào Chúa Cha. Trong khi các môn đệ choáng váng trước những biến cố đó và niềm tin của các vị bị lung lay đến tận gốc, thì Mẹ Maria, mặc dầu sầu khổ, vẫn hoàn toàn tin tưởng rằng lời tiên phán của Chúa Giêsu sẽ được nên trọn, đó là ‘Con Người… sẽ được sống lại vào ngày thứ ba’ (Mt 17:22-23). Mẹ không bao giờ mất niềm tin, ngay cả lúc vòng tay của Mẹ ôm lấy thân thể bất động của Người Con tử giá”.

 

(ĐTC Gioan Phaolô II, bài Giáo Lý Năm Thánh 2000 đầu tiên, thứ tư ngày 12/1/2000, đoạn 3, tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 19/1/2000)

 

 

LINH ĐẠO MARIA DẪN CON NGƯỜI ĐẾN GẶP GỠ THIÊN CHÚA

 

 

V

iệc Thiên Chúa chẳng những mạc khải ý định cứu độ yêu thương của Ngài mà còn ban chính Con của Ngài là sự sống (x Jn 14:6, 11:25; 1Jn 5:11) cho riêng cá nhân con người Mẹ Maria trước, để nhờ Mẹ và từ Mẹ “sự sống ấy trở nên hữu hình cho chúng ta” (1Jn 1:2) và được ban một cách “viên mãn hơn” (Jn 10:10) cho chúng ta sau, đã thực sự hùng hồn nói lên rằng Mẹ Maria là Con Người Tiêu Biểu duy nhất Thiên Chúa muốn dùng làm Đại Diện loài người. Vẫn biết Thiên Chúa vô cùng toàn năng có thể đến với con người bằng bất cứ đường lối nào hay cách thức nào Ngài muốn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, Thiên Chúa vô cùng thượng trí khôn ngoan lại chỉ đến với con người qua Con Đường Maria. Do đó, con người không thể nào đến được với Thiên Chúa và có thể gặp được Ngài ngoài Con Đường Maria tuyệt hảo này, tức ngoài con đường (tiêu biểu cho Con Người Mẹ Maria hay Tinh Thần Mẹ Maria) hoàn toàn tuyệt đối “nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3).

·        Như Tôi đã nói rõ trong Thông Điệp Mẹ Đấng Cứu Thế Redemptoris Mater, vai trò trung gian từ mẫu của Mẹ Maria ‘là vai trò trung gian trong Chúa Kitô’ (đoạn 38). Công Đồng Chung Vaticanô II đã giải thích rằng: ‘Ảnh hưởng cứu độ của Đức Nữ Trinh nơi con người không phát xuất từ một quan thiết nội tại nào, mà là từ việc Thiên Chúa ấn định. Ảnh hưởng ấy bắt nguồn từ công nghiệp dồi dào của Chúa Kitô, dựa vào vai trò trung gian của Người, hoàn toàn lệ thuộc vào vai trò trung gian của Người, và lấy được tất cả quyền lực của mình từ vai trò trung gian của Người. Ảnh hưởng ấy không hề ngăn cản mối hiệp nhất trực tiếp giữa tín hữu với Chúa Kitô, trái lại, còn bồi dưỡng cho mối hiệp nhất này nữa’ (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, đoạn 60)... Theo quan điểm ấy thì vai trò trung gian của Mẹ Maria phát xuất như là một hoa trái cao quí nhất từ vai trò trung gian của Chúa Kitô và chính yếu nhắm đến việc mang chúng ta tới cuộc hội ngộ với Chúa Kitô một cách mật thiết và sâu xa hơn: ‘Giáo Hội không ngần ngại tuyên xưng vai trò phụ thuộc này của Mẹ Maria, vai trò mà Giáo Hội luôn luôn cảm thấy và khích lệ tín hữu hết sức chú tâm đến, để nhờ ơn phù giúp của Mẹ nâng đỡ, họ được gắn bó chặt chẽ hơn với Vị Trung Gian và Cứu Chuộc’ (cùng nguồn vừa dẫn)”.

 

(ĐTC Gioan Phaolô II, bài Giáo Lý Năm Thánh 2000 đầu tiên, thứ tư ngày 12/1/2000, đoạn 2, tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 19/1/2000)

 

Nếu Maria thực là và chính là Điểm Hẹn Thần Linh, nơi Thiên Chúa đến với loài người qua Lời Nhập Thể và cũng là nơi loài người đã gặp gỡ Thiên Chúa qua toàn thể con người của Mẹ Maria, (linh hồn của Mẹ đã khiêm nhượng tin tưởng Xin Vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa và thân xác trinh nguyên của Mẹ đã thụ thai cưu mang Lời Nhập Thể), thì đến với Mẹ, (ở chỗ biệt tôn Mẹ, được thể hiện chân chính nhất bằng việc theo Linh Đạo Maria, tức là bằng cách bắt chước sống đức tin trọn lành như Mẹ cho đến khi đứng dưới chân thập giá của Chúa Giêsu Kitô), con người sẽ gặp được ngay “Giêsu Con lòng bà gồm phúc lạ” (Kinh Kính Mừng), nghĩa là sẽ được nên giống Chúa Kitô, được nên một với Người, được “đạt đến tầm vóc thành toàn của Chúa Kitô là đầu” (Eph 4:15).

 

·          Thật vậy, Mẹ Maria không muốn kéo con người chú ý đến Mẹ. Mẹ đã sống trên thế gian bằng ánh mắt gắn chặt lấy Chúa Giêsu và Cha trên trời. Ước muốn lớn nhất của Mẹ là hướng chú tâm của mọi người về cùng một mục tiêu đó. Mẹ muốn khơi lên cái nhìn tin tưởng và cậy trông vào Chúa Cứu Thế là Đấng Chúa Cha đã sai đến với chúng ta(cùng nguồn vừa dẫn, đoạn 3)

 

Nếu “ảnh hưởng cứu độ của Đức Nữ Trinh nơi con người không phát xuất từ một quan thiết nội tại nào, mà là từ việc Thiên Chúa ấn định”, và nếu “ước muốn lớn nhất của Mẹ là hướng chú tâm của mọi người về cùng một mục tiêu đó. Mẹ muốn khơi lên cái nhìn tin tưởng và cậy trông vào Chúa Cứu Thế là Đấng Chúa Cha đã sai đến với chúng ta”, thì quả thực lịch sử loài người nói chung và Kitô hữu chúng ta nói riêng đang sống trong Thời Điểm Maria, một thời điểm đã được Thánh Long-Mộng-Phố (Louis Montfort) tiên báo từ đầu thế kỷ 18 và đã hoàn toàn ứng nghiệm tại Fatima vào đầu thế kỷ 20.

“Thời Điểm Maria đã được Thánh Long-Mộng-Phố tiên báo từ đầu thế kỷ 18”:

 

·        Vào lần đến thứ hai của Chúa Giêsu Kitô, Mẹ Maria phải được Thánh Linh làm cho nhận biết và tỏ hiện, để qua Mẹ, Chúa Giêsu Kitô cũng được nhận biết, yêu mến và phụng sự” (số 49); “Thiên Chúa muốn tỏ Mẹ Maria là công trình bởi tay Ngài ra và làm cho Mẹ được nhận biết, vào những thời buổi sau này” (số 50).

 

(Thánh Long Mộng Phố, True Devotion to Mary,

Tan Books and Publishers, Inc, 1985)

 

“Thời Điểm Maria đã hoàn toàn ứng nghiệm tại Fatima vào đầu thế kỷ 20”:

 

Trước hết, ở chỗ, “ảnh hưởng cứu độ của Đức Nữ Trinh nơi con người không phát xuất từ một quan thiết nội tại nào, mà là từ việc Thiên Chúa ấn định”:

 

·        Các con đã thấy hỏa ngục nơi các linh hồn tội nhân đáng thương phải sa xuống. Để cứu các tội nhân, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội trên thế giới. Nếu họ làm theo những gì Mẹ nói với các con thì nhiều linh hồn sẽ được cứu độ và thế giới sẽ có hòa bình”.

 

(Lời Mẹ Maria tỏ cho 3 Thiếu Nhi Fatima ngày 13/7/1917, Hồi Ký Thứ 4, Documents on Fatima and The Memoirs of Sister Lucia,

ấn bản Anh ngữ, Fatima Family Apostolate, 1992, trang 402)

 

Sau nữa, ở chỗ, “ứơc muốn lớn nhất của Mẹ là hướng chú tâm của mọi người về cùng một mục tiêu đó. Mẹ muốn khơi lên cái nhìn tin tưởng và cậy trông vào Chúa Cứu Thế là Đấng Chúa Cha đã sai đến với chúng ta”:

 

·        Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm nhiều lắm rồi”.

 

(Lời Mẹ Maria kêu gọi chung loài người ngày 13/10/1917, nguồn vừa dẫn, trang 405)

 

·        Lời khuyên của Mẹ đã được tuân theo khi các người phục dịch đổ nước đầy vào chum. Mẹ Maria ngỏ với chúng ta cùng một lời mời gọi ấy. Mẹ thúc giục chúng ta hãy tiến vào giai đoạn mới của lịch sử này bằng một ý hướng thi hành những gì Chúa Kitô nói trong Phúc Âm thay Cha Người và nay tỏ ra cho chúng ta biết qua Chúa Thánh Thần là Đấng ở trong chúng ta”.

 

(ĐTC Gioan Phaolô II, bài Giáo Lý Năm Thánh 2000 đầu tiên, thứ tư ngày 12/1/2000, đoạn 4, tuần san L’Osservatore Romano,

ấn bản Anh ngữ, 19/1/2000) 

(bài này đã được phổ biến trên Nguyệt San Dân Chúa Mỹ Châu, 5/2000)