Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XVII
Thường Niên
Năm C (Chúa Nhật)
- Năm Lẻ (trong tuần)
TĐCTT Đaminh Maria cao tấn tĩnh
Chúa Nhật 17
Quanh Năm Năm C
Bài Ðọc I: St
18, 20-32
"Lạy Chúa, nếu con nói, xin
Chúa đừng nổi giận".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa phán:
"Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá
nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta
hay không, để Ta sẽ biết rõ".
Các vị ấy bỏ nơi đó, đi về hướng
thành Sôđôma. Nhưng Abraham vẫn còn đứng trước mặt Chúa. Ông tiến lại
gần Người và thưa: "Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với
kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng
chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người
công chính đang ở trong đó sao? Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại
người công chính cùng với kẻ dữ! Xin đừng làm thế! Chúa phán xét thế
giới, Chúa không xét đoán như thế đâu". Chúa phán cùng Abraham rằng:
"Nếu Ta tìm thấy trong thành Sôđôma năm mươi người công chính, Ta sẽ vì
họ mà tha thứ cho cả thành". Abraham thưa lại: "Dù con chỉ là tro bụi,
con đã bắt đầu nói, nên con xin thưa cùng Chúa. Nếu trong số năm mươi
người công chính đó còn thiếu năm người thì sao? Vì bốn mươi lăm người
công chính, Chúa có tàn phá cả thành không?" Chúa phán: "Nếu Ta tìm thấy
bốn mươi lăm người công chính, Ta sẽ không phá huỷ cả thành". Abraham
lại thưa cùng Chúa rằng: "Nhưng nếu có bốn mươi người thì Chúa sẽ làm
gì?" Chúa phán: "Ta sẽ vì bốn mươi người đó mà không trừng phạt cả
thành". Abraham thưa: "Lạy Chúa, nếu con lên tiếng, xin Chúa đừng nổi
giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?" Chúa phán:
"Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không phạt". Abraham nói: "Vì con
đã trót nói thì con sẽ thưa cùng Chúa: Nếu trong thành tìm được hai mươi
người công chính thì sao?" Chúa phán: "Vì hai mươi người đó Ta sẽ không
tàn sát". Abraham thưa: "Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, con chỉ xin thưa
lần này nữa thôi: Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?" Chúa
phán: "Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 137,
1-2a. 2bc-3. 6-7ab. 7c-8
Ðáp: Lạy Chúa,
khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con (c. 3a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng
Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin: trước mặt các Thiên
Thần, con đàn ca mừng Chúa; con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. -
Ðáp.
2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa,
vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm
lời con; Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. - Ðáp.
3) Quả thật Chúa cao cả và thương
nhìn kẻ khiêm cung; còn người kiêu ngạo thì Ngài ngó tự đàng xa. Nếu con
đi giữa cảnh gian truân, Chúa giữ gìn con sống; Chúa ra tay phản đối
quân thù giận dữ. - Ðáp.
4) Tay hữu Chúa khiến con được
sống an lành. Chúa sẽ hoàn tất cho con những điều đã khởi sự. Lạy Chúa,
lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời; xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Ngài.
- Ðáp.
Bài Ðọc II: Cl
2, 12-14
"Người đã khiến anh em chung
sống với Người và tha thứ mọi tội lỗi".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Côlôssê.
Anh em thân mến, nhờ phép rửa tội,
anh em đã được mai táng làm một với Ðức Kitô, anh em cũng được sống lại
với Người, bởi đã tin vào quyền năng Thiên Chúa, Ðấng đã cho Người từ
cõi chết sống lại.
Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh
em và bởi không cắt bì tính xác thịt của anh em, nhưng Thiên Chúa đã cho
anh em được chung sống với Người, Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta,
đã huỷ bỏ bản văn tự bất lợi cho chúng ta, vì làm cho chúng ta bị kết
án; Người đã huỷ bỏ bản văn tự đó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc
19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng
Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời, và vinh quang
trên các tầng trời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11,
1-13
"Các ngươi hãy xin thì sẽ
được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở
một nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng:
"Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông".
Người nói với các ông:
"Khi các con cầu nguyện, hãy nói:
'Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho
chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng
con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám
dỗ'".
Và Người còn bảo các ông rằng:
"Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy
rằng: 'Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường
ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy'. Và từ trong nhà có
tiếng người ấy đáp: 'Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi
và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh
được'. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh
cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người
kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
"Và Thầy bảo các con: Các con hãy
xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin
thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.
"Người cha nào trong các con có
đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con
rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy,
nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của
tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin
Người".
Ðó là lời Chúa.

Suy
nghiệm
Lời Chúa
Ph
ụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm C hôm nay, có thể
nói là việc cầu nguyện, việc cầu nguyện bằng tất cả lòng tin tưởng,
một niềm tin qua lời cầu nguyện chứng tỏ mối hiệp thông thần linh
giữa Thiên Chúa và Kitô hữu trong Chúa Giêsu Kitô.
Thật vậy, tự mình, cầu nguyện là tác động của đức tin, là việc bày
tỏ đức tin, đúng hơn, là tác động của mối hiệp thông thần linh, vì
cầu nguyện xuất phát từ mối hiệp thông giữa con người và Thiên Chúa
nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng mà “nhờ
Người, với Người và trong Người” (Câu chúc tụng trong phụng vụ Thánh
Thể trước Kinh Lạy Cha), con người nói chung và những ai tin Người
nói riêng, “được Người ban cho
quyền làm con Thiên Chúa” (Gioan 1:8).
Thánh Phaolô, trong Thư gửi Giáo đoàn Colosê
ở Bài Đọc Thứ 2 hôm nay đã cho thấy thành phần tin vào Chúa Kitô nơi
Phép Rửa đã được tái sinh vào sự sống thần linh như thế này:
“Anh
em thân mến, nhờ phép rửa tội, anh em đã được mai táng làm một với
Ðức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người, bởi đã tin vào quyền
năng Thiên Chúa, Ðấng đã cho Người từ cõi chết sống lại.
“Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính xác
thịt của anh em, nhưng Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với
Người, Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ bản văn tự bất
lợi cho chúng ta, vì làm cho chúng ta bị kết án; Người đã huỷ bỏ bản
văn tự đó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá”.
Đúng thế,
nếu việc cầu nguyện, bao gồm cả việc cầu xin, không phải là tác động
của đức tin và không xuất phát từ mối hiệp thông thần linh giữa
Thiên Chúa và con người, thì sẽ chẳng bao giờ có chuyện được Sách
Khởi Nguyên kể lại liên quan đến việc tổ phụ Abraham là cha của các
kẻ tin chuyển cầu cho hai thành sắp sửa bị Thiên Chúa ra tay thiêu
rụi vì quá ư là tội lỗi. Và việc chuyển cầu của tổ phụ Abraham là
việc chuyển cầu của một con người có thế giá trước nhan Thiên Chúa,
đến độ vị tổ phụ này mặc cả tới đâu: 50, 45, 40, 30, 20, 10 người
công chính để làm giá cứu thành Sodoma, Thiên Chúa cũng thuận theo
như vậy.
"Nếu
Ta tìm thấy trong thành Sôđôma năm mươi người công chính, Ta sẽ vì
họ mà tha thứ cho cả thành"… "Nếu Ta tìm thấy bốn mươi lăm người
công chính, Ta sẽ không phá huỷ cả thành"… "Ta sẽ vì bốn mươi người
đó mà không trừng phạt cả thành"… "Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta
sẽ không phạt"… "Vì hai mươi người đó Ta sẽ không tàn sát"… "Vì mười
người đó, Ta sẽ không tàn phá".
Rất tiếc tổ phụ Abraham đã không dám xuống tới con số 1: “nếu chỉ có
1 người duy nhất trong thành đáng phạt này thì sao?”, ám chỉ Lot là
cháu của ông, con người công chính duy nhất trong thành đã được
Thiên Chúa cứu chẳng những bản thân ông mà còn cả gia đình 8 người
của ông nữa… Chắc Thiên Chúa cũng chấp nhận giá mặc cả đầy tin tưởng
của ông. Vì Thiên Chúa tha thứ cho con người tội lỗi không phải là
bởi con người xứng đáng, cho bằng do chính lòng thương xót của Ngài,
như Ngài đã tự động hứa cứu nhân loại sau nguyên tội vậy, và chỉ cần
Người Con duy nhất đã trở thành Con Người mà Ngài đã không tiêu diệt
thế giới, trái lại, còn tái sinh thế giới nhờ bởi Con của Ngài nữa,
như Bài Đọc thứ 2 hôm nay đã đề cập tới.
Chính vì chiều kích hiệp thông thần linh của tác động cầu nguyện
theo đức tin này mà Chúa Kitô mới dạy cho các môn đệ của Người cầu
nguyện với tư cách hiệp thông, ở chỗ cầu nguyện cùng “Cha” của Người
một cách thân mật theo tình nghĩa cha con, hơn là một cách chủ tớ
hay tạo vật với tạo hóa, và bằng danh xưng “chúng con”, hơn là danh
xưng “con” có tính cách cá thể:
"Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả
sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực
hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ
chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'".
Nếu
thành phần cầu nguyện là con cái của Cha trên trời trong Chúa Kitô
mà cầu nguyện đúng như những gì Chúa Kitô dạy họ trên đây, thì chẳng
lạ gì lời cầu nguyện của họ là những gì đẹp lòng Thiên Chúa là Cha
trên trời của họ nhất, và chắc chắn họ sẽ được thỏa nguyện, hoàn
toàn ứng nghiệm như lời bảo đảm của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm
nay:
"Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ
gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai
gõ thì sẽ mở cho”.
Bởi vì, tất cả những gì Thiên Chúa là Cha trên trời ban cho con cái
của mình đều xuất phát từ lòng nhân hậu xót thương của Ngài, nếu họ
hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, một Người Cha vô cùng khôn ngoan thông
biết mọi sự nơi tạo vật của mình, yêu thương họ là con cái của Ngài
hơn chính họ thương bản thân họ, đến độ dám thí Con Một của mình cho
họ thì còn tiếc gì với họ (xem Roma 8:32), một Người Cha vô cùng nhân hậu chỉ muốn
tỏ mình ra và thông mình ra cho phần rỗi của tạo vật đã được Ngài
dựng nên theo hình ảnh thần linh của Ngài, để họ có thể làm con cái của Ngài và được hiệp thông thần linh với
Ngài, chứ không thể nào lại thích thú đầy đọa họ, không bằng một
người cha trần thế:
"Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn
đá ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin
quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy, nếu các con là những kẻ
gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các
con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".
Trước tình yêu vô cùng nhân hậu của một Vị Thiên Chúa là Cha ở trên
trời thông biêt mọi sự và chỉ muốn những gì thiện ích nhất cho con
con của mình, Kitô hữu hãy hiệp cùng với Thánh Vịnh gia vang lên
những tâm tình của Bài Đáp Ca trong Phụng Vụ Lời Chúa thích đáng sau
đây:
1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng
con xin: trước mặt các Thiên Thần, con đàn ca mừng Chúa; con sấp
mình thờ lạy bên thánh điện Ngài.
2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành
của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con; Chúa đã ban cho tâm
hồn con nhiều sức mạnh.
3) Quả thật Chúa cao cả và thương nhìn kẻ khiêm cung; còn người kiêu
ngạo thì Ngài ngó tự đàng xa. Nếu con đi giữa cảnh gian truân, Chúa
giữ gìn con sống; Chúa ra tay phản đối quân thù giận dữ.
4) Tay hữu Chúa khiến con được sống an lành. Chúa sẽ hoàn tất cho
con những điều đã khởi sự. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn
đời; xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Ngài.
Thứ Hai sau
Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
32, 15-24. 30-34
"Dân này đã phạm tội nặng nề,
và họ đúc bò vàng".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê từ trên
núi trở xuống, Tay cầm bia đá có khắc chữ cả hai mặt; và đó là công
trình của Thiên Chúa tác tạo, vì chính Chúa đã khắc chữ vào hai bia đá
đó. Bấy giờ Giosuê nghe tiếng dân chúng la lối om sòm, nên thưa cùng
Môsê rằng: "Có tiếng la giao chiến trong trại". Môsê đáp: "Ðó không phải
là tiếng kêu la giao chiến, cũng không phải tiếng kêu la thất trận,
nhưng tôi nghe tiếng người ta ca hát". Khi đến gần trại, người thấy con
bê đực và những người múa. Người quá tức giận, liền ném hai bia đá xuống
chân núi và nó bể nát ra. Người đem đốt con bê chúng đã đúc, rồi tán ra
thành tro, bỏ vào nước, bắt con cái Israel phải uống.
Người nói cùng Aaron rằng: "Dân
này đã nói gì với ông mà ông để nó phạm tội nặng nề như thế?" Aaron
thưa: "Xin ngài chớ tức giận, nào ngài không biết dân này hay hướng
chiều về đàng tội đó sao? Chúng đã nói với tôi rằng: "Xin ông hãy đúc
cho chúng tôi những vị thần để dẫn dắt chúng tôi đi, vì ông Môsê, người
dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy
đến cho ông". Tôi liền nói với họ: "Ai trong các ngươi có vàng, hãy mang
đến cho tôi. Họ mang đến, tôi quăng vàng vào lửa và đúc nên con bê này".
Hôm sau Môsê nói với dân: "Các
ngươi đã phạm một tội rất lớn, nhưng bây giờ ta sắp lên với Giavê: có lẽ
ta sẽ xin được Người xá tội cho các ngươi!" Môsê trở lại với Giavê và
nói: "Phải! dân này đã phạm một tội rất lớn, chúng đã làm cho mình những
thần bằng vàng! Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng. Bằng
không, xin Người hãy xoá con đi khỏi sách Người đã viết".
Giavê phán với Môsê: "Ai phạm tội
chống lại Ta, Ta sẽ xoá nó khỏi sách của Ta! Còn bây giờ, ngươi hãy đi,
hãy dẫn dân đến nơi Ta đã phán với ngươi! Này thần sứ của Ta sẽ đi trước
ngươi, và đến ngày truy phạt của Ta, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội của
chúng".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105,
19-20. 21-22. 23
Ðáp: Hãy ca
tụng Chúa, bởi Người nhân hậu (c. 1a).
Xướng: 1) Dân chúng đúc hình bò
con tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang
của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. - Ðáp.
2) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng
cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm
những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi
Biển Ðỏ. - Ðáp.
3) Chúa đã nghĩ tới tiêu diệt họ
cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với
Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. - Ðáp.
Alleluia: Ga
17, 17b và a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa,
lời của Chúa là chân lý, xin hãy thánh hoá chúng con trong sự thật. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13,
31-35
"Hạt cải trở thành cây đến nỗi
chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ
ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia
gieo trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi
mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời
đến nương náu nơi ngành nó".
Người lại nói với họ một dụ ngôn
khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem
trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán
những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không
dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng
nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế
gian".
Ðó là lời Chúa.

sự sống nhỏ mọn nhưng mãnh liệt
Bài Phúc Âm của
Thánh ký Mathêu hôm nay, Thứ Hai Tuần XVII Thường Niên tiếp tục loạt bài
Phúc Âm về các dụ ngôn Nước Trời của Chúa Giêsu ở đoạn 13.
Dụ ngôn đầu tiên
(trong
bài
Phúc Âm Thứ
Tư tuần trước) trong loạt dụ ngôn này là dụ ngôn người gieo giống ra đi
gieo giống liên quan đến 4 loại môi trường tiếp nhận hạt giống, và dụ
ngôn thứ hai (trong
bài
Phúc Âm Thứ
Bảy tuần trước) cũng về người gieo giống nhưng là giống tốt trong ruộng
của mình liên quan đến cỏ lùng. Dụ ngôn hôm nay, dụ ngôn thứ ba cũng
liên quan đến hạt giống, nhưng là loại hạt cải, được Chúa Giêsu sử
dụng để ám chỉ về Nước Trời như
sau:
"Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy
bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau
cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Ngoài
ra, song song với dụ ngôn này, như là một cặp dụ ngôn bất
khả phân ly về
Nước Trời, một dụ ngôn được Chúa Giêsu đề cập đến ngay sau đó, đó là dụ
ngôn: "Nước
trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến
khi bột dậy men".
Cặp dụ
ngôn hôm nay đây và
cặp
dụ ngôn vào Thứ Tư tuần này về Nước Trời không được Chúa Giêsu giải
thích ý nghĩa ám chỉ của những gì trong dụ ngôn, như Người đã dẫn giải dụ
ngôn thứ 1 (trong bài
Phúc Âm Thứ
Sáu tuần trước) và như
Người đã dẫn giải dụ
ngôn thứ 2 (trong bài
Phúc Âm ngày
mai).
Thế
nhưng, không phải vì thế mà 2 cặp dụ ngôn này tự chúng là những gì dễ
hiểu, trái lại, như các dụ ngôn được Người dẫn giải, chúng vẫn là
những điều bí ẩn, sâu nhiệm, như
câu kết của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy về chung các dụ ngôn:
"Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người
không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên
tri đã chép rằng: 'Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những
điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian'".
Dầu
sao tính tò mò của con người vẫn muốn biết được ý nghĩa ám chỉ của các
cặp dụ ngôn về Nước Trời không được Chúa Giêsu giải thích ấy, không phải
chỉ thỏa tính tò mò mà nhất là để nắm bắt được thực tại của Nước Trời
hầu có thể hưởng ứng
và đáp ứng
một
cách xứng đáng.
Trước
hết, "Nước
trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình" - Phải
chăng "hạt cải" ở đây Chúa Giêsu ám chỉ đến mầu nhiệm nhập
thể của Người: "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta"
(Gioan 1:14)? "Hạt
ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống" - Phải
chăng, Chúa
Giêsu muốn ám chỉ đến mầu nhiệm khổ giá, ở chỗ Người chẳng những đã
"tự hạ ra như không" (Philiphê 2:6) mà còn "vâng lời
cho đến chết và chết trên thập giá" (xem Philiphê 2:8)? "Nhưng
khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim
trời đến nương náu nơi ngành nó"
- Phải
chăng Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến mầu nhiệm phục sinh và thăng
thiên của Người, ở chỗ "Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho
Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philiphê 2:9).
Sau nữa, "Nước
trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột,
cho đến khi bột dậy men". Phải
chăng "nắm
men" Chúa
Giêsu muốn ám
chỉ đến sự sống thần linh nói chung và mầu nhiệm Thánh Thể cùng
với các bí tích chất chứa sự sống nói riêng? Phải chăng "người đàn
bà" trong dụ ngôn Người
muốn ám
chỉ đến
Giáo Hội đóng vai trò làm mẹ có nhiệm vụ ban phát sự sống thần linh
này bằng việc ban các bí tích nhất là việc cử hành Thánh Thể? Phải
chăng "ba đấu bột" cần phải "dậy men" ở đây, tức cần
phải "được sống và sống dồi dào hơn" (Gioan 10:10), Chúa
Giêsu muốn ám chỉ đến đấu
bột thứ nhất là từng
Kitô
hữu,
chi thể
của Chúa Kitô, đấu
bột thứ
hai là chung Giáo
Hội, Nhiệm
Thể Chúa Kitô, và đấu
bột thứ
ba là toàn thể xã
hội loài người?
Nếu
Moisen là nhận vật được Thiên Chúa tuyển chọn để giải phóng dân của
Ngài khỏi làm nô lệ ở Ai Cập, nhờ đó Moisen là hình bóng báo trước
một Đấng Thiên Sai sẽ đến để giải phóng nhân loại nói chung,
trong đó có cả dân Do Thái, khỏi tội lỗi và sự chết, thì trong
Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay cho thấy Moisen
có
thể được coi là một "hạt cảI" trong thửa ruộng
cộng đồng dân Do Thái, một con người chẳng là gì trước nhan Thiên
Chúa, nhưng lại vươn lên thành cây vĩ đại cho chim trời làm tổ, ở
chỗ đã trở
thành một con người có thế lực trước Thiên Chúa, với vai trò đại
diện cho dân tộc của mình mà chuyển
cầu để họ khỏi
bị Ngài tiêu diệt bởi tội thờ bỏ vàng của họ:
"Hôm sau Moisen nói
với dân: 'Các ngươi đã phạm một tội rất lớn, nhưng bây giờ ta sắp
lên với Giavê: có lẽ ta sẽ xin được Người xá tội cho các ngươi!' Moisen trở
lại với Giavê và nói: 'Phải! dân này đã phạm một tội rất lớn, chúng
đã làm cho mình những thần bằng vàng! Nhưng bây giờ, ước gì Người
miễn chấp tội chúng. Bằng không, xin Người hãy xoá con đi khỏi sách
Người đã viết'. Giavê
phán với Moisen:
'Ai phạm tội chống lại Ta, Ta sẽ xoá nó khỏi sách của Ta! Còn bây
giờ, ngươi hãy đi, hãy dẫn dân đến nơi Ta đã phán với ngươi! Này
thần sứ của Ta sẽ đi trước ngươi, và đến ngày truy phạt của Ta, Ta
sẽ trừng phạt chúng vì tội của chúng'".
Bài Đáp
Ca hôm nay tóm tắt ý nghĩa của Bài Đọc 1 về tinh thần bất trung và
thái độ thiên về ngẫu tượng tà thần của họ cho dù họ đã được liên
tục chứng
kiến thấy các điềm
thiêng dấu lạ Ngài tỏ ra cho họ, nhưng nhờ có Moisen mà họ đã được
Ngài thương tha:
1) Dân chúng đúc hình bò con tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc
bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò
ăn cỏ.
2) Họ đã quên Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình, Đấng đã làm những điều
trọng đại bên Ai-cập, Đấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ
họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Đỏ.
3) Chúa đã nghĩ tới tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người
Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và
đừng tiêu diệt họ.
Thứ Ba sau Chúa
Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
33, 7-11; 34, 5b-9. 28
"Chúa đối diện nói chuyện với
Môsê".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê hạ nhà
xếp, đem dựng ra một khoảng ở ngoài trại, và đặt tên là "nhà xếp giao
ước". Ai trong dân có điều gì muốn hỏi, thì đến nhà xếp ở ngoài trại.
Khi ông Môsê đi đến nhà xếp, thì
toàn dân chỗi dậy, ai nấy ra đứng trước cửa trại mình nhìn theo ông
Môsê, cho đến khi ông vào nhà xếp. Khi ông đã vào nhà xếp giao ước, thì
có một cột mây rơi xuống, và dừng lại tại cửa, và Chúa đàm đạo cùng
Môsê; mọi người trông thấy cột mây dừng lại trước cửa nhà xếp. Họ đứng
nơi cửa nhà xếp mình và sấp mình thờ lạy. Chúa đàm đạo cùng Môsê diện
đối diện, như người ta quen đàm đạo với bạn hữu mình. Khi ông trở về
trại, thì người hầu cận ông là Giosuê, con ông Nun, còn trẻ tuổi, không
rời khỏi nhà xếp.
Ông Môsê đứng trước mặt Chúa mà
khẩn cầu danh Người. Chúa đi ngang qua trước mặt ông và hô lên: "Ðức
Chúa! Ðức Chúa! Ðấng cai trị mọi sự, là Ðấng từ bi, nhân hậu, nhẫn nại,
đầy lân tuất và chân chính. Chúa xót thương đến ngàn đời, tha thứ gian
ác, độc dữ và tội lỗi; (nhưng) trước mặt Chúa không ai coi mình là vô
tội. Sự gian ác tổ tiên đã phạm, Chúa phạt con cháu đến ba bốn đời". Ông
Môsê vội vã sấp mình xuống đất thờ lạy Chúa và thưa rằng: "Lạy Chúa, nếu
con được ơn nghĩa trước mặt Chúa, thì xin Chúa đi với chúng con, (vì dân
này là dân cứng đầu), và xin Chúa tha thứ sự gian ác và tội lỗi chúng
con. Xin nhận chúng con làm cơ nghiệp của Chúa". Vậy ông Môsê ở đó với
Chúa bốn mươi đêm ngày, không ăn bánh và không uống nước; Chúa ghi mười
lời giao ước vào bia đá.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 102,
6-7. 8-9. 10-11. 12-13
Ðáp: Chúa là
Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).
Xướng: 1) Chúa thi hành những sự
việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị ức. Người tỏ cho
Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel. - Ðáp.
2) Chúa là Ðấng từ bi và hay
thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh
triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. - Ðáp.
3) Người không xử với chúng tôi
như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi.
Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên mặt đất, lòng nhân Người còn siêu
việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. - Ðáp.
4) Cũng như từ đông sang tây xa
vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. Cũng như người cha yêu
thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người. - Ðáp.
Alleluia: Dt 4,
12
Alleluia, alleluia! - Lời Thiên
Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, phân rẽ tư tưởng và là ý muốn của
tâm hồn. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13,
36-43
"Cũng như người ta thu lấy cỏ
lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra
như vậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, sau khi giải tán dân
chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng:
"Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe".
Người đáp lại rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian.
Còn hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ
thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các
thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa
thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các
thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước
Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có
tai để nghe thì hãy nghe".
Ðó là lời Chúa.

Cánh chung: Từ thời điểm viên trọn tới thời điểm chung cuộc
Bài
Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XVII Thường Niên hôm nay chất
chứa những lời Chúa Giêsu dẫn giải về dụ ngôn người gieo giống tốt trong
thửa ruộng của mình trong
bài Phúc Âm hôm Thứ Bảy tuần trước, để đáp
lại lời yêu cầu của các môn đệ: "Khi
ấy, sau khi giải tán dân chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến
gặp Người và thưa rằng: 'Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng
cho chúng con nghe'".
Theo thứ
tự các hình ảnh trong dụ ngôn, Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của từng
hình ảnh hay sự việc được Người ám chỉ trong dụ ngôn này như sau:
"Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt
là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là
ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như
người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận
thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất
cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả
chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ
sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình".
Ở đây chúng ta thấy
những điều cần chú ý sau đây:
1- Nếu "Kẻ
gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con
cái Nước Trời" thì
có nghĩa là Chúa Kitô Thiên Sai đã cứu độ thế gian hay cứu độ loài
người khỏi tội lỗi và sự chết bằng cuộc Vượt Qua của Người, nhờ đó
Người đã ban cho họ sự sống thần linh, như
thể Người đã gieo giống tốt trong thửa ruộng thế gian của Người, nơi
Người đã hóa thân làm người để nhờ Người mà thế gian được cứu độ (xem
Gioan 3:16-17).
2- Nếu "Cỏ
lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ" thì
có nghĩa là Satan và bọn ngụy thần của hắn nhất định tàn phá công
nghiệp của Chúa Kitô nơi các tâm hồn nói riêng và Giáo Hội nói chung.
Bởi thế, chúng ta không lạ gì Giáo Hội của Chúa Kitô liên lỉ trở thành
mục tiêu tấn công của thần dữ suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, và thành
phần Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội luôn bị bách hại và sát hại, càng
ngày càng dữ dội hơn.
3- Nếu "Mùa
gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần" thì
có nghĩa là tất cả sẽ có cùng, và mọi sự sẽ được giải quyết công
minh đúng như dự án thần linh của Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng Thần
Linh làm chủ lịch sử loài người, cho dù trong thời gian hiện tại thành
phần kẻ lành lúa
tốt chỉ
là một thiểu số và bao giờ cũng chịu
thua thiệt tất cả mọi sự trước áp lực hung hăng tàn bạo của thành phần
kẻ dữ lùng vực hầu
như bất khả khống chế.
Có một chi tiết hơi kỳ lạ trong dụ ngôn được Chúa Kitô đề cập tới, đó là
chi tiết: "Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và
mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa".
Chi tiết kỳ lạ này là "tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác
khỏi nước Chúa", nghĩa là trong "nước Chúa" đã có hay đã bao
gồm "tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác" rồi phải không
nên sau cùng mới bị loại ra. Như thế nghĩa là gì? "Nước Chúa",
nếu hiểu là thiên đàng, là mối hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, cũng
có cái xấu và sự dữ hay sao?
Ở đây, theo kẻ chia sẻ suy niệm lời Chúa hiểu, thì "Nước Chúa" trên thế
gian này có thể hiểu là chính mạc khải thần linh của Thiên Chúa, một mạc
khải được tỏ ra cho tất cả mọi người, như hạt giống được gieo cả vào vệ
đường, sỏi đá và bụi gai nữa, chứ không phải chỉ vào đất tốt, và vì thế
ai không chấp nhận mạc khải thần linh của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, là ơn
cứu độ của Người, là Lòng Thương Xót Chúa, thì kể như họ không chấp nhận
Lòng Thương Xót Chúa, không chấp nhận ơn cứu độ của Ngài, do đó tự họ
loại mình ra khỏi "Nước Chúa".
Như
thế, dụ ngôn người gieo giống tốt trong thửa ruộng của mình đây bao gồm
từ "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) của Chúa Kitô Thiên Sai, qua
suốt giòng lịch sử của Giáo Hội Chúa Kitô, cho đến tận thế là thời điểm
chung cuộc. Dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng này là một dụ ngôn Chúa dẫn giải
chẳng những để giúp
cho chúng ta hiểu
biết về thực tại Nước Trời mà còn khuyến dụ chúng ta hãy sống
thực
tại Nước Trời này nữa, ở chỗ hãy nhẫn
nhục chịu đựng gian nan khốn khó trong cuộc hành trình đức tin của mình
và luôn chờ đợi
bằng lòng tin
tưởng vào Đấng "sẽ
xuất hiện lần thứ hai để mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha mong đợi
Người"
(Do Thái 9:28).
Dụ ngôn này đồng thời cũng
cho chúng ta thấy một Vị Thiên Chúa nhẫn nại cho tới cùng, đối với cả kẻ
dữ, và làm tất cả mọi sự cho lợi ích của kẻ lành là lúa tốt, thậm chí
bằng chính kẻ dữ là cỏ lùng. Chính tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài
cuối cùng sẽ thắng vượt tất
cả trong Chúa Kitô
Thiên Sai, Đấng đã
vượt qua từ khổ giá đến phục sinh, và nếu kẻ dữ bị trừng phạt xứng với
tội ác của họ thì không phải là Ngài ra tay, cho bằng chính
họ
bị day dứt quằn quại trước tình
yêu vô cùng nhân hậu của Ngài.
Trong Bài Đọc
1 cho năm lẻ hôm nay cho thấy một Moisen, hình bóng của một Đức Kitô
Thiên sai giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết mà đem vào đất
hứa sự sống viên mãn, đang đóng vai trò là người gieo
lúa tốt trong thửa ruộng dân Chúa của mình, đồng
thời qua Moisen cũng cho thấy một vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu xót
thương, ở
chỗ:
1- Di chuyển nhà xếp
giao ước cho lợi ích của dân:
"Trong những ngày ấy, Moisen hạ
nhà xếp, đem dựng ra một khoảng ở ngoài trại, và đặt tên là 'nhà xếp
giao ước'. Ai trong dân có điều gì muốn hỏi, thì đến nhà xếp ở ngoài
trại".
2- Có
một hầu cận là mầm mống thừa kế của mình: "Chúa
đàm đạo cùng Moisen diện đối diện, như người ta quen đàm đạo với bạn hữu
mình. Khi ông trở về trại, thì người hầu cận ông là Gioduệ,
con ông Nun, còn trẻ tuổi, không rời khỏi nhà xếp".
3- Cầu
khẩn cùng Chúa cho dân: "Chúa!
Chúa! Đấng cai trị mọi sự, là Đấng từ bi, nhân hậu, nhẫn nại, đầy lân
tuất và chân chính. Chúa xót thương đến ngàn đời, tha thứ gian ác, độc
dữ và tội lỗi; trước mặt Chúa không ai coi mình là vô tội. Sự gian ác tổ
tiên đã phạm, Chúa phạt con cháu đến ba bốn đời".
4- Nhận
lãnh bia đá thập giới (lần hai) từ Thiên Chúa để trao lại cho dân: "Vậy
ông Môsê ở đó với Chúa bốn mươi đêm ngày, không ăn bánh và không uống
nước; Chúa ghi mười lời giao ước vào bia đá".
Bài Đáp
Ca hôm nay chất chứa một cảm nghiệm thần linh về một vị Thiên Chúa chẳng
những tỏ mình ra bề ngoài có vẻ uy nghi lừng lẫy mà còn có một tấm
lòng vô cùng nhân hậu xót thương đúng như những gì Moisen đã cảm nhận
trong Bài Đọc 1: "Chúa!
Chúa! Đấng cai trị mọi sự, là Đấng từ bi, nhân hậu, nhẫn nại, đầy lân
tuất và chân chính. Chúa xót thương đến ngàn đời, tha thứ gian ác, độc
dữ và tội lỗi":
1)
Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những
người bị ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người
cho con cái Israel.
2) Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan
nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm
hờn.
3) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa
theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên mặt
đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người.
4) Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi
chúng tôi. Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những
ai kính sợ Người.
Ngày 29 tháng 7 - Thứ Ba
3 Chị em Thánh nữ Mác-ta, Maria và Lazarô
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Mác-ta là chị của cô Ma-ri-a và ông La-da-rô ở Bê-ta-ni-a. Trong
sách Tin Mừng, thánh nữ xuất hiện ba lần : lần thứ nhất trong
bữa ăn ở Bê-ta-ni-a, khi cùng với cô em là Ma-ri-a tiếp đãi Đức
Giê-su ; lần thứ hai khi ông La-da-rô được Chúa cho phục sinh,
lúc đó thánh nữ đã tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giê-su ; và lần
cuối trong bữa tiệc đãi Chúa Giê-su sáu ngày trước lễ Vượt Qua.
Trong cả ba câu chuyện, ta luôn thấy thánh nữ đóng vai trò chủ
nhà.

Bài đọc 2 (Phụng
vụ giờ Kinh Sách)
Lời
Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, nhắc nhở chúng ta phải
hướng về một mục đích, khi gánh vác trăm công ngàn việc ở
đời này. Chúng ta hướng về đó bao lâu còn là lữ khách, chứ
chưa phải là cư dân, bao lâu còn ở trên đường, chứ chưa vào
quê thật, bao lâu còn đang phải ước ao, chứ chưa được vui
hưởng. Thế nên chúng ta phải hướng về đó, hướng về đó mà
không lơ là và cũng không ngơi, để ngày kia chúng ta đạt tới
đích.
Cô Mác-ta và cô Ma-ri-a là hai chị em, chẳng những là chị em
về huyết nhục, mà còn là chị em trong đức tin. Cả hai đều
khắng khít với Chúa ; cả hai đều một lòng phục vụ Chúa lúc
Người còn sống trong xác phàm. Cô Mác-ta đón tiếp Người như
người ta quen đón tiếp lữ khách. Nhưng đây là nữ tỳ đón tiếp
Chúa, người bệnh nhân đón tiếp Đấng Cứu Chữa, thụ tạo đón
tiếp Đấng Tạo Thành. Cô lấy cơm bánh để phục vụ Đấng sẽ lấy
Thần Khí mà nuôi cô. Vì Chúa đã muốn nhận lấy thân phận tôi
đòi, và một khi đã nhận lấy thân phận tôi đòi, thì Người
muốn được các tôi tớ nuôi dưỡng không phải vì địa vị, nhưng
là vì tình thương. Bởi chưng chấp nhận cho người ta nuôi
dưỡng mình, đó là yêu thương. Chúa mang xác phàm, nên Người
biết đói biết khát.
Thế là Chúa được đón tiếp như khách quý. Người
đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận ; còn
những ai đón nhận, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên
Chúa. Người đón nhận tôi tớ khiến họ thành anh em, Người
cứu chuộc kẻ tù đày, cho họ được đồng thừa tự. Thế nhưng,
đừng có ai trong anh em lại nói : Phúc
thay ai được đón Chúa Ki-tô vào nhà mình. Bạn chớ buồn
phiền, đừng than vãn vì bạn được sinh ra vào thời mà bạn
không nhìn thấy Chúa trong xác phàm. Người không để bạn mất
vinh dự ấy đâu. Người nói : Mỗi
lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em
bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Thưa chị Mác-ta, xin cho phép tôi nói, chị được chúc phúc vì
đã tận tâm phục vụ. Phần thưởng chị tìm cho công khó của chị
là được nghỉ ngơi. Bây giờ chị lo toan đủ điều, chị muốn
nuôi dưỡng các thân xác phải chết, cho dù là của các vị
thánh. Nhưng ngày kia, khi chị vào được quê trời, liệu chị
có còn gặp người lữ khách nào để đón tiếp, người đói nào để
bẻ bánh cho ăn, người khát nào để cho uống, người bệnh nào
để thăm nom, người tranh chấp nào để hoà giải, người chết
nào để chôn cất không ?
Trên quê trời, sẽ chẳng còn bất cứ sự gì như thế, nhưng sẽ
có gì ? Thưa có điều cô Ma-ri-a đã chọn. Ở đó, chúng ta được
nuôi, chứ không phải nuôi người khác. Vì vậy, trên quê trời,
điều cô Ma-ri-a đã chọn sẽ viên mãn và thành toàn : từ bàn
tiệc thịnh soạn của lời Chúa, cô đã từng thu lượm những mảnh
vụn. Vậy bạn có muốn biết điều gì sẽ xảy ra trên quê trời
không ? Chính Chúa đã nói về các tôi tớ của Người rằng : Thầy
bảo thật anh em, chủ sẽ đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng
người mà phục vụ.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xưa Con Một Chúa đã nhậm
lời mời và đến trú ngụ tại nhà thánh nữ Mác-ta. Nhờ lời
thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin Chúa cho chúng con hết
tình phục vụ Đức Ki-tô hiện diện trong mọi người, để mai sau
được Chúa đón nhận vào nhà Chúa. Chúng con cầu xin
Lễ Thánh Nữ Matta, chị của Maria và Ladarô,
được cử hành tám ngày sau lễ kính Thánh Nữ Maria
Mađalêna và đã phổ biến dưới thời Trung Cổ do ảnh hưởng
cuốn Các truyền thuyết ở Pronvence. Tuy nhiên thật đáng
tiếc vì không có một lễ chung kính ba vị thánh của
Bêtania như trong phụng vụ dòng Phan Sinh ở thế kỷ XVIII
và trong niên lịch dòng Biển Đức vốn vẫn thường mừng vào
ngày 2 tháng Chín. Cho đến ngày 2/2/2021, ĐTC Phanxicô
đã biến lễ nhớ Thánh Matta hằng năm ngày 29/7 thành lễ 3
vị thánh chị em Matta, Maria và Lazarô: Decree
on the Celebration of Saints Martha, Mary and Lazarus in
the General Roman Calendar (26 January 2021) / pope-francis-adds-feast-of-martha-mary-and-lazarus-to-church-calendar
Quyển Cuộc đời Thánh Nữ Matta (thế kỷ XII) có
kể lại một truyền thuyết rằng ba chị em Matta, Maria,
Ladarô đã bị người Do Thái tống xuống một chiếc thuyền
nhỏ không buồm, nhưng đã lên bờ được ở Marseille và tại
đây bà Matta được đặc biệt kính trọng. Còn theo những
truyền thuyết khác thì Thánh Nữ Matta đã truyền giáo ở
miền Provence và đã giải thoát miền này khỏi một con
quái vật tên là Tarasque. Người ta thấy sự tích đó được
khắc trong Nhà thờ Thánh Nữ Matta (thế kỷ XII) ở
Tarascon.
Thứ Tư sau Chúa
Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
34, 29-35
"Thấy mặt ông Môsê, họ sợ không
dám đến gần".
Trích sách Xuất Hành.
Khi ông Môsê từ trên núi Sinai đi
xuống, ông mang hai bia đá chứng từ; và ông không biết do sự đàm đạo với
Chúa, mặt ông sáng láng rực rỡ. Nhưng ông Aaron và con cái Israel thấy
mặt ông Môsê sáng láng rực rỡ, thì sợ không dám đến gần. Ông Môsê gọi
họ, thì cả Aaron lẫn các thủ lãnh hội đường mới quay lại. Sau khi ông
nói chuyện với họ, tất cả con cái Israel mới đến gần ông. Ông truyền lại
cho họ tất cả những điều ông đã nghe Chúa phán trên núi Sinai. Nói xong,
ông lấy khăn che mặt mình. Khi ông vào trước mặt Chúa và đàm đạo với
Người, thì ông cất khăn cho đến lúc ông trở ra và bấy giờ ông thuật lại
cho con cái Israel những điều Chúa đã truyền dạy ông. Lúc ông Môsê ra
đi, họ thấy mặt ông sáng láng rực rỡ; nhưng khi ông nói với họ, ông che
mặt ông lại.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 98,
5. 6. 7. 9
Ðáp: Thiên
Chúa, Chúa chúng ta, là Ðấng Thánh (c. 9c).
Xướng: 1) Hãy cao rao Chúa là
Thiên Chúa chúng ta. Hãy sấp mình dưới bệ kê chân Người; đây là bệ ngọc
chí thánh. - Ðáp.
2) Trong hàng tư tế của Người có
Môsê và Aaron, và có Samuel trong số người cầu đảo danh Người. Các ông
kêu cầu Chúa và chính Người nhậm lời các ông. - Ðáp.
3) Trong cột mây, bấy giờ Người
phán bảo; các ông đã nghe những huấn lệnh của Người, và chỉ thị Người đã
truyền cho các ông giữ. - Ðáp.
4) Hãy cao rao Chúa là Thiên Chúng
chúng ta; hãy sấp mình trên núi thánh của Người: vì Thiên Chúa, Chúa
chúng ta, là Ðấng Thánh. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm
3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa,
xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống
đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13,
44-46
"Anh bán tất cả những gì anh có mà
mua thửa ruộng đó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân
chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người
kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì
anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi
tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải mà
mua viên ngọc ấy.
Ðó là lời Chúa.

Kho tàng ơn gọi và viên ngọc đẫm máu
Hôm
nay, Thứ Tư Tuần XVII Thường
Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu tiếp tục ghi lại một cặp dụ ngôn
nữa về Nước Trời được Chúa Kitô diễn tả để mạc khải cho dân Do Thái nói
chung và cho các môn đệ của Người nói riêng biết.
"Nước
Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp
được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có
mà mua thửa ruộng ấy".
"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.
Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà
mua viên ngọc ấy".
Hai dụ ngôn về Nước Trời này có liên hệ hết sức mật thiết với nhau bất
khả phân ly, có
tính cách tu đức hơn là thần học. Ở
chỗ, một đàng thì "kho
báu trong ruộng" được
tìm thấy,
một đàng thì đi tìm
được: "viên ngọc quí". Một đàng
thụ động: "kho
báu trong ruộng" và một đàng chủ động: "đi
tìm ngọc đẹp".
Cặp dụ ngôn thứ
hai về Nước Trời này, như cặp dụ ngôn thứ nhất trong bài Phúc Âm Thứ Hai
tuần này, không được Chúa Giêsu giải thích cho biết. Tuy nhiên, căn cứ
vào đường lối suy diễn như ở cặp dụ ngôn thứ nhất, nhờ căn cứ vào Chúa
Kitô như là chính Nước Trời thì cặp dụ ngôn thứ
hai về Nước Trời hay về Chúa Kitô có thể suy diễn như
sau.
Dầu sao cũng cần
phải nhớ rằng cặp dụ ngôn thứ hai này Chúa Giêsu nói riêng với các
tông đồ chứ không phải chung cho dân chúng như cặp dụ ngôn thứ nhất. Vì
Người nói ngay sau khi dẫn giải dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng lúa tốt cho
các môn đệ là thành phần xin Người giải thích "sau khi giải
tán dân chúng, Người đã về nhà...".
Trước hết, "Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn
giấu trong ruộng" - Phải chăng Chúa Giêsu có ý nói rằng Người chính
là kho báu được chôn giấu trong ruộng, mà "ruộng là thế gian" (theo
chính lời Chúa Giêsu giải thích trong bài Phúc Âm hôm qua), nên Chúa
Giêsu vẫn là những gì quí báu nhất trên trần gian này mà ít người biết
tới như thể kho tàng quí báu ấy
bị chôn giấu đi vậy?
"Có
người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả
những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy"
- Nghĩa là cho dù kho tàng ấy ít ai biết đến như
bị che giấu đi như thế, ai mà gặp
được, chẳng hạn thành phần bé mọn được Cha tỏ ra
cho (xem Mathêu 11:25), thì họ chẳng còn tiếc gì nữa, sẵn
sàng từ bỏ mọi sự mà mua thửa ruộng có kho tàng
này, chứ không phải mua chính kho
tàng, vì mua cả thửa ruộng thì tất nhiên có được
kho báu trong đó nữa.
Đúng thế, nếu Chúa Kitô đã cứu chuộc thế gian thì ai tìm
gặp Người cũng quí chuộng ơn cứu chuộc của Người và tìm hết cách để cứu
lấy thế gian, và khi họ đã dám hy sinh tất cả mọi
sự của họ cho phần rỗi của tha
nhân trên thế gian này là
họ có được tất cả Chúa Kitô là kho tàng chôn trong
thửa ruộng được họ tậu lấy vậy. Theo ý nghĩa ấy thì quả thực dụ ngôn kho
tàng trong ruộng này liên quan đến ơn gọi theo Chúa của các tông đồ,
thành phần môn đệ chứng nhân tiên khởi của
Người.
"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc
đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì
mình có mà mua viên ngọc ấy". Phải chăng "một thương gia đi
tìm ngọc đẹp" đây chính là Chúa Kitô, Đấng đã "đến để tìm
kiếm và cứu với những gì hư hoại" (Luca 19:10), nhưng đối với
Người "những gì hư hoại" ấy, như con chiên lạc thứ 100 hay
đồng tiền thất lạc (xem Luca 15:4,8) lại rất quí báu, đến độ
Người đã phải từ trời xuống thế để tìm kiếm.
Như thế có nghĩa là con người ta là "một viên ngọc quí" đã
được Thiên Chúa tìm thấy và đã thực sự "mua viên ngọc ấy" bằng
chính máu thánh vô giá của Người, bằng chính sự sống hy hiến của
Người (xem Gioan 17:19; Mathêu 20:28)? Dụ ngôn này cũng liên
quan đến vai trò của các tông đồ chẳng những trong sứ vụ thừa sai
nhân chứng mà còn trong cả thừa tác vụ ban phát ân sủng và sự sống
thần linh cho các linh hồn nữa.
Cặp dụ ngôn về "kho tàng chôn giấu trong ruộng" và "viên
ngọc quí" được thương gia tìm thấy đây như thế có thể hiểu "kho
tàng" là chính Ơn Cứu Độ vô cùng quí giá của Chúa Kitô, và "viên
ngọc quí" chính là phần rỗi vô cùng quan trọng của các linh
hồn. Cả "kho tàng" Ơn Cứu Độ và "viên ngọc" Phần
Rỗi này đều phải được đánh đổi bằng tất cả những gì có được của
những ai được kêu gọi làm chứng nhân tông đồ của Chúa Kitô như Kitô
hữu chúng ta.
Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay cho thấy "rằng
da mặt Moisen sáng
chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa... Con
cái Israel nhìn mặt ông Moisen thấy
da mặt ông sáng chói; ông Moisen lại lấy khăn che mặt, cho đến khi
vào đàm đạo với Thiên Chúa".
Nội
dung của Bài Đọc 1 này có liên hệ gì với cặp dụ ngôn trong bài
Phúc Âm hôm nay hay chăng? Xin thưa, tất nhiên là có. Ở chỗ nào? Ở
chỗ khi được gần gũi với "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan
1:5), con người cần phải trở thành phản ánh của Ngài, như Chúa Kitô
"là phản ánh vinh hiển của Cha" (Do Thái 1:3).
Như thế, một khi kho
tàng thần linh trong thửa ruộng thế gian là Chúa Kitô thuộc về ai,
có nghĩa là họ được hiệp nhất nên một với Người, thì
tất cả đời sống và con người của họ trở thành phản ảnh Người, (như
mặt Moisen phản ảnh vinh quang Thiên Chúa nhờ gặp gỡ Thiên Chúa),
bởi họ đã
dám hy
sinh tất cả để mua lấy tất cả thuở ruộng thế gian đã được Người
cứu
chuộc, đến độ Chúa Kitô sống trong họ để tiếp tục công cuộc cứu
chuộc của Người cho đến tận thế, cho đến khi Người lại đến trong
vinh quang.
Nhờ đó,
họ phản ảnh một Chúa
Kitô nhân
hậu đi tìm kiếm viên
ngọc quí là
phần rỗi của các linh hồn, qua sứ vụ chứng
nhân và
tinh thần tông đồ truyền giáo của họ như
Chúa Kitô.
Bài Đáp
Ca hôm nay bao gồm nhận thức thần linh về Vị Thiên Chúa Thánh
Hảo, Đấng tỏ mình ra cho những ai cầu khẩn Danh Ngài và tuân hành
các thánh chỉ của Ngài, vì Ngài là Đấng Thánh:
1- Hãy suy tôn Chúa là Thiên Chúa chúng ta, phủ phục trước bệ rồng, bởi
Người là Đấng Thánh.
2- Moisen cùng Aaron trong hàng tư tế Chúa, cũng như Samuel trong số
người cầu khẩn Thánh Danh! Các ngài cầu khẩn Chúa, Chúa thương đáp lại.
3- Từ cột mây, Chúa phán dạy các ngài, các ngài đã tuân hành thánh ý, và
chiếu chỉ Người ban.
4- Hãy suy tôn Chúa là Thiên Chúa chúng ta, hướng về núi thánh mà phủ
phục, vì Chúa, Thiên Chúa ta thờ, quả thật là Đấng Thánh.
THÁNH PHÊRÔ KIM NGÔN, GIÁM MỤC TIẾN SĨ
(30/7)

I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ
Thánh Phêrô có biệt hiệu là Chrysôlôgô (nghĩa là kim ngôn). Lý do
bởi vì ngài có biệt tài hết sức nổi tiếng về hùng biện trong việc
rao giảng Lời Chúa.
Ngài sinh vào khoảng năm 405, tại miền Imola, nước Ý. Đức Giám mục
giáo phận Imola là Cornêliô phong chức phó tế cho Ngài. Dưới sự
hướng dẫn của Đức giám mục, Ngài thực hiện những bước tiến lạ lùng
trên con đường trong tu viện.
Năm 430, Đức tổng giám mục Gioan của giáo phận Ravenna từ trần.
Trong khi tìm vị chủ chăn mới, hàng giáo sĩ và giáo dân đã xin Đức
giám mục Iomola nhập đoàn phải họ để đi Roma yết kiến Đức giáo hoàng
Sixtô III coi Phêrô như người được tiền cử để làm giám mục Ravenna.
Ngài liền đặt Phêrô làm giám mục Ravenna, kế vị Đức giám mục Gioan
năm 433. Các đại biểu của Giáo phận này lúc đầu tỏ ý bất bình, nhưng
rồi đã đổi thái độ khi được đức giáo hoàng Sixtô III cho biết thị
kiến của mình.
Vâng theo ý Chúa, Phêrô thụ phong giám mục và trở về Ravenna. Trong
bầu khí tiếp đón nồng nhiệt, Ngài nói:
- Tôi đến với anh chị em như một y sĩ đến chữa trị, như một mục tử
để dẫn dắt, như một người mẹ để nuôi dưỡng, như một người cha để bảo
vệ và chăm sóc phần rỗi đời đời của anh chị em. Vậy anh chị em hãy
mau mắn vâng phục cách thích đáng đối với tác vụ rất thánh của tôi.
Đầy nhiệt thành bứng rễ các việc thờ ngẫu tượng còn rớt lại, cũng
như lên án sự giả hình của giáo dân. Trong một cuộc lễ vào đầu năm,
Ngài đã phá những cuộc diễn hành không được lành mạnh trên đường
phố:
- Ai muốn vui chơi với ma quỉ thì không thể vui hưởng với Chúa Kitô.
Ngài đã nhiệt tâm rao giảng.
Ngày nay chúng ta còn giữ lại được khoảng 180 bài giảng của Ngài.
Lời lẽ đơn sơ nhưng đầy nhiệt huyết. Người ta không thể quên được
những lời như:
- Nằm trong thói hư tật xấu, chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Chúng ta sẽ
thực sự đứng thẳng khi biết chỗi dậy để tiến thẳng tới bằng các việc
lành.
- Ai biết tìm kiếm trong đức tin, sẽ thấy ngay rằng là Cha đang ở
đó, vì họ.
- Mọi sự dữ cha mẹ làm cho con cái, Thiên Chúa là Cha hết người sẽ
trả lại cho họ.
- Các tiền nhân sống cho chúng ta. Chúng ta sống cho thế hệ mai sau.
Không ai sống cho mình cả.
Người ta cũng còn nhớ lời Ngài kêu gọi sống bác ái:
- Biết nói sao về niềm tin lễ Giáng sinh, nếu người nghèo than khóc
tù nhân rên siết, dân tị nạn than thở, người lưu đày thổn thức,
người Do thái mừng lễ bằng thuế thập phân, còn người Kitô hữu nghĩ
sao khi họ không mừng bằng một phần trăm của cải ? Tôi đau buồn,
phải, tôi đau buồn vì các đạo sĩ trải vàng trên nôi Chúa Kitô trong
khi các Kitô hữu để cho thân thể Chúa Kitô trống trải, khi mà những
người nghèo than khóc. Đừng nói rằng tôi không có gì. Thiên Chúa
muốn xin cái anh em có chứ không phải cái anh chị em không có, khi
mà Ngài thương nhận hai đồng tiền của bà góa. Hãy tận tâm với Đấng
tạo thành và tạo vật cũng sẽ tận tâm với anh chị em.
Thánh Phêrô Chrysôlôgô đã trở thành danh tiếng, đến nỗi Đức giáo
hoàng Lêô I đã trao cho Ngài đọc tại công đồng Chalcedonia một luận
án chống lại lạc thuyết của Eutychèr, Ngài cũng còn viết một bức thư
cho kẻ lạc giáo này để khuyên ông ta vâng phục Giáo hội.
Sau cùng, sau khi cai quản giáo phận Ravenna trong 18 năm, thánh
giám mục biết rằng mình sắp tới hồi kết thúc các nỗ lực. Ngài muốn
lui về Imola để dọn mình chết. Ngày 3 tháng 12 năm 450 Ngài đã từ
trần và năm 1729 được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh.
II. BÀI HỌC
Khi bắt đầu cuộc đời Giám Mục thánh Phêrô Kim Ngôn đã rất thẳng thắn
chia sẻ với giáo dân của ngài những lời rất chân thành và cảm động
như sau:
“Tôi đến với anh chị em như một y sĩ đến chữa trị, như một mục tử để
dẫn dắt, như một người mẹ để nuôi dưỡng, như một người cha để bảo vệ
và chăm sóc phần rỗi đời đời của anh chị em”
Chúng ta có thể coi đây là châm
ngôn hay đường lối của ngài trong mối tương quan đối với mọi người
và quả thực ngài đã luôn sống như thế. Ngài không đến để cai trị, để
thống trị nhưng đến để phục vụ như một y sĩ, như một mục tử, như một
người mẹ như một người cha Công việc phục vụ là chữa trị, là dẫn
dắt, là nuôi dưỡng là chăm sóc bảo vệ. Toàn là nhưng công việc vất
vả. Thế nhưng đó là công việc làm nên vinh quang cho người môn đệ
của Thầy Chí thánh Giêsu.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-30-07-thanh-phero-kim-ngongiam-muc-tien-si-hoi-thanh-36360
Thánh vịnh 36 có đoạn viết rằng: “Miệng người công chính
niệm lẽ khôn ngoan và lưỡi họ nói lên điều chính trực:
luật Thiên Chúa họ ghi tạc vào lòng” (Tv 36. 30-31).
Thánh Phêrô Kim Ngôn được Thiên Chúa tuyển chọn lên hàng
giám mục. Ngài đã sống hết mình cho Chúa và các linh
hồn.
ĐỜI THÁNH PHÊRÔ KIM NGÔN:
Thánh Phêrô Kim Ngôn sinh tại Forum Cornelii miền Emilia
nước Ý năm 405 trong một gia đình giầu sang phú quí và
đầy thế giá. Chúa đã chọn Ngài như lời sách Thánh nói:
“Chúa đã cho người lên tiếng giữa cộng đoàn, ban cho
người đầy tinh thần khôn ngoan minh mẫn và mặc cho người
áo vinh quang” (Hc 15, 5). Thánh nhân đã có lòng đạo đức
và thực tập các nhân đức ngay từ khi còn nhỏ. Ngài đã
trao dồi kiến thức triết học thần học và kiến thức
thánh. Năm 433, thánh nhân được cắt đặt làm tổng giám
mục Ravenne. Thánh nhân có tài hùng biện, có khoa ăn nói
rất thuyết phục, nên nhiều người đã ghép thêm cho Ngài
Chrysôlôgô để tỏ lòng ngưỡng mộ và khâm phục Ngài. Lời
của Ngài nói ra có giá trị như vàng và Ngài rất có uy
tín đối với mọi người vì các lời nói đầy vẻ thuyết phục
và lôi cuốn con người tới với Thiên Chúa. Thánh nhân có
lòng cương quyết đối với sự giữ đạo bề ngoài và giả dối
của nhiều giáo dân. Thánh nhân đã để lại 180 bài giảng
thuyết rất có giá trị với lời văn đơn sơ, nhẹ nhàng. Đây
là những bài huấn đức gọn dựa trên nền tảng Thánh Kinh
và phụng vụ giúp con người sống phù hợp với Tin Mừng.
Thánh nhân đã không dùng những từ ngữ cao sâu như thánh
Augustinô, như
Toma hay như thánh Lêô. Ngài đã viết có tính cách đại
đồnng cho mọi người, khiến ai đọc cũng có thể hiểu cách
dễ dàng. Thánh nhân đã thường nói: “Lời lẽ của tôi đã
được chôn vùi với Đức Kitô”.
THÁNH PHÊRÔ KIM NGÔN RA ĐI VỀ VỚI CHÚA:
Với nhiều nỗ lực cho cuộc sống và sống chết cho sứ mạng
loan báo Tin Mừng của mình. Thánh nhân đã xin về hưu
dưỡng tại quê nhà của mình để dọn mình chết lành. Thánh
nhân đã ra đi bình an trong tay Chúa vào ngày 2 tháng 12
năm 450. Chúa đã đội mũ triều thiên cho Ngài và Hội
Thánh đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.
Lạy Chúa, Chúa đã làm cho thánh giám mục Phêrô Kim Ngôn
trở nên nhà giảng thuyết đại tài về Ngôi Lời nhập thể.
Vì lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng
con hằng suy niệm trong lòng những mầu nhiệm cứu độ và
trung thành sống những mầu nhiệm ấy” (Lời nguyện nhập
lễ, lễ thánh Phêrô Kim Ngôn, giám mục, tiến sĩ Hội
Thánh).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
https://dcvxuanloc.net/thanh-phero-kim-ngon-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-ngay-307/
Thứ Năm sau
Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
40, 14-19. 32-36
"Một đám mây che phủ nhà xếp
chứng từ, và vinh quang của Chúa tràn ngập nhà xếp".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê thi hành
tất cả những điều Chúa đã truyền dạy. Vậy ngày mùng một tháng Giêng năm
thứ hai, đã dựng nhà xếp xong. Ông Môsê đã dựng nhà xếp, lắp ván, đặt
trụ, xà ngang và dựng cột, rồi căng mái nhà xếp và màn che trên mái như
Chúa đã truyền dạy. Ông đặt bia chứng từ vào hòm, xỏ đòn khiêng vào hai
bên, và để toà phán dạy trên hòm. Khi đã rước hòm bia vào nhà xếp, ông
treo màn trước hòm để hoàn tất lời Chúa đã truyền dạy. Sau khi mọi việc
đã hoàn tất, thì có một đám mây bao phủ nhà xếp chứng từ, và vinh quang
của Chúa tràn ngập nhà xếp.
Vì mây che phủ nhà xếp, và uy linh
Chúa sáng rực trong nhà, nên ông Môsê không thể vào trong nhà giao ước,
vì có đám mây che phủ mọi sự. Hễ mây lên khỏi nhà xếp, thì con cái
Israel kéo nhau đi từng đám, còn khi mây che phủ nhà xếp, thì họ ở lại
tại chỗ. Vì ban ngày, đám mây của Chúa che phủ nhà xếp, và ban đêm, có
lửa trong mây, nên toàn dân Israel trông thấy suốt thời gian xuất hành
của họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 83,
3. 4. 5-6a và 8a. 11
Ðáp: Ôi Chúa
thiên binh, khả ái thay cung điện của Ngài (c. 2).
Xướng: 1) Linh hồn con khát khao
và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Ðức Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác
con hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh. - Ðáp.
2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được
nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ
Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, ôi Ðại vương là Thiên Chúa của
con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ
nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Phúc thay người Chúa
con nâng đỡ, họ tiến lên ngày càng thêm hăng hái. - Ðáp.
4) Thực một ngày sống trong hành
lang nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn ngày ở nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi
ngưỡng cửa nhà Chúa, hơn là cư ngụ trong lều bọn ác nhân. - Ðáp.
Alleluia: Tv
24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa,
xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý
của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13,
47-53
"Người ta lựa cá tốt bỏ vào
giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân
chúng rằng: "Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi
thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt
thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Ðến ngày tận thế cũng như
vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi
ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Các ngươi
có hiểu những điều đó không?" Họ thưa: "Có".
Người liền bảo họ: "Bởi thế, những
thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay
lợi dụng những cái cũ, mới trong kho mình". Khi Chúa Giêsu phán các dụ
ngôn đó xong, thì Người rời khỏi nơi ấy.
Ðó là lời Chúa.

thế gian biển cả - thừa
sai mạng lưới
Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XVII Thường
Niên hôm nay ghi lại dụ ngôn cuối cùng của Chúa Giêsu về Nước Trời trong
Phúc Âm Thánh Ký Mathêu ở đoạn 13.
"Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá.
Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ
vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Đến ngày tận thế cũng như vậy: các
thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những
kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Cũng như cặp dụ ngôn thứ hai trong bài
Phúc Âm hôm qua, dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này cũng không được Chúa
Giêsu giải thích gì hết về những hình ảnh Người sử dụng. Lý do Người
không giải thích gì hết là vì các môn đệ của Người không yêu cầu Người
giải thích như ở dụ ngôn người gieo giống ra đi gieo giống và người gieo
giống tốt trong ruộng của mình.
Thậm chí khi được Người hỏi: "'Các
con có hiểu những điều đó không?' Họ thưa: 'Có'".
Sở
dĩ các môn đệ nói "có" hiểu dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này có
thể là vì nội dung của dụ ngôn này cũng giống như dụ ngôn cỏ lùng trong
ruộng. Đúng thế, dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này
cũng
liên quan đến hai loại tốt và xấu. Nếu dụ ngôn người gieo giống tốt
trong ruộng của mình bao gồm lúa tốt lẫn cỏ xấu, thì dụ ngôn cuối cùng
này liên
quan đến cá tốt lẫn cá xấu.
Tuy nhiên, không biết các môn đệ của Chúa
Giêsu bấy giờ đã hiểu dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này như thế nào,
chẳng hạn "lưới thả dưới biển" ám chỉ những gì, và ý nghĩa chính
yếu của dụ ngôn này là chi, phần chúng ta, vẫn cần tìm hiểu xem những gì
còn mập mờ trong dụ ngôn này. Vậy, dựa
theo đường hướng Nước Trời ám chỉ Chúa Kitô, và dụ ngôn cuối
cùng trong loạt dụ ngôn được Thánh ký Mathêu ghi lại ở Đoạn 13 này
là dụ ngôn Chúa Giêsu nói riêng với các môn đệ thì chúng ta có thể suy
diễn như sau:
"Nước
trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá".
Nếu đây là dụ ngôn cuối
cùng trong loạt dụ ngôn về Nước Trời được Thánh ký Mathêu thuật
lại ở đoạn 13, và cũng là dụ ngôn được Chúa Giêsu nói riêng với các
tông đồ, thì dụ ngôn này gợi lại hình ảnh 7 tông đồ đi đánh cá ở Biển Hồ
Tibêria sau 2 lần Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện ra với các vị (xem Gioan
21:1-14).
Nếu "ruộng" là nơi
có cả "lúa tốt" lẫn "cỏ lùng" trong
dụ ngôn "người gieo giống tốt trong ruộng của mình" là "thế
gian" thì "biển" trong dụ ngôn này cũng có thể ám chỉ "thế
gian", nơi có cả "cá tốt" là
"người lành" lẫn
"cá xấu" là
"kẻ dữ".
Vậy
"lưới thả dưới biển" đây phải chăng chính là thành phần thừa
sai được Chúa
Kitô Phục
Sinh truyền lệnh: "Thày được toàn quyền trên trời dưới đất. Bởi vậy
các con hãy đi tuyển mộ môn đồ thuộc tất cả mọi dân nước. Hãy rửa tội
cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh thần. Hãy dạy cho họ thi hành tất
cả những gì Thày đã truyền cho các con" (Mathêu 28:19)?
"Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì
bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài".
Nếu "lưới thả dưới
biển" đây ám chỉ thành phần thừa sai truyền giáo của Giáo Hội
Chúa Kitô, tức là liên quan đặc biệt đến dân ngoại, thành phần chính
yếu làm nên Giáo Hội Chúa Kitô, không phải dân Do Thái, thì "lưới đầy" ở đây
phải chăng có nghĩa là "đủ số dân ngoại" (Roma 11:25), và chỉ
khi nào "đủ số dân ngoại" bấy giờ mới có chuyện "người
ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn
cá xấu thì ném ra ngoài", đúng
như ấn định
cứu độ của Chúa Kitô: "Các
con hãy đi khắp thế gian mà loan báo tin mừng cho tất cả mọi tạo
vật. Ai chấp nhận tin
mừng và chịu phép rửa thì được cứu độ; người nào không chấp
nhận tin mừng thì sẽ bị luận phạt" (Marco 16:15-16).
"Đến ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ
dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc
lóc nghiến răng".
Như thế thì vấn đề "đủ
số dân ngoại" là dấu hiệu ngày cùng tháng tận, là dấu hiệu "đến
ngày tận thế", thời điểm
chung thẩm cho số phận đời đời giữa chiên và dê (xem Mathêu 25:31-46),
thời điểm "các
thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những
kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng", cũng
như các vị ở trong dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng đã làm vậy: "Thợ
gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt
trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ
sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác
khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc
nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của
Cha mình".
Đúng thế, việc thanh lọc cuối cùng chính yếu là để "tách
biệt kẻ dữ ra khỏi người lành", nhờ đó,
thành phần đã từng là nạn nhân của kẻ dữ, đã trải qua gian nan khốn khó
trên đời "bấy
giờ sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình", thành
phần ngay trong cuộc hành trình đức tin của họ đã phản ảnh được
Vị Thiên Chúa là Đấng luôn ở cùng họ, và họ đã trở thành nơi tỏ hiện
vinh quang của Thiên Chúa, như nhà xếp trong Bài Đọc 1.
Phải, Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay liên quan đến việc
thiết dựng nhà xếp, nơi Moisen "đặt
bia chứng từ vào hòm, xỏ đòn khiêng vào hai bên, và để toà phán dạy trên
hòm", và
cũng là nơi tỏ hiện vinh quang của một Vị Thiên
Chúa ẩn ngự: "Khi
đã rước hòm bia vào nhà xếp,
ông treo màn trước hòm để hoàn tất lời Chúa đã truyền dạy. Sau khi mọi
việc đã hoàn tất, thì có một đám mây bao phủ nhà xếp chứng từ, và vinh
quang của Chúa tràn ngập nhà xếp".
Cảm nghiệm thần linh của
kẻ
lành lúc nào cũng cảm thấy khao khát thần linh và mong được ở với Đấng
duy nhất có thể thỏa đáng lòng của họ, được diễn tả qua Bài Đáp Ca hôm
nay:
1)
Linh hồn con khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Chúa. Tâm thần
và thể xác con hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh.
2) Đến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để
làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên
binh, ôi Đại vương là Thiên Chúa của con.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa
tới muôn đời. Phúc thay người Chúa con nâng đỡ, họ tiến lên ngày càng
thêm hăng hái.
4) Thực một ngày sống trong hành lang nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn
ngày ở nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa, hơn là cư ngụ
trong lều bọn ác nhân.
Ngày 31 tháng 7
Thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la, linh mục
lễ nhớ bắt buộc
Sinh năm 1491 tại Lôi-ô-la miền Can-ta-bơ-ri-a. Lúc còn thanh niên,
I-nha-xi-ô theo binh nghiệp, phục vụ trong triều đình. Khi đã trở
lại, người học thần học ở Pa-ri. Tại đây, cùng với mấy người bạn,
người đã sáng lập dòng Chúa Giê-su, thường gọi tắt là dòng Tên (năm
1534). Nhưng chính tại Rô-ma, người nỗ lực làm cho dòng lan rộng
khắp châu Âu và hăng hái truyền giáo, nêu gương phục vụ Hội Thánh,
hết lòng tuân phục đức giáo hoàng. Phương pháp linh thao của người
vạch ra một con đường cho ai muốn hiến thân để làm cho vinh quang
Thiên Chúa ngày một sáng ngời hơn. Người qua đời ở Rô-ma năm 1556.
Bài đọc 2
Lúc bấy giờ, I-nha-xi-ô rất say mê đọc những sách vô bổ và
dối trá ; những sách này thuật lại những việc phi thường của
các danh nhân. Khi cảm thấy khoẻ, I-nha-xi-ô xin người ta
đem lại cho mình vài quyển để đọc giết thời giờ. Nhưng ở
trong nhà ấy, người ta không tìm được quyển nào như vậy. Vì
thế người ta đưa cho anh cuốn sách nhan đề “Cuộc đời Đức
Ki-tô”, và một cuốn khác nhan đề “Bông hoa các thánh”, cả
hai đều được viết bằng tiếng mẹ đẻ.
Nhờ năng đọc các sách này, anh bắt đầu có cảm tình với những
điều viết trong đó. Đôi lần anh ngưng đọc để suy nghĩ những
điều mình mới đọc ; hoặc đôi khi anh nghĩ đến những điều vô
bổ anh đã quen suy nghĩ trước đây, và nhiều điều tương tự
khác xuất hiện trong trí anh.
Thiên Chúa đã rủ lòng thương giúp anh loại trừ khỏi tâm trí
anh những gì anh vừa đọc. Quả vậy, khi anh đọc cuộc đời Đức
Ki-tô, Chúa chúng ta và cuộc đời các thánh, thì anh đã suy
nghĩ nhiều và tự hỏi : “Vậy giả như tôi làm điều mà thánh
Phan-xi-cô đã làm, thì sao ? Giả như tôi làm điều mà thánh
Đa-minh đã làm, thì sao ?” Và như thế anh để tâm suy nghĩ
rất nhiều điều. Nhưng các tư tưởng ấy chỉ tồn tại một thời
gian. Và rồi vì anh bận rộn với các công việc khác, nên
những chuyện vô bổ và trần tục ấy lại xen vào ; những chuyện
này kéo dài một thời gian khá lâu. Hết tư tưởng này đến tư
tưởng kia tiếp nối nhau cầm giữ anh rất lâu.
Tuy nhiên có sự khác biệt giữa những tư tưởng ấy : khi nghĩ
đến những tư tưởng phàm tục, anh cảm thấy rất thích thú ;
nhưng khi mỏi mệt không suy nghĩ, anh cảm thấy buồn bã và
khô khan. Còn khi nghĩ đến việc theo đuổi những chuyện khắc
khổ mà anh biết các vị thánh đã quen sống, thì không những
lúc đang nghĩ đến những chuyện ấy, anh cảm thấy tâm hồn vui
thú, và ngay cả lúc thôi nghĩ đến, anh vẫn thấy mình sung
sướng. Nhưng chính anh không nhận ra, cũng không nghĩ đến sự
khác biệt này, cho đến một ngày kia, khi mắt tâm trí anh
được mở ra, anh ngạc nhiên nhận ra sự khác biệt này ; nhờ
kinh nghiệm, anh hiểu rằng có loại tư tưởng để lại buồn rầu,
có loại tư tưởng để lại niềm vui. Và đó là suy luận đầu tiên
anh thu lượm được về những điều thuộc về Thiên Chúa. Sau
này, khi làm linh thao, anh bắt đầu được soi sáng để hiểu
biết về sự cân nhắc các thần khí và dạy các môn đệ của mình.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Giáo Hội một chiến sĩ can trường
là thánh I-nha-xi-ô, để làm cho danh Chúa thêm vinh quang
rạng rỡ. Nhờ gương sáng và ơn phù trợ của thánh nhân, xin
cho chúng con ở đời này biết hăng say chiến đấu, để đời sau
được cùng người lãnh phần thưởng vinh quang Chúa hứa ban.
Chúng con cầu xin
Ngày 31/7
Don Inigo Lopez de Recalde sinh khoảng năm 1491 tại miền
đồi núi Basque gần làng Azpeytia. Ngài là con út trong
số 11 người con của một gia đình quí tộc. Được rửa tội
với tên Inigo, một vị thánh Tây Ban Nha dòng thánh
Bênêdictô, nhưng sau này Ngài thường dùng tên Ignatiô
thành Antiokia. Hồi còn niên thiếu, người giúp việc cho
một người bạn quí tộc của một gia đình là Giuan
Velasquez. Sau khi Velasquez từ trần, Ngài lại phục vụ
bá tước Najera, phó vương miền Navarre. Ngài được giáo
dục một cách hời hợt. Thời đó, Ngài chỉ ham chơi, thích
những chuyện hào hùng, nhất là những ngày lễ duyệt binh.
Trong cuộc chiến Pháp, Tây Ban Nha tháng năm 1521 quân
đội pháp đã vượt núi Pyrênê và tới phong tỏa Pampeluna.
Nhiều người đã tính chuyện đầu hàng, nhưng Ignatiô quyết
cầm cự. Trong cơn bão tố tại pháo đài Ignatiô bị trúng
đạn pháo ở đùi, Ngài được chuyển về lâu đài ở Loyola.
Nơi dây người ta khám phá ra rằng xương đùi đã bị xếp
trật, phải mổ ra và sắp xếp lại. Ngài đã can đảm chịu
đựng cơn đau.
Thời gian dưỡng bệnh lâu dài tiếp theo sau đó, không có
sách vở gì khác, Ignatiô dùng thời gian để đọc hạnh các
thánh. Gương mẫu đời sống các thánh làm mủi lòng
Ignatiô. Ngài nói: - Tôi có phải thực hiện điều mà thánh
Phaxicô và Dominico đã làm chăng ?
Năm 1522, sau khi bình phục, Ngài đi hành hương kính Đức
bà Montserrat. Nơi đây Ngài đã thực hiện cuộc xưng tội
trong ba ngày, trao tặng đồ hiệp sĩ cho một kẻ ăn xin,
đặt gươm trên bàn thờ Đức Mẹ và tới thành Manresa kế cận
để phục vụ trong một nhà thương. Đã một thời Ngài bị
nguy hiểm rơi vào một cuộc khổ hạnh quá độ. Ngài Ngài đã
thoát hiểm nhờ sự vâng phục hoàn tòan đối với cha giải
tội. Chính tại Manresa, Ngài được Thiên Chúa soi sáng,
sự soi sáng hứơng dẫn trọn những ngày còn lại của cuộc
đời Ngài. Ngài viết cuốn linh thao, trong đó vạch ra
những nguyên tắc mà một người công giáo phải theo để
"điều khiển đời sống mình" một đời sống nhằm ca tụng
Chúa, tôn kính và phụng sự Ngài, để được cứu rỗi. Ngài
phác họa một giáo thuyết của mình về sự chọn lựa và đòi
hỏi để làm mọi sự để "vinh danh Chúa" (Ad Majorem dei
gloriam)
Thánh nhân ở lại Manresa khoảng một năm và từ đó hành
hương đi Palestina, trên đường đi có dừng lại ở Roma.
Sau khi đã kính viếng các nơi thánh ở Palestina, Ngài
trở về Barcelona. Nơi đây, dầu đã 30 tuổi, Ngài vẫn đến
trường, ngồi chung ghế với các em nhỏ, để sữa chữa lại
kẽ hở trong việc học hành, cho tới khi Ngài có thể dự
lớp tại đại học Alcala và Salamanca. Tại cả hai nơi này,
đã Ngài bị truy tố ra tòa án tôn giáo và bị tống giam ít
ngày. Nhưng cuối cùng giáo thuyết của Ngài đã thắng.
Năm 1528, Ngài bỏ Salamanca đi Paris và Sorbonne. Ngài ở
Paris 7 năm, nơi đây Ngài tụ họp được sáu môn sinh đầu
tiên. Vào ngày lễ Mông Triệu năm 1534 bảy anh em đã long
trọng hiến thân phụng sự Thiên Chúa, khấn giữ đức nghèo
khó và trong sạch, tại đền thờ thánh Denis tại
Montmartre. Lúc đó, họ dự định đi Giêrusalem và hiến
thân cho việc cứu rỗi các linh hồn trong các miền còn
ngoại giáo.
gnatiô trở về Tây Ban Nha. Năm 1535, tu hội đã lên tới
10 người. Họ gặp nhau ở Venitia, định cùng đáp tàu đi
hành hương thánh địa. Nhưng tình hình miền Đông Địa Trug
Hải không cho phép. Bù lại một số đi Roma, để Ignatiô
tại Venitia. Đức giáo hoàng Phaolô III ưu ái tiếp họ.
Trở lại Ventia, họ mang theo phép của Đức Giáo hoàng cho
Ignatiô và 6 anh em được thụ phong linh mục.
Một năm sau, thấy rằng: không thể tới thánh địa được,
Ignatiô kết luận rằng ý Chúa không muốn cuộc hành hương
này. Thay vào đó, Ngài đặt tu hội dưới danh hiệu "dòng
Chúa Giêsu" dưới quyền sử dụng của toà thánh. Họ đi Roma
và Ignatiô dâng thánh lễ đầu tiên ở đầu vào dịp lễ Giáng
sinh năm 1538 tại đền thờ Đức Bà cả, Ngài soạn thảo hiến
pháp của dòng mới và đến trình diện Đức giáo hoàng
Phaolô III. Đức giáo hoàng đã phát biểu khi gặp họ: -
Đây là bàn tay Thiên Chúa.
Và trong sắc lệnh Regimini Militantis Ecclesioe, ban
hành tháng 9 năm 1540 Ngài đã chính thức công nhận hội
dòng. Hội dòng thêm vào đó 3 lời khấn: nghèo khó, vâng
lời, trong sạch, lời khấn đặc biệt vâng phục Đức giáo
hoàng.
Trong hiến pháp đầu tiên, hội dòng giới hạn con số có
60 tu sĩ. Ignatiô được đồng thanh bầu làm bề trên ngày 7
tháng 4 năm 1541. Luật hạn định tu sĩ vào số 60 được rút
lại bởi sắc lệnh của Đức giáo hoàng ngày 15 tháng 3 năm
1543.
Ignatiô khó rời bỏ Roma cho đến cuối đời. Nhưng hội dòng
đã lan rộng tới mọi miền trên thế giới, dưới quyền hướng
dẫn của Ngài như một phép lạ, khi Ngài từ trần vào ngày
3 tháng 7 năm 1556, hội dòng đã có 12 tỉnh dòng với 101
nhà và gần 1000 phần tử.
Thánh Ignatiô được suy tôn hiển thánh ngày 12 tháng 3
năm 1622.
http://conggiao.info/thanh-ignatio-loyola-linh-muc-1491-1556-d-17496
Ngày 31 tháng 7
Thánh Ignatio Loyola, Linh mục
(1491-1556)
Ignatio nhà Loyola là một tu sĩ, nhà thần học lớn
của Giáo hội Công giáo Rôma. Ngài sáng lập nên Dòng
Tên và là bề trên tổng quyền đầu tiên của hội dòng
này. Ignatio xuất thân trong một gia đình quý tộc xứ
Basque của Tây Ban Nha, được thụ phong linh mục năm
1537. Ông nổi lên như là một nhà lãnh đạo kỳ cựu bảo
vệ Giáo Hội Công giáo trong thời kỳ có Phong trào
Chống cải cách, Ngài được Giáo hội Công giáo phong
thánh, với ngày lễ mừng kính là 31 tháng 7 hằng năm.
Ignatio sinh tại lâu đài nhà Loyola, xứ Basque (ngày
nay là Gipuzkoa, Tây Ban Nha). Tên của ngài khi chịu
phép Rửa tội Inigo (đặt theo Thánh Innicus, viện phụ
đan viện Oña), một cái tên theo tiếng Basque có
nghĩa là “chú bé”. Không rõ từ khi nào mà ngài bắt
đầu sử dụng tên Ignatio (Ignatius) thay cho tên
Inigo. Năm 13 tuổi, Inigo López được bà María de
Garin - vợ của một người thợ rèn địa phương bảo
dưỡng sau khi mẹ ruột của mình qua đời. Vì vậy,
Inigo đã được thêm phụ họ “de Loyola” nhằm chỉ đến
nguyên quán Loyola, nơi ngài được sinh ra.
Năm 1509, Inigo tòng quân cho Công tước thành Najera
và Tổng trấn thành Navarre nhằm muốn sau này được
thăng tiến thành một công tước. Dưới sự lãnh đạo của
Công tước này, Ignatio đã tham gia nhiều trận đánh
mà không bị thương tích gì. Nhưng vào ngày 20 tháng
5 năm 1521, quân đội Pháp tấn công pháo đài
Pamplona, Ignatio bị một viên đạn bắn vào chân. Thấy
Ignatio ngã gục, lập tức cả đơn vị trong thành đều
đầu hàng. Sau khi chiếm được thành, binh lính Pháp
vẫn đối xử tử tế với Ignatio và để ngài ở tại lâu
đài Pamplona khoảng mười lăm ngày. Sau đó, họ đặt
ông lên cáng và khiêng về đến tận nhà ở Loyola. Thời
đó, y học chưa có thuốc gây mê để phẫu thuật vết
thương, nhưng qua hai lần phẫu thuật xương chân mà
ông vẫn không hề thốt ra một tiếng nào, chỉ thấy ông
nắm chặt hai bàn tay vì đau đớn. Tình trạng sức khỏe
của ông ngày càng trầm trọng, Ignatio không thể ăn
uống được gì và có những biểu hiện sắp chết. Vài
ngày trước lễ thánh Gioan Baotixita (24 tháng 6),
người nhà đề nghị ông xưng tội. Đến trước ngày lễ
Thánh Phêrô và Phaolô (29 tháng 6), các y sĩ nói
rằng nếu trước nửa đêm mà Ignatio không khá hơn thì
coi như chắc chắn sẽ chết. Nửa đêm hôm ấy, ông cảm
thấy bớt đau, và ngày hôm sau thì vượt qua được tình
trạng nguy kịch.
Trong những ngày dưỡng bệnh, vì quá buồn chán,
Ignatio nói người thân đem đến mấy cuốn tiểu thuyết
kiếm hiệp để đọc cho đỡ buồn vì ông vốn là một chiến
binh nên rất mê thể loại này. Nhưng vì trong nhà
không có cuốn tiểu thuyết nào nên người ta mang cho
ông một cuốn sách tựa đề Cuộc đời Chúa Kitô và cuốn
Hạnh các thánh viết bằng tiếng Tây Ban Nha. Dần dần,
những quyển sách này đã thu hút ông. Và khi đọc về
cuộc đời của thánh Phanxicô thành Assisi, Thánh Đa
Minh và nhiều tu sĩ nổi tiếng khác, Ignatio quyết
tâm noi gương họ hiến mình để đi chinh phục Đất
Thánh cho Kitô giáo. Sau khi phục hồi, Ignatio đến
thăm tu viện Santa Maria de Montserrat của dòng Biển
Đức. Tại đây, ông treo bộ quân phục của mình trước
một bức hình Đức Mẹ Maria. Sau đó, ông đến thị trấn
Manresa, Catalonia và đã dành nhiều tháng sống trong
một hang động để thực hành khổ hạnh khắt khe. Tại
Manresa, Ignatio bắt đầu thay đổi lối sống và cảm
nghiệm sự thay đổi trong tâm hồn xen lẫn niềm vui và
nỗi khổ đau.
Năm 1523, ông làm một cuộc hành hương đến Đất Thánh
(tức Jerusalem). Ông có ý định ở lại đây để viếng
thăm các nơi thánh thiêng và đồng thời giúp đỡ các
linh hồn. Nhưng ý Chúa không muốn như thế.
Trở về Tây Ban Nha, vào năm 1524, Ignatio bắt đầu
học tiếng Latinh vì muốn trở thành linh mục. Sau đó,
ông tiếp tục sang Paris - là trung tâm văn hóa nổi
danh nhất châu Âu thời ấy để nghiên cứu thần học.
Năm 1534, ông đã tập hợp một số sinh viên Đại học:
Phanxicô Xaviê là Alfonso Salmeron, Laynez Diego,
Nicholas Bobadilla (đều là người Tây Ban Nha); Peter
Faber (người Pháp) và Simao Rodrigues (người Bồ Đào
Nha). Sáu người họ đã gặp mặt và đã tuyên thệ làm
việc gắn bó cùng nhau trong suốt đời của họ. Ignatio
thiết lập nhóm này làm nền tảng của Dòng Tên ngày
nay. Năm 1535, ông tốt nghiệp hai bằng: cử nhân
triết học và cao học thần học. Một năm sau, ông được
thụ phong linh mục và cử hành thánh lễ mở tay năm
1536.
Ignatio được chọn làm bề trên tổng quyền đầu tiên và
là tổ phụ sáng lập Dòng Tên. Ông đã gửi nhiều tu sĩ
anh em trong dòng đi truyền giáo khắp châu Âu, thiết
lập ra các trường học, cao đẳng, và các chủng viện.
Năm 1548, bản Linh Thao đã được in, mặc dù trước đó
bị đưa ra Toà án dị giáo Rôma, nhưng đã được phát
hành. Ignatio viết bản Hiến pháp Dòng Tên và được
thông qua vào năm 1540 tạo thành một hội dòng mới,
nhấn mạnh sự hy sinh và vâng lời giáo hoàng và bề
trên. Nguyên tắc chính của ông đã trở thành phương
châm chung của Dòng Tên: Ad majorem Dei gloriam (Để
Thiên Chúa được vinh hiển hơn). Các tu sĩ Dòng Tên
là nhân tố chính trong việc cải cách Công giáo.
Trong thời gian 1553-1555, thông qua thư ký của mình
là linh mục Goncalves da Camara, Ignatio cho ra đời
cuốn tự truyện cuộc đời mình, đây là một nguồn có
giá trị cho phương thức Linh Thao ngày nay. Ông qua
đời tại Roma vào ngày 31 tháng 7 năm 1556 vì trận
dịch sốt rét.
Ignatio được Giáo hoàng Phaolô V phong chân phước
ngày 27 tháng 7 năm 1609 và được Giáo hoàng Grêgôriô
XV phong thánh ngày 13 tháng 3 năm 1622. Ngày lễ
kính Thánh Ignatio là ngày 31 tháng 7 hằng năm, ngày
ông qua đời. Thánh Ignatio được tôn kính như vị
thánh quan thầy của các binh sĩ Công Giáo.
Chúng ta mừng lễ kính thánh Ignatio hôm nay và xin
Chúa cho mỗi người chúng ta được bắt noi gương bắt
chước ngài luôn sống và làm việc “Để Thiên Chúa được
vinh hiển hơn”.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Giáo Hội một chiến sĩ can
trường là thánh Ignatio, để làm cho danh Chúa thêm
vinh quang rạng rỡ. Nhờ gương sáng và ơn phù trợ của
thánh nhân, xin cho chúng con ở đời này biết hăng
say chiến đấu, để đời sau được cùng người lãnh phần
thưởng vinh quang Chúa hứa ban.” (Tài liệu từ
Internet)
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-31-07-thanh-ignatio-loyolalinh-muc-48149
THÁNH IGNATIO LOYOLA, Linh Mục Lập Dòng Tên.
Tâybanha-Roma (1491-1556)
Ignatio sinh năm 1491, là út của gia đình quí phái
gồm 11 con, người nước Tây ban Nha.
Lúc nhỏ, cậu rất tinh nghịch và ham chơi, được cha
mẹ gửi học trong triều đình với những con nhà sang
trọng để sau trở thành người danh vọng, có vợ đẹp
con khôn... Lớn lên, cậu nhập quân ngũ hoàng gia và
trở thành một chiến sĩ anh dũng.
1. Cái rủi thành cái may: Lúc
30 tuổi, Ignatio, vì mảnh đạn súng cối, bị thương
nặng, phải nằm dài trong lâu đài Loyola để chữa chân
bị gẫy. Trong thời gian này, Ignatio muốn đọc sánh
những hiệp sĩ hào hùng, nhưng không có sẵn, người ta
trao cho ông cuốn "Cuộc đời Chúa Cứu Thế" và cuốn
"Hạnh Các Thánh". Vì không có sách nào khác nên ông
phải đọc đi đọc lại, và cảm kích, suy tư về cuộc đời
đã qua. Ông tự hỏi: "Những người này cũng giống như
tôi, tại sao thánh Phanxicô, thánh Đaminh làm được
mà tôi không làm được những việc họ đã làm?" Ông bắt
đầu suy nghĩ về danh giá cuộc đời, và những việc làm
của các thánh.
"Ít lâu sau ông dành mấy ngày để cầu nguyện trong
một tu viện dòng Bênêdictô, nơi đó ông treo gươm
trước toà Đức Mẹ, và bắt đầu thời kỳ tu luyện. Chính
thời gian tu luyện này, đã giúp cho ngài nhiều tư
tưởng để sau này viết tác phẩm "Linh Thao", nêu lên
những nguyên tắc căn bản cho đời sống thánh đức.
Dù đã 33 tuổi đời, ông vẫn ép mình trở lại
trường học tiếng Latinh với các trò nhỏ, mặc chúng
chế nhạo ông. Trong thời gian này, ông hướng dẫn cho
người ta cách cầu nguyện, vì thế người ta nghi ngờ
ông lập bè rối và bắt ông vào tù, nhưng ông không
sợ, ông nói: "Tôi sẵn sàng bị xiềng xích vì Chúa
Kitô".
- Năm 1534, khi được 43 tuổi, Ignatio tốt nghiệp tại
đại học Paris, nước Pháp.
2. Lập Dòng, phát triển mạnh:
Cũng năm 1534, Ignatio qui tụ được 6 cộng tác viên,
một người trong nhóm là Phanxicô Xavie, sau tới
truyền giáo tại India (Ấn độ). Cả 7 người đã tuyên
khấn sống theo tinh thần Phúc Âm : Khó nghèo, trong
sạch, tuân phục tại đền thánh Deni. Đây là
khởi điểm của Dòng Tên. Cộng đoàn này hứa đi những
nơi, làm những việc Đức thánh cha đại diện Chúa Kitô
muốn, đó là lời khấn thứ 4 của nhóm . Ignatiô gọi tổ
chức này là Hội Chúa Giêsu, tiếng Việt theo thói
"kính bất xưng danh", quen gọi là dòng Tên.
- 48 tuổi, Năm 1539, Ignatio và các bạn được phong
chức linh mục.
- Năm 1540 Đức Thánh Cha Phaolô 3 chuẩn nhận Tu Hội
của Ignatiô. Các linh mục dòng này không mặc áo dòng
riêng biệt. Họ có những giờ cầu nguyện vắn. Họ được
huấn luyện làm việc nơi nào người ta muốn, nhưng
việc chính của họ là dạy học. Họ trở thành những nhà
truyền giáo, đánh phá những lạc thuyết khắp Âu châu.
Châm ngôn của dòng là:"Tất cả cho vinh danh Chúa
hơn".
Ignatio thường cầu xin, "Xin ban cho con tình yêu và
ơn thánh Chúa, thế là con giầu rồi, con không xin gì
nữa".(Give me only your love and your grace. With
this I am rich enough, and I have no more to ask."
Ignatiô qua đời tại Roma, ngày 31 tháng 7 năm 1556,
thọ 63 tuổi.
106 năm sau, Đức Gregorio 15 đã phong thánh cho
Ignatio năm 1662.
-----
Khi Ignatiô qua đời, đã có hơn 1000 tu sĩ tại Bắc
Nam Mỹ, Âu châu, Tàu, Nhật, họ dạy học và giảng đạo
rất hay.
- 217 năm sau khi Ignatio qua đời, Ngày 21.7.1773,
trước sức ép nặng nề của các chính quyền ác cảm với
Dòng Tên, ĐGH Clementê XIV ra đoản sắc "Dominus ac
Redemptor" giải tán Dòng Tên trên toàn thế giới, làm
cho 23.000 tu sĩ Dòng Tên tan tác.
- Đại học Georgetown là đại học Công giáo lâu đời
nhất của nước Mỹ, được các linh mục dòng Tên thành
lập năm 1789.
- Sau 41 năm bị giải tán, Ngày 7 tháng 8 năm 1814,
ĐGH Piô VII ra trọng sắc "Sollicitudo omnium
Ecclesiarum" tái lập Dòng Tên trong Giáo hội.
http://www.memaria.org/default.aspx?LangID=0&tabId=392&ArticleID=28490
Thứ Sáu sau
Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Lv
23, 1. 4-11. 15-16. 27. 34b-37
"Các ngươi phải kể những ngày
của Chúa là những ngày rất trọng thể và là ngày thánh".
Trích sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ðây là
những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải mừng lễ trong thời gian của nó.
Chiều ngày mười bốn tháng Giêng là Lễ Vượt Qua của Chúa; và ngày mười
lăm tháng Giêng, là lễ trọng không men của Chúa: Các ngươi sẽ ăn bánh
không men trong bảy ngày. Ngày thứ nhất, các ngươi phải kể là ngày rất
trọng thể, và là ngày thánh, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong
ngày ấy". Trong bảy ngày, các người phải thiêu hy lễ dâng lên Chúa. Ngày
thứ bảy là ngày trọng thể và là ngày thánh hơn, các ngươi không làm việc
xác nào trong ngày ấy".
Chúa lại phán cùng Môsê rằng:
"Ngươi hãy nói cùng con cái Israel và bảo họ rằng: Khi các ngươi đã tiến
vào đất Ta sẽ ban cho các ngươi, và khi các ngươi gặt lúa, thì phải mang
bó lúa đầu mùa đến cho tư tế, người sẽ giơ bó lúa lên trước mặt Chúa để
hôm sau ngày sabbat, người xin Chúa chấp nhận cho các ngươi, và thánh
hoá nó. Vậy các ngươi hãy tính từ hôm sau ngày sabbat, là ngày các ngươi
đã dâng bó lúa đầu mùa, các ngươi tính đủ bảy tuần, cho đến ngày hôm sau
cuối tuần thứ bảy, tức là năm mươi ngày, thì các ngươi phải dâng của lễ
mới cho Chúa. Ngày mùng mười tháng Bảy, là ngày đền tội rất trọng thể,
gọi là ngày thánh: trong ngày đó, các ngươi phải hãm dẹp tâm hồn, và
dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa. Từ ngày mười lăm tháng Bảy sẽ mừng lễ
Nhà Xếp kính Chúa trong bảy ngày. Ngày thứ nhất sẽ gọi là ngày rất trọng
thể và rất thánh, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy. Và
trong bảy ngày, các ngươi phải dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, ngày thứ
tám cũng rất trọng thể và rất thánh, các ngươi phải dâng của lễ toàn
thiêu cho Chúa, vì là ngày cộng đoàn tập họp, các ngươi không nên làm
mọi việc xác trong ngày ấy.
"Ðó là những ngày lễ của Chúa mà
các ngươi phải kể là những ngày rất trọng thể và rất thánh, trong những
ngày ấy, các ngươi phải dâng lên Chúa lễ vật, của lễ toàn thiêu và lễ
quán theo nghi lễ của mỗi ngày".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 80,
3-4. 5-6ab. 10-11ab
Ðáp: Hãy reo
mừng Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta (c. 2a).
Xướng: 1) Hãy hoà nhạc và đánh
trống râm ran; dạo đàn cầm êm ái cùng với thất huyền. Hãy rúc tù và lên
mừng ngày trăng mới, trong buổi trăng rằm, ngày đại lễ của chúng ta. -
Ðáp.
2) Vì đó là điều đã thiết lập cho
Israel; đó là huấn lệnh của Thiên Chúa nhà Giacóp. Người đã đặt ra luật
này cho nhà Giuse, khi họ cất gót lên đường lìa xa Ai-cập. - Ðáp.
3) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể
nào khác; ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa,
là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài Ai-cập. - Ðáp.
Alleluia: Tv
24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa,
xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý
của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13,
54-58
"Nào ông chẳng phải là con bác
thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán
Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên
và nói rằng: "Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ
như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng
phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em
ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao?
Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?" Và họ vấp phạm đến Người.
Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ
rằng: "Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà
mình". Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin.
Ðó là lời Chúa.

Loại đồng hương hạt giống bụi gai
Bài
Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XVII Thường Niên, được
Thánh ký Mathêu thuật lại về sự kiện: "Chúa
Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường,
khiến người ta ngạc nhiên".
Thế
nhưng, cái ngạc nhiên của họ mang tích cách tiêu cực (ngờ vực) hơn
là tính
cách tích
cực (nhận
biết), bởi thế, họ đã tỏ ra hết sức thắc mắc với đầy những nghi vấn như
sau:
"'Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy?
Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà
Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và
chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu
ông được những sự ấy?' Và họ vấp phạm đến Người".
Thái độ
tiêu cực gần
như tẩy chay Chúa Giêsu của
dân làng Người cũng là chuyện dễ hiểu theo tâm lý tự nhiên, vì họ đã
từng biết Người từ hồi còn nhỏ, một con người ra sao trong làng, có cha
mẹ và thân thuộc như thế nào. Bởi thế, "Chúa
Giêsu phán cùng họ rằng: 'Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ
nơi quê quán và nhà mình'".
Nếu
căn cứ vào 1 trong 4 loại môi trường ở dụ ngôn "người gieo giống
ra đi gieo giống" nơi Bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước (xem Mathêu
13:18-23), thì dân làng của Người không thuộc
loại "hạt rơi trên
vệ đường", vì họ cũng hào hứng nghe Người chứ không đến nỗi hững hờ
chẳng để ý hay thiết tha gì; họ cũng không phải là "hạt rơi trên đá
sỏi" vì
họ đâu có
chấp nhận Người
nên không đâm rễ tí nào hết, mà là "hạt rơi vào bụi gai" đã bị
chết nghẹt gây ra bởi các lo âu ngờ vực của họ. Do đó bài Phúc Âm mới
kết luận: "Người
không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin".
Thật
ra, theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan thì "là ánh sáng thế
gian" (8:12) mà đã là ánh sáng thì không thể không soi chiếu mà còn
là ánh sáng, Chúa
Kitô cần
phải tự động tỏ
mình ra để
nhờ đó người ta mới có thể nhận biết người và tin
tưởng Người,
hơn là cứ phải có đức tin mới làm phép lạ, mới tỏ mình ra sau.
Tuy nhiên, trong trường hợp
dân làng của Người trong bài Phúc Âm hôm nay đã được Người tỏ mình ra
cho họ rồi, đến nỗi đã khiến họ phải bàng hoàng ngỡ ngàng: "Bởi
đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy?", thế
mà họ vẫn không tin. Chính thành kiến tự nhiên về Người đã
là một trở ngại khổng lồ chắn lối đức tin của
dân làng Người.
Bài Đọc
1 cho năm
lẻ hôm
nay được trích từ Sách Lêvi, bởi vì nội dung của bài đọc liên quan đến
các ngày lễ trong năm được coi là ngày thánh mà
Dân Do Thái cần phải cẩn
thận cử
hành theo qui định
của Thiên Chúa, đặc biệt và chính yếu nhất là Lễ Vượt Qua, "ngày
mười bốn tháng Giêng", sau đó,
theo thời gian trong năm, đến Ngày Lễ Ngũ Tuần:
"từ
hôm sau ngày sabbat,... các ngươi tính đủ bảy tuần, cho đến ngày hôm sau
cuối tuần thứ bảy, tức là năm mươi ngày", tới
Lễ Đền Tội "ngày
mùng mười tháng Bảy", và
sau cùng là Lễ Lều Tạm (Nhà Xếp) "ngày
mười lăm tháng Bảy": "Đó là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi
phải kể là những ngày rất trọng thể và rất thánh, trong những ngày ấy,
các ngươi phải dâng lên Chúa lễ vật, của lễ toàn thiêu và lễ quán theo
nghi lễ của mỗi ngày".
Bài Đọc
1 về các ngày lễ của dân Do Thái và
Bài Phúc Âm về
sự kiện dân làng của Chúa Kitô không tin tưởng vào Người có liên hệ gì
tới nhau hay chăng? Nếu không - tại sao? Nếu có - ở chỗ nào?
Nếu tất cả mọi ngày lễ của
Dân Do Thái là để họ tưởng nhớ đến Thiên Chúa, Đấng đã tuyển chọn họ và
hằng tỏ mình ra cho họ vào những thời điểm đặc biệt trong giòng lịch sử
cứu độ của họ, cho tới "thời điểm viên trọn, Thiên Chúa sai Con Ngài
sinh hạ bởi một người nữ, sinh ra theo lề luật"
(Galata 4:4), nghĩa
là tất cả lịch sử cứu độ đều
hướng về Chúa Kitô và về
"thời điểm
viên
trọn" của
Người, thì
dân của Ngài cần phải tin vào Con Ngài mới được cứu độ, thế nhưng họ đã
không tin, hay đúng hơn chưa tin Người được, chỉ vì Con của Ngài, của
một Vị Thiên Chúa vô cùng cao cả và toàn hảo, lại được "sinh hạ bởi
một
người nữ" ngay trong làng của họ.
Tuy nhiên, không phải bị
dân làng tẩy chay bất chấp mà Chúa Kitô không phải là Con Thiên Chúa
nữa, không còn là Đấng Thiên Sai nữa, Đấng duy nhất có thể cứu họ cùng
toàn thể nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết, Đấng một khi được nhận biết
thì Người chính là một tin mừng cần phải được đón nhận, và là một đại lễ
cần phải hân hoan long trọng cử hành của mình thì dân Do Thái sẽ
không thể nào không cảm
thấy hớn hở như trong Bài Đáp
Ca hôm nay:
1) Hãy
hoà nhạc và đánh trống râm ran; dạo đàn cầm êm ái cùng với thất huyền.
Hãy rúc tù và lên mừng ngày trăng mới, trong buổi trăng rằm, ngày đại lễ
của chúng ta.
2) Vì đó là điều đã thiết lập cho Israel; đó là huấn lệnh của Thiên Chúa
nhà Giacóp. Người đã đặt ra luật này cho nhà Giuse, khi họ cất gót lên
đường lìa xa Ai-cập.
3) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác; ngươi cũng đừng thờ tự
một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa
ngươi ra ngoài Ai-cập.
Ngày 1 tháng 8
Thánh An-phong Ma-ri-a Li-gô-ri, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Thánh nhân sinh năm 1696 tại Na-pô-li. Người từ bỏ nghề luật sư để
làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan báo tình
yêu của Chúa Ki-tô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải
tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập dòng Chúa Cứu Thế
nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (năm 1732).
Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng
liêng. Người qua đời năm 1787.

Tất cả sự trọn lành thánh thiện của linh hồn hệ tại lòng yêu mến
Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa chúng ta, là sự thiện tuyệt đối
và là Đấng cứu chuộc chúng ta. Đức ái liên kết và bảo toàn tất
cả mọi nhân đức làm cho con người nên trọn lành.
Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không đáng cho chúng ta hết lòng yêu mến
sao ? Từ muôn thuở Người đã yêu thương chúng ta. Người như muốn
nói với chúng ta : “Hỡi con người, hãy suy xét : chính Ta đã yêu
con trước. Lúc con chưa mở mắt chào đời, và cả khi đất trời chưa
có, Ta đã yêu con rồi. Ta hiện hữu là Ta yêu con.”
Thiên Chúa thừa biết là ân huệ thu hút con người, nên Thiên Chúa
đã muốn ban nhiều đặc ân để thúc bách họ yêu mến Người : “Con
người dễ sa vào lưới nào, thì Ta muốn dùng lưới ấy mà chinh phục
họ : lưới dò tình yêu.” Mọi tặng ân Thiên Chúa ban cho con người
đều nhằm mục đích đó. Thiên Chúa ban cho họ linh hồn có trí nhớ,
trí hiểu và lòng muốn để nên hình ảnh của Người, ban cho họ thân
xác có giác quan. Thiên Chúa cũng đã tạo dựng trời đất với bao
nhiêu sự vật. Người đã làm nên tất cả vì yêu thương con người,
để mọi thụ tạo đó phục vụ con người, còn con người thì yêu mến
Thiên Chúa vì bao nhiêu ân huệ Chúa ban.
Không những Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta các thụ tạo tốt đẹp
kia, mà Người còn đi xa hơn nữa : để lôi kéo chúng ta yêu mến
Người, Người đã ban trót cả mình Người cho chúng ta. Chúa Cha
hằng hữu đã yêu thương chúng ta đến nỗi tặng ban chính Con Một
Người. Khi thấy tất cả chúng ta phải chết và bị mất hết ân sủng
vì tội lỗi, thì Người làm gì ? Người đã thương chúng ta vô cùng,
hay đúng hơn nữa, theo kiểu nói của thánh Phao-lô, Người đã
thương chúng ta quá đỗi, nên đã sai Con yêu dấu đến đền tội cho
chúng ta, phục hồi cho chúng ta sự sống đã mất đi vì tội lỗi.
Người đã ban Con của Người cho chúng ta. Để tha tội cho chúng
ta, Người đã không tha chết cho Con của Người. Đồng thời, Người
cũng rộng ban mọi sự tốt lành, như : ân sủng, tình yêu và thiên
đàng. Bởi chưng, tất cả những ân huệ đó chắc chắn đều không quý
bằng chính Con của Người. Thánh Phao-lô viết : Đến
như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp
vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban người Con đó, lẽ nào Thiên
Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta ?
Lạy Chúa, Chúa không ngừng ban cho Giáo Hội những khuôn mẫu luôn
luôn mới của đời sống Ki-tô hữu. Xin cho chúng con hằng noi
gương thánh giám mục An-phong mà nhiệt thành cộng tác với Chúa
trong công trình cứu độ, để mai sau được Chúa ân thưởng cùng với
thánh nhân. Chúng con cầu xin
ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Alphonsus
of Ligouri
Lễ thánh Anphongsô Maria Liguori
Thứ Bảy sau
Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Lv
25, 1. 8-17
"Trong năm toàn xá, người ta
làm chủ lại cơ nghiệp mình".
Trích sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê trên núi Sinai
rằng: "Ngươi cũng phải tính bảy tuần năm, tức là bảy lần bảy, cộng chung
là bốn mươi chín năm: Ngày mồng mười tháng bảy, ngươi hãy thổi kèn trong
thời gian đền tội trong toàn lãnh thổ ngươi. Ngươi hãy làm cho năm thứ
năm mươi nên năm thánh và hãy kể là năm tha tội cho mọi người cư ngụ
trong nước ngươi, vì đó là năm toàn xá. Người ta sẽ làm chủ lại cơ
nghiệp mình, và ai nấy đều được trở về gia đình cũ của mình, vì năm toàn
xá là năm thứ năm mươi. Các ngươi đừng cày cấy, đừng gặt hái hoa màu tự
nhiên phát sinh trong đồng ruộng, và đừng hái nho đầu mùa, vì phải kể
năm toàn xá là năm thánh, và các ngươi được ăn hoa màu tự nhiên phát
sinh.
"Trong năm toàn xá, mọi người nhận
lại cơ nghiệp của mình. Khi ngươi mua bán vật gì với người đồng hương,
ngươi chớ làm phiền lòng người anh em, nhưng hãy mua theo số năm toàn
xá, và nó sẽ bán cho ngươi theo số hoa lợi của nó. Số các năm sau năm
toàn xá càng nhiều thì giá càng cao, và số năm càng ít, thì giá mua càng
hạ, vì nó tính mùa hoa lợi mà bán cho ngươi. Các ngươi chớ hà hiếp những
người cùng một chi tộc với các ngươi: nhưng mỗi người hãy kính sợ Thiên
Chúa mình, vì Ta là Thiên Chúa các ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 66,
2-3. 5. 7-8
Ðáp: Chư dân
hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c.
4).
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót
thương và ban phúc lành cho chúng con; xin tỏ ra cho chúng con thấy long
nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu thiên hạ nhìn biết đường lối của
Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
2) Các dân tộc hãy mừng vui và
khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước
địa cầu. - Ðáp.
3) Ðất đã cho chúng tôi hoa trái.
Ðức Thiên Chúa, Chúa chúng tôi, đã chúc phúc lành cho chúng tôi. Xin
Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, để cho khắp cùng bờ cõi trái
đất kính sợ Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv
94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm
nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 14,
1-12
"Hêrôđê sai người đi chặt đầu
Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy quận vương Hêrôđê nghe danh
tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: "Người này là Gioan
Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới làm được các phép lạ như
vậy". Tại vì Hêrôđia vợ của anh mình mà vua Hêrôđê đã bắt trói Gioan
tống ngục, bởi Gioan đã nói với vua rằng: "Nhà vua không được lấy bà ấy
làm vợ". Vua muốn giết Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi Gioan
như một tiên tri. Nhân ngày sinh nhật của Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy
múa trước mặt mọi người, và đã làm cho Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề
hứa sẽ ban cho nó bất cứ điều gì nó xin. Ðược mẹ nó dặn trước, nên nó
nói: "Xin vua đặt đầu Gioan Tẩy Giả trên đĩa này cho con". Vua lo buồn,
nhưng vì đã trót thề rồi, và vì các người đang dự tiệc, nên đã truyền
làm như vậy. Ông sai người đi chặt đầu Gioan trong ngục, và để đầu Gioan
trên đĩa đem trao cho cô gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan
đến lấy xác thầy và chôn cất, rồi đi báo tin cho Chúa Giêsu.
Ðó là lời Chúa.

Hêrôđê - Một con cáo già, vừa đánh trống
vừa ăn cướp
Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XVII Thường Niên,
Thánh Ký Mathêu ghi lại một sự kiện đó là "Thời
ấy, tiểu vương Hêrôđê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ
hầu cận rằng: 'Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi
dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ".
Sau đó
vị thánh ký đã thuật lại lý do tại sao đã thúc đẩy vị
tiểu vương này đã ra tay sát hại nhân vật mà ông cho là đã sống lại từ
cõi chết và đang sống động nơi
Chúa Giêsu Kitô:
"Số là vua Hêrôđê đã bắt trói ông Gioan và tống ngục vì bà
Hêrôđia, vợ ông Philípphê, anh của nhà vua. Ông Gioan có nói với vua: 'Ngài
không được phép lấy bà ấy'. Vua muốn giết ông Gioan, nhưng lại sợ dân chúng,
vì họ coi ông là ngôn sứ. Vậy, nhân ngày sinh nhật của vua Hêrôđê, con gái
bà Hêrôđia đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua
vui thích. Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. Nghe lời mẹ
xui bảo, cô thưa rằng: 'Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông
Gioan Tẩy Giả đặt trên mâm'. Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại
thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. Vua sai người vào ngục
chặt đầu ông Gioan. Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và
cô ta đem đến cho mẹ. Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi
báo cho Đức Giêsu".
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao vị quận vương này cho
rằng nhân vật Gioan Tẩy Giả có
thể tự mình sống lại cho dù đã bị ông ta sát hại, và tại sao ông ta lại
ghép việc sống lại của vì Tẩy Giả này vào trường hợp của Chúa Giêsu, bởi
nghe thấy Người "có
quyền năng làm phép lạ"? Ông
ta có ý nghĩ Gioan Tẩy Giả có thể sống lại trước khi ông ta ra lệnh
lấy đầu của ngài,
hay sau khi nghe thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ mới có ý nghĩ Gioan sống
lại như vậy?
Phải
chăng vị quận vương này có ý muốn nói rằng chính nhờ ông ta hành quyết
Gioan Tẩy Giả mà Chúa Giêsu mới có quyền năng làm phép lạ như thế, bằng
không Người không thể nào có thể làm phép lạ như vậy? Qua câu nói này
của ông ta, cũng có thể là ông ta đã bị ám ảnh về cái chết của nhân vật
Gioan Tẩy Giả là nhân vật ông rất kính nể nhưng đã ra lệnh hành quyết
bởi lỡ miệng hứa với đứa con gái của người vợ bất chính và muốn giữ thể
diện của mình trước mặt bá quan văn võ trong triều đình
của ông
bấy giờ?
Có nghĩa là ông ta đang
tìm cách vừa đánh trống vừa ăn cướp, ở chỗ muốn
xoa dịu lương tâm bị áy náy của
mình là người đã lỡ sát hại một kẻ công chính, bằng
cách
gán ghép quyền năng làm phép lạ của
Chúa Giêsu cho nạn nhân của
mình là kẻ đã bị mình hành quyết, nhờ đó mình chẳng những vô tội mà còn
nổi tiếng nữa qua các phép lạ Chúa Giêsu làm. Nếu vậy thì vị quận vương
này đúng là một thứ cáo già, gian manh không thể nào tượng tưởng nổi!
Không biết có phải vì thế
mà ít lâu sau, khi gặp lại ông ta trong thân phận của một
tử tội được Tổng Trấn Philatô chuyển đến cho thẩm
quyền của ông ta,
Chúa Giêsu đã không hề lên tiếng nói gì với ông ta (xem Luca 23:9). Chắc
chắn thái độ im lặng của Chúa Giêsu không phải là thái độ coi thường
thẩm quyền của ông ta hay khinh bỉ con người tồi bại của ông ta, cho
bằng Người muốn tỏ ra thái độ nhẫn nhục nhân ái với con người đầy gian ác
hết
sức đáng
thương ấy,
một con người chỉ biết có quyền lực và nhục dục, và chỉ mong gặp Chúa Giêsu để xem
Người làm phép
lạ (xem Luca 23:8) mà không được toại nguyện, vì Chúa Giêsu đến thế gian
này không phải như một cứu tinh xuất chúng về quyền lực nhưng là để giải
thoát con người, điển hình là vị quận vương Hêrôđê này, khỏi
tội lỗi và sự chết.
Bài Đọc
1 cho năm lẻ hôm nay liên quan đến năm toàn xá là thời điểm 50 năm một
lần trong dân Do Thái, một "năm thánh", bao gồm, trước hết là việc
nghỉ ngơi cho chính con người cũng như cho thiên nhiên vạn vật:
"Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo
trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với (các) ngươi,
đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở
hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình. Đối với các
ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được
gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho
không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các
ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng".
Sau nữa, "năm
thánh" không phải chỉ liên
quan đến việc nghỉ ngơi của con người và thiên nhiên tạo vật, mà còn
liên quan nhất là với tha nhân nữa, qua các việc bác ái yêu thương
không gây thiệt hại cho người khác, như sau:
"Năm toàn xá đó, mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của
mình. Nếu các ngươi bán cái gì cho người đồng bào hoặc mua cái gì từ
tay người đồng bào, thì đừng ai làm thiệt hại người anh em
mình. Ngươi sẽ mua của người đồng bào theo số năm sau năm toàn xá,
và nó sẽ bán cho ngươi theo số năm thu hoạch. Còn nhiều năm thì
ngươi mua giá cao, còn ít năm thì ngươi mua giá thấp, vì nó bán cho
ngươi một số năm thu hoạch. Không ai trong các ngươi được làm thiệt
hại người đồng bào, nhưng (các) ngươi phải kính sợ Thiên Chúa của
(các) ngươi, vì Ta là Chúa,
Thiên Chúa của (các) ngươi. Thiên Chúa bảo đảm về năm sabát".
Mối
liên
hệ giữa Bài Phúc Âm về ý nghĩ của quận vương Hêrôđê về quyền năng
của Chúa Giêsu và Bài Đọc 1 hôm nay về năm thánh 50 năm một lần của
dân Do Thái liên
quan đến bác ái yêu thương, là ở chỗ
Chúa
Giêsu là hiện thân sống động của Lòng Thương Xót Chúa, và vì thế sứ
vụ của Người đó là công bố Năm Thánh cũng là năm hồng ân của Thiên
Chúa (xem Isaia 61:2; Luca 4:19) cho cả nhân loại, không trừ một ai,
"nhất là những linh hồn cần đến LTXC hơn" như quận vương
Hêrôđê, cùng tất cả mọi tạo
vật (xem Marco 16:15; Roma 8:21).
Bởi
thế, trước tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng chẳng những dựng nên
tất cả mọi sự, mà còn quan phòng chăm sóc cho những gì Ngài dựng
nên, để làm cho chúng được nên thánh hảo theo ý muốn của Ngài, mà
con người cần phải có tâm tình như các câu Đáp ca hôm nay:
1- Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin
toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết
đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài.
2- Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo
lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh
đạo muôn dân trên mặt đất này.
3- Đất đã sinh ra mùa màng hoa trái: Chúa Trời, Chúa chúng ta, đã
ban phúc lộc. Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi
đất kính sợ Người!