GIÁO HỘI HIỆN THẾ

Tháng 11/2004

Ý Chỉ Ðức Thánh Cha

Ý Chung: “Xin cho Kitô hữu ý thức được ơn gọi riêng của mình trong lòng Giáo Hội, để họ hăng say đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa và nên thánh trong bậc sống của mình”.

Ý Truyền Giáo: “Xin cho tất cả những ai đang hoạt động truyền giáo luôn ý thức được rằng tác hiệu của việc truyền bá phúc âm hóa xuất phát từ cuộc sống    thánh thiện cũng như từ việc sâu xa kết hợp với Chúa Kitô”.  

 

__________________

 NGÀY 7 CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN

  

Thông Báo về Năm Thánh Thể của thoidiemmaria.net

Theo ý hướng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II về việc Ngài mở Năm Thánh Thể với mục đích là để chung Giáo Hội và riêng mỗi Kitô hữu làm sao có thể ý thức hơn về Mầu Nhiệm Thánh Thể và là một năm sống Phụng Vụ Thánh Thể, thoidiemmaria.net đã, đang và sẽ phổ biến những gì liên quan đến Thánh Thể và Phụng Vụ trong Năm Thánh Thể. Thoidiemmaria đã phổ biến về Thánh Thể vào các ngày Thứ Năm trong Năm Thánh Thể từ Ngày 4 Thứ Năm, với bài "Năm Thánh Thể: Nguyên Do và Mục Đích"; và những bài về Thánh Thể với Thánh Mẫu ngay từ khi khai mở Năm Thánh Thể, Ngày 16 Thứ Bảy như bài "Tâm Điểm của Kinh Mân Côi là Chúa Kitô và Cầu Kinh Mân Côi là Tuyên Xưng Chúa Kitô". Từ Chúa Nhật này, 7/11/2004, thoidiemmaria sẽ bắt đầu với những bài về Phụng Vụ theo các văn kiện của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đó là hai tông thư, tông thư về Hiến Chế Canh Tân Phụng Vụ được ngài ban bố ngày 12/12/2003, dịp kỷ niệm ban hành hiến chế này của Công Đồng Chung Vaticanô II, và tông thư Ngày Của Chúa, ban hành ngày 31/5/1998.

Trong Tông Thư về Năm Thánh Thể “Xin Chúa Ở Với Chúng Con” khoản số 23 và 29, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói rõ và nhấn mạnh đến Phụng Vụ Thánh Thể Chúa Nhật như sau:

• “Đặc biệt Tôi muốn là trong năm nay chúng ta phải hết sức cố gắng để làm sao cảm nghiệm được Chúa Nhật là một ngày của Chúa và là ngày của Giáo Hội. Tôi cảm thấy hoan hỉ khi mọi người suy nghĩ lại những lời Tôi nói trong Tông Thư Ngày Của Chúa Dies Domini. ‘Với Thánh Lễ Chúa Nhật, người Kitô hữu đặc biệt sống lại cảm nghiệm của các Vị Tông Đồ vào buổi tối Phục Sinh xưa, khi Chúa Giâsu Sống Lại hiện ra với các vị lúc các vị đang quay quần với nhau (x Jn 20:19). Theo một ý nghĩa nào đó, Dân Chúa ở mọi thời đã được hiện diện nơi nhóm nhân trung môn đệ nhỏ bé là những hoa trái đầu mùa của Giáo Hội ấy rồi’ (21). Trong năm hồng ân này, theo thừa tác vụ mục vụ của mình, các vị linh mục cần phải chú trọng hơn nữa đến Thánh Lễ Chúa Nhật như là một việc cử hành để qui tụ toàn thể cộng đồng giáo xứ lại, với sự tham dự của các nhóm hội, phong trào và đoàn thể khác nhau” (khoản số 23)

• “Chớ gì đối với hết mọi người Năm Thánh Thể là một cơ hội quí báu để ý thức hơn nữa cái kho tàng khôn sánh được Chúa Kitô ký thác cho Giáo Hội của Người ấy. Chớ gì Năm Thánh Thể kích thích việc cử hành Thánh Thể sống động và sốt sắng hơn nữa, mang lại một đời sống Kitô giáo được biến đổi trong yêu thương… Chỉ cần làm sao trong Năm này, ở tất cả mọi cộng đồng Kitô hữu, phục hồi được việc cử hành Thánh Lễ Chúa Nhật cũng như việc gia tăng tôn thờ Thánh Thể ngoài Thánh Lễ, là Năm ân sủng này hết sức thành đạt rồi vậy” (khoản số 29).

 

Về Hiến Chế "Sacrosanctum Concilium" Phụng Vụ Thánh

Tông Thư của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
nhân dịp kỷ niệm 40 năm ban hành
 

Bức Tông Thư thứ 43 tương đối ngắn của ĐTC GPII nhân dịp mừng kỷ niệm 40 năm Công Đồng Chung Vaticanô II ban bố Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh này tất cả gồm có 16 đoạn, ngoại trừ đoạn mở (1) và kết (16) ngắn, được chia ra làm 3 phần rõ rệt: phần thứ nhất có 4 đoạn (2-5), phần hai có 5 đoạn (6-10) và phần ba cũng có 5 đoạn (11-15). Phần nhất là để ôn lại bản Hiến Chế Phụng Vụ Thánh; phần hai để xét lại việc áp dụng thực hành văn kiện này trong 40 năm qua, và phần ba để thực hiện những gì cần thiết hầu kiện toàn Hiến Chế Phụng Vụ Thánh theo tinh thần của Công Đồng.

1.     “Thần linh và Hiền thê lên tiếng ‘Hãy đến’. Ai nghe thì nói ‘Xin đến’. Ai khát hãy đến, hỡi kẻ ước muốn hãy uống nước sự sống không phải tốn phí” (Rev. 22:17). Những lời này của Sách Khải Huyền âm vang trong tâm trí của Tôi khi Tôi nhớ lại 40 năm trước đây, vào đúng ngày 4/12/1963, vị tiền nhiệm đáng kính của Tôi là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ban hành Hiến Chế “Sacrosanctum Concilium” về Phụng Vụ Thánh. Thật vậy, Phụng Vụ còn là gì nếu không phải là tiếng của Thánh Linh cũng như của Hiền thê là Giáo Hội đồng thanh kêu lên cùng Chúa Giêsu: ‘Hãy đến’? Phụng vụ là gì nếu không phải là nguồn “nước sự sống” tinh tuyền và nguyên thủy được cống hiến cho những ai khao khát lãnh nhận được tặng ân nhưng không của Thiên Chúa (x Jn 4:10)?

Đúng thế, trong Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh này, Công Đồng Chung Vaticanô II, hoa trái đầu mùa của “đại hồng ân sinh phúc cho Giáo Hội trong thế kỷ 20” (1), Thánh Thần đã nói với Giáo Hội, không ngừng dẫn dắt thành phần môn đệ của Chúa “vào tất cả sự thật” (Jn 16:13). Việc cử hành mừng kỷ niệm 40 năm của biến cố này là một cơ hội tốt để tái nhận thức những đề tài sâu xa của việc canh tân phụng vụ theo ý muốn của các Nghị Phụ Công Đồng, để thẩm định vấn đề tiếp nhận việc canh tân này cũng như để hướng về tương lai.

Trong phần nhất, ĐTC ôn lại Hiến Chế Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Chung Vaticanô II, bằng cách chẳng những nhắc lại một số nhận định then chốt của Công Đồng về Phụng Vụ (6-8) mà còn nhấn mạnh đến một số điểm quan trọng trong Hiến Chế quan trọng này nói riêng, như vấn đề Thánh Nhạc và Nghệ Thuật Thánh (9-10).

Một thoáng nhìn về Bản Hiến Chế của Công Đồng

2.     Qua giòng thời gian, căn cứ vào các hoa trái gặt hái được, người ta rõ hơn bao giờ hết tầm quan trọng của văn kiện “Sacrosanctum Concilium”. Văn kiện này đã trình bày sáng tỏ những nguyên tắc làm nền tảng cho tập truyền phụng vụ của Giáo Hội, cũng như làm khởi sắc cho việc canh tân lành mạnh theo giòng thời gian (2). Các Nghị Phụ của Công Đồng đã đặt Phụng Vụ vào bối cảnh của lịch sử cứu độ, một lịch sử nhắm đến việc cứu độ nhân loại và việc hiển vinh Thiên Chúa. Việc cứu độ này được bắt đầu tấu lên nơi cử chỉ thần linh kỳ diệu ở Cựu Ước và được Chúa Kitô làm hoàn trọn, nhất là bằng mầu nhiệm vượt qua với cuộc khổ nạn phúc đức, tử giá, phục sinh và thăng thiên vinh hiển của Người (3). Tuy nhiên, việc cứu độ này không phải để loan báo mà còn phải sống nữa, chính vì vậy mà “toàn thể đời sống phụng vụ được bắt nguồn từ Hiến Tế và Các Bí Tích” (4). Chính Chúa Kitô đã hiện diện một cách đặc biệt nơi những tác động phụng vụ, liên kết Giáo Hội với chính mình Người. Bởi thế mọi việc cử hành phụng vụ mới là việc làm của Chúa Kitô Tư Tế và của Nhiệm Thể Người, “một việc tôn thờ công khai toàn vẹn” (5), làm cho người tham dự như được tiên hưởng Phụng Vụ của Giêrusalem thiên đình (6). Vì vậy, “Phụng Vụ là tột đỉnh hướng tới của hoạt động Giáo Hội, đồng thời còn là nguồn mạch phát xuất tất cả mọi nhân đức của Giáo Hội” (7).

3.     Quan điểm về phụng vụ của Công Đồng không chỉ gói gọn vào phạm vi nội tại của Giáo Hội, mà là hướng về chân trời của toàn thể nhân loại nữa. Đúng thế, trong việc Người chúc tụng Cha, Chúa Kitô liên kết mình với toàn thể cộng đồng con người, và Người làm như thế một cách đặc biệt qua sứ vụ nguyện cầu của một “Giáo Hội không ngừng chúc tụng Chúa và cầu bầu ơn cứu độ cho toàn thế giới, chẳng những bằng việc cử hành Thánh Thể mà còn bằng những đường lối khác nữa, nhất là bằng việc đọc Kinh Thần Vụ” (8).

Theo quan điểm của hiến chế "Sacrosanctum Concilium", đời sống phụng vụ của Giáo Hội có tính cách vươn rộng theo chiều kích vũ trụ và toàn cầu, ghi đậm nét thời gian và không gian của con người. Theo quan điểm này, người ta cũng hiểu được cái chú trọng mới được bản Hiến Chế này cống hiến cho Năm Phụng Vu, đó là cách thức Giáo Hội lập lại mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô và sống lại mầu nhiệm này (9).

Nếu Phụng Vụ là tất cả những điều ấy thì Công Đồng đã có lý để xác nhận rằng hết mọi tác động phụng vụ “là tác động thánh hảo đệ nhất, không có một hành động nào khác của Giáo Hội tương đương với giá trị của tác động phụng vụ này ở cùng một cấp độ” (10). Ngoài ra, Công Đồng còn nhìn nhận rằng “Phụng Vụ thánh không là tất cả mọi hoạt động của Giáo Hội” (11). Thật vậy, một mặt Phụng Vụ bao hàm việc loan báo Phúc Âm, mặt khác, lại cần đến chứng từ của Kitô hữu trong giòng lịch sử. Mầu nhiệm được phác họa cho việc giảng dạy và giáo lý, một mầu nhiệm được đức tin lãnh nhận và được Phụng Vụ cử hành, cần phải khuôn đúc toàn thể đời sống của người tín hữu, thành phần được kêu gọi để loan báo tin mừng của phụng vụ trên thế giới (12).

4.     Trong số những thực tại khác nhau được hàm chứa nơi việc cử hành phụng vụ, Hiến Chế này đặc biệt chú trọng tới tầm quan trọng của thánh ca “musica sacra”. Công Đồng nâng cao thánh ca khi nói đến mục đích của nó là “vinh hiển Thiên Chúa và việc thánh hóa tín hữu” (13). Thật vậy, thánh nhạc là một phương tiện thuận lợi để làm cho tín hữu dễ dàng chủ động tham dự vào tác động linh thánh, như đã được vị tiền nhiệm của Tôi là Thánh Piô X mong muốn trong văn kiện motu proprio “Tra le Sollecitudini” của Ngài, một văn kiện được Ngài ban hành cách đây đúng 100 năm. Chính cuộc mừng kỷ niệm này mới đây đã cho Tôi cơ hội để xác nhận là, theo những điều hướng của hiến chế “Sacrosanctum Concilium” (14), cần phải bảo trì ca nhạc và làm tăng thêm vai trò của nó trong các việc cử hành phụng vụ, bằng cách chú trọng tới chính tinh chất của Phụng Vụ cũng như cảm thức của thời đại chúng ta cũng như đến các truyền thống ca nhạc ở các miền đất khác nhau trên thế giới.

5.     Một đề tài phong phú khác được khai triển trong bản Hiến Chế của Công Đồng này là đề tài liên quan đến nghệ thuật thánh. Công Đồng đã minh định là việc thờ phượng có thể sáng ngời nhờ việc trang trí cùng vẻ đẹp của nghệ thuật phụng vụ, và việc thờ phượng này sẽ tiếp tục giữ một địa vị quan trọng trong thời của chúng ta đây. Để đạt được mục đích này, cần phải khởi xướng việc huấn luyện những công nhân khéo léo cùng với những chuyên viên nghệ thuật, được kêu gọi thực hiện việc kiến thiết cùng với kiểu cách của những dinh thự được ấn định dùng vào việc thờ phượng (15). Căn bản của những chiều hướng này đó là quan điểm về nghệ thuật, nhất là nghệ thuật thánh, một thứ nghệ thuật liên hệ với “vẻ đẹp thần linh vô cùng, một vẻ đẹp cần phải được thể hiện một cách nào đó nơi các công trình của con người” (16).

 

Thân Xác của chúng ta sẽ được thông phần vào Cuộc Phục Sinh

 ĐTC GPII Bài Giáo Lý 38 Năm Thánh 2000 (Thứ Tư ngày 4-11-1998)  

Bài suy niệm cho Phụng Vụ Chúa Nhật Thường Niên 32 Năm C

 

Như bài chia sẻ Chúa Nhật tuần trước đã nhận định, theo tiến trình Phụng Niên, chúng ta đang cùng với Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô liên quan đến Mầu Nhiệm Cánh Chung. Theo Phụng Vụ Lời Chúa đã, đang và sẽ được công bố trong bốn tuần cuối cùng này, tuần trước chúng ta đã cảm nghiệm Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Ơn Cứu Độ, tuần này chúng ta tiến đến Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Xác Phục Sinh, tuần tới chúng ta sẽ sang đến Mầu Nhiệm Cánh Chung về khía cạnh Ngày Thế Mạt, và tuần sau đó, tuần cuối cùng của Phụng Niên, Lễ Chúa Kitô Vua, Mầu Nhiệm Cánh Chung được kết thúc ở việc Chúa Hiển Trị. Đó là lý do chúng ta cùng nhau ôn lại bài giáo lý Năm Thánh 2000 của ĐTCGPII liên quan đến đề tài và mầu nhiệm này.
 

 

1.    Thánh Tông Đồ Phaolô dạy rằng: “Quê hương của chúng ta ở trên trời, nơi chúng ta trông đợi một vị Cứu Tinh là Chúa Giêsu Kitô, Đấng sẽ biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên như thân xác vinh hiển của Người, bằng quyền năng khiến Người bắt tất cả mọi sự phải lụy thuộc Người” (Phil.3:20-21).

 

          Như Chúa Thánh Thần đã biến đổi thân xác của Chúa Giêsu Kitô thế nào khi Chúa Cha phục sinh Người từ trong kẻ chết, thì cũng vị Thần Linh này sẽ mặc cho thân xác chúng ta vinh quang của Chúa Kitô như vậy. Thánh Phaolô viết: “Nếu Thần Linh của Đấng phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết ở trong anh em thì Đấng đã phục sinh Chúa Giêsu Kitô từ trong kẻ chết, nhờ Thần Linh là Đấng ngự trong anh em cũng sẽ ban sự sống cho thân xác tử vong của anh em” (Rm.8:11).

 

2-       Ngay từ đầu, đức tin Kitô giáo nơi việc phục sinh của xác thịt đã gặp phải những hiểu lầm và chống đối. Thánh Tông Đồ đã cảm nhận được điều này ngay khi ngài loan báo Phúc Aâm ở giữa Thượng Công Hội thành Nhã Điển: “Khi họ nghe đến kẻ chết sống lại”, theo Sách Tông Vụ thuật lại, “thì có một số cười nhạo; còn một số khác nói ‘Chúng tôi sẽ nghe ngài thêm về vấn đề này sau’” (Acts 17:32).

 

          Mối trở ngại này cũng xẩy ra vào cả ở thời đại của chúng ta nữa. Ngoài ra, ngay cả những ai tin tưởng có một thể thức tồn tại nào đó sau khi chết cũng tỏ ra ngờ vực trước sự thật đức tin, một sự thật làm sáng tỏ vấn đề hiện hữu của con người trong ý nghĩa Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Thêm vào đó, nhiều người còn nhận thấy cái hấp dẫn của một niềm tin nơi thuyết luân hồi, một triết thuyết đã ăn rễ sâu vào mảnh đất tôn giáo của một số văn hóa Đông phương (x.Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 9).

 

          Mạc khải Kitô giáo, mặc dù cảm nhận được cái thâm sâu về tính chất bất tử nơi giáo huấn của một số vĩ nhân tìm kiếm Thiên Chúa truyền dạy, song vẫn không thỏa mãn với một cảm nhận mơ hồ về sự sống còn. Dầu sao chúng ta cũng thấy rằng tư tưởng về luân hồi đã được phát xuất từ một ước muốn bất tử thiết tha từ việc nhận thấy sự sống con người là một “thử thách” liên quan đến cùng đích của con người, và từ nhu cầu cần phải hoàn toàn được thanh tẩy để đạt tới tình trạng hiệp thông với Thiên Chúa. Tuy nhiên, luân hồi thuyết không bảo đảm được cái căn tính đặc thù cá biệt của mỗi một con người tạo vật là đối tượng của mối tình Thiên Chúa yêu thương riêng tư, cũng như tính chất chuyên chính của việc con người hiện hữu như là một “thần linh nhập thể”.

 

3-       Chứng cớ Tân Ước, trước hết, đã nhấn mạnh đến thực tại của Việc Phục Sinh, cả về thể chất, của Chúa Giêsu Kitô. Các vị Tông Đồ đã minh nhiên làm chứng cho sự kiện này, khi nói đến cảm nghiệm của mình về những lần hiện ra của Chúa: “Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại vào ngày thứ ba và tỏ mình ra… cho chúng tôi là thành phần Thiên Chúa chọn làm các nhân chứng, thành phần đã ăn uống với Người sau khi Người sống lại từ cõi chết” (Acts 10:40-41). Phúc Aâm thứ bốn cũng chú trọng đến thực tại phục sinh này, chẳng hạn, khi trình thuật đoạn Tông Đồ Tôma được Chúa Giêsu mời chọc ngón tay của thánh nhân vào dấu đinh tay Người, cũng như chọc bàn tay thánh nhân vào cạnh sườn Người (x.Jn.20:24-29). Rồi vào lần hiện ra ở bờ Biển Hồ Tibêria, Chúa Giêsu phục sinh “đã cầm lấy bánh và trao cho các vị, cả cá nữa” (Jn.21:13).

 

          Thực tại của những lần hiện ra này chứng tỏ là Chúa Giêsu đã sống lại với thân xác của Người và đang sống động bằng thân xác ấy bên Chúa Cha. Tuy nhiên, thân xác ấy là một thân xác hiển vinh, không còn lệ thuộc vào sự chi phối của không gian và thời gian nữa, một thân xác đã được biến đổi trong vinh quang của Chúa Cha. Nơi Chúa Kitô phục sinh, chúng ta thấy mạc khải về tình trạng cánh chung mà tất cả những ai lãnh nhận ơn cứu chuộc của Người đều được kêu gọi đạt đến vào một ngày kia, một tình trạng Đức Trinh Nữ đã đạt đến trước chúng ta, Đấng mà “khi cuộc sống trần gian của Người chấm dứt, cả hồn lẫn xác của Người đã được mang lên hưởng vinh quang thiên quốc” (Đức Piô XII, Tông Hiến Munificentissimus Deus, 1/11/1950, DS 3903; x. Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 59).

 

4-       Bởi thế, khi nói đến trình thuật về việc tạo dựng trong Sách Sáng Thế Ký và giải thích việc Phục Sinh của Chúa Giêsu như là một “việc tân tạo”, Thánh Tông Đồ Phaolô mới viết: “Con người Adong đầu tiên đã trở thành một hữu thể sống động; Adong sau đã trở nên thần linh ban sự sống” (1Cor.15:45). Bằng một đường lối nhiệm mầu song thực sự, tất cả mọi người tin vào Chúa Kitô đều được thông phần vào thực tại vinh hiển của Người, nhờ việc trào đổ Thánh Linh xuống.

 

          Như thế, trong Chúa Kitô, “tất cả mọi người sẽ sống lại với thân xác hiện có” (Công Đồng Chung Lataranô IV, DS 801), thế nhưng, thân xác của chúng ta ấy sẽ được biến đổi thành một thân xác hiển vinh (x.Phil.3:21), thành một “thân xác linh thiêng” (1Cor.15:44). Khi có người hỏi Thánh Phaolô: “Kẻ chết sống lại ra sao? Họ sẽ sống lại bằng thân xác nào?”, ngài đã trả lời họ trong Thư Thứ Nhất gửi giáo đoàn Côrintô, khi ngài sử dụng đến hình ảnh của một hạt giống mục nát đi để một sự sống mới vươn lên: “Cái anh em gieo xuống sẽ không mọc lên nếu nó không chết đi. Và cái anh em gieo lại không phải là cái sau này sẽ là, song chỉ là một mầm mống mà thôi, như mầm mống của một hạt lúa miến hay của một hạt giống nào đó… Việc phục sinh của kẻ chết cũng thế. Cái gieo xuống thì khả vong, còn cái sống lại thì bất hoại. Nó được gieo xuống trong bất hạnh song được sống lại trong vinh quang. Nó được gieo xuống trong hèn yếu song được sống lại trong quyền năng. Nó được gieo xuống bằng một thể xác thể lý song được sống lại bằng một thể xác linh thiêng… Vì bản chất khả vong này phải được mặc lấy bản chất bất hoại, và bản chất hư vong này phải được mặc lấy bản chất bất tử” (1Cor. 15:36-37, 42-44, 53).

 

          Đúng thế, như Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo cắt nghĩa, “cách thức” việc sống lại này xẩy ra “quá trí tưởng và trí hiểu của chúng ta; chỉ có đức tin mới đạt thấu. Tuy nhiên, việc chúng ta tham dự vào Thánh Thể đã cho chúng ta tiên hưởng được việc Chúa Kitô biến hình thân xác của chúng ta” (số 1000).

 

          Nhờ Thánh Thể Chúa Giêsu ban cho chúng ta, dưới hình bánh rượu, xác thịt của Người được Thánh Linh làm cho dậy lên để ban sự sống cho xác thịt của chúng ta, nhờ đó, chúng ta có thể thông phần vào cuộc Phục Sinh của Người và vào tình trạng vinh hiển với cả hữu thể của chúng ta, tâm thần cũng như xác thể. Về vấn đề này, Thánh Irênê Lyon dạy rằng: “Như bánh từ đất mà có, sau lời kêu cầu Thiên Chúa chúc lành cho nó, không còn là một thứ bánh thường nữa, mà là chính Thánh Thể, được hình thành bởi hai thứ, một bởi đất và một bởi trời: thì thân xác của chúng ta cũng vậy, một xác thân thông phần bí tích Thánh Thể, sẽ không còn bị hư hoại nữa, mà được hưởng một niềm hy vọng phục sinh” (Adversus Haereses, IV, 18, 4-5).

 

5-       Những gì chúng ta đã nói cho tới đây, qua việc tổng hợp giáo huấn của Thánh Kinh và Thánh Truyền của Giáo Hội, đã nói lên lý do tại sao “Kinh Tin Kính Kitô Giáo… đặt cao điểm vào việc công bố sự phục sinh của thân xác vào ngày sau hết, cũng như vào sự sống trường sinh đời đời” (Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 988). Bằng việc Nhập Thể, Lời Thiên Chúa đã mặc lấy xác thịt loài người (x.Jn.1:14), khiến cho nó, qua cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người, thông dự vào vinh quang của Người như Người Con Duy Nhất của Chúa Cha. Nhờ các tặng ân của Thần Linh, Chúa Cha đã gieo vào tất cả mọi con người, và bằng một cách nào đó, vào cả vũ trụ nữa, một khát mong đạt đến định mệnh này. Như Thánh Phaolô nói: “Tạo thành ngong ngóng đợi chờ việc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa… vì tạo thành cũng sẽ được giải cứu khỏi cảnh nô lệ sự hư hoại để được hưởng niềm tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa” (Rm.8:19-21).

 

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 11/11/1998)


 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ