HUẤN TỪ TRUYỀN TIN / NỮ VƯƠNG 2008

 

Huấn Từ Truyền Tin Lễ Thánh Gia 28/12/2008

Huấn Từ Truyền Tin Lễ Thánh Stephanô Phó Tế Tử Đạo 26/12/2008

Chúa Nhật IV Mùa Vọng 21/12/2008: Thiên Văn Học với Kinh Truyền Tin

Chúa Nhật 14/12/2008 - Việc Chúa Kitô trở lại

Thứ Hai 8/12/2008 - Việc Hoài Thai Vô Nhiễm

Chúa Nhật 7/12/2008 - Cuộc xuất hành tối hậu

Chúa Nhật 30/11/2008 về Chiều kích thời gian liên quan tới Mùa Vọng

Chúa Nhật 23/11/2008 về Cuộc chung thẩm

Chúa Nhật 16/11/2008 về việc đầu tư tài năng của mình

Lễ Cung Hiến Đền Thờ Laterano 9/11

Lễ Các Thánh 1/11: Thánh Nhân là thành phần được niêm ấn thập giá Chúa Kitô

Chúa Nhật 31/8/2008: Về Thực Tại Sự Dữ

Chúa Nhật 24/8/2008 về Sứ Vụ Giáo Hoàng và tình hình khẩn trương trên thế giới

Chúa Nhật XII Thường Niên 22/6/2008:  Ai ‘sợ’ Chúa thì ‘không sợ hãi’

Chúa Nhật 8/6/2008 - Thánh Mathêu được tuyển gọi

Chúa Nhật 1/6/2008  - Thánh Tâm Chúa

Chúa Nhật 25/5/2008: Thánh Thể là học đường dạy bác ái và tình đoàn kết.

18/5/2008 Chúa Nhật - Đức Bà dellea Guardia: ‘Hãy tin nơi Mẹ!’

11/5/2008 Chúa Nhật: Phép Rửa Trong Thánh Thần

13/4/2008 Chúa Nhật Chúa Chiên Lành về Tiếng Gọi Truyền Giáo

6/4/2008 Chúa Nhật về Hành Trình Emmau

Chúa Nhật 30/3/2008 về Đức Gioan Phaolô II và Lòng Thương Xót Chúa

Chúa Nhật 23/3 xin coi Sứ Điệp Phục Sinh

16/3/2008 Chúa Nhật Lễ Lá về Iraq và Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008

9/3/2008 Chúa Nhật V Mùa Chay về việc sống lại của Lazarô

2/3/2008 Chúa Nhật IV Mùa Chay Về Hành Trình Phép Rửa Mùa Chay

24/2/2008 Chúa Nhật III Mùa Chay về Người phụ nữ Samaritano

17/2/2008 Chúa Nhật II Mùa Chay về Việc Biến Hình

10/2/2008 Chúa Nhật I Mùa Chay về Việc Tiến Vào Mùa Chay

3/2/2008 Chúa Nhật IV Thường Niên: Đời Tận Hến, Sự Sống và Mùa Chay

27/1/2008 Chúa Nhật III về  Việc Rao Giảng Nước Thiên Chúa

20/1/2008 Chúa Nhật II về Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo

13/1/2008 Chúa Nht Chúa Giêsu Chu Phép R

6/1/2008 Về Chúa Nhật Hiển Linh

1/1/2008 Về Mẹ Thiên Chúa và Ngày Hòa Bình Thế Giới

 

 

 

 

Thứ Sáu 26/12/2008 về Thánh Stêphanô Tử Đạo liên quan tới Thánh Phaolô

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Lễ Thánh Stêphanô hôm nay, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội, được đặt vào trong ánh sáng thiêng liêng của Lễ Chúa Kitô Giáng Sinh.  Thánh Stêphanô, một con người trẻ “đầy đức tin và Thánh Thần”, như Sách Tông Vụ tả về ngài (6:5), cùng với 6 người nam khác, được thụ phong làm phó tế trong cộng đồng đầu tiên ở Giêrusalem, và vì việc nhiệt thành và can đảm rao giảng của mình, ngài đã bị giam nhốt và ném đá chết. Có một chi tiết trong trình thuật về cuộc tử đạo của ngài cần phải được nhấn mạnh trong Năm Thánh Phaolô, đó là lời nhận định rằng: “những chứng nhân đặt áo xống của mình ở dưới chân của một con người trẻ tên là Saulê” (Acts 7:58). Ở đây, bằng tên gọi Saulê theo tiếng Do Thái của mình, Thánh Phaolô lần đầu tiên xuất hiện qua chiêu bài của một kẻ hung hăng bách hại Giáo Hội (cf. Phil 3:6), một cuộc bách hại theo ngài bấy giờ được coi như là một phận sự và là một điều hãnh diện. Có thể nói về một thứ posteriori chính chứng từ của Thánh Stêphanô là những gì quyết liệt cho việc hoán cải của ngài. Chúng ta hãy thử coi xem sao.

 

Sau cuộc tử đạo của Thánh Stêphanô ít lâu, Saulê, vẫn còn được thôi thúc bởi lòng nhiệt thành chống lại Kitô hữu, đã đến Damascus để bắt giam những ai ngài thấy ở đó. Và trong khi ngài đang tiến đến thành phố này thì xẩy ra một tia chớp chói lòa, một cảm nghiệm đặc biệt về việc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với ngài, nói với ngài và biến đổi cuộc  đời của ngài (Acts 9:1-9). Khi Thánh Phaolô, ngã xuống đất, đã nghe thấy mình được gọi đến tên bởi một tiếng huyền nhiệm và ngài đã lên tiếng hỏi rằng: “Ôi Chúa, Ngài là ai?”, và ngài đã nghe thấy câu trả lời rằng: “Ta là Giêsu, Đấng mà ngươi đang bắt bớ” (Acts 9:5). Saulê đang bắt bớ Giáo Hội và cũng tham phần vào việc ném đá Thánh Stêphanô; ngài đã thấy Thánh Stêphanô chết, trước những viên đá ném túi bụi vào người, và nhất là ngài đã thấy đường lối Thánh Stêphanô đã chết, ở chỗ, tất cả mọi sự đều xẩy ra giống như Chúa Kitô, tức là nguyện cầu và thứ tha cho những ai sát hại mình (cf Acts 7:59-60). Trên đường đi Damascus, chàng Saulê đã nhận ra rằng trong việc bách hại Giáo Hội ngài đã bắt hại Chúa Giêsu là Đấng đã chết và thực sự đã phục sinh; Chúa Giêsu, đang sống trong Giáo Hội và trong Thánh Stêphanô là người đã thực sự được thấy chêá đi nhưng lại là người bấy giờ thực sự vẫn sống cùng với Chúa Kitô Phục Sinh của mình. Chúng ta hầu như có thể nói rằng nơi tiếng nói của Chúa Giêsu ngài đã nhận ra tiếng của Thánh Stêphanô, và cũng qua việc chuyển cầu của Thánh Stêphanô mà ân sủng thần linh đã làm cho tâm can của ngài cảm kích. Đó là cách thức đời sống của Thánh Phaolô đã được biến đổi sâu xa. Từ lúc ấy, Chúa Giêsu đã trở nên sự công chính của ngài, sự thánh hóa của ngài, ơn cứu chuộc của ngài (cf 1Cor 1:30), nên tất cả của ngài. Và một ngày kia cả ngài nữa cũng theo Chúa Giêsu bằng chính những bước chân của Thánh Stêphanô, khi đổ máu mình ra làm chứng cho Phúc Âm ở Rôma đây.

 

Anh chị em thân mến, nơi Thánh Stêphanô, chúng ta thấy cụ thể hóa những hoa trái đầu mùa của ơn cứu độ mà việc Giáng Sinh của Chúa Kitô mang đến cho nhân loại: đó là cuộc chiến thắng của sự sống trên sự chết, của ánh sáng chân lý trên tối tăm sai lầm. Chúng ta hãy chúc tụng Thiên Chúa, để cuộc chiến thắng này vẫn có thể làm cho nhiều Kitô hữu ngày nay biết đáp trả sự dữ không phải bằng sự dữ mà bằng quyền năng của chân lý và yêu thương. Xin Trinh Nữ Maria, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo, xin cho tất cả mọi tín hữu ơn  ấy để họ can đảm đi theo cùng đường lối ấy.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/angelus/2008/documents/hf_ben-xvi_ang_20081226_st-stephen_en.html

 

 

TOP

 

Chúa Nhật IV Mùa Vọng 21/12/2008: Thiên Văn Học với Kinh Truyền Tin

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Bài Phúc Âm của Chúa Nhật này trình bày một lần nữa cho chúng ta về trình thuật Truyền tin (Lk 1:26-38), một mầu nhiệm chúng ta hằng ngày trở về bằng việc nguyện kinh Truyền Tin. Kinh nguyện này giúp cúng ta có thể sống lại giây phút quyết liệt là lúc Thiên Chúa gõ cửa lòng Mẹ Maria, và khi nhận được lời “xin vâng” của Mẹ, Ngài đã bắt đầu mặc lấy xác thịt trong Mẹ và nơi Mẹ. Lời cầu nguyện chung của Thánh Lễ hôm nay cũng là lời cầu nguyện được đọc vào cuối Kinh Truyền Tin: “Lạy Chúa, xin làm cho lòng chúng con tràn đầy tình yêu của Chúa, và như Chúa đã tỏ cho chúng con qua một vị thiên thần việc Con Chúa đến làm người thế nào, thì xin cũng dẫn chúng con nhờ khổ đau và cái chết của Người đến vinh hiển phục sinh của Người”. Với lễ Giáng Sinh mấy ngày nữa thôi, chúng ta được mời gọi gắn mắt vào mầu nhiệm bất khả xóa mờ là Mẹ Maria đã cưu mang 9 tháng trong lòng dạ trinh nguyên của mình mầu nhiệm về Thiên Chúa là Đấng hóa thân làm người. Đó là cái mấu chốt đầu tiên của việc Cứu Chuộc. Cái mấu chốt thứ hai là cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, và hai mấu chốt bất khả phân ly này cho thấy một dự án thần linh duy nhất đó là dự án cứu độ nhân loại cùng với lịch sử của họ, khi mặc lấy nó cho tới tận cùng bằng việc hoàn toàn nhận lấy tất cả mọi sự dữ hằng đè nén nó.

 

Ngoài chiều kích lịch sử của mầu nhiệm cứu độ này còn có chiều kích vũ trụ nữa, ở chỗ Chúa Kitô là mặt trời ân sủng, Đấng mà bằng ánh sáng của mình, “làm biến dạng và nung nấu niềm mong đợi của vũ trụ” (Phụng Vụ). Thời điểm của lễ Giáng Sinh được gắn liền với thời điểm đông chí, khi mà những ngày ở miền bắc cực địa cầu bắt đầu lại dài hơn. Về vấn đề này, có lẽ ít người biết được rằng Quảng Trường Thánh Phêrô nằm ở cao độ nhất: thật vậy, cái tháp cao ở giữa quảng trường tỏa bóng của mình xuống thành một lằn dọc theo lề đường đến bể phun nước nằm ở bên dưới cửa sổ đây, và vào những ngày này thì bóng của nó dài nhất trong năm. Điều này nhắc nhở chúng ta về vai trò của thiên văn học trong việc đánh dấu những thời điểm nguyện cầu. Chẳng hạn kinh Truyền Tin được đọc vào mỗi buổi sáng, buổi trưa và buổi tối. Buổi trưa, một buổi mà trong quá khứ giúp cho người ta biết được “lúc thật đứng bóng”, là tiêu chuẩn cho các đồng hồ

 

Sự kiện thời điểm đông chí xẩy ra đúng hôm nay, 21/12, vào chính giờ phút này, cống hiến cho tôi cơ hội gửi lời chào tới tất cả mọi người đang tham dự một cách khác nhau vào các biến cố của Năm Quốc Tế về Thiên Văn Học, 2009, đánh dấu đệ tứ bách niên những quan sát đầu tiên bằng viễn vọng kính của Galileo Galilee. Trong số các vị tiền nhiệm đáng kính nhớ của tôi cũng có các vị áp dụng khoa học này, chẳng hạn như Đức Sylvester II, vị đã giảng dạy khoa này, Đức Gregorio XIII là vị giúp chúng ta có niên lịch hiện nay, và Thánh Piô X, vị biết cách chế ra các đồng hồ thái dương. Nếu các tầng trời, theo những lời tuyệt vời của thánh vịnh gia, “rạng ngời vinh quang của Thiên Chúa” (19 [18]: 2), ngay cả những luật tự nhiên, những thứ luật qua các thế hệ nhiều con người khoa học nam nữ đã giúp chúng ta hiểu biết khá hơn, là một phấn khởi lớn lao trong việc chiêm ngưỡng những công cuộc của Chúa với tấm lòng tri ân.

 

Giờ đây chúng ta hãy trở lại với việc chiêm ngắm Mẹ Maria và Thánh Giuse, những vị đợi chờ Chúa Giêsu hạ sinh, và học nơi các vị bí quyết tĩnh niệm để nếm được niềm vui Giáng Sinh. Chúng ta hãy sữa soạn lấy đức tin đón nhận Đấng Cứu Chuộc đến ở với chúng ta, Lời của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại thuộc mọi thời đại.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 21/12/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng) 

 

 

TOP

 

Chúa Nhật 14/12/2008 - Việc Chúa Kitô trở lại

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Chúa Nhật thứ ba của Mùa Vọng này được gọi là Chúa Nhật Vui Mừng – “Gaudete Sunday” – “hân hoan”, căn cứ vào bài ca nhập lễ trích từ lời của Thánh Phaolô trong Thư gửi tín hữu Philiphê là “Anh chị em hãy luôn hân hoan trong Chúa. Tôi xin lập lại với anh chị em rằng hãy hân hoan”.

 

Sau đó Thánh Phaolô liền giải thích lý do tại sao, đó là “Chúa gần đến rồi” (Phil 4:4-5). Đó là lý do hân hoan vui mừng. Thế nhưng “Chúa gần đến” đây nghĩa là gì? Làm sao chúng ta có thể hiểu được “cái gần” này của Thiên Chúa?  Thánh Tông Đồ Phaolô, khi viết cho Kitô hữu Philiphê, rõ ràng là nghĩ đến việc Chúa Kitô trở lại, và ngài đã mời gọi họ hãy hân hoan vì việc trở lại ấy là điều chắc chắn xẩy ra. Tuy nhiên, cũng Thánh Phaolô, trong bức Thư Thứ Nhất gửi cho các tín hữu Thessalonica, đã cảnh giác rằng không ai có thể biết được lúc nào Chúa trở lại (1Thess 5:1-2), và khuyên họ hãy tỉnh thức trước tất cả những gì là báo động, như thể Chúa đến nơi rồi (2Thess 2:1-2).

 

Bởi vậy, vào thời bấy giờ, Giáo Hội, được Thánh Linh soi động, đã càng ngày càng hiểu rằng “cái gần” của Thiên Chúa không phải là vấn đề về không gian và thời gian, mà là vấn đề về tình yêu: Tình Yêu gần gũi. Lễ Giáng Sinh sẽ xẩy ra để nhắc nhở chúng ta về sự thật nền tảng của đức tin của chúng ta này, và trước máng cỏ, nếm hưởng niềm vui Kitô giáo, khi chiêm ngưỡng nơi dung nhan của sơ sinh Giêsu Vị Thiên Chúa vì yêu thương đã đến gần với chúng ta. 

 

Theo ý nghĩa ấy, tôi cảm thấy thật là vui mừng để lập lại truyền thống ban phép lành cho “Bambinelli” là những tượng Chúa Giêsu Hài Đồng sẽ được đặt trong máng cỏ. Cha đặc biệt trở lại với các con, hỡi các bé nam nữ ở Rôma, những người đã mang theo tượng Chúa Hài Đồng sáng nay để giờ đây tôi làm phép. Tôi mời gọi các con hãy hiệp với tôi và chú ý theo dõi lời cầu nguyện sau đây:

 

Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con,

Cha đã quá yêu thương con người

Đến sai Người Con duy nhất của Cha là Chúa Giêsu,

Vị được hạ sinh bởi Trinh Nữ Maria,

Để cứu độ chúng con và đưa chúng con trở về cùng Cha.

Chúng con cầu cùng Cha, là bằng phép lành của Cha,

Những hình ảnh Chúa Giêsu đây, Đấng sắp đến giữa chúng con,

Ơû trong nhà của chúng con,

Như là dấu hiệu cho sự hiện diện và tình yêu thương của Cha.

Lạy Cha thiện hảo,

Xin cũng ban cho cả cha mẹ của chúng con, gia đình của chúng con và bạn bè của chúng con,

Phép lành của Cha nữa.

Xin hãy mở lòng của chúng con ra,

Để chúng con biết hân hoan đón nhận Chúa Giêsu,

Luôn làm tất cả những gì Người muốn

Và nhìn thấy Người trong tất cả những ai

Cần đến tình yêu thương của chúng con.

Chúng con xin vì danh Chúa Giêsu,

Con yêu dấu của Cha là Đấng đã đến để mang bình an cho thế giới.

Người là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời muôn kiếp.

Amen.

 

Và giờ đây chúng ta hãy cùng nhau nguyện kinh “Angelus Domini”, kêu xin Mẹ Maria chuyển cầu, để Chúa Giêsu, Đấng mang theo cuộc hạ sinh của mình phúc lành của Thiên Chúa cho con người, được mến yêu đón nhận nơi tất cả mọi gia đình ở Rôma cũng như khắp thế giới. 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 14/12/2008

 

 

TOP

 

Thứ Hai 8/12/2008 - Việc Hoài Thai Vô Nhiễm

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Mầu nhiệm Mẹ Maria Hoài Thai Vô Nhiễm chúng ta cử hành hôm nay nhắc nhở chúng ta hai sự thật nồng cốt nơi đức tin của chúng ta: trước hết là nguyên tội và cuộc vinh thắng tội lỗi của ân sủng Chúa Kitô, một cuộc chiến thắng chiếu soi tuyệt vời nhất nơi Mẹ Maria Rất Thánh. Sự hiện diện của những gì được Giáo Hội gọi là “nguyên tội” đáng buồn thay là một sự thật tan nát, chỉ cần nhìn chung quanh mình và nhất là nội tâm của chúng ta cũng đủ thấy. Cảm nghiệm về sự dữ thật vậy là những gì rất đậm nét, đến nỗi nó áp đảo chúng ta khiến chúng ta đặt vấn đề là nó từ đâu mà có? Đặc biệt là đối với một tín hữu vấn đề lại càng sâu nặng hơn nữa, ở chỗ, nếu Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối thiện hảo đã dựng nên mọi sự thì sự dữ ở đâu mà ra?

 

Những trang đầu tiên của Thánh Kinh (Sáng Thế Ký 1-3) thực sự đã trả lời cho vấn nạn căn bản này – một vấn nạn được hết mọi thế hệ loài người đặt ra – liên quan tới trình thuật về việc tạo dựng và việc sa ngã của cha mẹ chúng ta, ở chỗ, Thiên Chúa đã dựng nên hết mọi sự nhờ đó nó mới được hiện hữu, đặc biệt là Ngài đã dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài; Ngài đã không dựng nên sự chết, trái lại, sự chết đã đột nhập thế gian vì nỗi ghen hờn của ma quỉ (xem Sách Khôn Ngoan 1:13-14; 2:23-24), một tác nhân, khi nổi lên chống lại Thiên Chúa, cũng lừa dối thu hút con người, dụ dỗ họ phản lại Ngài. Nó là một thảm kịch của tự do, một thảm cảnh được Thiên Chúa hoàn toàn vì yêu thương chấp nhận, nhưng hứa là sẽ có người con sinh bởi một người nữ đạp nát đầu con rắn già (Khởi Nguyên 3:15).

 

Bởi thế, ngay từ ban đầu, “sự khôn ngoan hằng sống” – như thi sĩ Dante nói – đã “ấn định thời kỳ” (Paradise, XXXIII, 3): Người Nữ được tiền định làm mẹ Đấng Cứu Thế, mẹ của Đấng hạ mình xuống hết cỡ để dẫn chúng ta về lại với phẩm vị ban đầu. Trong con mắt của Thiên Chúa thì Người Nữ này bao giờ cũng có một dung nhan và một danh xưng đó là “đầy ơn phúc” (Lk 1:28), như Thiên Thần đã gọi Mẹ khi đến viếng thăm Mẹ ở Nazarét. Mẹ là tân Evà, hiền thê của tân Adong, được ấn định làm mẹ của tất cả mọi người được cứu chuộc. Bởi thế Thánh Anrê thành Crete đã nói: “Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa, nơi nương náu chung của tất cả mọi Kitô hữu, là con người đầu tiên được cứu thoát khỏi cái sa ngã ban đầu của cha mẹ chúng ta” (bài giảng IV, về Giáng Sinh, PG 97, 880 A). Phụng vụ của ngày hôm nay nói rằng hiên Chúa đã “sửa soạn một nơi cư ngụ xứng đáng cho Con của Ngài, và hướng về cuộc tử nạn của mình, Người đã hướng về cái chết của mình, đã bảo trì Mẹ khỏi tất cả mọi tì vết tội lỗi” (Lời Nguyện Tổng Hợp). 

 

Anh chị em thân mến, nơi Mẹ Maria Vô Nhiễm Tội, chúng ta chiêm ngưỡng cái phản ảnh của Vẻ Đẹp cứu độ thế giới: vẻ đẹp của Thiên Chúa tỏa chiếu trên dung nhan của Chúa Kitô. Nơi Mẹ Maria, vẻ đẹp này hoàn toàn tinh tuyền, thấp hạ, không tơ vương niềm kiêu hãnh và tự cao. Vị Trinh Nữ này đã tỏ mình như thế cho Thánh Nữ Bernadette 150 trước đây ở Lộ Đức, nhờ đó Mẹ đã được tôn kính nơi rất nhiều đền thánh. Chiều hôm nay, để theo truyền thống, tôi sẽ đến kính viếng trước trụ cột được dâng hiến Mẹ ở Piaoãa di Spagna. Giờ đây chúng ta kêu xin Vị Trinh Nữ Maria với một lòng cậy trông, lập lại với Thiên Thần những lời của Phúc Âm, một bài Phúc Âm được phụng vụ đề ra cho chúng ta cùng suy niệm.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 10/12/2008

 

 

TOP

 

Chúa Nhật 7/12/2008 - Cuộc xuất hành tối hậu

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Một tuần vừa qua, chúng ta vẫn còn đang cảm nghiệm Mùa Vọng phụng vụ: một thời điểm hướng về tương lai của Thiên Chúa, một thời điểm sửa soạn cho Giáng Sinh, khi Người là Chúa, Đấng hoàn toàn mới mẻ, đã đến ở giữa nhân loại sa đọa này để canh tân nó từ bên trong. Phụng vụ Mùa Vọng âm vang một sứ điệp đầy hy vọng, một sứ điệp mời gọi chúng ta hãy hướng mắt về chân trời tối hậu, nhưng đồng thời cũng nhận ra những dấu chỉ của Vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta trong hiện tại. Trong Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng này, Lời của Thiên Chúa phản ảnh những chiều kích có tính cách cảm xúc của những gì được gọi là Deutero-Isaiah, những gì cuối cùng loan báo về việc giải phóng dân Yến Duyên, thành phần dân đã chịu khổ qua nhiều thập niên cay đắng vì lưu đầy ở Babylon: “Hãy an ủi, hãy tỏ lòng an ủi dân của Ta”. Vị tiên tri này đã nhân danh Chúa nói như thế. “Hãy nói với cõi lòng của Gia Liêm và nói cùng thành này rằng cơn hoạn nạn của thành đã qua rồi” (Is 40:1-2). Đó là những gì Chúa muốn làm trong Mùa Vọng, đó là nói với tâm can của dân Người, và qua họ, với toàn thể nhân loại, loan báo ơn cứu độ.

 

Cả ngày nay nữa tiếng của Giáo Hội đang vang lên rằng: “Hãy dọn đường cho Chúa trong sa mạc” (Is 40:3). Đối với thành phần rã rời bởi khốn cực và đói khổ, với những đám dân tị nạn, những người đang chịu đựng những vi phạm trầm trọng có tổ chức đến quyền lợi của họ, Giáo Hội đóng vai như một lính canh đêm ở trên ngọn núi đức tin và Giáo Hội loan báo cho họ rằng: “Này đây Thiên Chúa của anh chị em! Chúa là Thiên Chúa của anh chị em đang đến trong quyền uy” (Is 40:11).

 

Lời loan báo tiên tri này được hiện thực nơi Chúa Giêsu Kitô. Người đã làm trọn những lời hứa hẹn xa xưa ấy, bằng việc giảng dạy rồi bằng cuộc tử nạn và phục sinh của Người, mạc khải cho thấy chiều ích sâu xa hơn nữa và phổ quát hơn nữa. Người đã khai mào cho một cuộc xuất hành không còn là một cuộc xuất hành thuần trần thế, lịch sử và nhất thời như vậy, nhưng là một cuộc xuất hành trọng yếu và quyết liệt: một cuộc vượt qua từ vương quốc của sự dữ sang Vương Quốc của Thiên Chúa, từ cuộc thống trị của tội lỗi và sự chết sang cuộc thống trị của yêu thương và sự sống. Vì thế, niềm hy vọng Giáng Sinh vượt trên cả ước vọng hợp lý về một cuộc giải phóng về xã hội và chính trị, vì những gì Chúa Giêsu bắt đầu là một tân nhân loại xuất phát “từ Thiên Chúa”, thế nhưng đồng thời cũng là những gì đang nẩy mầm trên trái đất của chúng ta, cho tới chỗ nó được hoài thai bởi Thần Linh Chúa. Thế nên, nó là một vấn đề hoàn toàn tiến vào lý lẽ của đức tin, ở chỗ, tin tưởng nơi Thiên Chúa, tin tưởng vào dự án cứu độ của Ngài, và cũng hoạt động để xây dựng Vương Quốc của Ngài. Thật vậy, công lý và hòa bình là tặng ân của Thiên Chúa, thế nhưng chúng cũng là những gì đòi con người nam nữ trở thành “mảnh đất tốt”, sẵn sàng chấp nhận hạt giống tốt là Lời của Ngài.

 

Chúa Giêsu là hoa trái đầu mùa của tân nhân loại này, Đấng là Con Thiên Chúa và là Con của Mẹ Maria. Mẹ, một Người Mẹ Trinh Nguyên, là “đường” được chính Thiên Chúa sửa soạn cho việc Ngài đến thế gian. Bằng tất cả lòng khiêm cung của mình, Mẹ đã bước đi trước một tân Yến Duyên trong cuộc xuất hành để vượt thoát khỏi hết mọi cuộc lưu đầy, hết mọi cuộc áp bức, hết mọi cuộc nô lệ về luân lý và thể lý, mà tiến đến “trời mới đất mới được công lý hiển trị” (2Pt 3:13). Chúng ta hãy phó thác ước vọng mong muốn hòa bình và ơn cứu độ của con người thuộc thời đại của chúng ta cho việc chuyển cầu từ mẫu của Mẹ.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 7/12/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

TOP 

 

Chúa Nhật 30/11/2008 về Chiều kích thời gian liên quan tới Mùa Vọng

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Hôm nay, với Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng, chúng bắt đầu một phụng niên mới. Sự kiện này mời gọi chúng ta suy nghĩ về chiều kích thời gian, một chiều kích bao giờ cũng thu hút chúng ta rất nhiều. Theo gương về những gì Chúa Giêsu thích làm, tôi cũng bắt đầu từ một kinh nghiệm rất thực tế. Đó là, tất cả chúng ta nói rằng: ‘tôi không có giờ’, vì mọi người cảm thấy hết sức quay cuồng với nhịp sống thường nhật. Giáo Hội cũng loan ‘tin mừng’ về điều này nữa, đó là Thiên Chúa đã ban cho chúng ta thời giờ của Ngài. Chúng ta bao giờ cũng có ít giờ. Nhất là liên quan tới Chúa, chúng ta không biết tìm gặp Ngài bằng cách nào, hay đôi khi chúng ta không muốn tìm Ngài. Thế mà Thiên Chúa lại có giờ với chúng ta!

 

Đó là điều đầu tiên việc mở màn cho một tân phụng niên giúp chúng ta tái khám phá với một ngỡ ngàng mới mẻ hơn bao giờ hết. Phải, Thiên Chúa ban cho chúng ta thời gian của Ngài, vì Ngài đã đi vào lịch sử, bằng Lời của Ngài và bằng những hoạt động cứu độ, để làm cho lịch sử hướng tới vĩnh hằng, để biến nó trở thành một thứ lịch sử giao ước. Theo chiều hướng ấy thì thời gian tự nó là một dấu hiệu của tình yêu Thiên Chúa. Nó là một quà tặng mà con người có thể cảm nhận như mọi sự khác, hay trái lại, đem phung phí nó đi; họ có thể nắm bắt được ý nghĩa của nó, hay lơ là với nó một cách nông nỗi mê muội.

 

Có 3 “cái then chốt” về thời gian liên quan tới lịch sử cứu độ: khởi điểm là việc tạo dựng, tâm điểm là là việc Nhập Thể cứu thế, và tận điểm là lần đến cuối cùng bao gồm việc phán xét chung. Ba thời điểm này, tuy nhiên, không được hiểu thuần túy theo tiến trình ngày tháng. Thật vậy, quả thực việc tạo dựng là khởi điểm của hết mọi sự, nhưng nó cũng tiếp tục và được hiện thực dọc suốt cái trở nên của vũ trụ này cho tới tận cùng thời gian. Bởi vậy, với việc Nhập Thể và cứu thế, nếu nó xẩy ra vào một thời điểm nhất định về lịch sử – việc Chúa Giêsu tạm trú trên thế gian này – dù sao cái tác hiệu của nó vẫn kéo dài qua giòng thời gian trước nó và sau nó. Và việc Đến Lần Cuối Cùng và Cuộc Chung Thẩm, cả hai thực sự đã được dứt khoát hướng tới nơi thập giá của Chúa Kitô, đang áp dụng ảnh hưởng của mình nơi hạnh kiểm của con người ở hết mọi thời đại.

 

Phụng vụ Mùa Vọng cử hành việc Thiên Chúa đến vào hai thời điểm của nó: trước hết nó kêu gọi chúng ta hãy làm bừng lên niềm trông đợi Chúa Kitô đến trong vinh quang; rồi gần đến Giáng Sinh, nó mời gọi chúng ta hãy nghênh đón Lời hóa thân làm người vì phần rỗi của chúng ta. Thế nhưng, Chúa liên lỉ đi vào cuộc đời của chúng ta. Bởi vậy, thích đáng biết bao lời Chúa Giêsu kêu gọi, một lời kêu gọi mãnh liệt hơn nữa vào Chúa Nhật này: “Hãy tỉnh thức” (Mk 13:33,35,37). Nó được ngỏ cùng các môn đệ, nhưng cũng ngỏ cùng “hết mọi người”, vì hế mọi người, ở vào giờ phút chỉ một mình Chúa biết, sẽ được gọi trả lẽ về đời sống của mình. Lời kêu gọi này bao gồm thái độ không dính bén với các sự vật trần thế, bao gồm lòng thành thống hối về những lỗi lầm của con người, bao gồm một đức ái chủ động đối với tha nhân, và nhất là một lòng khiêm tốn và tin tưởng phó mình vào tay Thiên Chúa, Người Cha dịu hiền và xót thương của chúng ta.

 

Trinh Nữ Maria là hình ảnh Mùa Vọng. Chúng ta hãy kêu cầu Mẹ để xin Mẹ giúp chúng ta hãy trở nên một nhân loại nối dài đón chờ việc Chúa đến.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/10/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng) 

 

 

TOP 

Chúa Nhật 23/11/2008 về Cuộc chung thẩm

 Anh Chị Em thân mến!

 

Hôm nay chúng ta cử hành Chúa Nhật cuối cùng của phụng niên Lễ Trọng Kính Chúa Giêsu Kitô Vua. Chúng ta biết rằng trong các Phúc Âm Chúa Giêsu bị đã loại trừ danh xưng vua chúa khi nó được hiểu theo nghĩa chính trị, theo chiều hướng của “thành phần cai trị của các dân nước” (cf. Mt 20:24). Trái lại, trong cuộc khổ nạn của mình, trước Toàn Quyền Philatô Người đã tuyên bố một vai trò vua chúa khác. Philatô hỏi thẳng Chúa Giêsu rằng: “Ngươi có phải là vua hay chăng?”, Chúa Giêsu đáp: “Quan đã nói thế nhé; Tôi là vua” (Jn 18:37). Tuy nhiên, trước đó chút xíu Người đã tuyên bố rằng: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Jn 18:36).

 

Thật thế, vai trò vua chúa của Chúa Kitô là mạc khải và là ứng dụng của vai trò làm vua của Thiên Chúa là Cha, Đấng cai trị tất cả mọi sự bằng yêu thương và công lý. Cha đã ký thác cho Con sứ vụ cống hiến cho loài người sự sống đời đời, yêu thương họ cho đến độ tận tuyệt hy sinh, và đồng thời Ngài cũng ban cho Người quyền xét xử loài người, ngay từ khi Người là một Con Người như chúng ta trong tất cả mọi sự (cf. Jn 5:21-22,26-27).

 

Phúc Âm hôm nay thật sự nhấn mạnh đến vai trò làm vua hoàn vũ của Chúa Kitô thẩm phán, bằng một dụ ngôn sâu sắc về việc chung thẩm, một dụ ngôn được Thánh Mathêu thuật lại ngay trước trình thuật về cuộc khổ nạn của Người (25:31-46). Các hình ảnh giản dị, ngôn từ thông dụng, nhưng sứ điệp lại cực kỳ hệ trọng, đó là sự thật về số phận tối hậu của chúng ta và đề ra những tiểu chuẩn phán xét chúng ta. “Ta đói các người đã cho Ta ăn, Ta khát các người đã cho Ta uống, Ta là khách lạ và các người đón tiếp Ta” v.v. (Mt 25:35).

 

Ai là người không biết đến sứ điệp này? Nó đã trở nên một yếu tố nơi nền văn minh của chúng ta. Nó đã đánh dấu lịch sử của các dân tộc theo văn hóa Kitô giáo, những bậc thang giá trị của các nước này, các cơ cấu của họ, và nhiều tổ chức nhân ái và xã hội của họ. Thật vậy, Vương Quốc của Thiên Chúa không thuộc về thế giới này, nhưng nó làm viên trọn tất cả mọi sự thiện hảo bởi Chúa hiện hữu nơi con người và lịch sử. Nếu chúng ta mang tình yêu thương tha nhân ra thực hành theo giáo huấn của Phúc Âm thì chúng ta đang dọn chỗ cho vai trò làm Chúa của Thiên Chúa và vương quốc của Ngài sẽ hiện thuưc giữa chúng ta. Ngược lại, nếu mỗi người chúng ta chỉ nghĩ đến lợi lộc của mình thôi, thì thế giới này không thể nào không bị hủy diệt. 

 

Các bạn thân mến, Vương Quốc của Thiên Chúa không phải là những gì vênh vang và ngoại diện, thế nhưng, như Thánh Phaolô nói, nó là “công lý, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17). Chúa Kitô đã ôm ấp thiện hảo của chúng ta rồi, tức là hết mọi người đều có sự sống, nhất là thành phần “hèn mọn” nhất trong con cái của Người được tham dự vào bữa tiệc của Người, một bữa tiệc Người đã dọn cho tất cả mọi người. Đó là lý do chẳng ích lợi gì cho thành phần giả hình chỉ biết nói “lạy Chúa, lạy Chúa”, nhưng lại bỏ bê các giới huấn của Người (cf. Mt 7:21).

 

Thiên Chúa sẽ đón nhận vào vương quốc hằng hữu của Ngài những ai thực hiện nỗ lực hằng ngày để thực hành lời của Ngài. Đó là lý do tại sao Trinh Nữ Maria, một con người khiêm hạ nhất trong loại tạo sinh của Ngài, đã trở nên cao trọng nhất trước nhan Ngài và ngự bên hữu Chúa Kitô Vua như một Nữ Vương. Chúng ta muốn trao phó bản thân mình cho việc chuyển cầu thiên đình của Mẹ bằng lòng cậy trông thơ thảo, nhờ đó chúng ta có thể hiện thực sứ vụ Kitô hữu của chúng ta trên thế giới này.

  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 23/11/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng) 

 

TOP

 

Chúa Nhật 16/11/2008 về việc đầu tư tài năng của mình

  

Anh Chị Em thân mến,

 

Lời Chúa của Chúa Nhật này – Chúa Nhật áp chót của phụng niên – kêu mời chúng ta hãy tỉnh thức và chủ động đợi chờ Chúa Giêsu đến vào ngày cùng tháng tận. Đoạn Phúc Âm này nói về dụ ngôn các nén bạc được Thánh Mathêu thuật lại (25:14-30). “Nén bạc” này là một đồng bạc rất quí giá của người Rôma xưa, và chính vì tính cách thông dụng của dụ ngôn này nó trở thành đồng nghĩa với các tặng ân cá nhân là những gì mọi người được kêu gọi để làm phát triển.

 

Thực vậy, đoạn Phúc Âm này nói về “một người đi xa gọi các đầy tớ của mình lại mà trao những sản vật của mình cho họ” (Mt 25:14). Con người trong dụ ngôn này tiêu biểu cho chính Chúa Giêsu, những người tôi tớ là thành phần môn đệ của Người và các nén bạc là những tặng ân Chúa Giêsu ban cho họ. Đó là lý do các tặng ân ấy, ngoài các tính chất tự nhiên, tiêu biểu cho kho tàng được Chúa Giêsu để lại cho chúng ta như là một di sản, nhớ đó chúng ta có thể làm cho chúng sinh lợi: Lời của Người ở trong Phúc Âm; phép rửa canh tân chúng ta trong Thánh Thần; kinh nguyện – “Lạy Cha” – chúng ta ngỏ cùng Thiên Chúa như những người con hiệp nhất với Con của Ngài; ơn thứ tha của Người chúng ta được lệnh phải mang đến cho tất cả mọi người; bí tích về Thân Xác hy tế của Người và Máu đổ ra của Người. Tóm lại, đó là Vương Quốc của Thiên Chúa là chính Chúa Kitô đang hiện diện và sống động giữa chúng ta.  

 

Đó là kho tàng Chúa Giêsu đã ký thác cho bạn hữu của Người, vào cuối cuộc đời ngắn ngủi trên trần gian của Người. Bài dụ ngôn hôm nay nói đến thái độ nội tại tỏ ra chấp nhận và coi trọng tặng ân ấy. Thái độ sai lầm là thái đô sợ hãi, ở chỗ, người đầy tớ tỏ ra sợ chủ mình và sợ việc ông trở lại, đem giấu đồng bạc dưới đất khiến cho nó chẳng sinh lợi gì. Trường hợp này chẳng hạn xẩy ra cho những ai đã lãnh nhận phép rửa, Thánh Thể và thêm sức đem các tặng ân ấy chôn vuì đi dưới những thành kiến, một hình ảnh sai lầm về Thiên Chúa làm tê liệt đức tin và hoạt động, do đó phản lại những gì Chúa mong muốn.

 

Thế nhưng, dụ ngôn này lại nhấn mạnh hơn đến những hoa trái tốt lành xuất phát từ các môn đệ, thành phần, cảm thấy diễm phúc nhận được tặng ân ấy, không đem chôn giấu nó đi vì sợ hãi và ghen tương, nhưng làm cho nó sinh lợi, chia sẻ nó, và tham dự vào đó. Thật thế, những gì Chúa Kitô ban cho chúng ta được tăng lên khi chúng ta hiến ban nó đi! Nó là một kho tàng cần phải được tiêu xài, cần được đầu tư, cần phải được đem chia sẻ với tất cả mọi người, như Tông Đồ Phaolô, vị đại quản trị viên của những tài năng Chúa Giêsu ban, đã dạy chúng ta.

 

Giáo huấn này của Phúc Âm, được phụng vụ nêu lên cho chúng ta hôm nay, thậm chí đã ảnh hưởng đến cả lãnh vực lịch sử và xã hội, khu phát động một tâm thức tích cực nơi thành phần Kitô hữu. Thế nhưng, sứ điệp chính này chú trọng tới tinh thần trách nhiệm tỏ ra chấp nhận Vương Quốc của Thiên Chúa, trách nhiệm đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại. Thái độ này hoàn toàn được hiện thực nơi tâm hồn của Trinh Nữ Maria, vị khi lãnh nhận tặng ân quí nhất trong các tặng ân là chính Chúa Giêsu đã trao ban Người cho thế giới với một tình yêu cao cả. Chúng ta hãy cin Mẹ giúp chúng ta trở thành “những người tôi tớ tốt lành và trung tín”, để một ngày kia chúng ta được dự phần “vào sự hoan lạc của Chúa chúng ta”.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/11/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 

TOP

 

 

Chúa Nhật 9/11/2008 - Đền Thờ Lateranô, "đền thờ này là đền thờ đầu tiên"

Anh Chị Em thân mến!

Hôm nay phụng vụ cử hành việc cung hiến Đền Thờ Lateranô, một đền thờ được gọi là “mẹ và là đầu của tất cả mọi nhà thờ ở thành phố này và trên khắp thế giới”. Thật vậy, đền thờ này là đền thờ đầu tiên được xây cất theo sắc chỉ của Hoàng Đế Constantine năm 323, một sắc chỉ cho phép Kitô hữu được tự do hành sử quyền tự do tôn giáo của mình.

 

Chính vị hoàng đế này đã cống hiến cho Đức Giáo Hoàng Miltiades một dinh thự cũ của gia đình Lateranô, và ngôi đền thờ này, với giếng rửa tội và tư dinh của vị Giám Mục Rôma – nơi các vị Giáo Hoàng đã sống cho tới thời kỳ lưu đầy ở Avignon – tất cả đều được xây cất ở đó. Việc cung hiến đền thờ này được Đức Giáo Hoàng Sylvester cử hành vào khoảng năm 324 với danh xưng là Đấng Cứu Thế Rất Thánh; chỉ cho tới sau thế kỷ thứ 6 mới được thêm tên của các vị Thánh Gioan Tẩy Giả và Gioan Thánh Ký, và hiện nay thường gọi bằng tên các vị Thánh Gioan này.

 

Thoạt tiên việc cử hành lễ này chỉ được thực hiện ở thành phố Rôma; thế rồi vào năm 1565, lễ này được nới rộng cho tất cả mọi Giáo Hội thuộc lễ nghi Rôma. Việc tôn kính ngôi đền thánh này là cách thức bày tỏ lòng mến yêu và tôn kính đối với Giáo Hội Rôma là Giáo Hội, như Thánh Ignatiô thành Antioch nói là “chủ trị trong đức ái” toàn thể mối hiệp thông Công Giáo (Thư gửi tín hữu Rôma 1:1).

 

Trong ngày lễ trọng này Lời Chúa nhắc lại một sự thật thiết yếu, đó là đền thờ bằng đá là biểu hiệu cho Giáo Hội sống động, cho cộng đồng Kitô giáo, một cộng đồng mà trong các thư của mình, Tông Đồ Phêrô và Phaolô đã hiểu như là “một đền đài liêng thiêng”, được Thiên Chúa xây dựng bằng “những tảng đá sống động”, tức là chính các Kitô hữu, trên nền tảng duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Đấng được gọi là “tảng đá góc tường” (cf. 1Cor 3:9-11,16-17; 1Pt 2:4-8; Eph 2:20-22). “Thánh Phaolô đã viết: “Hỡi anh  em, anh em là dinh thự của Thiên Chúa. Đền thờ của Thiên Chúa là thánh tức anh em” (1Cor 3:9c,17).

 

Vẻ đẹp và tính cách hòa hợp của các thánh đường, những gì nhằm để chúc tụng Thiên Chúa, cũng lôi kéo cả loài người chúng ta nữa, thành phần hạn hẹp và tội lỗi, trong việc hoán chuyển để làm nên một “vũ trụ”, một cơ cấu rất thứ tự lớp lang, nơi mối hiệp thông sâu xa với Chúa Giêsu, Đấng là Vị Thánh đích thực trong các thánh nhân. Điều này xẩy ra tuyệt mứcở phụng vụ Thánh Thể, trong đó, “ecclesia”, tức cộng đồng của thành phần lãnh nhận phép rửa, qui tụ lại với nhau một cách liên kết để lắng nghe Lời Chúa và được dinh dưỡng bằng Mình Máu Chúa Kitô. Từ hai bàn tiệc này Giáo Hội của những tảng đá sống động được xây dựng trong chân lý và đức ái và được Thánh Linh hình thành một cách nội tại khi biến chính mình thành những gì Giáo Hội nhận lãnh, làm cho Giáo Hội càng ngày càng nên giống Chúa Giêsu Kitô. Nếu Giáo Hội sống trong mối hiệp nhất chân thành và huynh đệ này, thì Giáo Hội nhờ đó trở thành hy tế thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa.

 

Quí bạn thân mến, lễ hôm nay cử hành một mầu nhiệm luôn thích đáng, ở chỗ, Thiên Chúa muốn xây dựng một đền thờ thiêng liêng trên thế giới này, một cộng đồng tôn thờ Ngài trong tinh thần và chân lý (cf. Jn 4:23-24). Thế nhưng, việc cử hành lễ này cũng nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của những dinh thực vật chất là nơi cộng đồng qui tụ lại để cử hành việc chúc tụng Thiên Chúa. Bởi thế, hết mọi cộng đồng đều có phận sự chăm sóc cho các dinh thực linh thánh của mình là gia sản quí báu về tôn giáo cũng như về lịch sử. Với ý hướng ấy chúng ta cầu xin Mẹ Maria Rất Thánh cuyển cầu, để Mẹ giúp chúng ta trở nên “nhà Chúa”, một đền thờ sống động của tình yêu Ngài, như Mẹ.

 

(Sau khi nguyện Kinh Truyền Tin, ĐTC nói tiếp như sau:)

 

Hôm nay là ngày kỷ niệm 70 năm của một biến cố đau buồn xẩy ra vào đêm 9-10 tháng 11 năm 1938, khi cơn cuồng loạn của Đảng Nazi bùng nổ tấn công những người Do Thái ở Đức quốc. Các cửa tiệm, văn phòng, nhà cửa và hội đường đều bị tấn công, và nhiều người cũng đã bị sát hại, mở màn cho một cuộc bắt bớ người Do Thái ở Đức được tổ chức dữ dội, và được kết thúc bằng thảm trạng Shoah. Hôm nay tôi vẫn còn cảm thấy cái đớn đau về những gì đã xẩy ra cho những trường thê thảm ấy. Những hồi niệm về các điều này cần phải giúp vào việc làm sao tránh đừng để xẩy ra những cảnh kinh hoàng tương tự như thế, và khiến chúng ta dấn thân ở mọi cấp độ trong việc chống lại hết mọi hình thức bài Do Thái và kỳ thị, bằng việc giáo dục cho các thế hệ trẻ biết tôn trọng và chấp nhận nhau. Tôi mời gọi anh chị em hãy cầu nguyện cho các nạn nhân của thời ấy và hiệp với tôi bày tỏ mối liên kết sâu xa với thế giới Do Thái...
 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 9/11/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 

TOP

 

Lễ Các Thánh 1/11

 

Anh chị em thân mến:

 

Hôm nay chúng ta rất hân hoan cử hành lễ Các Thánh.

 

Khi đến viếng thăm một vườn bách thảo, người ta cảm thấy lạ lùng trước những khác nhau của cây cối và hoa thơm, và tự nhiên nghĩ đến những gì được Đấng Hóa Công nghĩ tưởng để thực hiện trên trái đất này như là một vườn hoa kỳ diệu. Chúng ta cũng cảm thấy một cảm thức tương tự khi chúng ta lưu ý tới cái cảnh tượng về sự thánh thiện, ở chỗ, thế giới dường như là một ‘cái vườn’, nơi Thần Linh Chúa đã tuyệt vời bày ra một đám đông đầy những vị thánh nam nữ, thuộc mọi lứa tuổi và tình trạng xã hội, mọi ngôn ngữ, dân tộc và văn hóa. Mỗi vị khác biệt nhau, có một tính chất chuyên biệt hợp với từng người và từng đặc sủng riêng. Tuy nhiên, tất cả đều được “niêm ấn” của Chúa Giêsu (cf. Rev 7:3), tức là được đóng ấn tình yêu của Người, một tình yêu được chứng tỏ bằng con đường thập giá. Tất cả đều ở trong tình trạng hoan hỉ, một cuộc hân oan vô tận, thế nhưng, như Chúa Giêsu, họ đã đạt được đích điểm này bằng việc vượt qua những gì là mệt mã và thử thách (cf. Rev 7:14), mỗi vị đều phải đối đầu với hy sinh để được tham phần vào vinh quang Phục Sinh.

 

Việc long trọng cử hành lễ Các Thánh đã được từ từ công nhận qua giòng lịch sử của thiên kỷ đầu tiên của Kitô giáo như là một cuộc cử hành chung kính các vị tử đạo. Ngay từ năm 609, ở Rôma, Đức Giáo Hoàng Bonifaciô IV đã thánh hiến Đền Bách Thần hay Đền Danh Nhân, khi giành đền này cho Trinh Nữ Maria cũng như tất cả các vị tử đạo. Ngoài ra, vấn đề tử đạo này có thể được hiểu ở một nghĩa rộng, tức là, như Chúa Giêsu đã trọn vẹn yêu thương, tình yêu là những gì được thể hiện nơi việc hoàn toàn hiến thân mình cho Thiên Chúa và tha nhân.

 

Đích điểm thiêng liêng mà tất cả mọi người lãnh nhận phép rửa được kêu gọi đạt đến này, được thực hiện bằng cách theo đuổi con đường của các mối phúc thật, những mối phúc đức được phụng vụ nêu lên cho chúng ta trong ngày lễ hôm nay (cf Mt 5:1-12a). Nó cũng là con đường Chúa Giêsu đã hành trình, và là con đường các thánh đã nỗ lực đi qua, mặc dù ý thức được những hạn hẹp về nhân loại của mình. Đúng thế, trong cuộc sống trần gian của các vị, các vị đã từng sống nghèo khó trong tinh thần, đã cảm thấy sầu thương vì tội lỗi, đã khiêm tốn hạ mình, đã đói khát công lý, đã nhân hậu, đã tinh tuyền tâm can, đã là những người xây đắp hòa bình, đã bị bắt bới vì công lý. Và Thiên Chúa đã làm cho các vị được tham dự vào niềm hạnh phúc của Ngài, ở chỗ, các vị đã nếm trước được niềm hạnh phúc ấy trên thế gian này, và trong thế giới bên kia, các ngài đang trọn vẹn hoan hưởng nó. Giờ đây, các ngài được ủi an, các ngài là thành phần được đất làm của mình, được no thỏa, được thứ tha, các ngài thấy Thiên Chúa là Đấng các ngài là con cái. Tóm lại, “Nước Trời là của họ vậy” (cf. Mt 5:3-10).

 

Hôm nay đây chúng ta cảm thấy bừng lên trong chúng ta cái thu hút của thiên đàng. Nó thúc đẩy chúng tam au bước trong cuộc hành trình trần thế này. Chúng ta cảm thấy bừng lên trong lòng ngọn lửa mong ước được vĩnh viễn kết hợp với gia đình các thánh là gia đình hiện nay chúng ta được phúc là phần tử. Một bản thánh ca thiêng liêng phổ thông hát lên rằng: “Khi các vị thánh tiến vào thì ôi tôi muốn thuộc vào con số của các vị biết bao”.

 

Chớ gì ước vọng tuyệt vời này nung nấu trong các Kitô hữu và giúp họ thắng vượt được hết mọi khó khăn, hết mọi sợ hãi, hết mọi khổ đau. Các bạn thân mến, chúng ta hãy đặt bàn tay của chúng ta vào bàn tay từ mẫu của Mẹ Maria là Nữ Vương các thánh, và hãy để cho Mẹ dẫn dắt về quê hương thiên đàng trong cộng đoàn của những vị phúc kiến “thuộc mọi quốc gia, dân tộc và ngôn ngữ” (Rev 7:9). Và chúng ta hãy liên kết nguyện cầu, tưởng nhớ đến những người ra đi yêu dấu của chúng ta, những người chúng ta tưởng nhớ tới ngày mai. 

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 3/11/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng) 

 

TOP

 

Chúa Nhật 31/8/2008: Về Thực Tại Sự Dữ

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Cả hôm nay nữa, tông đồ Phêrô là nhân vật nổi bật trong bài Phúc Âm. Thế nhưng, nếu ở tuần trước, chúng ta đã ca ngợi đức tin trung thực của ngài nơi Chúa Giêsu, Đấng ngài đã tuyên xưng là Thiên Sai và là Con Thiên Chúa, thì lần này, trong đoạn ngay sau đó, ngài đã bày tỏ một đức tin vẫn còn non dại và bị ảnh hưởng quá nhiều bởi ‘ý hệ trần gian này’ (cf. Rm 12:2).

 

Thật vậy, khi Chúa Giêsu bắt đầu công khai nói về số mệnh đang đợi chờ Người ở Gia Liêm, khi Người nói rằng Người phải chịu nhiều đau khổ, bị giết chết và sống lại, tông đồ Phêrô liền phản kháng rằng: ‘Chúa ơi, Thiên Chúa làm gì để xẩy ra như thế chứ! Đời nào những chuyện đó lại xẩy ra cho Thày’ (Mt 16:22).

 

Rõ ràng là Thày trò nghĩ tưởng theo những cách thức khác nhau. Tông đồ Phêrô, theo lý lẽ loài người, cương quyết rằng Thiên Chúa không bao giờ lại để cho Con của Ngài kết thúc sứ vụ của Người bằng việc chết trên thập giá. Trái lại, Chúa Giêsu biết rằng Cha, vì hết sức thương yêu loài người, đã sai Người để để hiến mạng sống cho họ, và nếu việc hiến mạng sống này có nghĩa là chịu khổ nạn và thập giá, thì điều ấy cần phải xẩy ra.

 

Vả lại, Người biết rằng phục sinh mới là phán quyết cuối cùng. Việc phản kháng của tông đồ Phêrô, mặc dù xuất phát từ lòng thành và chân tình đối với Thày, đối với Chúa Giêsu như là một chước cám dỗ, một lời mời gọi hãy cứu lấy bản thân mình, trong khi đó chỉ khi nào đánh mất sự sống mình đi thì sự sống ấy mới được vĩnh viễn trở về với Người vì tất cả chúng ta mà thôi.

 

Nếu để cứu độ chúng ta, Con Thiên Chúa đã phải chịu khổ đau và tử giá, thì chắc chắn không phải là vì ý muốn ác độc của Cha trên trời. Căn nguyên của nó là tính cách trầm trọng của thứ bệnh nạn mà chúng ta cần phải được Người chữa lành: một sự dữ quá nặng nề và chết chóc đến nỗi đòi Người phải đổ hết máu mình ra. Thật thế, chính nhờ cái chết và phục sinh của mình, Chúa Giêsu đã thắng được tội lỗi và sự chết,  bằng việc tái thiết vai trò chủa tể của Thiên Chúa.

 

Thế nhưng, trận chiến này chưa kết thúc: Sự dữ vẫn đang còn đó và vẫn kháng cự qua mọi thời đại, thậm chí cả ở thời đại của chúng ta đây. Những cảnh kinh hoàng của chiến tranh, tình trạng bạo lực xẩy ra cho thành phần vô tội, tình trạng cùng cực và bất công đang hành hạ thành phần yếu kém là gì, nếu không phải là những gì sự dự phản kháng lại với Vương Quốc của Thiên Chúa hay sao? Và người ta đáp ứng với sự dữ ấy ra sao, nếu không phải bằng thứ tình yêu không cần võ trang khống chế hận thù, bằng sự sống không sợ chết? Đó là thứ quyền năng diệu kỳ được Chúa Giêsu sử dụng bằng giá phải trả là bị hiểu lầm và bị bỏ rơi bởi nhiều người theo Người.

 

Anh chị em thân mến, để hoàn tất công cuộc cứu độ, Đấng Cứu Chuộc tiếp tục lôi kéo đến cùng Người và sứ vụ của Người những con người nam nữ sẵn sàng chấp nhận thập giá mà theo Người. Như Chúa Kitô, đối với Kitô hữu thì việc vác thập giá không phải là những gì ‘tùy nghi  chọn lựa’; trái lại, nó là một sứ vụ cần phải theo đuổi bằng tình yêu.

 

Trong thế giới hiện nay của chúng ta đây, nơi mà những thứ lực lượng chia rẽ và hủy hoại dường như đang thắng thế, Chúa Kitô vẫn không thôi rõ ràng lên tiếng kêu gọi tất cả chúng ta rằng: Ai muốn  làm môn đệ của Thày thì phải từ bỏ mình và vác thập giá mình với Thày.

 

Chúng ta hãy cầu cùng Đức Thánh Trinh Nữ, vị là người đầu tiên theo Chúa Giêsu và theo Người bước đi con đường thập giá. Xin Mẹ giúp chúng ta theo Chúa cách cương quyết để có thể cảm nghiệm được vinh quang phục sinh từ đó và cả trong thử thách.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 31/8/2008

 

 TOP

 

Chúa Nhật 24/8/2008 về Sứ Vụ Giáo Hoàng và tình hình khẩn trương trên thế giới

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Phụng vụ Chúa Nhật tuần này nêu lên một vấn nạn lưỡng diện được Chúa Giêsu có hôm đã đặt ra cho các môn đệ của Người, cho Kitô hữu chúng ta, cũng như cho hết mọi con người nam nữ. Trước hết Người hỏi các vị rằng: ‘Người ta bảo Con Người là ai?’ Các vị thưa Người rằng đối với một số thì Người là Gioan Tẩy Giả hồi sinh, đối với những kẻ khác thì Ngui7ời là Elia, Giêrêmia hay một trong các vị tiên tri. Thế rồi Chúa Giêsu trực tiếp hỏi các môn đệ rằng: ‘Các con bảo Thày là ai?’ Thay mặt cho tất cả môi người tông đồ Phêrô đã khẳng quyết và sốt sắng thưa: ‘Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’. Một lời tuyên xưng đức tin trọng đại đã được Giáo Hội tiếp tục lập lại từ đó.

 

Hôm nay đây chúng ta cũng muốn công bố bằng niềm xác tín sâu xa rằng: Vâng, lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đức Kitô,  Con Thiên Chúa hằng sống! Chúng ta thực hiện điều này vì biết rằng Chúa Kitô thực sự là một ‘kho tàng’ đáng chúng ta phải hy sinh hết mọi sự để chiếm hữu. Chúa Giêsu là ‘Con Thiên Chúa hằng sống’, là Đấng Thiên Sai được hứa ban, Đấng đã đến thế gian để ban ơn cứu độ và làm thỏa đáng niềm khát vọng sự sống và yêu thương ở trong hết mọi con người. Nhân loại chiếm được biết bao khi đón nhận lời tuyên xưng tự nó mang lại niềm vui và an bình này!

 

‘Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’. Đáp lại lời tuyên xưng đức tin linh ứng này của tông đồ Phêrô, Chúa Giêsu phán rằng: ‘Con là Đá và trên đá này Thày sẽ axây Giáo Hội của Thày và các cửa hỏa ngục sẽ không thể nào thắng nổi nó. Thày sẽ trao cho con chìa khóa nước trời’. Đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu nói về Giáo Hội, một Giáo Hội có sứ vụ là hiện thực dự án cao cả của Thiên Chúa trong việc qui tụ toàn thể nhân loại thành một gia đình duy nhất trong Chúa Kitô. Sứ vụ của tông đồ Phêrô, cũng như của các vị thừa kế ngài, chính là để phục vụ mối hiệp nhất này của một Giáo Hội duy nhất của Thiên Chúa được làm nên bởi thành phần dân ngoại và Do Thái; thừa tác vụ bất khả châm chước là bảo đảm rằng Giáo Hội không bao giờ đồng hóa mình với bất cứ một quốc gia hay văn hóa nào, mà là Giáo Hội của tất cả mọi dân tộc, để làm hiện thực giữa con người – thành phần được ghi dấu bởi vô vàn chia rẽ và xung khắc – niềm bình an của Thiên Chúa, mối hiệp nhất của những ai đã trở nên anh chị em trong Chúa Kitô: Đó là sứ vụ chuyến biệt của Giáo Hoàng, Vị Giám Mục Rôma, vĩ thừa kế Thánh Phêrô.

 

Trước trách nhiệm khổng lồ của công việc ấy, tôi càng ngày càng cảm thấy cái bó buộc và tầm quan trọng của việc phục vụ đối với Giáo Hội và thế giới đã được ủy thác cho tôi. Vì thế tôi xin anh chị em thân mến hãy hỗ trợ tôi bằng lời nguyện cầu của anh chị em để trung thành với Chúa Kitô chúng ta cùng nhau loan báo và làm chứng cho sự hiện diện của Người trong thời đại của chúng ta. Chớ gì Mẹ Maria, vị chúng ta tin tưởng cầu khấn như Mẹ Giáo Hội và là Ngôi Sao Truyền Bá Phúc Âm Hóa, xin cho chúng ta ơn này.

 

(Sau khi nguyện Kinh Truyền Tin, Đức Giáo Hoàng đã nói như sau:)

 

Những căng thăng gia tăng khắp thế giới trong mấy tuần gần đây khiến cho chúng ta cảm thấy quan tâm. Chúng ta cần phải ghi nhận một cách đớn đau là mối đe dọa về một thứ suy thoái nơi bầu khí tin tưởng và hợp tác đang gây lung củng nơi các mối liên hệ chư quốc. Trong những hoàn cảnh đang xẩy ra hiện nay, làm sao chúng ta không thể đo lường được thứ tình trạng khó khăn mà nhân loại đang cố gắng để hình thành cái nhận thức chung của việc trở thành ‘một gia đình của chư quốc’ được Đức Gioan Phaolô II nêu lên như là một lý tưởng cho đại hội đồng Liên Hiệp Quốc? Chúng ta cần phải sâu xa cái nhận thức về việc trở thành liên kết bởi một định mệnh chung, tựu ký trung, đó là một thứ định mệnh siêu việt (Cf. "Message for the World Day of Peace," Jan. 1, 2006, No. 6), là ngăn chặn việc hồi sinh những xung khắc về chủ nghĩa quốc gia là những gì đã gây ra những hậu quả thảm khốc ở những giai đoạn lịch sử khác.

 

Những biến cố gần đây đã làm suy yếu đi niềm tin tưởng trước nhiều kinh nghiệm như thế đã từng xẩy ra trong quá khứ. Thế nhưng chúng ta không được trở thành bi quan! Trái lại, chúng ta cần phải chủ động dấn thân loại trừ khuynh hướng chống chọi với những tình hình mới bằng các thể chế cũ. Cần  phải loại trừ bạo lực! Thế lực về luân lý của luật lệ, những cuộc thương thảo bình đẳng và minh bạch để giải quyết những tranh cãi, bắt đầu với những cuộc tranh cãi liên quan tới tình trạng nguyên vẹn về lãnh thổ và quyền tự quyết của các dân tộc, trung thành với lời công bố, việc theo đuổi công ích: Đó là một số đường nẻo chính cần phải bước tới, một cách kiên cường và sáng tạo, để thiết lập những mối liên hệ hữu hiệu và chân thành cũng như để bảo đảm cho các thế hệ hiện tại với tương lai những thời điểm của sự hòa hợp và của tình trạng tiến bộ về luân lý và dân sự!

 

Chúng ta hãy biến những ý nghĩ này cùng với những ước muốn ấy thành lời nguyện cầu, nhờ đó, tất cả mọi phần tử của cộng đồng quốc tế và đặc biệt những ai có trách nhiệm trọng đại, biết quảng đại hoạt động để tái thiết những động lực cao cả cho công lý và hòa bình. Xin Mẹ Maria, Nữ Vương hòa bình, chuyển cầu cho chúng con!  

 

 

TOP

 

Chúa Nhật XII Thường Niên 22/6/2008:  Ai ‘sợ’ Chúa thì ‘không sợ hãi’

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu dạy chúng ta một đàng “đừng sợ con người” đàng khác lại “sợ” Thiên Chúa (x Mt 10:26,28). Vậy chúng ta cần phải suy nghĩ về sự khác biệt giữa những nỗi hãi sợ loài người với sự kính sợ Thiên Chúa. Sợ hãi là khuynh hướng tự nhiên của đời sống. Từ khi còn là trẻ con chúng ta đã cảm nghiệm được những hình thức của nỗi sợ hãi được cho thấy là do óc tượng tượng hay là những hình thức sợ hãi không còn nữa. Sau các nỗi sợ hãi ấy có những thứ sợ hãi khác được thực sự căn cứ vào thực tại: Cần phải đương đầu với những thứ sợ hãi này và thắng vượt bằng nỗ lực của con người và niềm cậy trông vào Thiên Chúa. Thế nhưng, nhất là ngày nay, còn có một hình thức sợ hãi sâu xa hơn của một kiểu sống đôi khi tràn đầy âu lo: Nó xuất phát từ một cảm quan trống rỗng liên quan tới một thứ văn hóa thấm đậm chủ nghĩa tuyệt mạng về lý thuyết cũng như về thực hành.

 

Trước những bức tranh toàn cảnh lớn lao và đa dạng của những nỗi hãi sợ của con người ấy thì lời Chúa ấy vang lên rõ ràng là Ai ‘sợ’ Chúa thì ‘không sợ hãi’. Lòng kính sợ Thiên Chúa, một lòng kính sợ được Thánh Kinh xác nhận là ‘khởi điểm của sự khôn ngoan chân thực’, đồng nghĩa với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, ở chỗ thánh thiện tôn kính quyền bính của Ngài trên sự sống và thế giới. ‘Bất kính sợ Thiên Chúa’ thì tương đương với việc đặt mình vào chỗ của Ngài, cho mình là chủ tể của sự lành và sự dữ, của sự sống và sự chết.

 

Thế nhưng, ai kính sợ Thiên Chúa thì trong lòng cảm thấy an toàn như một đứa trẻ trong tay của mẹ mình (x Ps 130:2): Ai kính sợ Thiên Chúa thì bình lặng dù ở giữa những bão tố, vì Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết, là một Người Cha đầy xót thương và nhân hậu. Ai kính mến Thiên Chúa thì không hãi sợ: ‘trong yêu thương không có vấn đề sợ hãi’, Thánh Tông Đồ Gioan viết như thế. Ngài tiếp tục viết: ‘Tình yêu thương trọn hảo thì loại trừ sự sợ hãi, vì sợ hãi không liên can tới hình phạt và ai sợ hãi thì chưa trọn hảo trong yêu thương’ (1Jn 4:18).

 

Bởi thế, người tín hữu không sợ hãi bất cứ sự gì, vì họ biết rằng họ ở trong tay Thiên Chúa, họ biết rằng sự dữ là những gì vô lý và không phải là phán quyết cuối cùng, và chỉ có một mình Chúa Kitô mới là Chúa của thế giới và của sự sống, là Lời Nhập Thể của Thiên Chúa, họ biết rằng Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta cho đến độ hy hiến bản thân mình, chết trên thập tự giá cho phần rỗi của chúng ta.

 

Chúng ta càng gia tăng tình thân mật với Thiên Chúa, một tình thân mật thấm nhuần yêu thương, thì chúng ta càng sẽ dễ dàng chế ngự được hết mọi sự sợ hãi. Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu hai lần khuyên dụ chúng ta là đừng sợ. Người trấn an chúng ta như Người đã trấn an các vị tông đồ, như Người đã trấn an Thánh Phaolô, khi xuất hiện với ngài trong một thị kiến về đêm là lúc đang xẩy ra đặc biệt sự khốn khó trong việc rao giảng của ngài. Chúa Giêsu nói với ngài rằng: ‘Đừng sợ, vì Thày ở cùng con’ (Acts 18:9). Được kiên cường bởi sự hiện diện của Chúa Kitô và được an ủi bởi tình yêu của Người, Vị Tông Đồ Dân Ngoại thậm chí đã không sợ tử đạo. Chúng ta đang sửa soạn để cử hành 2000 năm sinh nhật của Thánh Phaolô bằng một năm thánh đặc biệt. Chớ gì biến cố thiêng liêng và mục vụ trọng đại này làm dậy lên trong cả ở nơi chúng ta nữa một lòng tin tưởng mới mẻ vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã gọi chúng ta hãy loan báo và làm chứng cho Phúc Âm của Người mà không sợ hãi bất cứ một sự gì.

 

Bởi vậy, anh chị em thân mến, tôi mời gọi anh chị em hãy sửa soạn lấy đức tin cử hành Năm Thánh Phaolô này, một năm mà, nếu Thiên Chúa muốn, tôi sẽ long trọng khai mạc vào tối Thứ Bảy tuần tới vào lúc 6 giờ chiều ở Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoài Thành, bằng giờ Kinh Tối mở màn cho Lễ Trọng Kính Hai Thánh Phêrô và Phaolô. Tư giây phút này đây, tôi xin ký thác khởi động trọng đại của giáo hội này cho việc chuyển cầu của Thánh Phaolô và Mẹ Maria rất thánh là Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo và là Mẹ của Chúa Kitô, Đấng là nguồn mạch cho niềm hân hoan của chúng ta và là bình an của chúng ta.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 22/6/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 TOP

 

Chúa Nhật 8/6/2008 - Thánh Mathêu được tuyển gọi

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Ở tâm điểm của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này là lời bày tỏ của tiên tri Hosea được Chúa Giêsu trích lại trong Phúc Âm, đó là lời “Ta muốn yêu thương chứ không muốn hy tế, muốn nhận biết Thiên Chúa hơn là các thứ lễ toàn thiêu” (Hos 6:6).

 

Chúng ta thấy được một chữ chính yếu ở đây, một chữ mở cho chúng ta cửa để tiến vào tâm điểm của Thánh Kinh. Bối cảnh được Chúa Giêsu dùng để sử dụng câu diễn tả này như là của Người đó là việc Người kêu gọi Mathêu, một tay làm nghề “publicanô”, một tay thu thuế cho các thẩm quyền của đế quốc Rôma: vì thế mà ngài bị dân Do Thái coi là một tay tội đồ công khai.  

 

Được kêu gọi khi đang ngồi ở quay thu thuế – cảnh tượng này đã được Caravaggio tuyệt vời họa lên – Chúa Giêsu đi đến nhà của Mathêu cùng với các môn đệ của Người và ngồi vào bàn ăn uống với những người publicanô. Chúa Giêsu đã trả lời cho những người Pharisiêu cảm thấy chướng mắt rằng: “Người mạnh khỏe thì không cần đến thày thuốc mà là kẻ bệnh nạn … Tôi đến không phải để gọi kẻ công chính mà là tội nhân” (Mt 9:12-13).

 

Thánh Ký Mathêu, vị bao giờ cũng chú ý tới mối liên hệ giữa Cựu Ước và Tân Ước, đã đặt những lời của tiên tri Hosea vào môi miệng của Chúa Giêsu: “Vậy các người hãy đi mà tìm hiểu ý nghĩa của những lời này: ‘Ta cần tình thương chứ không phải hy tế’”. Tầm quan trọng của lời diễn tả này của vị tiên tri ấy đó là được Chúa Giêsu lập lại ở một bối cảnh khác liên quan tới việc giữ ngày Hưu Lễ (x Mt 12:1-8). Thậm chí trong bối cảnh này, Người mang trọng trách giải thích cho qui luật ấy, khi tỏ bản thân mình là “Chúa” của chính các cơ sở về pháp lý.

 

Hướng về các người Pharisiêu Người thêm là: “Nếu các người hiểu được ý nghĩa của những lời ‘Ta muốn tình thương chứ không phải hy tế’ thì các người sẽ không lên án những ai lầm lỗi” (Mt 12:7). Bởi vậy, trong lời loan báo này của tiên tri Hosêa, Chúa Giêsu là Lời hóa thân làm người có thể nói là hoàn toàn được tái nhận thức.

 

Người đã sử dụng những lời này bằng tất cả tấm lòng của Người  và Người đã hiện thực chúng nơi tác hành của Người, thậm chí gây bực mình cho thành phần lãnh đạo trong dân. Lời này của Thiên Chúa đã qua Phúc Âm truyền tới chúng ta như là một trong những tổng hợp của toàn sứ điệp Kitô giáo: Tôn giáo thực là ở lòng mến Chúa yêu người. Đó là những gì mang lại giá trị cho việc tôn thờ về phụng vụ cũng như việc tuân giữ các luật định.

 

Giờ đây, hướng về Trinh Nữ Maria, chúng ta hãy xin Mẹ, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, luôn sống trong niềm vui của cảm nghiệm Kitô Giáo này. Chớ gì Người Mẹ Tình Thương này, Đức Bà, khơi lên trong chúng ta những cảm thức về việc phó mình con thảo cho Thiên Chúa, Đấng là tình thương vô biên; chớ gì Mẹ giúp chúng ta cảm thấy lời nguyện được Thánh Âu Quốc Tinh viết ra trong một đoạn nổi tiếng của tác phẩm “Tự Thú”: “Lạy Chúa, xin thương xót con! Này đây con không che giấu các thương tích của con: Chúa là thày thuốc của con, con là một kẻ bệnh nạn; Chúa là Đấng xót thương, con là kẻ khốn cùng. Tất cả hy vọng của con ở nơi tình thương cao cả của Chúa” (X, 28, 39; 29, 40).

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 8/6/2008

 

 

 

  TOP

 

 

 

Chúa Nhật 1/6/2008  - Thánh Tâm Chúa

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Chúa Nhật hôm nay đây, ngày đầu tiên của Tháng 6, tôi muốn đề cập là tháng này theo truyền thống được giành để kính Thánh Tâm Chúa Kitô, một biểu hiệu của niềm tin Kitô giáo rất thân  thương với tín hữu, với các nhà thần bí cũng như với các thần học gia, vì nó bày tỏ một cách đơn thành và chân thực ‘tin mừng’ của tình yêu, tóm gọn chính mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc.

 

Thứ Sáu vừa rồi chúng ta đã cử hành lễ trọng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, lễ thứ ba và là lễ cuối cùng trong các thánh lễ trọng sau Lễ Phục Sinh, sau Lễ Chúa Ba Ngôi Chí Thánh và Lễ Mình Thánh Chúa Kitô. Một loạt liên tiếp các lễ trọng này nhắc nhở đến tính cách chuyển biến hướng tâm: một chuyển biến của vị Thần Linh được hướng dẫn bởi chính Thiên Chúa.

 

Thật vậy, nơi chân trời vô cùng bất tận của tình yêu của mình, Thiên Chúa đã muốn đi vào những hạn hẹp của lịch sử cũng như của thân phận con người, Người đã mặc lấy một thân xác và một con tim; nhờ đó chúng ta có thể chiêm  ngưỡng và gặp gỡ cái vô cùng trong cái có cùng, mầu nhiệm vô hình và khôn tả của trái tim Chúa Giêsu Người Nazarét. 

 

Trong bức thông điệp đầu tiên của tôi về đề tài tình yêu, khởi điểm đó là ánh mắt hướng về cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Kitô được Thánh Gioan nói tới trong Phúc Âm (x Jn 19:37; Deus Caritatis Est, 12). Và tâm điểm của đức tin này cũng là mạch nguồn của niềm hy vọng nhờ đó chúng ta được cứu độ, niềm hy vọng tôi đã lấy làm đề tài cho bức thông điệp thứ hai của tôi.

 

Hết mọi người đều cần một ‘tâm điểm’ cho đời sống của mình, một nguồn mạch sự thiện và sự thiện được kín múc lấy nơi những giòng môi trường hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống hằng này và nỗi lao nhọc của nó. Hết mọi người trong chúng ta, khi thinh lặng suy nghĩ một chút, cần cảm thấy chẳng những nhịp tim đập nơi tâm can của mình, mà sâu xa hơn nữa, nhịp đập của một sự hiện diện đáng tin tưởng, có thể cảm nhận đối với những cảm quan nhưng càng chân thực hơn của đức tin, đó là sự hiện diện của Chúa Kitô, con tim của thế giới.   

 

Bởi thế tôi mời gọi mọi người hãy lập lại lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Kitô trong tháng 6 này, khi sử dụng lời nguyện cầu truyền thống trong việc hiến dâng ngày sống và nhớ đến  những ý chỉ tôi nêu lên cho toàn thể Giáo Hội.

 

Cùng với Thánh Tâm Chúa Giêsu, phụng vụ mời gọi chúng ta hãy tôn kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria nữa. Chúng ta hãy luôn luôn hết lòng tin tưởng phó mình cho Mẹ.

 

Một lần nữa, tôi kêu xin lời chuyển cầu từ mẫu của Vị Trinh Nữ này cho nhân dân Trung Hoa và Miến Điện, những người bị hoạn nạn thiên tai, cũng như cho những ai đang phải đương đầu với nhiều trường hợp khổ đau, bệnh tật và khổ sở về vật chất và tinh thần là những gì làm nên cuộc hành trình của nhân loại.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 1/6/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

TOP

 

Chúa Nhật 25/5/2008: Thánh Thể là học đường dạy bác ái và tình đoàn kết.

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Lễ trọng kính Mình Thánh Cbúa được cử hành hôm nay ở Ý và tại các xứ sở khác nhau. Lễ này được cử hành ở Vatican và ở những quốc gia khác vào ngày Thứ Năm. Đây là Lễ về Thánh Thể, một tặng ân tuyệt vời của Chúa Kitô, Đấng trong Bữa Tiệc Ly đã muốn  để lại cho chúng ta một tưởng niệm về Cuộc Vượt Qua của Người, một bí tích của Mình Máu Người, một bảo chứng của tình Người bao la yêu thương chúng ta.

 

Tuần vừa qua, mầu nhiệm Ba Ngôi chí thánh đã thu hút việc chúng ta ngất ngây chiêm ngưỡng; hôm nay, chúng ta được mời gọi để nhìn lên Tấm Bánh được thánh hiến: Đây cũng cùng một Vị Thiên Chúa! Cùng một Tình Yêu! Vẻ đẹp của chân lý Kitô Giáo là ở chỗ Đấng Hóa Công và Chúa của tất cả mọi sự đã trở nên ‘một hạt lúa miến’ được gieo xuống trái đất của chúng ta, xuống luống cầy lịch sử của chúng ta; Người đã trở nên tấm bánh được bẻ ra, được chia sẻ và được ăn đi; Người đã trở nên lương thực của chúng ta cho chúng ta được sự sống, sự sống thần linh của Người. Người được hạ sinh ở Bêlem, nơi tiếng Do Thái gọi là ‘Nhà Bánh’, và khi Người bắt đầu rao giảng cho dân chúng thì Người mạc khải rằng Người được Cha sai đến trần gian như “bánh hằng sống từ trời xuống’, như ‘bánh sự sống’. Thánh Thể là học đường dạy bác ái và tình đoàn kết. Những ai ăn Bánh Chúa Kitô không thể cứ tỏ ra dưng dửng lạnh lùng trước những ai, thậm chí trong những ngày của chúng ta đây, thiếu hụt bánh ăn. Nhiều cha mẹ nghèo nàn không thể cung cấp cho mình và cho con cái mình. Đây là một vấn đề trầm trọng đang gia tăng mà cộng đồng quốc tế cảm thấy khó lòng giải quyết. Giáo Hội không chỉ cầu nguyện ‘cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày’, mà còn, theo dương Chúa Kitô, hoạt động hết cách ‘để biến 5 ổ bánh và 2 con cá ra nhiều’ bằng vô vàn các nỗ lực nhân đạo của mình cũng như bằng việc chia sẻ để không ai còn bị thiếu thốn trong đời sống.

 

Anh chị em thân mến, chớ gì lễ Mình Thánh Chúa là một cơ hội để gia tăng mối quan tâm thực tiễn này đối với anh chị em của chúng ta, nhất là thành phần nghèo khổ. Chớ gì Trinh Nữ Maria xin cho chúng ta ơn này. Từ Mẹ, Người Con của Thiên Chúa đã mặc lấy huyết nhục, như chúng ta hét lên trong bài thánh ca Thánh Thể, được nhiều đại sáng tác gia phổ nhạc: "Ave verum corpus natum de Maria Virgine," bài thánh ca được kết thúc bằng lời nguyện cầu: "O Jesu dulcis, o Jesu pie, o Jesu fili Mariae!"

 

Xin Mẹ Maria, Vị, khi cưu mang Chúa Giêsu trong lòng mình, đã là ‘nhà tạm’ sống động của Thánh Thể, hãy thông đạt cho chúng con đức tin của Mẹ nơi mầu nhiệm Mình Máu Thánh Con Mẹ, để Người thực sự trở thành tâm điểm của đời sống chúng ta. Chúng ta sẽ qui tụ lại quanh Mẹ vào Thứ Bảy tới đây 31/5, vào lúc 8 giờ tối ở Quảng Trường Thánh Phêrô để đặc biệt cử hành và kết thúc tháng Thánh Mẫu Maria.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 25/5/2008

 

 

  TOP

 

Chúa Nhật 18/5/2008 - Đức Bà dellea Guardia: ‘Hãy tin nơi Mẹ!’

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Ở vào lúc trọng điểm của cuộc viếng thăm mục vụ của tôi ở Genoa, chúng ta đã tiến đến giây phút quen thuộc Truyền Tin Chúa Nhật và tự nhiên tôi nghĩ tới Đền Thánh Nostra Signore della Guardia, nơi tôi đã dừng chân nguyện cầu sáng hôm nay. Nhiều lần, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV, vị công dân đồng hương nổi tiếng của anh chị em, đã đến nghỉ ngơi ở núi này như là một vị khách hành hương, và ỡ Khu Vườn Vatican, ngài đã cho làm lại  bức ảnh Madonna della Guardia yêu dấu. Và như vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của tôi, trong chuyến hành hương đầu tiên trong giáo triều của mình đến Genoa, tôi cũng muốn bắt đầu việc viếng thăm mục vụ của mình bằng việc đến kính viếng Người Mẹ thiên đình của Thiên Chúa này, Vị từ trên đỉnh Núi Figogna canh chừng toàn thể thành phố và dân cư của thành phố này.


Truyền thống cho Đức Mẹ, trong lần hiện ra lần đầu tiên với Benedetto Pareto – người bấy giờ cảm thấy lo lắng về việc làm sao lại sắp sửa xây dựng một nhà thờ ở một nơi quá xa thành phố – đã nói rằng ‘Hãy tin nơi Mẹ! Con sẽ không thiếu phương tiện. Mọi sự sẽ trở nên dễ dàng với sự trợ giúp của Mẹ’. ‘Hãy tin nơi Mẹ!’ Mẹ Maria lập lại lời này với chúng ta hôm nay đây. Một kinh nguyện cổ xưa, rất thân thương với truyền thống dân chúng, đã ngỏ những lời ấy cùng Mẹ,  những lời hôm nay chúng ta tự mình lập lại rằng: “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ rất nhân từ. Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người chạy đến cùng Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời”.

 

Với niềm tin tưởng ấy, chúng ta kêu cầu việc trợ giúp từ mẫu của Đức Bà dellea Guardia cho cộng đồng giáo phận của anh chị em, các vị mục tử của anh chị em, các người sống đời tận hiến, giới trẻ, các gia đình, người già lão. Chúng tax in Mẹ đặc biệt trông coi thành phần bệnh nạn và thành phần khổ đau, và làm sinh hoa kết trái những hoạt động truyền giáo đang thực hiện để thực hiện việc loan báo Phúc Âm cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cùng nhau ký thác cho Mẹ Maria toàn thể thành phố này, với thành phần dân chúng đa dạng của nó, những sinh hoạt về văn hóa, xã hội và kinh tế. Những trục trặc và những khó khăn thử thách của thời đại chúng ta, và việc dấn thân của những ai cùng nhau làm việc cho ích chung.

 

Giờ đây tôi hướng mắt về tất cả Liguria, nơi đầy những nhà thờ và Đền Thánh Mẫu, hiện lên như một vương miện giữa biển cả và núi đồi. Cùng với anh chị em tôi cảm tạ Chúa về niềm tin mạnh mẽ và chặt chẽ của những thế hệ đã qua mà trải qua các thế hệ đã được đánh dấu bằng những giai đoạn đáng ghi nhớ của sự thánh đức và văn minh nhân loại. Liguria, đặc biệt là Genoa, luôn là một mảnh đất hướng về Địa Trung Hải và toàn thế giới: Biết bao nhiêu là vị thừa sai đã lên đường từ hải cảng này để sang Mỹ Châu cùng các m iền đất xa xôi khác!  Biết bao nhiều người đã di dân từ đây đến các xứ sở khác, có lẽ nghèo về vật chất song phong phú về niềm tin cùng các giá trị nhân bản và thiêng liêng, những gì họ gieo trồng ở những nơi họ cư ngụ! Lạy Mẹ Maria là Ngôi Sao Biển, xin hãy tiếp tục chiếu soi Genoa! Lạy Mẹ Maria là Vì Sao Hy Vọng, xin hãy tiếp tục hướng dẫn cuộc hành trình của người dân Genoa, nhất là những thế hệ mới, để họ thấy được đường ngay nẻo chính giữa một đại dương cuộc đời đầy sóng gió ba đào!

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 18/5/2008

 

TOP

 

 

Chúa Nhật 11/5/2008: Phép Rửa Trong Thánh Thần

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Hôm nay chúng ta cử hành lễ trọng Hiện Xuống, một lễ Do Thái cổ xưa là lễ cử hành giao ước được ký kết giữa Thiên Chúa và dân Ngài ở Núi Sinai (x Ex 19). Nó trở thành một lễ Kitô Giáo vì những gì xẩy ra trong 50 ngày mừng sau khi Chúa Giêsu phục sinh đây.

 

Chúng ta đọc thấy trong Sách Tông Vụ là các môn đệ họp nhau lại nguyện cầu ở Nhà Tiệc Ly thì Chúa Thánh Thần xuống trên các vị bằng quyền năng như gió và lửa. Thế rồi các vị bắt đầu rao giảng tin mừng của Chúa Kitô phục sinh bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau (x Acts 2:1-4). Đó là ‘phép rửa trong Thánh Thần’ là những gì đã được Thánh Gioan Tẩy Giả nói tới. Thánh nhân nói với dân chúng rằng: ‘Tôi lấy nước mà rửa cho anh chị em, thế nhưng vị đến sau tôi song quyền năng hơn tôi. (…) Người sẽ rửa anh chị em trong Thánh Thần’ (Mt 3:11).

 

Thật vậy, toàn thể sứ vụ của Chúa Giêsu là để ban phát Vị Thần Linh của Thiên Chúa này cho loài người và rửa họ trong ‘bể’ tái sinh. Điều này được hiện thực nơi cuộc vinh hiển của Người (x Jn 7:39), tức là qua sự chết và sống lại của Người: Bấy giờ Thần Linh của Thiên Chúa được tuôn trào, như thác nước có thể thanh tẩy hết mọi tâm can, làm tắt đi những ngọn lửa sự dữ và thắp lên ngọn lửa tình yêu thần linh trên thế giới.

 

Sách Tông Vụ cho thấy Biến Cố Hiện Xuống như là một cái gì hoàn thành một lời hứa hẹn và vì thế là một giây phút hiển vinh của toàn thể sứ vụ Chúa Giêsu. Sau cuộc phục sinh của Người, chính Người đã truyền cho các môn đệ là hãy ở lại Gia-Liêm, vì Người phán: ‘Trong một thời gian ngắn các con sẽ được rửa trong Thánh Thần’ (Acts 1:8); rồi thêm: ‘Các con sẽ nhận được quyền năng của Thánh Linh, Đấng sẽ xuống trên các con để các con làm chứng cho Thày ở Gia Liêm, khắp Galilêa cùng Samaria cho đến tận cùng thế giới’ (Acts 1:8).

 

Bởi vậy, Biến Cố Hiện Xuống đặc biệt là biến cố Giáo Hội lãnh nhận phép rửa, một Giáo Hội đảm nhận sứ vụ toàn cầu của mình từ những ngõ hẻm ở GiaLiêm bằng việc rao giảng lạ lùng với những thứ ngôn ngữ khác nhau của nhân loại. Nơi phép rửa Thánh Linh này, chiều kích chung riêng – ‘cái tôi’ của người môn đệ và ‘cái chúng tôi’ của Giáo Hội – là những gì bất khả phân ly. Thần linh thánh hóa con người này và đồng thời làm cho họ trở thành phần tử sống động của nhiệm thể Chúa Kitô, một tham phần vào sứ vụ làm chứng cho tình yêu thương của Người.

 

Và điều này được hiện thực qua các phép bí tích nhập môn của Kitô Giáo, đó là phép rửa tội và phép thêm sức. Trong sứ điệp cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008, tôi đã mời gọi giới trẻ là hãy tái nhận thức sự hiện diện của Thánh Linh trong đời sống của mình, nhờ đó, thấy được tầm quan trọng của các phép bí tích ấy. Hôm nay tôi muốn gửi lời mời gọi này tới hết mọi người: Anh chị em thân mến, chúng ta hãy khám phá lại vẻ đẹp của việc được rửa trong Thánh Thần; chúng ta hãy nhận thức lại phép rửa tội của chúng ta và phép thêm sức của chúng ta, những mạch nguồn ân sủng hằng hiện hữu.

 

Chúng ta hãy xin Trinh Nữ Maria xin cho Giáo Hội ngày nay một Lễ Hiện Xuống mới, một Lễ Hiện Xuống lan tràn nơi hết mọi người niềm vui sống và làm nhân chứng cho Phúc Âm.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 11/5/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 

TOP

 

13/4/2008 Chúa Nhật Chúa Chiên Lành về Tiếng Gọi Truyền Giáo

 

Anh chị em thân mến,

 

Vào Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh này, ngày phụng vụ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu như là một Vị Mục Tử Nhân Lành, thì Giáo Hội cử hành Ngày Thế Giới Cầu Cho Các Ơn Gọi. Ở hết mọi lục địa, các cộng đồng giáo hội liên kết nài xin Chúa ban cho nhiều ơn gọi thánh đức làm linh mục, sống đời tận hiến và truyền giáo, và hôn nhân Kitô giáo, bằng việc suy niệm về đề tài: Các ơn gọi Phục Vụ Giáo Hội Truyền Giáo. Năm nay, Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Các Ơn  Gọi 2008 được liên kết với chiều kích của năm Thánh Phaolô, một năm được bắt đầu vào ngày 28 tháng 6 tới đây, để mừng 2000 năm sinh nhật của Tông Đồ Phaolô, đệ nhất truyền giáo gia.

 

Theo kinh nghiệm về Vị Tông Đồ Dân Ngoại này, vị được Chúa kêu gọi để trở thành “một thừa tác viên Phúc Âm”, thì ơn gọi và sứ vụ truyền giáo là những gì bất khả phân ly. Bởi thế, ngài là mô phạm cho tất cả mọi Kitô hữu, đặc biệt là cho thành phần thừa sai “một đời – ad vitam”, tức là những con người nam nữ  hoàn toàn dấn thân cho việc truyền giảng Chúa Kitô cho những ai vẫn chưa nhận biết Người: một ơn gọi tiếp tục giữ được tất cả tính cách hiệu năng của nó.

 

Trước hết, việc phục vụ truyền giáo này được thi hành bởi các vị linh mục trong việc cống hiến Lời Chúa và các bí tích, cũng như trong việc biểu lộ sự hiện diện chữa lành của Chúa Giêsu Kitô qua việc các vị bác ái mục vụ cho hết mọi người, nhất là người yếu bệnh, những con người bé mọn và nghèo khổ. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa về những người an hem này của chúng ta, những người đã dứt khoát dấn thân cho thừa tác mục vụ, đôi khi niêm ấn  lòng trung thành của mình với Chúa Kitô bằng việc hy hiến mạng sống của mình, như đã xẩy ra hôm qua cho hai tu sĩ bị sát hại ở Guinea và Kenya. Chúng ta hãy tỏ lòng tri ân ca ngợi cũng như nguyện cầu cho linh hồn các vị.

 

Chúng ta hãy cầu xin để gia tăng con số những ai quyết định sống hết mình Phúc Âm bằng những lời khấn thanh tịnh, khó nghèo và tuân phục – những con người nam nữ đóng vai trò chủ yếu tron g việc truyền bá phúc âm hóa. Một số trong họ hiến đời mình trong việc chiêm niệm và cầu nguyện, những người khác lại dấn thân cho hoạt động muôn mặt về giáo dục và bác ái. Tuy nhiên, tất cả họ đều liên kết với nhau trong cùng một mục tiêu, đó là làm chứng cho thượng quyền của Thiên Chúa trên tất cả mọi sự cũng như làm lan rộng Vương Quốc của Ngài ở mọi lãnh vuưc của xã hội.

 

Nhiều người trong họ, như Người Tôi Tớ Chúa Phaolô VI đã viết, “Họ là thành phần mạnh dạn và việc tông đồ của họ thường có đặc tính nguyên tuyền, một thứ tinh túy cần phải được ca ngợi. Họ là thành phần quảng đại: người ta thường thấy họ ở những địa điểm truyền giáo, và họ dám hết mình liều đến cả sức khỏe của họ cùng chính sự sống của họ.” (Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, 69).

 

Sau hết, không được quên là hôn nhân Kitô giáo cũng là một ơn gọi truyền giáo nữa: thật vậy, đôi phối ngẫu được kêu gọi sống Phúc Âm trong gia đình, nơi công sở cũng như trong giáo xứ và các cộng đồng dân sự. Tuy nhiên, ở một số trường hợp, họ cống hiến sự đóng góp đáng giá của họ cho việc truyền giáo “cho muôn dân – ad gentes”.

 

Anh chị em thân mến: Chúng ta hãy kêu xin Mẹ Maria từ mẫu chở che phù trì cho nhiều ơn gọi hiện hữu trong Giáo Hội, nhờ đó những ơn gọi này được phát triển theo chiều kích thiết tha truyền giáo. Tôi cũng phó thác cho Mẹ là Mẹ Giáo Hội và là Nữ Vương Hòa Bình cảm nghiệm truyền giáo đặc biệt mà tôi sẽ trải qua trong vài ngày tới đây qua chuyến tông du Hiệp Chủng Quốc và cuộc viếng thăm Liên Hiệp Quốc, xin anh chị em hộ tống tôi bằng những lời nguyện cầu của anh chị em.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 13/4/2008

 

 

TOP

 

 

6/4/2008 Chúa Nhật Lễ Lá về Hành Trình Emmau

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Phúc Âm của Chúa Nhật này – Chúa Nhật Thứ Ba Phục Sinh – là một trình thuật nổi tiếng về các môn đệ đi Emmau (x Lk 24:13-35).  Câu truyện này kể về 2 môn đệ của Chúa Kitô, vào ngày sau Ngày Hưu Lễ, tức là vào ngày thứ ba sau khi Chúa chết, vì cảm thấy buồn thảm và thất vọng, đã bỏ Gia Liêm mà đến một làng gần đó được gọi đúng là Emmau.

 

Trên con đường này, Chúa Giêsu phục sinh đã đến và đi bên họ nhưng họ không nhận ra Người. Thấy họ cứng lòng, Người đã dẫn giải theo Thánh Kinh rằng Đấng Thiên Sai cần phải chịu khổ đau và chết đi để tiến vào vinh quang của Người. Khi bước vào nhà với họ, Người đã ngồi xuống bàn cùng họ,  chúc phúc cho bánh và bẻ bánh ra, bấy giờ họ nhận ra Người, song Người đã biết đi trước mắt họ, khiến họ cảm thấy đầy ngỡ ngàng trước tấm bánh được bẻ ra, một dấu hiệu hiện diện mới của Người. Lập tức, hai vị trở về Gia Liêm để thuật lại cho các môn đệ khác về những gì đã xẩy ra.

 

Không có gì là chắc chắn trong việc nhận ra địa điểm Emmau. Có những giả thuyết khác nhau, và sự kiện này không phải là không có ý nghĩa của nó, vì nó làm cho chúng ta nghĩ rằng Emmau thực sự là những gì tiêu biểu cho hết mọi nơi: Con đường dẫn đến đó là một cuộc hành trình của hết mọi Kitô hữu, thật sự là của hết mọi người. Dọc theo những con đường của chúng ta Chúa Giêsu phục sinh là người bạn đồng hành của chúng ta, để làm bùng lên trong tâm hồn chúng ta hơi ấm của đức tin cũng như của hy vọng cùng với việc bẻ bánh sự sống trường sinh.  

 

Trong cuộc đàm đạo của những người môn đệ ấy với người lữ khách vô danh kia có một lời bày tỏ được thánh ký Luca đặt vào môi miệng của một người họ là những gì đáng chú trọng: “Chúng tôi đã hy vọng…” (24:21). Động từ thuộc về thể quá khứ này đã nói lên hết mọi sự: Chúng tôi đã tin tưởng, chúng tôi đã theo đuổi, chúng tôi đã hy vọng…, thế nhưng, giờ đây tất cả mọi sự chẳng còn gì nữa. Ngay cả Đức Giêsu Nazarét, vị đã tỏ mình ra là một vị tiên tri uy quyền trong việc làm và lời nói, cũng đã thua bại khiến chúng tôi cảm thấy thất vọng

 

Thảm cảnh của các vị môn đệ đi Emmau như là một tấm gương phản ảnh tình hình của nhiều Kitô hữu trong thời đại của chúng ta đây. Niềm hy vọng của đức tin dường như đã mất. Chính đức tin đang bị khủng hoảng bởi những cảm nghiệm tiêu cực làm chúng ta cảm thấy như chúng ta đang bị Chúa bỏ rơi. Thế nhưng con đường Emmau mà chúng ta đang tiến bước này có thể trở thành một con đường thanh tẩy và trưởng thành của việc chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa.

 

Ngay cả hôm nay đây chúng ta đang dự phần vào cuộc đàm đạo với Chúa Giêsu khi chúng ta lắng nghe lời của Người. Thậm chí hôm nay đây Người bẻ bánh cho chúng ta và ban chính Bản Thân Người làm bánh cho chúng ta ăn. Nên nhờ đó mà cuộc gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh, một cuộc gặp gỡ cho dù là ngày nay đây, mang lại cho chúng ta một đức tin sâu xa hơn và chân thực hơn, một đức tin có thể nói được tôi luyện bằng ngọn lửa của biến cố Phục Sinh; một đức tin tráng kiện vì nó được nuôi dưỡng không phải bằng các ý nghĩ của con người, mà là bằng lời của Thiên Chúa cũng như bằng việc hiện diện của Người trong Thánh Thể.

 

Bài Phúc Âm kỳ diệu này đã chất chứa cấu trúc của Thánh Lễ: ở phần đầu là việc nghe lời Chúa qua Thánh Kinh; ở phần thứ hai là phụng vụ Thánh Thể và hiệp thông với Chúa Kitô hiện diện trong bí tích Mình Máu của Người.

 

Được nuôi dưỡng ở cái bàn lưỡng diện này, Giáo Hội không ngừng được xây đắp và canh tân bản thân mình ngày này qua ngày khác trong đức tin, đức cậy và đức mến. Qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria Rất Thánh, chúng ta hãy nguyện cầu để hết mọi Kitô hữu và hết mọi cộng đồng, khi sống lại cảm nghiệm của các môn đề về Emmau, tái khám phá ra ân sủng của cuộc gặp gỡ biến đổi với Chúa Kitô phục sinh.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/4/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

TOP

 

Chúa Nhật Lễ Lá 30/3/2008 về Đức Gioan Phaolô II và Lòng Thương Xót Chúa

 

Anh chị em thân mến:

 

Trong Đại Năm  Thánh 2000, Người Tôi Tớ Chúa thân yêu Gioan Phaolô II đã ấn định là trong toàn thể Giáo Hội Chúa Nhật sau Phục Sinh, ngoài việc là Chúa Nhật “in albis” còn là Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa nữa. Ngài đã làm điều này trong cuộc phong thánh cho chị Faustina Kowalska, một nữ tu Balan khiêm tốn, vị đã sinh vào năm 1905 và chết vào năm 1938, một vị sứ giả nhiệt thành của Chúa Giêsu nhân hậu.

 

Tình thương thực sự là cốt lõi của sứ điệp Phúc Âm; nó là chính danh xưng của Thiên Chúa, là dung nhan được chính Ngài mạc khải cho thấy trong cựu ước và trọn vẹn nơi Chúa Giêsu Kitô Đấng là hiện thân của tìn h yêu tạo dựng và cứu chuộc. Tình yêu thương nhân hậu này cũng chiếu tỏa dung nhanh của Giáo Hội nữa, và được biểu lộ, vừa bằng những bí tích, đặc biệt là bí tích hòa giải, cũng như bằng những hoạt động cộng thông và bác ái cá nhân. 

 

Tất cả những gì Giáo Hội nói và làm đều cho thấy tình thương Thiên Chúa cảm thấy đối với con người. Khi Giáo Hội cần phải nhắc nhở về một sự thật bị lãng quên, hay về một sự thiện bị bội phản, thì Giáo Hội bao giờ cũng được tác động bởi tình yêu nhân hậu, nhờ đó, con người được sự sống và là một sự sống dồi dào (x Jn 10:10). Từ tình thương thần linh này, một tình thương làm cho tâm can cảm thấy an bình, cũng xuất phát một thứ an bình chân thực của thế giới, bình an giữa chư dân, giữa các nền văn hóa và giữa các tôn giáo.

 

Như Thánh Faustina, Đức Gioan Phaolô II cũng đã trở thành một vị tông đồ của lòng thương xót thần linh. Vào đêm Thứ Bảy 2/4/2005 không thể quên được ấy, khi ngài vĩnh viễn lìa đời thì chính là thời điểm lễ vọng Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh đã được cử hành, và nhiều người nhận định thấy sự trùng hợp đặc thù này, một sự trùng hợp giữa chiều kích Thánh Mẫu là ngày Thứ Bảy Đầu Tháng và chiều kích lòng thương xót thần linh. Thật vậy, giáo triều lâu dài và muôn mặt của ngài là ở cái cốt lõi chính yếu này; tất cả sứ vụ của ngài trong việc phục vụ chân lý về Thiên Chúa, về con người và về hòa bình trên thế giới đều được tóm gọn trong lời tuyên bố này, như chính ngài đã nói ở Krakow-Lagiewniki năm 2002, khi khánh thành Đền Thờ Lòng Thương Xót Chúa: “Ngoài tình thương của Thiên Chúa sẽ không có một nguồn hy vọng nào khác cho nhân loại hết”. Sứ điệp của ngài, như sứ điệp của Thánh Faustina, cho thấy dung nhan của Chúa Kitô, mạc khải tối hậu của tình thương Thiên Chúa. Hãy liên lỉ chiêm ngưỡng dung nhan này: Đó là gia sản ngài đã để lại cho chúng ta mà chúng ta hân hoan đón nhận làm của mình.

 

Sẽ có một cuộc chia sẻ đặc biệt về lòng thương xót thần linh trong những ngày tới đây, với Hội Nghị Thế Giới Tông Đồ Về Lòng Thương Xót Chúa, một hội nghị sẽ diễn ra ở Rôma và sẽ được khai mạc bằng Thánh Lễ mà nếu Chúa muốn tôi sẽ chủ tọa vào sáng Thứ Tư, 2/4, dịp kỷ niệm 3 năm băng hà của Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II. Chúng ta hãy phó thác cuộc hội nghị này cho việc bảo vệ thiên đình của rất thánh Maria, Mẹ Tình Thương. Chúng ta hãy ký thác cho Mẹ đích điểm cao cả hòa bình trên thế giới để tình thương của Thiên Chúa đạt được những gì bất khả đối với riêng khả năng của con người, và làm thấm đẫm lòng can đảm trong vấn đề đối thoại và hòa giải.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/3/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

TOP

 

16/3/2008 Chúa Nhật Lễ Lá về Iraq và Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008

 

Vào cuối cuộc cử hành long trọng mà chúng ta đã suy niệm về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, tôi muốn nhắc đến đức cố tổng giám mục ở Mosul là Đức ông Paulos Faraj Rahho, vị đã chết thảm thương cách đây mấy hôm. Chứng từ tuyệt vời của ngài đối với Chúa Kitô, với Giáo Hội và với thành phần dân của ngài là những người ngài đã không bỏ rơi bất chấp nhiều lần bị đe dọa, khiến cho tôi phải mạnh mẽ và buồn thảm kêu lên rằng: Máu đổ đủ rồi, bạo lực đủ rồi, hận thù ở Iraq đủ rồi! Đồng thời tôi cũng kêu gọi nhân dân Iraq, những con người 5 năm trời đã chịu đựng các hậu quả của một thứ chiến tranh gây biến động cả đời sống dân sự và xã hội của nó: Hỡi nhân dân  Iraq yêu quí, anh chị em hãy ngẩng đầu lên và hãy là những người đầu tiên đích thân tái thiết đời sống quốc gia của anh chị em! Chớ gì việc hòa giải, thứ tha, công lý và tôn trọng đối với việc chung sống về dân sự của các bộ tộc, các nhóm sắc tộc và các nhóm đạo giáo trở thành một đường lối kết đoàn dẫn đến hòa bình vì danh Thiên Chúa!

 

Giờ đây, anh chị em thân mến, tôi lập lại lời chào thân ái của tôi. Tôi đặc biệt ngỏ lời chào đến giới trẻ, thành phần đến từ các quốc gia trên thế giới nhân dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới, một ngày được Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II thân yêu liên kết với Chúa Nhật Lễ Lá. Trong giây phút này đây, tôi nghĩ đến Sydney, Úc Đại Lợi, nơi đang sửa soạn cho cuộc đại hội mà tôi sẽ gặp gỡ giới trẻ trên toàn thế giới từ ngày 15 đến 20 tháng Bảy năm nay. Tôi cám ơn hội đồng giám mục Ý quốc, ĐHY Pell, tổng giám mục Sydney, và các hợp tác viên của ngài đặc biệt, về tất cả hoạt động họ đang dấn thân làm. Tôi cũng cám ơn các viên chức tiểu bang và liên bang Úc về việc quảng đại nâng đỡ cho công cuộc quan trọng này. Hẹn gặp các bạn ở Sydney!

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/3/2008 

 

Riêng về biến  cố qua đời của Đức  Tổng Giám Mục ở Mosul, hôm 13/3/2008, Đức Thánh Cha đã gửi một điện tín cho Đức Hồng Y Emmanuel III Delly, thượng phụ ở Babylon của dân Chadean, Iraq, về cái chết của vị TGM bị bắt cóc hôm 29/2/2008 này.

 

Trong bức điện tín phân ưu, ĐTC đã bày tỏ lòng ngài gắn bó “với Giáo Hội Lễ Nghi Chaldean cũng như toàn thể cộng đồng Kitô hữu”, ngài tái khẳng định “việc lên án hành động bạo lực vô nhân đạo  phạm đến phẩm vị của con người và trầm trọng tác hại tới việc chung sống huynh đệ của nhân dân Iraq thân yêu”. Ngài hứa nguyện cầu cho vị TGM qua đời, “vị đã bị bắt cóc ngay sau khi đi Đường Thánh Giá” và ngài kêu cầu Chúa xót thương “để cho biến cố thê thảm này giúp vào việc xây dựng một tương lai hòa bình nơi mảnh đất tử đạo ở Iraq”.

 

Vị Giám đốc Văn phòng Báo chí của Tòa Thánh là Federico Lombardi, SJ, cũng phổ biến bản tuyên ngôn cũng trong ngày 13/3 như sau:

 

“Tất cả chúng ta đã tiếp tục và cầu xin cho ngài được thả ra, một điều mà Đức Giáo Hoàng đã yêu cầu một số lần qua những lời kêu gọi của ngài.

 

“Tiếc thay việc bạo động vô nghĩa nhất và bất chính nhất vẫn tiếp tục đổ xuống trên nhân  dân Iraq, nhất là trên cộng đồng Kitô giáo nhỏ bé được  Đức Giáo Hoàng và toàn thể chúng ta đặc biệt gắn bó nguyện cầu và liên đới ở vào giây phút đau khổ lớn lao này.

 

“Hy vọng rằng biến cố thê thảm này một lần nữa – một cách mạnh mẽ hơn – nhấn mạnh đến  trách nhiệm của hết mọi người, nhất là của cộng đồng quốc tế, đối với tiến trình hòa bình hóa một quốc gia quá ư là biến loạn”.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được VIS phổ biến ngày 13/3/2008

 

  TOP

 

9/3/2008 Chúa Nhật V Mùa Chay về việc sống lại của Lazarô

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Trong cuộc hành trình Mùa Chay của chúng ta, chúng ta đã tiến tới Chúa Nhật thứ năm, được nổi bật với bài Phúc Âm thuật lại việc sống lại của Lazarô (Jn 11:1-45). Đây là “dấu lạ” cả thể cuối cùng Chúa Giêsu làm, và sau đó các vị thượng tế sẽ triệu tập Hội Đồng Đầu Mục để quyết định giết Người; họ cũng quyết định sát hại cả Lazarô nữa. Lazarô là chứng cớ sống động cho thần tính Chúa Kitô và cho sự kiện Chúa Kitô là Chúa của sự sống và sự chết. Đoạn Phúc Âm này cho thấy Chúa Giêsu là Người thật và là Thiên Chúa thật.

 

Trước hết vị thánh ký nhấn mạnh đến tình bạn của Người với Lazarô và hai người chị em Matta và Maria. Thánh ký nhấn mạnh là “Chúa Giêsu rất thương họ” (Jn 11:5), và vì lý do ấy muốn làm một dấu lạ cả thể. “Lazarô bạn của chúng ta đã chết rồi, nhưng Thày sẽ đánh thức anh ta dậy” (Jn 11:11). Đó là cách thức Người nói cho các môn đệ biết, bày tỏ quan điểm của Thiên Chúa về sự chết thể lý bằng ẩn từ giấc ngủ: Thiên Chúa thật sự thấy nó như là một giấc ngủ từ đó con người có thể thức giấc. Chúa Giêsu cho thấy một quyền năng tuyệt đối trước cái chết này: Người ta thấy nó khi Người trả sự sống lại cho người thanh niên trẻ của bà góa thành Naim (x Lk 7:11-17) cũng như cho đứa con gái 12 tuổi (x Mk 5:35-43). Về đứa con gái trẻ trung, Người phán: “nó ngủ đấy chứ đâu có chết” (Mk 5:39), khiến những kẻ diện hiện bấy giờ mỉa mai Người. Thế nhưng thực tế đã xẩy ra đúng như thế: Cái chết của thân thể là một giấc ngủ từ đó Thiên Chúa có thể đánh thức dậy bất cứ lúc nào.

 

Vai trò chúa tể trên  sự chết này không ngăn cản Chúa Giêsu khỏi nỗi cảm thương thực sự trước mối sầu thương của việc chia ly. Thấy Maria và Matta khóc, và cùng với những ai đến an ủi họ, Chúa Giêsu cũng “hết sức cảm động và thấm thía” để rồi cuối cùng “Người đã khóc” (Jn 11:33,35). Con tim của Chúa Giêsu là một con tim nhân thần: Nơi Người Thiên Chúa và con người gặp nhau một cách trọn hảo, không tách phân cũng chẳng lẫn lộn, Người thực sự là hình ảnh, là nhập thể của vị Thiên Chúa là tình yêu, tình thương, sự êm ái phụ thân và mẫu thân, của vị Thiên Chúa là sự sống. Đó là lý do tại sao Người đã long trọng tuyên bố cùng Matta rằng: “Thày là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Thày thì dù có chết cũng được sống; ai sống mà tin vào Thày sẽ không bao giờ chết”. Rồi Người thêm: “Con có tin điều ấy chăng?” (Jn 11:25-26).

 

Đó là một câu hỏi Chúa Giêsu ngỏ cùng mỗi một người chúng ta; một câu hỏi chắc chắn sẽ làm chúng ta chới với, nó làm cho khả năng hiểu biết của chúng ta chới với và nó yêu cầu chúng ta hãy phó mình cho Người, như Người đã phó mình cho  Cha của Người. Câu trả lời của Matta là một mẫu mực: “Vâng, Ôi Chúa, con tin Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đã đến trong thế gian” (Jn 11:27). Vâng, Ôi Chúa! Chúng con cũng tin nữa, bâ 1t chấp những ngờ vực và tình trạng tăm tối của chúng con; chúng con tin Chúa, vì Chúa có những lời ban sự sống đời đời; chúng con muốn tin Chúa, Đấng cống hiến cho chúng con niềm hy vọng sự sống vượt trên sự sống, một niềm hy vọng của sự sống chân thực và viên trọn trong vương quốc ánh sáng và an bình của Chúa.

 

Chúng ta hãy ký thác lời nguyện cầu này cho Mẹ Maria Rất Thánh. Xin Mẹ chuyển cầu cho chúng ta được kiên cường đức tin và đức cậy nơi Chúa Giêsu, nhất là trong những lúc đầy những thử thách và khốn khó.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 9/3/2008 

 

 

  TOP

 

 

2/3/2008 Chúa Nhật IV Mùa Chay Về Hành Trình Phép Rửa Mùa Chay

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Trong những Chúa Nhật Mùa Chay đây, qua các bài Phúc Âm của Thánh Gioan, phụng vụ dẫn chúng ta đến một cuộc hành trình phép rửa chân thực và thích đáng: Chúa Nhật vừa rồi Chúa Giêsu đã hứa với người phụ nữ Samaritanô tặng ân “nước hằng sống”; hôm nay, khi chữa lành cho người mù, Chúa Giêsu mạc khải mình ra như là “ánh sáng thế gian”; tuần tới, khi phục sinh người bạn Lazarô của mình từ trong cõi chết, Người cho chúng ta thấy Người là “sự sống lại và là sự sống”. Nước, ánh sáng và sự sống: đây là những biểu hiệu của phép rửa, bí tích “nhận chìm” tín hữu vào mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Chúa Kitô, giải thoát họ khỏi tình trạng làm tôi cho tội lỗi và ban cho họ sự sống đời đời.

 

Chúng ta hãy lắng đọng một chút về câu truyện của người mù bẩm sinh (Jn 9:41). Các môn đệ, theo tâm thức chung thời bấy giờ, cho rằng cảnh mù lòa của anh ta là hậu quả gây ra bởi tội lỗi của anh ta hay tội của cha mẹ anh ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã bác bỏ quan niệm ấy và khẳng định là “Không phải hắn hay cha mẹ hắn phạm tội; chính là để cho việc làm của Thiên Chúa được sáng tỏ nơi họ” (Jn 9:3).

 

Những lời này cống hiến cho chúng ta niềm an ủi biết bao! Chúng cho chúng ta nghe thấy giọng nói sống động của Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu quan phòng và khôn ngoan! Trước con người mang dấu vết hạn hữu và khổ đau, Chúa Giêsu không nghĩ về những lầm lỗi khả dĩ, mà về ý muốn của Thiên Chúa đã dựng nên con người để sống. Nên  Người đã long trọng tuyên bố rằng: “Chúng ta cần phải làm những việc của Đấng đã sai Thày… Trong khi còn ở thế gian thì Thày là sự sống thế gian” (Jn 9:5).

 

Thế rồi Người lập tức ra tay: Với một chút đất và nước bọt, Người đã làm thành bùn và xoa bùn lên mắt của người mù. Cử chỉ này là dạo khúc cho việc tạo dựng nên con người được Thánh Kinh trình thuật với biểu hiệu đất được hình thành và sinh động nhờ hơi thở của Thiên Chúa (x Gen 2:7). Thật vậy, “Adong”, nghĩa là “đất”, và thân thể của con người thật sự được cấu tạo bởi những yếu tố của trái đất này. Khi chữa lành cho người mù bẩm sinh ấy, Chúa Giêsu thực hiện một cuộc tân tạo.

 

Thế nhưng, việc chữa lành này đã gây ra một cuộc tranh cãi sôi nổi vì Chúa Giêsu đã thực hiện n ó vào ngày Hưu Lễ, bởi thế đã vi phạm qui định của ngày lễ. Do đó, ở vào đoạn cuối, Chúa Giêsu và người mù gặp nhau lại, cả hai đều bị nhóm Pharisiêu săn bắt: một người thì lỗi phạm đến lề luật còn người kia cho dù được chữa lành vẫn mang dấu vết của một tội nhân từ thuở mới sinh.

 

Đối với người mù được chữa lành, Chúa Giêsu đã tỏ mình ra Người đến thế gian là để phán xét, để phân thành phần mù tối muốn được chữa lành với thành phần không muốn chữa vì tưởng rằng mình lành mạnh. Khuynh hướng nơi con người trong việc kiến tạo một hệ thống ý hệ an toàn là một khuynh hướng mạnh mẽ: Thậm chí tôn giáo có thể trở thành một yếu tố trong hệ thống này, như chủ nghĩa vô thần hay duy trần tục; thế nhưng trong việc kiến tạo hệ thống ấy, người ta trở thành mù quáng đối với chính cái tôi của họ.

 

Anh  em thân mến, chúng ta hãy để cho Chúa Giêsu chữa lành chúng ta, Chúa Giêsu là Đấng có thể và muốn ban cho chúng ta ánh sáng của Thiên Chúa! Chúng ta hãy thú nhận tình trạng mù lòa của chúng ta, tình trạng thiển cận của chúng ta, và nhất là những gì bị Thánh Kinh gọi là “tội lỗi lớn lao” (Ps 18:14). Xin Mẹ Maria Rất Thánh giúp chúng ta nơi vấn đề này, vị mà khi hạ sinh Chúa Kitô về xác thịt, đã cống hiến cho thế giới ánh sáng chân  thực.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 2/3/2008

 

  TOP

 

24/2/2008 Chúa Nhật III Mùa Chay về Người phụ nữ Samaritano

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Vào Chúa N hật Thứ Ba Mùa Chay này, phụng vụ năm nay đưa ra một trong những bài đọc tuyệt vời nhất và sâu xa nhất của Thánh Kinh, đó là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaritanô (x Jn 4:5-22). Thánh Âu Quốc Tinh là vị tôi đang nói nhiều tới vào các bài giáo lý Thứ Tư hằng tuần, đã thực sự bị thu hút vào câu truyện này, và ngài đã có những nhận định khó quên về nó. Không thể nào vắn tắt giải thích về đoạn Phúc Âm này mà có thể khai thác hết cái phong phú của nó: cần phải đọc và suy niệm về nó riêng tư, đồng hóa mình với người đàn bà ấy, người đàn bà mà, vào một ngày kia, như nhiều người khác, đã đến kín nước giếng và gặp thấy Chúa Giêsu ở đó, ngồi bên bờ giếng, “mệt mỏi vì hành trình”, giữa cái nóng bức của một buổi trưa.

 

“Xin cho tôi uống nước”,  Người đã nói với chị, làm cho chị ngỡ ngàng: Thật vậy, thật là khác thường khi người Do Thái nói với một phụ nữ Samaritanô, nhất là một người phụ nữ xa lạ. Thế nhưng, cái lạ lùng bỡ ngỡ của người phụ nữ này cần phải được gia tăng, ở chỗ, Chúa Giêsu nói về một thứ “nước hằng sống” có thể hoàn toàn làm giãn cơn khát và trở thành “một suối nước vọt lên sự sống đời đời” nơi chị; chưa hết, Người đã tỏ cho chị biết rằng Người biết cả cuộc đời tư riêng của chị nữa; Người đã tỏ cho thấy rằng đã đến lúc phải tôn thờ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất trong tinh thần và trong chân lý; rồi cuối cùng Người đã tỏ mình cho chị – một điều không ngờ được – Người là Đấng Thiên Sai.

 

Tất cả những điều này xẩy ra, được bắt đầu từ cái cảm nghiệm thực sự cảm thấy khát nước. Đề tài khát này trải khắp Phúc Âm Thánh Gioan: từ cuộc gặp gỡ với người đàn bà Samaritanô, đến lời tiên tri trọng đại trong ngày lễ Lều Tạm (Jn 7:37-38), đến thập tự giá, trước khi chết Chúa Giêsu nói để làm trọn lời Kinh Thánh “Ta khát” (Jn 19:28).

 

Cơn khát của Chúa Kitô là lối tiến vào mầu nhiệm của Thiên Chúa, Đấng đã làm cho mình khát khao làm tươi mới chúng ta, như Người đã làm cho mình trở nên nghèo để làm phong phú chúng ta (x 2Cor 8:9). Phải, Thiên Chúa khát niềm tin tưởng của cúng ta và lòng yêu mến của chúng ta. Như một người cha tốt lành và xót thương, Ngài muốn cho chúng ta tất cả những gì khả dĩ thiện hảo và cái thiện hảo đó là chính Thiên Chúa. Về phần mình, người đàn bà Samaritanô là nhân vật tiêu biểu cho những gì là bất hạnh của cuộc sống của những ai không tìm thấy những gì họ tìm kiếm: Chị đã có “5 người chồng” và hiện đang sống với một người đàn ông; việc chị lui tới với giếng nước này tiêu biểu cho một cuộc sống đều đều và cam chịu.

 

Thế nhưng, hôm ấy tất cả mọi sự đã thay đổi đới với chị, vì cuộc đối thoại giữa chị với Chúa Giêsu, Đấng đã làm cho chị hớn hở đến nỗi chị đã bỏ vò nước lại mà chạy về nói với dân chúng trong làng rằng: “Hãy ra mà xem một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng Người là Đức Kitô?” (Jn 4:28-29).

 

Anh chị em thân mến, cả chúng ta nữa hãy mở lòng của chúng ta trong việc tin tưởng lắng nghe Lời Chúa để, như người phụ nữ Samaritanô, gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng mạc khải tình yêu của Người cho chúng ta và nói với chúng ta rằng: “Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Độ của con, “Chính là Ta, người đang nói với con” (Jn 4:26). Chớ gì Mẹ Maria, người môn đệ đầu tiên và là người môn đệ trọn hảo của Chúa Kitô, xin cho chúng ta tặng ân này.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 24/2/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng) 

 

 TOP

 

Chúa Nhật II Mùa Chay 17/2/2008 về Việc Biến Hình

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Hôm qua, tuần phòng đã được kết thúc ở tông dinh này đây. Như xẩy ra hằng năm, Giáo Hoàng cùng với thành phần cộng sự viên  của ngài thuộc Giáo Triều Rôma hiệp nhau nguyện cầu và suy niệm. Tôi cám ơn những ai gắn bó với chúng tôi cách thiêng liêng: Xin Chúa bù đắp cho lòng quảng đại của họ.

 

Hôm nay, Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Chay, tiếp tục con đường thống hối, Phụng Vụ, sau khi đã cho thấy ở bài Phúc Âm Chúa Nhật vừa rồi về biến cố Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc, mời gọi chúng ta hãy suy nghĩ về biến cố đặc biệt biến hình trên núi. Nhìn chung thì hai đoạn này hướng tới mầu nhiệm vượt qua, ở chỗ, việc Chúa Giêsu c hiến đấu với tên cám dỗ là dạo khúc cho cuộc đọ sức khổ nạn cả thể cuối cùng, trong khi đó, ánh sáng của thân thể biến hình của Người thì hướng tới vinh quang phục sinh.

 

Một mặt chúng ta thấy Chúa Giêsu hoàn toàn là một con người, ở chỗ, Người thậm chí chia sẻ những chước cám dỗ với chúng ta. Đàng khác, chúng ta chiêm ngưỡng Người Con Thiên Chúa, ở chỗ, Người thần linh hóa nhân tính của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta có thể nói rằng hai Chúa Nhật này giống như hai cái trụ cột nâng đỡ cả tòa nhà Mùa Chay cho đến Phục Sinh, và thật sự thì toàn thể cơ cấu của đời sống Kitô hữu chính yếu là ở chiều hướng vượt qua này – từ sự chết đến sự sống.

 

Những ngọn núi – như Tabor và Sinai – là nơi gần gũi Thiên Chúa. Đối với cuộc sống hằng ngày thì núi là khoảng không gian cao vượt, nơi được hít thở bầu khí trong lành của thiên nhiên tạo vật. Nó là một chốn nguyện cầu, nơi con người ở trước sự hiện diện của Chúa, như Moisen và Elia,  những vị đã hiện ra bên cạnh Chúa Giêsu biến hình và nói với Người về “cuộc ra đi” đang chờ đợi Người ở Giêrusalem, tức là về Cuộc Khổ Nạn của Người.

 

Biến hìnmh là một biến cố nguyện cầu, ở chỗ, khi cầu nguyện, Chúa Giêsu chìm ngập vào Thiên Chúa, Người sâu sa nên một với Ngài, Người liên kết ý muốn của Người với ý muốn yêu thương của Cha, nhờ đó, ánh sáng bao chiếm Người và sự thật về hữu thể của Người hiện xuất cách hữu hình: Người là Thiên Chúa, là ánh sáng bởi ánh sáng. Ngay cả y phục của Người cũng trở nên trắng và sáng láng. Điều này khiến người ta nghĩ đến phép rửa, đến chiếc áo trắng thành phần tân tòng mặc lấy. Những ai được tái sinh nơi phép rửa thì mặc lấy ánh sáng, báo trước cuộc sống thiên đình được Sách Khải Huyền cho thấy nơi biểu hiệu những tấm áo trắng (x Rev 7:9, 13).

 

Vấn đề quan trọng ở đây là: Việc Biến Hình là một ngưỡng vọng Phục Sinh thế nhưng lại bao hàm cả sự chết. Chúa Giêsu tỏ vinh quang của Người cho các vị tông đồ để các vị có sức mạnh đối diện với cái dữ dội của thập tự giá và hiểu rằng cần phải qua nhiều gian nan khốn khó mới đạt tới vương quốc của Thiên Chúa. Tiếng của Chúa Cha, một tiếng vang vọng từ trên cao, công bố rằng Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài, như đã xẩy ra nơi biến cố phép rửa ở sông Dược Đăng, rồi thêm: “Hãy lắng nghe Người” (Mt 17:5). Để tiến vào sự sống thì cần phải lắng nghe Chúa Giêsu, cần phải theo Người trên con đường thập giá, như Người ôm ấp hy vọng phục sinh trong lòng. “Spe salvi”, được cứu độ bằng niềm hy vọng. Hôm nay, chúng ta có thể nói “Được biến hình bằng niềm hy vọng”.

 

Giờ đây hướng về Mẹ Maria trong nguyện  cầu, chúng ta nhìn nhận nơi Mẹ một con người tạo vật đã được biến đổi bởi ân sủng của Chúa Kitô, và chúng ta ký thác bản thân của chúng ta cho Mẹ hướng dẫn để tiếp tục cuộc hành trình Mùa Chay bằng đức tin. 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 17/2/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 

 TOP

 

Chúa Nhật I Mùa Chay 10/2/2008 về Việc Tiến Vào Mùa Chay

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Thứ Tư vừa rồi, bằng việc giữ chay và nghi thức xức tro, chúng ta đã tiến vào Mùa Chay. Thế nhưng, “việc tiến vào Mùa Chay” đây nghĩa là gì? Nghĩa là tiến vào một thời điểm đặt biệt quyết tâm trong cuộc chiến đấu thiêng liêng chống lại sự dữ đang hiện diện trên  thế gian này, nơi từng người chúng ta và chung quanh chúng ta. Tức là điểm mặt sự dữ và sẵn sàng chiến đấu với những hậu quả của nó, nhất là với những căn nguyên của nó, với chính căn nguyên tối hậu của nó là Satan. Tức là không trút vấn đề sự dữ lên kẻ khác, lên xã hội, lên Thiên Chúa, mà là nhận trách nhiệm của mình và dám đứng ra gánh chịu trách nhiệm về nó.

 

Đối với vấn đề này, lời Chúa Giêsu kêu gọi hãy vác “thập giá” của mình mà theo Người cách khiêm tốn và tin tưởng (x Mt 16:24) là những gì vang vọng hơn bao giờ hết. “Thập giá”, cho dù nặng nề chăng nữa, cũng không đồng nghĩa với những gì là phiêu lưu lầm lạc, với những gì là ô nhục cần ohải tránh né bao nhiêu có thể, song đồng nghĩa với cơ hội theo Chúa Kitô, nhờ đó, chiếm được sức mạnh trong cuộc chiến chống tội lỗi và sự dữ. Bởi thế, việc tiến vào Mùa Chay có nghĩa là canh tân quyết định chung riêng trong việc cùng với Chúa Kitô đương đầu với sự dữ.  Thật vậy, con đường thánh giá là con đường duy nhất dẫn đến cuôc chiến thắng của yêu thương trên thù ghét, của chia sẻ trên cái tôi, của bìn h an trên bạo lực. Theo chiều hướng ấy, Mùa Chay thực sự là một cơ hội cương quyết dấn thân cả về khổ hạnh lẫn thiêng liêng nhờ ân sủng của Chúa Kitô.

 

Năm nay, bắt đầu Mùa Chay lại trùng hợp một cách thiên định với 150 năm kỷ niệm biến cố Lộ Đức. Bốn năm sau việc Chân  Phước Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố tín điều Hoài Thai Vô Nhiễm, Mẹ Maria đã hiện ra với Chị Thánh Bernadette Soubirous ở động Massabielle lần đầu tiên vào ngày 11/2/1858. Những lần hiện ra sau đó, được kèm theo với những sự việc đặc biệt, và cuối cùng, Đức Thánh Trinh Nữa, để chào giã biệt vị thụ khải trẻ trung này, đã nói bằng thổ âm rằng “Ta Hoài Thai Vô Nhiễm Tội”. Sứ điệp được Đức Mẹ tiếp tục loan truyền ở Lộ Đức nhắc lại những lời Chúa Giêsu công bố vào lúc Người bắt đầu sứ v ụ công khai của Người và chúng ta thường nghe lại vào những ngày này trong Mùa Chay: Hãy hoán cải và tin vào Phúc Âm”,  hãy nguyện cầu và thống hối. Chúng ta hãy chấp nhận lời mời gọi của Mẹ Maria, một lời mời gọi âm vang lời mời gọi của Chúa Kitô, và chúng ta hãy xin Mẹ giúp chúng ta hãy “tiến vào” Mùa Chay bằng đức tin, hãy sống thời điểm ân sủng này b ằng một niêm vui nội tâm và bằng việc quảng đại dấn thân.

 

Chúng ta cũng ký thác cho Vị Trinh Nữ này nữa thành phần bệnh nhân và những ai ưu ái chăm sóc cho họ. Ngày mai, lễ nhớ Mẹ Lộ Đức, chúng ta thực sự cử hành Ngày Thế Giới Bệnh Nhân. Tận  đáy lòng mình tôi gửi lời chào anh chị em hành hương qui tụ lại ở Đền Thờ Thánh Phêrô dưới sự hướng dẫn của ĐHY Barragán, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Sức Khỏe.  Tiếc thay, tôi không thể gặp gỡ họ vì tối hôm nay tôi sẽ bắt đầu tuần tĩnh tâm, nhưng trong âm thầm và suy niệm, tôi sẽ nguyện cầu cho họ và cho tất cả mọi nhu cầu của Giáo Hội cũng như thế giới. Tôi chân thành cám ơn trước tất cả những ai nhớ đến tôi trước nhan Chúa.  

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 10/2/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 TOP

Chúa Nhật IV Thường Niên 3/2/2008: Đời Tận Hến, Sự Sống và Mùa Chay

Anh Chị Em thân mến! 

Hôm nay, tôi xin ký thác cho việc nguyện cầu của anh chị em các ý chỉ khác nhau. Trước hết, nhớ lại rằng ngày hôm qua lễ kính Dâng Chúa trong Đền Thánh, chúng ta đã cử hành Ngày Đời Tận Hiến, tôi mời gọi anh chị em hãy cầu nguyện cho những ai được Chúa Kitô kêu gọi theo Người một cách gần gũi hơn bằng một cuộc đời tận hiến đặc biệt. Chúng ta bày tỏ lòng tri ân đối với những người anh chị của chúng ta đã hiến mình hoàn toàn cho việc phục vụ Thiên Chúa và Giáo Hội bằng các lời khấn khó nghèo, thanh tịnh và tuân  phục. Chớ gì Vị Trinh Nữ Thánh xin cho chúng ta được nhiều ơn gọi thánh thiện sống đời tận hiến là cuộc đời làm nên  những kho tàng vô giá cho Giáo Hội cũng như cho thế giới.  

Ý chỉ nguyện cầu khác về Ngày Cho Sự Sống là ngày được cử hành hôm  nay ở Ý quốc, có chủ đề là “Phục Vụ Sự Sống”. Tôi gửi lời chào tới những ai đến  Quảng Trường Thánh Phêrô đây để làm chứng cho việc dấn thân bênh vực và cổ võ sự sống cũng như để tái khẳng định rằng “văn minh của một dân tộc được đo lường bởi khả năng phục vụ sự sống của nó” [Message of the Italian Bishops’ Conference for the 30th National Day for Life].  

Hết mọi người, tùy theo hoàn cảnh, nghề nghiệp và khả năng của mình, bao giờ cũng cần phải cảm thấy được thúc đẩy mến yêu và phục vụ sự sống, từ khi nó bắt đầu có cho tới lúc nó tự nhiên qua đi. Thật vậy, nó là nhiệm vụ của tất cả mọi người trong việc tiếp nhận sự sống của con người như là một tặng ân cần phải tôn trọng, bảo toàn và cổ võ, nhất là khi nó mỏng dòn và cần chăm sóc, hoặc trước khi sinh hay vào lúc tận cùng của nó. Tôi xin liên kết với các vị giám mục Ý quốc để khuyến khích những ai, vất vả nhưng hân hoan, không phàn nàn song rất ân cần, giúp đỡ cho các phần tử gia đình già yếu hay bị tật nguyền, cũng như những ai thường cống hiến giờ giấc của mình để hỗ trợ cho những ai thuộc mọi lứa tuổi có đời sống khốn khó b ởi nhiều hình thức nghèo khổ khác nhau. 

Chúng ta cũng hãy cầu nguyện để Mùa Chay sẽ được bắt đầu vào Thứ Tư với nghi thức xức tro – mà tôi cử hành như mọi năm ở Đền Thờ Santa Sabina ở Aventine – sẽ là một thời điểm thực tình hoán cải đối với tất cả mọi Kitô hữu là thành phần được kêu gọi để trở thành chứng nhân chân thực và can trường hơn bao giờ hết cho niềm tin của mình. Chúng ta xin dâng phó những ý chỉ nguyện cầu này cho Đức Mẹ. 

Bắt đầu từ hôm qua và tiếp tục cho tới hết ngày 11/2 là ngày lễ nhớ Đức Trinh Nữ Lộ Đức và 150 năm biến cố hiện ra ở Lộ Đức của Mẹ, chúng ta có thể lãnh nhận ơn toàn xá, ơn có thể chỉ cho người chết, với những điều kiện thông thường – là xưng tội, Hiệp Lễ và cầu theo ý chỉ của Đức Thánh Cha – bằng việc cầu nguyện trước một tượng ảnh Mẹ Lộ Đức đã được làm phép và trưng bày để công khai tôn kính. Đối với thành phần già yếu và bệnh nạn thì điều này có thể được thực hiện bằng ước muốn của tâm hồn. Xin Mẹ Maria, Mẹ của Niềm Hy Vọng và  Ngôi Sao Hy Vọng, soi sáng đường đi nước bước của chúng ta và làm cho chúng ta luôn trở thành những người môn đệ trung tín của Chúa Giêsu Kitô.  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/2/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 TOP

 

Chúa Nhật III Thường Niên 27/1/2008 về  Việc Rao Giảng Nước Thiên Chúa

 

Anh Chị Em thân  mến!

 

Qua phụng vụ hôm nay, Thánh Ký Mathêu, vị sẽ đồng hành với chúng ta trọn năm phụng vụ này, trình bày về khởi điểm cho sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Sứ vụ này chính yếu là ở việc rao giảng vương quốc của Thiên Chúa và việc chữa lành bệnh nhân, cho thấy rằng vương quốc này đã đến gần, thực sự là đã đến giữa chúng ta.

 

Chúa Giêsu bắt đầu việc rao giảng của Người ở Galilêa, một miền đất Người đã sinh trưởng, một lãnh thổ “bên lề” so với trung tâm của quốc gia Do Thái là Giuđêa có thành Gia Liêm. Thế nhưng, tiên tri Isaia đã loan báo rằng miền đất này, một miền đất được chia cho hai chi học Zebulun và Naphtali, sẽ có một tương lai sáng lain, đó là dân  chúng sống trong tăm tối sẽ được thấy ánh sáng cả thể (x Is 8:23-9:1), ánh sáng Chúa Kitô và Phúc Âm của Người (x Mt 4:12-16).

 

Từ ngữ “phúc âm” vào thời điểm của Chúa Giêsu được sử dụng vào việc loan báo của hoàng đế Rôma. Xét nguyên về nội dung của mình thì những việc công bố ấy được coi là “tin mừng”, tức là, những việc công bố cứu độ, vì hoàng đế được coi như chúa tể của thế giới này và mỗi một chỉ thị của ông là một điềm lành. Việc áp dụng từ ngữ này vào việc rao giảng của Chúa Giêsu có một ý nghĩa rất cảnh giác như thể nói rằng: Thiên Chúa, chứ không phải là hoàng đế, mới là Chúa của thế giới, và Phúc Âm thật sự là phúc âm của Chúa Giêsu Kitô.

 

“Tin mừng” do Chúa Giêsu công bố được tóm gọn vào những chữ sau đây: “vương quốc của Thiên Chúa”, hay nước trời, “đến gần” (Mt 4:17; Mk 1:15). Câu nói này có nghĩa là gì? Chắc chắn nó không ám chỉ một thứ vương quốc trần gian bị hạn hữu trong không gian và thời gian, mà loan báo rằng chính Thiên Chúa mới là Đấng cai trị, Thiên Chúa là Chúa và vai trò làm chúa của Ngài đang hiện diện – thực sự là – đang được hiện thực.

 

Cái mới mẻ nơi sứ điệp của Chúa Kitô là ở chỗ nơi Người Thiên Chúa đã gần gũi hơn, Ngài đã ngự trị giữa chúng ta, như các phép lạ và những việc chữa lành Người thực hiện cho thấy. Thiên Chúa ngự trị trên thế gian này qua Người Con làm người của Ngài, và với quyền năng của Thánh Thần, Đấng được gọi là “ngón tay của Thiên Chúa” (x Lk 11:20). Nơi nào có Chúa Giêsu thì Vị Thần Linh Sáng Tạo này mang lại sự sống và người ta được chữa lành bệnh tật về xác thể cũng như tinh thần. Vai trò làm chúa của Thiên Chúa như thế được biểu hộ nơi việc hoàn toàn chữa lành con người. Bằng việc chữa lành này, Chúa Giêsu muốn mạc khải dung nhan của Vị Thiên Chúa chân thật ấy, vì Thiên Chúa gần gũi, đầy tình thương đối với con người; Vị Thiên Chúa ban cho chúng ta tặng ân sự sống viên mãn, sự sống của Ngài. Vì thế, vương quốc của Thiên Chúa là sự sống chiến thắng sự chết, là ánh sáng chân lý xua tan tối tăm của vô tri và sai lầm.

 

Chúng ta hãy nguyện cầu cùng Mẹ Maria Rất Thánh để Mẹ xin cho Giáo Hội được cùng một lòng nhiệt thành với Vương Quốc của Thiên Chúa đã làm sinh động sứ vụ của Chúa Giêsu Kitô: một lòng nhiệt thành đối với Thiên Chúa, đối với vai trò chúa tể sự sống và yêu thương của Ngài; lòng nhiệt thành đối với con người gặp gỡ chân lý để ban cho họ một thứ kho tàng quí báu nhất là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng Hóa Công và là Cha của họ vậy.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 27/1/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng) 

 

  TOP

 

 

20/1/2008 Chúa Nhật II về Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Hai ngày trước đây là thời điểm bắt đầu Tuần Lễ Cầu Nguyện cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo, trong đó, những người Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo và Cải Cách, vì nhận thấy rằng những chia rẽ nơi họ tạo thành một ngăn trở cho việc chấp nhận Phúc Âm, đã cùng nhau nguyện cầu cùng Chúa, một cách thiết tha hơn bao giờ hết, cho được tặng ân hoàn toàn hiệp thông với nhau. Sáng kiến thích thuận này đã được xuất phát từ 100 năm trước đây, khi Cha Paul Wattson bắt đầu “Tuần Bát Nhật” nguyện cầu cho mối hiệp nhất giữa tất cả mọi thành phần môn đệ của Chúa Kitô. Ngày nay, đối với dịp này, những người con cái nam nữ thiêng liêng của Cha Wattson, anh chị em của Việc Đền Bồi, đang hiện  diện ở Quảng Trường Thánh Phêrô đây, tôi gửi lời thân ái chào họ và khuyến khích họ hãy theo đuổi lý tưởng hiệp nhất một cách đặc biệt dấn thân.

 

Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ phải nguyện cầu và hoạt động cho việc thắng vượt hết mọi thứ chia rẽ giữa thành phần Kitô hữu, để đáp lại ước vọng “chgo họ được hiệp nhất nên một” của Chúa Kitô. Việc cầu nguyện, việc hoán cải tâm can, việc  củng cố những mối giây liên kết hiệp thông, là những gì làm nên yếu tính của phong trào thiêng liêng này, một phong trào chúng ta hy vọng sớm dẫn các người môn đệ của Chúa Kitô cùng nhau cử hành Thánh Thể, biểu hiện cho mối trọn vẹn hiệp nhất của họ. Đề tài thánh kinh năm nay là một đề tài cô đọng ý nghĩa: “Hãy cầu nguyện không ngừng” (x Thes 5:17). Thánh Phaolô đã đích thân kêu gọi cộng đồng Thessalonica, một cộng đồng bấy giờ đang trải qua những đụng độ và xung khắc nội bộ, để liên lỉ nhắc nhở họ về một số thái độ căn bản, trong đó, nổi bật nhất thật sự là việc cầu nguyện liên lỉ. Với lời mời gọi này của mình, ngài muốn cho thấy rằng từ đời sống mới mẻ trong Chúa Kitô cũng như trong Thánh Thần mới xuất phát ra khả năng thắng vượt được tất cả những gì là cái tôi, mới cùng nhau sống trong hòa bình và hiệp nhất huynh đệ, mới gánh chịu nổi đầy  những gánh nặng và khổ đau của nhau. Chúng ta không bao giờ được mệt mỏi trong việc nguyện cầu cho mối hiệp nhất Kitô hữu này! Khi Chúa Giêsu, trong Bữa Tiệc Ly, nguyện cầu cho các môn đệ của Người “được nên một”,  Người đã có trong đầu một mục đích rõ ràng là “để thế gian tin tưởng” (Jn 17:21).

 

Sứ vụ truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội, như thế, tiến triển dọc theo con đường đại kết, con đường của mối hiệp nhất đức tin, của chứng từ phúc âm và của tình huynh đệ chân thực. Như hằng năm vẫn làm, vào ngày Thứ Năm 25/1, tôi sẽ đến Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoài Thành để bế mạc Tuần Nguyện Cầu Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo bằng những buổi nguyện kinh tối long trọng. Tôi mời gọi những người Rôma và các người hành hương hãy hợp với tôi cũng như với Kitô hữu thuôc tất cả mọi giáo hội và cộng đồng giáo hội tham phần vào việc cử hành này, cầu xin Chúa tặng ân quí báu hòa giải này nơi tất cả những ai đã lãnh nhận phép rửa.

 

Xin Mẹ Thiên Chúa, Vị đã hiện ra với Alphonse Ratisbonne trong Nhà Thờ Thánh Adrea delle Frate ở Rôma mà chúng ta hôm nay tưởng nhớ, xin Chúa ban tràn đầy Thánh Thần cho tất cả mọi người môn đệ đến độ chúng ta có thể tiến đến mối hiệp nhất hoàn toàn để nhờ đó cống hiến một chứng từ đức tin và đời sống mà thế giới hết sức cần đến.


 

(Sau Kinh Truyền Tin, ĐTC nói tiếp như sau:)

 

Trước hết, tôi muốn gửi lời chào tới các bạn sinh viên trẻ, các vị giáo sư cùn g tất cả mọi anh chị em đông đảo đến Quảng Trường Thánh Phêrô để tham dự việc nguyện Kinh Truyền Tin cũng như để tỏ tình đoàn kết của anh chị em; tôi cũng gửi lời chào đến rất nhiều người liên kết thiêng liêng với chúng ta. Tôi chân thành cám ơn các bạn thân  mến; tôi xin cám ơn đức hồng y đại diện đã đích thân phát động cuộc gặp gỡ này.

 

Như các bạn biết, tôi hân hoan chấp nhận lời mời nhã nhặn muốn tôi thực hiện một bài diễn giảng vào ngày Thứ Năm vừa rồi nhân dịp khai mạc cho năm học ở Đại Học Rôma La Sapienza. Tôi quá quen biết câu lạc bộ văn học này, tôi trân trọng và cảm mến những sinh viên học ở đây: hằng năm, có một số trường hợp nhiều người trong họ đã đến gặp tôi ở Vatican, cùng với bạn bè của họ thuộc những đại học đường khác. Tiếc thay, như các bạn đã biết, bầu khí đã xẩy ra khiến cho việc hiện  diện của tôi trở thành bất tiện. Tôi đã dời lại cuộc viếng thăm của tôi, song dầu sao tôi cũng muốn gửi bản văn tôi đã soạn cho dịp này.

 

Tôi yêu thích thực hiện việc tìm kiếm chân lý, việcï so sánh, việc chân thành và trân trọng đối thoại giữa những chủ trương hỗ tương nơi môi trường đại học là môi trường đã từng là thế giới của tôi trong nhiều năm. Tất cả những điều ấy cũng là sứ vụ của Giáo Hội nữa, một Giáo Hội trung thành dấn thân theo Chúa Giêsu là chủ tể của sự sống, sự thật và yêu thương. Là một giáo sư hồi hưu, có thể nói như thế, người đã từng gặp gỡ nhiều sinh viên trong cuộc đời của mình, tôi khuyến khích tất cả các sinh viên  đại học hãy tỏ ra tôn trọng ý nghĩ của người khác và hãy tìm kiếm, bằng tinh thần tự do và hữu trách, sự thật và sự thiện. Tôi muốn lập lại cùng tất cả các bạn và từng bạn việc bày tỏ niềm tri ân của tôi, với lòng cảm mến và nguyện cầu của tôi.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 20/1/2008

 

 

TOP

 

 

13/1/2008 Chúa Nht Chúa Giêsu Chu Phép Ra 

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Với lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa hôm nay, mùa phụng vụ Giáng Sinh đã kết thúc. Con trẻ mà các Đại Sĩ Chiêm Gia từ Đông phương tới tôn kính ở Bêlem hiến dâng các lễ vật tiêu biểu của họ, chúng ta thấy giờ đây đã trở thành một người lớn, vào giây phút Người đã lãnh nhận phép rửa của vị đại tiên tri Gioan ở sông Dược Đăng (x Mt 3:13). Phúc Âm này ghi nhận rằng khi Chúa Giêsu, sau khi đã lãnh nhận phép rửa, lên khỏi nước, thì các tầng trời mở ra và Thánh Thần đậu xuống trên Người như là một con chim câu (x Mt 3:16). Rồi một tiếng từ trời phán: “Đây là Người Con yêu dấu Ta rất hài lòng về Người” (Mt 3:17).

 

Đây là lần xuất hiện đầu tiên sau 30 năm sống ẩn dật ở Nazarét. Các chứng nhân của biến cố đặc biệt này, ngoài vị Tiền Hô, cón có các môn đệ của ông, mà một số trong họ từ lúc ấy đã trở thành môn đề của Chúa Kitô (x Jn 1:35-40). Chúng ta cùng một lúc vừa có cuộc Kitô Hiển và Thần Hiển: Trước hết, Chúa Giêsu tỏ mình ra như “Đức Kitô”, tiếng Hy Lạp được sử dụng để chuyển dịch từ tiếng Do Thái “Messiah” nghĩa là “được xức dầu”. Người đã không được xức bằng dầu, như trường hợp của các vị vua chúa và thượng tế trong Dân Yến Duyên, mà là Thánh Thần. Đồng thời, cùng với Con Thiên Chúa, cũng xuất hiện các thứ dấu hiệu Thánh Linh và Cha trên trời.

 

Việc làm này có nghĩa là gì, một việc Chúa Giêsu muốn hoàn tất, khi thắng vượt việc kháng cự c ủa Vị Tẩy Giả, để tuân  theo ý Cha của Người (x Mt 3:14-15)? Ý nghĩa sâu xa sẽ sáng tỏ chỉ ở vào lúc kết thúc biến cố trần gian của Chúa Kitô, tức là ở vào cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Khi lãnh nhận phép rửa của Thánh Gioan cùng với thành phần tội nhân, Chúa Giêsu bắt đầu mang trên mình gánh nặng tội lỗi của toàn thể nhân loại, như Chiên Thiên Chúa “xóa tội” trần gian (x Jn 1:29).

 

Đây là công việc Người chỉ đi đến chỗ hoàn tất trên cây thập giá, nơi Người cũng lãnh nah65n “phép rửa” của Người (x Lk 12:50). Thật vậy, khi chết đi là Người “dìm” mình trong tình yêu của Cha và tuôn đổ Thần Linh, để những ai tin vào Người thì được tái sinh từ nguồn mạch vô tận của đời sống mới mẻ và hằng hữu. Toàn thể sứ vụ của Chúa Giêsu được tóm gọn như thế này: Chúa ta đã nhận lãnh phép rửa trong Thánh Linh để được giải phóng khỏi tình trạng làm tôi cho sự chết và “các tầng trời mở ra cho chúng ta”, tức là chúng ta có thể tiến tới sự sống chân thực và trọn vẹn, một sự sống sẽ “chìm ngập một cách mới mẻ hơn bao giờ hết vào trong cái vĩ đại của sự hữu, một cái vĩ đại khiến chúng ta chới với hân hoan” (Spe Salvi, 12 ).

 

Đó cũng là những gì xẩy ra cho 13 em bé sơ sinh mà tôi ban bí tích rửa tội cho sáng hôm nay ở nguyện đường Sistine. Đối với họ cũng như với gia đình của họ thì chúng ta kêu cầu việc bao che đùm bọc từ mẫu của Mẹ Maria Rất Thánh. Và chúng ta hãy nguyện cầu cho tất cả mọi người Kitô hữu, để họ hiểu được mỗi ngày một hơn tặng ân rửa tội và quyết tâm để liên lỉ sống tặng ân  này, làm chứng cho tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 13/1/2008

 

TOP

 

6/1/2008 Về Chúa Nhật Hiển Linh

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Hôm nay, chúng ta cử hành Lễ Chúa Hiển Linh, tức là việc Chúa tỏ mình ra cho các dân nước trên toàn thế giới, được tiêu biểu nơi các chiêm vương gia đến từ Đông phương để tôn thờ vua dân Do Thái. Khi thấy được các hiện tượng trên bầu trời, những con người lạ lùng này đã thấy xuất hiện một ngôi sao mới, và cũng được hướng dẫn bởi các lời tiên tri xưa kia, đã nhận ra nơi ngôi sao ấy dấu hiệu giáng sinh của Đấng Thiên Sai, giòng dõi Đavít (x 2:1-2). Từ lần xuất hiện đầu tiên này, từ đó, ánh sáng của Chúa Kitô đã bắt đầu tiến đến với những con người “được  Thiên Chúa yêu thương” (Lk 2:14), thuộc mọi ngôn ngữ, dân nước và văn hóa. Chính quyền  năng của Chúa Thánh Thần đã tác động các tâm trí trong việc tìm kiếm chân lý, sự mỹ, công lý và bình an.

 

Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II đã khẳng định điều này trong thông điệp “Đức Tin và Lý Trí” của ngài rằng: “Con người nam nữ đang thực hiện một cuộc hành trình khám phá bất khả dừng lại theo nhân loại – một cuộc tìm kiếm chân lý và là một cuộc tìm kiếm một con người họ có thể ký thác bản thân mình” (khoản 33): Các chiêm vương gia đã thấy được cả hai thực tại này nơi con trẻ ở Bêlem.

 

Những con người nam nữ của hết mọi thế hệ, trong cuộc hành trình này của mình cần đến hướng đi: vậy thì họ có thể theo ngôi sao nào đây? Sau khi đến đậu “trên nơi con trẻ ở” (Mt 2:9), ngôi sao dẫn đường cho các vị chiêm vương gia đã hoàn tất nhiệm vụ của mình, thế nhưng, ánh sáng thiêng liêng của nó vẫn hằng hiện diện nơi lời Phúc Âm, thứ ánh sáng mà cho tới cả ngày nay vẫn có thể hướng dẫn hết mọi người đến với Chúa Giêsu. Lời này, chẳng là gì khác ngoài những gì phản ảnh Chúa Kitô, là người thật và là Thiên Chúa thật, được âm vang một cách uy quyền bởi Giáo Hội đối với hết mọi linh hồn sẵn sàng đón nhận. Vì lý do ấy mà cả Giáo Hội nữa thực thi sứ vụ của ngôi sao này đối với nhân loại. Thế nhưng, vấn đề này cũng có thể nói về hết mọi Kitô hữu, thành phần được kêu gọi để giúp vào việc hướng dẫn những bước chân của anh chị em mình bằng lời nói và chứng từ của đời sống họ.

 

Bởi thế, quan trọng biết bao việc thành phần Kitô hữu chúng ta cần phải tỏ ra trung thành với ơn gọi của chúng ta! Hết mọi tín hữu chân chính bao giờ cũng là người tiến bước trong một cuộc hành trình theo con đường đức tin của mình, và với một ánh sáng nhỏ bé họ mang trong mình, họ đồng thời còn có thể và cần phải hỗ trợ cho những ai họ ở bên cạnh họ và những ai có lẽ gặp phải khó khăn trên đường tiến đến với Chúa Kitô.

 

Khi chúng ta sửa soạn nguyện kinh Truyền Tin đây, tôi gửi lời chào thân ái nhất đến anh chị em thuộc các Giáo Hội Đông Phương, những người, theo Lịch Julian, cử hành Lễ Giáng Sinh vào ngày mai: Đó là một niềm vui lớn lao để chia sẻ trong việc cử hành những mầu nhiệm đức tin, nơi kho tàng nghi lễ đa dạng là những gì chứng tỏ cho thấy hai ngàn năm lịch sử của Giáo Hội.

 

Cùng với các Cộng Đồng Kitô Hữu Đông Phương, các cộng đồng rất sùng kính Người Mẹ Thánh của Thiên Chúa, chúng ta hãy kêu cầu Mẹ chở che gìn giữ Giáo Hội hoàn vũ, nhờ đó Phúc Âm của Chúa Kitô được lan truyền khắp nơi trên  toàn thế giới, “Lumen Gentium”, ánh sáng muôn dân.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/1/2008

 

 

  TOP

 

 

1/1/2008 Về Mẹ Thiên Chúa và Ngày Hòa Bình Thế Giới

 

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Chúng ta đã bắt đầu một năm mới và tôi chúc mọi người được an bình và thịnh vượng. Tôi phó dâng nó cho sự chở che trời cao của Đức Trinh Nữ, Vị được phụng vụ hôm nay kêu cầu bằng một tước hiệu quan trọng nhất là Mẹ Thiên Chúa. Bằng tiếng “xin vâng” Mẹ thưa với thiên  thần vào ngày Truyền Tin, Vị Trinh Nữ này bởi Thánh Thần đã thụ thai trong lòng dạ của mình Lời hằng hữu, và Mẹ đã hạ sinh Người vào đêm Giáng Sinh.

 

Ở Bêlem, vào thời điểm viên trọn, Chúa Giêsu đã được Mẹ Maria sinh ra: Con Thiên Chúa đã hóa thân làm người vì phần  rỗi của chúng ta, và vị Trinh Nữ này thực sự trở thành Mẹ Thiên Chúa. Tặng ân cao cả này được ban cho Mẹ Maria không phải chỉ giành riêng một mình cho Mẹ mà là cho tất cả chúng ta. Thật vậy, nơi đức trinh nguyên phong phú của Mẹ, Thiên Chúa đã ban “cho con người những phúc lộc của ơn cứu độ đời đời… vì nhờ Mẹ chúng ta đã lãnh nhận tác giả sự sống” (cf. collect prayer).

 

Mẹ Maria, sau khi đã cống hiến xác thịt khả tử cho Người Con duy nhất của Thiên Chúa, đã trở thành mẹ của thành phần tín hữu và toàn thể nhân loại.

 

Chính vì nhân danh Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và nhân loại, mà 40 năm qua, vào ngày đầu tiên trong năm, Giáo Hội đã cử hành Ngày Hòa Bình Thế Giới. Đề tài được chọn cho năm  nay đó là “Gia Đình Nhân Loại, một Cộng Đồng Hòa Bình”.

 

Cùng một tình yêu xây dựng và bảo tồn mối hiệp nhất nơi gia đình, một khối xây dựng quan trọng của xã hội, cũng giúp vào những mối liên hệ của tình đoàn kết và sự hợp tác giữa các dân tộc trên thế giới là những phần tử của một gia đình nhân loại duy nhất.

 

Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhắc nhở điều này khi khẳng định rằng: “Cộng đồng của tất cả mọi dân tộc là một cộng đồng duy nhất, có một nguồn gốc duy nhất…. Nó cũng chỉ có một cùng đích duy nhất là Thiên Chúa” (Nostra Aetate, 1). Bởi thế, nơi gia đình, xã hội và hòa bình có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau.

 

Tôi đã viết trong sứ điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới hôm nay là “Bởi thế, bất cứ ai, cho dù không biết, mưu đồ phá hoại cơ cấu gia đình là người tác hại đến hòa bình nơi toàn thể cộng đồng này, quốc gia cũng như quốc tế, vì họ làm yếu kém đi những gì thực sự là tác nhân căn bản của hòa bình” (khoản 5).

 

Cũng thế, “chúng ta không sống với nhau chỉ vì tình cờ; tất cả c hung ta đang tiến b ước  trên cùng một con đường như những con người nam nữ, bởi đó như là anh chị em với nhau” (khoản 6). Mỗi người chúng ta thật sự cần phải đảm nhận trách nhiệm trước nhan Thiên Chúa và nhìn nhận nơi Ngài nguồn mạch nguyên thủy cho việc hiện hữu của riêng chúng ta cũng như của những người khác.

 

Chớ gì việc ý thức này làm bừng lên quyết tâm thực hiện việc làm cho nhân loại trở thành một cộng đồng hòa bình đích thực, được chi phối bởi “một luật lệ chung… một thứ luật lệ bảo trì tự do chân thực chứ không phải hứng khởi mù quáng, và bảo vệ thành phần yếu kém khỏi bị kẻ mạnh áp bức” (khoản 11).

 

Chớ gì Mẹ Maria, Mẹ của Vị Hoàng Tử Bình An, hỗ trợ Giáo Hội trong việc không ngừng phục vụ cho hòa bình của Giáo Hội, và giúp cho cộng đồng chư quốc, thành phần chư quốc sẽ cử hành 60 năm Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền, bắt đầu tiến bước trên con đường đoạn kết đích thực và hòa bình bền vững.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 1/1/2008

 

 TOP