GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ NĂM 31/8/2006

 TUẦN XXI THƯỜNG NIÊN

 

?  Từ Mầu Nhiệm Thánh Thể đến Mầu Nhiệm Cánh Chung

?  Tòa Thánh Vatican tại Liên Hiệp Quốc với Tân Hội Đồng về Nhân Quyền

?   Do Thái và Công Giáo Tuyên Ngôn Tôn Trọng Sự Sống Con Người

 

 

? Từ Mầu Nhiệm Thánh Thể đến Mầu Nhiệm Cánh Chung

 

(tiếp 17 Thứ Năm 2 tuần trước bài giảng của Giáo Hoàng Biển Đức XVI về Thánh Thể cho Lễ Mình Máu Chúa 15/6/2006, và 24 Thứ Năm bài Yếu Tố mầu nhiệm nơi Chất Thể của Thánh Thể ở phần Dâng Lễ )

 

Ý nghĩa bài giảng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về Thánh Thể liên quan tới khía cạnh thiên nhiên tạo vật được thần linh hóa và biến đổi từ tấm bánh là hoa mầu ruộng đất và lao công của con người đã được người dịch cảm nghiệm và chia sẻ trong cuốn “Nguồn Sống Thần Linh” (Cao-Bùi, 5/2005, Năm Thánh Thể, trang 69-73, và trang 137-144, như sau:)

 

Từ Thánh Thể đến Cánh Chung

 

Bởi vì, chất liệu được trở nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô chính là “hoa mầu ruộng đất” và “rượu bởi cây nho”. Nghĩa là, bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, qua lời vị chủ tế khẩn cầu trước mỗi lần Truyền Phép Thánh Hiến Bánh Rượu, những chất liệu thiên nhiên, tiêu biểu cho “toàn thể tạo vật” thuộc thế giới tự nhiên, sẽ được hoàn toàn biến đổi tận bản chất của mình, để trở thành thần linh và sự sống. Mỗi lần việc biến thể (transubstantiation), việc bánh trở nên Mình Thánh Chúa Giêsu và rượu trở nên Máu Thánh Chúa Giêsu xẩy ra trên bàn thờ trong Thánh Lễ là mỗi lần nhắc nhở cho Kitô hữu Công Giáo chúng ta chân lý cánh chung này, đó là chính thân xác tầm thường, hèn hạ và chết chóc của chúng ta sau cùng cũng sẽ được biến đổi nên giống như thân xác linh thiêng, hiển vinh và bất tử của Chúa Giêsu Kitô: “Người sẽ ban cho thân xác thấp hèn của chúng ta một thể thức mới và tái tạo nó theo như khuôn mẫu của thân xác hiển vinh Người, bằng quyền năng Người bắt mọi sự suy phục Người” (Phil 3:21).

 

Vẫn biết, trong ngày sau hết “tất cả mọi kẻ chết sẽ sống lại nơi thân thể như họ đang có hiện nay” (CĐ Lataranô IV năm 1215: DS 801), thế nhưng, chỉ có “những ai làm lành thì phục sinh để được sống, còn ai hành ác thì phục sinh để chịu luận phạt” (Jn 5:29; x Dan 12:2; Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, 998). Tức là thân xác của kẻ lành mới được biến đổi nên giống như thân xác vinh hiển của Chúa Kitô Phục Sinh, còn thân xác của thành phần hư đi tuy cũng được biến đổi thành linh thiêng nhưng lại là một tình trạng linh thiêng giống như ma quỉ trong hỏa ngục. Yếu tố chính yếu làm cho thân xác của kẻ lành được biến đổi trở thành vinh hiển giống như thân xác của Chúa Kitô Phục Sinh, hoàn toàn khác với thân xác của thành phần đời đời hư đi trong hỏa ngục chính là Sự Sống nơi kẻ lành khi còn sống trên trần gian trước khi chết, một Sự Sống họ đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa: “Nhờ phép rửa trong sự chết của Người, chúng ta đã được mai táng với Người, để như Đức Kitô nhờ vinh quang của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, chúng ta cũng được sống một sự sống mới như vậy” (Rm 6:4).

 

“Sự sống mới” đây là gì, nếu không phải, về phương diện thần học, là chính sự sống “tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8:21), sự sống toàn thể tạo vật mong đợi nơi họ để được giải phóng và thông phần vào, sự sống được hiệp nhất nên một với Thiên Chúa, với chính mình, với tha nhân và với toàn thể thiên nhiên tạo vật như ngay từ khi con người còn ở trong tình trạng thánh thiện và công chính nguyên thủy (x Giáo Lý GHCG, 399-400). Về phương diện tu đức, “sự sống mới” “tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa”, chính là “sống không theo xác thịt song theo thần trí” (Rm 8:4; x Col 5:16), vì “xác thịt hướng về sự chết còn thần trí hướng về sự sống và bình an” (Rm 8:6): “Nếu anh em sống theo xác thịt, anh em sẽ chết; nhưng nếu bởi thần trí anh em tiêu diệt những việc xấu xa của thân xác anh em sẽ sống” (Rm 8:13). “Những việc xấu xa của thân xác” hay của “xác thịt là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Col 5:19-21); còn những việc hay “hoa trái của thần trí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Col 5:22-23).

 

“Người ta chỉ gặt gái những gì họ đã gieo vãi. Nếu họ gieo vãi nơi thửa ruộng xác thịt, họ sẽ gặt hái được mùa màng băng hoại; nhưng nếu hạt giống gieo xuống của họ là thần trí thì họ sẽ gặt được sự sống trường sinh” (Gal 6:8). Đúng thế, “mùa gặt đây là tận thế” (Mt 13:39), lúc mà “Đấng ngự trên ngai phán phán: ‘Này đây Ta đổi mới mọi sự... Xong cả rồi! Ta là Alpha và Ômega, là Khởi Nguyên và là Cùng Tận. Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh mà không phải trả tiền. Ai thắng sẽ được hưởng hồng ân đó. Ta sẽ là Thiên Chúa của người ấy, và người ấy sẽ là con của Ta. Còn những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ dối trá điêu ngoa, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh ngùn ngụt cháy: đó là cái chết lần thứ hai’” (Rev 21:5-8).

 

Thiên Chúa chỉ hứa cứu chuộc con người tạo vật khỏi cái chết lần nhất mà thôi, như lời Ngài hứa với hai nguyên tổ sau khi sa phạm đó là Ngài sẽ cho “miêu duệ người nữ... đạp nát đầu” (Gen 3:15), “con cựu xà, tức Satan, tên cám dỗ cả thế gian” (Rev 12:9). Đức Giêsu Kitô, con của Đức Maria, “một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse thuộc giòng dõi Đavít” (Lk 1:27), thực sự đã “đạp nát đầu” (Gen 3:15) con cựu xà Satan bằng tử giá cứu độ của mình: “Chính vì để phá hủy các việc làm của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra” (1Jn 3:8); “Một khi Tôi bị treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32). Đúng thế, nhờ cuộc tử giá của Chúa Kitô, “Vị Mục Tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên” (Jn 10:11), mà đàn chiên Kitô hữu môn đệ của Người, qua Bí Tích Rửa Tội đã “được sự sống” (Jn 10:10), và qua Bí Tích Thánh Thể, còn được hưởng “một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10), một sự sống phát xuất từ chính huyết nhục của Mẹ Maria được “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) mặc lấy: “Thịt Tôi là của ăn thật, máu Tôi là của uống thật. Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở trong Tôi và Tôi ở trong họ” (Jn 6:55-56).

 

Thật vậy, Thiên Chúa nhập thể làm người không phải chỉ để trở thành một Vị “Thiên Chúa ở giữa chúng ta” (Mt 1:23; Is 7:14) một cách tổng quát chung chung vậy thôi, mà Người còn muốn ở với và ở trong mỗi người chúng ta nữa, vì Người thương từng con chiên của Người, dù là con chiên lạc đàn duy nhất (x. Mt 18:10-14). Bởi thế, Người không chỉ muốn ở trong hồn thiêng bất tử của chúng ta bằng Ơn Thánh của Người mà thôi, Người còn muốn thực sự ở trong thân xác tro bụi hèn hạ tầm thường của chúng ta nữa bằng chính Thánh Thể của Người, vì Người chẳng những muốn cứu linh hồn chúng ta khỏi tội lỗi bằng Thánh Giá của mình, Người còn muốn cứu cả thân xác hữu hình và hữu hạn của chúng ta khỏi sự chết bằng Thánh Thể của Người nữa, nghĩa là Người muốn cả thân xác của chúng ta cũng sẽ được sống lại như thân xác hiển vinh của Người trong ngày sau hết.

 

Như thế, quả thật Thánh Thể có liên quan hết sức mật thiết đến “việc cứu độ của thân xác chúng ta” (Rm 8:23): “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì có sự sống đời đời, phần Tôi sẽ làm cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Jn 6:54). Tuy nhiên, tác nhân làm cho thân xác của những ai ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô sống lại trong ngày sau hết giống như thân xác vinh hiển của Người đây là ai, nếu không phải là chính Thánh Linh, Đấng bao giờ cũng được Giáo Hội cầu khẩn trước khi thánh hiến bánh rượu trên bàn thờ, để nhờ Ngài bánh rượu được trở nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô: “Nếu Thần Linh của Đấng đã phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết ở trong anh em thì Đấng đã phục sinh Chúa Kitô từ trong kẻ chết sẽ mang sự sống đến cho thân xác chết chóc của anh em, bằng Thần Linh của Ngài ở trong anh em” (Rm 8:11).

 

Tuy nhiên, không phải cho đến khi thân xác con người ăn Mình Thánh và uống Máu Thánh Chúa Kitô khi còn sống sắp phục sinh từ trong cõi chết Thần Linh của Thiên Chúa mới “mang sự sống đến cho thân xác chết chóc” của họ, mà là ngay từ khi họ còn sống trong thân xác của họ trên thế gian này. Ở chỗ, “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống” (Kinh Tin Kính) làm cho họ càng ngày càng nhận biết Chúa Kitô hơn (x Jn 16:13), để rồi, nhờ nhận biết Chúa Kitô, một nhận biết chính là sự sống trường sinh (x Jn 17:3), họ sẽ sống Chúa Kitô, tức sẽ tác hành như Chúa Kitô, đến nỗi, không phải họ sống nữa mà là Chúa Kitô sống trong họ (x Gal 2:20), một sự sống khiến cho những ai thấy họ là nhận ra Chúa Kitô (x Jn 13:15).

 

Sự sống Chúa Thánh Thần làm cho thế gian nhận ra Chúa Kitô nơi những ai lãnh nhận Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô đây chính là sự sống “yêu thương như Thày yêu” (Jn 15:12, x 13:34), một tình yêu cao cả đã hiến mạng sống mình vì người mình yêu (x Jn 15:13). Như thế, khi Kitô hữu sống tình yêu cao cả này của Chúa Kitô và như Chúa Kitô là họ chẳng những thực sự “cử hành mầu nhiệm thánh” (theo lời kêu gọi thống hối mở đầu mỗi Thánh Lễ), cử hành Mầu Nhiệm Yêu Thương của Thiên Chúa được lập lại trong Hiến Tế Thánh Thể, một mầu nhiệm đòi con người phải biết yêu thương tha thứ cho nhau mới hội đủ điều kiện xứng đáng để dâng tiến (x Mt 5:23-24), mà họ còn thực sự “làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19; 1Cor 11:24) ngay trong cuộc sống của họ nữa, chứ không phải chỉ ở trên bàn thờ khi dâng lễ thôi, vì họ làm cho biến cố Tử Giá Cứu Độ có tác dụng “một lần là vĩnh viễn” (Heb 7:27, 10:10; 1Pet 3:18) của Chúa Kitô tái diễn “cho tới khi Chúa lại đến” (như lời tung hô sau truyền phép), một cách hiển nhiên và sống động trên thế gian, chứ không phải một cách bí tích và mầu nhiệm chỉ có ở trong phụng vụ và nội bộ cộng đồng Dân Chúa thôi.

 

Nếu cuộc đời của những người lãnh nhận Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô sống Tình Yêu cao cả của Người thực sự cử hành một Thánh Lễ sống động như thế, thì bản thân họ, nhân tính của họ nói chung và thân xác của họ nói riêng, như Chúa Kitô, cũng đã trở thành một “con chiên bị đem đi sát tế” (Is 53:7), một “con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Jn 1:29). Vì “theo Con Chiên đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên đến” (Rev 14:4) như vậy mà “khi Con Người đến trong vinh quang, ngự trên ngai, có tất cả các thiên thần hầu chực và muôn dân tụ họp trước nhan Người” (Mt 25:31-32), họ mới là thành phần “chiên ở bên phải Người” (Mt 25:33), thành phần được Người nhận biết và tưởng thưởng hết sức xứng đáng vì những việc họ làm “khi họ còn sống ở trong thân xác” (2Cor 5:10) để đáp ứng những nhu cầu cụ thể hầu như liên quan trực tiếp đến thể lý của tha nhân là những con người vô cùng cao quí đã được chính Vị Thiên Chúa Làm Người Giêsu Kitô đồng hóa với Người: “Hãy đến. Các con được Cha Ta chúc phúc! Hãy hưởng vương quốc đã sắm sẵn cho các con từ khi tạo thành thế gian. Vì khi Ta đói các con đã cho Ta ăn, Ta khát các con đã cho Ta uống. Khi Ta là khách lạ các con đã đón nhận Ta, trần truồng các con đã cho Ta mặc. Khi Ta đau yếu các con đã an ủi Ta, tù ngục các con đã đến viếng thăm Ta... vì bao lâu các con làm như thế cho một trong những người anh em hèn mọn nhất của Ta là các con làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:35- 36, 40).

 

Nếu con người lãnh nhận Thánh Thể Chúa Kitô thực sự có thể sống Chúa Kitô, có thể yêu thương như Người đã yêu thương, thì không phải là thân xác của họ đang được Thần Linh của Người biến đổi làm cho nên giống thân xác vinh hiển của Người ngay ở đời này rồi hay sao? Ở chỗ, xác thịt vốn là một thực thể hướng chiều về sự chết (x Rm 8:6): “Cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt” (Jn 3:6), lại có thể sinh hoa trái sự sống yêu thương. Vậy để biết mình đã hơn một lần hay vẫn thường xuyên lãnh nhận Thánh Thể Chúa Kitô có thực sự sống sự sống của Người hay chưa, tức đã được Thần Linh của Người biến đổi hay chưa, chúng ta hãy thực tâm xét mình lại xem, về phần tiêu cực, chúng ta có còn dùng miệng lưỡi vẫn há ra rước lấy Thánh Thể vô cùng cao trọng của Người để nói hành, nói xấu, chê bai, hành tỏi nhau, hoặc có còn tự nhiên ham thích khoái lạc xác thịt thấp hèn cả về tình dục và cảm quan, cả về việc đua đòi tiện nghi và say sưa chè chén, trái lại, về mặt tích cực, chúng ta có biến thân xác của mình trở thành khí cụ cho đức chính trực (x Rm 6:13) trong việc phục vụ tha nhân, tức trở thành bánh nuôi sống nhân gian chăng? Nếu chưa hay rồi, chúng ta cũng hãy Sống Thánh Thể hơn nữa, bằng cách “liên lỉ mang trong mình cái chết của Chúa Giêsu để sự sống của Chúa Giêsu được tỏ hiện trong thân xác của chúng ta” (2Cor 4:10).

 

(các bài chủ đề về Thánh Thể vào các Thứ Năm hằng tuần)

 

 

TOP

 

 

 ? Tòa Thánh Vatican tại Liên Hiệp Quốc với Tân Hội Đồng về Nhân Quyền

 

(tiếp 30 Thứ Tư)

 

Sau đây là nguyên văn bài diễn văn của vị đại diện của Tòa Thánh là Đức Tổng Giám Mục Giovanni Lajolo, bí thư của van phòng liên hệ chư quốc, ngỏ cùng tân Hội Đồng Nhân Quyền hôm 20/6/2006.

 

Quyền sống, tự do lương tâm và tự do tôn giáo

 

Thưa Ông Chủ Tịch:

 

Nếu nguyên tắc về cái giá trị bất khả chuyển nhượng này của con người – như chúng ta tin tưởng – là nguồn mạch cho tất cả mọi quyền lợi của con người cũng như cho toàn thể trật tự xã hội, thì xin cho phép tôi được nhấn mạnh tới hai hệ luận thiết yếu sau đây:

 

Hệ luận thứ nhất đó là việc xác định quyền sống từ giây phút đầu tiên của cuộc đời con người, tức là từ khi được thụ thai cho tới khi nó tự nhiên qua đi: Con người nam nữ là những ngôi vị chỉ vì họ hiện hữu, chứ không phải khả năng phát triển hơn kém của họ trong việc diễn đạt bản thân họ, không phải khả năng giao tiếp hay tranh đấu cho quyền lợi của họ. Không một chính quyền, phái nhóm hay cá nhân nào có thể chiếm lấy cho mình cái quyền quyết định về sự sống của một con người, như thể họ không phải là một con người, bằng không, họ bị trở thành thân phận của thứ đồ vật cho các mục đích khác, bất kể những mục đích này cao cả hay cao quí đến đâu chăng nữa.

 

Hệ luận thứ hai là những gì ảnh hưởng tới các quyền tự do lương tâm và tôn giáo, vì con người có một chiều kích nội tâm và siêu việt, một chiều kích là nguyên tố cho chính hữu thể của họ. Chối bỏ một chiều kích như thế là việc cố gắng phạm tới phẩm giá con người một cách trầm trọng; nó có nghĩa là chối bỏ quyền tự do tâm linh; thậm chí tôi có thể nói nó là việc cố gắng phạm tới chính việc hiện hữu của con người, vì nó bao gồm việc biến đổi con người thành một thứ bộ phận thuần túy trong cái dự án của tổ chức xã hội.

 

Chỉ nhờ có quyền tự do lương tâm con người mới có thể nhìn nhận bản thân mình và tha nhân của mình theo chiều kích siêu việt, nhờ đó biến đổi mình thành một yếu tố sống động cho đời sống xã hội.

 

Còn quyền tự do tôn giáo, theo các chiều kích cá nhân cũng như cộng đồng, tư cũng như công, là những gì giúp con người có thể sống mối liên hệ đệ nhất trong cuộc đời của họ, đó là mối liên hệ với Thiên Chúa, một cách thuần khiết không giả hình là những gì bất xứng với họ và thậm chí bất xứng với cả Thiên Chúa nữa. Đó là tính cách thân mật và sâu xa của một quyền tự do mà thẩm quyền quốc gia cần phải bảo toàn chứ không được chà đạp, cần phải tôn trọng chứ không được phạm tới. Bất cứ vi phạm nào được thực hiện một cách cưỡng bách về lãnh vực này đều là những gì vi phạm đến lãnh vực giành cho Thiên Chúa.

 

Dĩ nhiên, nhữ xẩy ra cho bất cứ quyền tự do nào khác, quyền tự do tôn giáo là những gì cần phải được hòa nhập với tất cả mọi quyền tự do khác của con người. Nó không thể nào trở thành độc đoán ở chỗ này: Nó cần phải được tiến triển một cách hòa hợp, nhất là cẩn thận tôn trọng quyền tự do tôn giáo của người khác trong giới hạn luật lệ tất cả mọi người cần phải tuân thủ.

 

Quốc gia cũng cần phải là thành phần cổ võ và bảo toàn về cái bầu khí chung cho quyền tự do hữu trách ấy.

 

Thái độ cần phải có nơi Hội Đồng Nhân Quyền

 

Không một xứ sở nào, bất kể hoàn cảnh về trình độ phát triển kinh tế, có thể được châm chước khỏi trách nhiệm triệt để trong việc tỏ ra tôn trọng tất cả mọi quyền lợi của con người. Quyền lợi của con người không thể nào lại được đề cao ở một số xứ sở này hơn xứ sở kia, vì nhân phẩm của con người nam nữ ở xứ sở này không thể nào lại ở mức độ yếu kém hơn nhân phẩm của con người nam nữ thuộc các xứ sở khác.

 

Tòa Thánh lên tiếng kêu gọi tất cả mọi quốc gia được trở thành phần tử lần đầu tiên của Hội Đồng Nhân Quyền này. Trước hết, họ cần phải tỏ ra một thái độ gương mẫu, được cụ thể hóa nơi việc chân thành và sâu xa khảo sát về những gì bất chính áp đặt trên các thứ quyền lợi của con người – trước hết nơi lãnh thổ của họ – và yêu cầu họ quyết tâm tái thiết lập những quyền lợi này một cách trọn vẹn, theo chiều hướng vô tư của cộng đồng quốc tế.

 

Các xứ sở giầu thịnh cần phải hiểu rằng nhân quyền của tất cả mọi cư dân của một xứ sở, bao gồm cả của thành phần di dân, là những gì không phản lại với việc bảo tồn và phát triển tình trạng phúc hạnh chung hay với việc bảo tồn các thứ giá trị về văn hóa. Các quốc gia đang trên đà phát triển cần phải hiểu rằng những tiến trình phát triển về kinh tế và việc cổ võ công lý và bình đẳng xã hội sẽ càng trở nên hiệu nghiệm hơn và nhanh chóng hơn, nếu các thứ nhân quyền của con người hoàn toàn được công nhận, thay vì không tôn trọng chúng vì những lý do duy thực dụng. Tòa Thánh tin tưởng nơi con người. Niềm tin và kỳ vọng nơi hết mọi con người nam nữ là những gì không bao giờ bị lừa gạt.

 

Kết luận

 

Thưa Ông Chủ Tịch:

 

Việc đáp ứng mà Hội Đồng Nhân Quyền này tỏ ra trước các thách đố về tự do ở nhiều xứ sở trên thế giới – bắt đầu ở nơi chính các quốc gia phần tử của hội đồng này – là những gì cho thấy thế giá của Liên Hiệp Quốc cũng như của toàn thể hệ thống pháp luật quốc tế. Tòa Thánh sẽ theo dõi hoạt động của hội đồng này một cách can thận và cảm thông. Theo vai trò là quan sát viên ở Liên Hiệp Quốc, Tòa Thánh sẵn sàng hợp tác một cách trọn vẹn để hoạt động của Hội Đồng Nhân Quyền này có thể giúp vào việc thực sự tôn trọng phẩm vị của hết mọi người nam nữ.

 

Xin hết lòng cám ơn sự lắng nghe của ông.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/6/2006

 

 

TOP

 

 

?   Do Thái và Công Giáo Tuyên Ngôn Tôn Trọng Sự Sống Con Người

 

(tiếp 26 Thứ Bảy bài Thuốc ‘hậu sự làm tình phá thai’ (morning-after pill): Tổng Thống Bush ủng hộ việc cho phép các em thiếu nữ được sử dụng; và 27 Chúa Nhật bài Các thứ hoang đường và thực tại về thứ thuốc ‘hậu sự làm tình phá thai’, và 28 Thứ Hai 29 Thứ Ba bài Vấn đề ngừa thai và triệt sản liên quan tới tình trạng sức khỏe tâm thần, cảm xúc và thiêng liêng của nữ giới, và 30 Thứ Tư bài Làm thế nào để tránh khỏi tình trạng giảm dân số ở các nước tân tiến trên thế giới hiện nay?)

Sau đây là nguyên văn bản tuyên ngôn của Do Thái và Công Giáo đúc kết Cuộc Họp của Ủy Ban Song Phương ở Rôma (26-28/2/2006 theo niên lịch Kitô Giáo hay 28-30 Tháng Shevat năm 5766 niên lịch Do Thái Giáo), giữa phái đoàn Đại Biểu của Ủy Ban Tòa Thánh Về Liên Hệ Tôn Giáo Với Người Do Thái và Đại Biểu của Do Thái Về Liên Hệ Với Giáo Hội Công Giáo.

1.     Trong cuộc họp lần thứ sáu của ủy ban song phương được tổ chức ở Rôma này, chúng tôi đã nói tới vấn đề liên hệ giữa sự sống con người và kỹ thuật – suy tư về những tiến bộ vượt bực nơi khoa y học cùng với những thách đố cũng như những cơ hội bao gồm nơi những thứ tiến bộ này.

2.     Chúng tôi xin khẳng định những nguyên tắc theo các Truyền Thống tương xứng của chúng tôi như sau: Thiên Chúa là Đấng Hóa Công và là Chúa của tất cả mọi sự sống, và sự sống của con người là những gì linh thánh chính vì, như Thánh Kinh dạy, con người được dựng nên theo Hình Ảnh Thần Linh (x Gen 1:26-27). Vì sự sống là một tặng ân Thần Linh cần phải được tôn trọng và bảo trì, mà chúng tôi buộc phải bác bỏ những ý nghĩ  cho rằng con người làm chủ sự sống và bất cứ đảng phái con người nào có quyền định đoạt về giá trị hay giới hạn của nó. Do đó chúng tôi phản đối chủ trương chủ động triệt sinh an tử (được gọi là thương hại sát sinh) như là một việc con người lộng quyền trái phép đối với việc độc quyến của Thần Linh trong vấn đề định đoạt thời gian qua đời của con người.

3.     Chúng tôi dâng lời tạ ơn Đấng Hóa Công về những khả năng Ngài đã ban cho nhân loại để chữa lành và bảo trì sự sống, cũng như về những thánh đạt đáng kể trong việc dễ dàng hóa được khoa học, y học và kỹ thuật hiện đại thực hiện về khía cạnh này. Tuy nhiên, chúng tôi công nhận rằng những thành đạt phúc lợi này cũng bao gồm cả nhiều trách nhiệm hơn nữa, bao gồm cả những thách đố sâ xa về đạo lý cùng với những nguy hiểm khả dĩ.

4.     Về vấn đề này, chúng tôi xin lập lại các giáo huấn của di sản chúng tôi là tất cả mọi kiến thức và khả năng của con người cần phải phục vụ và cổ võ sự sống con người cùng phẩm vị con người, nên chúng phải hòa hợp ăn khớp với các thứ giá trị về luân lý được bắt nguồn từ các nguyên tắc được nói đến trên đây. Bởi vậy cần phải hạn chế việc áp dụng khoa học và kỹ thuật với nhận thức về sự kiện là không phải mọi sự khả dĩ về kỹ thuật đều hợp đạo lý.

5.     Việc tôn trọng và chăm sóc cho sự sống của con người cần phải là mệnh lệnh luân lý phổ quát được hết mọi xã hội dân sự cùng với luật lệ của họ bảo đảm, hầu phát động một nền văn hóa sự sống.

6.     Vì bác bỏ chủ trương của con người trong việc cướp quyền Thần Linh trong việc định đoạt thời gian chết chóc, chúng tôi khẳng định trách nhiệm phải làm hết sức để giảm bout tình trạng khổ đau của con người.

7.     Chúng tôi kêu gọi những người hoạt động về y khoa và các khoa học gia hãy gắn bó với và tuân theo sự khôn ngoan chỉ dẫn của tôn giáo trong tất cả mọi vấn đề về sự sống và sự chết. Bởi đó, chúng tôi khuyến dụ là trong những vấn đề như thế, ngoài việc tham vấn cần phải có đối với những gia đình trong cuộc, vấn đề bao giờ cũng cần phải được tham vấn với các vị thẩm quyền tôn giáo đương nhiệm.

8.     Niềm xác tín chúng tôi chia sẻ, niềm xác tín rằng sự sống trên trần gian này chỉ là một giai đoạn duy nhất cho cuộc hiện hữu của linh hồn, chẳng những cần phải dẫn chúng ta tới chỗ tôn trọng hơn đối với cái bình – là hình thể con người – chất chứa linh hồn ở trên đời này. Bởi đó, chúng tôi hoàn toàn bác bỏ quan điểm cho rằng bản chất tạm bợ của việc con người hiện hữu trên trái đất này cho phép chúng ta được dụng cụ hóa nó. Về vấn đề này, chúng tôi mạnh mẽ lên án bất cứ loại đổ máu nào để phát động bất cứ ý hệ nào – nhất là nếu điều này lại được thực hiện nhân danh Tôn Giáo. Hành động như thế chính là tục hóa Danh Thánh Thần Linh vậy.

9.     Bởi thế, chúng tôi tìm cách thăng tiến công ích của nhân loại bằng việc cổ võ lòng trọng kính đối với Thiên Chúa, đối với tôn giáo, đối với những biểu hiệu của tôn giáo, đối với những Nơi Thánh và những Nhà Thờ Phượng. Cần phải loại trừ và lên án việc lạm dụng bất cứ sự gì trong những điều này.

10.    Những việc lạm dụng như thế cùng với những căng thẳng hiện nay giữa các nền văn minh cũng đồng thời đòi chúng ta phải vượt ra ngoài cuộc đối thoại song phương của chúng ta là cuộc đối thoại có tính chất thúc bách đặc thù của nó. Bởi thế chúng tôi tin rằng chúng tôi có nhiệm vụ bao gồm cả thế giới Hồi Giáo cùng thành phần lãnh đạo của thế giới này trong việc tham gia vào cuộc trân trọng đối thoại và hợp tác. Ngoài ra chúng tôi kêu gọi các vị lãnh đạo thế giới hãy cảm nhận khả năng thiết yếu của chiều kích tôn giáo trong việc giúp giải quyết các vấn đề xung khắc và xung đột, và kêu gọi họ hãy ủng hộ việc đối thoại liên tôn cho mục đích ấy.

Rôma ngày 28 Tháng Hai năm 2006 –  ngày 30 Tháng Shevat năm 5766

Tôn Sư Trưởng Shear Yashuv Cohen, (Chủ Tịch Phái Đoàn Đại Biểu Do Thái)

Tôn Sư Trưởng Ratson Arussi

Tôn Sư Trưởng Yossef Azran

Tôn Sư Trưởng David Brodman

Tôn Sư Trưởng David Rosen

Ông Oded Wiener

Vị Lãnh Sự Shmuel Hadas

 

Đức Hồng Y Jorge Mejía, (Chủ Tịch Phái Đoàn Đại Biểu Công Giáo)

Đức Hồng Y Georges Cottier, O.P.

Đức Giám Mục Giacinto-Boulos Marcuzzo

Đức Ông Pier Francesco Fumagalli

Cha Norbert Hofmann, S.D.B.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 2/3/2006

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ