SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Chúa Nhật 23 Quanh Năm Năm C
Bài Ðọc I: Kn 9, 13-18
"Ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn".
Trích sách Khôn Ngoan.
Ai trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa? Hay ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn? Vì những ý tưởng của loài hay chết thì mập mờ, và những dự định của chúng tôi đều không chắc chắn. Vì xác hay hư nát làm cho linh hồn ra nặng nề, và nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề.
Chúng tôi ước lượng cách khó khăn các việc dưới đất, và khó nhọc tìm thấy những sự trước mắt. Còn những sự trên trời, nào ai khám phá ra được? Ai hiểu thấu Thánh ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống. Như thế, mọi đường lối những kẻ ở dưới đất được sửa lại ngay thẳng, và loài người học biết những sự đẹp lòng Chúa.
Vì, lạy Chúa, những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 89, 3-4. 5-6. 12-13. 14 và 17
Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).
Xướng: 1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến cho con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.
2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.
3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Plm 9b-10. 12-17
"Con hãy tiếp nhận nó không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh em rất thân mến".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gởi cho Philêmon.
Con thân mến, Phaolô già nua, và hiện đang bị cầm tù vì Ðức Giêsu Kitô, cha nài xin con cho Ônêsimô, đứa con cha đã sinh ra trong xiềng xích.
Cha trao nó lại cho con. Phần con, con hãy đón nhận nó như ruột thịt của cha. Cha cũng muốn giữ nó lại để thay con mà giúp đỡ cha trong lúc cha bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng vì chưa biết ý con, nên cha không muốn làm gì, để việc nghĩa con làm là một việc tự ý, chớ không vì ép buộc. Vì biết đâu nó xa con một thời gian để rồi con sẽ tiếp nhận muôn đời, không phải như một người nô lệ, nhưng thay vì nô lệ, thì như một người anh em rất thân mến, đặc biệt đối với cha, huống chi là đối với con, về phần xác cũng như trong Chúa. Vậy nếu con nhận cha là bạn hữu, thì xin con hãy đón nhận nó như chính mình cha vậy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 14, 25-33
"Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.
"Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế giễu người đó rằng: 'Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi'.
"Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Nếu Phụng Vụ Lời Chúa được Giáo Hội chọn đọc, bao gồm cả bài
Phúc Âm là chính, và 2 Bài Đọc 1 và 2 đều phải hợp với bài Phúc
Âm, thì đâu là mối liên kết chặt chẽ về ý nghĩa của cả 3 bài đọc
cho Chúa Nhật Thường Niên 23 Năm C hôm nay?
Ý tưởng chính của bài Phúc Âm được Thánh ký Luca thuật lại lời
Chúa Giêsu “ngoảnh mặt
lại” mà nói với “nhiều
đám đông cùng đi với”
Người rằng "Nếu
ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng
sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập
giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Nội dung thật sự của Bài Đọc 1, được trích từ Sách Khôn Ngoan,
đó là niềm
xác tin: “những
ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn
ngoan”,
nhờ
“biết
được ý định của Thiên Chúa”, “suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn”.
Trong khi đó, Bài Đọc 2 lại chất chứa những lời khuyên khôn khéo
theo thư Thánh Phaolô gửi cho Philêmon, những lời vị tông đồ dân
ngoại này khuyên người môn đệ ấy hãy tự nguyện nhận lại tên nô
lệ của mình là Ônêsimô như nhận lấy chính mình ngài.
Căn cứ vào những ý tưởng chính của từng bài đọc của Phụng Vụ Lời
Chúa cho Chúa Nhật 23 Thường Niên Năm C hôm nay, có thể nói như
thế này:
1-
Những ai muốn theo Chúa và theo Chúa thật thì phải làm theo ý
Chúa muốn, theo lời Chúa dạy, dù ý Chúa và lời Chúa có trái với
ý nghĩ, ý thích và ý muốn tự nhiên hợp tình hợp lý của mình,
chẳng hạn như yêu thương và gắn bó với thân nhân của mình, hay
đối xử công bằng với người khác theo quyền hạn của mình, như
Philêmon với tên nô lệ Ônêsimô.
2-
Tất cả những gì là ý Chúa và lời Chúa đều thuộc
về thượng giới, về lãnh vực siêu nhiên, có tính chất thần linh,
hoàn toàn
vượt trên những gì là tự nhiên của loài người, dù bản chất của
tự nhiên là tốt, và ngược lại với những gì là đam mê nhục dục
cùng tính mê nết xấu của họ, là những gì xấu xa dẫn đến tội lỗi,
ngược lại và phản lại với ý Chúa và lời Chúa, nên ý Chúa và lời
Chúa đã trở thành thập giá bất khả thiếu và bất khả tránh họ cần
phải vác, trong việc muốn theo Chúa và “có thể” theo Chúa, mà
nếu họ không chịu vác, không chấp nhận “thì
không thể làm môn đệ Ta”.
3-
Những ai muốn theo Chúa mà không dám bỏ mình và vác thập giá là
những con người không biết tính toán, như 2 trường hợp được Chúa
Giêsu nêu lên trong Bài Phúc Âm hôm nay, liên quan đến việc xây
cất và việc chiến đấu, vì việc vác thập giá theo Chúa không phải
là những gì phá đổ hay thua bại, mà là đường lối nhờ đó tâm hồn
theo Chúa xây nhà bản thân của mình trên nền đá đức tin vững
chắc, và giúp cho cuộc đời của mình chiến thắng được tất cả
những gì là cám dỗ và trở ngại thử thách trong sứ vụ chứng nhân.
4-
Trái lại, theo Chúa mà gặp phải gian nan khốn khó thử thách như
thập giá bất khả thiếu mà buông bỏ hay tránh né, như trường hợp
Philêmôn không dám chấp nhận tên nô lệ bỏ trốn của mình là
Ônêsimô, như Thánh Phaolô khuyên can theo tinh thần Chúa Kitô,
thì người môn đệ mang tên Philêmôn này ở trong tâm trạng được
Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay cho biết: “Vì
những ý tưởng của loài hay chết thì mập mờ, và những dự định của
chúng tôi đều không chắc chắn. Vì xác hay hư nát làm cho linh
hồn ra nặng nề, và nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều
điều ra nặng nề”.
5-
Nếu Philêmôn ngheo theo lời Thánh Phaolô chấp nhận tên nô lệ
Ônêsimô đáng phạt của mình, thì đã hành động một cách khôn
ngoan, nhờ ơn Chúa, đúng như Bài Đọc 1 đã thâm tín và khẳng
định: “Chúng tôi ước
lượng cách khó khăn các việc dưới đất, và khó nhọc tìm thấy
những sự trước mắt. Còn những sự trên trời, nào ai khám phá ra
được? Ai hiểu thấu Thánh ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn
ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống. Như thế,
mọi đường lối những kẻ ở dưới đất được sửa lại ngay thẳng, và
loài người học biết những sự đẹp lòng Chúa”.
6-
Và đó là lý do, lý do loài người tự mình không thể khôn ngoan
trong việc chọn lựa những gì hợp với ý Chúa và lời Chúa, và do
đó cũng không thể có khả năng đáng ứng ý Chúa và lời Chúa vô
cùng khôn ngoan và toàn thiện, mà con người mới cần phải ấp ủ
một tâm nguyện bất khả thiếu, chẳng những của câu họa “Thân
lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua
đời kia”, mà còn cả 4 câu xướng của Bài Đáp Ca tràn đầy ý
nghĩa Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay: “Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ
chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia
1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã
khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến cho con người
trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".
2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như
cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều
nó bị xén đi và nó héo khô.
3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được
lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao
giờ? xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.
4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng
con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con
được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay
chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp
tay chúng con làm ra.
ĐTC Phanxicô Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm C ngày 8/9/2013 về Chiến Tranh và Hòa Bình
"Theo Chúa Giêsu không có nghĩa là tham phần vào một cuộc phô diễn khải hoàn. Nó có nghĩa là tham dự vào tình yêu nhân hậu của Người, trở nên một thành tố cho đại sứ vụ tình thương của Người đối với từng người và hết mọi người... Mà việc thứ tha phổ quát này, tình thương này, xuất phát từ thập giá. Chúa Giêsu không muốn thực hiện sứ vụ này một mình: Người muốn bao gồm cả chúng ta nữa, trong sứ vụ mà Cha đã ủy thác cho Người... Người môn đệ của Chúa Giêsu từ bỏ tất cả những sự vật của mình, vì họ đã tìm thấy được nơi Người Sự Thiện cao cả nhất, trong đó hết mọi sản vật khác nhận được giá trị và ý nghĩa đích thực của mình: các mối liên hệ gia đình, các mối liên hệ khác, công việc, sự phong phú về văn hóa và kinh tế, vân vân.
"Ở đây, Chúa Giêsu không muốn bàn đến vấn đề chiến tranh - nó chỉ là một dụ ngôn. Thế nhưng vào thời điểm lúc này đây, khi mà chúng ta đang thiết tha nguyện cầu cho hòa bình, thì Lời này của Chúa gây tác động sâu xa nơi chúng ta, và Lời này chính yếu nói rằng: chúng ta cần phải chiến đấu với một cuộc chiến sâu xa hơn, tất cả chúng ta! Đó là cái quyết định mãnh liệt và can trường trong việc từ bỏ sự dữ cùng những những hấp dẫn của nó, mà chọn sự thiện, hoàn toàn sẵn sàng đánh đổi bản thân mình, đó là theo Chúa Kitô và vác lấy thập giá của mình! Nó là một cuộc chiến tranh sâu xa chống lại sự dữ! Nếu anh chị em không thể chiến đấu với trận chiến sâu xa để chống lại sự dữ ấy thì làm sao chống lại chiến tranh, nhiều thứ chiến tranh được chứ? Không có chuyện đó đâu!
"Cuộc chiến chống lại sự dữ này có nghĩa là không chấp nhận hận thù huynh đệ tàn sát lẫn nhau, và không chấp nhận những thứ gian dối được nó sử dụng; là không chấp nhận bạo lực dưới tất cả mọi hình thức của nó; không chấp nhận vấn đề leo thang các thứ vũ khí và buôn bán vũ khí ở chợ đen. Có rất nhiều thứ vũ khí! Và mối ngờ vực luôn còn đó: thứ chiến tranh này xẩy ra ở đó, thứ chiến tranh kia xẩy ra ở đây - vì mọi nơi xẩy ra chiến tranh - thì có thực sự là một thứ chiến tranh về các vấn đề chăng, hay là một thứ chiến tranh về thương mại, để buôn bán những thứ vũ khí ấy ở chợ đen? Những kẻ thù ấy là thành phần chúng ta cần phải chiến đấu, một cách liên kết và gắn bó, không chạy theo những lợi lộc nào khác ngoài những lợi lộc của hòa bình và công ích.
"... Chúa Giêsu là mặt trời, Mẹ Maria là ánh sáng đầu tiên loan báo rạng đông của mặt trời này. Tối hôm qua chúng ta đã canh thức, kêu xin việc chuyển cầu của Mẹ trong lời chúng ta nguyện cầu cho hòa bình trên thế giới, nhất là ở Syria cũng như ở toàn vùng rung Đông. Vậy chúng ta hãy kêu cầu Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình. Nữ Vương Hòa Bình cầu cho chúng con!"
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo VIS (Vatican Information Service) kèm theo những chỗ tự ý nhấn mạnh
Thứ Hai
Ngày 08 tháng 9
SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MA-RI-A
lễ kính
Bài Ðọc I: Mk 5, 2-5a
"Ðến khi người nữ phải sinh, sẽ sinh con".
Trích sách Tiên tri Mikha.
Ðây lời Chúa phán: "Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Ðấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người, cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc: Rm 8, 28-30
"Những kẻ Chúa đã biết trước thì Người đã tiền định họ".
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chúng ta biết rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành. Họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. Vì chưng, những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Nhưng những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; và những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 12, 6ab. 6cd
Ðáp: Con sẽ hớn hở vui mừng trong Chúa (c. Is 91,9a).
Xướng: 1) Xin chớ để kẻ thù con hân hoan vì con quỵ ngã: bởi con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa. - Ðáp.
2) Xin cho lòng con hân hoan vì ơn Ngài cứu độ; con sẽ hát mừng Chúa, vì Ngài ban ân huệ cho con. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ là người có phúc và rất đáng mọi lời ca tụng, vì Mẹ đã sinh ra Mặt trời Công Chính là Ðức Kitô, Chúa chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 1, 1-16. 18-23
"Bà đã thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.
Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Sala-thiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn này: Mt 1, 18-23
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Ðó là lời Chúa.
Đấng cả địa cầu đại dương tinh tú
Hằng tin yêu và thờ lạy kính tôn,
Đấng trị vì khắp vũ trụ càn khôn,
Nay lại muốn đầu thai trong lòng Mẹ.
Đấng bóng nguyệt vầng ô tuân chỉ thị,
Đấng lấy thời gian điều khiển muôn loài
Đã chẳng nề bằng phép lạ trinh thai
Để cho Mẹ cưu mang tròn chín tháng.
Mẹ diễm phúc vì giờ đây mang nặng
Chúa tạo thành trời đất cõi vô biên,
Đấng Toàn Năng, tay nắm trọn uy quyền :
Thân xác Mẹ là Hòm Bia Giao Ước.
Người trinh bạch, thiên sứ chào diễm phúc,
Đã thụ thai do quyền lực Thánh Thần
Vẫn tinh tuyền khi sinh hạ Thánh Nhân,
Đấng toàn thể muôn dân từng mong đợi.
Ôi Thánh Tử Giê-su đầy lân ái
Đã sinh ra làm con Đức Nữ Trinh,
Kính dâng Ngài, cùng Thánh Phụ, Thánh Linh
Bài ca tụng đến muôn đời muôn thuở.
Tấu lạy Bà, quả thật Bà vinh hiển,
Ôi cao vời trên cả chín tầng mây,
Chúa Giê-su, Đấng đã dựng nên Ngài
Là Thánh Tử, chính Ngài cho bú mớm !
Ân
sủng mất tại E-và xuẩn động,
Tay Ngài phục hồi nhờ bởi Chúa Con,
Để từ đây nhân loại hết tủi hờn,
Được Ngài dẫn vào thiên đường vinh phúc !
Ngài chính là cửa ngọ môn
sáng rực
Đã mở ra cho Thiên Tử giáng trần,
Hãy reo hò, nào muôn nước muôn dân,
Này Trinh Nữ tặng cho ta Nguồn Sống !
Lòng hớn hở, xin hợp lời ca tụng
Dâng Chúa Cha cùng Thánh Tử, Thánh Thần,
Lượng hải hà đã ghé mắt từ nhân,
Cho Ngài mặc áo hồng ân tuyệt diệu.
Cái cũ đã qua, này đây mọi sự đều đổi mới
Trích bài giảng của thánh An-rê, giám mục Cơ-rê-ta.
Cứu cánh của Lề Luật là Đức Ki-tô. Người không đẩy chúng ta xa Lề Luật cho bằng nâng chúng ta lên tới tinh thần của nó. Quả thật, nơi Người, Lề Luật được hoàn tất, vì sau khi kiện toàn và kết thúc mọi sự, thì chính Đấng lập Luật đã chuyển chữ viết sang tinh thần. Thật vậy, Người thâu hồi tất cả nơi bản thân và sống theo luật ân sủng. Luật thì Người bắt phục tùng, còn ân sủng thì Người phối hợp và liên kết với Luật. Đặc tính của bên này, Người không trộn lẫn và hoà tan với bên kia, nhưng hoán chuyển cách thần kỳ, khiến điều xưa kia nặng nề nay trở nên nhẹ nhàng và tự do, để chúng ta không phải làm nô lệ những yếu tố của vũ trụ, như thánh Phao-lô tông đồ đã nói, và chúng ta cũng chẳng phải mang ách nô lệ dựa trên chữ viết của Luật.
Quả thế, đây là hồng ân cao cả nhất Đức Ki-tô ban cho chúng ta, đây là mặc khải mầu nhiệm cứu độ, đây là sự trút bỏ vinh quang, khi Thiên Chúa làm người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ mầu nhiệm Nhập Thể. Vì khi Thiên Chúa vinh hiển và rất mực quang minh đến với nhân loại, thì cần phải có Đức Mẹ là niềm vui đi trước để chuẩn bị ơn cứu độ lớn lao cho chúng ta. Đó là ý nghĩa của buổi lễ hôm nay, mà khởi điểm là biến cố Mẹ Thiên Chúa chào đời, còn kết thúc và tận điểm là biến cố Ngôi Lời mặc lấy xác phàm. Quả thật, Đức Trinh Nữ nay được sinh ra, được cho bú mớm và được chuẩn bị để xứng đáng trở nên Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Vua muôn đời.
Điều đó đem lại cho chúng ta hai mối lợi : một là đưa chúng ta tới chân lý, hai là giải thoát chúng ta khỏi làm tôi và sống theo nghĩa đen của Lề Luật. Điều đó xảy ra thế nào và vì lý do gì ? Thưa, ánh sáng đến đẩy lui bóng tối và ân sủng mang lại tự do thay cho mặt chữ. Lễ hôm nay là mốc phân ranh giữa hai điều đó, vì lễ này nối kết chân lý với hình ảnh tượng trưng, lấy cái mới thay cho cái cũ.
Vậy, mọi loài thụ tạo hãy đồng ca, hãy nhảy múa và biểu lộ niềm vui thích hợp với ngày lễ. Hôm nay, mọi loài trên trời dưới dất hãy cùng nhau hoan hỷ và bất cứ vật nào ở trong trần gian cũng như bên trên trần gian hãy hợp nhau mừng lễ. Quả thật, hôm nay thánh điện của Đấng tạo thành muôn vật đã được xây lên, và một thụ tạo, vì một lý do mới mẻ và thích đáng, đã được chuẩn bị làm nơi cư trú mới cho Đấng Hoá Công.
Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giê-su Con Một Chúa, Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu Người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc, và cho chúng con hưởng bình an. Chúng con cầu xin
Thần Đô Huyền Nhiệm (Đoạn truyện về biến cố Mẹ Maria được sinh vào trần gian)
Ngày mồng tám tháng chín, thánh nữ Anna hiểu rằng bà sắp sinh Người Con bà hằng ước nguyện. Bà xấp mình cầu xin Thiên Chúa chúc phúc cho con mình. Lúc đó, Mẹ Maria được Chúa cho xuất thần rất cao cả, không thấy được mình sinh vào trần gian như thế nào. Lúc ra khỏi cơn xuất thần ấy, Mẹ đã thấy mình đẹp đẽ nằm trên tay thân mẫu mình.
Thánh nữ Anna được gìn giữ khỏi mọi đau đớn thông thường nơi các bà mẹ sinh con, bà dâng lên Thiên Chúa lời nguyện rằng: "Lạy Đấng Sáng Tạo mọi loài, con xin dâng Chúa người con mà con vừa được lòng lành Chúa ban cho. Con xin cảm tạ Chúa. Xin Chúa định đoạt cho mẹ con con theo ý Chúa. Con xin chúc tụng Chúa muôn đời. Con là một kẻ bất xứng, xin dạy con biết cách nuôi nấng người con của Chúa".
Thiên Chúa trả lời trong lòng bà, là bà cứ cư xử như mọi người Mẹ cư xử với con mình, đừng tỏ ra một niềm tôn kính nào bề ngoài, cứ tôn kính trong tâm hồn là đủ. Nhưng phải hết sức cẩn trọng và yêu đương.
Các thiên thần hầu cận Mẹ, cùng với vô số thiên thần khác tháp tùng, đến tỏ niềm tôn kính Mẹ. Họ hát lên một khúc ca thiên đàng, rồi bắt đầu phục vụ Mẹ. Lần đầu tiên Mẹ nhìn thấy họ dưới hình người. Mẹ mời họ ca tụng Chúa với Mẹ và nhân danh Mẹ.
Đức tổng thiên thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến báo cho các thánh ở u ngục biết tin mừng Mẹ sinh ra, một tin mừng làm các ngài hoan hỉ và tri ân vô ngần.
Tất cả những sự việc đó qua đi rất mau chóng. Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ Maria nhiều sự việc rất lạ lùng khác nữa. Việc đầu tiên là sai các thiên thần rước Mẹ lên thiên đàng. Các ngài chỉnh đốn hàng ngũ thành một cuộc khải hoàn long trọng, vừa rước Mẹ lên cao vừa ca hát cho tới trước uy nghi Thiên Chúa. Mẹ xấp mình thờ lạy Chúa.
Ngôi Lời nâng Mẹ lên, đặt bên hữu mình. Lĩnh nhận nhiều mạc khải mới, tất cả các tài năng của Mẹ tăng triển thêm. Mẹ được nhìn thấy thần tính Thiên Chúa tỏ ra ở một góc độ tuyệt vời. Bừng cháy nhiệt tâm cho danh Chúa cả sáng, Mẹ nài xin Thiên Chúa mau thi hành ơn Nhập Thể để cứu chuộc thế gian. Thiên Chúa đoan quyết với Mẹ là ước nguyện ấy của Mẹ sắp được thực hiện.
Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ cho các thiên thần biết rằng từ đời đời Ngài đã tác tạo cho Mẹ và cho Ngôi Con danh hiệu Maria và Giêsu. Trong hai danh hiệu đó, Ngài được thỏa lòng hoàn toàn. Rồi Ngài phán: "Danh hiệu Maria phải được hiển vinh lạ thường. Những ai thành thực sốt sắng kêu cầu danh hiệu ấy sẽ được ban nhiều ân sủng. Những ai kính cẩn đọc lên sẽ được ủi an. Mọi người đều tìm được trong danh hiệu ấy phương dược trị liệu bệnh tật mình; được ánh sáng soi đường; được kho tàng cứu giúp sự túng nghèo. Danh hiệu Maria làm run sợ hoả ngục và đạp nát đầu cựu xà Satan".
Chính Chúa đặt danh hiệu ấy cho Mẹ. Mẹ đón nhận với những lời ca ngợi lạ lùng. Lúc Thiên Chúa đọc danh hiệu ấy lên, các thiên thần đều phủ phục, bái chào, hát lên thánh ca tán tụng, nhất là những vị mang biểu hiệu danh hiệu ấy càng nhiệt liệt tán tụng hơn. Sau đó, cũng các Thiên Thần đã rước Mẹ lên trời lại rước Mẹ xuống đặt trên tay Thánh Nữ Anna nhưng bà không hề biết gì về sự mẹ vắng mặt. Trong lúc đó, bà được ơn xuất thần, biết được nhiều sự kiện cao cả về chức phẩm Mẹ Thiên Chúa.
Tám ngày sau, rất đông thiên thần từ trời xuống, mang theo một biểu ngữ sáng láng, ghi danh hiệu Maria. Họ nói với Thánh Nữ Anna phải mau kíp đặt tên ấy cho Con bà. Bà đi nói với Thánh Gioan Kim. Ông bà liền tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn, mời bà con thân thuộc và một tư tế đến dự. Trong niềm trịnh trọng hân hoan, ông bà đặt tên rất dịu dàng Maria cho Con Rất Thánh của mình. Các thiên thần lại tấu lên một khúc nhạc tuyệt vời, chỉ có hai mẹ con bà Anna được thưởng thức. Hạnh phúc cho trái đất biết bao, vì đã có Mẹ Đấng Cứu Chuộc.
Luật ghi trong chương 12 sách Lêvi buộc mọi người mẹ, 60 ngày sau khi sinh hạ một con gái, phải lên Đền Thờ Giêrusalem dâng một con chiên một tuổi và một con chim gáy hay một bồ câu nhỏ. Thánh nữ Anna sung sướng vì được dâng lên Thiên Chúa Người Con chí thánh Chúa đã ban cho bà, Người Con chính bà đang ẵm trên tay. Khi bà tới Đền Thờ, đại tư tế Simeon đã ra tiếp đón. Thánh nữ Anna dâng của lễ cách sốt sắng đến rơi lệ. Bà tuyên lại lời khấn sẽ hiến dâng Con gái mình vào Đền Thờ Thiên Chúa khi con tới tuổi thích hợp.
Khi các nghi lễ đã xong, hai mẹ con hoan hỉ trở về Nagiarét. Ở đây, Mẹ Maria được nuôi dưỡng y như các trẻ đương thời. Lương thực Mẹ dùng cũng là lương thực chung mọi người, nhưng Mẹ dùng rất ít. Mẹ ngủ đã ngắn giấc, mà còn phải ru phải dỗ mới ngủ được. Mẹ rất ngoan ngoãn, nhưng cũng rất đoan trang, ai đến gần cũng phải tôn kính. Mẹ cũng hay khóc và khóc nức nở, song chỉ là khóc để thương cho tội lỗi thế gian, và nài xin Đấng Cứu Chuộc đến. Nơi Mẹ, không bao giờ có chút gì là con nít, tuy vậy Mẹ cũng sẵn lòng để thánh nữ Anna chiều chuộng.
M
ẹ liên lỉ cầu nguyện cùng Thiên Chúa, dù giấc ngủ cũng không gián đoạn việc cầu nguyện ấy, vì trí năng có thể hoạt động không cần giác quan giúp đỡ. Mẹ được hưởng đặc ân ấy cho tới khi ly trần. Không bao giờ Mẹ ngưng chuyện vãn với Chúa. Nhưng với loài người suốt 18 tháng đầu tiên đời Mẹ, Mẹ đã im lặng y như các trẻ thơ khác. Sau mười tám tháng, Mẹ mới bắt đầu nói. Chúa dạy Mẹ cầu nguyện mỗi ngày nhiều lần để Con Chúa mau Nhập Thể, và hãy khóc lóc vì tội lỗi loài người. Trong mười tám tháng tiếp đó, nghĩa là cho tới khi Mẹ lên ba tuổi, Mẹ nói rất ít.Cha mẹ của Mẹ không giầu lắm, cũng không nghèo lắm. Ông bà có đủ của để may sắm cho Mẹ những bộ y phục đẹp đẽ nhưng rất đoan trang. Trong thời gian Mẹ chưa nói, Mẹ để mặc thánh nữ Anna sắm liệu cho Mẹ, không tỏ dấu gì cưỡng lại. Nhưng khi đã được Chúa ban lệnh nói năng, Mẹ xin thân mẫu may cho mình những y phục vải thô, nghèo nàn, đơn bạch, mầu tro xám và, nếu có thể, đã cũ, đồ thừa. Thánh nữ Anna rất kính nể và tôn trọng con mình như Bà Chủ, nhưng bà không đành lòng để cho con còn thơ dại yếu đuối phải mặc áo thô. Bà chỉ theo ý con về mầu áo và kiểu cắt may, tức mầu xám và kiểu áo của những trẻ nữ cha mẹ đã khấn hứa cho một điều nào đó.
Trong ba năm đầu đời Mẹ, Mẹ luôn thực hiện đức vâng lời hoàn thiện này. Mẹ thường đón trước ý của thánh nữ Anna mà làm.
Khi đã lên trọn hai tuổi, Mẹ bắt đầu thi hành đức ái đối với người nghèo. Mẹ đến xin thân mẫu của này vật nọ bố thí cho họ. Đôi lần Mẹ còn bớt cả phần ăn của mình để cho họ nữa. Mẹ cũng cầu nguyện cho linh hồn họ.
Mặc dầu Mẹ đầy tràn tri thức thiên phú về mọi sự vật thụ tạo, Mẹ cũng sẵn sàng được người ta dạy dỗ y như các trẻ khác, như là không biết gì. Mẹ hết sức ngoan ngoãn học hỏi nơi cha mẹ. Khi có ai chỉ dẫn thêm điều gì, hoặc khiển trách điều gì, Mẹ luôn luôn cúi đầu chấp nhận, không hề cãi trả.
Lời Mẹ nhắn nhủ:
Con hãy gắng noi gương Mẹ trong việc Mẹ đã làm suốt đời Mẹ từ khi Mẹ sinh ra. Lúc ngày mới bắt đầu, Mẹ sấp mình dưới chân Chúa, ca tụng Chúa vì những ưu phẩm vô cùng của Ngài, rồi nhìn nhận chủ quyền tuyệt đối của Ngài trên vạn vật. Mẹ cũng cảm tạ Chúa vì Ngài đã kéo Mẹ ra khỏi hư vô. Mẹ hoàn toàn phó thác dâng mình cho Ngài, để Ngài định đoạt về Mẹ tùy ý Ngài muốn trong ngày, cũng như trong suốt cuộc sống của Mẹ. Mẹ cầu xin Ngài cho Mẹ biết được những gì đẹp lòng Ngài để Mẹ chu toàn. Mẹ xin Ngài hướng dẫn, ban phép lành và chúc phúc cho hết mọi việc Mẹ làm. Mẹ còn nhắc đi nhắc lại những hành vi đó nhiều lần trong ngày.
Càng thực tâm nhiệt thành tôn kính danh hiệu rất dịu ngọt của Mẹ, con càng đi trên đường của Mẹ. Con nên biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Danh Hiệu ấy không biết bao nhiêu là ân sủng và đặc ân. Mẹ không thể nghĩ đến hay nghe đọc đến Danh Hiệu ấy mà lại không dâng lời cảm tạ Chúa. Cho nên Mẹ quyết định làm những việc cả thể cho Chúa là Đấng đã ban cho Mẹ Danh Hiệu quí báu ấy.
Thứ Hai
(Nếu không bị Lễ Kính Sinh Nhật Đức Mẹ át đi như Năm 2025 thì vẫn theo PVLC như Thứ Hai)
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 1, 24 - 2, 3
"Tôi đã được trở thành người phục vụ Hội thánh để rao giảng mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, hiện nay tôi vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu vì anh em. Tôi bổ khuyết nơi thân xác tôi những gì còn thiếu sót trong cuộc thương khó của Ðức Kitô, để Hội thánh là thân xác của Người được nhờ. Tôi đã được trở thành người phục vụ Hội thánh, theo sự an bài của Thiên Chúa đã trao phó cho tôi rao giảng đầy đủ lời Chúa, đó là mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở qua muôn thế hệ, nhưng nay đã được tỏ bày cho các thánh của Người. Thiên Chúa muốn tỏ bày cho họ biết thế nào là sự phong phú vinh quang của mầu nhiệm nơi dân ngoại, tức là Ðức Kitô trong anh em, Người là niềm hy vọng vinh quang. Tôi loan báo Người, cảnh tỉnh mọi người, đem tất cả khôn ngoan mà dạy dỗ mọi người, để làm cho mọi người nên hoàn hảo trong Ðức Giêsu Kitô. Chính vì lẽ đó, tôi khó nhọc chiến đấu nhờ vào năng lực mà Người hành động mạnh mẽ trong tôi. Vì chưng, tôi muốn anh em nhận thấy tôi lo lắng biết bao cho anh em và cho những người ở Laođicêa, và cho những ai chưa hề thấy mặt tôi tận mắt, để lòng họ được an ủi, và khi được giáo huấn trong đức mến, họ được dư đầy sự thông hiểu là được nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa Cha và Ðức Kitô Giêsu, nơi Người tiềm ẩn mọi kho tàng khôn ngoan và thông hiểu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 61, 6-7. 9
Ðáp: Vinh dự và an toàn của tôi ở nơi Thiên Chúa (c. 8a).
Xướng: 1) Duy nơi Thiên Chúa, hỡi linh hồn tôi, hãy an vui, vì do chính Người, tôi được ơn cứu độ. Phải, chính Chúa là Ðá Tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến luỹ của tôi, tôi sẽ không hề nao núng. - Ðáp.
2) Hỡi dân tộc, hãy trông cậy Người luôn mọi lúc; hãy đổ giốc niềm tâm sự trước nhan Người, vì Thiên Chúa là nơi ta nương náu.- Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 6-11
"Các ông quan sát xem Người có chữa lành bệnh trong ngày Sabbat không".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở đó có một người tay hữu bị khô bại. Những luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người. Nhưng Người biết tư tưởng các ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây". Người đó đứng thẳng dậy. Ðoạn Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?" Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: "Ngươi hãy giơ tay ra". Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.
Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Tối tăm thách thức ánh sáng
Lại xẩy ra một trận đụng độ nữa, liên tục, giữa Chúa Giêsu và "những luật sĩ và biệt phái", thành phần hình như luôn theo dõi nhân vật Giêsu Nazarét xuất đầu lộ diện một cách hết lạ kỳ hầu như lập dị và rất ư là cấp tiến này, mà "quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người".
Vì không phải là một con người bình thường, sợ áp lực đám đông và sợ áp lực quyền thế, Chúa Giêsu tỏ ra làm chủ tình hình, ở chỗ "Người biết tư tưởng các ông", thậm chí Người còn lợi dụng yếu điểm của đối phương để hạ gục họ: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?", nhưng họ vẫn bất chấp cho dù tận mắt chứng kiến thấy phép lạ Người làm "vào một ngày hưu lễ trong hội đường":
Họ chẳng những không bị thuyết phục bởi cả lý lẽ không thể chối cãi của Người và bởi phép lạ tỏ tường Người làm, trái lại, họ vẫn tiếp tục ngoan cố, đến độ: "Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu".
1) Duy nơi Thiên Chúa, hỡi linh hồn tôi, hãy an vui, vì do chính Người, tôi được ơn cứu độ. Phải, chính Chúa là Ðá Tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến luỹ của tôi, tôi sẽ không hề nao núng.
2) Hỡi dân tộc, hãy trông cậy Người luôn mọi lúc; hãy đổ giốc niềm tâm sự trước nhan Người, vì Thiên Chúa là nơi ta nương náu.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 2, 6-15
"Chúa đã cho anh em được chung sống với Người, Người đã ân xá mọi tội lỗi của anh em".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, như anh em đã nhận lãnh Chúa Giêsu Kitô, anh em hãy sống trong Người, hãy đâm rễ và xây dựng trong Người, và kiên trì trong lòng tin, như anh em đã học biết, hãy đầy lòng cảm tạ trong Người.
Anh em hãy cẩn thận, đừng để ai lấy triết lý và những mánh khoé gian giảo mà lừa dối anh em, theo truyền thống loài người, theo những yếu tố phàm trần, chứ không theo Ðức Kitô; nơi Người chứa đựng tất cả sự viên mãn của bản tính Thiên Chúa, và trong Người, anh em cũng được sung mãn, chính Người là Ðầu mọi thủ lãnh và quyền năng. Trong Người, anh em đã chịu cắt bì, một phép cắt bì không do tay người phàm cất khỏi xác thịt, nhưng là phép cắt bì của Ðức Kitô. Nhờ phép rửa tội, anh em đã được mai táng làm một với Ðức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người, bởi đã tin vào quyền năng Thiên Chúa, Ðấng đã cho Người từ cõi chết sống lại.
Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính xác thịt của anh em, (nhưng) Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người. Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ văn tự bất lợi cho chúng ta, vì (nó) làm cho chúng ta bị kết án; Người đã huỷ bỏ bản văn tự đó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. Người đã tước quyền những kẻ chấp chính và những kẻ cầm quyền. Người đã mạnh bạo điệu chúng ra và toàn thắng chúng trong bản thân Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 1-2. 8-9. 10-11
Ðáp: Chúa hảo tâm với hết mọi loài (c. 9a).
Xướng: 1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống. Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 12-19
"Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.
Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
... Ở tầm mức lưng chừng núi...
"Anh em thân mến, như anh em đã nhận lãnh Chúa Giêsu Kitô, anh em hãy sống trong Người, hãy đâm rễ và xây dựng trong Người, và kiên trì trong lòng tin, như anh em đã học biết, hãy đầy lòng cảm tạ trong Người. Anh em hãy cẩn thận, đừng để ai lấy triết lý và những mánh khoé gian giảo mà lừa dối anh em, theo truyền thống loài người, theo những yếu tố phàm trần, chứ không theo Ðức Kitô... Trong Người, anh em đã chịu cắt bì, một phép cắt bì không do tay người phàm cất khỏi xác thịt, nhưng là phép cắt bì của Ðức Kitô. Nhờ phép rửa tội, anh em đã được mai táng làm một với Ðức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người, bởi đã tin vào quyền năng Thiên Chúa, Ðấng đã cho Người từ cõi chết sống lại. Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính xác thịt của anh em, (nhưng) Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người".
1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời.
2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.
3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.
Ngày 9/9 - Thánh Phêrô Claver, linh mục
Sau khi hoàn tất chương trình thần học tại Barcelona,
Phêrô Claver được bề trên cho phép đi Nam Mỹ. Năm 1610,
ngài đến Cartagena, thường được gọi là chợ nô lệ, miền
bắc nước Colombia, để sống và chết với người da đen bị
bán làm nô lệ. Sau khi thụ phong linh mục, ngài làm Năm
Tập Ba, rồi khấn lần cuối với lời khấn phụ suốt đời làm
nô lệ cho người da đen: “TÔI PHÊRÔ CLAVER, MÃI MÃI LÀ NÔ
LỆ CỦA NHỮNG NGƯỜI ETHIÔPI”.
Sự mù quáng của các Kitô hữu thời bấy giờ đã không cho
phép ngài đòi hỏi gì hơn, như người ta có thể nói ngày
nay, là cầm đầu cuộc đấu tranh cho công bằng. Điều này
cũng không hơn gì sự mù quáng hiện nay của nhiều Kitô
hữu đã không hiểu rằng việc phá thai mà hằng trăm hàng
ngàn người đang làm là “một tội ác ghê tởm” như công
đồng Vatican II tuyên bố.
Sau khi chân nhận rằng “có những lời chí trích chống lại
việc chấp nhận cho có nô lệ,” Borgia ra lệnh “chỉ dùng
những thổ dân tự do và tự nguyện, là những người hiểu rõ
việc họ làm và tự do muốn lao động trong một thời hạn
với một giá lương tương xứng mà ta sẽ thỏa thuận với
họ.” Lối xử sự này là một điều chưa từng nghe thấy đối
với nhiều người thời bấy giờ, vì ngay cả những người
lương thiện thời ấy cũng nghĩ rằng ở Mỹ châu cần có
những lao động lực lưỡng làm thay cho họ, và đó là những
người Phi Châu bị cưỡng bức đem đi làm nô lệ.
Trong bối cảnh xã hội ấy, Phêrô Claver đã hào
hùng khám phá thấy một vấn đề lớn
lao và rất nghiêm trọng. Ngài đã tìm ra một lối giải
quyết theo cách thức của Mẹ Têrexa: trở thành nô lệ hơn
cả những người nô lệ để trả lại cho họ phẩm giá con
người.
Thời ấy, người Châu âu da trắng thường đến Châu Phi dùng
vũ lực bắt người da đen dồn xuống tàu đem qua Châu Mỹ
bán cho các chủ đồn điền. Được tin một chiếc tàu nô lệ
sắp đến, ngài chờ sẵn ở cảng. Tàu vừa cập bến, ngài
xuống giúp đỡ những người đau yếu, bệnh tật, thiếu ăn,
thiếu mặc… Tiếp đến, ngài ở bên cạnh họ khi họ bị dồn
vào những khu tập trung và bị đem bán như súc vật. Rồi
khi họ đã được ông chủ nào đó mua về làm nô lệ, ngài
thăm viếng, bênh vực khi họ bị đối xử bất công. Ngài
kiên trì trong công việc bác ái này suốt 40 năm trời,
cho đến khi ngài bệnh tật.
Với lòng yêu mến và ao ước phục vụ Chúa Giêsu và các
linh hồn, cha Phêrô Claver luôn tâm niệm bốn nguyên tắc: 1- Nỗ
lực tìm kiếm và nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa
trong mọi sự, 2- hoàn
toàn tuân phục bề trên, 3- làm
mọi sự cho vinh danh Thiên Chúa hơn, và 4- nỗ
lực bằng mọi giá để giúp cho các linh hồn được ơn cứu
độ. Cha cũng luôn tự nhắc mình và các bạn của cha rằng: “Chúng
ta phải nói với họ bằng đôi tay, trước
khi nói với họ bằng miệng lưỡi của chúng ta.”
Ngài được Đức Thánh Cha Lêô XIII tuyên thánh năm 1888 và
được Hội Thánh biểu dương như một Phanxicô Xavier của
người da đen. Ngài được đặt làm quan thầy các xứ truyền
giáo cho người Châu Phi; ngài còn là quan thầy cho xứ
Colombia.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ website của Dòng tên, của GP Lạng Sơn và TGP Sài Gòn
Thứ Tư
Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 3, 1-11
"Anh em đã chết với Ðức Kitô. Vậy anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang.
Vậy anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em, tức là những điều trần tục: là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là sự thờ phượng thần tượng. Vì những tội ấy mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên những người con phản nghịch. Xưa kia anh em cũng đã sống trong những tội ấy, khi anh em sống trong những thói hư nết xấu đó. Nhưng bây giờ, anh em hãy loại bỏ tất cả những điều đó, là sự giận dữ, phẫn nộ, độc ác, phạm thượng, và lời tục tĩu bởi miệng anh em. Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Ðấng đã tạo thành nó: ở đấy không còn Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, người man rợ hay người Scytha, nô lệ hay tự do nữa; nhưng Ðức Kitô là mọi sự và ở trong mọi sự.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 10-11. 12-13ab
Ðáp: Chúa hảo tâm với hết mọi loài (c. 9).
Xướng: 1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.
3) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
Alleluia: Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 20-26
"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói:
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Phúc khốn khó - họa
may lành"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".
Chúng ta thấy cái tương phản hoàn toàn với nhau một cách nẩy lửa giữa 4 điều lành và 4 cái dữ trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, thứ tự như sau:
1- "Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có";
2- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê";
3- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười";
4- "Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người các ngươi bị người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng, và loại trừ như kẻ bất lương" >< "Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng".
Thật ra, 4 cái Người gọi là "khốn" này, tự bản chất của chúng, không có gì là xấu, nhưng nếu con người vốn thiên về tự nhiên và hưởng thụ chúng có thể trở thành "dịp tội" nơi họ và cho họ, khiến họ, nhất là thành phần theo Chúa, thành phần sống trọn lành hơn, thành phần chứng nhân của Người, bị hòa đồng với thế gian và biến mất trong thế gian, đến độ có thể trở thành phản chứng Kitô giáo, thành những tiên tri giả hay kitô giả, như vẫn thấy xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội, đặc biệt là trong thời đại mà nhiều người cho là tận thế đến nơi rồi đây.
Một điển hình có
thể áp dụng một cách cụ thể vào cái "khốn" cho những ai "no
nê" đó
là những ai
thích thưởng thức loại bữa ăn
"all you can eat / ăn tha hồ mặc sức". Thật
vậy, để có thể "ăn thả dàn, ăn mặc sức" những gì mình thích,
nhiều món mình thích mà giá cũng không mắc lắm hay cũng đáng,
người ta, trước hết phải nhịn ăn trước đó để có sức mà thưởng
thức tối đa. Cái đói trước bữa ăn này đã là một cái "khốn" đầu
tiên. Thế rồi, cái đói trong bữa ăn kiểu này nữa, đó là một
khi ăn món này nhiều thì các món
còn lại cũng
ngon không thể ăn nhiều được nữa, tiếc tiền, đó là cái "khốn"
thứ hai. Cái "khốn" thứ ba đó là sau khi ăn xong cái bụng sao mà
nó nặng nề khó chịu quá sức. Chưa hết, cái "khốn" cuối cùng và
là cái "khốn" nguy hiểm nhất đó là bị cao mỡ, vì đã ăn quá nhiều
tôm hùm hay cua là những hải sản mắc tiền hiếm quí.
Trái lại, cũng thế, 4 điều được Chúa Giêsu gọi là "phúc" đây, tự bản chất của chúng, quả thực là dữ, là xấu, là bất lợi, khiến con người bản tính vốn vướng mắc nguyên tội cảm thấy bất hạnh, nên họ bao giờ cũng hoàn toàn muốn tránh né hay muốn được giải thoát. Thế nhưng, với thành phần sống đức tin và vượt thoát, sống gần với Đấng đã đến để phục vụ hơn hưởng thụ (xem Mathêu 20:28), sống chứng nhân cho Đấng đã sống thân phận mục nát của hạt lúa miến trong lòng đất (xem Gioan 12:24), thì những cái bất hạnh ấy lại trở thành phương tiện siêu thoát của họ và cứu độ trần gian.
Theo chiều hướng của Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành ở Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, một thứ giáo huấn phải nói là ngược ngạo, hoàn toàn phản lại với lý lẽ, lập luận và khát vọng của trần gian, của bản tính tự nhiên nơi con người thích đường rộng (xem Mathêu 7:13) và thích tăm tối hơn ánh sáng (xem Gioan 3:19), thứ giáo huấn Chúa Giêsu truyền dạy liên quan đến phúc khốn khó và họa may lành, chúng ta mới hiểu được tại sao Thánh Phaolô đã khuyên dạy giáo đoàn Côlôsê trong Bài Đọc 1 hôm nay rất ư là chí lý về nguyên do tại sao họ phải sống trọn lành về tu đức như sau:
"Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang. Vậy anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em, tức là những điều trần tục: là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là sự thờ phượng thần tượng. Vì những tội ấy mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên những người con phản nghịch. Xưa kia anh em cũng đã sống trong những tội ấy, khi anh em sống trong những thói hư nết xấu đó. Nhưng bây giờ, anh em hãy loại bỏ tất cả những điều đó, là sự giận dữ, phẫn nộ, độc ác, phạm thượng, và lời tục tĩu bởi miệng anh em. Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Ðấng đã tạo thành nó: ở đấy không còn Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, người man rợ hay người Scytha, nô lệ hay tự do nữa; nhưng Ðức Kitô là mọi sự và ở trong mọi sự".
Trước những giáo huấn trọn lành này, một giáo huấn không phải để hủy diệt con người mà là hoàn hảo hóa con người, giúp con người sống trong bản tính đã hư hoại bởi nguyên tội được thần linh hóa và tác hành như là con cái của Thiên Chúa, những ai tin tưởng chấp nhận và áp dụng thực hành sẽ không thể nào không vang lên những lời của Thánh Vịnh 144 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được.
2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.
3) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ.
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 3, 12-17
"Anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau, nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện.
Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em.
Với tất cả sự khôn ngoan, anh em hãy học hỏi và nhủ bảo lẫn nhau. Hãy dùng những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân, để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em. Và tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 150, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen Thiên Chúa (c. 6).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa trong thánh đài của Chúa, ngợi khen Chúa nơi thanh không cao cả của Người. Hãy ngợi khen Người vì những kỳ công vĩ đại, ngợi khen Người bởi sự Người tuyệt đối oai nghiêm. - Ðáp.
2) Hãy ngợi khen Chúa với tiếng kèn rầm rộ, ngợi khen Người với cây đàn sắt, đàn cầm, hãy ngợi khen Người với trống rung và ca vũ, ngợi khen Người với tơ đàn, với ống tiêu. - Ðáp.
3) Hãy ngợi khen Người với âm vang não bạt, ngợi khen Người với tiếng rền rĩ mã-la. Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen Thiên Chúa. - Ðáp.
Alleluia: 2 Cr 5, 19
Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian với Người, và đã đặt lời giải hoà trên môi miệng chúng tôi. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 27-38
"Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại.
Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng.
Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác.
Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bài Thánh Ca Thương Xót
Tiếp tục đề
tài sống
trọn lành hay sống cảm thương với các môn đệ, nhất là với thành phần
12 vị vừa được tuyển chọn làm tông đồ của
mình, Chúa
Giêsu đã đi thẳng và đi ngay vào những gì chính yếu nhất và thiết
yếu nhất Người muốn nói với các vị và muốn các vị sống như
vậy.
Thật thế, ngay sau khi mở màn như một dạo khúc cho bài huấn dụ trọn lành cũng là bài huấn dụ về lòng cảm thương này, một dạo khúc bao gồm 4 "phúc" hạnh và 4 "khốn" nạn tương phản nhau, một dạo khúc đã được Chúa Giêsu tài tình hòa âm cho hai bè hát xung khắc nhau, nhưng một khi trình diễn với tất cả hồn sống của mình thì chính ca sĩ mới cảm thấy thấm thía hơn bao giờ hết, nhất là khi hát đến các phiên khúc chính yếu và các kết thúc của bản thánh ca thương xót huyền diệu siêu vời này.
Bản Thánh Ca Thương Xót này, mà điệp khúc là phần hòa âm hai bè "phúc/khốn" đầy tính chất giằng co nhức nhối, có tất cả 2 phiên khúc và 2 đoạn kết thứ tự được liệt kê như sau:
Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên
khúc thứ
nhất:
"Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".
Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ hai:
"Các con muốn
người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy.
Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả
những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn
cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người
tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông
người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng
cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng".
Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tạm kết:
"Vậy các con hãy
yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần
thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng
Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian
ác".
Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tận kết:
"Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy ban tặng, thì các con sẽ tặng lại; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".
Tất cả nội dung và ý nghĩa của bản Thánh Ca Thương Xót này, tức là tột đỉnh của bản Thánh Cha Trọn Lành này đều được cô đọng ở chung đoạn tổng kết và ở riêng câu đầu của đoạn tổng kết ấy, đó là: "các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ". Mà "nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ" ở chỗ nào, nếu không phải, cũng trong đoạn tổng kết, ở 4 thái độ thứ tự là: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng".
Trong 4 thái độ để phản ảnh lòng nhân từ của Cha trên trời xót thương nhân loại vừa được tóm kết trên đây, có 2 thái độ mang tính cách tránh những gì là tiêu cực: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", và 2 thái độ có tính cách thực hiện những gì là tích cực: 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng".
1- "Ðừng xét đoán" và 2- "Ðừng kết án": bởi vì, "Thiên Chúa không sai Con Ngài đến thế gian để luận án thế gian nhưng là để thế gian nhờ Người mà được cứu độ" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "đừng xét đoán" và "đừng kết án".
3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng": bởi vì, "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Người thì không phải chết ("tha thứ") nhưng được sự sống đời đời ("ban tặng")" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "hãy tha thứ" và "hãy ban tặng", ở chỗ vừa "tha thứ" vừa "ban tặng" đúng như phiên khúc 1 đã khuyên dạy: "(Tha Thứ) - Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. (Ban Tặng) - Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".
Theo chiều hướng trọn lành Chúa Giêsu dạy ở Bài Giảng Trên Núi của Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, Thánh Phaolô tiếp tục khuyên dạy giáo đoàn Côlôsê về đời sống bác ái yêu thương trọn lành của một người Kitô hữu, của thành phần môn đệ của Chúa Kitô, của con cái Đấng là Cha xót thương ở trên trời, như sau:
"Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau, nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện".
Một Kitô hữu sống đức ái trọn hảo như thế mới hoan hưởng bình an và hiệp nhất, với Chúa và với nhau, như Thánh Phaolô tiếp tục cho biết trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em". Chỉ vì họ đã biết sống vì Chúa: "tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha".
Đời sống đức ái trọn hảo của Kitô hữu là một đời sống liên lỉ hân hoan tươi trẻ trong Chúa, như thể cuộc đời của họ trở thành "những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân, để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em", như chủ trương của Thánh Phaolô, một đời sống theo chiều hướng của Thánh Vịnh 150 ở bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hãy ngợi khen Chúa trong thánh đài của Chúa, ngợi khen Chúa nơi thanh không cao cả của Người. Hãy ngợi khen Người vì những kỳ công vĩ đại, ngợi khen Người bởi sự Người tuyệt đối oai nghiêm.
2) Hãy ngợi khen Chúa với tiếng kèn rầm rộ, ngợi khen Người với cây đàn sắt, đàn cầm, hãy ngợi khen Người với trống rung và ca vũ, ngợi khen Người với tơ đàn, với ống tiêu.
3) Hãy ngợi khen Người với âm vang não bạt, ngợi khen Người với tiếng rền rĩ mã-la. Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen Thiên Chúa.
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 1, 1-2. 12-14
"Trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót".
Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timôthêu.
Phaolô, Tông đồ của Ðức Giêsu Kitô theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, gửi lời thăm Timôthêu, người con yêu dấu trong đức tin. Nguyện xin ân sủng, lòng từ bi và bình an của Thiên Chúa Cha, và của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng con! Cha cảm tạ Ðấng đã ban sức mạnh cho cha, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin. Nhưng ân sủng của Chúa chúng ta đã tràn lan dồi dào, cùng với đức tin và đức mến, trong Ðức Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 11
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (c. 5a).
Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa; con thưa cùng Chúa: "Ngài là Chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con". - Ðáp.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 39-42
"Người mù có thể dẫn người mù được chăng?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.
"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh", trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Cái đấu đong thương xót
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXIII Thường Niên, Thánh ký Luca tiếp tục thuật lại Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Người về lòng "cảm thương như Cha thương xót", mô phạm tối cao của chung nhân loại, của riêng thành phần con cái của Cha trên trời và nhất là của thành phần môn đệ Chúa Kitô, thành phần tông đồ làm chứng cho Chúa Kitô.
Ý tưởng chính trong bài Phúc Âm hôm nay đó là câu Chúa Giêsu nói ở ngay đầu: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư?" Ngay sau câu này, Chúa Giêsu còn thêm một câu nữa, đó là: "Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi", như thế có nghĩa là gì, câu trước và câu sau có liên hệ gì với nhau chăng?
Tất nhiên một khi Chúa Giêsu đã nói là phải có ý nghĩa của nó, phải có lý của nó. Phải chăng ở đây Người có ý nói rằng người mù không thể nào dẫn người mù được, chắc chắn cả hai sẽ lọt xuống hố mà thôi?
Bởi vậy, con người cần phải học hỏi bởi những người khôn ngoan hơn, cần được họ dẫn dắt như là những bậc sư phụ của mình, đặc biệt là Chúa Giêsu, một Đại Sư đệ nhất thiên hạ, là chính "chân lý" (Gioan 14:6), thì mới có thể tránh được lầm lỗi, thất bại, và nếu con người làm trò tỏ ra biết dễ dạy lắng nghe tuân thủ những gì được các bậc sư phụ khôn ngoan hướng dẫn thì con người mới có thể đạt tới chỗ khôn ngoan "hoàn hảo" như bậc thày của mình.
Một trong những trường hợp hay khuynh hướng chứng thực con người vốn sống mù quáng, đó là con người không "tri kỷ tri bỉ", không biết mình biết người, như Chúa Giêsu đã nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái
đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói
với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt
anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi.
Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy
giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".
Thật thế, theo tâm lý tự nhiên, thường ai cũng cho mình là hay là tốt, hiếm người hay ít người tự nhận mình là kém tài kém đức thua nhiều người khác. Thậm chí miệng nói tôi tài hèn sức mọn, ấy thế mà không được trọng dụng thì bất mãn, hay thấy ai nổi hơn mình thì chọc phá tìm cách hạ bệ. Hoặc bị phê bình hay chê trách là choảng lại liền, hay đổ lỗi cho người khác hoặc cho hoàn cảnh, vì lý do kỹ thuật v.v.
Với tâm tính đầy tự cao tự đại và nặng tự ái như thế, con người tự nhiên chẳng những tìm cách bênh vực mình bao nhiêu có thể trong mọi sự, không muốn bị ai dò xét, không muốn bị người nào bình phẩm hay đụng chạm tới, ngược lại, họ cứ thích pha mình vào cuộc đời của người khác, ở chỗ xét đoán người khác, thường là xét đoán xấu hơn là xét đoán tốt, thậm chí còn tự suy diễn và kết tội người khác, chẳng những trong lòng của họ mà còn công khai trước cộng đồng của họ nữa.
Nếu người ta đeo kính râm thì nhìn mọi sự mờ mờ hơn là sáng tỏ thế nào, thì bản chất con người vốn hướng hạ và hướng xấu, nhất là dễ tin những điều xấu hơn điều tốt, họ sẽ thấy anh chị em của mình một cách thiển cận, không rõ ràng, thậm chí còn có khuynh hướng suy bụng ta ra bụng người nữa - mình xấu thì không ai được tốt hơn. Đó là lý do nguyên tắc và đường lối sáng suốt khôn ngoan mà Vị Đại Sư dạy trong bài Phúc Âm hôm nay cần phải được áp dụng: "hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".
Chính vì con người rất khó bỏ tật xét đoán tha nhân một cách thiển cận và ngặt nghèo mà, theo tu đức, vì lòng nhân từ của mình, muốn cho một tâm hồn nào đó biết mình, nhờ đó họ không dám khinh người nào nữa, Cha trên trời hay sử dụng chiêu "các con lấy đấu nào mà đong cho ai thì sẽ bị đong lại cho đấu ấy" (Mathêu 7:2). Cái đấu ấy cũng có thể là chính lòng thương xót: "Ai có lòng xót thương ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thương xót vậy" (Mathêu 5:7).
Cha trên trời hay sử dụng chiêu "các con lấy đấu nào mà đong cho ai thì sẽ bị đong lại cho đấu ấy" (Mathêu 7:2) bằng cách để cho người xét đoán xấu cho anh chị em mình bị người khác xét đoán xấu y như vậy hay hơn vậy nữa. Nếu nạn nhân bị người khác đong trả cho đấu mà họ đong cho người khác, bấy giờ, tâm hồn thiện chí thấy được Thiên Chúa thật tốt lành, đã sử dụng chính những xét đoán xấu của người khác để làm cho họ mở mắt ra không dám xét đoán xấu cho ai nữa, trái lại, hoàn toàn thông cảm với mọi người hơn trước, không dám khinh thường một ai.
Đúng thế, nếu "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư?", như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, thì Người không thể nào tuyển chọn một người mù để dẫn dắt những ai Người muốn cứu độ, và dù Người có chọn họ chăng nữa, Người cũng phải làm cho họ sáng mắt đã, như trường hợp điển hình nhất là chàng Saolê, khi bị Người quật ngã, đứng lên mà chẳng thấy gì dù mắt vẫn mở, cho tới khi chàng được vị sứ giả của Người đặt tay làm cho mắt chàng sáng ra, chẳng những con mắt về thể lý mà nhất là con mắt thiêng liêng của chàng, để nhờ đó ngài được thánh hóa và sai đi "làm ánh sáng muôn dân - lumen gentium - để ngươi mang ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 13:47). Chính Thánh nhân đã tâm sự cùng môn đệ Timôthêu của ngài trong Thư 1 ở Bài Đọc 1 hôm nay như sau:
"Cha cảm tạ Ðấng đã ban sức mạnh cho cha, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin. Nhưng ân sủng của Chúa chúng ta đã tràn lan dồi dào, cùng với đức tin và đức mến, trong Ðức Giêsu Kitô".
Với cảm nhận thần linh như vậy, về bản thân mình và về lòng thương xót Chúa, vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô có thể cùng với Thánh Vịnh 15 xướng lên rằng:
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa; con thưa cùng Chúa: "Ngài là Chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con".
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.
3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời!
LỄ THÁNH DANH MARIA CỦA ĐỨC MẸ NGÀY 12/9
Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp từ 3 nguồn khác nhau, bao gồm cả một chút chia sẻ của mình
Thánh thi (Giờ Kinh Phụng Vụ Tối Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ 8/9)
Kính chào Mẹ là Sao Bắc Đẩu,
Đấng mệnh danh Hiền Mẫu Chúa Trời,
Chói loà trinh tiết gương soi,
Cửa vào cõi phúc tuyệt vời thiên cung.
Khi nhận tiếng “Kính Mừng” vinh dự,
Gáp-ri-en thần sứ tặng ban,
Chữ “E-va” Mẹ đảo vần
Thành “A-ve” gửi bình an cho đời.
Xin cởi dây trói người tội lỗi,
Mở mắt ai tăm tối đui mù,
Đuổi xa hoạn nạn rủi ro,
Đổ tuôn hồng phúc tựa hồ mưa sa.
Xin chứng tỏ Mẹ là Từ Mẫu,
Chuyển lời cầu đạt thấu Hoàng Thiên,
Toà cao Thánh Tử uy quyền,
Vua Trời Cứu Thế đã nên người trần.
Ôi Trinh Nữ siêu phàm khôn ví,
Ôi hiền hoà tuyệt thế Nữ Trinh,
Cứu đoàn con khỏi tội tình,
Trở nên thanh khiết hiền lành từ đây !
Xin giúp sống chuỗi ngày trong trắng,
Mẹ dẫn đường là chẳng phải lo,
Mai ngày gặp Chúa Giê-su,
Vui mừng hưởng phúc thiên thu chan hoà.
Lạy Thiên Chúa Ngôi Cha từ ái,
Lạy Ngôi Con quảng đại vô lường,
Thánh Thần trải rộng tình thương,
Ba Ngôi hiển trị thiên đường quang vinh.
I. THÁNH DANH MARIA - PHỤNG VỤ
Năm 1683, sau khi chiếm nước Hungary, quân Thổ Nhĩ Kỳ tiến vào nước Áo và dùng hai vạn quân binh để vây hãm kinh đô Vienna của nước này.
Dân thành Vienna hiệp nhau phòng thủ hết sức cẩn thận vì họ biết rằng sa vào tay quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ thì thế nào cũng bị hành hạ rất dã man.
Trong lúc dân thành Vienna sống trong phập phồng lo sợ, thì họ lại hú vía khi biết được rằng một nhà thờ đang bị bốc lửa, và lửa lan rộng rất nhanh, lan đến gần kho vũ khí. Nếu lửa chạm vào kho vũ khí, kho vũ khí sẽ nổ lớn, thành phố sẽ thiệt hại nặng về tài sản và nhân mạng, và quân địch sẽ vào chiếm thành dễ dàng.
Hôm đó là ngày Lễ Đức Mẹ Mông Triệu Thăng Thiên. Toàn dân thành Vienna sốt sắng kêu xin Đức Mẹ cứu họ khỏi thảm cảnh lửa cháy này. Họ van lên lớn tiếng Danh Thánh Mẹ “Lạy Mẹ Maria! Lạy Mẹ Maria!”
Lạ thay! Ngọn lửa đang cháy rùng rợn, bỗng dừng lại trước kho vũ khí và tắt. Kho vũ khí không nổ.
Trong khi đó, dân thành Vienna lại nhận được tin vui: viện binh Ba Lan của tướng Sobieski và việnh binh Đức của ông hoàng Carlo di Lorena đang tìm cách đến giải vây thành Vienna. Hai toán quân này gặp nhau trên đường đi cứu viện. Trước khi tiến quân ra trận giải cứu, họ tham dự thánh lễ. Và sau khi tham dự thánh lễ, họ đồng thanh hô to: “Chúng ta hãy lên đường! Đức Mẹ Maria sẽ ở cùng chúng ta!”
Một trận chiến nẩy lửa xảy ra. Quân Thổ bại trận, rút lui, để lại rất nhiều vũ khí, trong đó có 200 khẩu đại bác. Một nữa quân lính của họ bị thương và chết.
Đức Giáo Hoàng Inôxenxiô XI tuyên bố lập Thánh lễ dâng kính Thánh Danh Đức Mẹ Maria để kỷ niệm trận thắng lạ lùng này.
(Website của Cộng Đoàn Dũng Lạc)
II. THÁNH DANH MARIA - TÊN GỌI
Thánh Danh Maria theo tiếng Do Thái trong Cựu ước là Myriam, tiếng Aram là Maryam, tiếng Hy Lạp dịch Cựu ước là Mariam, tiếng Hy Lạp dịch Tân ước là Maria, tiếng Anh là Mary, tiếng Pháp là Marie, tiếng Latinh là Maria.
Trong Thánh kinh có tám người mang tên như Thánh Danh Đức Mẹ:
1. Chị ông Maisen thường gọi là Miriam (Xh 15:20-21; Ds 12:1-10);
2. Một phụ nữ con gái của Ezra (1 Sb 4:17);
3. Maria Mađalêna, người phụ nữ được trừ khỏi bảy quỉ (Lc 8:2);
4. Maria chị Lagiarô và em của Martha (Lc 10:38-42);
5. Maria mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan (Mc 15:40-47);
6. Maria vợ ông Clopas (Ga 19:25) có lẽ là mẹ của Thánh Giacôbê và
Gioan;
7. Maria mẹ của Thánh Marcô tác giả Phúc âm II (Cv 12:12);
8. Maria là một Kitô hữu ở Rôma mà Thánh Phaolô gửi lời chào (Rm
16:6).
III. THÁNH DANH MARIA - Ý NGHĨA
Thánh Danh Maria có những ý nghĩa:
1. Theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Do Thái có nghĩa là "biển". Do đó, Thánh Bênađô gọi Đức Mẹ là "Sao biển". Giáo hội có Thánh thi "Ave Maris Stella".
2. Cũng theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Aram là "Marta = Bà Chúa". Tiếng Latinh là Domina, tiếng Ý là Madona, tiếng Pháp là Notre Dame, tiếng Anh là Our Lady.
3. Maria tiếng Ai Cập là "mari" nghĩa là được yêu, là "mara" nghĩa là phương phi, hợp với vẻ thẩm mỹ của Á Đông là "lộng lẫy diễm lệ".
4. Maria tiếng Ugarit là "mrym" nghĩa là cao sang, uy nghi, tuyệt vời.
5. Theo nhà Thánh Mẫu học Scheeben, Maria tiếng Do Thái là Miryam biến thành myrrha maris, stilla maris, stella maris.
6. Maria nghĩa hay nhất là "làm sáng tỏ" vì Mẹ là bức gương trong, phản chiếu ánh sáng hằng hữu, là trung gian ánh sáng ơn thánh, là rạng đông và là mỹ nữ lồng bóng mặt trời.
7. Maria có nghĩa Tân Evà đem lại ơn Cứu rỗi, tương phản với Evà đem lại ác hoạ.
L.m. Phêrô Ngô Minh Châu, CRM (phần II + III trên đây)
IV. THÁNH DANH MARIA - XUẤT XỨ
Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ cho các thiên thần biết rằng từ đời đời Ngài đã tác tạo cho Mẹ và cho Ngôi Con danh hiệu Maria và Giêsu. Trong hai danh hiệu đó, Ngài được thỏa lòng hoàn toàn. Rồi Ngài phán: "Danh hiệu Maria phải được hiển vinh lạ thường. Những ai thành thực sốt sắng kêu cầu danh hiệu ấy sẽ được ban nhiều ân sủng. Những ai kính cẩn đọc lên sẽ được ủi an. Mọi người đều tìm được trong danh hiệu ấy phương dược trị liệu bệnh tật mình; được ánh sáng soi đường; được kho tàng cứu giúp sự túng nghèo. Danh hiệu Maria làm run sợ hoả ngục và đạp nát đầu cựu xà Satan".
Chính Chúa đặt danh hiệu ấy cho Mẹ. Mẹ đón nhận với những lời ca ngợi lạ lùng. Lúc Thiên Chúa đọc danh hiệu ấy lên, các thiên thần đều phủ phục, bái chào, hát lên thánh ca tán tụng, nhất là những vị mang biểu hiệu danh hiệu ấy càng nhiệt liệt tán tụng hơn.
Càng thực tâm nhiệt thành tôn kính danh hiệu rất dịu ngọt của Mẹ, con càng đi trên đường của Mẹ. Con nên biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Danh Hiệu ấy không biết bao nhiêu là ân sủng và đặc ân. Mẹ không thể nghĩ đến hay nghe đọc đến Danh Hiệu ấy mà lại không dâng lời cảm tạ Chúa.
Cho nên Mẹ quyết định làm những việc cả thể cho Chúa là Đấng đã ban cho Mẹ Danh Hiệu quí báu ấy.
(Trích từ Thần Đô Huyền Nhiệm, bản dịch của Phạm Duy Lễ)
V. THÁNH DANH MARIA - CĂN TÍNH
Xét cho cùng thì Thánh Danh Maria của Đức Mẹ là chính căn tính của Mẹ. Bởi thế, trong lời chào của Tổng sứ thần Gabiên mở đầu cho biến cố Truyền Tin, chỉ là "Kính mừng đầy ơn phúc" (Luca 1:28), chứ không phải "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", như trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn đọc. Nếu bình thường, khi chào ai thì chào tên người ấy, thì khi Tổng sứ thần Gabiên chào "kính mừng đầy ơn phúc" ngài thật sự đã ám chỉ "Maria", "một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a" (Luca 1:27). Như thế, quả thực "đầy ơn phúc" là chính Thánh Danh của Mẹ, một con người lịch sử mang tên gọi là "Maria, "mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô" (Mathêu 1:16).
Tên gọi bao giờ cũng chất chứa, nói lên hay phản ảnh chính căn tính của một hữu thể. Nếu tên của Thiên Chúa, được Ngài trả lời cho Moisen từ cuộc thần hiển bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi là "I am who am - Ta là Đấng hiện hữu (hay) Ta là Đấng có" (Xuất Hành 3:14), nghĩa là, Thiên Chúa là Đấng tự hữu, hằng hữu, toàn hữu, theo bản tính thần linh của Ngài, không ai dựng nên Ngài, trái lại, Ngài đã chẳng những tạo dựng nên tất cả mọi tạo vật hữu hình và vô hình trên trời dưới đất, mà còn quan phòng tất cả mọi sự một cách vô cùng khôn ngoan và toàn năng trong giòng lịch sử của chung tạo vật, nhất là của riêng loài người.
Thế nên, trong Lịch sử Cứu độ của dân Do Thái, Ngài mới liên lỉ hiện hữu, thủy chung, "bởi Ngài không thể nào chối bỏ chính mình Ngài" (2Timôthêu 2:13), không bao giờ thay đổi, không bao giờ bỏ họ dù họ có bỏ Ngài, đến độ, Ngài luôn ra tay cứu độ họ rất nhiều lần, trước hết và trên hết, nơi biến cố vượt qua từ Ai Cập, nơi họ mang thân phận nô lệ bất xứng, mà đem họ vào mảnh đất hứa chảy sữa sự sống và mật tự do của thành phần dân riêng của Ngài. Nên Ngài đã tự động xác nhận thêm về danh xưng của Ngài với Moisen cho rõ ràng hơn nữa: "Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: 'Ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en thế này: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia'." (Xuất Hành 3:15).
Như thế, nếu danh xưng của Thiên Chúa trong lịch sử nghĩa là "thủy chung" đối với dân của Ngài, tức Ngài "là Alpha và là Omega, là nguyên thủy và là cùng tận" (Khải Huyền 21:6), "Đấng hiện có, đã có và đang đến, Đấng toàn năng" (Khải Huyền 1:8), mà "thủy chung" gắn liền với "tình yêu mạnh như sự chết" (Diễm Tình Ca 8:6), một "thủy chung" là chính bản chất của tình yêu, là căn tính của Vị "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16), dám "chết cho người mình yêu" (xem Gioan 15:13), thì "đầy ơn phúc", ám chỉ Maria, là phản ảnh trung thực và sống động tình yêu thủy chung muôn thuở bất diệt này của Thiên Chúa, hay đúng hơn, là phản ảnh trung thực và sống động chính Vị "Thiên Chúa là tình yêu". Do đó nên đệ nhất tạo vật về ân sủng "đầy ơn phúc" Maria mới được Diễm Tình Ca trong Cựu Ước tỏ ra bàng hoàng ngỡ ngàng khi thấy "Kìa bà nào đang tiến lên ... rực rỡ như mặt trời" (6:10).
Có nghĩa là Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương trên hết mọi thụ tạo của Ngài: "Thiên Chúa ở cùng trinh nữ" (Luca 1:28), không phải chỉ bắt đầu vào chính lúc vị Tổng sứ thần chào Mẹ, mà ngay từ khi Mẹ được hoài thai trong lòng thai mẫu, với ơn vô nhiễm nguyên tội Chúa ban cho Mẹ, và chính bản thân Mẹ đã nhận biết đặc ân ấy của mình, nên Mẹ đã "được ơn nghĩa với Chúa (hay) đẹp lòng Chúa" (Luca 1:30).
Về phần mình, Mẹ đã luôn sống xứng đáng với tình yêu thương vô cùng ấy của Thiên Chúa, nghĩa là, Mẹ đã để cho Thiên Chúa yêu thương Mẹ cho đến cùng, đã để Ngài được tự do tỏ tất cả mình ra cho Mẹ và qua Mẹ, trong cả mầu nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua của Con Ngài, tùy theo cách thức của Ngài, tùy Ngài định đoạt tất cả mọi sự về Mẹ và nơi Mẹ, ở chỗ, Mẹ chỉ biết hoàn toàn và tuyệt đối phó thác tất cả bản thân của Mẹ và cuộc đời của Mẹ cho Ngài: "Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin hãy thực hiện nơi tôi những gì ngài truyền" (Luca 1:38). Bởi đó, Mẹ mới "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45), và mới được "hết mọi đời chúc khen diễm phúc" (Luca 1:48): "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", như "một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao" (Khải Huyền 12:1).
Có thể nói, đối với satan và bọn ngụy thần hỏa ngục đang tấn công Giáo Hội hơn bao giờ hết đây, còn kinh sợ Thánh Danh Maria của Đức Mẹ hơn cả Thánh Danh Giêsu nữa. Không phải vì Thánh Danh Maria hơn Thánh Danh Giêsu, hay Mẹ Maria cao hơn Chúa Giêsu, mà chỉ vì Thánh Danh Maria chỉ là một thụ tạo thuần túy đã trở thành Mẹ Thiên Chúa, mà chúng vô cùng kiêu hãnh bị thua bại thì mới nhục nhã hơn là chúng thua Chúa Kitô dầu sao cũng là Vị Thiên Chúa Làm Người. Và chúng đã thực sự bị thua ngay từ giây phút hoài thai của nhân vật lịch sử "đầy ơn phúc" Maria này, và cũng nhân vật "đầy ơn phúc" Maria ấy đã đạp nát cái đầu rắn quỉ kiêu căng ngạo mạn quỉ quyệt gian dối của luxiphe nơi satan cùng bọn ngụy thần, ở dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô Con Mẹ, để rồi cuối cùng, nhân vật "đầy ơn phúc" Maria này sẽ tiếp tục đạp nát đầu hắn cho tới tận thế, nơi từng thành phần con cái hèn nọn như gót chân của Mẹ bị hắn rình cắn..., như Mẹ đã tiên báo ở Fatima ngày 13/7/1917 ở cuối Bí Mật Fatima phần thứ 2: "Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng!" .
(Đaminh Maria cao tấn tĩnh, lễ Thánh Danh Mẹ 12/9/2020)
Thiên Chúa đã cho Thánh Mẫu của Đức Ki-tô trổi vượt hơn muôn loài trên trời dưới đất ; chúng ta hãy thiết tha cầu nguyện :
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con một người mẹ và một gương mẫu là Đức Ma-ri-a,
- vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin làm cho chúng con được nên thánh.
Chúa đã làm cho Đức Ma-ri-a biết để tâm nghe lời Chúa, và phụng sự Chúa như một nữ tỳ trung tín,
– vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin làm cho chúng con trở thành môn đệ chân chính của Đức Ki-tô.
Chúa đã nhờ quyền năng Thánh Thần mà làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai Con Một Chúa,
– vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin rộng ban cho chúng con những ân huệ Thánh Thần.
Chúa đã ban cho Đức Mẹ đầy sức mạnh mà đứng gần thập giá, và được vui mừng khi Con Chúa sống lại,
– vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin ra tay nâng đỡ chúng con trong lúc ngặt nghèo, và cho chúng con vững lòng trông cậy.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Thứ Bảy
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 1, 15-17
"Người đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này, để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Ðức Giêsu Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời. (Nguyện) danh dự và vinh quang (quy về) Thiên Chúa độc nhất, hằng sống, vô hình, là Vua muôn đời! Amen.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 112, 1-2. 3-4. 5a và 6-7
Ðáp: Nguyện danh Chúa được chúc tụng đến muôn đời (x. c. 2).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.
2) Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa. - Ðáp.
3) Ai được như Thiên Chúa chúng tôi, Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất? Người nâng kẻ hèn hạ lên khỏi trần ai, và rước người nghèo khó khỏi nơi phẩn thổ. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 43-49
"Tại sao các con gọi Thầy "Lạy Chúa, lạy Chúa", mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra. Tại sao các con gọi Thầy: "Lạy Chúa, lạy Chúa", mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Không thể theo Chúa mà lại không thực hành giáo huấn của Người
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXIII Thường Niên, là phần kết của những lời Chúa Giêsu huấn dụ các môn đệ của Người về đời sống trọn lành bằng Lòng Thương Xót như Cha trên trời, cho dù bài Phúc Âm hôm nay không trực tiếp đến chủ đề chính yếu ấy. Tuy nhiên, không phải vì bài Phúc Âm hôm nay không trực tiếp đến chủ đề chính yếu ấy mà Chúa Giêsu không nói đến như một phần bất khả thiếu của tất cả những gì Người muốn huấn dụ thành phần môn đệ của Người, bằng không, bài huấn dụ quan trọng này có thể sẽ trở thành vô bổ.
Chủ ý Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở trong bài Phúc Âm hôm nay đó là hãy đem những gì Người truyền dạy ra thực hành chứ đừng nghe suông thì chẳng bổ ích chi: "Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành".
Qua câu vừa có tính cách chất vấn (khúc đầu) vừa có tính cách khẳng định (khúc cuối) này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ vừa nghe xong chủ đề sống lòng thương xót như Cha trên trời rằng: nếu các con coi Thày là Thày của các con thì các con hãy thi hành những gì Thày đã truyền dạy cho các con, như thế các con mới chứng tỏ các con quả thực là môn đệ của Thày và thật sự muốn theo Thày.
Không biết khi nói câu này, Chúa Giêsu có nghĩ đến một trong thành phần 12 tông đồ được Người tuyển chọn sau cả một đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa là Giuđa Íchca hay chăng? Bởi vì, nếu người tông đồ được liệt kê cuối cùng này đem những gì Người truyền dạy ra thực hành thì người tông đồ đáng thương này đã không đi đến chỗ phản nộp Người.
Phải chăng đó là lý do ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã nêu lên nguyên tắc "trong sao ngoài vậy" và đường lối "xem quả biết cây" để thấy được chân tướng của những ai có thực hành lời Người hay chăng và họ để cho lời của Người tác dụng nơi họ hay chăng:
"Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra".
Đường lối xem quả biết cây như thế không phải chỉ liên quan đến thiên nhiên nơi loại thảo mộc mà còn liên quan đến chính vấn đề khôn ngoan và công sức của con người nữa, như trong việc con người có biết xây nhà trên nền tảng vững chắc hay không. Chúa Giêsu đã so sánh thành phần nghe lời của Người mà đem ra thực hành hay không đem ra thực hành như sau:
"Người ấy (Người thực hành lời Chúa) giống như người xây nhà: người ấy đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".
Nếu ở câu đầu bài Phúc Âm hôm nay, khi nói đến nguyên tắc "trong sao ngoài vậy" và đường lối "xem quả biết cây" có thể Chúa Giêsu đã nghĩ đến tông đồ Giuđa Íchca thế nào, thì trong câu Phúc Âm cuối bài này, Chúa Giêsu cũng có thể đã nghĩ đến tông đồ Phêrô sẽ được Người đổi tên là "đá", một người môn đệ cho dù sau này có lỡ chối bỏ Người, nhưng tự bản chất rất chân tình và nhiệt tình, luôn đơn sơ dễ dậy lắng nghe và thực hành lời của Người, như bài Phúc Âm Thứ Năm tuần trước về mẻ cá lạ cho thấy, vẫn được Người đặt làm nền tảng cho Giáo Hội Người thiết lập (xem Mathêu 16:18).
"Đá" liên quan đến tên gọi "Phêrô, con là đá" (Mathêu 16:18) ở đây có một ý nghĩa thiêng liêng hơn là tự nhiên. Thật vậy, theo tự nhiên thì đã là đá thì tự bản chất của nó phải cứng rắn và vững chắc, bằng không không phải là đá, như đã là ánh sáng thì phải chiếu soi, bằng không không phải là ánh sáng. Nhưng "đá" được Chúa Giêsu sử dụng để làm nền tảng cho Giáo Hội Người thiết lập đây lại bao gồm 2 đặc tính hoàn toàn tương phản nhau, ở chỗ vừa cứng lại vừa mềm: mềm ở bản chất của con người lãnh đạo tông đồ đoàn mang tên Simon này, và cứng ở lòng tin tưởng của ngài nơi Đấng đã kêu gọi và tuyển chọn ngài. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nhắn nhủ ngài rằng:
"Simôn, Simôn ơi, kìa Satan đã xin được sàng tất cả các con như người ta sàng gạo. Thế nhưng Thầy đã cầu nguyện cho con để con không bị mất lòng tin. Phần con, một khi đã trở lại, con hãy kiên cường củng cố cho anh em của con" (Luca 22:31-32).
Nếu "cứ xem trái thì biết cây", và nếu áp dụng vào trường hợp của chàng Saolê trở thành một vị Tông Đồ Dân Ngoại đủ thấy thật là chí lý, vì trái đây chính là bản thân được hoán cải của ngài, còn cây đây là lòng thương xót Chúa, như ngài đã tự thú với người môn đệ Timôthêu của ngài trong Bài Đọc 1 hôm nay như sau:
"Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này, để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Ðức Giêsu Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời. (Nguyện) danh dự và vinh quang (quy về) Thiên Chúa độc nhất, hằng sống, vô hình, là Vua muôn đời! Amen".
Chỉ có ai cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa như Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại mới tràn đầy tâm tình tri ân cảm tạ và chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa như Thánh Vịnh 112 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời.
2) Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa.
3) Ai được như Thiên Chúa chúng tôi, Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất? Người nâng kẻ hèn hạ lên khỏi trần ai, và rước người nghèo khó khỏi nơi phẩn thổ.
Ngày 13 tháng 9
Thánh Gio-an Kim Khẩu, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
lễ nhớ bắt buộc
Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi
(Phụng vụ giờ kinh sách)
Trích bài giảng của thánh Gio-an Kim Khẩu, giám mục.
Dù sóng nước mênh mông hay dông tố phũ phàng, chúng ta cũng không sợ bị chìm đắm vì chúng ta đứng vững trên đá tảng. Biển có thét gào cũng không thể làm đá tiêu tan ; sóng có trào lên cũng không thể nhận chìm thuyền của Đức Ki-tô. Vậy, chúng ta sợ gì ? Sợ chết ư ? Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi. Hay là sợ phải lưu đày, bạn hãy nói đi. Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài. Hay sợ tài sản bị sung vào công quỹ ? Chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Tôi coi khinh những hình khổ của thế gian này và cho lợi lộc của nó là chuyện nực cười. Tôi không sợ nghèo, chẳng ham giàu có, không ngại chết, cũng chẳng muốn sống, trừ khi là để làm ích cho anh em. Vì thế, tôi nhắc lại những gì đang xảy ra và xin anh em lấy lòng yêu mến mà tin tưởng vào Chúa.
Chẳng lẽ bạn không nghe Chúa nói thế này sao : Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy giữa họ ? Vậy, giữa một dân đông đảo được liên kết bằng dây bác ái, Người lại không có mặt sao ? Tôi nắm được bảo chứng của Người, tôi có dựa vào sức riêng đâu ! Lời của Người, tôi đang nắm giữ. Đó là chiếc gậy bảo đảm cho tôi được an toàn, là cảng yên hàn cho thuyền tôi cập bến. Dù cả trái đất có đảo lộn, tôi vẫn nắm giữ sắc chỉ của Chúa, vẫn đọc tâm thư của Người. Đó là tường thành che chở, là chiến luỹ bảo vệ tôi. Tâm thư nào thế ? Thưa lời này : Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
Đức Ki-tô ở với tôi, tôi còn sợ gì ai ? Dù ba đào, dù biển cả, dù quan quyền hung dữ có nổi lên chống lại tôi, tất cả những thứ đó, tôi coi tựa lông hồng. Nếu không phải vì yêu mến mà anh em giữ tôi lại, thì tôi đã không ngần ngại đi nơi khác ngay hôm nay rồi. Quả thật, tôi vẫn thưa với Thiên Chúa : Lạy Cha, xin cho ý Cha được thể hiện. Con sẽ làm không phải điều người này người kia muốn nhưng là điều Cha muốn. Thánh ý Chúa là đồn luỹ bảo vệ tôi, là đá tảng kiên cố cho tôi nương tựa, là cây gậy giúp tôi vững bước. Nếu Thiên Chúa muốn thế nào, thì xin xảy ra như vậy. Nếu Người muốn tôi ở lại đây, tôi xin tạ ơn Người. Người muốn tôi đi đâu, tôi vẫn dâng lời cảm tạ.
Tôi ở đâu, anh em cũng ở đó ; anh em ở đâu, tôi cũng ở đó : Chúng ta là một thân thể ; thân không lìa đầu, đầu không lìa thân. Chúng ta xa cách nhau về nơi chốn, nhưng liên kết với nhau nhờ đức ái, đến nỗi cái chết cũng không thể phân ly. Quả vậy, dù thân xác tôi có chết, thì linh hồn tôi vẫn sống để nhớ đến đoàn dân.
Đối với tôi, anh em là đồng bào, là cha mẹ, là anh em, là con cái, là chi thể, là thân mình, là ánh sáng, mà còn êm dịu hơn cả ánh sáng ban ngày nữa. Ánh sáng ban ngày đối với tôi, đâu có quý bằng đức ái của anh em. Ánh sáng có ích cho tôi trên đời này, còn đức ái của anh em kết triều thiên cho tôi ở đời sau.
Lạy Chúa là nguồn sức mạnh cho những kẻ cậy trông, Chúa đã ban cho Giáo Hội một khuôn mặt sáng chói là thánh giám mục Gio-an Kim Khẩu, nhờ tài hùng biện lạ lùng và lòng can đảm hiên ngang trước mọi cơn thử thách. Xin Chúa cũng ban cho chúng con được thấm nhuần lời thánh nhân giảng dạy và có sức chịu đựng như người. Chúng con cầu xin
ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Gioan Kim Khẩu ở 2 cái links dưới đây:
Thứ Tư 19/9/2007, Bài Giáo Lý 50 - Thánh Giáo Phụ Gioan Kim Khẩu
Thứ Tư 26/9/2007 – Bài Giáo Lý 51 - Thánh giáo phụ John Chrysostom (tiếp)