SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
Ngày 14 tháng 9
Lễ Suy Tôn Thánh Giá
Lễ Kính
Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9
"Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".
Trích sách Dân số.
Trong những ngày ấy, dân chúng đi đường và mệt nhọc, nên nản chí, họ kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này". Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ chạy đến cùng Môsê và thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn".
Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 77, 1-2. 34-35. 36-37. 38
Ðáp: Chúng ta đừng quên lãng những kỳ công của Chúa (c. 7c).
Xướng: 1) Hỡi dân tôi, hãy nghe lời huấn dụ, hãy lắng tai nhận lấy những lời miệng tôi. Tôi sẽ xuất khẩu nói ra lời ngạn ngữ, sẽ trình bày những điều bí nhiệm của thời xưa. - Ðáp.
2) Khi Người sát phạt họ, bấy giờ họ kiếm tìm Người, và họ trở lại kiếm tìm Thiên Chúa. Họ nhớ lại rằng Thiên Chúa là Ðá Tảng của họ, và Thiên Chúa Tối Cao là Ðấng cứu chuộc họ. - Ðáp.
3) Nhưng rồi miệng họ đã phỉnh phờ, và lưỡi họ ăn nói sai ngoa với Người. Ðối với Người, lòng họ không ngay thẳng; họ cũng không trung thành giữ lời minh ước của Người. - Ðáp.
4) Phần Người từ bi, tha lỗi và không huỷ diệt họ; nhiều khi Người đã tự kiềm chế căm hờn, và không để cho thịnh nộ hoàn toàn tuôn đổ. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11
"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em thân mến, Chúa Giêsu Kitô, tuy là [thân phận] Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa Kitô, chúng con thờ lạy Chúa; chúng con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dùng cây Thập giá mà cứu chuộc thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 3, 13-17
"Con Người phải bị treo lên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: "Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.
"Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ".
Ðó là lời Chúa.
PHỤNG VỤ GIỜ KINH LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
Thay vì bài suy niệm, chúng ta hãy cùng với Giáo Hội chiêm ngưỡng và suy tôn Thánh Giá ở những giờ Kinh Phụng Vụ sau đây:
Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành sau lễ Cung Hiến Thánh Đường Phục Sinh, được xây ở Giê-ru-sa-lem trên mồ thánh (năm 335).
Từ cõi chết phục sinh, Chúa Ki-tô đã chiến thắng sự chết. Thánh giá của Người tiêu biểu cho cuộc chiến thắng này.
Truyền thống còn thấy ở đây dấu chỉ của Con Người, Đấng sẽ xuất hiện trên trời để loan báo ngày Người trở lại.
Sầu chất nặng, thêm giấm chua mật đắng,
Đinh sắt, lưỡi đòng, gai nhọn đâm thâu,
Thân nát tan, và máu nước tuôn trào
Cho vũ trụ càn khôn được thanh tẩy !
Ta tin thật : muôn rừng xanh chẳng thấy
Một cây nào : cành, hoa, quả như ngươi !
Mấy mũi đinh nhẹ quá, thập tự ơi,
Sao mang nổi tấm hình hài vô giá ?
Rủ cành xuống, hỡi cây cao bóng cả,
Giãn thớ ra cho thân cứng hoá mềm
Như chiếc giường vừa trải nệm ấm êm
Chờ Vua Cả đến đặt mình nằm xuống.
Ôi thập tự, chỉ ngươi là xứng đáng
Giá chuộc đời, đem cất giữ trong tim !
Biển trần gian, tàu cờ hiệu Máu Chiên,
Ngươi rước kẻ đắm chìm cho cặp bến.
Cung trầm bổng dệt bài ca cầu nguyện,
Xin khấu đầu thượng tiến Chúa Ba Ngôi
Đã đổ hồng ân cứu chuộc loài người
Muôn muôn thuở, xin dâng lời vinh chúc !
Thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô,
thánh giá nâng Người lên cao
(Phụng vụ giờ Kinh sách)
Trích bài giảng của thánh An-rê, giám mục Cơ-rê-ta.
Hôm nay chúng ta mừng lễ thánh giá ; thánh giá đã xua tan bóng tối và đem lại ánh sáng. Chúng ta mừng lễ thánh giá, và cùng với Đấng bị đóng đinh, chúng ta được đưa lên cao. Vì thế, chúng ta hãy từ bỏ trần gian và tội lỗi để được những của trên trời. Có được thánh giá là điều lớn lao biết mấy ! Ai có thánh giá là có một kho tàng. Tôi vừa dùng chữ kho tàng để chỉ điều người ta gọi, -và sự thật là như thế-, đó là của tốt nhất và đẹp nhất trong mọi của cải, vì trong đó, nhờ đó và vì đó mà tất cả điều cốt yếu của ơn cứu độ chúng ta được tạo lập và phục hồi.
Quả vậy, nếu không có thánh giá, thì Chúa Ki-tô cũng đã không bị đóng đinh, sự sống cũng đã không bị đóng đinh vào cây gỗ và nguồn mạch trường sinh, máu cùng nước thanh tẩy thế giới cũng không vọt ra từ bên sườn Người, văn khế tội nợ cũng đã không bị xé, chúng ta cũng đã không được đón nhận tự do, cũng không được hưởng nhờ cây ban sự sống, thiên đàng cũng đã không mở ra. Nếu không có thánh giá thì sự chết đã không bị quật ngã, hoả ngục cũng đã không bị tước đoạt vũ khí.
Vậy thánh giá vừa cao cả, vừa quý báu. Cao cả, vì thánh giá đã sinh ra nhiều ơn ích, bởi lẽ Chúa Ki-tô càng làm nhiều phép lạ và chịu đau khổ bao nhiêu thì Người lại càng chiến thắng lẫy lừng hơn bấy nhiêu. Quý báu, vì thánh giá vừa là sự đau khổ, vừa là chiến tích của Thiên Chúa. Là sự đau khổ, bởi vì Người đã tự nguyện chết trên đó ; là chiến tích, bởi vì ma quỷ đã bị trọng thương và bị đánh bại ở đó, thần chết cũng đã bị thua cùng với nó ; then sắt hoả ngục bị đập tan và thánh giá trở thành nguồn ơn cứu độ cho toàn thế giới.
Thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô, thánh giá nâng Người lên cao. Thánh giá là chén đắng Người khát khao, là bảng thâu tóm mọi cực hình Người đã chịu vì chúng ta. Thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô, điều ấy, anh em hãy nghe chính Người nói : Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình. Vậy lạy Cha, giờ đây xin Cha tôn vinh Con bên Cha. Xin ban cho Con vinh quang mà Con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống : Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa. Điều ấy ám chỉ vinh quang Người sẽ được trên thánh giá.
Thánh giá nâng Chúa Ki-tô lên cao, anh em biết đó, điều ấy là do chính Người nói ra : Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ lôi kéo mọi người lên với tôi. Bạn thấy đó : thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô, thánh giá nâng Người lên cao.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá để cứu chuộc loài người. Xin cho chúng con mai sau được hưởng nhờ quả phúc cây thập giá, mà ngày nay chúng con vẫn một lòng yêu mến suy tôn. Chúng con cầu xin....
Ca Vịnh (Giờ Kinh Sáng: 3 câu mở và kết ở từng Ca Vịnh)
1- Đấng cam chịu khổ hình thập giá đã đập tan âm phủ, và đến ngày thứ ba đã sống lại đầy vinh hiển quyền năng.2- Ôi thập giá huy hoàng diễm phúc, thân xác Đấng nằm nghỉ trên ngươi, và máu đào Người đổ ra chan chứa sẽ chữa lành mọi thương tích phàm nhân.
3- Ôi thập giá cao sang rực rỡ, mang ơn cứu độ đến trần gian, ôi thập giá toàn thắng và hiển trị, thập giá xua đuổi mọi tội tình.
Thánh Ca Tin Mừng (Giờ Kinh Sáng: câu mở và kết)
Chúng con tôn thờ thánh giá Chúa, hát mừng Ngài sống lại hiển vinh; ấy chính vì bởi cây thập giá, niềm hân hoan tràn ngập địa cầu.
Lời cầu (Giờ Kinh Sáng)
Đức Ki-tô đã chết trên thập giá để chúng ta khỏi chết muôn đời. Vậy ta hãy tin tưởng cầu xin :
Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô là Con Thiên Chúa, xưa trong sa mạc, Chúa đã cứu dân Do-thái bằng dấu hiệu con rắn đồng, - nay xin dùng thập giá mà cứu chúng con khỏi vết thương tội lỗi.
Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.
Chúa là Vị Cứu Tinh Chúa Cha ban tặng cho loài người, để ai tin vào Chúa thì không phải hư mất, - xin cho những người đang tìm kiếm Chúa được hưởng cuộc sống muôn đời.
Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.
Chúa đã được Chúa Cha sai đến, không phải để lên án, nhưng là để cứu độ trần gian, - xin ban ơn đức tin cho thân bằng quyến thuộc chúng con, để họ được an vui hạnh phúc.
Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.
Chúa đã đến thắp lửa tin yêu trên toàn trái đất, và muốn cho lửa ấy bừng lên mãnh liệt, - xin cho chúng con biết sống theo sự thật và tìm đến cùng ánh sáng của Chúa.
Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.
Cờ Vua Cả tung bay phất phới,
Thánh giá Người chói lọi oai phong,
Ai ngờ chính Đấng Hoá Công
Thân treo thập giá lạ lùng xiết bao.
Người chịu đóng đinh vào khổ giá,
Mũi giáo đâm thấu cả cạnh sườn,
Máu đào cùng nước chảy tuôn,
Rửa ta sạch hết ngàn muôn tội tình.
Cây tô điểm đôi cành rực rỡ,
Thấm máu Vua thắm đỏ cẩm bào,
Lựa từ gốc rễ thanh cao,
Xứng cho Thánh Thể tựa vào thân ngươi !
Phúc thay giá chuộc đời treo sẵn,
Trên cành ngươi trĩu nặng giờ đây,
Thân hình Chúa Tể quyền oai
Cứu người dương thế khỏi tay tử thần.
Ôi Tế Phẩm, Tế Đàn cao sáng
Đã chung phần khổ nạn quang vinh,
Chúa Trời hằng sống dâng mình,
Chết đi để phúc trường sinh cho đời.
Lạy thánh giá, người người hy vọng,
Trong ngày này, mở rộng thiên ân :
Tôi trung phúc đức tăng phần,
Khoan hồng tha thứ tội nhân quy hồi.
Xin tán tụng Ba Ngôi một Chúa
Chính là nguồn cứu độ trào dâng,
Nhờ ơn thập giá đỡ nâng,
Đoàn con khải thắng hát mừng thiên thu.
Ta hãy nhìn lên Đức Ki-tô, Đấng chịu đóng đinh vào thập giá, và ta hãy tha thiết khẩn cầu Người :
Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa đã khước từ tất cả, mặc lấy thân phận nô lệ thấp hèn, và trở nên giống một kẻ phàm nhân, - xin cho mọi người trong Hội Thánh biết noi gương khiêm nhường của Chúa.
Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.
Chúa đã tự hạ, sống phục tùng, đến nỗi bằng lòng chết, và chết trên thập giá, - xin cho các tín hữu cũng biết sống kiên nhẫn và tùng phục lẫn nhau.
Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.
Chúa đã được siêu tôn, và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu, - xin cho các tín hữu Chúa được bền đỗ đến cùng.
Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.
Chúa đã được mọi nước mọi dân tuyên xưng là Đức Chúa, đồng vinh hiển với Chúa Cha, - xin cho những kẻ đã một lòng tin theo Chúa được vào hưởng vinh quang Nước Trời.
Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.
Suy Tôn Thánh Giá: Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa
Trần
Văn Trí
Hằng năm, Giáo Hội Công Giáo
dành ngày 14 tháng 9 làm Lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ kính...
Thánh Giá là ảnh tượng được
tôn kính, sùng mộ, rất thân thuộc trong đời sống đạo đức của người Kitô hữu.
Nhưng, dần dần vì quá quen người tín hữu có thể giảm bớt hoặc mất đi sự quan
tâm. Ngay cả dấu Thánh Giá, nhiều lúc, vì ảnh hưởng của thói quen, chỉ được
giáo hữu “làm dấu” qua loa lấy lệ, không còn nhớ đến ý nghĩa cao quý về hồng
ân châu báu Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế để lại dưới thế trần.
Để góp phần cùng quý giáo hữu
dọn lòng sốt sắng, tăng thêm tinh thần đạo đức tôn vinh Thánh Giá một cách
có ý thức trọn vẹn, chúng tôi xin giới thiệu một ít học hỏi về Thánh Giá; về
nghi lễ biểu dương Thánh Giá; về lễ Suy Tôn Thánh Giá; về dấu Thánh Giá và
mầu nhiệm Thập Giá.
Thánh Giá
Thập giá hay cái “giá” hình
chữ “thập” mang xác Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết để chuộc tội cho
nhân loại, nên được gọi là Thánh Giá. Ngay từ thời Giáo Hội tiên khởi vào
thế kỷ thứ nhất, vì biết lòng mến mộ Thánh Giá gia tăng lòng đạo đức, ảnh
hưởng đến việc mở mang Kitô Giáo, các vua chúa quan quyền, từ các hoàng đế
Roma đến quan chức tại Trung Đông, đã tìm đủ mọi cách quyết xóa bỏ niềm tin
vào Thánh Giá. Thập giá được dùng để thử thách, cưỡng bách người có đạo bước
qua hoặc chà đạp trước khi lãnh án “tử vì đạo”.
Thâm độc nhất là hơn hai thế
kỷ đầu theo niên lịch công nguyên, Kitô Giáo bị đàn áp và bách hại kịch
liệt. Vua Adriano ( 76 – 138 ), khi lên ngôi hoàng đế Roma ( 117 – 138 ) đã
ra lệnh triệt hạ hay phá hủy các di tích về Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, như nơi
Chúa Chịu Khổ Nạn, Chịu Chết và Mai Táng. Rồi khoảng năm 135, ông còn cho
xây nhiều đền thờ bụt thần trên Mộ Thánh của Đức Kitô và tìm mọi cách chôn
giấu Thánh Giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh, không cho giáo hữu tôn kính. Dù
vậy, trong khi đó tại Giêrusalem, Giáo Hội lại đi tiên phong trong các lễ
nghi và nghi thức Phụng Vụ liên quan đến Đấng Cứu Thế cũng như tôn vinh
Thánh Giá.
Mãi đến thế kỷ thứ tư, thời
vua Constantino ( khoảng năm 270, 280 đến 337 ), làm hoàng đế Roma ( 306 –
337 ), đạo Chúa mới được tự do. Sau khi nhờ phép lạ Thập Giá để được đại
thắng quân xâm lăng của Maxentio, vua ban hành lệnh tự do tôn giáo, dẹp bỏ
đàn áp bắt bớ Kitô Giáo. Ông trở lại đạo và bà Helena, mẹ vua, cũng trở lại
đạo Công Giáo. Vì lòng kính mến Chúa Giêsu Cứu Thế và nhiệt thành sùng mộ
Thánh Giá, năm 326, dù đã 80 tuổi, bà cũng thân hành qua Thánh Địa, cộng tác
chặt chẽ với Đức Cha Macario, Giám Mục thành Giêrusalem, để cho tiến hành
tìm các nơi Thánh, di tích sau hết của cuộc đời Chúa Cứu Thế.
Nhờ các nguồn thông tin có cơ
sở, bà cho xúc tiến đào bới về khảo cổ tại chân núi Calvario và đã lần lượt
tìm được các di tích về Khổ Nạn, Chịu Chết và Mai Táng Chúa Giêsu trong Mộ.
Thành công lớn lao nhất là tìm được ba cây Thập Giá: một của Đức Kitô và hai
của hai tên trộm. Theo nghiên cứu về Thánh địa, Linh Mục Jaud cho biết: Nhờ
phép lạ cứu sống một bệnh nhân đang hấp hối và một người đã chết được sống
lại, khi mỗi người chạm đến gỗ Thánh, Đức Giám Mục Macario xác định thập giá
thực trên đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh và gọi tên là Thánh Giá.
Nghi lễ biểu dương Thánh Giá
Sự tôn kính Thánh Giá đã có từ
lâu đời trong Giáo Hội Giêrusalem là nghi lễ biểu dương Thánh Giá vào Thứ
Sáu Tuần Thánh mà dần dần lan rộng trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Sau
đó, Đức Giáo Hoàng Gregorio ( 590 – 604 ) đưa vào Phụng Vụ Roma như nghi lễ
Thứ sáu Tuần Thánh ngày nay. Chính yếu là việc biểu dương “Gỗ thập giá”, với
lời kêu mời long trọng: Ecce lignum Crucis. Xướng: Đây là gỗ Thánh Giá, nơi
treo Đấng cứu độ trần gian. Đáp: Chúng ta hãy đến thờ lạy. ( Ecce lignum
crucis in quo salus mundi pependit. Venite adoremus. )
Vì thế, khi tham dự nghi lễ
Thờ lạy Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta hãy nhớ đến ý chỉ chính
của phụng vụ là tôn vinh “Gỗ thập giá” ( chứ không phải Thánh Giá có hình
Chúa Giêsu. )
Lễ Suy Tôn Thánh Giá
Lòng mến mộ và tôn kính Thánh
Giá đã có từ lâu đời trong Kitô Giáo. Cụ thể, khi đề cập đến Giáo Hội từ
thời sơ khởi, vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ nhất, nhiều chuyên gia về giáo
sử, đặc biệt như Giáo Phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì
có ý nghĩa, người Kitô hữu đều làm dấu Thánh Giá.” Thậm chí người Kitô hữu
có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành.
Nhưng, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh
Giá.
Đầu tiên, khi tìm được di tích
Thánh Giá vào năm 326, bà Helena cho xây cất hai đền thờ, một tại núi
Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh thành và cung hiến hai
đền thờ này được tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào hai ngày 13 và 14
tháng 9 để mừng Đền Thờ Calvario và Mộ Thánh. Năm 335, ngày 14 tháng 9 cũng
mừng kính ngày tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326. Vì gỗ Thánh
Giá thực rất quý, nên được phân ra nhiều phần rất nhỏ, chia cho các Giáo Hội
tại mỗi nơi. Thành Constantinopoli được phần Gỗ Thánh lớn hơn và phần còn
lại được lưu niệm tại Giêrusalem. Từ đó, ở Giêrusalem lễ tìm được Thánh Giá
mừng kính trọng thể vào ngày 14 tháng 9.
Tiếp đến, Lễ Suy Tôn Thánh Giá
được thiết lập tại Giêrusalem vào 14.9.629 như chứng tích sau:
Thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi
lên, vua Ba Tư Khosroès 1 ( 531 – 579 ), đem quân đến Cận Đông và đánh thắng
quân của đế quốc Roma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi
cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May thay, lúc ấy có ông Heraclius
( 575 – 641 ), vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành
Carthage, đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopoli
ngày 3.10.610, và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius 1 ( 610 –
641 ). Ông đã anh dũng điều khiển trận đánh và chiến thắng đầu tiên ngày
12.12.627. Ông rượt đuổi vua Khosroès 1 đến Ctésiphon, và tại đây, con trai
của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và giao nộp Thánh Giá thực lại cho
vua Heraclius 1.
Năm 629, Thánh Giá được kiệu
về Constantino, rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem. Vua Heraclius muốn
vác Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc vương phục và đội mũ hoàng
đế. Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy quá nặng. Tức thì, Đức
Zacharias, Giáo Chủ Giêrusalem, liền nói với vua: “Xin hoàng đế thận trọng
vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không hợp để vác
Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Chúa Giêsu Kitô.”
Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo
Chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và
Heraclius 1 vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với gỗ Thập giá Thánh, Thiên Chúa
còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết được sống lại; bốn người
bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi được trở nên sạch sẽ, bình
phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám được giải
thoát...” ( Viết theo nghiên cứu của Abbé L. Jaud, Vie des Saints, 1950 )
Từ đó, tại Giêrusalem, Đức
Giám Mục đã cử hành trọng thể lễ Suy Tôn Thánh Giá ngày 14 tháng 9 năm 629,
mà sau này trở thành Lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 ngày nay.
Dấu Thánh Giá
Suy tôn Thánh Giá có ý nghĩa
nhất là suy gẫm và làm Dấu Thánh Giá cách sốt sắng.
Sự tích Dấu Thánh Giá như sau: Điềm đã xảy đến đem lại chiến thắng cho hoàng
đế Roma Constantino là “một dấu chỉ lạ về Thập Giá”. Khi phải tuyên chiến
với quân của Maxentio xâm lược nước Ý, vua Constantino 1 ( 306 – 337 ) đã
nhìn thấy xuất hiện trên trời điềm lạ “một thập giá sáng ngời” với lời phán:
“Dưới dấu chỉ này, người sẽ chiến thắng – In hoc signo vinces”. Vua ra lệnh
giương cao “dấu Thánh Giá – signum Crucis” làm cờ hiệu và đã chiến thắng
quân Maxentio tại chân tường Roma, gần cầu Milvian, vào ngày 28.10.312. Vua
nhìn nhận đó là “dấu chỉ Thiên Chúa ban ơn”, nên đã ra lệnh dep bỏ mọi hình
thức bắt đạo và truyền loan “Kitô Giáo là tôn giáo chính thức của hoàng
triều Roma.”
Làm dấu Thánh Giá
Theo Phụng Vụ, Thánh Giá được
tôn vinh trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Thông thường, khi làm Dấu Thánh
Giá trên mình, người Kitô hữu đọc kinh: “Nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần.” Nhưng vẫn có nhiều trường hợp làm Dấu Thánh Giá mà không đọc Kinh Dấu
Thánh Giá, như trong Thánh Lễ với câu: “Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh
Chúa”, và sau Kinh cáo mình: “Xin Thiên Chúa toàn năng...” Hoặc, trước khi
đọc Phúc Âm, vị Chủ Tế hoặc Phó Tế làm Dấu Thánh Giá nhỏ trên khởi đầu Tin
Mừng, rồi làm Dấu Thánh Giá nhỏ trên trán, trên môi miệng và trên ngực.
Hoặc, trong Phụng Vụ Giờ Kinh
khi đọc “Lạy Chúa, xin hãy phù trợ chúng tôi – Deus in adjutorium nostrum
intende”, hay khởi đầu các bài “Magnificat”, “Benedictus”, hay “Nunc
Dimitis”, hoặc làm một Dấu Thánh Giá nhỏ trên môi khi đọc: “Lạy Chúa xin mở
môi con ra – Domine labia mea aperies”.
Trong Giáo Hội Chính Thống
Giáo, việc làm Dấu Thánh Giá được thực hiện nghiêm chỉnh bằng “bàn tay phải
với ba ngón tay “ngón trỏ, ngón chỉ và ngón giữa” tụm lại, tiêu biểu niềm
tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa; còn hai ngón đeo nhẫn và ngón út thì sát vào
nhau, để chỉ sự kết hợp của “thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu”.
Mầu nhiệm Thánh Giá
Giáo huấn của Hội Thánh rất
phong phú về Suy Tôn Thánh Giá. Theo hướng dẫn của Giáo Lý Giáo Hội Công
Giáo, suy tôn Thánh Giá chính là:
1. Minh chứng Đức Tin qua
gương Mẹ Maria. “Khi chứng kiến Chúa Giêsu bị treo trên Thập Giá, Đức Tin
của Mẹ không bao giờ dao động vì Mẹ tin rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa
của Ngài cứu chuộc nhân loại.” ( Giáo Lý 149 ).
2. Cổ võ sự thống hối và tôn
thờ Thiên Chúa, như được ghi trong Sách Công Vụ Tông Đồ: “Khi nói cùng toàn
thể nhà Ítraen, Phêrô quả quyết: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên Thập giá
thì Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài là Chúa và là Đức Kitô.” ( Cv 2, 36; Giáo Lý
440 ).
3. Kêu gọi yêu thương, hiệp
nhất, như lời Thánh Phaolô Tông Đồ: “Chúa Kitô bị treo trên Thập Giá thu hút
mọi người đến với Ngài” ( Ga 12, 32; Giáo Lý 160 ), “lôi cuốn hết thảy cùng
hiệp nhất với nhau.” ( Giáo Lý 542 ).
4. Tuyên rao Nước Chúa trị
đến, như lời ca tôn vinh gỗ Thập Giá “Vexilla Regis” Thứ Sáu Tuần Thánh ghi
lại: “Chính nhờ cây Thánh Giá của Chúa Kitô mà Nước Thiên Chúa được thiết
lập cách dứt khoát... Thiên Chúa đã cai trị từ trên cây gỗ này” ( Giáo Lý
550 ).
5. Thánh Giá là bằng chứng
Chúa Giêsu tiếp tục bênh vực cho chúng ta trên Nước Trời. Thánh Phaolô Tông
Đồ nói: “Sự nâng lên trên cây Thập Giá ngụ ý và báo trước việc Chúa lên
Trời. Ngài là Đấng ra trước Thiên Chúa để bênh vực chúng ta” ( Dt 9, 24;
Giáo Lý 662 ).
Công Đồng Vaticano 2 ( 1962 –
1965 ) khai triển Suy Tôn Thánh Giá hướng đến:
Mầu nhiệm Phục Sinh. “Sau khi chịu chết trên Thập giá, Đức Kitô đã phục
sinh” ( GH ). “Nhờ Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, thế gian đã được
giải thoát” ( MV, 2 ).
Thánh Lễ: Mỗi lần hy tế Thập Giá được cử hành trên bàn thờ, Chúa Kitô, Chiên
Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế” ( 1Cr 5, 7 ) thì công trình cứu chuộc
được thực hiện” ( GH, 3 ).
Ơn cứu độ. “Nhờ Người đã hoàn
tất công trình cứu chuộc trên Thập Giá, mang lại cho con người ơn cứu độ và
tự do” ( TD, 11 ).
Hòa giải. “Đức Kitô
đã hòa giải con người với Chúa Cha bằng Thập Giá” ( MV, 78 ).
(nguồn: webiste tinmung)
"Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!" - Dưới chân Thánh Giá trên đỉnh đồi ở Linh Địa La Salette Pháp quốc - Nhóm TĐCTT Hành Hương Thánnh mẫu Thời Điểm Maria ngày 19/5/2017
Chúa Nhật
(Nếu không bị trùng với Lễ Suy Tôn Thánh Giá trên đây như năm 2025)
Bài Ðọc I: Xh 32, 7-11. 13-14
"Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: "Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Chúa phán cùng Môsê: "Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại".
Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: "Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng: "Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời. Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi". Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 12-13. 17 và 19
Ðáp: Tôi sẽ chỗi dậy và đi về cùng cha tôi (Lc 15, 18).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.
2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Tm 1, 12-17
"Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian để cứu độ những người tội lỗi".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Cha cảm tạ Ðấng đã ban sức mạnh cho cha là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin. Nhưng ân sủng của Chúa chúng ta đã tràn lan dồi dào cùng với đức tin và đức mến trong Ðức Giêsu Kitô.
Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Ðức Giêsu Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời.
Danh dự và vinh quang (xin dâng về) Thiên Chúa độc nhất, hằng sống, vô hình, là Vua muôn đời. Amen!
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 15, 1-10 {hoặc 1-32}
"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng".
Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy, Tôi bảo các ông: "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'. Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
{Người lại phán rằng: "Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: 'Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con'. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó muốn hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha'. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa'. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: 'Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
"Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: 'Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ'. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: 'Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn, còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó'.
"Nhưng người cha bảo: 'Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'".}
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Chủ đề thật hiển nhiên của Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXIV Thường
Niên Năm C hôm nay đó là lòng thương xót Chúa. Theo chiều hướng chính
yếu của bài Phúc Âm về các dụ ngôn liên quan đến tình yêu vô cùng nhân
hậu của Thiên Chúa, Bài Đọc 1, Bài Đọc 2 và Đáp Ca cũng được Giáo Hội
chọn đọc chất chứa nội dung thương xót.
Thật vậy, những hình ảnh trong một loạt 3 dụ ngôn, 1 về đồ vật là đồng
bạc bị thất lạc mà người đàn bà tìm thấy, 1 về con vật là con chiên lạc
mà người chủ chiên tìm về, và 1 về con người là đứa con phung phá trở
về nhà cha, cả 3 đã được Chúa Giêsu sử dụng trong bài Phúc Âm hôm nay để
mạc khải cho thành phần luật sĩ và biệt phái vốn tự cho mình là người
công chính mà khinh thường kẻ tội lỗi.
Loạt 3 dụ ngôn bao gồm 3 hình ảnh biểu trưng, được Chúa Giêsu cố ý sử
dụng để cho thấy những gì là giá trị và cao quí nơi từng biểu tượng
trước lòng thương xót Chúa vô biên này, đều thực sự đã được hiện thực
hóa nơi 2 trường hợp lịch sử hết sức cụ thể, đó là trường hợp của một
dân tộc Do Thái độc thần, nhưng vẫn sống theo khuynh hướng ngẫu tượng
như dân ngoại, do đó đã bị lạc loài ở trong Bài Đọc 1, và trường hợp của
một chàng Saolê biệt phái cuồng nhiệt với Do Thái giáo của mình nhưng
lại hoàn toàn bị lầm lạc ở trong Bài Đọc 2 hôm nay.
Trước hết, về trường hợp của dân Do Thái trong Bài Đọc 1, được trích từ
Sách Xuất Hành, một dân Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn cách riêng để
tỏ mình ra cho họ, qua giòng lịch sử cứu độ của họ, bắt đầu từ biến cố
vượt qua của họ, từ tình trạng làm tôi cho người Ai Cập cho đến khi họ
trở thành một quốc gia tự do, ở chính mảnh đất được Thiên Chúa hứa ban
cho họ tổ phụ Abraham của họ.
Tuy nhiên, cho dù dân này đã chứng kiện tận mắt thấy Thiên Chúa chân
thật duy nhất của họ tỏ mình ra, qua biến cố vượt qua biển đỏ đầy quyền
năng của Ngài, cách đó trong vòng 100 ngày, thế mà họ đã sớm bỏ Ngài, mà
quay ra tôn thờ ngẫu tượng do chính họ tạo ra là con bò được đúc bằng
vàng.
Cho dù Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ đến độ Ngài muốn tận diệt họ ngay bấy
giờ, như Bài Đọc 1 hôm nay ghi nhận:
"Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi
cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở
nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại",
nhưng cuối cùng “Chúa đã nguôi
cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người”.
Tại sao?
Không phải tại vì Moisen đã can thiệp cho dân và đã van xin Ngài, cho
bằng chính Ngài đã muốn lợi dụng tình trạng cứng lòng mù quáng của dân
được Ngài tuyển chọn, để nhờ đó có thể tỏ lòng thương xót họ, cho họ mỗi
ngày một nhận biết thực sự dung nhan và bản tính là tình yêu vô cùng
nhân hậu của Ngài.
Do đó Ngài đã tự động tỏ cho Moisen là đại diện dân của Ngài bấy giờ
biết tội đáng bị tận diệt của dân, đồng thời cũng soi động cho Moisen
biết cách can thiệp vào sự vụ một cách hữu hiệu nhất, khi vị đại cứu
tinh kiêm giải phóng dân tộc tiên khởi này của dân đã khôn khéo đánh
trúng cõi lòng của Ngài, đó là nhắc lại chinh những gì Ngài đã hứa với
tư cách là một vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân Do Thái, một sự
thật phản ảnh trung thực danh xưng “Ta
là Ta” / “Ta là Đấng Có”,
“Ta là Đấng Hiện Hữu”
(Xuất Hành 3:14) của Ngài.
Sau nữa, về trường hợp của chàng biệt phái cuồng nhiệt với Do Thái giáo
của mình là Saolê ở trong Bài Đọc 2 hôm nay, một con người đã tự thú với
người môn đệ Timôthêu của mình ở Thư 1 gửi ngườì môn đệ này, một tự thú
về bản thân tội lỗi nhầm lạc của mình, nhưng đồng thời lại tuyên tụng
lòng thương xót Chúa, những lời tự thú mang tính cách tuyên xưng thật là
tuyệt vời, như một bản thánh ca 2 bè được hợp ca thật cảm kích lòng
người, bè trầm là tội nhân Saolê và bè bổng là lòng thương xót Chúa:
“Cha cảm tạ Ðấng đã ban sức mạnh cho cha là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ:
dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha
đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc
cha chưa tin. Nhưng ân sủng của Chúa chúng ta đã tràn lan dồi dào cùng
với đức tin và đức mến trong Ðức Giêsu Kitô.
“Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Ðức Giêsu Kitô đã đến
trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là
người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Ðức Giêsu
Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho
những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời. Danh dự và vinh quang
(xin dâng về) Thiên Chúa độc nhất, hằng sống, vô hình, là Vua muôn đời.
Amen!”
Nếu trong trường hợp của dân Do Thái ở Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy
tính cách lạc loài của họ ở khuynh hướng ngẫu tượng tự nhiên như dân
ngoại, trong việc thờ con bò vàng của họ, thì trong trường hợp của chàng
biệt phái cuồng nhiệt Saolê ở Bài Đọc 2 hôm nay, chúng ta lại thấy được
tính chất lầm lạc chủ ý nhưng vô tình của chàng, đúng như chàng đã thành
thực nhận biết mình và thú nhận:
“cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin”.
Tuy nhiên, trong cả 2 trường
hợp, đều giống nhau ở chỗ lầm lạc, và cả 2 đều được Thiên Chúa lợi dụng
để tỏ mình ra, để tỏ lòng thương xót của Ngài ra, nhờ đó Ngài được tin
tưởng hơn nơi dân của Ngài, và qua con người tội lỗi nhất hay thứ nhất
là chàng Saolê ở Bài Đọc 2 hôm nay, Ngài càng được nhận biết hơn nơi
riêng dân Do Thái cũng như chung dân ngoại, khi chàng trở thành một đại
tông đồ, và đó là lý do vị tông đồ sinh non này mới tiến đến chỗ xác
tín, hoàn toàn khác hẳn với chủ trương tự công chính hóa của thành phần
biệt phái và luật sĩ lầm lạc như chàng, rằng:
Thiên Chúa tỏ mình cho con người bằng lòng thương xót của Ngài, để cứu
độ con người và làm cho con người được hiệp thông thần linh với Ngài, và
con người nhờ tin, qua chính tác động của Ngài nơi chính bản thân mình,
hay qua một chứng từ về lòng thương xót của Ngài nơi một trung gian môi
giới nào đó, mà được cứu độ, mà nên công chính:
“Cha
được hưởng nhờ ơn thương xót, là Ðức Giêsu Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan
dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu
được sống đời đời”.
Chưa hết, trong Bài Đọc 1, những gì tự thú của Thánh Phaolô còn cho thấy
một chi tiết rất quan trọng nữa về lòng thương xót Chúa, đó là Thiên
Chúa tin tưởng con người hơn con người tin tưởng Thiên Chúa. Bởi thế mà,
cho dù quá khứ của một con người lầm lạc như ngài, thế mà ngài vẫn được
Thiên Chúa xót thương, chẳng những làm cho bản thân ngài được chân lý
giải phóng, mà còn trở thành chứng nhân cho chân lý là lòng thương xót
Chúa, cho ân sủng chàng đã lãnh nhận nữa:
“Cha cảm tạ Ðấng đã ban sức mạnh cho cha là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ:
dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng…”
Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh tâm tình của những ai thực sự biết
mình tội lỗi khốn nạn lạc loài trước nhan Thiên Chúa, nhưng nhờ tác động
thần linh của Ngài vào một lúc nào đó trong đời của mình, đã cảm nghiệm
được lòng thương xót Chúa, được tỏ hiện bằng tác động dứt khoát:
“Tôi sẽ chỗi dậy và đi về cùng cha tôi (Luca 15, 18)” (câu họa của
Bài Đáp Ca), xuất phát từ một tấm “lòng
tan nát khiêm cung” của họ:
1)
Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo
lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng
tội ác.
2)
Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần
cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ
thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
3)
Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. Của lễ
con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng
tan nát khiêm cung.
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 2, 1-8
"Cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho mọi người. Ngài muốn mọi người được cứu độ".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Trước tiên, cha khuyên hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch. Ðó là điều tốt lành và đẹp lòng Ðấng Cứu Ðộ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý.
Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Ðấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Ðức Giêsu Kitô, cũng là con người. Người đã phó Mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người, mà vì chứng tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao giảng, làm Tông đồ (cha nói thật chứ không nói dối), và làm Thầy dạy dân ngoại trong đức tin và chân lý.
Vậy cha muốn rằng những người đàn ông cầu nguyện trong mọi nơi, hãy giơ lên hai tay thanh sạch, không oán hờn và cạnh tranh.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 27, 2. 7. 8-9
Ðáp: Chúc tụng Chúa, bởi Ngài đã nghe tiếng tôi van nài (c. 6).
Xướng: 1) Xin nghe tiếng con van nài, khi con kêu cầu tới Chúa, khi con giang tay hướng về thánh điện của Ngài. - Ðáp.
2) Chúa là mãnh lực và là khiên thuẫn của tôi, lòng tôi tin cậy vào Ngài và đã được Ngài cứu trợ, bởi thế tâm hồn tôi hoan hỉ và tôi xướng ca ngợi khen Ngài. - Ðáp.
3) Chúa là mãnh lực của dân Ngài, là chiến lũy bảo vệ mạng sống người Chúa đã xức dầu. Xin cứu sống dân tộc và chúc phúc cho phần gia nghiệp Chúa, xin hãy chăn nuôi họ, vinh thăng họ tới muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Gc 1, 18
Alleluia, alleluia! - Do ý định của Thiên Chúa, Người đã sinh chúng ta bằng lời sự thật, để chúng ta nên như của đầu mùa các tạo vật. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 1-10
"Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân chúng xong, Người vào Capharnaum. Bấy giờ một viên sĩ quan có tên đầy tớ thân tín bị bệnh gần chết. Nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ lão Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van xin Người rằng: "Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến dân ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta". Chúa Giêsu đi với họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này sai mấy người bạn đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh. Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm".
Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc nhiên và quay lại nói với đám đông theo Người rằng: "Ta nói thật với các ngươi, cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy". Và những người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ lành mạnh.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XXIV Thường Niên hôm nay là bài tiếp ngay sau Bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, tức ngay sau bài giảng về việc sống Lòng Thương Xót như Cha trên trời.
Đó là lý do, mở đầu bài Phúc Âm hôm nay đã có câu móc nối một cách mạch lạc như sau: "Sau khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe, Đức Giêsu vào thành Carphanaum". Qua câu mở đầu bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu huấn dụ về việc sống Lòng Thương Xót đây chẳng những trực tiếp cho thành phần tông đồ môn đệ của Người khi "ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói" (Luca 6:20), mà còn cho cả dân chúng ở chung quanh các vị nữa: "Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđêa, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tyro và Sidon đến để nghe Người giảng" (Luca 6:17-18).
Nếu đối với các tông đồ môn đệ của mình, Chúa Giêsu chú trọng tới giáo huấn thế nào, như Người đã huấn dụ các vị ở Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi (xem Mathêu các đoạn 5-7), hay ở Loạt Dụ Ngôn về Nước Trời nhất là về ý nghĩa sâu nhiệm của một số dụ ngôn Người giải thích riêng cho các vị (xem Mathêu đoạn 13), hoặc ở Bữa Tiệc Ly (xem Gioan các đoạn 14-17), thì đối với chung dân chúng Người chú trọng đến việc chữa lành cho họ hơn, vì đó là nhu cầu của họ và đó cũng là nhu cầu tỏ mình ra của Người là Đấng Cứu Thế nơi họ nữa.
Thật ra phép lạ chữa lành này của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã được bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại và được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Bảy Tuần XII Thường Niên rồi (Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XII Thường Niên). Sở dĩ Giáo Hội muốn đọc lại câu chuyện chữa lành này có thể là vì bài Phúc Âm hôm nay được Giáo Hội chọn đọc cùng với một bài đọc Tân Ước, chứ không phải bài đọc Cựu Ước như lần trước.
Thực vậy,
trong Bài Đọc
1 hôm nay, khi viết cho người môn đệ Timôthêu của mình ở đầu bức thư thứ
2, Thánh Phaolô đã đề cập đến: 1- ý của Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi
người, tức bao gồm cả dân ngoại nữa chứ
không phải chỉ có dân Do Thái thôi, và
2- đâu là chân lý cứu độ mà con người cần phải nhận biết và chấp
nhận để được cứu độ. Thánh Phaolô đã khẳng định về 2 yếu tố cứu độ then chốt
này như sau:
"Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, nhân vật ngỏ ý xin Chúa Giêsu chữa lành chẳng những là một người dân ngoại mà còn là một trong "những người cầm quyền" (Bài Đọc 1), với vai trò là "một viên đại đội trưởng" (Bài Phúc Âm), nhưng lại là một viên đại đội trưởng vừa thương người vừa khiêm tốn.
Viên đại đội trưởng này thương người ở chỗ ông đã lưu tâm đến một trai đầy tớ đang hấp hối trong nhà lúc bấy giờ và đã từng giúp đỡ dân chúng đến độ được dân mến thương: "Một viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm. Khi nghe đồn về Đức Giê-su, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông. Họ đến gặp Đức Giê-su và khẩn khoản nài xin Người rằng : 'Thưa Ngài, ông ấy đáng được Ngài làm ơn cho. Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta'".
Khiêm tốn ở chỗ tự cảm thấy bất xứng nên không dám đến gặp Chúa và cũng không đáng được Chúa đặt chân vào tệ xá của ông: "Đức Giê-su liền đi với họ. Khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này cho bạn hữu ra nói với Người: 'Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Cũng vì thế, tôi không nghĩ mình xứng đáng đến gặp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh. Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: 'Đi !' là nó đi ; bảo người kia : 'Đến !' là nó đến ; và bảo người nô lệ của tôi : 'Làm cái này !' là nó làm".
Đức bác ái và lòng khiêm tốn của viên đại đội trưởng có thẩm quyền này quả thực đã cho thấy đức tin của ông ta vào Thiên Chúa, cho dù ông thuộc thành phần dân ngoại, một đức tin chưa chắc dân Do Thái đã có, một đức tin cứu độ. Đó là lý do Chúa Giêsu đã không thể nào không hết lời khen ông ta trước mặt dân Do Thái rằng:
"Nghe vậy, Đức Giê-su thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo Người rằng: 'Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Israel, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế'. Về đến nhà, những người đã được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn".
Ở Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô khuyên người môn đệ Timôthêu của ngài "hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng". Tại sao? Tại vì, như chính ngài tiếp tục cho biết: "Ðó là điều tốt lành và đẹp lòng Ðấng Cứu Ðộ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý". Trong đó, có viên sĩ quan Roma ngoại giáo trong bài Phúc Âm hôm nay, một con người dù không phải là tín đồ Do Thái giáo, thành phần vốn được Thiên Chúa tuyển chọn và tỏ mình ra cho, lại có một đức tin còn hơn cả dân Chúa, như chính Chúa Kitô đã phải lên tiếng khen tặng vị này trong bài Phúc Âm hôm nay.
Viên sĩ quan ngoại giáo của đế quốc Roma này, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, vừa khiêm tốn lại bác ái vị tha, đã tin tưởng vào Chúa Kitô là Đấng có thể cứu chữa người đầy tớ Do Thái trong nhà của ông, đến độ Người không thể không ra tay chữa lành cho người đầy tớ của ông, đồng thời cũng là dịp để Người tỏ mình ra cho ông, vì Thiên Chúa là Đấng đã sai Người "muốn cho mọi người được cứu rỗi (bởi Người) và đến nhận biết chân lý (là Người, là tình yêu thương của Thiên Chúa nơi Người đối với loài người)". Và chính nhờ được Thiên Chúa tỏ mình ra qua Con Ngài là Chúa Kitô như thế mà viên sĩ quan này có thể vang lên bài Thánh Vịnh 27 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Xin nghe tiếng con van nài, khi con kêu cầu tới Chúa, khi con giang tay hướng về thánh điện của Ngài.
2) Chúa là mãnh lực và là khiên thuẫn của tôi, lòng tôi tin cậy vào Ngài và đã được Ngài cứu trợ, bởi thế tâm hồn tôi hoan hỉ và tôi xướng ca ngợi khen Ngài.
3) Chúa là mãnh lực của dân Ngài, là chiến lũy bảo vệ mạng sống người Chúa đã xức dầu. Xin cứu sống dân tộc và chúc phúc cho phần gia nghiệp Chúa, xin hãy chăn nuôi họ, vinh thăng họ tới muôn đời.
Ngày 15 tháng 9
Lễ Ðức Mẹ Sầu Bi
Lễ Nhớ
Đức Ma-ri-a đã hiệp thông sâu xa với cuộc Thương Khó của Chúa Con. Vì thế, Mẹ cũng được liên kết một cách độc nhất vô nhị với cuộc Phục Sinh của Người. Chính vì thế, sau ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, chúng ta mừng lễ Đức Ma-ri-a cùng chia sẻ cuộc Thương Khó của Đức Giê-su. Lễ này nhắc cho chúng ta nhớ rằng : dưới chân thánh giá, tình mẫu tử của Đức Ma-ri-a đã trải rộng ra khắp Thân Thể nhiệm mầu của Chúa Ki-tô, tức là Hội Thánh.
Đức Mẹ đứng gần bên thánh giá
(Giờ Kinh Sách 15/9)
Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.
Cuộc tử đạo của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, chúng ta biết được là nhờ lời tiên báo của ông già Si-mê-ôn, cũng như chính bài tường thuật cuộc Thương Khó của Chúa. Về Hài Nhi Giê-su, ông già nói rằng : Cháu sẽ là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn bà -ông nói với Đức Ma-ri-a- bà sẽ bị nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thâu.
Vậy lạy Mẹ diễm phúc, một lưỡi gươm đã đâm thâu lòng Mẹ. Lưỡi gươm ấy không thể đâm vào thân con của Mẹ mà một trật không đâm thâu lòng Mẹ. Thật đúng, Chúa Giê-su, Con của Mẹ tuy là của tất cả mọi người, nhưng đặc biệt là riêng của Mẹ ; sau khi trút hơi thở cuối cùng, Người đã không bị lưỡi gươm tàn bạo đâm thấu lòng. Lưỡi gươm đó không tha cho một người đã chết mà nó không còn làm hại được nữa, nó đã mở sườn Người ra ; nhưng chính lúc đó, nó lại đâm thâu lòng Mẹ. Linh hồn của Người, chắc chắn không còn đó nữa, nhưng tâm hồn của Mẹ không tránh đâu được. Lòng Mẹ đã bị đau khổ đâm thâu, vì vậy, chúng con thật có lý mà tuyên bố rằng Mẹ còn hơn cả vị tử đạo, bởi vì nỗi đau do việc Mẹ cùng chịu khổ chắc chắn đã vượt quá sự đau khổ trong thân xác. Câu : Thưa Bà, đây là con Bà, đối với Mẹ, chẳng còn hơn một lưỡi gươm và đã chẳng đâm thâu lòng Mẹ cùng đạt tới chỗ phân cách tâm với linh sao ? Ôi cuộc trao đổi kỳ lạ ! Thánh Gio-an đã được trao cho Mẹ để thế chỗ Chúa Giê-su. Người tôi tớ thế chỗ chủ, người môn đệ thế chỗ thầy, con ông Dê-bê-đê thế chỗ Con Thiên Chúa, một người phàm thay vì Thiên Chúa thật. Làm sao nghe lời này, lòng Mẹ đầy âu yếm không bị đâm thâu, trong lúc chúng con, dù lòng chai dạ đá mà chỉ nhớ tới lời đó thôi, cũng cảm thấy lòng mình tan nát ?
Thưa anh em, anh em đừng ngạc nhiên khi Đức Ma-ri-a được gọi là vị tử đạo trong tâm hồn. Có ngạc nhiên chăng là kẻ quên lời thánh Phao-lô nói rằng một trong những tội tày trời của dân ngoại là vô tâm bạc tình. Một tội như thế thật xa lạ đối với lòng dạ Đức Ma-ri-a. Ước gì tội đó cũng xa lạ đối với lòng dạ các tôi tớ mọn hèn của Mẹ.
Biết đâu có kẻ chẳng nói : Nào Mẹ lại không biết trước Chúa Giê-su phải chết sao ? - Dĩ nhiên là biết. Nào Mẹ chẳng hy vọng Người sẽ sống lại ngay sao ? - Dĩ nhiên, với tất cả lòng tin. Và dù vậy, Người cũng đau khổ khi thấy Con mình bị đóng đinh, phải thế không ? - Phải, và đau khổ ghê gớm. Này người anh em, bạn là ai ? Khôn ngoan của bạn ở đâu mà bạn lại ngạc nhiên vì Đức Ma-ri-a cùng chịu thương khó hơn là vì Đức Giê-su, Con của Người chịu thương khó ? Về phần xác, Con của Mẹ đã chết, còn Mẹ, Mẹ đã chẳng chết trong tâm hồn với Con sao ? Chính tình thương đã khiến Chúa Ki-tô chịu thương khó, và không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Người. Và kể từ đây, không có tình thương nào sánh nổi với tình thương đã khiến Đức Ma-ri-a cùng chịu thương khó với Con của Người.
Mẹ Maria liên kết với Chúa Giêsu trên Thập Giá
ĐTC Gioan Phaolô II - Loạt 70 Bài Giáo Lý Thánh Mẫu: Bài 3 – 25/10/1995
1. Khi nói rằng “Trinh Nữ Maria… được nhận biết và tôn kính như là Người Mẹ thực sự của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Chuộc” (Lumen Gentium, 53), Công Đồng tỏ ra chú ý tới mối liên kết giữa vai trò làm mẹ của Mẹ Maria và việc Cứu Chuộc.
Sau khi nhận thức được vai trò làm từ mẫu của Mẹ Maria, vị được tôn kính nơi giáo huấn và việc tôn thờ của các thế kỷ đầu như là Người Mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu Kitô, và vì thế như là Người Mẹ của Thiên Chúa, vào Thời Trung Cổ, lòng đạo đức của Giáo Hội và việc suy tư thần học nêu lên vấn đề Mẹ cộng tác vào công việc của Chúa Cứu Thế.
Việc trì hoãn này được thấy nơi sự kiện là các nỗ lực của những vị Giáo Phụ Hội Thánh cũng như của các Công Đồng Chung ban đầu, đã tập trung vào căn tính của Chúa Kitô là những gì cần gạt qua một bên những khía cạnh khác của tín điều. Sự thật được mạc khải chỉ được tỏ lộ dần dần tất cả mọi phong phú của nó. Qua các thế kỷ, khoa Thánh Mẫu Học bao giờ cũng bắt nguồn từ khoa Kitô Học. Vai trò làm mẹ thần linh của Mẹ Maria tự nó được Công Đồng Chung Êphêsô đã cống bố chính yếu là để khẳng định duy nhất tính nơi ngôi vị của Chúa Kitô. Cũng thế, đã có một kiến thức sâu xa hơn về sự hiện diện của Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ.
2. Vào cuối thế kỷ thứ hai, Thánh Irenaeus, người môn đệ của Thánh Polycarp, đã cho thấy việc góp phần của Mẹ Maria vào công cuộc cứu độ. Ngài đã hiểu được giá trị của việc Mẹ Maria ưng thuận trong lúc Truyền Tin, khi nhìn nhận một kết quả phúc lợi trên định mệnh của nhân loại ở nơi đức tuân phục và niềm tin tưởng của vị Trinh Nữ Nazarét này đối với sứ điệp của thiên thần là những gì hoàn toàn tương phản với cái bất tuân và hoài nghi của Evà. Thật vậy, như Evà đã gây ra sự chết thế nào thì Mẹ Maria, bằng tiếng “xin vâng” của mình, đã trở nên “một căn nguyên cứu độ” cho chính bản thân Mẹ cũng như cho toàn thể nhân loại (cf. Adv. Haer., III, 22, 4; SC 211, 441). Thế nhưng, điều khẳng định này đã không được các vị Giáo Phụ khác trong Hội Thánh khai triển một cách nhất trí và hệ thống.
Mẹ Maria trở nên Người Mẹ thiêng liêng của toàn thể nhân loại
Thay vào đó, tín lý này đã được trình bày một cách hệ thống hóa lần đầu tiên vào cuối thế kỷ thứ 10 trong cuốn Đời Sống của Mẹ Maria của một đan sĩ Byzantine là John the Geo meter. Ở tập sách này Mẹ maria liên kết với Chúa Kitô trong toàn thể công cuộc Cứu Chuộc, thông phần vào, theo dự án của Thiên Chúa, Thập Giá và khỗ đau vì phần rỗi của chúng ta. Mẹ vẫn hiệp nhất với Con Mẹ “ở hết mọi việc làm, thái độ và ước muốn” (cf. Life of Mary, Bol. 196, f. 122 v.). Việc liên kết của Mẹ Maria với công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu phát xuất từ tình yêu Mẫu Thân của Mẹ, một tình yêu được tác động bởi ân sủng, thứ ân sủng cban cho nó một quyền năng cao cả hơn: tình yêu thoát khỏi đam mê chứng tỏ mình là lòng cảm thương hết sức (cf. ibid., Bol. 196, f. 123 v.).
3. Ở Tây phương, Thánh Bênađô, vị qua đời vào năm 1153, đã hướng về Mẹ Maria và nhận định về việc hiến dâng Chúa Giêsu trong đền thờ như thế này: “Hỡi Trinh Nữ bất khả xâm phạm, hãy hiến dâng Con Mẹ, và dâng hoa trái của lòng Mẹ cho Chúa. Vì việc chúng con giao hòa vối tất cả mọi người, xin Mẹ hãy hiến dâng tế vật thiên đình hài lòng Thiên Chúa” (Serm. 3 in Purif., 2: PL 183, 370).
Một người môn đệ và là bạn của Thánh Bênađô là Armold ở Chartres, đã đặc biệt làm sáng tỏ về việc Mẹ Maria hiến dâng nơi hy tế Canvê. Ông phân biệt nơi Thập Giá “hai bàn thờ: một ở nơi tấm lòng của Mẹ Maria, và một nơi thân xác của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã hy sinh xác thịt của mình, Mẹ Maria đã hy sinh linh hồn của Mẹ”. Mẹ Maria đã hy sinh bản thân mình một cách linh thiêng trong mối hiệp thông sâu xa với Chúa Kitô, và van nài phần rỗi cho thế giới: “Những gì người mẹ yêu cầu thì Người Con chấp nhận và Người Cha ban phát” (cf. De septem verbis Domini in cruce, 3: PL 189, 1694).
4. Đồng thời, nơi việc tôn thờ và lòng đạo hạnh của Kitô giáo, việc suy niệm chiêm ngắm về ‘lòng thương xót” của Mẹ Maria đã khai triển, đạt đến tuyệt đỉnh sâu sắc nơi các hình ảnh Mẹ Sầu Bi. Việc Mẹ Maria thông dự vào thảm kịch Thập Giá làm cho biến cố này có tính chất nhân bản sâu xa hơn và giúp cho tín hữu tiến vào mầu nhiệm này, đó là lòng cảm thương của Mẹ Maria tỏ hiện rõ ràng hơn Cuộc Khổ Nạn của Người Con.
Nhờ tham phần vào việc cứu chuộc của Chúa Kitô mà vai trò làm mẹ thiêng liêng và phổ quát của Mẹ Maria cũng được nhìn nhận. Ở Đông phương, John the Geometer đã nói cùng Mẹ Maria rằng: “Mẹ là Mẹ của chúng con”. Khi dâng lời tạ ơn Mẹ Maria “về những sầu thương và khổ đau Mẹ đã chịu vì chúng ta, ông đã cho thấy cảm tình từ mẫu và mối quan tâm mẫu thân của Mẹ đối với tất cả những ai được cứu độ” (cf. Farewell Discourse on the Dormition of Our Most Glorious Lady, Mother of God, in A. Wenger, L'Assomption de la Très Sainte Vierge dans la tradition byzantine, p. 407).
Ở cả Tây phương nữa, tín lý về vai trò làm mẹ thiêng liêng này đã được Thánh Anselm khai triển, vị chủ trương rằng “Mẹ là người mẹ… của việc hòa giải và thành phần được giải hòa, mẹ của việc cứu độ và của thành phần được cứu độ” (cf. Oratio 52, 8: PL 158, 957 A).
Mẹ Maria không ngừng được tôn kính như là Mẹ của Thiên Chúa, thế nhưng sự kiện Mẹ là Mẹ của chúng ta là những gì cống hiến cho vai trò làm mẹ thần linh của Mẹ một khía cạnh mới mở ra trong chúng ta con đường tiến đến chỗ hiệp thông sâu xa hơn nữa với Mẹ.
5. Vai trò làm mẹ của Mẹ Maria đối với chúng ta chẳng những bao gồm một mối liên kết về tình cảm: vì các công nghiệp của Mẹ cùng với việc chuyển cầu của Mẹ được Mẹ góp phần một cách hiệu nghiệm vào việc hạ sinh thiêng liêng của chúng ta cũng như vào việc tiến triển đời sống ân sủng trong chúng ta. Đó là lý do tại sao Mẹ Maria được gọi là “Mẹ ân sủng” Và “Mẹ sự sống”.
Mẹ của Sự Sống mà từ đó mọi người được sự sống
Tước hiệu “Mẹ của sự sống”, một tước hiệu được Thánh Gregory ở Nyssa sử dụng, được giải thích như sau bởi Chân Phước Guerric ở Igny, vị qua đời vào năm 1157: “Mẹ là Mẹ của Sự Sống mà từ đó tất cả mọi người có được sự sống: trong việc tự mình hạ sinh sự sống này, một cách nào đó Mẹ tái sinh tất cả những ai đã sống sự sống ấy. Chỉ có một vị được hạ sinh, còn tất cả chúng ta đều được tái sinh” (In Assumpt. I, 2: PL 185, 188).
Một bản văn hồi thế kỷ 13 là Mariale đã sử dụng một hình ảnh sống động để ghép cho việc tái sinh này “cảnh quằn quại sinh con” ở Canvê, nhờ đó “Mẹ đã trở nên người mẹ thiêng liêng của toàn thể nhân loại”. Thật vậy, “nơi cung lòng tinh sạch của mình, bằng lòng xót thương Mẹ đã thụ thai con cái của Giáo Hội” (Q. 29, par.3).
6. Công Đồng Chung Vaticanô II, sau khi nói rằng Mẹ Maria “một cách hoàn toàn chuyên biệt đồng tác vào công cuộc của Chúa Cứu Thế”, đã kết luận rằng: “vì lý do ấy, Mẹ là một người mẹ đối với chúng ta trong lãnh vực ân sủng” (Lumen Gentium , 61), như thế khẳng định việc Giáo Hội nhận thức rằng Mẹ Maria ở bên Con Mẹ như là Người Mẹ thiêng liêng của toàn thể nhân loại.
Mẹ Maria là Mẹ của chúng ta: sự thật an ủi này, được cống hiến cho chúng ta một cách rõ ràng và sâu xa hơn bởi tình yêu và niềm tin của Giáo Hội, đã bảo trì và đang nâng đỡ đời sống thiêng liêng của tất cả chúng ta, và phấn khích chúng ta, ngay cả trong khi đau khổ, hãy tin tưởng và hy vọng.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Chuyển dịch từ L'Osservatore Romano Weekly Edition in English 1/11/1995, trang 11.
Xin xem Truyện Đời của Mẹ trong Thần Đô Huyền Nhiệm về biến cố Mẹ:
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 3, 1-13
"Vị chủ tịch giáo đoàn phải là người không ai trách cứ được: các vị phụ tá cũng vậy, phải nắm giữ mầu nhiệm đức tin trong lương tâm trong sạch".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Ðây là lời chân thật: Nếu ai ao ước chức chủ tịch giáo đoàn, thì đó là ước ao một nhiệm vụ tốt đẹp. Vậy vị chủ tịch giáo đoàn phải là người không có ai trách cứ được, người chỉ kết hôn một lần, ăn ở tiết độ, khôn ngoan, thanh lịch, đoan trang, hiếu khách, biết giảng dạy, không mê rượu chè, không gây gỗ, nhưng hoà nhã: không cạnh tranh, không tham lam, nhưng biết cai quản gia đình mình, dạy con cái biết vâng phục và tiết hạnh. Nếu ai không biết cai quản gia đình mình, thì làm sao coi sóc được cộng đoàn Thiên Chúa? Vị chủ tịch giáo đoàn không phải là tân tòng, kẻo cậy mình kiêu căng mà sa vào án phạt của ma quỷ. Người phải có tiếng tốt nơi người ngoại, kẻo bị ô danh và sa lưới ma quỷ.
Cũng thế, những người phụ tá phải đoan trang, không ăn nói nước đôi, không nghiện rượu, không tìm lợi cách đê tiện, nhưng phải nắm giữ mầu nhiệm đức tin trong lương tâm thanh sạch. Những kẻ ấy phải được thử thách trước, rồi nếu không có gì đáng trách, thì mới được phục vụ. Người phụ nữ cũng vậy, phải đoan trang, không nói hành, phải tiết độ và trung tín trong mọi sự. Các vị phụ tá phải là người chỉ kết hôn một lần: biết coi sóc con cái và nhà cửa mình. Vì những phụ tá khi thi hành đứng đắn chức vụ, sẽ được lên bậc cao trọng và sẽ đầy hiên ngang trong lòng tin vào Ðức Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 100, 1-2ab. 2cd-3ab. 5. 6
Ðáp: Con sẽ sống theo lòng vô tội (c. 2b).
Xướng: 1) Con sẽ ca ngợi tình thương và đức công minh, lạy Chúa, con sẽ đàn hát mừng Ngài. Con sẽ tiến thân trên đường liêm khiết, khi nào Chúa sẽ đến viếng thăm con? - Ðáp.
2) Con sẽ sống theo lòng vô tội trong nơi cung thất của con. Con sẽ không để bày ra trước mắt một chút chuyện chi gian trá. - Ðáp.
3) Ai bí mật nói xấu người lân cận, con sẽ tiêu diệt thứ người này. Hạng người mắt nhìn cao và lòng kiêu hãnh, hạng người đó con cũng không dung. - Ðáp.
4) Mắt con theo dõi những người trung thành trong đất nước, để họ cùng được cư ngụ với con. Ai sinh sống theo đường liêm khiết, con người đó sẽ được hầu hạ con. - Ðáp.
Alleluia: Mt 11, 25
Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 11-17
"Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Ðừng khóc nữa". Ðoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy". Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người". Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XXIV Thường Niên hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu tỏ mình ra qua phép lạ Người hồi sinh đứa con trai duy nhất của bà góa thành Nain nhờ đó Người được dân chúng nhận biết:
"Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: 'Bà đừng khóc nữa!' Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: 'Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!' Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: 'Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người'. Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận".
Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, bình thường, nhất là theo chiều hưóng của Phúc Âm Nhất Lãm, Chúa Giêsu làm phép lạ khi thấy có đức tin nơi con người ta nói chung và nơi thỉnh nguyện nhân nói riêng. Nhưng ở trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay, phép lạ hồi sinh Người làm cho cậu con trai của bà mẹ góa hoàn toàn do Người tự ý, chứ bà mẹ của người chết không hề ngỏ ý xin hay tỏ đức tin gì hết.
Xét cho cùng thì dù Chúa Giêsu làm phép lạ khi thấy đức tin nơi con người hay tự làm phép lạ cả hai đều để tỏ mình ra. Theo Phúc Âm của Thánh ký Gioan thì thường Người tỏ mình ra để cho con người nói chung và môn đệ của Người nói riêng tin vào Người. Bởi vì, Người "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12). Mà ánh sáng không chiếu soi không còn là ánh sáng nữa. Bởi thế, Người luôn phải đi bước trước, ở chỗ tự động tỏ mình ra bằng những "dấu lạ / sign" (từ ngữ được Thánh ký Gioan sử dụng thay từ ngữ "phép lạ - micracle" được Phúc Âm Nhất Lãm sử dụng).
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca cũng cho thấy trường hợp Chúa Giêsu tự động tỏ mình ra, qua sự kiện Người làm cho đứa con trai duy nhất của người mẹ góa hồi sinh. Thế nhưng, tại sao Người lại tự động làm phép lạ hồi sinh đứa con bà mẹ góa này, nếu không phải, như bài Phúc Âm cho biết: "Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương".
Ở đây, qua câu Phúc Âm này, Thánh ký Luca, một người ngoại trở lại và viết Phúc Âm cho dân ngoại theo chiều hướng của Lòng Thương Xót Chúa, đã ghi nhận được cả tấm lòng đầy cảm thương của Chúa Giêsu như thế, như thể chính ngài đang có mặt vào lúc bấy giờ. Nhưng tại sao khi làm các phép lạ khác vào những lần khác không thấy vị Thánh ký này thêm một câu tương tự như thế: "Trông thấy ... Chúa chạnh lòng thương".
Trông thấy ai? - "Trông thấy bà", chứ không phải trông thấy quan tài của đứa con trai duy nhất của bà, thì Chúa Giêsu cảm thấy thế nào? - "chạnh lòng thương". Tại sao vậy? Thánh ký Luca đã gián tiếp trả lời ở ngay câu trước đó: "mẹ anh ta lại là một bà goá" cũng như câu sau đó Chúa Giêsu trấn an thông cảm với bà, một cử chỉ hiếm quí hầu như Người chưa làm với ai bao giờ: "Bà đừng khóc nữa!"
Phải chăng Chúa Giêsu "trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương" và tỏ ra cử chỉ hết sức đặc biệt với người mẹ góa này bằng lời an ủi trấn an: "Bà đừng khóc nữa!", là vì bấy giờ cảnh tượng người mẹ góa đưa xác đứa con trai duy nhất của bà đã gợi lên nơi Người hình ảnh về Mẹ của Người, người mẹ góa có một người con trai duy nhất là Người, trong tương lai, cũng trải qua hoàn cảnh y như của bà goá thành Nain này, khi Người là con trai duy nhất của Mẹ qua đời ở Sọ Trường trên Đồi Canvê? Nếu đúng như thế thì phép lạ Người hồi sinh cho đứa con trai của bà mẹ góa thành Nain này là dấu tiên báo về Người Mẹ Đồng Công của Người trong cuộc Vượt Qua với Người vậy.
Sự kiện Chúa Kitô là Vị Mục Tử Nhân Lành "chạnh lòng thương", thương từng con chiên của mình, nhất là những con chiên bị thương tích trong tâm hồn, như thương người mẹ góa trước cái chết của người con trai duy nhất trong bài Phúc Âm hôm nay, cần phải trở thành mô phạm trọn lành và tối cao cho thành phần mục tử được Người tuyển chọn làm môn đệ tông đồ của Người cũng như thành phần thừa kế các vị.
Phải chăng Chúa Kitô "động lòng thương" bà góa trong bài Phúc Âm hôm nay, chẳng những vì bà có đứa con trai duy nhất chết đi, khiến Người chạnh lòng nghĩ đến Mẹ của người, cũng góa bụa và có một người con trai duy nhất là Người một ngày kia cũng chết, mà còn vì chính bản thân góa bụa của bà, được Người là Đấng thấu suốt lòng trí từng người, "đoan trang, tiết độ và trung tín trong mọi sự", đúng như lời Thánh Phaolô ở Bài Đọc 1 hôm nay về thành phần "người phụ nữ" như bà cần phải sống.
Ở Bài Đọc 1, Thánh Phaolô không nói riêng nữ giới cho bằng chú trọng tới thành phần có trách nhiệm phục vụ cộng đoàn, dù chính hay phụ, họ đều phải làm sao hội đủ điều kiện và tác hành xứng với chức bậc của mình, những gì cũng đã được chất chứa trong Thánh Vịnh 100 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Con sẽ ca ngợi tình thương và đức công minh, lạy Chúa, con sẽ đàn hát mừng Ngài. Con sẽ tiến thân trên đường liêm khiết, khi nào Chúa sẽ đến viếng thăm con?
2) Con sẽ sống theo lòng vô tội trong nơi cung thất của con. Con sẽ không để bày ra trước mắt một chút chuyện chi gian trá.
3) Ai bí mật nói xấu người lân cận, con sẽ tiêu diệt thứ người này. Hạng người mắt nhìn cao và lòng kiêu hãnh, hạng người đó con cũng không dung.
4) Mắt con theo dõi những người trung thành trong đất nước, để họ cùng được cư ngụ với con. Ai sinh sống theo đường liêm khiết, con người đó sẽ được hầu hạ con.
Thánh Cornêliô, Giáo Hoàng (+ 253) &
Thánh Cyprianô, Giám Mục Tử Ðạo (200-258)
(16/9)
Đaminh Maria cao tấn tĩnh - tổng hợp từ các nguồn tài liệu khác nhau: Đi Tìm Chân Lý, Giáo Phận Phú Cường, Lời Chúa Dòng Don Bosco, nhất là phụng vụ giờ kinh sách ngày 16/9 của Giáo Hội
1. Lược Sử.
Thánh Côrnêliô sinh tại Rôma, là người có một lối sống trong sạch thuần khiết và khiêm nhường sâu xa không gì có thể trách cứ được. Sau khi giữ các phận vụ trong Giáo hội và được mọi người thán phục, ngài lên ngôi Thánh Phêrô, kế vị Đức Giáo Hoàng Fabianô, Đấng đã chết vì đạo 15 tháng trước trong cuộc bách hại của Đêciô.
Thật vậy, sau khi thánh Fabianô tử vì đạo thì Giáo hội thời bấy giờ không có Giáo Hoàng trong vòng 14 tháng, vì sự bách hại quá mãnh liệt. Trong thời gian ấy, Giáo hội được điều hành bởi một tập thể linh mục. Cyprianô, một người bạn của Cornêliô, viết lại rằng Cornêliô được chọn làm Giáo Hoàng “bởi quyết định của Thiên Chúa và của Ðức Kitô, bởi sự chứng thực của hầu hết mọi giáo sĩ, bởi lá phiếu của người dân, với sự đồng ý của các linh mục lớn tuổi và những người thiện chí.”
Nhưng lên ngôi ít lâu, ngài đã phải đương đầu với cuộc ly khai đầy gương mù của một giáo hoàng giả. Nôvatianô là một linh mục đầy tham vọng, được một linh mục Phi châu là Nôvatô hậu thuẫn. Họ nổi tiếng về triết học và tài lợi khẩu, đến nỗi có người than phiền vì đã chọn lầm Đức Côrnêliô làm Giáo Hoàng mà không chọn Nôvatianô. Hai người nổi loạn đã nỗ lực tuyên truyền và lôi kéo được một số tín hữu và cả một số giám mục đi theo. Ba giám mục nước Ý đã đặt tay tấn phong cho Nôvatianô làm giáo hoàng. Nôvatianô liền viết thư cho nhiều Giám mục chống lại Đức Giáo Hoàng Côrnêliô, trách cứ ngài quá dễ dàng tiếp nhận lại những người đã dâng hương tế thần.
Thánh Côrnêliô đã dùng cả con đường hiền dịu lẫn cứng rắn mà vẫn không lôi kéo được hai con người bội phản trở lại đường ngay. Nhưng nhờ các nhân đức của một vị tông đồ chân chính, thánh Cornêliô đã chinh phục được nhiều Giám Mục hợp tác với Ngài. Chính thánh Cyprianô, sau khi biết rõ việc tuyển chọn hợp pháp của thánh Côrnêliô đã cộng tác với ngài hết mình để mang lại sự hợp nhất cho Giáo hội. Những sắc lệnh kết án Nôvatô và Nôvatianô được một công đồng ở Rôma chuẩn nhận.
Đúng thế, phải đương đầu với cuộc ly khai đầy gương mù của một giáo hoàng giả, trong thời gian hai năm làm Giáo Hoàng, thánh Cornêliô còn phải đương đầu với vấn đề lớn nhất thời bấy giờ có liên quan đến Bí tích Thống hối, và nhất là vấn đề tái gia nhập Giáo hội của các Kitô hữu đã chối đạo trong thời kỳ bị bách hại. Cả hai thái cực đều bị lên án. Ðức Cyprianô, Giám mục đứng đầu Kitô giáo Phi châu, yêu cầu Đức Giáo Hoàng xác định lập trường mà ngài chủ trương, đó là người bội giáo chỉ có thể hòa giải duy bởi quyết định của vị Giám mục (trái với thông lệ thật dễ dãi trong việc phục hồi những người đã chối đạo do Novatô chủ trương).
Ở Rôma, đức Cornêliô lại gặp một quan điểm đối nghịch khác. Sau cuộc bầu Giáo Hoàng, một linh mục tên Novatianô (một trong những người điều hành Giáo hội) lo liệu để mình được tấn phong làm Giám mục Rôma – Giáo Hoàng đối lập đầu tiên chống lại Giáo Hoàng chính thống. Novatianô chủ trương rằng, không những người bội giáo, mà ngay cả những người phạm tội sát nhân, tội ngoại tình, tội gian dâm hay người tái hôn thì Giáo hội cũng không có quyền tha tội! Ðức Cornêliô được sự hỗ trợ của hầu hết mọi người trong Giáo hội (nhất là Ðức Giám mục Cyprianô ở Phi châu) trong việc lên án chủ thuyết của Novatianô, dù rằng giáo phái này kéo dài trong vài thế kỷ. Vào năm 251, Ðức Cornêliô triệu tập công đồng Rôma và ra lệnh những người “sa ngã” được phục hồi lại với Giáo hội qua “phương dược Bí tích thống hối” thông thường.
Tình bạn giữa Đức Giáo Hoàng Cornêliô với Đức Giám mục Cyprianô bị căng thẳng một thời gian khi một đối thủ của Cyprianô đưa ra những lời tố cáo đức Ciprianô. Nhưng vấn đề sau đó được làm sáng tỏ.
Một tài liệu từ thời đức Cornêliô cho thấy mức độ tổ chức của Giáo hội
Rôma trong giữa thế kỷ thứ ba: Giáo hội Rôma khi ấy gồm 46 linh
mục, bảy phó tế, bảy trợ phó tế. Số Kitô hữu được ước lượng khoảng
50,000 người.
Khi Gallô mở lại cuộc bắt đạo, Đức Côrnêliô bị tống giam. Ngài bị đày tới Contumcella, bây giờ là Civita Vecchina. Trong một lá thư chào mừng, thánh Côrnêliô viết:
- Chúng ta cầu nguyện cho nhau trong những ngày bị bách hại này, nâng đỡ nhau bằng tình bác ái. Nếu ai trong chúng ta được Thiên Chúa ban đặc ân cho qua đời trước, chớ gì tình thân hữu vẫn tiếp tục trước mặt Chúa và lời cầu nguyện của chúng ta tiếp tục thúc đẩy Chúa dủ tình thương xót anh chị em của chúng ta.
Quả thật, thánh Côrnêliô đã chẳng sống lâu. Ngài đã qua đời trong lúc bị đi đày tại Contumsenla, ngày 14 tháng 9 năm 253 và được an táng tại đó. Sau này thi hài cuả ngài được dời về nghĩa trang thánh Callistô.
Tình bằng hữu của hai thánh Côrnêliô và Cyprianô vẫn còn sống mãi cho tới ngày nay, và Giáo hội kính nhớ các ngài vào cùng một ngày.
Thánh Cyprianô là bạn thân của Đức Cornêliô nên được mừng lễ cùng ngày với nhau. Ngài sinh tại Carthage năm 210, trong một gia đình ngoại đạo.
Được hấp thụ nền giáo dục cao, lại là nhà hùng biện nổi tiếng, ngài đã trở thành Kitô hữu khi đã trưởng thành. Ngài phân chia của cải cho người nghèo, tạo nên sự kinh ngạc của các công dân bạn hữu ngài khi ngài thực hiện lời khấn sống khiết tịnh trước khi chịu rửa tội.
Cyprianô than phiền rằng thời gian bình an mà Hội Thánh được vui hưởng đã làm giảm yếu tinh thần của nhiều người Kitô hữu và mở cửa cho những người trở lại đạo mà không có một tinh thần đức tin đích thực. Khi cuộc bách đạo của Dexianô bắt đầu, nhiều Kitô hữu dễ dàng từ bỏ Hội Thánh. Chính việc tái hội nhập của họ vào Hội Thánh tạo nên những cuộc tranh luận to tát trong thế kỷ thứ ba, và giúp cho Hội Thánh tiến bộ trong sự hiểu biết của mình liên quan đến Bí tích Thống hối.
Trong nạn dịch tại Carthage, Giám mục Cyprianô thúc giục các Kitô hữu giúp đỡ mọi người, bao gồm cả những kẻ thù và những kẻ bách đạo.
Là bạn của Đức Giáo Hoàng Cornêliô, nhưng Đức Giám mục Cyprinanô lại chống lại vị giáo hoàng kế tiếp là Stêphanô. Ngài cùng với các giám mục Phi Châu khác không muốn nhìn nhận hiệu lực và sự chính đáng của phép Rửa tội do những người lạc giáo và ly giáo cử hành. Đó không phải là quan niệm của Hội Thánh toàn cầu, nhưng Cyprinô vẫn không khiếp sợ cho dù bị đe dọa vạ tuyệt thông.
Ngài bị hoàng đế đem đi lưu đày nhưng sau đó được gọi về để chịu xét xử.
Ngài từ chối rời thành phố, nhấn mạnh rằng dân của ngài phải được chứng
kiến cuộc tử đạo của ngài.
Việc chính đáng như thế, khỏi cần phải suy nghĩ
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 16/9)
Trích sử liệu về cuộc tử đạo của thánh Síp-ri-a-nô.
Sáng ngày 14 tháng 9, một đám rất đông dân chúng tụ họp tại quảng trường Xét-tô, theo lệnh của quan kinh lược Ga-lê-ri-ô Mác-xi-mô. Viên quan này truyền lệnh phải điệu thánh Síp-ri-a-nô ra trước mặt ông ngay trong ngày, khi ông ngồi xử tại tiền đường Xau-si-ô-lô. Khi giám mục Síp-ri-a-nô bị điệu đến, quan kinh lược hỏi : “Ông có phải là Ta-si-ô Síp-ri-a-nô không ?” - Giám mục Síp-ri-a-nô trả lời : “Chính tôi.”
Quan kinh lược nói : “Ông có phải là lãnh đạo đám người có đầu óc phạm thượng đó không ?” - Giám mục Síp-ri-a-nô trả lời : “Chính tôi.” Quan kinh lược lại nói : “Các hoàng đế chí tôn đã truyền cho ông phải tế thần.” - Giám mục Síp-ri-a-nô trả lời : “Tôi không tế.” Quan Ga-lê-ri-ô Mác-xi-mô nói : “Ông nghĩ kỹ đi !” - Thánh Síp-ri-a-nô trả lời : “Quan được lệnh làm gì thì cứ làm đi. Trong một việc chính đáng như thế này, khỏi cần suy nghĩ nữa.”
Khi bàn hỏi với hội đồng, quan kinh lược quyết định tuyên án. Quan buộc lòng phải nói như sau : “Ông đã sống theo học thuyết phạm thượng này từ lâu rồi, và ông đã quy tụ nhiều người để mưu đồ làm tội ác, ông đã đứng lên đối địch với các thần Rô-ma và các nghi thức kính thần ; các hoàng đế mộ đạo và chí thánh của chúng ta là Va-lê-ri-a-nô và Ga-li-ê-nô ; ngay cả Va-lê-ri-a-nô, vị Xê-da chí tôn, cũng đã không thể làm cho ông trở lại thờ cúng như các ngài. Ông bị bắt vì đã chủ mưu và gieo rắc các tội ác khả ố, nên ông sẽ là bài học cho những kẻ đã liên kết với ông để làm tội ác. Máu của ông sẽ làm chứng cho sự nghiêm minh của pháp luật.” Nói xong, quan đọc án quyết ghi trên một tấm thẻ nhỏ : “Chúng tôi ra lệnh xử trảm Ta-si-ô Síp-ri-a-nô.” Giám mục Síp-ri-a-nô nói : “Tạ ơn Chúa.”
Sau khi nghe bản án, đám đông anh em tín hữu hô lên : “Chúng tôi xin cùng được xử trảm với người.” Vì thế, họ náo động và một đám rất đông dân chúng theo sau người tử tội. Síp-ri-a-nô bị điệu tới quảng trường Xét-tô. Người cởi áo choàng ra, quỳ xuống và sấp mình cầu nguyện với Chúa. Sau khi cởi áo giám mục trao cho các phó tế, và chỉ giữ lại trên mình áo dài bằng vải gai, người đứng đợi lý hình.
Khi lý hình tới, người bảo mấy tín hữu đứng quanh cho anh ta hai mươi lăm đồng tiền vàng. Đám anh em tín hữu trải vải và khăn ra trước mặt người. Rồi thánh Síp-ri-a-nô tự tay bịt mắt. Vì người không thể tự buộc tay, nên linh mục Giu-li-a-nô và phụ phó tế cũng tên là Giu-li-a-nô buộc giùm cho người.
Thánh Síp-ri-a-nô đã chịu tử đạo như thế. Để tránh cho dân ngoại khỏi tò mò, người ta đem cất xác người ở một nơi gần đó. Rồi đến đêm, họ mang đèn cầy và đuốc rước xác người về nghĩa trang của thái thú Ma-cô-bê Căn-đi-đi-a-nô, trên đường Máp-pa-la, gần các bể chứa nước. Cuộc rước này diễn ra trong bầu khí hân hoan khải hoàn. Ít ngày sau, quan kinh lược Ga-lê-ri-ô Mác-xi-mô qua đời.
Thánh Síp-ri-a-nô chịu tử đạo ngày 14 tháng 9 dưới thời các hoàng đế Va-lê-ri-a-nô và Ga-li-ê-nô, nhưng thật ra là dưới triều của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng được vinh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Thánh Cyprianô giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển tư tưởng Kitô giáo và việc thực hành nếp sống đạo trong thế kỷ thứ ba, cách riêng tại Bắc Phi châu.
Cyprianô pha trộn nơi bản thân mình sự dịu dàng và can đảm, tính cương nghị và sức mạnh. Ngài vui vẻ nhưng nghiêm khắc, nên người ta không biết liệu mình phải mến ngài hay kính sợ ngài. Vẻ mặt ngài bừng bừng trong cuộc tranh luận về phép Rửa tội, và tình cảm nóng nảy đó có thể khiến ngài quan tâm, bởi đó là thời gian ngài viết tác phẩm về sự kiên nhẫn. Thánh Augustinô nhận xét rằng thánh Cyprianô đền tội cho sự nóng nảy giận dữ của mình bằng cuộc tử đạo vinh quang của ngài.
2. Gương Sống:
a. Lòng can đảm.
Việc Đức Cornêliô cùng với anh em linh mục và giáo dân đã can đảm khi bị vua quan tra tấn hành hạ, đã làm nức lòng mọi người. Tin này làm cho mọi người hân hoan phấn khởi, nhất là thánh Cyprianô. Thánh Cyprianô đã hết lòng ca ngợi tấm gương cao cả này: “Làm sao diễn tả cho hết niềm phấn khởi và nỗi vui mừng ở đây, khi chúng tôi biết được những thành quả can đảm của những người anh em chúng tôi". Ngài viết tiếp rằng "ở đó, chính ngài (Đức Cornêliô) đã dẫn đầu anh em trong việc tuyên xưng đức tin; và việc tuyên xưng của những người anh em làm cho việc tuyên xưng của người đứng đầu nổi hẳn lên. Vì khi dẫn đầu đi tới vinh quang, Ngài đã lôi kéo được nhiều người cùng đi tới vinh quang. Ngài đã thuyết phục được toàn dân tuyên xưng đức tin, khi ngài sẵn sàng tuyên xưng trước hết thay cho tất cả mọi người, đến nỗi chúng ta không biết phải ca tụng điều gì trước: đức tin mau mắn vững bền của ngài hay là lòng yêu thương của mọi người không muốn tách rời khỏi người cha chung của họ? Lòng can đảm của vị Giám mục dám đi tiên phong trong việc tuyên xưng đức tin đã được mọi người công nhận…”
b. Lòng bao dung.
Lúc đó trong Giáo hội đã xảy ra cuộc tranh cải sôi nổi về những người đã chối đạo. Họ là những người vì quá sợ mà đã phạm tội bọ đạo và tế thần. Vấn đề đặt ra là có nên tha cho họ khi họ ăn năn sám hối trở về với Chúa hay không? Có được nhận họ trở lại với Hội thánh không?
Về vấn đề này có hai khuynh hướng đối chọi nhau.
Khuynh hướng thứ nhất đứng đầu là linh mục Nôvatianô chủ trương dứt khoát phải loại bỏ những hạng người này ra khỏi Giáo Hội, tuyên bố vạ tuyệt thông đối với họ.
Khuynh hướng thứ hai: Sau khi họp bàn với các Đức Giám mục, Đức Thánh Cha Conêliô tuyên bố tha thứ và đón nhận họ trở lại với Hội thánh. Nhóm giáo sĩ ly khai chống đối. Vì thế mà có cuộc tranh luận dằng dai trong Giáo hội, làm cớ cho vua quan phần đời lợi dụng cơ hội chống phá đạo.
3- Lời bàn
Về thánh Cornêliô: Thật đúng để nói rằng trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều giáo thuyết lầm lạc được đưa ra vào một thời điểm nào đó. Thế kỷ thứ ba đối diện với một vấn đề mà ít khi chúng ta để ý đến – một khi đã phạm tội trọng thì phải sám hối trước khi giao hòa với Giáo hội. Những người như thánh Cornêliô và thánh Cyprianô là công cụ của Thiên Chúa để giúp Giáo hội tìm ra con đường khôn ngoan giữa hai thái cực của sự nghiêm khắc và sự lỏng lẻo. Họ là những phần tử của một Giáo hội truyền thống đầy sinh động, nhằm đảm bảo tính cách liên tục của những gì đã được Ðức Kitô khởi sự, và lượng giá những kinh nghiệm mới qua sự khôn ngoan và kinh nghiệm của những người đi trước (Rliner).
Về thánh Cyprianô: “Những cuộc tranh luận về phép Rửa tội và Bí tích Thống hối trong thế kỷ thứ ba nhắc nhở cho chúng ta rằng Hội Thánh tiên khởi không có những giải pháp có sẵn từ Chúa Thánh Thần. Các người lãnh đạo và các thành viên Hội Thánh của thời đó phải thực hiện những phán đoán tốt nhất mà họ có thể có, trong khi dõi theo toàn bộ giáo huấn của Chúa Kitô mà không bị đưa đi trệch đường bởi những sự thái quá về phía hữu hay phía tả.
4- Lời trích
Cornêliô: “Chỉ có một Thiên Chúa và một Ðức Kitô và một ngôi tòa Giám mục, được xây dựng đầu tiên trên thánh Phêrô bởi quyền năng Thiên Chúa. Do đó, không thể nào đặt ra một bàn thờ khác hay một tư tế khác. Bất cứ gì người ta thiết lập ra trong khi tức giận hay hấp tấp, bất chấp quy luật của Thiên Chúa, chỉ là một quy tắc giả mạo, trần tục và phạm thượng” (Thánh Cyprianô, tác phẩm “Sự Hiệp nhất của Giáo hội Công giáo”)
Cyprianô: “Bạn không thể có Thiên Chúa là Cha nếu bạn không có Hội Thánh là Mẹ… Thiên Chúa là một, Chúa Kitô là một; đức tin là một, và dân Chúa được kết đính lại cùng nhau bằng sự hòa hợp trong một thân thể duy nhất… Nếu chúng ta là những người thừa kế của Chúa Kitô, chúng ta hãy ở lại trong sự bình an của Chúa Kitô; nếu chúng ta là những con cái Thiên chúa, chúng ta hãy là những người yêu mến hòa bình” (Thánh Cyprianô, trong tác phẩm “Sự Hiệp nhất của Giáo hội Công giáo”)
Lạy hai thánh Corlêliô và Cyprianô, xin cầu cho chúng con. Amen.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho dân Chúa hai vị mục tử nhiệt thành và cũng là chứng nhân bất khuất là thánh Co-nê-li-ô và thánh Síp-ri-a-nô. Xin nhậm lời hai thánh chuyển cầu mà ban cho chúng con can trường giữ vững đức tin, và không ngừng hoạt động cho Giáo Hội được hợp nhất. Chúng con cầu xin
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 3, 14-16
"Thật lớn lao thay mầu nhiệm của tình thương".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, cha viết cho con những điều này, cha hy vọng ngày gần đây sẽ đến gặp con. Nhưng nếu cha còn trì hoãn, thì thư này giúp cho con biết phải cư xử thế nào trong nhà Thiên Chúa, là Hội thánh Thiên Chúa hằng sống, là cột trụ và nền tảng chân lý. Rõ thực lớn lao thay mầu nhiệm của tình thương, là mầu nhiệm đã được tỏ hiện trong xác thịt, minh chính trong Thánh Thần tỏ hiện cho Thiên Thần, rao giảng cho Dân Ngoại, kính tin trong thế gian, siêu thăng trong vinh hiển.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Vĩ đại thay công cuộc của Chúa (c. 2a).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi! - Ðáp.
2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi. - Ðáp.
3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân. - Ðáp.
Alleluia: Tv 147, 12a và 15a
Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 31-35
"Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng:
"Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa.
"Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc".
Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: "Người bị quỷ ám". Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: "Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi". Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXIV Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh ký Luca không liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, mà cách bài Phúc Âm hôm qua 12 câu trong cùng đoạn 7, và khúc 12 câu không được Giáo Hội chọn đọc này liên quan đến vấn nạn về bản thân Chúa Giêsu được môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đặt ra với Người và Người chẳng những đã gợi chứng cho họ biết về Người mà còn chứng thực về Vị Tiền Hô của Người nữa (xem Luca 7:18-30), trong đó có câu Thánh ký Luca nhận định như sau:
"Nghe ông giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên
Chúa là Đấng Công Chính và đã chịu phép rửa của ông. Còn những người
Pha-ri-sêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ,
và không chịu phép rửa của ông".
Bởi thế, thành phần được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay chính là "những người Pharisêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông", Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, vị đã làm phép rửa cho cả Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế. Thế nên, thành phần vốn bị Chúa Giêsu khẳng định và khiển trách là giả hình này đã được Chúa Giêsu sánh ví trong bài Phúc Âm hôm nay như thế này:
"Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng: 'Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc'. Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: 'Người bị quỷ ám'. Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: 'Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi'. Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".
Ở đây, qua nhận định của Chúa Giêsu về thành phần biệt phái và luật sĩ này, chúng ta thấy con người phải tuân hợp với chân lý, chứ chân lý không tuân hợp với con người, không theo con người, không như ý nghĩ thiển cận và ý muốn vị kỷ của con người, cho dù chân lý có thích ứng với con người để con người dễ lĩnh hội và chấp nhận (theo chiều hướng của bài Đọc 1 hôm nay).
Chính vì thành phần biệt phái và luật sĩ trong dân Do Thái tự phụ cho rằng mình thông luật và cẩn thận tuân giữ luật lệ nhờ đó trở nên công chính hơn ai hết, nên tưởng mình là đệ nhất thiên hạ về lề luật Chúa, ai cũng phải theo như ý họ nghĩ về lề luật một cách duy luật mới được, bằng không, vẫn bị họ cho là "bị quỉ ám", dù vị ấy có là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, vị đã từng là đèn soi chiếu cho Đấng đến sau ngài được họ tìm đến trước đó để truy nguyên về Đấng Thiên Sai (xem Gioan 5:35; Gioan 1:24-27), thậm chí còn bị họ cho là "mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi", dù vị ấy có là Chúa Kitô, Đấng "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9).
Kinh nghiệm tu đức cũng cho thấy, Giáo Hội Công giáo chẳng những bị quyền bính chính trị bách hại suốt giòng lịch sử của mình ở khắp nơi, mà còn thường trở thành mục tiêu chống đối của chính nội bộ Kitô hữu Công giáo của mình nữa, bao gồm cả hàng giáo phẩm lẫn giáo dân, theo chiều hướng cấp tiến hay bảo thủ của họ: Giáo Hội bị coi là quá chậm chạp trước những con mắt cấp tiến, hay ngược lại Giáo Hội bị coi là phá giới trước con mắt của thành phần bảo thủ nếu Giáo Hội cần phải thích nghi những gì tùy phụ theo thời cuộc để mưu ích hơn cho phần rỗi các linh hồn.
Chưa hết, thực tế phũ phàng cho thấy, theo chiều hướng canh tân cởi mở của Công Đồng Chung Vaticanô II, đặc biệt là về phụng vụ, đã xẩy ra tình trạng quá trớn bởi thành phần cấp tiến thừa thắng xông lên, Giáo Hội lại bị kêu trách là tại cởi mở, trong khi các nguyên tắc về cởi mở được Giáo Hội ấn định một cách đàng hoàng rõ ràng lại không được trung thực tuân giữ. Thế nhưng, cuối cùng mọi sự sẽ được sáng tỏ, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".
Cho dù
con người có phản ứng bất lợi thế nào với chân lý đi nữa,
thì chân lý vẫn là chân lý, không thể bị con người bóp méo theo thiên
kiến hay cảm nghiệm thiển cận của họ, như chính Chúa Kitô đã minh
định trong bài Phúc Âm hôm nay: "sự khôn ngoan đã được minh chính bởi
tất cả con cái mình". Một trong những người con đã thực sự "minh
chính" cho "sự khôn ngoan" thần linh này là vị tông đồ dân
ngoại Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Rõ thực lớn lao thay mầu nhiệm của tình thương, là mầu nhiệm đã được tỏ
hiện trong xác thịt, minh chính trong Thánh Thần, tỏ hiện cho Thiên
Thần, rao giảng cho Dân Ngoại, kính tin trong thế gian, siêu thăng trong
vinh hiển".
"Tất cả con cái" của "sự khôn ngoan" và "minh chính" cho "sự khôn ngoan" này, như Thánh Phaolô, mới hợp với những gì Thánh Vịnh 110 ở bài Đáp Ca hôm nay nói tới:
1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi!
2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi.
3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân.
Thánh Rôbertô Bellarminô
Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh
(1542-1621)
Ngày 17/9
(ĐTC Biển Đức XVI nói về vị thánh này ở bài 133, trong loạt 138 bài giáo lý về Giáo Hội hiệp thông tông truyền - xin bấm vào cái link ngay dưới đây:)
Thánh Rôbertô Bellarminô sinh ngày 4 tháng 10 năm 1452 tại Montepulcianô. Cha Ngài là Vinconzo Bellarminô. Mẹ Ngài là Cynthia Cervini. Em Đức Giáo hoàng Marcellô II. Ngay khi còn là một học sinh tại trường các cha dòng Tên. Ngài đã tỏ ra thông minh đặc biệt. Cha Ngài đã định cho Ngài theo học y khoa. Dầu vậy năm 1560, Ngài xin gia nhập dòng Tên và đã được cha mẹ ưng thuận.
Theo học triết tại Roma, Ngài tỏ ra là một học sinh nổi bật. Từ Roma Ngài đã được gởi đi dạy học trong các trường của dòng Tên trong 4 năm tại Florence và Modevi. Lúc này Ngài đã thông thạo tiếng Hy Lạp và được chỉ định dạy cho các bạn cùng lớp. Dầu chưa làm Linh mục, Ngài thường được mời đi giảng và được coi như là nhà giảng thuyết từ bẩm sinh. Ngài học thần học trước hết ở Padua, rồi sau ở Louvain và thụ phong Linh mục tại đây năm 1570. Các bài giảng của Ngài tại Louvain mang lại thành công đặc biệt. Anh em Tin Lành tại Anh cũng tìm đến nghe Ngài và nhiều người đã trở lại. Với dáng nhỏ bé, Ngài thường đứng trên ghế đẩu từ bục giảng.
Là giáo sư thần học tại Louvain, Ngài rất mộ mến các tác phẩm của thánh Tôma. Trong các bài diễn thuyết, Ngài đã chống lại một cách hữu hiệu nhưng đầy tình thương với các giáo thuyết khơi nguồn cho thuyết Giansenisme sau này. Thánh Robertô cũng thúc đẩy các sinh viên học tiếng Do Thái và đã soạn cho họ một cuốn văn phạm ngắn gọn. Ngài đọc nhiều về các giáo phụ và các văn sĩ khác trong Giáo hội, một nỗ lực còn ghi lại trong tác phẩm “về các văn sĩ trong Giáo hội” ( xuất bản năm 1623).
Sau thời kỳ ở Louvain, Ngài được trao phó thi hành một công việc khó khăn là làm giáo sư phụ trách các cuộc tranh luận tại Roma. Các cha dòng Tên đã tổ chức việc diễn giảng này nhằm trả lời bằng ngôn ngữ thời đại đối với các cuộc tấn công của anh em tin lành. Suốt 11 năm, thánh Robertô đã nỗ lực cho công cuộc này với sự thành công rực rỡ. Nhiều sinh viên của Ngài đã trở thành thừa sai tại Anh và tại Đức. Một số người đã đổ máu vì đức tin tại Anh. Các bài diễn thuyết của Ngài được xuất bản lần đầu tại Ingolstudt, từ năm 1586 – 1593 dưới tựa đề “các cuộc tranh luận về đức tin công giáo chống lại các người theo lạc giáo thời nay”. Có 20 ấn bản khi Ngài còn sống và nhiều ấn bản sau này nữa. Đây là một công trình bảo vệ đức tin đầy đủ nhất của Giáo Hội có được và suốt ba thế kỷ liền nó là áo giáp cho các nhà giảng thuyết và các văn sĩ.
Những trách vụ khác thánh Robertô đảm nhận thời kỳ này là tu chỉnh tác phẩm chú giải của Salmeron, một bạn dòng, làm việc trong ủy ban tu chỉnh nghi thức phụng vụ Roma và bản kinh thánh phổ thông. Ngài cũng góp phần lớn cho Đức Sixtô V trong việc ấn hành các tác phẩm của thánh Ambrosiô.
Với vai trò thần học gia của Đức Hồng Y Goetni, vị đặc sứ của Đức giáo hoàng tại Pháp năm 1589, thánh Robertô chứng tỏ rằng: Ngài là một nhà ngoại giao lẫn một học giả có khả năng. Việc đại diện tại Paris thật nặng nhọc, nhưng thử thách lớn lao nhất lại đến từ một phía khác. Đức Giáo hoàng Sixtô V quyết định đặt cuốn I trong bộ những cuộc tranh luận vào sổ sách bị cấm. Đức Giáo hoàng không bằng lòng với chủ trương của thánh Robertô, cho rằng uy quyền của Giáo hoàng trực tiếp trong các vấn đề vật chất, và nếu có thì chỉ qua uy tín tinh thần mà thôi. Chủ trương này đã trở nên thông thường trong Giáo Hội ngày nay. Nhưng Đức Sixtô đã qua đời và Đấng kế vị Ngài đã rút lại quyết định. Dầu bị thử thách nhưng thánh Robertô đã góp phần vào ấn bản Kinh Thánh thời Đức Sixtô và đã viết tựa cho ấn bản cũ được vạch ra với một tinh thần bác ái.
Thánh Robertô liên tiếp làm cha tinh thần và viện trưởng của học viện Roma, rồi làm bề trên tỉnh dòng Naples. Tại Roma Ngài hướng dẫn một thánh trẻ dòng Tên là Luy Gonzaga.
Năm 57 tuổi, sau 39 năm trong Dòng mà ngài thấy “không biết buồn là gì”, ngài được Đức Thánh Cha nâng lên hàng hồng y, hoàn toàn ngoài ý muốn của ngài và vì tuân phục mà thôi, để phục vụ trong giáo triều Rôma cho tới chết, thời gian mà ngài cảm thấy “không biết vui là gì.”
Chúng ta biết là trong Dòng Tên, ngoài ba lời khấn như mọi dòng khác là khiết tịnh, thanh bần và tuân phục, còn có lời khấn thứ tư là tuân phục Đức Thánh Cha khi được trao một sứ mạng nhằm phục vụ Hội Thánh. Đồng thời trong Dòng cũng khấn không nhận các phẩm chức như giám mục hay hồng y, trừ khi Đức Thánh Cha buộc phải vâng lời. Theo giáo luật, người thuộc một dòng tu khi làm giám mục hay hồng y sẽ trực thuộc Đức Giáo Hoàng, không còn thuộc quyền bề trên nhà dòng nữa. Điều này, cũng có nghĩa là về tinh thần thì còn thuộc nhà dòng, nhưng trong thực tế không chung sống với anh em nữa. Thánh Bellarminô rơi đúng vào trường hợp này. Khi nhận mũ áo hồng y, ngài khóc nức nở và chỉ xin được trở lại sống với anh em trong Dòng.
Ngoài một thời gian làm Tổng Giám mục tại Capua, cho tới năm 1605 thì Ngài được triệu về Roma và cầm viết bênh vực Giáo Hội. Liên tiếp Ngài dàn xếp với Fra Sarpi miền Venice, với vua Giacôbê I nước Anh và với văn sĩ Pháp Guillaume Barchony. hầu hết những năm tháng còn lại, trong khi làm hồng y, ngài phục vụ trong các thánh bộ của giáo triều. Ngài phải nghiên cứu và cho ý kiến về những vấn đề lớn trong đời sống Hội Thánh vào một giai đoạn khó khăn và phức tạp, thí dụ quyền của Đức Thánh Cha trong lãnh vực chính trị, vụ án Galileo thời danh, cuộc tranh luận về ơn thánh giữa các cha dòng Đaminh và dòng Tên, tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, vấn đề giáo hội quốc gia tự trị. Đem hết tài năng và nghị lực để phục vụ Hội Thánh, với lòng tận tụy và khiêm tốn, với đời sống đơn sơ và khắc khổ, ngài được coi là ngọn đèn sáng cho giới trí thức, là tấm gương cho những người sống đời tận hiến.
Luôn ăn mặc và xử sự như một linh mục bình thường, khổ tâm trong dinh thự hồng y với những lễ nghi phiền phức, ngài chỉ thực sự thoải mái với bầu khí đơn sơ và ấm cúng trong Dòng. Những ngày cuối đời, được Đức Thánh Cha cho phép trở về nhà Dòng, ngài đã chọn sống trong nhà tập với các tập sinh là những người nhỏ nhất trong Dòng.
Ngài qua đời tại Rôma ngày 17.9.1621, được Đức Thánh Cha Piô XI tuyên thánh năm 1930 và ban danh hiệu thánh sư năm 1931. Theo di chúc, ngài xin được chôn cất trong lễ phục của linh mục, và tổ chức lễ an táng đơn sơ như một người bé nhất trong Dòng. Tuy nhiên Đức Thánh Cha bắt phải cho ngài mặc phẩm phục hồng y và tổ chức đám tang thật long trọng. Thế là dù đã chết, ngài vẫn phải vâng lời!
Tuy là một luật trừ, ngài cho thấy được cả hai mặt của Dòng Tên: vừa là môn đệ của Chúa Giê-su nghèo khó và khiêm tốn, vừa là người con tận tụy và vâng lời Hội Thánh.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ website TGP Sài Gòn và Dòng tên
Thứ Năm
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 4, 12-16
"Con hãy thận trọng giữ mình và giữ lấy giáo lý: như thế con sẽ cứu lấy chính mình con và những kẻ nghe lời con".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, chớ có ai khinh dể con vì con còn trẻ: nhưng con hãy nêu gương sáng cho các tín hữu, trong lời nói, cách ăn nết ở, trong đức bác ái, đức tin và đức thanh khiết. Cho tới khi cha đến, con hãy chăm chú đọc sách, khuyên bảo và dạy giáo lý. Con chớ quên lãng ân sủng trong con, là ơn đã ban cho con bởi lời tiên tri cùng với việc đặt tay của bậc Lão thành. Con hãy suy ngắm những sự đó, hãy để tâm đến các việc ấy, để mọi người đều thấy rõ con đã tiến tới. Con hãy thận trọng giữ mình và giữ lấy giáo lý: hãy kiên trì trong những việc ấy. Vì khi con làm như vậy, con sẽ cứu lấy chính mình con và những kẻ nghe lời con.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 110, 7-8. 9. 10
Ðáp: Vĩ đại thay công cuộc của Chúa (c. 2a).
Xướng: 1) Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của người đều đáng cậy tin. Những giới răn đó được lập ra cho đến muôn ngàn đời, được ban hành một cách chân thành và đoan chính. - Ðáp.
2) Chúa đã gởi tặng ơn giải phóng cho dân Người, đã thiết lập lời minh ước tới muôn đời, danh Người thực là thánh thiện và khả úy! - Ðáp.
3) Ðầu sự khôn ngoan là tôn sợ Chúa, bao nhiêu người thờ Chúa đều hành động cách khôn ngoan. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại tới muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 135
Alleluia, alleluia! - Xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 36-50
"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
"Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng".
Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".
Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bài Đọc 1 hôm qua có câu: "Rõ thực lớn lao thay mầu nhiệm của tình thương, là mầu nhiệm đã được tỏ hiện trong xác thịt, minh chính trong Thánh Thần, tỏ hiện cho Thiên Thần, rao giảng cho Dân Ngoại, kính tin trong thế gian, siêu thăng trong vinh hiển", Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, một phúc âm được viết cho dân ngoại và về Lòng Thương Xót Chúa, tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua về một Chúa Kitô bị thành phần biệt phái và luật sĩ cho rằng: "mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi", bài Phúc Âm ghi lại một sự kiện như thể chứng thực Chúa Giêsu quả là như thế, quả là Đấng muốn đến sống gần gũi với thành phần tội lỗi để có thể cứu chuộc họ, để nhờ đó họ có thể nhận ra Lòng Thương Xót Chúa qua Người, ở nơi Người và là chính Người.
Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay Thánh ký Luca cho thấy Chúa Giêsu đã gần gũi với một người đàn bà hư thân mất nết, một thứ gần gũi bất khả tránh ngoài ý muốn nhưng thật cần thiết, cho dù có thể trở thành gương mù cho người khác, như đã xẩy ra ở ngay trước mắt của vị chủ nhà biệt phái, đến độ gia chủ lấy làm ngạc nhiên khi chứng kiến thấy cảnh tượng, mà đối với thành phần coi mình là công chính bởi thông luật và duy luật, có vẻ quái gở này:
"Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình;
Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội
lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái,
liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân
Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn
chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ
rằng: 'Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình
là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!'".
Nếu trong dụ ngôn vẫn được gọi là dụ ngôn người con hoang đàng, người cha nhân hậu trong dụ ngôn chẳng những tỏ lòng thương đứa con phung phá trở về mà còn thương cả đứa con cả ở nhà với ông mà lòng lại xa ông như một đứa con hoang đàng thế nào, thì trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu chẳng những tỏ lòng thương cả đứa con phung phá là người phụ nữ đang hết lòng thống hối ăn năn trở về với Người mà còn tỏ lòng thương cả vị chủ nhà công chính nhưng hoang đàng lầm lạc đáng thương nữa. Đó là lý do trong khi gia chủ đang có tư tưởng ngờ vực về thế giá của Người là vị được ông ta trân trọng mời vào nhà và dùng bữa với ông, Chúa Giêsu đã kéo ông từ bộ óc trên đầu của ông xuống trái tim ở dưới lồng ngực của ông, bằng một dụ ngôn vấn nạn làm ông tự suy nghĩ và đã nhận định rất đúng:
"Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: 'Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông'. Simon thưa: 'Xin Thầy cứ nói'. 'Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?' Simon đáp: 'Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn'. Chúa Giêsu bảo ông: 'Ông đã xét đoán đúng'".
Thế rồi, căn cứ vào câu trả lời chính xác theo tự nhiên của vị chủ nhà, Chúa Giêsu mới áp dụng vào trường hợp của người phụ nữ tội lỗi đang đụng chạm đến Người ở ngay trước mặt ông, một con người được kể như mắc nợ nhiều hơn ông, (chứ không phải là ông công chính theo chủ quan mà ông không mắc nợ gì với Chúa nữa), một vị gia chủ tuy cảm phục Người đã mời Người đến nhà dùng bữa, (một người biệt phái hiếm thấy đối với Chúa Giêsu vẫn là cái gai chướng mắt của thành phần biệt phái và luật sĩ, dù vị chủ nhà này chưa cảm mến Người bằng nghị viên biệt phái Nicôđêmô - Gioan 3:1-2), nhưng vẫn không tỏ ra hết lòng cung kính Người và mến yêu Người như chính con nợ phụ nữ mà trong đầu của ông đang có vấn đề với Chúa, như chính Người đã vạch ra cho ông thấy trong bài Phúc Âm:
"Và quay
lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: 'Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi
đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước
mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà
này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi,
còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất
nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu
mến ít'".
Thế rồi, trong khi chủ nhà đang bàng hoàng choáng váng bởi những nhận định rất chính xác về ông cũng như về người đàn bà tội lỗi đã có những hành động đúng như những gì vị đại khách nhắc lại và so sánh với thái độ cùng hành động của ông đối với cùng vị khách này, thì Chúa Giêsu đã phán với người đàn bà hư thân mất nết, như con nợ nhiều gấp 10 lần vị gia chủ ("hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi") rằng: "Tội con đã được tha rồi".
Lời Người phán truyền tha tội này không ngờ lại gây phản ứng dữ dội hơn nữa, lần này không phải chỉ riêng vị gia chủ mà bao gồm cả những khách được mời (chắc cùng thành phần biệt phái với chủ nhà) nữa. Bởi thế, "những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: 'Ông này là ai mà lại tha tội được?'". Họ nghĩ cũng đúng thôi, vì trước mắt họ thì Chúa Kitô chỉ là một nhân vật Giêsu Nazarét thuần túy, chứ chẳng phải thần thánh gì, chẳng phải là Con Thiên Chúa, chẳng phải là Thiên Chúa, Đấng duy nhất có quyền tha tội cho loài người.
Tuy nhiên, trong khi con mắt duy luật và cao ngạo của thành phần biệt phái này không nhận ra vị thượng khách ở giữa họ như thế thì người phụ nữ lăng loàn tội lỗi đáng kinh tởm và xa lánh đối với họ lại nhận ra Người, Đấng có quyền tha tội lỗi cho nàng, nên nàng mới bày tỏ những cử chỉ ăn năn thống hối tuyệt vời nhưng đầy ngứa mắt như vậy, thậm chí nàng cứ đến với Người bất chấp các con mắt khinh người của nhóm khách biệt phái: "Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm...".
Chính vì hành động đầy tin tưởng hết sức can đảm lạ lùng hiếm có này của người phụ nữ lạ mặt "tội lỗi trong thành" này mà cuối cùng Chúa Giêsu đã nói với nàng rằng: "Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
Kinh nghiệm tu đức và mục vụ cũng cho thấy, có những tâm hồn tội lỗi lâu năm chưa xưng tội, hay đúng hơn không dám xưng tội, vì chỉ sợ cứ sa đi ngã lại, hay vì thấy mình tội lỗi chất chồng và càng chồng chất tội lỗi càng khó trở về với Chúa, thậm chí còn nản chí mất lòng tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa.
Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn theo dõi và tìm kiếm từng con chiên lạc đã có cách cứu độ của Ngài. Bởi thế, vào thời điểm ấn định, trong một hoàn cảnh thích hợp nào đó, có những tâm hồn đã trở về với Ngài, đã xưng tội, cho dù vào trong giờ lâm tử, và sau đó họ cảm thấy họ được giải thoát và được tràn đầy bình an, một thứ bình an họ không thể nào có được khi họ đang sống trong tự do theo ý họ một cách gian ác lỗi lầm, một thứ bình an thế gian mà họ đã từng mù quáng theo đuổi và hoan hưởng không thể nào ban cho họ được (xem Gioan 14:27).
Bởi thế, kinh nghiệm tu đức còn cho thấy, có trở về với Chúa, có chạm đến Chúa nơi Bí Tích Hòa Giải và sau đó nơi Bí Tích Thánh Thể, con người yếu đuối với có sức để sống đức tin và đức ái, bằng không, càng ngày sẽ càng bê bối và lún sâu xuống bùn lầy tội lỗi, đến độ nếu không có phép lạ không thể nào thoát khỏi vùng lầy tội lỗi ấy nữa. Nếu người phụ nữ tội lỗi trong bài Phúc Âm hôm nay không dám đến gần Chúa và thậm chí dám giơ bàn tay nhơ nhớp đã từng làm đĩ chạm đến Chúa, thì chắc nàng không bao giờ có thể được thanh tẩy và thậm chí được biến đổi (như chúng ta sẽ thấy trong Bài Phúc Âm ngày mai).
Trong bài Phúc Âm hôm nay, nếu so sánh tuổi thì chắc chắn người phụ nữ tội lỗi trong thành đến khóc lóc và xức dầu thơm vào chân Chúa Giêsu với vị chủ nhà thì người phụ nữ tội lỗi này trẻ hơn. Tuy nhiên, không phải vì trẻ mà không thể khôn ngoan hơn và sống tầm thường hơn người nhiều tuổi hơn. Trái lại, căn cứ vào những gì chị làm, những việc chị làm thậm chí được Chúa Giêsu khen tặng trước mặt gia chủ già đời hơn. Bởi thế mà Thánh Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay, ngài đã bảo người môn đệ Timôthêu của ngài rằng: "chớ có ai khinh dể con vì con còn trẻ: nhưng con hãy nêu gương sáng cho các tín hữu, trong lời nói, cách ăn nết ở, trong đức bác ái, đức tin và đức thanh khiết".
Cái khôn ngoan nhất của con người đó là nhận biết Thiên Chúa, trước hết và trên hết là ở chỗ tỏ ra kính sợ Ngài, như người phụ nữ tội lỗi trong thành đã thực hiện trong bài Phúc Âm hôm nay, đúng như câu Đáp Ca thứ 3 được trích từ Thánh Vịnh 11, câu 10: "Ðầu sự khôn ngoan là tôn sợ Chúa, bao nhiêu người thờ Chúa đều hành động cách khôn ngoan. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại tới muôn đời".
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 6, 2c-12
"Phần con, hỡi con người của Thiên Chúa, hãy theo đuổi đức công chính".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy giảng dạy và khuyên nhủ những điều này. Nếu ai giảng dạy điều chi khác lạ và không thành tín nắm giữ những lời giáo huấn lành mạnh của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu, và giáo lý phù hợp với đạo đức, thì người đó là kẻ mù quáng vì kiêu ngạo, không hiểu biết gì, nhưng mải mê về những chuyện bàn cãi và tranh chấp danh từ. Do đó phát sinh ra sự ghen tương, tranh chấp, lăng nhục, nghi ngờ với ác tâm, và những cuộc cãi cọ dai dẳng của những người hư hỏng tinh thần và thiếu thốn chân lý. Họ coi đạo đức là một nguồn lợi. Thực ra đạo đức là nguồn lợi lớn cho những ai biết bằng lòng với số phận mình. Bởi vì chúng ta đã không mang gì vào thế gian này, và chắc chắn chúng ta cũng không thể lấy ra được gì. Khi có cơm ăn và áo mặc, chúng ta hãy lấy thế làm bằng lòng. Còn như những kẻ muốn làm giàu, họ sa vào cơn cám dỗ, vào cậm bẫy và nhiều dục vọng điên rồ tác hại. Những cái đó làm con người ta chìm đắm vào chỗ điêu tàn và hư hỏng. Bởi chưng gốc rễ mọi sự dữ là lòng tham tiền bạc. Một số người vì đeo đuổi lòng tham này đã lạc mất đức tin và tự chuốc vào thân nhiều nỗi khổ đau.
Phần con, hỡi người của Thiên Chúa, hãy trốn xa những chuyện đó. Hãy theo đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh, đức tin, đức ái, đức nhẫn nại, đức hiền lành. Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của đức tin. Hãy cố đoạt lấy sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi tới, và cũng vì đó, con đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 48, 6-7. 8-10. 17-18. 19-20
Ðáp: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ (Mt 5, 3).
Xướng: 1) Tại sao tôi phải kinh hãi trong ngày tai hoạ, khi ác tâm quân thù mưu hại bao bọc quanh tôi? Bọn người này tin cậy vào tài sản, chúng tự hào vì có bạc vạn tiền muôn. - Ðáp.
2) Nhưng thực ra không ai tự cứu được bản thân, cũng không ai dâng được lên Chúa giá tiền thục mạng. Giá thục mạng quá đắt, không bao giờ có đủ, hầu mong sống mãi đời đời, không phải nhìn coi sự chết. - Ðáp.
3) Ðừng e ngại khi thấy ai giàu có, khi thấy tài sản nhà họ gia tăng: bởi lúc lâm chung, họ chẳng mang theo gì hết, và tài sản cũng không cùng họ chui xuống nấm mồ. - Ðáp.
4) Dầu khi còn sống họ ca tụng mình rằng: "Thiên hạ sẽ khen ngươi, vì ngươi biết khôn ngoan tự liệu", họ sẽ tìm đến nơi đoàn tụ của tổ tiên, những người muôn thuở không được nhìn xem sự sáng. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 36a và 29b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8, 1-3
"Có mấy phụ nữ đi với Người và họ đã lấy của cải mình mà giúp Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bài Phúc Âm hôm nay, mở đầu đoạn 8, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua ở cuối đoạn 7. Tức là, sau sự kiện Chúa Giêsu được một người biệt phái tên là Simon mời đến dùng bữa với ông và bạn hữu của ông, ở đó Người đã tha thứ cho một người phụ nữ tội lỗi hết lòng ăn năn thống hối đến với Người.
Nếu bài Phúc Âm hôm qua, người phụ nữ lạ mặt như vô danh tiểu tốt này chỉ được Thánh ký Luca tiết lộ một chút xíu ở ngay đầu bài Phúc Âm đó là "một người đàn bà tội lỗi trong thành", thì hình như người phụ nữ tội lỗi ấy đã trở thành một (vẫn tiếp tục vô danh) trong những nữ môn đệ của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Khi ấy, Chúa rảo qua
các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa.
Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa
khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được
trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà
Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người".
Phải chăng người phụ nữ tội lỗi tỏ lòng ăn năn thống hối ấy chẳng những đã từ bỏ đời sống tội lỗi mà còn dấn thân theo phục vụ Đấng đã vô cùng từ bi nhân hậu tha thứ tội lỗi cho mình nữa, qua chi tiết được Thánh ký Luca cho biết là: "Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám".
Suy diễn này có thể đúng: người phụ nữ tội lỗi đã "đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm" và đã được Người tha thứ: "Tội lỗi con đã được tha... Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an", trong bài Phúc Âm hôm qua, chính là "Maria cũng gọi là Mađalêna" trong bài Phúc Âm hôm nay.
Thật
vậy, căn cứ vào hai chi tiết trong 2 phúc âm khác, chúng ta có thể
thấy được điều này. Trước hết, trong Phúc Âm Thánh Gioan, Thánh
Ký đã chú thích ở trong ngoặc đơn về Maria là chị em của Matta và Lazarô như
sau: “(Maria có Lazarô bị bệnh này là người đã xức dầu cho
Chúa bằng dầu thơm và lau khô chân Người bằng tóc của mình)” (11:2), đúng
như những gì Thánh ký Luca ghi nhận trong bài Phúc Âm hôm qua.
Trong Phúc Âm của Thánh ký Marco, ở đoạn liệt kê thứ tự các lần Chúa Kitô phục sinh hiện ra, mà người đầu tiên được vị Thánh ký này liệt kê là “Maria Magdalene”, một nhân vật nữ đã được thánh ký ghi chú thêm một cách kỹ lưỡng như sau: “Người trước hết đã hiện ra với Maria Magdalene là người được Người trừ cho khỏi 7 quỉ” (16:9), đúng như những gì Thánh ký Luca ghi nhận trong bài Phúc Âm hôm nay.
Tóm lại, căn cứ vào các đoạn Phúc Âm được trích dẫn liên quan đến nhân vật mang tên Maria và Maria Magdalene, có thể kết luận rằng cả hai danh xưng này chỉ là một nữ nhân vật duy nhất, đó là Chị Thánh Maria Mai Đệ Liên được Giáo Hội mừng kính hằng năm vào ngày 22/7.
Vậy Maria Magdalene cũng là Maria chị em của Matta và Lazarô ở Bêtania, có
thể là một
con người đã bỏ nhà đi hoang sống đời tội lỗi (x Lk 7:37) ở Magdala (?),
nhưng đã thống hối bằng tất cả tấm lòng tan nát khiêm cung của mình (x Lk
7:47), “đã chọn phần tốt hơn” là lắng nghe lời Chúa (x Lk 10:42), đã
khóc thương Lazarô khiến Chúa cũng cảm thấy mủi lòng trước nước mắt của
chị (x Jn 11:33), và đã trung kiên theo Chúa (còn hơn cả đa số các vị tông
đồ) cho tới khi đứng dưới chân thập giá Chúa với Mẹ Maria và Thánh Tông Đồ
Gioan (x Jn 19:25), nhờ đó chị thậm chí còn diễm phúc trở thành con người
đầu tiên được Chúa Kitô phục sinh ưu tuyển hiện ra (x Mk 16:9), trước cả các
thánh tông đồ, và Người đã sai chị đi loan báo tin mừng phục sinh về Người
cho chính các tông đồ nữa (x Jn 20:17)!
Những người phụ nữ theo Chúa Kitô được Thánh ký Luca liệt kê trong bài Phúc Âm hôm nay là thành phần khôn ngoan, thành phần được Thánh Phaolô liệt kê trong Bài Đọc 1 hôm nay, hoàn toàn khác với "những kẻ muốn làm giàu, họ sa vào cơn cám dỗ, vào cậm bẫy và nhiều dục vọng điên rồ tác hại. Những cái đó làm con người ta chìm đắm vào chỗ điêu tàn và hư hỏng. Bởi chưng gốc rễ mọi sự dữ là lòng tham tiền bạc. Một số người vì đeo đuổi lòng tham này đã lạc mất đức tin và tự chuốc vào thân nhiều nỗi khổ đau". Trái lại, cũng theo Thánh Phaolô trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay, họ "theo đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh, đức tin, đức ái, đức nhẫn nại, đức hiền lành".
Chỉ có thành phần dám từ bỏ mọi sự mà theo Chúa, sống nghèo như Người, chẳng những về vật chất mà cả về tinh thần nữa, mới cảm nghiệm được tâm tình của Thánh Vịnh 48 ở bài Đáp Ca hôm nay:
1) Tại sao tôi phải kinh hãi trong ngày tai hoạ, khi ác tâm quân thù mưu hại bao bọc quanh tôi? Bọn người này tin cậy vào tài sản, chúng tự hào vì có bạc vạn tiền muôn.
2) Nhưng thực ra không ai tự cứu được bản thân, cũng không ai dâng được lên Chúa giá tiền thục mạng. Giá thục mạng quá đắt, không bao giờ có đủ, hầu mong sống mãi đời đời, không phải nhìn coi sự chết.
3) Ðừng e ngại khi thấy ai giàu có, khi thấy tài sản nhà họ gia tăng: bởi lúc lâm chung, họ chẳng mang theo gì hết, và tài sản cũng không cùng họ chui xuống nấm mồ.
4) Dầu khi còn sống họ ca tụng mình rằng: "Thiên hạ sẽ khen ngươi, vì ngươi biết khôn ngoan tự liệu", họ sẽ tìm đến nơi đoàn tụ của tổ tiên, những người muôn thuở không được nhìn xem sự sáng.
Ngày 19 tháng 9:
THÁNH GIA-NU-A-RI-Ô
Giám Mục Tử Đạo
* Gương Thánh nhân
Thánh Gia-nu-a-ri-ô, sống vào thế kỷ thứ ba. Lòng nhân đức và tài trí thông minh của ngài đã đưa ngài lên chức Giám mục giáo phận Bê-nê-ven. Ngài hết sức từ chối chức vị cao trọng đó, vì ngài khiêm tốn, thấy mình bất xứng trước mặt Chúa. Nhưng Đức Giáo Hoàng ra lệnh, nên thánh nhân không dám từ chối.
Từ ngày lãnh chức Giám mục, thánh nhân càng sống khắc khổ nghiêm nhặt hơn, cố ý hãm mình dâng lên Chúa, để cầu nguyện cho hàng giáo sĩ và đoàn chiên. Ngài luôn sống gần gũi, khuyến khích họ trung thành bền đỗ phụng sự tôn thờ Chúa, vì Hội thánh lúc đó đang bị hoàng đế Đi-ô-lê-si-en bách hại, nhiều người đã bị bắt, bị giết vì đạo, nhưng cũng có số người vì nhát đảm đã bỏ Chúa tế thần.
Thánh nhân rất đau lòng mỗi khi nghe tin con chiên chối đạo. Ngày nọ, khi biết có 4 Ki-tô hữu bị tống giam vì đức tin, ngài lén đến thăm họ, khuyên bảo họ can đảm tuyên xưng Chúa Ki-tô. Viên tổng trấn thành phố hay tin liền ra lệnh bắt giữ ngài. Hôm sau, ông truyền dẫn ngài đến và bảo:
- Hãy tế thần đi, ngươi sẽ được sống.
Thánh nhân trả lời:
- Tôi không thờ lạy bụt thần ma quỷ như các ông. Tôi chỉ thờ một Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa cao cả hơn hết.
Viên tổng trấn ra lệnh bỏ ngài vào lò lửa cho chết cháy. Nhưng Chúa cứu ngài bình an vô sự như ba thanh niên Do-thái xưa. Và người ta giam ngài vào ngục. Từ đây, thánh nhân vui mầng gặp lại các con chiên của mình. Ngài khuyên bảo họ:
- Chúng con hãy can đảm lên, đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không làm gì hại được linh hồn. Chúng con hãy kính sợ Đấng phạt chúng con trong hỏa ngục, hãy trung thành theo Đấng đó, để được sống đời đời.
Ít hôm sau, viên tổng trấn dạy dẫn ngài ra và bảo:
- Ngươi hãy tế thần đi, ta sẽ cho về với đồ đệ ngươi.
Thánh nhân đáp:
- Quan cứ luật mà xử tội, không bao giờ tôi bỏ Chúa mà theo ma quỷ được.
Đứng trước lòng kiên trung của thánh nhân, viên tổng trấn không còn cách nào hơn là ra lệnh chém đầu ngài.
Thánh nhân đã được phúc tử đạo năm 305, dưới thời hoàng đế Đi-ô-lê-si-en. Năm 1493 di hài của ngài được dời về Náp-lơ, và được dân thành tôn làm thánh bổn mạng. Họ rất tin tưởng ngài, chạy đến nhờ ngài cầu thay nguyện giúp mỗi khi gặp gian nan khốn khó. Tương truyền thánh nhân đã cứu họ khỏi nạn núi lửa Vê-su và máu ngài đã làm nhiều việc lạ, nhưng không có bằng chứng nào chắc chắn về các hiện tượng nầy.
* Quyết tâm
Noi gương thánh Gia-nu-a-ri-ô, tôi trung thành bền đỗ theo giúp việc Chúa cho đến chết, và hằng ngày mời gọi nhiều người cùng trung thành với Chúa, sẵn lòng chịu khổ cực vì Chúa.
* Lời nguyện
Lạy Chúa, ngày hôm nay chúng con tưởng niệm thánh Gia-nu-a-ri-ô tử đạo.
Xin Chúa rộng ban cho chúng con mai sau được cùng thánh nhân hưởng hạnh phúc trên trời. Chúng con cầu xin...
Nguồn: http://www.giaophanvinhlong.net
Ngày 16/11/2021, giữa đại dịch toàn cầu vẫn còn hoành hành, trong chuyến Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh 12 ngày 8-19/11/2021,
phái đoàn TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương) đã từ Bắc và Trung Ý Nam Ý ở thành phố Napoli (Naple)
để kính viếng Vương cung Thánh đường Mẹ Mông Triệu TGP Napoli, nơi còn lưu giữ hài tích của Thánh nhân.
Thánh Januarius, tên tiếng Ý là thánh Gennaro, là thánh quan thầy của Napoli. Nên hình ảnh của ngài xuất hiện ngay trên tường giữa lòng thành phồ.
Ngài là giám mục của thành phố này vào thế kỷ thứ 3. Ngài đã tử đạo trong
cuộc bách hại của hoàng đế Diocletianus. Xương và máu của ngài được kính
trong nhà thờ chính tòa Napoli.
Máu thánh nhân hóa lỏng ít nhất 3 lần mỗi năm: ngày lễ kính thánh nhân 19/9; thứ Bảy trước ngày Chúa Nhật đầu tiên của tháng 5; và ngày 16/12, là ngày kỷ niệm núi lửa Vesuvius phun trào.
Nguyện đường bên trong Vương Cung Thánh Đường Mẹ Mông Triệu TGP Napoli, ở bên cánh phải, là nơi lưu giữ Máu của vị thánh.
Ngày 21/9/2008, tại thành phố cảng Naples của Ý, một lọ chứa khối chất rắn đậm màu, được cho là máu khô của giám mục Januarius, lại một lần nữa hóa lỏng trước ánh mắt ngỡ ngàng của dân chúng.
Phép lạ “máu đông hóa lỏng” này đã xuất hiện rất nhiều lần kể từ thời Trung Cổ cho đến nay.
Hiện tượng kì lạ này tuy được những tín đồ Công giáo sùng bái như một phép màu, nhưng vẫn còn để ngỏ một lời giải thích thỏa đáng từ giới khoa học.
(hầm mộ của vị thánh trong vương cung thánh đường)
Chiếc lọ được xem như một thánh tích nổi tiếng của Thiên Chúa giáo, đặt trang nghiêm trong nhà thờ chính tòa Naples.
Bề ngoài trông lọ khoảng 60ml, chứa một khối vật chất đặc khô chiếm nửa bình.
Cứ đến các tháng 5, 9, 12, khi thực hiện nghi lễ truy tôn Thánh Januarius, chiếc lọ được đưa ra, xoay chuyển để “phép màu” xuất hiện:
khối vật chất ấy hóa lỏng ra, có khi ngay lập tức, có khi từ từ, vài giờ đến vài ngày… sau đó đông lại như cũ.
Không những thế, một số hiện tượng khác cũng được ghi nhận như: sôi, sủi bọt, đổi màu từ đỏ thẫm sang đỏ hồng, thậm chí khi cân thấy tăng khối lượng!!!
Có lúc khối ấy không hóa lỏng hết mà nổi thành viên nhỏ trên lớp chất lỏng.
Khi phép lạ xảy ra, khối máu khô, có màu đỏ ở một mặt của bình đựng thánh tích trở thành chất lỏng bao phủ gần như toàn bộ mặt kính.
Lần gần đây nhất máu không hóa lỏng là vào tháng 12/2016.
Đức Hồng Y Sepe đã dâng thánh lễ truyền chiếu trực tiếp và ban phước cho thành phố với thánh tích của máu hóa lỏng.
Ngài tuyên bố: “Ngay cả trong thời gian đại dịch virus corona, qua lời chuyển cầu của thánh Januarius, Chúa đã cho máu hóa lỏng!”. (CNA 19/09/2020)
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 6, 13-16
"Con hãy gìn giữ huấn lệnh cho tinh tuyền, cho tới ngày Chúa lại đến".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, cha chỉ thị cho con trước mặt Thiên Chúa, Ðấng làm cho muôn vật được sống, và trước mặt Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã làm trước mặt Phongxiô Philatô lời tuyên xưng thẳng thắn, con hãy giữ gìn huấn lệnh đó cho tinh tuyền và không thể trách được cho tới ngày Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô lại đến, mà tới thời đã định, Ðấng phúc lộc và quyền năng duy nhất sẽ tỏ ra Người là Thiên Chúa, Vua các vua và Chúa các chúa, Ðấng độc nhất trường sinh bất tử, Người ngự trong ánh sáng siêu phàm, không một ai trong loài người đã xem thấy, hay có thể xem thấy: Vinh dự và quyền năng (xin kính dâng) cho Người muôn đời. Amen!
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 99, 2. 3. 4. 5
Ðáp: Hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá (c. 2c).
Xướng: 1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa; chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người; ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. - Ðáp.
3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui; hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa, và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8, 4-15
"Hạt rơi trong đất tốt, là những người giữ lấy lời và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu. Người dùng dụ ngôn mà nói rằng: "Người gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc lên và kết quả gấp trăm".
Khi nói những lời đó, Người kêu lên rằng: "Ai có tai để nghe thì hãy nghe!". Bấy giờ các môn đệ hỏi Người dụ ngôn đó ý nghĩa thế nào. Người nói rằng: "Phần các con, thì cho các con biết những mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu. Dụ ngôn đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXIV
Thường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại dụ ngôn người gieo
giống của Chúa Giêsu khi "có
đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu".
Hình ảnh "có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu" ở ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay rất thích hợp với dụ ngôn người gieo giống là Chúa Giêsu qua vai trò giảng dạy của Ngài, những lời giảng dạy như hạt giống gieo vào tai, vào lòng thính giả, trong đó không phải ai cũng tiếp nhận hạt giống này như nhau, mà là khác nhau, được chính Chúa Giêsu phân loại và tóm gọn lại thành 4 hạng trong dụ ngôn của Người như sau:
"Người
gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống
bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên
đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi
gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc
lên và kết quả gấp trăm".
Bốn hạng hay bốn loại thính giả lắng nghe lời Chúa hay đón nhận hạt giống lời Chúa này ra sao và được hạt giống lời Chúa tác dụng như thế nào nơi bản thân họ, hay nói cách khác, hạt giống lời Chúa đã sinh hoa kết trái ra sao nơi họ, tất cả đã được Chúa Giêsu dẫn giải ở phần cuối bài Phúc Âm hôm nay theo lời yêu cầu của các môn đệ:
"Dụ ngôn
đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ
đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng
họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi
nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng
nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là
những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và
thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi
trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo,
họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Như thế, căn cứ vào những gì được Chúa Giêsu dẫn giải, thì trình độ lãnh nhận hay thái độ lãnh nhận lời Chúa được chia ra làm 4 cấp theo tác dụng của lời Chúa, thứ tự như sau:
1- "Vệ đường" - Hững hờ trong tâm linh: "Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ". Trường hợp này thường thấy nơi những con người chẳng tin tưởng gì hết, ngoài chính bản thân họ, họ chủ quan, cố chấp, thành kiến, ý riêng, hoàn toàn sống theo bản tính tự nhiên và buông thả, đến độ không cần bị cám dỗ họ cũng sa ngã, phạm tội mà không biết, mất hết ý thức tội lỗi v.v.
2- "Sỏi Đá" - Nông cạn trong cuộc sống: "Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui". Thường thấy xẩy ra trong các cuộc tĩnh tâm, tham dự viên rất hào hứng khi nghe giảng, vổ tay, cười lớn, thích thú, gật gù v.v. thế nhưng sau đó vẫn tiếp tục sống với những gì phản lại với lời giảng mà họ cảm thấy hay ho thấm thía nhất thời.
3- "Bụi gai" - Bất ổn trong nội tâm: "Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả". Có những Kitô hữu Công giáo rất thông thuộc lời Chúa, hay lập lại Lời Chúa khi cần, nhắc nhở Lời Chúa cho kẻ khác, và sống đời cầu nguyện một cách kỹ lưỡng hằng ngày, cho tới khi hoạt động đụng chạm mới thấy trình độ thấm nhuần lời Chúa của họ tới đâu.
4- "Đất lành" - Đáp ứng trong tin tưởng: "Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái". Mẫu gương cho thành phần "đất lành chim đậu" này không ai hơn Đệ Nhất Tạo Vật về ân sủng là Mẹ Maria, nhờ luôn suy niệm và đáp ứng lời Chúa (xem Luca 2:19,51), bởi thế Mẹ luôn đầy ân phúc và không bao giờ giảm một chút gì ân phúc nơi Mẹ, trái lại, ân phúc càng đầy nơi Mẹ, càng làm cho Mẹ nên giống Chúa hơn ai hết, đến độ Mẹ trở nên rực rỡ như mặt trời (xem Khải Huyền 12:1; Diễm Tình Ca 6:10).
Thánh Phaolô đã khuyên dạy người môn đệ Timôthêu của ngài ở Bài Đọc 1 hôm nay là hãy trở nên một mảnh đất tốt như thế này: "con hãy giữ gìn huấn lệnh đó cho tinh tuyền và không thể trách được cho tới ngày Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô lại đến, mà tới thời đã định, Ðấng phúc lộc và quyền năng duy nhất sẽ tỏ ra Người là Thiên Chúa, Vua các vua và Chúa các chúa, Ðấng độc nhất trường sinh bất tử, Người ngự trong ánh sáng siêu phàm, không một ai trong loài người đã xem thấy, hay có thể xem thấy: Vinh dự và quyền năng (xin kính dâng) cho Người muôn đời. Amen!"
Những tâm hồn được cho là mảnh đất tốt mới có thể xướng lên Thánh Vịnh 99 ở bài Đáp Ca hôm nay, Thứ Bảy cuối tuần XXIX Thường Niên Năm C:
1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa; chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người; ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.
3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui; hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người.
4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ.
Ngày 20 tháng 9
Thánh An-rê Kim Tê-gon, thánh Phao-lô Chung Ha-san và các bạn, tử đạo
lễ nhớ bắt buộc
Nhờ việc tông đồ của một số giáo dân, đức tin Ki-tô giáo đã đi vào Hàn Quốc đầu thế kỷ XVII.
Dù thiếu các mục tử, giáo đoàn vẫn sống đức tin hăng say và mạnh mẽ. Cộng đoàn được hướng dẫn và xây dựng hầu như chỉ nhờ những người giáo dân, cho tới cuối năm 1836, khi những nhà truyền giáo đầu tiên người Pháp bí mật đến xứ này.
Giáo đoàn này, với những cuộc bách hại vào những năm 1839, 1846, 1866 và 1867, đã sản sinh ra 103 thánh tử đạo, trong đó nổi bật là linh mục đầu tiên người Hàn Quốc, cha An-rê Kim Tê-gon. Cha là một mục tử hăng hái nhiệt thành. Kế đó là người tông đồ giáo dân, anh Phao-lô Chung Ha-san.
Còn những vị khác, đa số là giáo dân nam, nữ, độc thân, có gia đình, người già, thanh niên, thiếu nhi. Tất cả đều đã lấy máu mình để làm chứng cho Chúa Ki-tô, làm nên mùa xuân tươi đẹp của Giáo Hội Hàn Quốc.
1. Đôi dòng lịch sử
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ kính thánh Andrê Kim và Thánh Phaolô Chung cùng các bạn tử đạo tại Giáo Hội Đại Hàn.
Phải nói Giáo Hội Đại Hàn đã được bắt đầu như một phép lạ. Nói theo cái nhìn của Chúa Giêsu thì Giáo Hội đó được bắt đầu như một hạt cải nhỏ bé nhưng bây giờ nó đã lớn lên, lớn lên mạnh mẽ và oai hùng trước sự kinh ngạc vả cảm phục của nhiều người.
Nào có ai ngờ được rằng chỉ có một người. Người đó tên là Li Sung Hung. Người ta gọi Li Sung Hung là một học giả. Li Sung Hung đã đến Bắc Kinh năm 1784. Li Sung Hung được học đạo và rửa tội tại đây. Sau khi được trở thành một Kitô hữu, Li Sung Hung thấy mình là người được hạnh phúc. Li Sung Hung đã không muốn một mình vui hưởng niểm hạnh phúc đó. Li Sung Hung muốn chia sẻ niềm hạnh phúc đó cho đồng bào ruột thịt trên quê hương đất nước của mình. Thế là chỉ với một ít sách báo, tài liệu hiếm hoi, Li Sung Hung đã lên đường về nước rồi với nhiệt tình nóng bỏng truyền giáo, Li Sung Hung đã làm cho ngọn lửa Đức tin được bùng cháy lên.
Việc làm lúc đầu tưởng chừng chỉ là đơn độc và khó lan truyền, thế nhưng như lời Chúa tiên báo ngọn lửa đó đã bùng cháy lên.
Một Giáo Hội đã được thành hình. Không linh mục, thậm chí không có một nhà truyền giáo, chỉ có một giáo dân, rồi từ từ lan toả, từ từ lớn lên, bất chấp mọi trở ngại, bất chấp mọi khó khăn nhất là những hiểu lầm lúc khởi đầu.
Rồi ngay sau đó, nhờ những nỗ lực của một nhóm học giả Hàn quốc tìm tòi, nghiên cứu về đức tin công giáo qua các sách vở mà ông Li Sung Hung đã mang về từ Trung Hoa, những người giáo dân Hàn quốc này bắt đầu dạy giáo lý cho những người khác và rửa tội cho họ. Mãi tới 11 năm sau (1784- 1795), nhờ sự học hỏi tìn hiểu sâu rộng, nhóm giáo dân công giáo đầu tiên này mới bắt đầu nhận thấy: họ cần có một linh mục. Thế là một đại diện ngoại giao đoàn đã được gửi sang Bắc kinh. Đức giám mục Bắc kinh đã chấp thuận ngay lập tức. Và vào năm 1795, cha Chumuymô, vị linh mục thuộc giáo phận Bắc kinh đã chính thức được cử sang Đại hàn và trở thành nhà truyền giáo đầu tiên tại đây.
Giáo hội Đại Hàn bắt đầu lớn lên và càng ngày càng lớn nhanh, lớn mạnh. Thế nhưng cũng như bất cứ Giáo hội nào của Chúa, như một định luật chung, cứ bắt đầu thành hình, lớn lên là bắt đầu chịu nhiều cản trở, cấm đoán cản ngăn, thậm chí nhiều khi còn đi đến chỗ bị bắt bớ tiêu diệt.
Giáo Hội Đại hàn đã phải trải qua một cơn đại hoạ kéo dài 100 năm như thế.
Trong khoảng thời gian kéo dài gần 100 năm đó, lịch sử còn ghi lại con số 103 vị tử đạo. Trong số 103 vị tử đạo này có 92 giáo dân thuộc đủ mọi giai cấp trong xã hội, 45 người nam và 47 phụ nữ. Nổi bật nhất là vị linh mục đầu tiên tại đất nước Hàn quốc là Andrê Kim Têgôn và mười nhà truyền giáo Pháp. Trong số 103 vị tử đạo, 79 vị đã được phong chân phước năm 1925, họ là nạn nhân của cuộc bách hại đầu tiên, và 24 vị được nâng lên hàng chân phước năm 1968, là nạn nhân của cuộc bách hại sau này.
Cha Chumuymô cũng được phúc tử đạo. Cùng chịu tử đạo với ngài lúc đó, có khoảng 300 người mới trở lại đạo.
Bên cạnh đó, người ta không thể không nhắc đến ông Phaolô Chung, một nhân công trong một xưởng dệt dây thừng, một gương mặt tiêu biểu cho những người công nhân, đã được rửa tội năm 30 tuổi, và đã hoạt động tích cực trong việc truyền bá đức tin công giáo bằng cách giấu ẩn các tín hữu trong vùng khi họ đến nhận lĩnh các bí tích. Ông đã bị bắt vào năm 1839, bị tống ngục và bị tra tấn dã man. Vì không chịu đựng được những cực hình, ông đã đồng ý chối đạo, và được trả lại tự do. Tuy nhiên, sau đó ông hối hận và trở lại nói với chánh án, là ông muốn rút lại lời tuyên bố chối đạo. Một lần nữa, ông bị bắt giam tù và bị đánh đập. Ông chết vì các vết thương làm độc, năm ấy ông 41 tuổi.
Năm 1984, Giáo hội công giáo Hàn quốc mừng lễ kỷ niệm 200 năm ngày học giả trẻ tuổi Li Sung Hung đến Bắc Kinh năm 1784, được rửa tội tại đây, đoạn trở về quê hương với một số sách đạo và một ánh lửa đức tin, để rồi sau đó làm bùng cháy ngọn lửa đức tin công giáo tại Hàn quốc.
Ngày 6.5.1984, tại Seoul, Nam Hàn, trong một thánh lễ phong thánh đầu tiên được cử hành ngoài Rôma kể từ thế kỷ XIII, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng 103 vị tử đạo lên bàn thờ và gọi dịp này là ngày vui mừng nhất, ngày trọng đại nhất trong lịch sử Giáo hội Công giáo tại Hàn quốc.
2. Bài học đáng nhớ: Vai trò của những người giáo dân trong công việc mở mang nước Chúa.
Sắc Lệnh Tông Ðồ Giáo Dân đã nói rất mạnh: "Thời gian mà các tín hữu chỉ đóng vai trò thụ động đã qua rồi. Ngày nay Giáo Hội đặt niềm tin ở sự can thiệp, ở sáng kiến cũng như nơi sự tuân phục của con cái mình."
Quả thực ngày nay khi nhìn vào Giáo Hội tại Đại Hàn, không ai mà không nhận thấy các tín hữu của họ đã đóng một vai trò hết sức năng động và hữu hiệu trong đời sống của Giáo Hội.
Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta cũng ý thức được vai trò của mình trong công việc xâ dựng giáo xứ mình như thế.
Hai ông giáo dân gặp nhau giữa phố chợ. Ông thứ nhất nói:
- Ông có nghĩ rằng chúng ta nên giúp cha xứ một tay không?
Ông thứ hai đáp:
- Tôi cũng thường nghĩ tới chuyện đó, nhưng sao tôi thấy hình như ngài đã chọn riêng vài người phụ giúp rồi, tôi không muốn chen vào nhóm đầu não này.
- Ừ, ông sẽ thấy nhóm này luôn quanh quẩn bên cha xứ, cứ như họ thuộc một hội kín có mật khẩu nào đó.
Một trong những người thuộc nhóm giúp cha xứ, mà hai ông này đang nói tới, tiến đến góp lời:
- Thực ra cũng có nhóm môn đệ nòng cốt, nếu các ông muốn tham gia, tôi sẽ tiết lộ mật khẩu cho.
Hai người kia đồng thanh:
- Nào, nói cho chúng tôi nghe đi.
Ông kia đáp:
- Khi cha đến xứ mình, trước hết, ngài cần nhiều đôi tay góp sức. Ngài đã mời được nhiều người, nhưng chỉ những người biết mật khẩu mới ở lại giúp ngài. Mật khẩu là: “Xin Vâng.”
(John C.Hicks)
Đức tin được thành toàn nhờ đức ái và sự kiên trì
Trích huấn dụ cuối cùng của thánh An-rê Kim Tê-gon, linh mục, tử đạo.
Anh em và các bạn rất thân mến, trước hết hãy suy nghĩ cho thấu đáo : từ thuở ban đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất muôn vật thế nào. Sau đó, hãy suy gẫm xem vì lý do và ý định nào Thiên Chúa đã dựng nên từng người theo hình ảnh của Chúa và giống như Người.
Vậy, nếu trong thế giới đầy hiểm nguy và khốn khổ này, chúng ta không nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành, thì có sinh ra và sống ở trên đời cũng chẳng ích lợi chi. Mặc dù nhờ ơn Thiên Chúa chúng ta chào đời, cũng nhờ ơn Thiên Chúa chúng ta lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, được gia nhập Hội Thánh, trở thành môn đệ của Chúa và mang danh Người, nhưng hữu danh vô thực nào có ích chi ? Nếu thế, sinh ra trên đời và gia nhập Hội Thánh thật là vô ích ; hơn thế nữa, đó còn là phản bội Chúa và cưỡng lại ơn Người. Thà không sinh ra còn hơn là lãnh nhận ơn Chúa mà xúc phạm đến Người.
Hãy xem người nông dân lo công việc đồng áng thế nào : người ấy cày bừa đúng thời vụ, rồi bỏ phân và gieo hạt giống quý báu, không quản ngại lao nhọc nắng nôi. Đến mùa gặt, nếu thấy những bông lúa nặng trĩu, ông ta quên cả mồ hôi và nỗi vất vả, lòng hân hoan vui sướng, hạnh phúc tràn trề. Còn nếu thấy những bông lúa lép xẹp nếu chỉ thu được rơm rạ và những hạt lúa lép, người nông dân lại nhớ đến mồ hôi và nỗi lao nhọc vất vả, và trước đã chăm sóc thửa ruộng đó bao nhiêu thì nay lại càng bỏ hoang nó bấy nhiêu.
Tương tự như thế, Thiên Chúa nhận mặt đất làm thửa ruộng của Người, nhận chúng ta là những con người làm thóc giống, ban ân sủng làm phân bón. Người còn lấy máu mình mà tưới trên chúng ta nhờ việc nhập thể và cứu chuộc, để chúng ta có thể lớn lên và trở thành bông lúa chín vàng. Đến ngày phán xét là lúc thu hoạch, người nào nhờ ân sủng mà thành bông lúa chín, sẽ được hưởng Nước Trời với tư cách nghĩa tử của Thiên Chúa. Còn ai không thành bông lúa chín, sẽ trở nên kẻ thù của Thiên Chúa, dù trước đó chính họ đã từng là nghĩa tử của Người, và sẽ bị trừng phạt đời đời theo tội trạng của họ.
Anh em rất thân mến, anh em hãy biết rằng Chúa chúng ta là Đức Giê-su, khi xuống thế gian đã chịu muôn vàn đau khổ, đã lấy cuộc Thương Khó của mình mà thiết lập Hội Thánh và lấy cuộc Thương Khó của các tín hữu mà làm cho Hội Thánh được lớn lên. Quyền lực thế gian mặc sức đàn áp và chống đối, cũng đã chẳng bao giờ thắng được Hội Thánh. Sau khi Chúa lên trời, kể từ thời các Tông Đồ cho đến nay, Hội Thánh đã lớn lên ở khắp nơi giữa những gian truân.
Còn nay, suốt năm, sáu mươi năm trở lại đây, kể từ lúc Hội Thánh có mặt trên đất Triều Tiên của chúng ta, các tín hữu cũng đã nhiều lần bị bách hại. Ngay cả ngày nay, cuộc bách hại cũng còn đang khốc liệt, đến nỗi nhiều người bạn chia sẻ cùng một niềm tin, trong đó có tôi, đang chịu cảnh ngục tù, cũng như chính anh em đang sống giữa cảnh gian truân. Chúng ta đã làm nên một thân thể như thế, làm sao lòng chúng ta lại chẳng buồn, làm sao chúng ta không cảm thấy nỗi buồn chia ly theo tình cảm con người ?
Tuy nhiên, như lời Kinh Thánh nói, ngay cả sợi tóc nhỏ nhất trên đầu, Thiên Chúa cũng quan tâm, và quan tâm bằng sự thông suốt vô cùng của Người. Vậy, sao lại coi một cuộc bách hại lớn như thế là cái gì khác chứ không phải là mệnh lệnh của Thiên Chúa, hoặc là phần thưởng hay thậm chí là hình phạt của Người ?
Vậy, chúng ta hãy tuân theo ý Thiên Chúa, anh em hãy hết lòng chiến đấu cho thủ lãnh trên trời là Đức Giê-su, và đánh bại ma quỷ của thế gian này là kẻ đã từng bị Đức Ki-tô đánh bại.
Tôi xin anh em : đừng sao lãng tình bác ái huynh đệ, nhưng hãy giúp đỡ lẫn nhau, hãy kiên trì cho tới khi Thiên Chúa thương xót mà cất nỗi gian truân khỏi chúng ta.
Chúng tôi ở đây gồm hai mươi người và nhờ ơn Chúa chúng tôi vẫn còn khoẻ mạnh. Sau này nếu có ai chịu tử hình, tôi xin anh em đừng lơ là gia đình của người đó. Tôi còn nhiều điều phải nói nữa, nhưng làm sao có thể diễn tả hết bằng giấy trắng mực đen ? Đến đây tôi xin ngừng bút. Vì chúng tôi sắp bước vào cuộc chiến đấu, tôi xin anh em luôn sống trung thành để cuối cùng chúng ta được hưởng niềm vui với nhau trên trời. Trong tình yêu thương, tôi xin hôn chào anh em.
Lạy Chúa là Đấng tạo thành và cứu độ muôn dân, Chúa đã mời gọi dân tộc Triều Tiên đón nhận đức tin Công Giáo để gia nhập cộng đoàn dân Chúa chọn, Chúa lại ban cho cộng đoàn này tăng trưởng nhờ lời tuyên xưng đức tin của các bậc anh hùng là hai thánh An-rê Kim, Phao-lô Chung cùng các bạn, tử đạo. Xin nhậm lời cầu nguyện của các ngài mà ban cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, là trung thành tuân giữ giới răn Chúa cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Chúng con cầu xin