GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 CHÚA NHẬT 18/2/2007

TUẦN VII THƯỜNG NIÊN

 

?   “Maria: Mùa Xuân Muôn Thuở": Mùa Xuân Sau Nguyên Tội

?  "Sự sống là tất cả sự thật"

?  THÁNH ÐỊA - DẤU CHỈ THẦN LINH: Quá Trình Tranh Chấp và Vận Ðộng Hòa Bình

 

 

 

?  “Maria: Mùa Xuân Muôn Thuở"

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

(Tiếp hôm qua 17 Thứ Bảy 1.- MÙA XUÂN TRƯỚC NGUYÊN TỘI)

 

2.- MÙA XUÂN SAU NGUYÊN TỘI

 

N

ếu "trước Nguyên Tội" đã có mùa xuân, thì phải chăng ngay "ban đầu" ấy trời đất cũng đã có 4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay?

"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", theo cảm nghiệm tự nhiên, có thể ví như tâm trạng của trời đất được bộc lộ qua những dáng vẻ thay đổi định kỳ trong thiên nhiên.

"Xuân" là thời gian đầu năm "mới mẻ", hiển hiện qua không gian nẩy nở đầy "tươi trẻ", làm cho nhân gian sống trong không gian và thời gian cảm thấy hân hoan "vui vẻ".
"Hạ" là thời gian năng động, hiển hiện qua không gian thật căng thẳng và nóng nảy, làm cho nhân gian dễ cảm thấy hung hăng, không thể ngồi yên.

"Thu" là thời gian tàn tạ, hiển hiện qua không gian vàng úa và trống vắng, làm cho nhân gian dễ cảm thấy bâng khuâng, buồn buồn.

"Đông" là thời gian cô đọng (ngày ngắn đêm dài), qua không gian lạnh lẽo và tăm tối, làm cho nhân gian cảm thấy co ro, đơn độc, nhung nhớ, mang một mầu sắc chết chóc.

"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", nếu quả thật "trước Nguyên Tội" đã có thì không biết tình trạng "trần truồng mà không biết xấu hổ" (STK 2:25) của hai nguyên tổ ra sao? Có thể lúc bấy giờ, khi còn ở trong tình trạng Công Chính Nguyên Thủy, tình trạng "vô tội" và không biết đến tội lỗi là gì, da thịt của ông bà được miễn nhiễm khỏi mọi bất hạnh trong đời sống, gây ra từ môi sinh hay chăng?

Thế nhưng, chính trong lúc "trước Nguyên Tội" này mà mối thân tình giữa "trời đất" và con người "làm chủ nó" không thể có gì ngăn cách. Bởi đó, nếu "trước Nguyên Tội" đã có 4 mùa, vì không có quần áo để ăn mặc theo "thời trang", thì da thịt "trần truồng" của hai ông bà chắc hẳn sẽ phải biến dạng theo "thời tiết": đỏ, vào "mùa xuân Mỹ Châu", đen vào "mùa hè Phi/Úc Châu", vàng vào "mùa thu Á Châu", và trắng vào "mùa đông Âu Châu". Nếu "trước Nguyên Tội" đã có 4 mùa, thì không biết hai nguyên tổ che đậy bản thân "trần truồng" của mình và trốn lánh Thiên Chúa làm sao được khi Nguyên Tội xẩy ra vào cuối "mùa thu lá bay", lúc mà Vườn Địa Đường đã trở thành một khu rừng thưa trần trụi?!?

"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", với bản chất luân chuyển theo tác động thời gian, được tỏ lộ qua hình dáng nơi không gian như thế, làm sao nó có thể xuất hiện ngay "từ đầu", khi mà "Thiên Chúa nhìn mọi sự Ngài đã làm và Ngài thấy nó rất tốt đẹp" (STK 1:31).

"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", do đó, chỉ bắt đầu có kể từ "sau Nguyên Tội". "Trước Nguyên Tội", nếu có "mùa" thì chỉ duy có Xuân: Mùa Thái Hòa của Trời Đất, trong trật tự tạo dựng của Đấng Hóa Công, và nếu có "thời" thì chỉ là Thời Phúc Lộc Thọ của Con Người, trong yêu thương của "Thiên Chúa là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất" (kinh Tin Kính).

"Sau Nguyên Tội" ở đây tức là lúc "con cựu xà, gọi là ma qủi hay Satan, tên cám dỗ cả thế gian" (KH 12:9), đã dùng chính miệng lưỡi thâm độc "không có sự thật trong mình" (Gioan 8:44) để sát hại con người "từ ban đầu" (Gioan 8:44).

"Sau Nguyên Tội" ở đây cũng là lúc hai nguyên tổ nghe theo "tên gian trá và là cha của những sự dối trá" (Gioan 8:44) "ăn cây (Thiên Chúa) cấm không được ăn" (STK 3:11), và "cả hai đã mở mắt ra, nhận thấy mình trần truồng" (STK 3:7), phải đan lá vả làm áo che thân mình và không dám đối diện với Thiên Chúa (x.STK 3:7,8).

"Sau Nguyên Tội" ở đây còn là lúc Bản Án Nguyên Tội được tuyên phán, minh định tình trạng băng hoại nơi cả hữu thể của "con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa" (STK 9:6), cũng như nơi bản chất của tạo vật được dựng nên "rất tốt đẹp" ngay "ban đầu" cho con người.

Theo Bản Án Nguyên Tội, hữu thể của con người bị băng hoại ở chỗ: "Ngươi sẽ đổ mồ hôi mới có của ăn... cho đến khi ngươi trở về bụi đất" (STK 3:19), và bản chất của tạo vật nói chung cũng vì con người mà bị băng hoại ở chỗ: "Vì ngươi (con người) mà khốn cho đất... Đất sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi" (STK 3:17). Phải, chính tình trạng bị biến dạng (deformation) có nghĩa tiêu cực này, chứ không phải tình trạng được biến hình (transformation) có nghĩa tích cực, nơi con người "làm chủ trái đất" và nơi "đất" ngay "từ ban đầu" như thế, mới sinh ra và mới có "4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay": Xuân thường từ cuối tháng 12 tới cuối tháng 3, Hạ thường từ cuối tháng 3 tới cuối tháng 6, Thu thường từ cuối tháng 6 tới cuối tháng 9, Đông thường từ cuối tháng 9 tới cuối tháng 12, và từ cuối mùa Đông sang đầu mùa Xuân thường có mưa để những gì chết chóc trong giá lạnh mùa Đông được hồi sinh tươi tốt trong ấm áp mùa Xuân.

"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" từ đó bắt đầu đi vào ngõ hẻm của lịch sử nhân gian, được mở màn bằng mùa hè "đổ mồ hôi" (STK 3:19), khi "Chúa là Thiên Chúa tống cổ con người ra khỏi Vườn Địa Đường, để cầy sới đất đai mà từ đó con người được hình thành" (STK 3:23). Cũng từ đó, mưa bắt đầu đổ xuống trái đất, chứ trước đó, ngay "ban đầu", "Chúa là Thiên Chúa chưa làm mưa xuống trái đất và chưa có con người cầy sới đất đai" (STK 2:5). Từ đó, không còn "Mùa Xuân Nguyên Thủy", Mùa Thái Hòa Trời Đất nữa. Cũng từ đó, trên trái đất, có nơi một năm có đủ bốn mùa, như ở miền Bắc Việt Nam, song cũng có nơi một năm chỉ có hai mùa, mùa nóng và mùa mưa, như ở miền Nam Việt Nam.

"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội", như thế, không phải là và không còn là Mùa Thái Hòa Trời Đất, Mùa mọi sự còn liên kết và hòa hợp với nhau như ý và theo ý Đấng Hóa Công. Nó cũng không còn là và không phải là Thời Con Người Phúc Lộc Thọ nữa, Thời con người còn sống trong Phúc được làm con cái Thiên Chúa "theo hình ảnh thần linh", hưởng Lộc tự do với quyền "làm chủ trái đất", và hưởng Thọ không "phải trở về bụi đất". Theo lịch sử nhân gian, "Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" chỉ là một trong "4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", với thiên chức là mùa đầu trong một năm, và với sứ mạng là làm mới lại những gì đã phát triển trong "mùa hè đỏ lửa" song đã tàn tạ trong "mùa thu lá bay" và đã lịm chết trong "mùa đông nghĩa địa".

"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" đã trở thành Mùa Hy Vọng cho con người và của con người, vì hai lý do. Thứ nhất, vì còn giữ được nét xuân, qua hai trong ba yếu tố chính là "mới mẻ" và "tươi trẻ", tuy không nguyên tuyền như "ban đầu", "Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" vẫn có thể làm cho con người "vui vẻ", vui xuân, hưởng xuân. Thứ hai, nhất là vì cái còn làm cho con người đã bị hư đi "vui vẻ" mừng xuân, đón xuân, không phải ở tại "Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" còn "nét xuân", cho bằng niềm hy vọng ở ngay chính trong lòng người.

"Niềm Hy Vọng" này bắt đầu ló dạng trước khi con người bị "Thiên Chúa tống cổ ra khỏi Vườn Địa Đường". Ngay trong Bản Án Nguyên Tội, Thiên Chúa là Đấng "yêu (con người) trước" (1Gioan 4:19) đã chẳng tự động loan báo cho họ một Tin Vui hay sao, khi nhưng không đoan hứa với con người: "Ta sẽ gây thù hận giữa ngươi (ma qủi) và người nữ, giữa giòng dõi ngươi và giòng dõi người nữ. Ngài sẽ đạp nát đầu ngươi, trong khi ngươi rình cắn gót chân ngài" (STK 3:15).

"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" trở thành Mùa Hy Vọng chẳng những cho con người mà còn cho chung cả tạo vật nữa. Kể từ khi con người bị "Thiên Chúa tống cổ ra khỏi Vườn Địa Đường", Vườn Địa Đường vốn là thiên thai trần thế đã chẳng trở thành khu cấm địa hay sao (x.STK 3:24)? Bởi đó, thời tiết có 4 mùa định kỳ sau Nguyên Tội không phải là phản ảnh tâm trạng của trời đất hay sao, một tâm trạng "quằn quại và rên xiết" (Rm 8:22) của "toàn thể tạo vật đang ngong ngóng đợi trông cuộc hiển linh của con cái Thiên Chúa" (Rm 8:19).

"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" sẽ mất hết ý nghĩa nếu con người sống trong lầm than và vô vọng. "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" (Nguyễn Du: Kiều): như mùa xuân hận thù đầy tang thương chết chóc với những ngày đầu năm khói lửa vào dịp Tết Mậu Thân 1968, hay như mùa xuân vô vọng tự trong lòng người, nơi các trại tị nạn Đông Nam Á, đối với thành phần Thuyền Nhân Việt Nam bị rớt thanh lọc, lo âu chờ đến phiên bị trả về với quê hương yêu dấu, nơi mà họ không còn tìm thấy an bình "vui vẻ".

"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" là bóng ma chập chờn, nếu con người chỉ quay cuồng với cuộc sống hiện sinh. Đối với thành phần "chơi xuân kẻo hết xuân đi, cái già xồng xộc nó thì đến kia" (Trần Tế Xương?), xuân không có gì là "mới mẻ", vì càng làm cho họ già thêm, không có gì là "tươi trẻ", vì càng làm cho họ tàn phai nhan sắc, không có gì là "vui vẻ", vì càng làm cho họ thất vọng về cuộc sống hiện sinh chẳng thể nào làm cho họ hoàn toàn thỏa mãn.

(tiếp ngày mai: "Mùa Xuân Maria")

 

TOP

 

 

?  "Sự sống là tất cả sự thật"

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

(Tiếp 16 Thứ Sáu "Chỉ có một loại người không già, muôn thuở trẻ trung, trường sinh bất tử, trọn lành hoàn thiện, đó là con người sống trong Sự Thật"; và 17 Thứ Bảy thời gian là tiến trình tỏ hiện sự thật)

 

Tóm lại, nếu con người càng sống càng khôn ngoan, càng biết được sự thật về bản thân mình cũng như về cuộc đời, về nhân sinh, về thế giới, nhờ đó, sống xứng hợp và xứng đáng với nhân phẩm, nhân cách và nhân vị của mình, thì không phải “sự sống là tất cả sự thật” hay sao? Sự sống chỉ có ý nghĩa thật sự và đạt được tối đa giá trị của mình trong sự thật mà thôi. Nghĩa là khi sự thật làm chủ điều khiển sự sống, và sự sống trở thành hiện thân của sự thật. Đó là lý do “cây ngay không sợ chết đứng”. Sự sống bất diệt quả thực chính là sự thật, vì sự thật là một thực tại bất biến. Nếu sự sống  còn bị sự chết tiêu diệt, nuốt đi thì không thể nào là sự sống được. Bởi thế sự thật mới là phán quyết cuối cùng của tất cả mọi sự, nhất là của sự dữ và sự chết là những gì tự bản chất phản với những gì là thiện hảo. Sự dữ và sự chết tự chúng chỉ là một hiện tượng và vì thế, theo số phận của mình, chúng chắc chắn sẽ biến mất trước ánh sáng của sự thật, tức khi sự thật hoàn toàn tỏ hiện, hay khi sự sống đạt đến tầm vóc viên mãn của nó là chính tất cả sự thật.

 

Nếu sự thật là một thực tại bất biến thì “sự thật là thực tại toàn hảo”. Sự thật là một thực tại bao gồm tất cả những gì thiện hảo nhất, hay nói chính xác hơn, là chính thực tại toàn hảo. Nếu còn đổi thay, còn cải tiến, còn hoàn chỉnh, không thể nào lại là một thực tại toàn hảo được. Một con người toàn hảo không thể nào lại là một con người gian ác, dối trá, sống không đúng với thân phận làm người của mình, không hợp với ơn gọi làm người của mình. Trái lại, theo cảm nghiệm chung, con người toàn hảo phải là một con người yêu thương trọn lành, ở chỗ chẳng những biết dấn thân phục vụ tha nhân mà còn biết bao dung tha thứ cho những ai làm khốn mình, nhất là thành phần thụ ơn của mình. Nếu tình yêu mạnh hơn sự chết thì con người hy sinh phục vụ tha nhân đến hiến mạng sống mình cho tha nhân là con người toàn hảo nhất. Vì họ đã đạt đến sự thật, một sự thật bất biến, một sự thật làm chủ sự chết, một “sự thật là thực tại toàn hảo”, tức họ đã đạt đến một “sự sống là tất cả sự thật”.

 

Đến đây chúng ta thấy nếu “sự thật là thực tại toàn hảo”, mà toàn hảo lại liên quan đến yêu thương thì yêu thương là sống sự thật. Nếu xét theo chiều hướng này, chiều hướng liên quan đến sự thật này, thì người ta không còn nói được rằng không ai có thể định nghĩa được tình yêu nữa. Bởi vì, nếu yêu thương là sống sự thật thì tình yêu là ơn gọi hiệp thông.

 

Chính vì tình yêu là ơn gọi hiệp thông mà con người mới có xã hội tính, hướng ngoại và tự do. Đời người hướng ngoại nhất có thể nói đến tuổi dậy thì, thời điểm con người bắt đầu biết yêu và tìm yêu. Thế nên không lạ gì hôn nhân và gia đình mới thực sự là hiện thân của tình yêu, của ơn gọi hiệp thông này. Và do đó, bất cứ ai hay bất cứ khi nào con người vốn vị kỷ tìm mình của chúng ta sống ngược lại, sống phản lại với bản chất hay với sự thật tình yêu là ơn gọi hiệp thông này, chẳng hạn như trường hợp ly dị hay phá thai, là chúng ta đã không sống theo sự thật và không sống trong sự thật, bởi đó, chúng ta sẽ không thể nào hoàn thành ơn gọi làm người của mình, không đạt đến tầm vóc toàn hảo của mình, trái lại, chúng ta sẽ luôn sống trong bất hạnh.

 

Đúng thế, chính vì là một sinh vật biết yêu thương mà con người mới có tự do và mới cần tự do là khả năng yêu thương và là bản chất của tình yêu. Bởi vậy, một khi vì tự do con người tự biến mình trở thành nô lệ, (như nô lệ cho nghiện hút, cờ bạc, sắc dục, tính mê nết xấu v.v. đến nỗi muốn bỏ cũng không được, muốn chừa cũng không xong, lúc nào cũng bị nó chi phối, cũng bị nó sai khiến, thậm chí đi đến chỗ gian dối, trộm cướp để cung phụng cho các thứ thần tượng chủ nhân ông độc chiếm này), sống hoàn toàn bất xứng với nhân phẩm, nhân cách và nhân vị làm người của mình, tức là sống hoàn toàn trái với sự thật làm người của họ, thì đó không phải là tự do thật và không phải là chính bản chất của tình yêu là ơn gọi hiệp thông, mà là bản năng của thú tính thì đúng hơn.

 

Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế cho thấy, khi yêu, con người dễ trở thành mù quáng, tức càng khó nhận ra chân lý. Bởi thế, không lạ gì, chính khi yêu con người có thể lại bị tha hóa không còn là mình nữa, không còn là chủ thể yêu nữa, mà là một tay sai của đam mê nhục dục, yêu cuồng sống vội, yêu đồng phái tính v.v. Theo sự thật, nếu tình yêu là ơn gọi hiệp thông thì những thứ yêu cuồng sống vội, yêu đồng phái tính, yêu theo đam mê nhục dục, yêu động tí ly dị v.v. này không thể mang danh hay không đáng mang danh tình yêu, nếu không muốn nói nó không phải là tình yêu, mà chỉ là tình cảm thuần túy, thậm chí có trường hợp còn là tình dục lăng loàn thì đúng hơn.

 

Vấn đề ở đây là làm sao con người, tự mình vốn mù quáng, vốn bị chi phối bởi cuộc sống phức tạp, có thể nhận ra sự thật? Phải chăng nhờ ở lương tâm, vì lương tâm là tiếng nói của sự thật! Thế nhưng nhiều khi con người lại tỏ ra rất ư là bối rối ngay trước tiếng lương tâm của mình, không biết đó có phải là tiếng lương tâm hay chăng, nếu phải thì có nên làm theo hay chăng, vì làm theo thì bất lợi hơn là tác lợi! Có những trường hợp sau khi làm theo lương tâm rồi mà vẫn áy náy không yên!

 

Đó là lý do: 

1.      Con người xu hướng về chân thiện mỹ và liên lỉ tìm chiếm chân thiện mỹ.

2.      Con người là mầm mống sự thật chất chứa sự sống.

3.      Cuộc đời là một cõi mộng, một giấc mơ đang được cuộc sống lay tỉnh, cho tới khi hoàn toàn giác ngộ.  

4.      Thời gian là tiến trình tỏ hiện sự thật.

5.      Lịch sử là chứng nhân của sự thật.

6.      Chỉ có con đường dẫn đến sự thật mới có sự sống.

7.      Bất cứ điều gì phản trái hay không hợp với sự thật đều là những gì gian ác, xấu xa, độc hại.

8.      Khôn ngoan nhất, can đảm nhất và trọn hảo nhất đó là sống sự thật.

9.      Sự sống là tất cả sự thật.

10.  Sự thật là thực tại toàn hảo.

Xin chúc quí thính giả thân yêu được tràn đầy Thần Chân Lý để con người của chúng ta trở thành hiện thân của Sự Thật là thực tại hoàn hảo và cuộc đời của chúng ta trọn vẹn hiện thực sự sống là tất cả Sự Thật, là cả một Mùa Xuân Muôn Thuở!

 

 

TOP

 

 

? THÁNH ÐỊA - DẤU CHỈ THẦN LINH: Quá Trình Tranh Chấp và Vận Ðộng Hòa Bình

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, viết và dịch theo tin tức liên tục của CNN và Zenit, cách riêng tài liệu The Land of Conflict của CNN

 

1)          QUÁ TRÌNH TRANH CHẤP 

 

Lược Sử Thánh Địa
 

1000 BC - Vương Quốc Do Thái: Vào cuối thiên kỷ thứ hai trước Chúa Kitô Giáng Sinh, Moisen dẫn dân Do Thái ra khỏi nước Ai Cập để đến “Đất Hứa” là Canaan. Vào đầu thế kỷ 12 BC, miền này đã bị dân du mục Philistines chiếm cứ khoảng 150 năm. Có những lúc người Hy Lạp và Rôma đã gọi miền này là “Đất của Người Philistines” và tên gọi Palestine được phát xuất từ đó. Dân Do Thái đã thành lập vương quốc của mình dưới thời vua Saolê vào khoảng năm 1020 BC. Đền thờ Giêrusalem được xây cất và hoàn thành vào đời vua thứ ba của vương quốc Do Thái là Solomon. Đến độ năm 950, tức sau đời vua Solomon, thì vương quốc Do Thái trở thành hai nước: nước Israel có thủ đô là Samaria, và nước Giuđa có thủ đô là Giêrusalem.
 

312 AD - Kitô Giáo và Thánh Địa: Qua các thế kỷ, Palestine bị các đế quốc cai trị, như đế quốc Ba Tư, Babylon, Assyria, Hy Lạp và Rôma; đế quốc cuối cùng kéo dài tới cả thời của Chúa Giêsu. Vào năm 312 sau Chúa Kitô Giáng Sinh, Hoàng Đế Rôma Constantine trở lại Kitô giáo, và Giêrusalem trở thành mục tiêu hành hương của Kitô hữu. Truyền thống cho rằng Chúa Giêsu bị đóng đanh và chôn táng ở địa điểm Ngôi Thánh Đường Mồ Thánh ở Giêrusalem bây giờ.

 

691 – Ngôi Đền Hồi Giáo ở Giêrusalem: Những người Ả Rập Hồi Giáo, dưới quyền lãnh đạo của Umar đã chiếm Palestine vào năm 640, và vào năm 691 đã xây cất một trong những đền thờ linh thánh nhất của Hồi Giáo ở đó là Ngôi Vòm Đá, ngay ở vị trí của Ngôi Đền Do Thái đã được vua Solomon xây cất ở Giêrusalem trước kia. Di95a điểm này được chọn để xây đền thờ Hồi Giáo vì chỗ ấy được tin rằng là nơi tiên tri Mohammed về trời.

 

 

1516 – Đế Quốc Ottomans: Mảnh đất Thánh Địa tranh chấp giữa Do Thái và Palestine này được chấm dứt vào năm 1291 khi đám nô lệ hiếu chiến Mamluks nổi dậy lất đổ những nhà cầm quyền Ai Cập và thiết lập triều đại trong vòng 260 năm ở Trung Đông. Sau đó, họ bị những người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman lật đổ và chiếm Palestine gần 300 năm.

 

 

1882 – 1897 – Phong Trào Quốc Gia: Để phản ứng trước tình trạng càng ngày càng tăng về việc chống lại giống dân Semitism (cả Do Thái lẫn Ả Rập) ở Âu Châu vào cuối thế kỷ 19, một số người Do Thái Âu Châu có uy thế đã thành lập một phong trào gọi là Zionism (Do Thái Phục Quốc) với mục đích để tái thiết quê hương Do Thái ở Palestine. Trong những năm trước Thế Chiến I (1914-1918), những nhà Phục Quốc Do Thái thiết lập được 12 thuộc địa ở Palestine giữa một thành phần dân chúng hầu hết là Ả Rập và Hồi Giáo. Nhiều cuộc định cư của người Do Thái đã xẩy ra ở phần đất mua được từ những người Ả Rập. Phong trào quốc gia bấy giờ cũng bắt đầu nổi lên để chống lại việc thống trị của người Thổ Nhĩ Kỳ.
 

1917 – Arhtur J. Balfour: Sau Thế Chiến I, Hiệp Vương Quốc (United Kingdom of Great Britain) kiểm soát Palestine và chấp nhận tư tưởng của Bộ Trưởng Ngoại Giao Arthur J. Balfour về “một ngôi nhà quốc gia” cho những người Do Thái. Hiệp Vương Quốc cũng hứa tôn trọng quyền lợi của những người không phải là Do Thái ở miền ấy, và cho phép các vị lãnh đạo Ả Rập được quyền tự trị. Tuy nhiên, chính vì thế mới có chuyện hiểu lầm tai hại là những người Ả Rập tưởng Palestine là một quốc gia độc lập của người Ả Rập là những gì không đúng với ý định của Hiệp Vương Quốc.

 

1920 – Đụng độ vũ khí: Hiệp Vương Quốc Anh bắt đầu cai trị Palestine năm 1920. Họ tuyên bố sẽ thiết lập một quê hương cho người Do Thái ở vùng này, thế nhưng quê hương này sẽ hiện diện ở Palestine và không bao gồm toàn xứ sở ấy. Bởi thế đã xẩy ra ngay trong năm nay những cuộc nổi loạn của người Ả Rập chống lại phong trào Phục Quốc Do Thái, và năm 1929, một cuộc tranh chấp về Bức Tường Than Khóc đã châm mồi cho cuộc nổi loạn nữa của người Ả Rập và gây nên một cuộc triệu tập Thánh Chiến Hồi Giáo. Kết quả là những người Do Thái bắt đầu tự vệ và cả hai bên gây ra những cuộc khủng bố tấn công nhau.
 

1937 – Đức Quốc Xã Nazi: Cuộc nổi dậy của Đức Quốc Xã ở Âu Châu đã tăng sức cho phong trào Phục Quốc Do Thái, và Hiệp Vương Quốc đã tăng con số di dân Do Thái về Palestine từ 5 ngàn vào năm 1932 lên 62 ngàn vào 3 năm sau đó. Sợ rằng những người Do Thái sẽ nắm quyền kiểm soát, những người Ả Rập đã bắt đấu thực hiện một loạt tấn công và tẩy chay. Một ủy ban của Hiệp Vương Quốc dự định là Palestine phải được phân chia thành nước Do Thái, Ả Rập và Hiệp Vương Quốc, một điều đã được thành phần Phục Quốc Do Thái ưng thuận không cần suy nghĩ. Thế nhưng những người Ả Rập bác bỏ tư tưởng này, cương quyết chống lại dự án thành lập một quốc gia Do Thái. Trong vòng 12 năm, từ 1933 đến 1945, thời gian tế thần (Holocaust) dân Do Thái, Adolf Hitler của Đức Quốc đã bách hại những người Do Thái và các đám dân thiểu số. Đức Quốc Xã đã sát hại khoảng 6 triệu người Do Thái trong khoảng thời gian ấy.
 

1939-1947 - Thế Chiến Thứ Hai: Các người Do Thái tị nạn từ cuộc bách hại để Tế Thần ở Âu Châu đã đổ về Palestine vào thời Thế Chiến Thứ II (1939-1945), khiến cho việc thành lập một quốc gia Do Thái lại càng trở nên khẩn trương. Những người Ả Rập thành lập Hiệp Hội Ả Rập như là một lực lượng chống lại phong trào Phục Quốc Do Thái. Vào năm 1947, Hiệp Chủng Quốc đã bỏ phiếu để phân chia Palestine thành hai quốc gia Ả Rập và Do Thái, trong đó nước Do Thái chiếm 55% lãnh thổ bên phía tây sông Dược-Đăng, còn Giêrusalem được ấn định là một khu vực quốc tế.

 

1948-1949 – Độc lập, chiến tranh và đình chiến: Bản tuyên ngôn của nhà lãnh đạo phong trào Phục Quốc Do Thái David Ben-Gurion ở Tel Aviv ngày 14/5/1948 công nhận Do Thái là một quốc gia độc lập đã châm mồi cho lực lượng đồng minh Ai Cập, Syria, Transjordan, Lebanon và Iraq thực hiện việc tấn công xâm chiếm nước Do Thái. Thế mà, sau 15 tháng, những người Do Thái chẳng những không bị thua mà còn nới rộng quyền lực của mình tới miền bắc Galilê và miền nam Negev. Việc đình chiến bảo đảm đã chia cắt Giêrusalem giữa Do Thái và Jordan, nhưng còn số mệnh của 400 ngàn người Ả Rập Palestine chạy loạn trong thời gian chiến tranh đang ở những lều trại gần biên giới không được giải quyết.
 

1956 – Cuộc chiến ở Sinai: Những cuộc săn bắt và nổi dậy giữa những người Ả Rập và Do Thái, cùng với việc Ai Cập chiếm Kinh Đào Suez đã khiến Do Thái xâm chiếm Đảo Sinai. Trong khi Pháp và Hiệp Vương Quốc kiểm soát kinh đào Suez thì Do Thái chiếm giải Gaza và Sharm el Sheikh ở mũi nhọn Đảo Sinai là chỗ kiểm soát ngõ ra vào Vịnh Aqaba và Ấn Độ Dương. Do Thái đã rút quân vào năm 1957 khi vịnh này được Liên Hiệp Quốc bảo toàn.

 

1959 – Al Fatah và PLO: Yasser Arafat và Abu Jihad (Khalil al-Wazir) thành lập Al Fatah, một từ ngữ viết tắt của Phong Trào Quốc Gia Giải Phóng Palestine (Palestine National Liberation Movement). Phong trào này phát triển nhanh chóng vào thập niên 1960 và trở thành một lực lượng lớn nhất và giầu nhất của phe Palestine. Vào năm 1969, Arafat trở thành chủ tịch của phong trào này PLO (Palestine Liberation Organization), một nhóm được thành lập từ năm 1964 như là một cái dù che chở cho những khối khác nhau đang tham chiến chống đánh Do Thái. Tổng Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu ban cho PLO vị thế làm quan sát viên ở Liên Hiệp Quốc vào tháng 11/1974.
 

1967 – Cuộc chiến 6 ngày: Vào Tháng 5/1967, Ai Cập đóng Vịnh Aqaba không cho tầu bè của Do Thái đi lại, và bắt đầu vận động lực lượng tấn công Do Thái. Syria và Jordan cũng tiến đến chỗ tấn công Do Thái. Để đối đầu, Do Thái đã tấn công họ. Từ ngày 5/6, không quân Do Thái đã phá hủy các máy bay của Ai Cập còn ở trên mặt đất. Được yểm trợ bởi không lực trên trời, các đoàn xe tăng và bộ binh của Do Thái đã chiếm đảo Sinai 3 ngày. Ngoài ra, Do Thái cũng làm chủ cả vùng Cao Nguyên Golan, miền Tây Ngạn Sông Dược-Đăng, bao gồm cả Cổ Thành Giêrusalem (là nơi sau này Do Thái chiếm cứ), và giải Gaza. Cuộc chiến này đã được chấm dứt vào ngày 10/6, nhờ Liên Hiệp Quốc can thiệp.
 

1970 – PLO bị đẩy lui: Những cuộc đụng độ bằng những loại súng cối giữa Do Thái và Palestine ở Jordan, cùng với những cuộc không tặc do các tay hiếu chiến Palestine gây ra, đã khiến cho người ta sợ rằng Jordan có thể sẽ bị PLO chiếm cứ. Quân đội Jordan đã đẩy lui PLO ra khỏi xứ sở của họ vào năm 1971, và PLO tái định quân tại Lebanon. Vào Tháng 9/1972, một nhóm hiếu chiến được gọi là Tháng Chín Đen đã giết chết 11 lực sĩ Do Thái tại Thế Vận Hội ở Munich Đức Quốc.

 

 

1973 – Cuộc chiến tranh Yom Kippur: Ai Cập và Syria cùng nhau tấn công Do Thái vào ngày 6/10 năm này, ngày lễ Yom Kippur của Do Thái. Iraq cũng tham gia cuộc tấn công ấy, và các quốc gia Ả Rập khác ra tay hỗ trợ cuộc tấn công. Bị đánh bất ngờ, Do Thái đã mất mấy ngày để lấy lại thăng bằng, với số tử thương nặng nề, nhưng đã đẩy lui được lực lượng tấn công. Thậm chí Do Thái đã đẩy lực lượng Ai Cập sang bên kia Kinh Đào Suez và chiếm vùng tây ngạn kinh đào này. Do Thái cũng chiếm những vùng lớn của lãnh thổ Syria trước khi các lực lượng Ả Rập đồng ý ngừng chiến do Liên Hiệp Quốc sắp xếp. Qua một loạt hiệp ước năm 1974, Do Thái đã đồng ý rút lực lượng của họ khỏi kinh đào Suez về lại Sinai và tiến đến chỗ ngừng chiến với Syria. Thế nhưng, cuộc chiến này đã làm cho Do Thái trở thành một quyền lực chủ chốt trong vùng.
 

1979 – Những hiệp ước Camp David: Ai Cập và Do Thái đã ký một hiệp ước hòa bình vào ngày 26/3 chính thức chấm dứt tình trạng chiến tranh xẩy ra giữa họ trong 30 năm qua. Để đáp lại việc Ai Cập nhìn nhận Do Thái có quyền hiện hữu, Do Thái đã trả lại cho Ai Cập Đảo Sinai. Hai nước này còn chính thức thiết lập ngoại giao với nhau nữa.

 

 

1982 – Cuộc chiến ở Lebanon: Chỉ sau ít tuần rút khỏi Sinai, những chiếc phản lực của Do Thái đã dội bom các thành trì của PLO ở Beirut và miền nam Lebanon bằng những cuộc săn đuổi trả đũa. Sau đó ít lâu, quân đội Do Thái đã xâm chiếm Lebanon và bao vây Beirut đang lưỡng lự thương thảo với PLO. Sau 10 tuần lễ hết sức trốn tránh, PLO đồng ý rời Beirut dưới sự bảo vệ của một lực lượng đa quốc và tại định quân ở các quốc gia Ả Rập khác. Giai đoạn này đã làm lũng đoạn vai trò lãnh đạo của PLO. Do Thái đã rút quân khỏi hầu hết ở Lebanon vào năm 1985, nhưng tiếp tục giữ một giải đất dọc theo lãnh thổ của mình do họ chiếm cứ vào năm 1978. Do Thái đã rút quân khỏi miền nam Lebanon vào tháng 5/2000.
 

1987 – Cách mạng Intifada: Sau 20 năm bị chiếm cứ, những người Palestine ở giải Gaza, vùng Tây Ngạn và Giêrusalem nổi loạn chống lại những người Do Thái. Những cuộc cách mạng này tiếp tục xẩy ra nhiều năm, và Yasser Arafat đã tuyên bố rằng PLO là chính phủ lưu vong của “Quốc Gia Palestine”. PLO chính thức công nhận quyền hiện hữu của Do Thái vào năm 1988. Tuy nhiên, trong những cuộc điều đình về hòa bình không có PLO.

 

 

1993 – Bắt tay hiệp định: Những cuộc điều đình bí mật ở Oslo, Na Uy, giữa Do Thái và PLO đã đưa đến việc nhìn nhận lẫn nhau, giới hạn phe Palestine tự trị ở Jericho và giải Gaza, và những khoản giành cho một hiệp ước vĩnh viễn trong việc giải quyết tình trạng giải Gaza và vùng tây Ngạn. Bản hiệp định này được ký ở Washington, và được đánh dấu lịch sử bằng cái bắt tay giữa Arafat và Thủ Tướng Do Thái Yitzhak Rabin. Rabin, Arafat và Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái Shimon Peres đã được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1994 về những nỗ lực của họ.


 

1994 – Cuộc tàn sát và rút lui: Vào tháng Hai năm này, một tay Do Thái cực đoan đã giết 39 người Palestine khi họ đang cầu nguyện ở một đền thờ vùng Tây Ngạn. Tình hình căng thẳng tăng lên. Tuy nhiên, vào tháng Năm, Do Thái đã rút lui khỏi Jericho ở vùng Tây Ngạn và khỏi giải Gaza. Vào tháng Bảy, Arafat tiến vào giải Gaza và đã bắt các phần tử của Thẩm Quyền Palestine phải thề hứa, thành phần kiểm soát việc giáo dục và văn hóa, tình trạng an sinh xã hội, du lịch, sức khỏe và thuế má.

 

 

1995 – Cuộc ám sát Rabin: Vào tháng Chín, Rabin và Peres đã ký một thỏa ước cho phe Palestine được nới rộng quyền tự trị ở vùng Tây Ngạn cũng như cho Thẩm Quyền Palestine được quyền kiểm soát sáu tỉnh lớn ở Tây Ngạn. Rabin đã bị ám sát ở một cuộc xuống đường hòa bình hai tháng sau đó bởi một sinh viên luật Do Thái có liên hệ với những tay cực đoan khuynh hữu.

 

1996 – Những cuộc bầu cử: Qua những cuộc bầu cử lần đầu tiên chưa bao giờ có của những người Palestine, Arafat đã được nhiệt liệt chọn bầu làm tổng thống của Thẩm Quyền Palestine. Còn bên phía Do Thái thì lại xẩy ra một vụ những tay Hồi Giáo cực đoan cho nổ bom một chiếc xe bus đầy người làm tử thương 25 mạng và gây thương tích cho hằng chục người trong cuộc bầu cử vị thủ tướng Do Thái. Vị lãnh đạo Đảng Likud là Benjamin Netanyahu đã thắng Perez khít khao. Netanyahu và Arafat đã thề hứa hoạt động để đi đến một thỏa ước hòa bình tối hậu. Chính quyền Do Thái sau đó trong cùng năm ấy đã quyết định chấm dứt cuộc ngưng xây cất nơi những vùng chiến đóng. Những cuộc đụng độ đã tiếp tục xẩy ra giữa những người Palestine và kiều dân Do Thái ở những vùng Do Thái chiếm đóng này.
 

1997 – Vấn đề trả đất, gia cư và Hamas: Tỉnh Hebron ở vùng Tây Ngạn được trả về cho quyền kiểm soát của người Palestine sau 30 năm dưới quyền của Do Thái. Thế nhưng Netanyahu đã phê chuẩn một dự án gia cư Do Thái mới rộng lớn ở phía đông Giêrusalem. Cuộc bạo động bùng nổ. Trong số những cuộc bạo động này quan trọng nhất là vụ ôm bom tự tử tại một khu chợ ngoài trời ở Giêrusalem, sát hại 15 mạng và gây thương tích cho 170 người. Một nhóm Palestine cực đoan đã bắt Hamas phải chịu trách nhiệm về vụ ấy, và Nội Các Do Thái nhấn mạnh là việc điều đình hòa bình chỉ có thể tiếp tục chỉ khi nào chấm dứt các cuộc khủng bố tấn công mà thôi.

 

1998 – Hòa ước Wye Mills: Sau cả năm trời thương thảo tắt nghẽn hầu như không đi đến đâu và một cuộc họp căng thẳng 21 tiếng đồng hồ được phối kết bởi tổng thống Bill Clinton, Netanyahu và Arafat đã ký một bản điều đình land-for-peace ngày 23/10 tại Wye Mills ở tiểu bang maryland. Bản điều đình này kêu gọi chấm dứt các cuộc khủng bố, tái phối trí quân đội Do Thái, chuyển 14.2% phần đất thuộc vùng Tây Ngạn cho phe Palestine, mở những lối đi an toàn cho người Palestine giữa giải Gaza và vùng Tây Ngạn, thả 750 người Palestine khỏi ngục tù của phe Do Thái và mở một phi trường cho người Palestine ở Gaza.
 

1999 – Ehud Barak: Trong cuảc bầu cử thủ tướng Do Thái vào Tháng Năm, Ehud Barak thuộc Đảng Lao Động Ôn Hòa đã thắng Netanyahu khít khao. Do Thái đã thả 200 tù nhân Palestine và bắt đầu chuyển vùng đất Tây Ngạn cho thẩm quyền Palestine theo bản điều đình Wye Mills năm trước.


 

2000 – Cuộc chiến không lối thoát tăng thêm: Tổng thống Clinton của Hoa Kỳ đã điều động một cuộc họp thượng đỉnh giữa Barak và Arafat ở Camp David vào Tháng Bảy cho hòa ước cuối cùng được dự định cùng lắm vào ngày 13/9. Thế nhưng, cuộc điều đình đã chấm dứt sau 15 ngày, chẳng có thỏa ước gì với nhau cả. Arafat bác bỏ lời điều đình của Barak về việc cho Palestine kiểm soát hầu hết chứ không phải tất cả lãnh thổ bị Do Thái chiếm đóng từ cuộc Chiến Tranh Sáu Ngày Năm 1967. Vào cuối Tháng Chín, nhà lãnh đạo chống nhóm khuynh hửu Do Thái là Ariel Sharon đã dẫn một phái đoàn đại biểu đến một vị trí ở Giêrusalem mà cả Do Thái lẫn Hồi Giáo đều coi là linh thánh. Những đám đông người Palestine ở giải Gaza và vùng Tây Ngạn đã bắt đầu tấn công các lực lượng an ninh của Do Thái sau chuyến viếng thăm gây rắc rối này. Tình trạng bạo loạn tiếp tục xẩy ra ở cả đôi bên. Bị mất ủng hộ, Barak đã từ chức vào Tháng 12, kêu gọi một cuộc bầu cử thủ tướng vào tháng Hai 2001.
 

2001 – Sharon và tình trạng bạo động mới: Tổng thống Clinton mãn nhiệm kỳ vào tháng Giêng mà hai phe Do Thái và Palestine vẫn xung khắc nhau. Sau những tháng ngày leo thang bạo động giữa phe Palestine và Do Thái, vị lãnh đạo đảng Likud là Ariel Sharon đã thắng Ehud Barak khít khao vào ngày 6/2. Cuộc khủng bố tấn công Hoa Kỳ ngày 11/9 đã làm phát sinh một tiến trình hòa bình mới ở Trung Đông. Thế nhưng tình trạng bạo động lại bùng nổ vào tháng 12, sau những cuộc nổ bom ở Giêrusalem và ở thành phố Haifa ở miền bắc hải cảng Do Thái, làm cho 25 người Do Thái bị thiệt mạng cùng với 3 tay ôm bom tự sát. Những cuộc tấn công này đã khiến cho quân đội Do Thái phải nhắm những mục tiêu Palestine ở vùng Tây Ngạn và giải Gaza, và tình hình bạo loạn mới lại xẩy ra, gây cản trở cho tiến trình hòa bình một lần nữa.
 

2002 – Bạo Lực gia tăng bất chấp nỗ lực ngoại giao: Tình hình Trung Đông càng trở nên trầm trọng hơn bao giờ hết. Các lực lượng Do Thái xâm chiếm các trại tị nạn của người Palestine để truy lùng những gì phe Do Thái gọi là những tay hiếu chiến, trong khi đó xẩy ra vô số cuộc ôm bom tự sát được thực hiện bởi các tổ chức Hamas, Islamic Jihad và Al A qsa Martyrs Brigades. Vua Saudi là Abdullah đã đưa ra một dự án hòa bình, trong đó phe Palestine phải nhìn nhận quyền lợi của phe Do Thái để đánh đổi những ranh giới đã bị phe Do Thái chiếm đóng trước năm 1967. Tứ Khối Trung Đông là Hiệp Chủng Quốc, Nga, Khối Hiệp Nhất Âu Châu và Liên Hiệp Quốc sau đó đưa ra một dự án ba giai đoạn đề nghị thành lập một quốc gia Palestine và hòa ước tối hậu vào năm 2003. Thế nhưng các viên chức phe Palestine và Do Thái đều không tiến đến bất cứ một đồng ý nào chính yếu cả.
 

2003 – “Lộ Trình” tiến đến hòa bình ở Trung Đông: Cuộc cách mạng thứ hai tiếp rục xẩy ra với những cuộc ôm bom tự sát ở Tel Aviv và Haifa. Phe Do Thái trả đũa những tay khủng bố Palestine và những nhà của những tay ôm bom tự sát. Thủ Tướng Sharon tái đắc cử vào Tháng Giêng 2003. Đảng Lao Động chống đối không lấy được lòng dân chúng sau khi vị lãnh đạo của đảng này là Amram Mitzna vận động dự án rút các kiều dân Do Thái và các lính Do Thái khỏi Gaza và tái lập việc thương thảo với người Palestine, kể cả với Yasser Arafat.

 

 

2004 – Bức Tường Rào Cản “Lộ Trình” hòa bình: Sau một thời gian lắng dịu bạo động, ngoại trừ tình trạng vẫn căng thẳng về tình hình an ninh liên quan đến việc thiết dựng bức tường rào cản của Do Thái để ngăn chặn trào lưu khủng bố của Palestine, lại tái diễn cảnh Palestine khủng bố tấn công hôm Thứ Năm 28/1/2004, và Do Thái tấn công khủng bố từ Thứ Sáu 29/1 kéo dài cho đến Chúa Nhật 1/2/2004. Tòa Công Pháp Quốc Tế Liên Hiệp Quốc này ở Hòa Lan hôm Thứ Hai 23/2/2004 đã xử vụ Palestine tố cáo việc thiết dựng các thứ rào cản của Do Thái là bất hợp pháp. Bên Do Thái cho là tòa án này không có thẩm quyền xử việc họ làm, vả lại việc họ làm là vì để ngăn chặn nạn khủng bố của Palestine. Thứ Sáu 9/7/2004, tại Hague, tòa án này đã thúc giục Do Thái hãy hủy bỏ bức tường rào cản này đi ở những vùng đất do họ chiếm đóng. Vì bức tường rào cản này vi phạm đến quyền lợi của dân Palestine. Bức tường rào cản này dài 425 dặm, đã được xây dựng từ năm 2002. Ở một số nơi nó chỉ là hàng rào, và ở các nơi khác nó là một bức tường ximăng cốt sắt. 

2005 - Hòa Bình như một Chớp Sáng Vụt Tắt: Đầu năm 2005 đã mở ra một chân trời rất rạng ngời cho Thánh Địa khi hai vị lãnh đạo cao cấp của Do Thái là Sharon và Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine là Abbas gặp nhau vào ngày 8/2/2005, với những lời tuyên ngôn ngưng chiến và quyết tâm tiến tới hòa bình giữa đôi bên. Thế rồi, bên Do Thái, bất chấp những chống đối nội bộ, cũng đã thực hiện lời hứa quyết rút lui khỏi giải Gaza vào ngày 11-12/9/2005, sau 38 năm chiếm đóng khu vực này. Tuy nhiên, vào chiều hôm Thứ Tư 26/10/2005, nhóm Thánh Chiến Hồi Giáo tự nhận mình đã thực hiện cuộc tự sát khủng bố tấn công vào một khu chợ trời, 40 dặm hay 64 cây số ở miền bắc thủ đô Tel Aviv, gây thiệt mạng cho 5 người Do Thái, và làm 28 người bị thương, trong đó có 6 người trọng thương. Trước những cuộc khủng bố tấn công từ bên Palestine như thế, Do Thái đã không nhường nhịn nữa. Bởi thế, sau mấy tiếng đồng hồ Thủ Tướng Sharon thề sẽ đập tan thành phần khủng bố để trả đũa cuộc khủng bố tấn công của họ, chiều tối hôm Thứ Năm, 27/10/2005, lực lượng Do Thái đã dội bom để triệt hạ một chiếc xe chở dân quân Palestine ở phía bắc Thành Gaza, hạ sát 7 người, trong đó có một chỉ huy trưởng Thánh Chiến Quân Hồi Giáo là Shadi Mohanna. Vị thủ tướng Do Thái còn tuyên bố rằng ông sẽ không gặp Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine cho đến khi vị lãnh đạo Palestine tỏ ra “những hành động nghiêm trọng và tỏ tường chống lại nạn khủng bố”. Vị thủ tướng này cũng chấp thuận một số biện pháp chống khủng bố tấn công, kể cả việc hạ sát và giam giữ.  

2006 - Khủng Hoảng chia rẽ bên lực lượng Palestine: Thứ Năm, 26/1/2006, bầu trời Trung Đông chấn động vì kết quả cho thấy xuất hiện một đảng phái chủ trương bạo động giành được trong tay quyền lực chính trị ở ngay vùng đất vốn đã nóng bỏng suốt cả nửa thế kỷ 20 vừa qua. Thật vậy, Đảng Fatah, một đảng nắm quyền hạn từ khi thành lập Thẩm Quyền Palestine là năm 1965, đảng được nhà lãnh đạo Palestine đầu tiên là Arafat sáng lập cho tới khi ông qua đời vào tháng 11/2004, giờ đây đã hết thời. Ở vùng Tây Ngạn, thành phần ủng hộ hai đảng phái đã ẩu đả nhau hôm Thứ Năm ở bên ngoài tòa nhà quốc hội khi nhóm ủng hộ đảng Hamas cố gắng dương lá cờ xanh của đảng Hamas lên. Đương kim Tổng Thống Mahmoud Abbas, hôm Thứ Bảy 18/2/2006, đã yêu cầu Hamas thành lập chính phủ tương lai cho Palestine, nhưng yêu cầu những tay hiếu chiến Hồi Giáo nhìn nhận những dự án hòa bình đang có và theo chiều hướng chính sách ôn hòa của ông, bao gồm cả việc điều đình với Do Thái, như là một “sự lựa chọn về sách lược … duy nhất” của người Palestine. Thế nhưng, cũng vào cùng ngày, Hamas đã cự tuyệt những yêu cầu của vị đương kim tổng thống này, quyết không theo những gì vị tổng thống này đề ra cho họ. Họ sẽ hủy diệt Do Thái, chống lại dự án hòa bình của thập niên 1990 và không chịu tỏ ra ôn hòa, bất chấp áp lực của quốc tế và những đe dọa dữ dội của Do Thái, kể cả việc bị Do Thái phong tỏa Giải Gaza. Tuy nhiên, chính vì chủ trương bạo động của Đảng Hamas nắm chính quyền mà Palestine đã gặp trục trặc trong vấn đề viện trợ vốn có từ các cường quốc Hoa Kỳ và Tây phương, đến nỗi một cuộc nội chiến đã bùng nổ giữa Đảng Hamas (của Thủ  Tướng đương nhiệm) và Đảng Fatah (của Tổng Thống đương nhiệm). Mãi cho đến ngày Thứ Năm 25/1/2007 mới được tạm ổn sau khi hai nhà lãnh đạo hai Đảng gặp nhau ở Thánh Đô Hồi Giáo Mecca.

(xin xem tiếp ngày mai Vận Động Hòa Bình)

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ