SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Kb 1, 2-3; 2, 2-4
"Người công chính sẽ sống được nhờ trung tín".
Trích sách Tiên tri Khabacúc.
Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao? Cớ sao Chúa tỏ cho con thấy sự gian ác và lao khổ, cướp bóc và bất lương trước mặt con? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng.
Chúa đáp lại tôi rằng: "Hãy chép điều con thấy, hãy khắc nó vào tấm bảng, để đọc được dễ dàng. Bởi hình lạ còn xa, nó sẽ xuất hiện trong thời sau hết, và sẽ chẳng hư không. Nó kết duyên với ngươi, hãy chờ đợi nó, vì nó sẽ đến không trì hoãn. Chắc chắn nó sẽ đến, không sai. Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Các ngươi đừng cứng lòng!" (c. 8).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. - Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Meriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta; họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Tm 1, 6-8, 13-14
"Con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timô-thêu.
Con thân mến, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần khí nhát sợ, mà là thần khí dũng mạnh, bác ái và tiết độ. Vậy con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa.
Con hãy lấy những lời lành lẽ phải, con đã nghe cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Ðức Giêsu Kitô. Con hãy cậy nhờ Thánh Thần là Ðấng ngự trong chúng ta mà gìn giữ kho tàng tốt đẹp.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta: Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 5-10
"Nếu các con có lòng tin".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: 'Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển', nó liền vâng lời các con.
"Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng: 'Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa', mà trái lại không bảo nó rằng: 'Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống'. Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng: Không. Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: 'Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm'".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Có thể nói nội dung của phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXVII Thường Niên Năm C là sống đức tin. Thật vậy, trước hết, bài Phúc Âm hôm nay đã chứng thực điều ấy. Vẫn biết vấn đề cốt lõi được các môn đệ xin với Chúa Kitô là Thày của các vị là: "Xin Thày ban thêm lòng tin cho các con". Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Kitô về lời yêu cầu này của các vị bề ngoài dường như lạc đề, chẳng nhằm nhò gì đến ước vọng của các vị, chẳng thỏa đáng những gì các vị xin với Người.
Ở chỗ, thay vì Người dạy cho các vị cách thức để làm sao các vị có thể tăng thêm đức tin, hay thông ban thần lực của Người cho các vị qua việc đặt tay chẳng hạn, thì Người lại nói về tác dụng của đức tin (1) và dạy các vị hãy chu toàn phận vụ của mình một cách khiêm tốn (2).
1- Tác dụng của đức tin: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: 'Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển', nó liền vâng lời các con."
2- Chu toàn phận vụ của mình một cách khiêm tốn: "Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: 'Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm'".
Thế nhưng, chính trong huấn dụ này của Người lại chất chứa cách thức hiệu nghiệm nhất để gia tăng đức tin, có nghĩa là muốn gia tăng đức tin thì phải thực hành đức tin, phải sống đức tin, hay nói ngược lại, căn cứ vào giáo huấn của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay thì dường như Chúa ngầm dạy các môn đệ của Người bấy giờ nói riêng và Kitô hữu chúng ta nói chung rằng cứ thực hành đức tin và sống đức tin thì sẽ gia tăng đức tin, thế thôi.
Vậy thì thực hành đức tin và sống đức tin để có thể gia tăng đức tin như thế nào theo giáo huấn của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay? Xin thưa, phải vượt lên trên tự nhiên, thậm chí phải đi ngược với lý lẽ tự nhiên: "Dẫu các con khiến cây dâu này rằng: Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển", bởi đức tin là một tài năng siêu nhiên, xứng với đối tượng thần linh thuộc thượng giới của nó, chứ không phải tài năng tự nhiên là những gì giới hạn, chỉ làm được những việc tầm thường thuộc hạ giới trên trần gian này mà thôi.
Tuy nhiên, nếu đức tin là khả năng siêu nhiên, vượt trên khả năng tự nhiên của con người, thì đức tin chính là tác động thần linh nơi con người, giúp con người cảm nghiệm được những mạc khải thần linh hay mầu nhiệm thần linh, và thực hiện được những tác động thần linh, như nhân danh Chúa mà chữa lành, mà trừ quỉ, hay sẵn sàng chết cho tha nhân, sẵn sàng chết vì đức tin của mình, thì con người phải làm sao để tác động thần linh xẩy ra nơi mình, ở chỗ, chính bản thân của họ phải trở nên như "một hạt cải" nhỏ bé nhất trong tay Chúa, nghĩa là hoàn toàn tin vào Chúa, để Ngài chiếm đoạt và làm chủ.
Hình ảnh như "một hạt cải" bé nhỏ nhất trong các hạt giống (xem Mathêu 13:32) đã được Chúa Kitô diễn giải qua vai trò và thái độ của người đầy tớ "khi làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: 'Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm'". "Vô dụng", theo lời Chúa Kitô muốn nói ở đây, dù con người đầy tớ nào đó có làm được việc hết sức đắc lực và đáng khen thưởng chăng nữa, không phải ở chỗ chính họ làm được, mà là Thiên Chúa là Đấng đã làm trong họ và qua họ, còn họ chỉ là một phương tiện thuần túy, không có họ thì Ngài vẫn thực hiện được dự định và công việc của Ngài, bằng cách thức quan phòng thần linh của Ngài và vào thời điểm thiên định của Ngài.
Đúng thế, tác động đức tin nơi Kitô hữu chúng ta, một tác động thần linh làm được tất cả những gì mà khả năng tự nhiên hạn hẹp của con người bất khả, hoàn toàn ngược lại, hay đúng hơn vượt lên trên tất cả mọi lý lẽ trần gian, là do "thần khí dũng mạnh, bác ái và tiết độ", một "thần khí" do "Thiên Chúa đã ban" cho chúng ta, như được Thánh Phaolô nhắc đến trong Bài Đọc 2 hôm nay, nhờ đó, "người công chính sẽ sống nhờ trung tín", như Tiên Tri Habacúc nói đến trong Bài Đọc 1 hôm nay, hay nói cách khác, nghĩa là: "Người công chính sống bởi đức tin" (Roma 1:17; Galata 3:11; Do Thái 10:38).
Cái then chốt trong việc sống đức tin và thực hành đức tin, theo giáo huấn của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay, đó là trở nên bé nhỏ như "một hạt cải" để quyền năng của Thiên Chúa toàn năng và toàn thiện có thể tỏ hiện, hay cũng chính là trở thành "vô dụng" để "Nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" (Mathêu 6:10-11) nơi chúng ta. Muốn được thế, chúng ta chỉ có thể áp dụng hay đáp ứng câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay, đó là: "Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: 'Các ngươi đừng cứng lòng!'"
Thánh Faustina Kowalska
5/10
TĐCTT Đaminh Maria cao tấn tĩnh biên soạn và chuyển dịch
1- Thánh Faustina: Sứ
Giả Thương Xót
N |
ếu thánh nữ Magarita Maria Alacoque, theo Đức Piô XII, liên quan đến Thánh Tâm Chúa thì Thánh Nữ Maria Faustina người Balan, theo Đức Gioan Phaolô II, người đồng hương với vị thánh này, cũng liên quan tới Lòng Thương Xót Chúa. Thật thế, để có thể hiểu được phần nào vai trò của Thánh Nữ Faustina đối với Lòng Thương Xót Chúa và tại sao cần phải loan truyền Lòng Thương Xót Chúa trong lúc này, chúng ta hãy cùng nhau trở về với chuyến tông du cuối cùng của ĐTC GPII, chuyến tông du lần thứ 8 về Balan của ngài để cung hiến Đền Thờ Chúa Tình Thương Thứ Bảy 17/8/2002.
Vấn đề rất đặc biệt ở đây liên quan đến cả việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa và Lòng Thương Xót Chúa, đó là cả hai đều xuất phát từ mạc khải tư, chứ không phải chính thức từ Mạc Khải Thánh Kinh, vẫn biết, khi ban phép thực hành những lòng tôn sùng này về Chúa, văn kiện của các vị Giáo Hoàng đều suy diễn từ Thánh Kinh, và căn cứ trên nền tảng thần học Kitô giáo. Thật vậy, Chúa Giêsu đã hiện ra với 2 nữ tu, đó là Thánh Nữ Magarita Maria Alacoque ở Pháp vào thế kỷ 17, và Thánh Nữ Maria Faustina ở Balan vào tiền bán thế kỷ 20, giữa hai Thế Chiến Thứ I và II, và Người đã tâm sự với các vị về tình yêu của Thiên Chúa và kêu gọi loài người đáp ứng tình yêu của Người, đặc biệt là qua một số việc làm cụ thể hợp với mỗi một thời đại. Vậy, Chúa Giêsu, qua Thánh Nữ Maria Faustina, đã nói về thời đại văn minh của chúng ta những gì và yêu cầu chúng ta thực hiện những điều chi?
Chị vào đời ngày 25/8/1905 ở Gogowiec Balan trong một gia đình quê mùa nghèo nàn và đạo hạnh. Chị là người con thứ ba trong 10 người con. Chị được rửa tội và lấy tên Helena ở Nhà Thờ Thánh Casimir giáo xứ Swinice Warckie. Ngay từ thời còn thơ nhi, chị đã nổi bật về lòng yêu chuộng nguyện cầu, làm việc, tuân phục và cảm thương người nghèo khổ. Vào năm 7 tuổi, chị tự thú chị đã nghe được tiếng nói trong tâm hồn kêu gọi chị nên trọn lành hơn (Nhật Ký 7). Chị rước lễ lần đầu vào năm 9 tuổi, năm 1914, sống giây phút một cách rất thấm thía khi nhận thức được sự hiện diện của Vị Khách Thần Linh trong linh hồn của chị. Chị đã đến trường 3 năm. Vào năm 16, kéo dài tới năm 18 tuổi, chị đã rời nhà để đi làm việc với vai trò giữ nhà ở 3 nơi khác nhau: Aleksandrów, Odi và Ostrówek, để kiếm thêm phương tiện hầu hỗ trợ bản thân và giúp đỡ cha mẹ của chị. Trong thời gian chị làm công việc thứ 2 và trước công việc thứ 3, chị đã thử xin vào Dòng Chị Em Đức Mẹ Thương Xót vào Tháng 7 năm 1924, nhưng bất thành.
Đúng thế, giữa năm 1916 và 1918 là 2 năm chị đang làm việc kiếm thêm tiến trợ giúp cho cha mẹ, tức vào năm 17 tuổi, chị đã cảm thấy những rung động đầu tiên của ơn gọi tu trì, và chị đã muốn gia nhập một tu viện nữ, song cha mẹ của chị không cho phép (Nhật Ký 8). Bị từ chối, cuộc đời của chị quay sang trần thế, sống cuộc sống theo tự nhiên, nhưng chị vẫn cảm thấy chẳng có một sự gì làm cho chị no thỏa, như chị tự thú ở Nhật Ký khoản 8. Thế rồi, như chị tự thú, ở Nhật Ký khoản 9, vào chính lần chị tham dự một cuộc nhẩy đầm với mấy chị em, và khi chị bắt đầu nhẩy, chị đột nhiên thấy Chúa Giêsu ở ngay bên cạnh chị, toàn thân trần trụi, đầy những thương tích đớn đau, lên tiếng chất vấn chị rằng: "Cha còn chịu đựng con tới bao lâu nữa, và con còn trì hoãn với Cha cho đến bao giờ đây?" Ngay bấy giờ, nhạc tự nhiên ngưng hết, và chị cũng không còn thấy người nhẩy với chị đâu nữa, chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và chị thôi, như đã xẩy ra cho người đàn bà ngoại tình chỉ còn lại Chúa Giêsu và bà ta sau khi mọi người muốn ném đá bà bỏ đi hết, như Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại ở đoạn 8 câu 9.
Sau đó chị đến ngồi bên người chị của chị, giả vờ như đang bị nhức đầu, rồi chẳng còn ai ở đó thấy chị nữa, chị đã tự động lẩn đi mất, để đến nhà thờ Thánh Stanislaus Kostka. Bấy giờ chỉ có mấy người trong nhà thờ, chị quì xuống trước Thánh Thể xin Chúa thương soi sáng cho chị biết chị phải làm gì. Cũng ở Nhật Ký đoạn 10 này, chị cho biết như thế, rồi chị tự thú tiếp như sau: "Thế rồi con đã nghe thấy những lời này: Hãy đến Warsaw ngay; con sẽ gia nhập tu viện ở đó. Con đã ngưng cầu nguyện và trở về nhà để giải quyết các sự cần phải làm. Con đã tiết lộ cho chị con biết những gì xẩy ra trong linh hồn con bao nhiêu có thể. Con xin chị tạ từ cha mẹ của chúng con, thế là trong bộ y phục duy nhất của mình, ngoài ra chẳng có gì nữa, con đã đến Warsaw".
Trong chuyến hành trình đến Warsaw, chị còn gặp trắc trở này nọ nữa (Nhật Ký 11-13). Nhưng cuối cùng, vào ngày 1/8/1925, chị đã trở lại Dòng Chị Em Đức Mẹ Tình Thương ở Warsaw đã tạm từ chối chị lần đầu, để rồi lần này, sau khi gặp Mẹ bề trên, được Mẹ bảo đến cầu nguyện với Chúa của nhà dòng là Chúa Giêsu xem Người có nhận chị không, sau đó, sau khi chị cầu nguyện với Chúa và sau khi nghe chị nói chị đã được Chúa chấp nhận: "Ta chấp nhận; con ở trong Trái Tim Cha" (Nhật Ký 14), Mẹ bề trên liền nói: "Được, nếu Chúa chấp nhận con thì tôi cũng chấp nhận con". Chị đã được nhận vào tu trong và lấy tên là Nữ Tu Mary Faustina. Chị đã ở trong dòng này 13 năm và sống ở một số nhà khác nhau. Chị đã sống ở Kraków, Pock và Vilnius, những nơi chị đã làm việc như một người nấu bếp, một người làm vườn và một người chuyên chở.
Theo bề ngoài, không có gì cho thấy chị có một đời sống nội tâm đầy thần bí. Chị nhiệt thành thi hành các công việc của chị và trung thành giữ luật lệ của đời sống tu trì. Chị sống trầm tĩnh, đồng thời lại rất thản nhiên, vui tươi, đầy lòng nhân ái và tình yêu vô tư đối với tha nhân. Mặc dù đời sống của chị có vẻ tầm thường, đơn điệu và u tối, chị đã âm thầm kết hợp hết sức mật thiết với Thiên Chúa.
Chính mầu nhiệm Tình Thương Thiên Chúa, một mầu nhiệm chị đã chiêm ngắm nơi lời Chúa, cũng như nơi các hoạt động hằng ngày của đời chị, đã đặt nền tảng cho linh đạo của chị. Tiến trình chiêm niệm này cũng như việc tìm hiểu mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa đã góp phần vào việc phát triển nơi Nữ Tu Mary Faustina thái độ tin tưởng vào Thiên Chúa như một trẻ thơ cùng với thái độ thương xót đối với tha nhân.
□ “Ôi Chúa Giêsu, mỗi một vị thánh của Chúa đều phản ảnh một trong những nhân đức của Chúa; con muốn phản ảnh trái tim cảm thương trắc ẩn của Chúa, một trái tim đầy tình xót thương; con muốn tôn vinh trái tim Chúa. Ôi Chúa Giêsu, xin tình thương của Chúa ghi khắc vào lòng con cũng như vào linh hồn của con như một thứ niêm ấn, và đó là huy hiệu của con đời này và đời sau” (Nhật Ký, 1242).
Nữ tu Faustina là một nữ tử trung thành của Giáo Hội, một Giáo Hội chị đã mến yêu như một Người Mẹ và là một Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Ý thức được vai trò của mình trong Giáo Hội, chị đã cộng tác với tình thương của Thiên Chúa trong công việc cứu độ các linh hồn hư đi. Để đáp ứng một lời yêu cầu đặc biệt cũng như để theo gương của Chúa Giêsu, chị đã biến cuộc sống của chị thành của lễ hy sinh cho chính mục đích này. Trong đời sống thiêng liêng của mình, chị còn nổi bật về lòng yêu mến Thánh Thể và hết sức tôn sùng Mẹ Tình Thương.
Những năm tháng chị sống trong tu viện chất chứa đầy những tặng ân phi thường, như các mạc khải, các thị kiến, được in dấu thánh kín đáo, được tham dự vào Cuộc Khổ Nạn của Chúa, được ơn một lúc ở hai nơi, được biết những gì thầm kín trong linh hồn con người, được ơn nói tiên tri, hay ơn đính hôn và thành hôn thần bí hiếm hoi. Mối liên hệ sống động với Thiên Chúa, với Thánh Mẫu, với các Thiên Thần, với Các Thánh, với các linh hồn trong Luyện Ngục, tức với tất cả thế giới siêu nhiên, trở nên thực hữu như thế giới chị thấy được bằng con mắt giác quan của chị. Mặc dù được trang bị bằng những ân huệ phi thường như thế, Nữ Tu Mary Faustina cũng thừa biết rằng chúng thực sự không làm nên sự thánh thiện. Trong Nhật Ký của mình, chị đã viết:
□ “Không phải là các thứ ân huệ, các thứ mạc khải, các thứ ngất ngây, các thứ tặng ân đổ xuống trên một linh hồn là những gì làm cho linh hồn này nên trọn lành, mà là sự hiệp nhất thân mật của linh hồn với Thiên Chúa. Những tặng ân này được gọi là những thứ trang sức của linh hồn, nhưng không làm nên yếu tính của linh hồn hay sự trọn lành của linh hồn. Sự thánh thiện và trọn lành của con là ở chỗ kết hiệp mật thiết ý muốn của con với ý muốn của Thiên Chúa” (Nhật Ký, 1107).
Chúa Giêsu đã chọn Nữ Tu Mary Faustina làm Tông Đồ và làm “Thư Ký” của Tình Thương Người, để chị có thể nói cho thế giới biết về đại sứ điệp của Người. Người nói với chị rằng:
□ “Trong Cựu Ước, Cha đã sai các tiên tri tuyên phán những lời sấm cho dân của Cha. Ngày nay Cha cũng đang sai con mang tình thương của Cha đến cho con người trên khắp thế gian này. Cha không muốn trừng phạt nhân loại đớn đau, song Cha muốn chữa lành nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha” (Nhật Ký, 1588).
Sứ vụ của Nữ Tu Mary Faustina đã được ghi lại trong cuốn Nhật Ký của chị là việc chị đã tuân giữ theo lời yêu cầu đặc biệt của Chúa Giêsu cũng như của các cha giải tội của chị. Nơi cuốn nhật ký này, chị đã trung thành ghi lại tất cả những gì Chúa Giêsu mong muốn và diễn tả những lần hội ngộ giữa linh hồn chị và Chúa Giêsu. Người đã nói với chị rằng:
□ “Hỡi Bí Thư cho mầu nhiệm hết sức sâu xa của Cha, con hãy biết rằng công việc của con là viết xuống hết mọi điều Cha tỏ cho con về tình thương của Cha, cho lợi ích của những ai nhờ đọc được những điều ấy sẽ được an ủi trong tâm hồn họ và được lòng can đảm tiến đến với Cha” (Nhật Ký 1693).
Tác phẩm của Nữ Tu Mary Faustina đã chiếu sáng một cách phi thường về mầu nhiệm của Chúa Tình Thương. Nó mang lại hân hoan chẳng những cho thành phần chất phác thất học, mà còn cho cả các học giả coi nó như là một nguồn mạch thêm thắt cho công việc nghiên cứu thần học luận lý. Cuốn Nhật Ký này đã được chuyển dịch sang nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, trong đó có tiếng Anh, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha, Ả Rập, Nga, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc và Slovak.
Nữ Tu Mary Faustina, bị dày vò bởi chứng lao phổi cũng như bởi vô số khổ đau chị đã chấp nhận như một của lễ hy sinh tự nguyện cầu cho các tội nhân, đã qua đời tại Krakow lúc mới ở vào tuổi 33, hôm 5/10/1938, nổi tiếng về đời sống nội tâm sâu xa và kết hợp nhiệm mầu với Thiên Chúa.
Tiến Trình điều tra phong thánh cho chị được bắt đầu vào thời đoạn 1965-1967 ở Krakow, và Tiến Trình Phong Chân Phước cho chị được bắt đầu ở Rôma năm 1968 và chấm dứt vào năm 1992. Vào ngày 18/4/1993, ĐTC GPII đã phong chân phước cho chị, và chị đã trở thành vị Thánh đầu tiên cho thiên kỷ thứ ba khi được ĐTC Gioan Phaolô II tôn phong hôm 30/4 trong Đại Năm Thánh 2000.
https://www.vatican.va/news_services/liturgy/saints/ns_lit_doc_20000430_faustina_en.html
Đaminh Marai cao tấn tĩnh chuyển dịch và tự thêm thắt các chi tiết phụ thêm cho đầy đủ và rõ ràng hơn)
2- Thánh Faustina: Sứ Mệnh Thương Xót
Sứ mạng của chị Faustina nhắm vào 3 mục tiêu chính yếu và 4 công việc cụ thể do Chúa muốn chị phải làm liên quan đến.
3 Mục Tiêu:
Mục tiêu thứ 1: Nhắc nhở thế giới về LTXC, bằng chính những gì Chúa Giêsu mạc khải cho chị về LTXC, những gì liên quan đến sự thật của đức tin chúng ta được mạc khải trong Thánh Kinh về tình yêu nhân hậu Thiên Chúa đối với hết mọi người.
“Càng
là đại tội nhân càng có quyền đối với tình thương của Cha”
“Cha
bị tổn thương đau đớn biết bao khi ang thiện hảo của Cha bị ngờ vực!
Những tội bất tin tưởng đả thương Cha nhức nhối nhất”.
“Những
đại tội nhân thượng hạng hãy đặt niềm cậy tin nơi tình thương của Cha. Họ
có quyền tin cậy vào tình thương thăm thẳm của Cha trước các linh hồn
khác…Cha không thể trừng phạt dù họ có phạm tội nặng nhất, nếu họ kêu
cầu đến ang xót thương của Cha, ngược lại, Cha công chính hoá họ trong
tình thương vô tận khôn dò của Cha”.
"Nỗi khốn cùng của con không ngăn trở tình thương Cha. Nỗi khốn cùng của
linh hồn càng lớn thì nó càng có quyền đối với tình thương của Cha"
“Ôi nếu tội nhân biết được tình thương của Cha thì họ đã không bị hư đi
nhiều đến thế”
Việc hư đi của mỗi linh hồn dìm Cha vào nỗi buồn khổ chết đi được. Con
luôn an ủi Cha khi con cầu cho các tội nhân. Lời
nguyện cầu đẹp ang Cha nhất là lời cầu nguyện cho các tội nhân ăn năn
hoán cải. Lời nguyện cầu này lúc nào cũng được lắng nghe và đáp ứng”
"Nếu một linh hồn giống như một thi thể rữa nát, mà theo quan niệm loài
người, không còn phục hồi được nữa, mọi sự hoàn toàn đã tiêu tan, thì
đối với Thiên Chúa, lại không như vậy. Phép lạ của Tình Thương Thần Linh
phục hồi trọn vẹn linh hồn đó. Ôi, bất hạnh biết bao những linh hồn
không lợi dụng phép lạ của tình thương Thiên Chúa! Các người sẽ kêu gào
vô vọng mà cũng đã quá muộn mất rồi"
"Giữa Cha và con có một vực thẳm vô đáy, một vực thẳm phân chia Tạo Hoá
với tạo vật. Thế nhưng, vực thẳm này đã được tình thương của Cha lấp đầy
“Tình
thương của Cha hoạt động trong tất cả mọi con tim mở cửa lòng mình ra.
Cả tội nhân lẫn chính người đều cần đến tình thương của Cha”.
“Cha
xót thương theo đuổi các tội nhân dọc suốt con đường họ đi, và Trái Tim
Cha hoan hỉ khi họ trở về với Cha… Cha luôn luôn chờ đợi họ, chú ý lắng
nghe tiếng đập của con tim họ…, xem khi nào nó sẽ đập nhịp sống cho Cha? Cha
đang nói với họ qua nỗi ray rứt của lương tâm họ, qua những thất bại và
khổ đau của họ, qua những ang tố bão bùng, qua tiếng nói
của Giáo Hội”
“Cha
chính là tình thương đối với linh hồn thống hối ăn năn”
“Các
đệ nhất đại tội nhân cũng đạt được tầm mức thánh thiện cao cả, chỉ
cần họ tin tưởng vào tình thương của Cha”.
Mục tiêu thứ 2: Van nài tình thương Thiên Chúa cho toàn thế giới nhất là cho các tội nhân, bằng việc thực hành những thể thức mới tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa được Chúa Giêsu chỉ vẽ, như việc tôn kính tấm ảnh Lòng Thương Xót Chúa với hàng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa, Lễ Chúa Tình Thương được cử hành vào Chúa Nhật Thứ Nhất sau Phục Sinh, lần chuỗi Chúa Tình Thương và cầu nguyện vào Giờ Tình Thương (3 giờ chiều). Chúa Giêsu đã hứa nhiều điều kèm theo những thể thức tôn sùng trên đây, miễn là người ta ký thác cuộc đời của mình cho Thiên Chúa và chủ động thực hành tình yêu thương tha nhân.
"Cha muốn con hoàn toàn biến thành tình yêu và nóng hổi như một tế vật tinh tuyền của tình yêu". (Nhật ký 726)
“Cha cần con phải trở nên một của lễ toàn thiêu trọn hảo; một của lễ hiến dâng ý muốn. Không có một hy tế nào có thể so sánh được với hy tế này". (Nhất ký 943)
“Con phải là phản ảnh sống động của Cha bằng yêu thương và nhân hậu” (Nhật ký 1446)
Mục tiêu thứ 3: khởi xướng phong trào Tông Đồ Chúa Tình Thương, bằng việc thực hiện việc loan báo và khẩn nài tình thương của Chúa cho thế giới cũng như bằng việc nỗ lực nên trọn lành Kitô giáo, theo những qui lệ được chị Nữ Tu này phác họa. Những qui lệ này đòi tín hữu phải tỏ ra thái độ tin tưởng vào Thiên Chúa như trẻ nhỏ, một thái độ được thể hiện nơi việc làm trọn ý muốn của Ngài, cũng như nơi thái độ xót thương đối với tha nhân của mình. Ngày nay, phong trào này đã có cả hằng triệu triệu người trên khắp thế giới; nó bao gồm cả các viện tu, các tổ chức giáo dân, các hiệp hội, các cộng đồng khác nhau làm Tông Đồ Chúa Tình Thương…
“Hỡi Tông Đồ của tình thương Cha, hãy loan báo cho toàn thế giới biết tình thương khôn thấu của Cha. Đừng thất đảm trước những khó khăn con gặp phải khi loan truyền tình thương của Cha. Những khó khăn làm con rất đớn đau này cần phải có để thánh hóa con và như là chứng cớ cho thấy đó là công việc của Cha". (Nhật Ký, 1142).
“Hỡi con gái của Cha, con hãy biết điều này: nếu con gắng nên hoàn thiện thì con sẽ thánh hoá được nhiều linh hồn; tương tự như thế, nếu con không chịu nỗ lực trong việc thánh hoá bản thân, nhiều linh hồn vẫn sẽ bất toàn. Nên biết rằng, sự hoàn thiện của họ lệ thuộc ở sự hoàn thiện của con, con sẽ phải gánh phần lớn trách nhiệm đối với những linh hồn này”. (Nhật Ký, 1165)
“Ôi Chúa Giêsu, mỗi một vị thánh của Chúa đều phản ảnh một trong những nhân đức của Chúa; con muốn phản ảnh trái tim cảm thương trắc ẩn của Chúa, một trái tim đầy tình xót thương; con muốn tôn vinh trái tim Chúa. Ôi Chúa Giêsu, xin tình thương của Chúa ghi khắc vào lòng con cũng như vào linh hồn của con như một thứ niêm ấn, và đó là huy hiệu của con đời này và đời sau” (Nhật Ký, 1242).
4 Công Việc: 1- Ảnh Thương Xót, 2- Lễ Thương Xót, 3- Chuỗi Thương Xót và 4- Dòng Thuung Xót
1- Ảnh Thương Xót
Vào buổi tối (22-2-1931), lúc con ở trong phòng của con, con đã thấy Chúa Giêsu hiện ra trong chiếc áo trắng. Một bàn tay giơ lên như thể ban phép lành, còn bàn tay kia chạm vào áo ở trước ngực. Từ bên dưới chiếc áo, hơi xích sang một bên ngực, có hai luồng sáng lớn phát ra, một luồng mầu đỏ và một luồng mầu nhạt. Con lặng lẽ dán mắt nhìn Chúa; linh hồn con run sợ, nhưng cũng rất vui. Một lúc sau, Chúa Giêsu nói với con:
□ Hãy vẽ một bức ảnh theo mẫu thức mà con nhìn thấy, kèm theo giòng chữ: Giêsu ơi, con tin tưởng nơi Chúa. Cha mong ước bức ảnh này được tôn kính, trước hết, tại nguyện đường của con, sau đó, ở khắp nơi trên thế giới. (Nhật Ký số 47)
□ Cha hứa là, linh hồn nào tôn kính bức ảnh này sẽ không bị trầm hư. Cha cũng hứa cho linh hồn thắng được các kẻ thù ngay khi còn sống trên thế gian, nhất là trong giờ lâm tử. Chính Cha sẽ bảo vệ linh hồn như là vinh hiển của riêng Cha. (Nhật Ký số 48)
□ Cha muốn bức ảnh này phải được trưng bày nơi công cộng vào ngày Chúa Nhật thứ nhất sau Lễ Phục Sinh. Chúa Nhật này là Lễ Kính Tình Thương. Nhờ Ngôi Lời Nhập Thể, Cha tỏ vực sâu vô đáy của tình thương Cha ra. (Nhật Ký số 88)
Có một lần, vị giải tội của con bảo con hỏi Chúa Giêsu về ý nghĩa của hai tia sáng trong bức ảnh, con trả lời với ngài là: "Dạ vâng, con sẽ hỏi Chúa". Đang khi cầu nguyện, con đã nghe thấy trong con những lời này:
□ Hai tia sáng biểu hiệu cho Máu và Nước. Tia sáng nhạt là biểu hiệu của Nước, để làm cho các linh hồn nên công chính. Tia sáng đỏ là biểu hiệu của Máu, để ban sự sống cho các linh hồn...
Hai tia sáng này phát xuất từ những thẳm sâu nhất của tình thương êm ái Cha, lúc mà Trái Tim đau thương của Cha bị lưỡi đòng chọc mở ra trên cây Thánh Giá.
Những tia sáng này bao che các linh hồn cho khỏi cơn thịnh nộ của Cha Cha. Phúc cho kẻ nào được ẩn náu trong những tia sáng này, vì bàn tay công thẳng của Thiên Chúa sẽ không giáng xuống trên họ. Cha mong ước ngày Chúa Nhật thứ nhất sau Lễ Phục Sinh là ngày Lễ Kính Tình Thương. (Nhật Ký số 299)
2- Lễ Thương Xót
Cha mong có một Lễ Kính Lòng Thương Xót. Cha muốn bức ảnh mà con vẽ bằng cọ này phải được long trọng làm phép vào ngày Chúa Nhật Thứ Nhất sau Lễ Phục Sinh; Ngày Chúa Nhật này phải là ngày Lẽ Kính Tình Thương. Cha ước mong các vị linh mục loan truyền tình thương vĩ đại này của Cha cho các linh hồn những tội nhân. Để tội nhân đừng sợ tiến đến với Cha. Những ngọn lửa tình thương đang nung nấu Cha - bừng bừng muốn toé ra' Cha muốn tuôn đổ những ngọn lửa tình thương này xuống trên các linh hồn ấy. (Nhật Ký số 49)
Bài sai và nhiệm vụ của con ở trên trái đất này đó là van xin tình thương cho toàn thế giới. Không một linh hồn nào sẽ được công chính hóa cho tới khi tin tưởng quay về với tình thương của Cha,
và
đó là lý do tại sao Chúa Nhật thứ nhất sau Phục Sinh là Lễ Chúa Tình
Thương.
Hỡi con gái của Cha, hãy nói cho toàn thể thế giới biết về tình thương khôn thấu của Cha. Cha mong ước Lễ Kính Tình Thương là một nơi cư trú và náu ẩn cho tất cả các linh hồn, đặc biệt cho các tội nhân khốn nạn. Vào ngày đó, tận đáy vực thăm thẳm của tình thương nhân ái Cha được mở ra. Cha trào đổ cả một đại dương ân sủng trên các linh hồn đến với mạch nguồn tình thương Cha. Linh hồn đi Xưng Tội và Hiệp Lễ sẽ được hoàn toàn thứ tha các tội lỗi và hình phạt. Vào ngày đó, tất cả những bờ đê mà ân sủng tràn qua sẽ vỡ bờ. Đừng có một linh hồn nào lại sợ đến gần Cha, cho dù các tội lỗi của linh hồn có đỏ ngầu. Tình thương của Cha rất vĩ đại, đến nỗi, không có một trí khôn nào, dù của loài người hay của thiên thần, có thể dò thấu được cho đến đời đời kiếp kiếp. Mọi sự hiện hữu đều phát xuất từ những tầng sâu thẳm của tình thương dấu ái nhất của Cha. Mọi linh hồn gắn bó với Cha sẽ chiêm ngắm tình yêu và tình thương của Cha đến muôn đời. Lễ Kính Tình Thương phát hiện từ tận đáy lòng từ ái của Cha. Ước muốn của Cha là lễ này phải được cử hành long trọng vào ngày Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Phục Sinh. Nhân loại sẽ không có hoà bình cho đến khi họ quay về với Mạch Nguồn của Tình Thương Cha. (Nhật Ký số 699)
3- Chuỗi Thương Xót
“Mỗi lần con vào nhà nguyện, hãy tức khắc nhẩm lời nguyện mà Cha đã dậy con hôm qua.
Khi con đọc lời nguyện này xong thì con nghe thấy trong linh hồn con những lời sau đây:
“Lời nguyện này sẽ có tác dụng làm nguôi cơn giận của Cha. Con sẽ đọc nó chín ngày, bằng những hạt của chuỗi kinh mân côi, theo cách thức sau đây:
“Trước hết, đọc 1 Kinh Lạy Cha, 1 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Tin Kính.
“Rồi ở hạt của Kinh Lạy Cha, con hãy đọc những lời sau đây:
Lạy Cha Hằng Hữu,
con dâng lên Cha Mình và Máu,
Linh Hồn và Thiên Tính của Con chí ái Cha,
là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con,
để đền bù tội lỗi chúng con và toàn thế giới.
“Ở những hạt của Kinh Kính Mừng, con hãy đọc những lời sau đây:
Vì cuộc Khổ Nạn đau thương của Người,
xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới.
“Để kết thúc, con hãy đọc ba lần những lời này:
Lạy Thiên Chúa Thánh,
Đấng Quyền Năng Thánh,
Đấng Bất Tử Thánh,
xin thương xót chúng con và toàn thế giới”.
(Nhật Ký 476)
"Con đừng ngừng đọc chuỗi kinh mà Cha đã dậy con. Ai lần chuỗi kinh này sẽ nhận được tình thương vĩ đại trong giờ lâm tử. Các vị linh mục hãy khuyên tội nhân đọc chục kinh này như niềm hy vọng cứu rỗi cuối cùng cho họ. Dù tội nhân có cứng lòng đến đâu đi nữa mà đọc chục kinh này, chỉ cần một lần duy nhất thôi, linh hồn ấy sẽ nhận được ơn bởi tình thương vô cùng của Cha. Cha ước mong cả thế giới biết đến tình thương vô cùng của Cha. Cha ước mong ban các ơn ngoài sức tưởng tượng cho những linh hồn tin cậy vào tình thương của Cha". (Nhật Ký số 687)
Đang khi con lần chuỗi kinh con đã nghe thấy có tiếng phán:
Ôi, Cha sẽ ban các ơn cao trọng biết bao cho những linh hồn lần chuỗi kinh này; tận đáy tình thương nhân ái của Cha sẽ được khuấy động lên vì những linh hồn lần chuỗi kinh này. Hãy viết ra những lời này, hỡi con gái của Cha. Hãy nói với thế giới về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhận biết tình thương vô hạn của Cha. Đó là dấu hiệu cho thời gian cuối cùng; sau đó sẽ là ngày công thẳng. Trong lúc còn thời gian, họ hãy chạy đến với mạch nguồn của tình thương Cha; họ hãy sinh lợi từ Máu và Nước chảy ra cho họ. (Nhật Ký số 848)
Tuy Chúa Giêsu không xác định rõ giờ giấc để đọc Chuỗi Thương Xót, nhưng Người cũng nhấn mạnh đến 3 giờ chiều, một thời điểm LTXC tỏ mình ra hết nơi Cuộc Tử Giá của Người, một thời điểm LTXC tuôn trào xuống trên toàn thể nhân loại tội lỗi, nơi máu và nước chảy ra, qua cạnh sườn và từ Thánh Tâm bị lưỡi đòng đâm thâu của Người, bởi thế, đó cũng là thời điểm rất thích hợp để lần Chuỗi Kinh Thương Xót vậy, theo thói quen của rất nhiều nhóm LTXC trên thế giới, cách riêng là Việt Nam.
“Vào lúc 3 giờ chiều, hãy thiết tha van xin tình thương của Cha, đặc biệt là cho các tội nhân; con chỉ cần một chốc lát chìm ngập trong cuộc Khổ Nạn của Cha, nhất là trong cảnh bị bỏ rơi của Cha vào lúc thương khó. Đây là giờ của tình thương vĩ đại cho cả thế gian. Cha sẽ cho con nhập cuộc sầu đau đến chết được của Cha. Trong giờ này, linh hồn nào vì cuộc Khổ Nạn của Cha mà cầu xin cùng Cha, Cha sẽ không từ chối họ một điều gì...” (Nhật Ký số 1320)
4- Dòng Thương Xót
Ngày 30-6-1935. Lúc bắt đầu Thánh Lễ vào buổi sáng hôm sau, con thấy Chúa Giêsu trong tất cả vẻ đẹp vô tả của Người. Người nói cùng con là Người ước mong rằng:
"Một Hội Dòng như vậy, (một hội dòng loan truyền tình thương của Thiên Chúa cho thế giới, và bằng những lời cầu nguyện để chiếm lấy tình thương cho thế giới - số 436), phải được thành lập sớm bao nhiêu có thể, và con sẽ sống ở đó với các đồng chí của con. Thần Linh của Cha sẽ là lề luật cho đời sống của con. Cuộc sống của con được khuôn đúc theo cuộc sống của Cha, từ nôi sinh cho đến cuộc tử nạn trên Thánh Giá. Hãy thấm nhuần các mầu nhiệm của Cha, và con sẽ biết được vực thẳm của tình thương Cha đới với các tạo vật cũng như lòng từ ái vô tận của Cha, để con tỏ ra cho thế giới biết. Bằng những lời cầu nguyện của con, con sẽ là trung gian giữa trời và đất". (Nhật Ký số 438).
Theo các chi tiết được thuật lại trong cuốn Nhật Ký của chị thánh, thì hội dòng như Chúa ước mong này, nhờ cố gắng của linh mục giải tội cho chị là cha Sopocko, đã được hình thành vào năm 1941, và ngày 2-8-1955, dòng đã được bản quyền địa phương công nhận là Dòng Chúa Giêsu Kitô Chí Thánh, Đấng Cứu Chuộc Xót Thương. Thế nhưng, nữ sứ giả của Tình Thương của Chúa đã qua đời từ ngày 5-10-1938. Như vậy là chị cũng vẫn hoàn thành sứ vụ thứ 4 của chị qua cha linh hướng của chị.
3- Thánh Faustina: Sống Đời Thương Xót
Vì được chọn làm Sứ Giả Thương Xót, và với Sứ Mệnh Thương Xót, nên chính bản thân của Nữ Tu Faustina đã phải Sống Đời Thương Xót, như chính chị thuật lại trong Nhật Ký của chị dưới đây, bao gồm 3 yếu tố thương xót chính yếu sau đây: 1- đêm tối tăm thanh tẩy tâm hồn của chị, 2- bệnh hoạn vừa đớn đau phần xác lại vừa phải chịu đựng bỏ rơi oan ức của chị, và 3- khổ đau phải chịu vì phâầ rỗi của các linh hồn đáng thương.
Đêm tối Thương Xót
Vào cuối năm đầu tập sinh của con, tối tăm phủ kín tâm hồn con. Con
chẳng còn cảm thấy an ủi gì nơi việc cầu nguyện nữa; con đã phải cố gắng
lắm để thực hiện việc suy ngắm; cơn sợ hãi bắt đầu xâm chiếm con. Vào
sâu con người mình con chẳng thấy gì khác ngoài tình trạng hết sức tồi
bại. Con vẫn còn có thể thấy được rõ ang sự thánh thiện cao cả của Thiên
Chúa. Con không dám ngước mắt lên nhìn Ngài, ngoài việc biến mình thành
cát bụi dưới chân Ngài và van xin Ngài xót thương. Linh hồn con ở trong
tình trạng như thế gần 6 tháng trời.…
Con không hiểu được những điều con đọc; con đã không thể nào suy ngắm
nổi; con cảm thấy rằng lời cầu nguyện của con không làm Chúa hài ang.
Con cảm thấy rằng việc con lên Rước Lễ là những gì làm con thậm chí càng
xúc phạm đến Chúa hơn…
Con không hiểu được bất cứ điều gì vị giải tội nói với con. Những chân
lý đơn giản của đức tin trở thành bất khả thấu triệt đối với con. Linh
hồn con quằn quại, không thể tìm thấy ủi an dễ chịu ở bất cứ nơi nào… Có
lúc con cảm thấy rất mãnh liệt là con đã bị Thiên Chúa loại trừ. Tư
tưởng kinh hoàng này đã rạch nát hồn con; linh hồn con cảm thấy quằn
quại của một cuộc tử nạn giữa cơn đau khổ ấy. Con muốn chết đi nhưng
không được. Con đã nghĩ rằng cố gắng thực hành nhân đức nào có ích chi;
tại sao lại phải hãm mình phạt xác khi tất cả những điều này không làm
hài ang Thiên Chúa chứ?...
Tư tưởng kinh sợ bị Thiên Chúa loại trừ thực sự là những gì hành hạ thành phần bị hư đi. Con chạy đến cùng các Thương Tích của Chúa Giêsu và lập lại những lời than thở tin tưởng cậy trông, nhưng những lời ấy lại làm con càng cảm thấy nhức nhối hơn. Con đến trước Thánh Thể và bắt đầu nói chuyện với Chúa Giêsu… Con vẫn chẳng tìm được một chút nhẹ nhõm nào hết…” (Nhật Ký 23)
Một hôm, vừa tỉnh giấc, con đặt mình ở trước nhan Chúa, đột nhiên con
cảm thấy ngập đầy những tuyệt vọng. Linh hồn con hoàn toàn tăm tối. Con
đã chiến đấu hết sức mình cho tới trưa. Chiều đến, con thực sự cảm thấy
sợ hãi một cách khủng khiếp; rã rời cả xác ang. Con đi nhanh về phòng,
quì phục xuống trước Tượng Chuộc Tội và bắt đầu than van xin được xót
thương. Con cảm thấy xác ang hết hơi cùng sức. Con lăn đùng xuống đất,
tâm hồn chới với tuyệt vọng. Con đã chịu đựng những cuộc dằn vặt kinh
hoàng này chẳng khác gì cuộc dằn vặt trong hỏa ngục. Con trải qua tình
trạng này hết 45 phút đồng hồ. Con muốn đi gặp Mẹ Giáo Tập nhưng lại quá
đuối nhược. Con muốn la lên nhưng chẳng còn hơi. May thay có một tập
sinh khác vào phòng con. Thấy con bị như thế liền nói với Mẹ Giám Tập.
Mẹ đến ngay tức thì. Vừa khi bước vào phòng tôi, mẹ nói rằng: ‘nhân danh
đức vâng lời con hãy đứng lên’. Lập tức có một lực gì đó làm con nâng
con dậy và con đứng thẳng lên…
Con trở lại với các nhiệm vụ của con như thể con vừa mới ra khỏi ngôi
mộ, các giác quan của con được thấm đẫm những gì linh hồn con cảm thấy.
Vào giờ phụng vụ ban tối, linh hồn con lại cảm thấy quằn quại trong một
cơn tối tăm khủng khiếp. Con cảm thấy rằng con ở trong quyền lực của một
Vị Thiên Chúa Công Minh Chính Trực, và con là đối tượng căm phẫn của
Ngài…” (Nhật
Ký – 24)
Đêm hôm ấy, Mẹ Thiên Chúa đến thăm con, ẵm Hài Nhi Giêsu trong tay Mẹ.
Linh hồn con tràn ngập niềm vui, nên con thưa với Mẹ rằng: ‘Mẹ Maria ơi,
Mẹ có biết con khổ đau khốn khó kinh hoàng là chứng nào hay chăng?’ Mẹ
Thiên Chúa đã trả lời tôi rằng: ‘Mẹ biết con chịu khổ biết là chừng nào,
nhưng đừng sợ con nhé. Mẹ chia sẻ với những nỗi khổ đau của con, và Mẹ
sẽ luôn làm như thế’. Lập tức linh hồn con lại cảm thấy mạnh mẽ và đầy
can đảm; thế nhưng chỉ kéo dài được có một ngày. Dường như hỏa ngục âm
mưu tấn công con. Một nỗi thù ghét khủng khiếp bắt đầu bừng lên trong
tâm hồn của con, một nỗi thù ghét đối với tất cả những gì là thánh hảo
và thần linh. Đối với con cơn dằn vặt thiêng liêng này như số phận kéo
dài suốt cả cuộc đời của con. Con đến với Thánh Thể mà nói cùng Chúa
Giêsu rằng…” (Nhật
Ký – 25)
Thời kỳ tập sinh chấm dứt. Nỗi khổ đau vẫn không giảm thiểu. Tình trạng suy yếu về ang xác đã châm chước cho con khỏi tất cả mọi cuộc tĩnh tâm chung; tức là được thay thế bằng những kinh nguyện bừng lên ngắn tắt. Thứ Sáu Tuần Thánh (16/4/1928) – Chúa Giêsu vồ lấy trái tim con cho vào chính ngọn lửa của tình yêu Người. Điều này xẩy ra vào giờ chầu ban tối. Đột nhiên con được Sự Hiện Diện Thần Linh xâm chiếm làm con quên đi tất cả mọi sự. Chúa Giêsu đã làm cho con hiểu được Người đã phải chịu khổ đau là chừng nào vì con. Tình trạng này kéo dài một thời gian rất ngắn ngủi. Một ước vọng thiết tha – một ước vọng mến yêu Thiên Chúa” (Nhật Ký – 26).
Khấn tạm lần đầu (30/4/1928). Một ước vọng nồng nàn muốn hoàn toàn hủy
mình đi cho Chúa bằng một tình yêu chủ động, thế nhưng lại là một tình
yêu không thể nào nhận thấy được, cho dù là những chị em gần gũi với con
nhất. Tuy nhiên, ngay cả sau khi khấn dòng, tình trạng tối tăm vẫn tiếp
tục làm chủ linh hồn con đến gần nửa năm trời. Một lần kia, khi con đang
cầu nguyện thì Chúa Giêsu xâm chiếm tất cả hồn con, tăm tối liền tan
biến, và con đã nghe thấy trong con những lời này: ‘Con là niềm vui của
Cha; con là nỗi hoan lạc của Trái Tim Cha’. Từ bấy giờ con cảm thấy
Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh trong tâm hồn; tức là trong chính bản thân
con. Con cảm thấy rằng con được tràn ngập ánh ang Thần Linh. Từ đó, linh
hồn con được ang mật hiệp ang với Thiên Chúa, như một con trẻ với Người
Cha yêu dấu của mình” (Nhật
Ký – 27).
Bệnh nạn Thương Xót
Ngày 10/3/1938.
Tiếp tục cơn khổ đau về phần xác. Con đang ở trên thập giá với Chúa
Giêsụ Có lần Mẹ Bề Trên nói với con rằng “này sơ, sơ không tỏ ra bác ái
với tha nhân, ở chỗ sơ ăn uống làm sao đó để bị đớn đau và làm phiền đến
những người khác trong giờ nghỉ đêm của họ”. Phải, con
chắc một điều là những cơn đau này xẩy ra trong ruột của con không hề do
bởi đồ ăn thức uống gì hết. Bác sĩ cũng nói như thế. Những đau đớn này
xuất phát từ chính cơ thể, đúng hơn là do Chúa viếng thăm. Tuy nhiên,
sau lời nhận định ấy, con quyết chịu đượng âm thầm lặng lẽ, không xin
giúp đỡ nữa, vì dù sao cũng chẳng được giúp đỡ gì hết, từ khi con nôn
mửa thuốc men đưa cho con uống. Có một lần con đã cố gắng chịu đựng nổi
các cuộc tấn công chỉ có Chúa Giêsu biết. Những đớn đau quá dữ dội và
trầm trọng đến nỗi làm cho con ngất đị Khi chúng làm cho con lả người
đi, và con đầm đìa mồ hôi lạnh thì bấy giờ những cơn đau đớn ấy bắt đầu
từ từ hạ xuống. Đôi khi chúng kéo dài tới 3 tiếng đồng hồ hay hơn. Ôi
Giêsu ơi, xin cho thánh ý Chúa được nên trọn; con xin chấp nhận hết mọi
sự từ tay Chúạ Nếu con chấp nhận những hoan lạc và ngất ngất yêu thương
cho đến độ không còn biết gì chung quanh mình nữa thì con cũng cần cũng
phải ưu ái chấp nhận những khổ đau làm cho con ngất lả này
nữạ (Nhật
Ký – 1633)
Ngày ¼/1938. Một
lần nữa hôm nay con cảm thấy tệ. Con bắt đầu lên cơn sốt lả người, và
con không thể nào ăn uống gì được. Con muốn có một chút gì bồi bổ để
uống, nhưng chẳng có lấy một chút nước nào trong bình. Ôi Giêsu, tất cả
những điều này là để xin cho các linh hồn được xót thương… Trong thời
gian này, mặc dù con có tỏ những nhu cầu của con ra, con vẫn không bao
giờ nhận được bất cứ cái gì bồi bổ để ăn cho dù con có ngỏ ý xin. Con
không viết ang chi tiết về những chối từ này, vì đó là các vấn đề tế
nhị, khó ang mà tin nổị Thế nhưng Thiên Chúa thậm chí lại muốn những hy
sinh như thế. (Nhật
Ký – 1647)
Con sắp xin Mẹ Bề Trên một cái gì đó để ở trong phòng của con để giúp
giảm cơn khát ran cổ của con, nhưng trước khi con mở miệng xin thì chính
Mẹ đã lên tiếng nói rằng, Này sơ, chúng ta hãy chấm dứt cơn bệnh này dứt
khoát cho xong đi, bằng cách này hay cách khác. Sơ sẽ không cần phải
trải qua việc chữa trị thường xuyên gì nữạ Vấn đề không thể cứ như thế
này lâu hơn nữa». Ít lâu sau, khi ở một mình với Chúa, con thưa cùng
Người rằng: «Chúa Kitô ơi con phải làm sao đây? Con cần phải xin Chúa
cho con được khỏe mạnh hay chết đi đây? Không nhận được lệnh gì rõ ang,
con quì xuống thưa cùng Người rằng: «Xin cho ý Chúa được nên trọn nơi
con. Giêsu ơi xin hãy thực hiện nơi con những gì Chúa muốn». Lúc bấy giờ
con cảm thấy con hoàn toàn đơn độc, và những cơn cám dỗ khác nhau tấn
công con. Thế nhưng con đã tìm thấy bình an và ánh ang trong lời nguyện
cầu tha thiết nhất, và con đã hiểu được rằng vị bề trên này chỉ muốn thử
con thôi. (Nhật
Ký 1648)
Con không biết làm thế nào điều ấy lại xẩy ra, thế nhưng phòng con đang
nằm thật sự là bị bỏ bê. Có những lúc nó chẳng được lau chùi sạch sẽ hơn
hai tuần lễ. Thường cũng chẳng có ai đốy lửa lên trong lò sưởi, nên
chứng ho của con càng trở nên tệ hơn. Đôi khi con xin đốt lửa lên, có
những lúc con không đủ can đảm để xin nữạ Có lần Mẹ Bề Trên đến thăm
con, hỏi con có lẽ cần phải sưởi ấm căn phòng lên, con đã thưa Thôi, vì
bên ngoài trời đã ấm hơn, và chúng con mở cửa sổ ra (Nhật
Ký – 1649)
Khổ giá Thương Xót
Ngày 16/9/1937. Con rất muốn làm giờ Thánh trước Thánh Thể hôm
nay. Nhưng Chúa lại không muốn như thế. Vào lúc 8 giờ con
cảm thấy quằn quại với những cơn đau đớn dữ dội đến độ con
phải lên giường ngay tức khắc. Con bị giật kinh phong đớn đau
3 tiếng đồng hồ; tức là cho đến 11 giờ đêm.
Không có một thứ thuốc nào giúp được con hết,
và con nuốt bất cứ gì vào con đều mửa ra. Có
những lúc những đớn đau khiến con không còn
biết gì nữa. Chúa Giêsu cho con nhận thức được rằng nhờ thế ccon đã được
tham dự vào cuộc khổ ải của Người trong vườn
Cây Dầu, và chính Người đã cho phép những khổ đau
này xẩy ra để đền tạ Thiên Chúa
về những con người bị sát hại trong bụng dạ của
những người mẹ tội lỗi. Con đã trải qua những
khổ đau này cho đến nay là lần thứ ba.
Chúng bao giờ cũng bắt đầu xẩy ra vào lúc 8
giờ tối và kéo dài cho tới 11 giờ đêm.
Không có một thứ thuốc nào có thể làm giảm bớt
những khổ đau ấy. Đến 11 giờ thì
chúng tự nhiên hết, và bấy giờ con thiếp ngủ đi.
Ngày hôm sau con cảm thấy rất yếu… Khi con nghĩ rằng con có
thể chịu như thế nữa thì con cảm
thấy rùng mình kinh sợ. Thế nhưng con không
biết rằng con sẽ chịu như thế nữa
hay chăng; con để mặc điều ấy
cho Chúa. Những gì Chúa muốn gửi tới con sẽ chấp nhận cách
ngoan ngoãn và mến yêu. Miễn là con có thể cứu được
dù chỉ một con người khỏi bị sát hại nhờ những khổ đau
này! (Nhật
Ký – 1276)
Ngày 20/2/1938.
Hôm nay Chúa nói với con rằng: “Cha cần đến những đau khổ của con để cứu
các linh hồn”. Ôi Giêsu ơi, xin hãy thực hiện những gì Chúa muốn nơi
con. Con không có can đảm để xin Chúa Giêsu cho được chịu nhiều đau khổ
hơn nữa, vì đêm hôm trước con đã chịu khổ quá nhiều đến nỗi con không
thể chịu ang được một giọt nữa những gì Chúa Chúa Giêsu đã trao cho
con. (Nhật
Ký – 1612)
Hầu như cả đêm con
đã bị đớn đau dữ dội đến độ con cảm thấy tất cả ruột gan của con nát bấỵ
Con mửa ra thuốc uống vàọ Khi con cúi đầu xuống đất con không còn biết
gì nữa, và con cứ ở tư thế đó một hồi, đầu nằm trên đất. Khi tỉnh lại,
con thấy toàn ang con đè lên đầu và lên mặt con, và mặt mũi đầy những gì
đã mửa rạ Con đã nghĩ đến giờ phút cuối đời của con… Chúa Giêsu muốn khổ
đau chứ không phải là cái chết. Ôi Giêsu ơi, hãy làm những gì Chúa muốn
nơi con. Ôi các linh hồn, tôi thương mến các hồn biết bao! (Nhật
Ký – 1613)
Tóm lại, Bài Giảng Lễ Phong Hiển Thánh cho Chân Phước Maria Faustina
30/4/2000,
ĐTC Gioan Phaolô II đã
nhận định về chị bằng chính lời của chị như sau: "Nữ
Tu Faustina Kowalska đã viết trong Nhật Ký của chị như sau: “Tôi cảm
thấy đớn đau kinh khủng khi tôi thấy những đớn đau của anh chị em tôi.
Tất cả mọi khổ đau của anh chị em tôi đều dội lại nơi trái tim của tôi;
tôi ôm ấp nỗi sầu thương của họ trong trái tim tôi đến độ thậm chí nó
hủy hoại tôi về thể lý. Tôi muốn tất cả mọi nỗi sầu thương của họ đều đổ
xuống trên tôi, để nhẹ gánh cho anh chị em của tôi” (Nhật Ký, trang
365). Đó là mức độ cảm thương được tình yêu dẫn tới, khi lấy tình yêu
Thiên Chúa làm mức đo lường của nó”.
4- Thánh Faustina: Kinh Nguyện Thương Xót
(để tránh dài dòng thêm ở đây, xin theo dõi ở cái link sau đây:
Tuần Ba Ngày Dọn Mừng Lễ Thánh Faustina Quan Thày TĐCTT)
5- Thánh Faustina: Vị Thánh Thương Xót
ĐTC GPII – Bài Giảng Lễ Phong Hiển Thánh cho Chân Phước Maria Faustina 30/4/2000
1. "Confitemini Domino quoniam bonus, quoniam in saeculum misericordia eius"; “Hãy cảm tạ Chúa vì Người thiện hảo; tình yêu của Ngài muôn đời bền vững” (Ps 118:1). Giáo Hội hát lên như thế trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh, như thể Giáo Hội lãnh nhận trực tiếp từ môi miệng của Chúa Kitô những lời của bài Thánh Vịnh này; từ môi miệng của Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng mang một sứ điệp cả thể của lòng thương xót Chúa và ký thác thừa tác vụ của sứ điệp này cho các Tông Đồ ở trên Căn Thượng Lầu: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thày thế nào Thày cũng sai các con như vậy… Các con hãy nhận lấy Thánh Linh. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được thứ tha; còn các con cầm tội ai thì tội lỗi của họ vẫn bị ràng buộc” (Jn 20:21-23).
Trước khi nói những lời này, Chúa Giêsu đã tỏ đôi bàn tay của Người và cạnh sườn của Người ra. Tức là Người cho thấy những thương tích từ Cuộc Khổ Nạn, nhất là vết thương nơi trái tim của Người, nguồn mạch tuôn tràn triều sóng tình thương cao cả cho nhân loại. Từ trái tim ấy, Nữ Tu Faustina Kowalska, vị chân phước giờ đây chúng ta sẽ gọi là thánh, thấy được hai tia sáng chiếu tỏa và sáng soi thế giới: Chính Chúa Giêsu đã giải thích cho chị biết vào một lần kia rằng: “Hai tia sáng này tiêu biểu cho máu và nước” (Diary, Libreria Editrice Vaticana, p. 132).
2. Máu và nước! Chúng ta liền nghĩ ngay tới chứng từ được nhắc đến trong Phúc Âm Thánh Gioan, vị mà, khi người lính trên đồi Canvê lấy giáo đâm vào cạnh sườn của Người, thấy máu và nước chảy ra từ đó (cf. Jn 19:34). Ngoài ra, nếu máu nhắc nhở đến hy tế Thập Giá và tặng ân Thánh Thể, thì nước, theo tính chất biểu hiệu của Phúc Âm Thánh Gioan, tiêu biểu chẳng những cho Phép Rửa mà còn cho tặng ân Thánh Linh nữa (cf. Jn 3: 5; 4: 14; 7: 37-39).
Lòng Thương Xót Chúa vươn tới con người qua trái tim của Chúa Kitô tử giá: “Hỡi con gái của Cha, con hãy nói đi Cha là tình yêu và là tình thương hiện thân”, Chúa Giêsu đã xin Nữ Tu Faustina như thế (Diary, p. 374). Chúa Kitô tuôn đổ tình thương này trên nhân loại qua việc sai Thần Linh là Ngôi Vị Tình Yêu trong Ba Ngôi. Tình thương không phải là “tên gọi thứ hai” của tình yêu hay sao (cf. Dives in misericordia, n. 7), nếu hiểu theo khía cạnh sâu xa nhất của nó và tính chất dịu dàng nhất của nó, theo khả năng có thể chấp nhận gánh nặng của bất cứ nhu cầu nào, nhất là theo khả năng bao la thứ tha của nó?
Hôm nay, niềm hân hoan của tôi thực sự là lớn lao khi trình bày về đời sống và chứng từ của Nữ Tu Faustina Kowalska cho toàn thể Giáo Hội như là một tặng ân của Thiên Chúa ban cho thời đại của chúng ta. Theo sự Quan Phòng thần linh, đời sống của người con gái khiêm hạ này của Balan hoàn toàn gắn liền với lịch sử của thế kỷ thứ 20, một thế kỷ chúng ta vừa trải qua. Thật vậy, chính vào khoảng giữa hai Thế Chiến 1 và 2 mà Chúa Kitô đã ký thác sứ điệp tình thương của Người cho chị. Những ai con nhớ, những ai chứng kiến thấy và những ai tham dự vào các biến cố của những năm này cùng với những khổ đau khiếp đảm chúng gây ra cho hằng triệu triệu con người mới thấy rõ là sứ điệp tình thương này cần thiết biết bao.
Chúa Giêsu đã nói với Nữ Tu Faustina rằng: “Nhân loại sẽ không tìm thấy hòa bình cho đến khi nó tin tưởng quay về với lòng thương xót thần linh” (Nhật Ký, trang 132). Nhờ việc làm của người tu sĩ Balan này, sứ điệp ấy đã trở thành những gì liên hệ vĩnh viễn tới thế kỷ 20, một thế kỷ cuối cùng của ngàn năm thứ hai và là chiếc cầu sang ngàn năm thứ ba. Đây không phải là một sứ điệp mới mẻ nhưng có thể được coi như một tặng ân được đặc biệt soi động để giúp chúng ta sống lại Phúc Âm Phục Sinh một cách thiết tha hơn nữa, để cống hiến nó như là một tia sáng cho con người nam nữ của thời đại chúng ta.
3. Những năm tháng trước mắt sẽ mang lại cho chúng ta những gì? Tương lai của con người trên trái đất này sẽ như thế nào? Chúng ta không biết được. Tuy nhiên, một điều chắc chắn đó là, cùng với tiến bộ mới, bất hạnh thay, sẽ không thiếu những cảm nghiệm thương đau. Thế nhưng, ánh sáng của lòng thương xót thần linh, một tình thương mà Chúa muốn trở lại một cách nào đó với thế giới qua đặc sủng của Nữ Tu Faustina, sẽ soi chiếu đường đi nước bước cho con người nam nữ của ngàn năm thứ ba.
Tuy nhiên, như các vị Tông Đồ đã thực hiện, ngày nay, cả nhân loại nữa cũng phải đón nhận vào căn thượng lầu của lịch sử Chúa Kitô phục sinh, Đấng tỏ cho thấy những vết thương Thập Giá của Người và lập lại rằng: Bình an cho các con! Nhân loại cần phải làm sao được Vị Thần Linh xuất phát từ Chúa Kitô phục sinh va chạm và thấm nhiễm. Chính vị Thần Linh này là Đấng chữa lành các thương tích của tâm can, dẹp bỏ những thứ chướng ngại làm chúng ta ngăn cách với Thiên Chúa và chia rẽ chúng ta với nhau, đồng thời, phục hồi cho chúng ta niềm vui của tình yêu Chúa Cha và mối hiệp nhất huynh đệ.
4. Bởi vậy chúng ta cần phải chấp nhận toàn thể sứ điệp được gửi tới chúng ta từ lời Chúa trong Ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh này, một ngày từ nay trở đi trong khắp Giáo Hội sẽ được gọi là “Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa”. Trong các bài đọc khác nhau, phụng vụ dường như cho thấy đường lối của tình thương, một đường lối mà trong khi tái thiết lập mối liên hệ của mỗi một người với Thiên Chúa cũng kiến tạo những liên hệ mới mẻ của tình đoàn kết huynh đệ giữa nhân loại nữa. Chúa Kitô đã dạy chúng ta rằng “con người không chỉ lãnh nhận và cảm nghiệm tình thương của Thiên Chúa, mà còn được kêu gọi ‘để thực hành tình thương’ với người khác nữa: ‘Phúc cho ai biết xót thương, vì họ sẽ được thương xót’ (Mt 5:7)” (Thông Điệp Giầu Lòng Xót Thương – Dives in misericordia, 14). Người cũng tỏ cho chúng ta biết nhiều đường lối của tình thương, những đường lối chẳng những tha thứ tội lỗi mà còn vươn tới tất cả mọi nhu cầu của nhân loại nữa. Chúa Giêsu đã cúi mình xuống trên hết mọi thứ bần cùng của con người, về cả vật chất lẫn tinh thần.
Sứ điệp tình thương của Người tiếp tục vươn tới chúng ta qua bàn tay của Người ôm lấy con người đau khổ. Đó là cách thức Nữ Tu Faustina thấy Người và loan báo Người cho con người ở tất cả mọi châu lục, khi mà, ẩn thân trong tu viện của mình tại £agiewniki ở Kraków, chị đã biến đời mình thành một bản thánh ca tình thương: Misericordias Domini in aeternum cantabo - con sẽ muôn đời ca ngợi tình thương của Chúa
5. Việc phong hiển thánh cho Nữ Tu Faustina có một ý nghĩa đặc biệt, ở chỗ, qua hành động này, hôm nay tôi có ý truyền đạt sứ điệp này cho tân thiên kỷ. Tôi truyền đạt nó cho tất cả mọi dân tộc, để họ học biết hơn nữa dung nhan chân thực của Thiên Chúa và gương mặt thực sự của anh chị em mình.
Thật vậy, tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu thương anh chị em của mình là những gì bất khả tách biệt, như Thư Một của Thánh Gioan đã nhắc nhở chúng ta: “Đây là dấu để chúng ta biết rằng chúng ta yêu thương con cái của Thiên Chúa, đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và tuân theo các huấn lệnh của Ngài” (5:2). Ở đây, vị Tông Đồ này nhắc nhở chúng ta về sự thật của tình yêu, cho chúng ta thấy tầm mức của nó cũng như các tiêu chuẩn của nó trong việc tuân giữ các giới răn.
Không dễ gì yêu mến bằng một tình yêu sâu xa, một tình yêu được thể hiện ở chỗ thực sự trao tặng bản thân mình. Tình yêu này chỉ có thể học biệt bằng cách đi sâu vào mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa. Nhìn Người, hiệp nhất với lòng của Cha, chúng ta có thể nhìn anh chị em chúng ta bằng những con mắt mới mẻ, bằng một thái độ vô vị kỷ và đoàn kết, quảng đại và thứ tha. Tất cả những điều ấy đều là tình thương!
Chúng ta đã nghe trong bài đọc thứ nhất hôm nay việc có thể đạt được lý tưởng cho đến độ nhân loại thấm nhập vào mầu nhiệm của ánh mắt nhân hậu này: “Cộng đồng tín hữu đồng tâm nhất trí. Không ai trong họ đòi một cái gì cho mình; trái lại, hết mọi sự được giành làm của chung” (Acts 4:32). Ở đây, tình thương đã cống hiến hình thức cho các mối liên hệ con người và đời sống cộng đồng; nó tạo nên một nền tảng cho việc chia sẻ các phẩm vật. Điều này đã dẫn tới “các hoạt động tình thương” về tinh thần cũng như thể chất. Ở đây, tình thương đã trở thành một đường lối cụ thể của việc là “tha nhân” đối với những người anh chị em thiếu thốn nhất của mình.
6. Nữ Tu Faustina Kowalska đã viết trong Nhật Ký của chị như sau: “Tôi cảm thấy đớn đau kinh khủng khi tôi thấy những đớn đau của anh chị em tôi. Tất cả mọi khổ đau của anh chị em tôi đều dội lại nơi trái tim của tôi; tôi ôm ấp nỗi sầu thương của họ trong trái tim tôi đến độ thậm chí nó hủy hoại tôi về thể lý. Tôi muốn tất cả mọi nỗi sầu thương của họ đều đổ xuống trên tôi, để nhẹ gánh cho anh chị em của tôi” (Nhật Ký, trang 365). Đó là mức độ cảm thương được tình yêu dẫn tới, khi lấy tình yêu Thiên Chúa làm mức đo lường của nó.
Chính tình yêu này là những gì cần phải thúc đẩy con người ngày nay, nếu họ muốn đương đầu với cuộc khủng hoảng về ý nghĩa cuộc đời, với những thách đố về những nhu cầu đa dạng nhất, và nhất là với nhiệm vụ bênh vực phẩm giá của hết mọi con người. Như thế, sứ điệp tình thương thần linh này cũng bao hàm một sứ điệp về giá trị của hết mọi con người. Mỗi một người đều quí báu trước nhan Thiên Chúa: Chúa Kitô đã hiến sự sống của mình cho từng người; Chúa Cha đã ban Thần Linh của Người và cống hiến mối thân tình cho hết mọi người.
7. Sứ điệp an ủi này trước hết được ngỏ cùng những ai, bị ảnh hưởng bởi một cuộc thử thách đặc biệt dữ dội hay bị dập vùi bởi gánh nặng tội lỗi đã phạm, đã mất tất cả niềm tin tưởng trong đời sống và đang có khuynh hướng thất vọng. Dung nhan hiền dịu của Chúa Kitô được công hiến cho họ; những tia sáng từ trái tim của Người chạm tới họ và soi sáng họ, làm họ cảm thấy ấm lại, tỏ cho họ thấy đường đi nước bước và làm cho họ được tràn đầy hy vọng. Biết bao nhiêu là tâm hồn đã được an ủi bởi lời nguyện cầu “Giêsu ơi, con tin tưởng nơi Chúa”, một lời cầu được Đấng Quan Phòng cho biết qua Nữ Tu Faustina! Tác động đơn giản phó mình này cho Chúa Giêsu đánh tan những mây mù dầy đặc nhất và làm cho tia sáng xuyên qua mọi cuộc đời. Jezu, ufam tobie.
8. Misericordias Domini in aeternum cantabo – con sẽ muôn đời ca ngợi tình thương của Chúa (Ps 88 [89]: 2). Cả chúng ta nữa, Giáo Hội lữ hành, hãy hợp tiếng cùng tiếng của Mẹ Maria rất thánh, “Mẹ của Tình Thương”, tiếng của vị tân thánh này đang hát ca tình thương với tất cả những người bạn của Thiên Chúa trên Giêrusalem thiên đình.
Hỡi Thánh Faustina, tặng ân Thiên Chúa ban cho thời đại của chúng tôi, một tặng ân từ mảnh đất Balan cho toàn thể Giáo Hội, xin cầu cho chúng tôi nhận thức được vực thẳm của lòng thương xót thần linh; giúp chúng tôi có được một cảm nghiệm sống động về lòng thương xót thần linh này, và làm chứng cho lòng thương xót thần linh ấy giữa những người anh chị em của chúng tôi. Chớ gì sứ điệp ánh sáng và hy vọng của Chị được loan truyền khắp thế giới, thôi thúc các tội nhân ăn năn cải thiện, trấn an những thứ tranh giành và thù hận, và giúp cho các cá nhân cũng như chư quốc biết thực hành tình yêu thương huynh đệ. Hôm nay, gắn mắt vào dung nhan của Chúa Kitô phục sinh, chúng ta hãy lập lại lời nguyện tin tưởng phó mình với một niềm hy vọng mạnh mẽ rằng: Ôi Chúa Giêsu Kitô, con tin tưởng nơi Chúa! Jesu, ufam tobie!
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/homilies/2000/documents/hf_jp-ii_hom_20000430_faustina_en.html
(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Gn 1, 1 - 2, 1. 11
"Ông Giona chỗi dậy lánh xa mặt Chúa".
Khởi đầu sách Tiên tri Giona.
Có lời phán cùng Giona, con trai ông Amathi, rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy đi sang Ninivê, một thành rộng lớn, và giảng tại đó, vì tội ác của nó thấu đến Ta".
Giona liền chỗi dậy để trốn sang Tharsê lánh xa mặt Chúa; ông đi xuống Gioppê, gặp tàu đi sang Tharsê, ông liền mua vé, xuống tàu đi với hành khách sang Tharsê, lánh xa mặt Chúa.
Nhưng Chúa khiến trận cuồng phong thổi trên biển và cơn bão táp dữ dội nổi lên, khiến tàu lâm nguy sắp chìm. Các thuỷ thủ lo sợ, hành khách cầu khẩn cùng thần minh của mình. Người ta vứt đồ vật trên tàu xuống biển cho nhẹ bớt, lúc đó ông Giona xuống lòng tàu nằm ngủ mê mệt. Thuyền trưởng đến gần ông và hỏi rằng: "Sao ông ngủ mê mệt như vậy? Hãy chỗi dậy cầu khẩn cùng Thiên Chúa của ông, may ra Thiên Chúa đoái đến chúng ta và chúng ta khỏi chết".
Ai nấy đều bảo đồng bạn mình rằng: "Các anh hãy lại đây, chúng ta bắt thăm coi biết tại sao chúng ta gặp phải tai hoạ này". Rồi họ bắt thăm, thì trúng phải ông Giona. Họ bảo ông rằng: "Xin ông cho chúng tôi biết vì cớ nào chúng ta gặp phải tai hoạ này: Ông làm nghề gì? Ở nơi nào? Ði đâu? Hoặc thuộc dân nào?" Ông trả lời họ rằng: "Tôi là người Do-thái, tôi kính sợ Thiên Chúa là Chúa Trời, Ðấng tạo thành biển khơi và lục địa".
Họ khiếp sợ quá sức và hỏi ông rằng: "Sao ông hành động thế này? (Vì theo lời ông thố lộ, các hành khách biết ông trốn lánh mặt Chúa). Họ liền hỏi ông rằng: "Chúng tôi phải đối xử với ông làm sao đây, để biển yên lặng? vì biển càng động mạnh thêm". Ông bảo họ rằng: "Các ông hãy bắt tôi vứt xuống biển, thì biển sẽ yên lặng, vì tôi biết tại tôi mà các ông gặp phải trận bão lớn lao này".
Các thuỷ thủ cố chèo thuyền vào đất liền, nhưng không sao được, vì biển càng động dữ dội hơn. Họ kêu cầu cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa, chúng tôi xin Chúa vì mạng sống người này cho chúng tôi khỏi chết. Xin chớ đổ máu vô tội trên chúng tôi, vì, lạy Chúa, Chúa hành động theo như Chúa muốn". Rồi họ bắt vứt ông Giona xuống biển, và biển liền hết nổi sóng. Mọi người rất kính sợ Chúa, họ tế lễ dâng lên Chúa và làm lời khấn hứa.
Chúa chuẩn bị sẵn một con cá lớn để nuốt ông Giona, và ông Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Sau đó, Chúa truyền lệnh cho cá nhả ông Giona vào bờ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Gn 2, 2. 3. 4. 5. 8
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, từ vực sâu thẳm, Chúa đã cứu sống mạng con (c. 7c).
Xướng: 1) Nằm trong bụng cá, ông Giona thưa cùng Chúa là Thiên Chúa của mình rằng: - Ðáp.
2) Trong cảnh gian truân, con đã kêu cầu tới Chúa, và Ngài đã nhậm lời con; tự lòng vực sâu âm phủ, con đã kêu lên, và Ngài đã nghe rõ tiếng con. - Ðáp.
3) Ngài đã ném con xuống vực sâu, trong lòng biển, các dòng nước đã lôi cuốn thân con, bao sóng cả ba đào đều lướt chảy trên mình con. - Ðáp.
4) Bấy giờ con tự nhủ: Con đã bị loại xa khỏi thiên nhan Chúa, nhưng con sẽ còn được xem thấy thánh điện Ngài. - Ðáp.
5) Khi mà trong người con, linh hồn tuyệt vọng, bấy giờ con đã nhớ (tới) Chúa. Lời cầu nguyện của con đã thấu đến tai Ngài, trong nơi thánh điện của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9; Ga 6, 69
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 25-37
"Ai là anh em của tôi?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?"
Chúa Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông".
"Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Phụng Vụ Lời Chúa cho Thứ Hai Tuần XXVII Thường Niên hôm nay liên quan đến sự sống đời đời là những gì bất khả phân ly với tính chất đại đồng của tình yêu thương nhau.
Thật vậy, vấn đề được đặt ra trong bài Phúc Âm hôm nay từ "một người thông luật đứng dạy hỏi Chúa Giêsu rằng: 'Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?'", đã được Người trực tiếp khẳng định "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống", ở chỗ, đúng như câu trả lời của chính nhân vật ấy: "Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình".
Nghĩa là muốn được sống đời đời thì phải mến Chúa hết mình và yêu người như chính bản thân mình. "Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Nhưng ai là anh em của tôi?'". Tại sao "người đó muốn bào chữa mình" bằng câu hỏi tiếp theo "ai là anh em của tôi?" Phải chăng vì nhân vật này khó có thể yêu thương bất cứ ai, cùng lắm chỉ yêu thương những ai là ruột thịt của mình, những ai mình thích và những ai thích mình, về phe mình, tức là còn đầy khuynh hướng kỳ thị, còn đầy những thành kiến trong đầu, còn đầy ác cảm với tha nhân v.v.?
Có thể là thế. Bởi vậy, Chúa Giêsu đã phải sử dụng một dụ ngôn để cho nhân vật ấy biết "ai là anh em của tôi?", nhờ đó mà noi gương bắt chước: "đi và làm như vậy", sau khi nhân vật này đã nhận xét rất đúng theo câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra để kết thúc dụ ngôn của Người: "'Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?' Người thông luật trả lời: 'Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy'".
Vậy "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy" là ai và "người ấy" là người nào? Nếu không phải "người ấy" là "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết".
Và "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy" là ai - theo nhân vật thông luật trả lời thì không phải là "một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua", mà là "một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông'".
Vấn nạn của nhân vật thông luật "ai là anh em của tôi", theo dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, không được Chúa Giêsu trả lời đó chính là nạn nhân bị rơi vào tay bọn cướp, mà vấn đề hoàn toàn ngược hẳn lại "ai là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp".
Có nghĩa là, theo kinh nghiệm sống đạo và giao tiếp, bao lâu chúng ta còn đặt vấn đề "ai là anh em của tôi?" là chúng ta còn khuynh hướng kỳ thị, còn kẻ thù, thậm chí là chính những người ruột thịt của chúng ta, bởi chúng ta còn muốn chọn lựa anh em theo ý nghĩ, ý thích và ý muốn tự nhiên thiên lệch đầy vị kỷ của mình, và vì thế chúng ta vẫn còn gặp rất nhiều kẻ thù, rất nhiều đối phương, bất kể người ấy là ai, là thân nhân, ân nhân, thân hữu của mình một thời v.v.
Ngược lại, nếu chúng ta coi mình là anh em của mọi người thì sẽ chẳng bao giờ còn kẻ thù, còn đối phương, còn tranh giành, còn ghen ghét, còn đố kỵ v.v. Chúng ta sẽ như Chúa Kitô đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ (xem Mathêu 20:28), sống hòa đồng với mọi người, tiến đến với mọi người, bất kỳ ai, nhất là những con người thấp hèn bé mọn bần cùng khốn khổ trong xã hội, hơn là chờ mọi người đến với mình, hơn là quen thân gắn bó với thành phần giầu sang quyền quí thế lực v.v.
Ở trong Bài Đọc 1 hôm nay, tiên tri Giona đóng 2 vai một lúc, vừa là nạn nhân vừa là cứu nhân, như hai vai chính trong bài Phúc Âm hôm nay, nạn nhân nằm đường và cứu nhân Samaritanô nhân lành. Vị tiên tri Giona này đóng vai nạn nhân ở chỗ: "trốn sang Tharsê lánh xa mặt Chúa... (và) xuống lòng tàu nằm ngủ mê mệt", đồng thời vị tiên tri nạn nhân này cũng đóng vai cứu nhân: "Các ông hãy bắt tôi vứt xuống biển, thì biển sẽ yên lặng, vì tôi biết tại tôi mà các ông gặp phải trận bão lớn lao này". Tuy vị tiên tri này sẵn sàng hy sinh cho những người vô tội đang gặp nguy tử chỉ vì hậu quả gây ra bởi lầm lỗi của mình, người ta vẫn không nỡ đối xử với phạm nhân như phạm nhân nhận tội và đáng phạt, cho tới khi bất đắc dĩ họ mới đành phải làm một cách tin tưởng:
"Các thuỷ thủ cố chèo thuyền vào đất liền, nhưng không sao được, vì biển càng động dữ dội hơn. Họ kêu cầu cùng Chúa rằng: 'Lạy Chúa, chúng tôi xin Chúa vì mạng sống người này cho chúng tôi khỏi chết. Xin chớ đổ máu vô tội trên chúng tôi, vì, lạy Chúa, Chúa hành động theo như Chúa muốn'. Rồi họ bắt vứt ông Giona xuống biển, và biển liền hết nổi sóng. Mọi người rất kính sợ Chúa, họ tế lễ dâng lên Chúa và làm lời khấn hứa".
Về phần mình, Thiên Chúa muốn lợi dụng chính phạm nhân Giona để tỏ mình ra cho chẳng những dân ngoại là đám thủy thủ vứt phạm nhân Giona xuống biển mà nhất là còn cho cả chính đương sự Giona nữa, ở chỗ "Chúa chuẩn bị sẵn một con cá lớn để nuốt ông Giona, và ông Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Sau đó, Chúa truyền lệnh cho cá nhả ông Giona vào bờ", và chính vì thế mà vị tiên tri dám trốn lánh thi hành lệnh truyền của Chúa trong sứ vụ đến rao giảng thống hối cho dân Thành Ninive, đám dân thuộc đế quốc Assyria vốn thù địch với dân Do Thái, bắt dân Do Thái đi đầy, đã nhận biết Ngài ngay trong bụng cá, như chính vị tiên tri đã thân thưa cùng Chúa ở Bài Đáp Ca hôm nay:
2) Trong cảnh gian truân, con đã kêu cầu tới Chúa, và Ngài đã nhậm lời con; tự lòng vực sâu âm phủ, con đã kêu lên, và Ngài đã nghe rõ tiếng con.
3) Ngài đã ném con xuống vực sâu, trong lòng biển, các dòng nước đã lôi cuốn thân con, bao sóng cả ba đào đều lướt chảy trên mình con.
4) Bấy giờ con tự nhủ: Con đã bị loại xa khỏi thiên nhan Chúa, nhưng con sẽ còn được xem thấy thánh điện Ngài.
5) Khi mà trong người con, linh hồn tuyệt vọng, bấy giờ con đã nhớ (tới) Chúa. Lời cầu nguyện của con đã thấu đến tai Ngài, trong nơi thánh điện của Ngài.
Ngày 6/10
Thánh Brunô, đấng sáng lập dòng Chartreux, qua đời ngày 6 tháng 10 năm 1101 trong sa mạc La Torre, thuộc vùng Calabria (nước Ý). Tuy ngài không hề được phong thánh chính thức, nhưng lễ nhớ ngài được đưa vào phụng vụ địa phương của dòng Chartreux năm 1514 bằng phép miệng của Đức giáo hoàng Lêô X, rồi được đưa vào phụng vụ Rôma năm 1584 và cuối cùng được đưa vào các sách phụng vụ Rôma, qua một sắc lệnh của Thánh Bộ Lễ Nghi năm 1623.
Sinh năm 1035 ở Cologne (nước Đức) trong một gia đình quí tộc, Bruno
de Hartenfaust bắt đầu đi học tại trường Thánh Cunibert ở Cologne,
sau đó học trường nổi tiếng của nhà thờ lớn Reims. Năm 1056, ngài
trở thành hiệu trưởng và thầy dạy nổi tiếng của trường này. Sau khi
thụ phong linh mục, ngài được bổ nhiệm làm kinh sĩ nhà thờ lớn và
chưởng ấn của toà tổng giám mục. Lãnh nhận sứ vụ linh mục, Ngài vẫn
còn được các Đấng các Bậc cho tiếp tục con đường học vấn vì thấy
Ngài có khả năng tiếp thu và lãnh hội tốt các môn học. Ngài đã gặt
hái cách rất khả quan về môn Triết học và Thần học. Với trí thông
minh, kiến thức cao cường của Ngài, thánh Brunô đã làm khoa trưởng
của nhiều phân khoa đại học. Hội Thánh dùng Ngài vì lòng đạo đức,
học vấn uyên bác của Ngài, chính vì vậy, Ngài được triệu hồi về La
Mã và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Giáo Triều Roma.
Danh xưng Thầy Bruno được sử dụng cho tới cuối thế kỷ XV xứng với danh tiếng của “nhà hùng biện, thông thái trong mọi lãnh vực văn chương, tiến sĩ của các tiến sĩ . . .” Là người bênh vực cuộc cải cách Hội Thánh của Đức Giáo Hoàng Grêgoire VII, ngài dũng cảm chống lại thói buôn thần bán thánh và sự suy đồi đạo đức của hàng giáo sĩ.
Các thử thách đổ xuống cuộc đời thánh Brunô, kể từ khi Đức Tổng Giám mục Gevase qua đời năm 1068 và Manasses được đặt kế vị. Manasses là một người khô khan và hung bạo, đã chiếm ngai tòa Giám mục nhờ việc buôn thần bán thánh. Brunô đứng đầu những nhóm kinh sĩ chống lại và bị triệu về Rôma. Manasses trả thù bằng cách tịch biên tài sản và buộc các ngài phải trốn khỏi thành phố. Brunô trốn về một nơi gọi là Rocher, ở tại nhà một người bạn tên là Adam. Lần kia, trong khi đi dạo tại vườn nhà Adam, Brunô với hai người bạn là Ralph và Fulcius đã bàn về bản chất giả tạo của các thú vui trần thế và niềm vui của đời sống chiêm niệm. Lửa nhiệt tình bùng cháy, họ quyết định sẽ bỏ thế gian để sống đời cầu nguyện, ngay khi nào hoàn cảnh cho phép. Nhưng rồi Fulcius phải đi Rôma để trình bản cáo trạng Tổng Giám mục. Brunô không thể bỏ Reims khi Đức Tổng Giám mục còn tại vị. Cuối cùng, khi Đức Tổng Giám mục bị truất ngôi, chỉ còn Brunô trung kiên với dự tính....
Sau khi Manasses bị truất ngôi, vị đặc sứ tòa thánh muốn đặt Brunô làm Tổng Giám mục. Nhưng lúc ấy thánh nhân đã trốn khỏi Reims cùng với sáu người bạn, tới một nơi gọi là Sèche-Phontaine. Ngài ở gần tu viện Molesme là nơi thánh Robertô làm đan viện phụ. Có lẽ Brunô là tu sĩ của tu viện này một thời gian ngắn.
Tuy nhiên Brunô đã không ở lâu tại Sèche-Phontaine. Ngài muốn tìm một nơi xa vắng hơn để khỏi bị du khách quấy rầy. Năm 1084, ngài cùng với sáu người bạn tìm đến miền núi Savoy. Trên đường đi, các ngài dừng chân tại Grenoble để tham khảo ý kiến Đức Cha Hugues de Chateaineuf, một học trò cũ của Ngài. Vị Giám mục thánh thiện đã mơ thấy bảy ngôi sao sáng trên một miền xa thuộc dãy núi Cjartreuse. Biết rằng Brunô cùng với sáu người bạn của ngài là những ngôi sao ấy, Đức cha đã không chần chờ dẫn họ ngay tới nơi mà giấc mơ đã chỉ cho ngài. Đây là một nơi đủ yên tĩnh. Brunô và các bạn liền cư ngụ tại đó. Các ngài làm một nhà nguyện nhỏ và bảy cái lều chung quanh. Đó là bước đầu của một tu viện lớn vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, là nhà mẹ của một hội dòng mang tên Chartreuse.
Thế là thánh Brunô đã sáng lập một nếp sống tu dòng mới, gần giống với nếp sống do thánh Romualđô sáng lập: Các tu sĩ Chartreux sống đời ẩn tu, hiến mình cho công việc lao động đơn độc, chủ yếu là việc sao chép các sách, nhưng cử hành phụng vụ chung với nhau.
Nhưng rồi thánh Brunô đã quá lừng danh và không thể yên thân được lâu. Năm 1090, ĐGH Urbanô II, một học trò cũ của ngài đã nhớ đến thầy cũ và triệu ngài về Rôma làm cố vấn. Dầu vậy, Đức Giáo Hoàng cũng sớm nhận ra rằng: không có chỗ trong giáo triều dành cho Brunô. Ngài ban phép cho thánh nhân rời Rôma, với điều kiện là phải có mặt tại nước Ý.
Trong thời gian vắn vỏi tại giáo triều, thánh Brunô đã gặp nhà quý tộc Roger miền Sicily. Khi rời Rôma, ngài đến cư ngụ ở nơi nhà quý tộc hiến cho, tại La Torre miền Calabria. Ngài thiết lập ở đó một tu viện thứ hai, theo kiểu mẫu dòng Chartreuse.
Năm 1088, Đức giáo hoàng Urbain II (Eudes de Châtillon), từng là học trò của Thầy Brunô ở Reims, mời thầy cũ của mình tới Rôma làm cố vấn. Ngài vâng lời, nhưng một ít thời gian sau, vì vẫn khao khát đời sống cô tịch và cầu nguyện, ngài rời giáo triều, về Calabre, trong sa mạc La Torre; tại đây, ngài lập một tu viện mới, dưới sự bảo trợ của các vương công người Normand. Chính trong thời kỳ ẩn tu ở Sainte-Marie-de-La-Tour, ngài viết hai lá thư còn truyền lại tới thời chúng ta: một thư gửi bạn ngài là Raoul le Verd, đặc sứ giáo hoàng ở Reims, và một thư gửi cộng đoàn tu viện Grande-Chartreuse.
Thánh Brunô qua đời ngày chủ nhật 6 tháng 10 năm 1101, sau khi tuyên bố trước mặt các tu sĩ của mình lời tuyên xưng đức tin, trong đó ngài nhấn mạnh sự hiện diện thật của Đức Ki-tô trong phép Thánh Thể. Thi hài ngài được an nghỉ trong thánh đường tu viện Sainte-Marie-de-La-Tour. Các giai đoạn cuộc đời ngài được hoạ sĩ Le Sueur trình bày (1644 đến 1648); trong số các bức họa này, nổi tiếng nhất là Cuộc An Táng Thánh Brunô, tranh trưng bày tại Louvre.
Một vị thánh được những người đồng thời tặng khen nhiều danh hiệu
như :” Nhà thần học nổi danh, văn sĩ lỗi lạc, nhà ngoại giao tài ba,
người khôn ngoan tuyệt vời, thầy của các thầy vv…”. Với biết bao
danh hiệu người đồng thời tặng ban cho thánh Brunô, điều ấy nói lên
con người hết sức đặc biệt của Ngài. Thánh nhân không đặc biệt sao
được khi Hội Thánh, đặc biệt Giáo Triều cho triệu vời Ngài về La Mã
để giúp đỡ Đức Giáo Hoàng Urbanô II trong vai trò cố vấn cho Ngài.
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma đã viết:” Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu ! Đường lối của Người, ai theo dõi được ! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa ? Ai đã làm cố vấn cho Người ? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau ? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời ! Amen.” ( Rm 11, 33-36 ).
Thánh Brunô là một trong những vị thánh đã cảm nghiệm sâu sắc lời
của thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại trong đoạn viết để ca tụng
thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Cảm nghiệm hết sức sâu sắc lời
thánh Phaolô, thánh Brunô đã phục vụ theo đường lối Chúa. Tất cả đều
do hồng ân của Chúa. Ngài có được gì là do Thiên Chúa. Do đó, thánh
Brunô luôn tuân phục thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã kêu gọi thánh Brunô phụng sự Người “trong nơi thanh vắng” (Lời Nguyện của ngày). Thật vậy, từ khi ở trong rừng Sèche-Fontaine, nơi thánh Robert Molesmes đã hướng dẫn ngài vào đời ẩn tu, thánh Brunô đã luôn tìm kiếm sự thanh vắng để hiến mình cho Thiên Chúa qua việc chiêm niệm và sám hối.
Trong lá thư viết cho bạn ngài là Raoul le Verdi, thánh Brunô ca ngợi đời sống ẩn tu như sau:
“Về lợi ích và niềm vui mà sự thanh vắng đem đến cho những ai yêu mến nó, chỉ những người đã trải qua kinh nghiệm này mới biết được . . . Thật không thể tả nổi ngày lễ vĩnh cửu này, khi người ta đã nếm cảm trước những hoa quả của thiên đàng. Chúng tôi chỉ lo cho linh hồn mình, và giữa những cuộc chiến đấu vì Thiên Chúa, chúng tôi nếm cảm được sự bình an mà thế gian không biết đến, và niềm vui của Thánh Thần.”
Giờ Kinh Sách cho chúng ta đọc lá thư thánh nhân viết năm 1099 hay 1100 “cho các con cái Chartreux của ngài,” sau khi có cuộc thăm viếng của Đan phụ Landuin của họ tại tu viện của ngài ở Calabre. Lá thư này có thể coi như di chúc thiêng liêng của thánh Brunô cho con cái thiêng liêng mà ngài đã từ giã năm 1090:
“Qua những tường thuật chi tiết và rất an ủi của người anh em Landuin yêu quí của chúng ta, cha vui sướng biết được các con đã kiên quyết thế nào trong việc tuân giữ khôn ngoan và đáng ca ngợi thực sự: ngài đã kể cho cha về tình yêu thánh thiện của các con, lòng nhiệt thành không mỏi mệt của các con đối với tất cả những gì đụng tới sự trong sạch của quả tim và nhân đức . . . Cha vui mừng vì, mặc dù các con không thông thạo văn chương, nhưng Thiên Chúa toàn năng đã ghi khắc vào lòng các con không chỉ tình yêu mà thôi, mà còn sự hiểu biết luật thánh: thực vậy, các con chứng tỏ bằng việc làm điều các con yêu mến và hiểu biết. Vì các con thực hành sự vâng phục hết sức chuyên cần và nhiệt tình . . . Điều này cho thấy rõ ràng các con đón nhận với sự khôn ngoan hoa quả tuỵêt hảo và sống động của Lời Chúa.”
Đối với thánh Brunô, mục đích của Kinh Thánh là thông truyền sự sống, và hoa quả đầu tiên của Kinh Thánh là việc thi hành vâng phục, nguồn mạch của sự hoàn thiện đích thực. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã viết rất hay về thánh nhân: “Thiên Chúa đã chọn thánh Brunô, con người thánh thiện tuyệt vời, để làm cho đời chiêm niệm sáng ngời vẻ tinh tuyền nguyên thuỷ của nó” (Hiến pháp Umbratilem).
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ TGP Hà Nội, GP Vĩnh Long và Cha Hưng Lợi, CSsR
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Gn 3, 1-10
"Dân thành Ninivê đã bỏ đàng tội lỗi".
Trích sách Tiên tri Giona.
Lời Chúa phán cùng Giona rằng: "Hãy chỗi dậy và đi đến Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi". Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn, rộng bằng ba ngày đàng. Giona tiến vào thành phố, đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ". Dân thành tin tưởng nơi Chúa; họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ.
Vua thành Ninivê nghe điều đó, liền bỏ ngai vàng, cởi áo cẩm bào, mặc áo nhặm và ngồi trên đống tro. Trong thành Ninivê, người ta rao sắc lệnh sau đây của nhà vua và các vương hầu: "Người, vật, bò, chiên, không được nếm, không được ăn uống gì hết; người và vật phải mặc áo nhặm, phải kêu to lên cùng Chúa và phải cải thiện đời sống, phải bỏ đàng tội lỗi và những điều bất chính đã phạm. Biết đâu Chúa sẽ đổi ý thứ tha, nguôi giận và chúng ta khỏi chết?" Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa đổi ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 129, 1-2. 3-4ab. 7-8
Ðáp: Nếu Chúa nhớ hoài sự lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư? (c. 3)
Xướng: 1) Từ vực sâu, lạy Chúa, con kêu lên Chúa. Lạy Chúa, xin nghe tiếng con cầu! Dám xin Chúa hãy lắng tai, hầu nghe thấu tiếng van nài của con. - Ðáp.
2) Nếu Chúa nhớ hoài sự lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư? Nhưng Chúa thường rộng lượng thứ tha, để cho thiên hạ tôn thờ kính yêu. - Ðáp.
3) Israel đang mong đợi Chúa: bởi vì Chúa rộng lượng từ bi và Chúa rất giầu ơn cứu độ. Và chính Ngài sẽ giải thoát Israel cho khỏi mọi điều gian ác. - Ðáp.
Alleluia: Tv 144, 14cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 38-42
"Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với".
Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXVII Thường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại sự kiện về việc Chúa Giêsu ghé vào thăm gia đình 3 chị em Matta, Maria và Lazarô, và được người chị cả tiếp đón nồng hậu, nhưng rất tiếc bà chị lại đã tỏ ra ghen tị với người em gái của mình trước mặt Chúa Giêsu.
Thật ra Chúa Giêsu không trách Matta về việc phục vụ cần thiết của chị, cho bằng trách chị "lo lắng bối rối về nhiều chuyện", đến độ trở thành bất an, được bộc lộ qua thái độ và ngôn ngữ có tính cách ghen tị với em của chị: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với".
Nếu chị cứ âm thầm làm tất cả những gì cần thiết như chị cảm thấy để ân cần tiếp đãi vị đại khách của gia đình chị là Chúa Giêsu, với một tâm hồn hoàn toàn yêu mến Thày và yêu thương các em trong nhà, sẵn sàng chịu thiệt để cho chúng thay mình đang bận làm việc gần gũi tiếp chuyện với Thày, thì chị đâu có bị khiển trách như thế.
Tuy nhiên, qua lời chị ghen tị với em của chị như thế mới thấy được rằng chính chị cũng muốn được gần gũi với Chúa Giêsu như em của chị. Đó là lý do có những lúc hoạt động không còn giờ cầu nguyện, tâm hồn vẫn có thể khao khát Chúa, vẫn có thể cầu nguyện bằng chính lòng khao khát của mình, miễm là đừng coi thường cầu nguyện khi có giờ và chỉ vì thích hoạt động mà bỏ cầu nguyện khi có thể.
Phải, sống nội tâm và bằng an, sống vì Chúa và cho tha nhân là "sự cần duy nhất mà thôi", bằng không tất cả mọi hoạt động của chúng ta, cho dù lành thánh mấy chăng nữa, cho dù thiện ích mấy chăng nữa, cũng có thể trở thành dịp tội cho con người hoạt động, cuối cùng họ chỉ mất công vô ích mà thậm chí hoạt động còn trở thành nguy hiểm cho tâm hồn của họ nữa.
Như thế, có thể nói Matta là biểu hiệu cho đời sống hoạt động, còn Maria biểu hiệu cho đời sống cầu nguyện: "Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". Căn cứ vào giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay qua sự kiện Matta-Maria này, chúng ta thấy: 1- đời sống nội tâm cầu nguyện là chính yếu và cần trước hết và trên hết; 2- có biết lắng nghe tiếng Chúa bằng đời cầu nguyện mới có thể làm theo ý Ngài khi hoạt động, bằng không lúc đầu làm vì Chúa cuối cùng làm vì mình.
Trong Bài Đọc 1 chúng ta cũng thấy hiện lên 2 hình ảnh Matta hoạt động nhưng lại không đẹp lòng Chúa, trong khi Maria tĩnh lặng lắng nghe thì lại được Chúa khen. Matta ở Bài Đọc 1 hôm nay đó là tiên tri Giona, vị tiên tri chỉ thi hành ý Chúa một cách bất đắc dĩ, như đã thấy trong Bài Đọc 1 hôm qua và cả ngày mai nữa, trong khi đó Maria ở trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay là chính dân thành Ninivê, vừa nghe thấy vị tiên tri người Do Thái xa lạ cảnh báo liền ăn năn xám hối từ người đến thú, từ vua đến dân, tất cả thành, nên được Chúa thứ tha.
"Vua thành Ninivê nghe điều đó, liền bỏ ngai vàng, cởi áo cẩm bào, mặc áo nhặm và ngồi trên đống tro. Trong thành Ninivê, người ta rao sắc lệnh sau đây của nhà vua và các vương hầu: 'Người, vật, bò, chiên, không được nếm, không được ăn uống gì hết; người và vật phải mặc áo nhặm, phải kêu to lên cùng Chúa và phải cải thiện đời sống, phải bỏ đàng tội lỗi và những điều bất chính đã phạm. Biết đâu Chúa sẽ đổi ý thứ tha, nguôi giận và chúng ta khỏi chết?'. Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa đổi ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó".
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay không phải chỉ tập trung vào vai trò của hai chị em Matta hoạt động và Maria nội tâm, mà là về Lòng Thương Xót Chúa, một lòng thương xót là chính chân dung của Ngài, cần được con người chiêm ngắm và tin tưởng, như Maria trong bài Phúc Âm hôm nay, để Ngài có thể tỏ lòng xót thương, như dân thành Ninive đã tỏ lòng tin tưởng vào vị tiên tri xa lạ được lòng thương xót Chúa sai đến với họ và đã cấp thời đáp ứng lời cảnh báo của vị tiên tri, bằng việc ăn năn thống hối xứng với lòng thương xót Chúa trong Bài Đọc 1 hôm nay, một niềm tin tưởng vào lòng thương xót Chúa được gói ghém trong và phản ảnh qua tâm tình đầy xác tín của Thánh Vịnh 129 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Từ vực sâu, lạy Chúa, con kêu lên Chúa. Lạy Chúa, xin nghe tiếng con cầu! Dám xin Chúa hãy lắng tai, hầu nghe thấu tiếng van nài của con.
2) Nếu Chúa nhớ hoài sự lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư? Nhưng Chúa thường rộng lượng thứ tha, để cho thiên hạ tôn thờ kính yêu.
3) Israel đang mong đợi Chúa: bởi vì Chúa rộng lượng từ bi và Chúa rất giầu ơn cứu độ. Và chính Ngài sẽ giải thoát Israel cho khỏi mọi điều gian ác.
Ngày 7 tháng 10
Lễ Ðức Mẹ Mân Côi
Lễ Kính
Bài Ðọc I: St 3, 9-15. 20
"Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa miêu duệ mi và miêu duệ người phụ nữ".
Trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: "Ngươi đang ở đâu?" Ông đã thưa: "Con đã nghe thấy tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng con sợ hãi, vì con trần truồng và con đang ẩn núp".
Chúa phán bảo ông rằng: "Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?" Ađam thưa lại:"Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với con, chính nàng đã cho con trái cây và con đã ăn". Và Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: "Tại sao ngươi đã làm điều đó?" Người phụ nữ thưa:"Con rắn đã lừa dối con và con đã ăn".
Thiên Chúa phán bảo con rắn rằng: "Bởi vì mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người".
Và Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: 1 Sm 2, 1. 4-5. 6-7. 8
Ðáp: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Ðấng Cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, và sức mạnh tôi được gia tăng trong Thiên Chúa tôi; miệng tôi mở rộng ra trước quân thù, vì tôi reo mừng việc Chúa cứu độ tôi. - Ðáp.
2) Chiếc cung những người chiến sĩ đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được mạnh khoẻ thêm. Những kẻ no nê phải làm thuê độ nhật, và những người đói khát khỏi phải làm thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải héo tàn. - Ðáp.
3) Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống, Chúa đày xuống Âm phủ và Chúa dẫn ra. Chúa làm cho nghèo và làm cho giàu có, Chúa hạ xuống thấp và Chúa nâng lên cao. - Ðáp.
4) Từ nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân nhơ, Chúa nhắc kẻ khó nghèo, để cho họ ngồi chung với các vương giả, và cho họ dự phần ngôi báu vinh quang. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 5, 12. 17-19
"Nơi nào tội lỗi đầy tràn, thì Người ban ơn thánh dư dật".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền đến mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Vì nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những người lãnh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một người là Ðức Giêsu Kitô. Do đó, tội của một người truyền đến mọi người đưa tới án phạt như thế nào, thì đức công chính của một người truyền sang mọi người đưa tới bậc công chính ban sự sống cũng như thế. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 1, 28
Alleluia, alleluia! - Kính chào Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ; Trinh Nữ được chúc phúc giữa các người phụ nữ. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 26-38
"Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ". Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Ðó là lời Chúa.
Phải suy gẫm các mầu nhiệm Cứu Độ
Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.
Vì Đấng Thánh từ lòng bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Ôi nguồn mạch của sự khôn ngoan ! Ôi Ngôi Lời của Chúa Cha trên chốn cửu trùng ! Lạy Trinh Nữ thánh thiện, nhờ Mẹ làm trung gian, Ngôi Lời nay sẽ thành xác phàm, để Đấng nói : Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy, cũng nói : Thầy bởi Thiên Chúa mà ra và Thầy đã đến. Kinh Thánh viết : Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Suối đã vọt ra rồi nhưng mới chỉ ở nơi mình thôi. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa ngự trong ánh sáng siêu phàm.
Từ đầu, Chúa đã nói : Ta chỉ nghĩ đến chuyện mang lại bình an, chứ không nghĩ đến chuyện gây ra phiền muộn. Nhưng tư tưởng của Chúa thì ở trong Chúa, và Chúa nghĩ gì, chúng con đâu có biết. Quả thật, nào ai biết được tâm tư của Chúa hay ai làm cố vấn cho Người ?
Vì thế, Đấng nghĩ đến bình an đã xuống thế để thực hiện bình an : Ngôi Lời đã thành xác phàm và ở giữa chúng ta rồi. Nhờ đức tin, Người hoàn toàn ở trong tâm hồn chúng ta, Người ở trong trí nhớ của chúng ta, Người ở trong tư tưởng và thậm chí Người còn đi vào tận trí tưởng tượng của chúng ta nữa. Trước kia, con người có thể nghĩ gì về Thiên Chúa, có chăng là một hình ảnh do lòng con người tạo ra ? Khi đó, Thiên Chúa là Đấng không thể hiểu được, không thể tới gần được, không thể nhìn thấy hay suy tưởng được ; nhưng bây giờ Người đã muốn cho người ta hiểu, muốn cho người ta thấy, muốn cho người ta suy tưởng.
Bạn hỏi : Bằng cách nào vậy ? Thưa qua việc Người nằm trong máng cỏ, ngủ yên trong lòng Đức Trinh Nữ, rao giảng trên núi, thức thâu đêm cầu nguyện ; qua việc Người bị treo và chết rũ trên thập giá, thoát khỏi tử thần và nắm quyền trong âm phủ ; qua việc ngày thứ ba Người sống lại, tỏ cho các Tông Đồ thấy các dấu đinh là biểu hiệu chiến thắng, và cuối cùng lên trời cao thẳm trước mắt các ông.
Trong các mầu nhiệm nói trên, có mầu nhiệm nào lại không gợi cho chúng ta những ý tưởng chân thật, đạo đức và thánh thiện chăng ? Khi tôi suy tưởng bất cứ mầu nhiệm nào trên đây là tôi suy tưởng về Thiên Chúa và qua tất cả những mầu nhiệm đó, chính Người là Thiên Chúa của tôi. Suy gẫm những mầu nhiệm ấy, tôi cho là khôn ngoan. Nhớ lại những mầu nhiệm ấy, tôi cho là sáng suốt. Những mầu nhiệm ấy ngọt như những trái hạnh đào trổ sinh từ cây gậy của tư tế A-ha-ron. Sự ngọt ngào đó, Đức Ma-ri-a đã kín múc từ trời cao và đổ xuống tràn trề trên chúng ta.
Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Đức Ki-tô, Con Chúa, đã xuống thế làm người. Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình thập giá, và nhờ lời Thánh Mẫu Ma-ri-a chuyển cầu, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh. Chúng con cầu xin
Trong cuốn Thánh Mẫu Học do Brice xuất bản năm 1961, tập thứ 3, có một đoạn trình bày về Đức Bà Mân Côi của cha Juniper B. Carol, OFM, một vị linh mục quá cố đã từng nổi tiếng trên thế giới về Thánh Mẫu Học và là vị sáng lập Hội Thánh Mẫu Học Hoa Kỳ. Sau đây là đoạn về Đức Bà Mân Côi liên quan đến nguồn gốc việc thành hình Lễ Đức Mẹ Mân Côi được vị linh mục thánh mẫu này nghiên cứu biên soạn.
Những diễn tiền về lịch sử đáng ghi nhớ của ngày mùng 7 tháng 10 năm
1571, Ngày Chúa Nhật đầu tháng này, đã là những gì đưa đến việc xuất
hiện lễ Đức Bà Mân Côi. Thế giới Tây phương đã phải đối diện với cuộc
thảm họa và tàn phá toàn diện gây ra bởi những người Thổ Nhĩ Kỳ có một
hạm đội dũng mãnh đã làm chủ hầu hết Địa Trung Hải và thực sự đang đe
dọa Ý quốc. Thánh Giáo Hoàng Piô V và các vị lãnh đạo Kitô giáo khác, vì
tin rằng chỉ có ơn trợ giúp siêu nhiên bấy giờ mới có thể chặn đứng cuộc
xâm chiếm sắp sửa xẩy ra, đã hướng mắt về trời nài van Người Mẹ thiên
đình chuyển cầu cho họ. Vị Thánh Giáo Hoàng cũng xin các Hiệp Hội Mân
Côi hãy gia tăng việc họ tôn sùng này vào ngày 7/10 và cử hành việc tôn
sùng này một cách trọng thể hơn.
Thật thế, chính vào ngày này, lực lượng hải quân của liên minh Kitô giáo đụng độ hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ vững chắc của Thổ Nhĩ Kỳ ở Vịnh Lêpantô. Truyện kể rằng trong khi trận chiến hết sức quan trọng này đang gay go thì Đức Piô V, được linh cảm thiên đình, đã kêu lên “Chiến thắng! Chiến thắng!” Thật thế, hạm đội của bên địch đã hoàn toàn thảm bại làm tan rã lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ. Vị Giáo Hoàng này không được đặc ân cử hành cuộc mừng kỷ niệm ân huệ lớn lao này của Thiên Chúa. Ngày cùng tháng tận của ngài đã đến, nhưng không xẩy ra trước khi ngài tuyên bố hiệu thành vào ngày 17/3/1572 về việc công khai tạ ơn Mẹ Maria và sâu xa tri ân Mẹ về việc Mẹ bảo vệ chở che, một cuộc tưởng niệm đặc biệt được giành cho Mẹ vào ngày 7/10 dưới tước hiệu Đức Bà Thắng Trận.
Đức Grêgôriô XIII, vị thừa nhiệm của ngài, đã thay đổi tước hiệu này thành Đức Bà Mân Côi, và vào ngày 1/4/1573, đã ban sắc chỉ truyền cử hành một thánh lễ mới vào ngày Chúa Nhật đầu Tháng Mười, ban phép cử hành ở những nhà thờ có bàn thờ mang tước hiệu ấy. Một trăm năm sau, theo lời yêu cầu của Nữ Hoàng Tây Ban Nha là Mary Anne, lễ này được lan rộng khắp Tây Ban Nha, và sau đó ít lâu, đến nhiều giáo phận ở Ý và các quốc gia khác. Vào ngày 3/10/1716, như một cách công nhận cuộc chiến thắng của Hoàng Tử Eugene của Savoy đối với quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Hung Gia Lợi vào ngày 5/8 dưới sự bảo hộ của Đức Mẹ Xuống Tuyết, Đức Clêmentê XI đã ban hành một văn kiện, một văn kiện được soạn thảo bởi vị tiền nhiệm của ngài là Đức Innocentê XI, nới rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi ra khắp Giáo Hội hoàn vũ. Đức Lêô XIII đã nâng lễ này lên bậc lễ cao hơn. Sau cùng Đức Piô X, trong tự sắc Motu Proprio ngày 23/10/1913, đã chỉ định lễ này vào ngày 7/10 hằng năm (Cf. E. Campana, Maria nel culto cattolico, Torino, 1933, Vol. I, pp. 407-413).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Công Hiệu của Kinh Mân Côi trong Lịch Sử
(Đức Lêô XIII:
Thông Điệp Supremi Apostolatus ban hành ngày 1/9/1883;
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, chuyển dịch)
Tông Tòa Tối Cao mà Ta đang phải gánh vác, cùng với tình trạng khó khăn
càng ngày càng tăng thêm vào những thời buổi này, lưu ý và thôi thúc Ta
hằng ngày phải cẩn trọng canh phòng sự an toàn cũng như an sinh của Giáo
Hội, để rồi, càng quan tâm mới càng thấy các tai ương Giáo Hội phải chịu
càng nhiều. Bởi thế, trong khi nỗ lực bằng mọi cách để bảo trì các quyền
lợi của Giáo Hội, cũng như để vô hiệu hóa hoặc đẩy lui những nguy hại
hiện nay đang lan tràn, Ta không ngừng tìm cầu sự trợ giúp bởi trời -
một phương cách duy nhất có đủ mọi tác dụng - ngỏ hầu những công khó và
việc coi sóc của Ta đạt được như lòng mong ước.
Để được như vậy, Ta cho rằng không thể có một phương cách nào vững chắc
hơn và hiệu nghiệm hơn là, nhờ việc tôn sùng và thảo hiếu, chiếm được
lòng của Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng Canh Giữ bình an của chúng
ta và là Vị Thừa Tác ban phát ơn trời cho chúng ta, Đấng được ban cho
tối thượng quyền và hiển vinh ở trên trời, để Người có thể ban ơn trợ
giúp xuống cho con người, thành phần đang trải qua bao khó nhọc và hiểm
nguy trên con đường tiến về kinh đô vĩnh cửu.
Giờ đây, đã gần đến dịp tưởng nhớ đến biết bao hồng ân cao cả khôn lường
mà Kitô hữu nhận được nhờ lòng sùng kính kinh Mân Côi, Ta ước mong cho
lòng sùng kính này được toàn thể Giáo Hội hoàn vũ thực thi bằng cả nhiệt
tình thắm thiết nhất đối với Đức Trinh Nữ, để, nhờ sự cầu bầu của Người,
Người Con Thần Linh của Người nguôi giận và thương đến chúng ta đang ở
trong cơn khốn khổ đọa đầy. Bởi đó, qúi huynh thân kính, Ta quyết định
phổ biến đến qúi huynh bức thư này, theo như lòng mong ước của Ta, là
qúi huynh hãy dùng quyền bính và lòng nhiệt thành của mình mà khơi lên
tấm lòng sùng mộ nơi thành phần dân Chúa của qúi huynh, trong việc thực
hiện những ước vọng của chúng ta.
Người Công Giáo vốn có thói quen là luôn luôn chạy đến náu ẩn nơi Mẹ
Maria trong những lúc gian nguy khốn khó, để tìm bình an nơi lòng từ mẫu
nhân ái của Người, một thói quen chứng tỏ Giáo Hội Công Giáo luôn luôn
đặt tất cả tin tưởng và hy vọng một cách chính đáng của mình nơi Mẹ
Thiên Chúa. Người là Đấng đã liên kết với Chúa trong công cuộc cứu rỗi
loài người, được đặc quyền và năng quyền hơn mọi phàm nhân và thần trời
từng được hay có thể được. Và, vì nguyện vọng tha thiết nhất của Mẹ là
ban ơn trợ giúp và ủi an cho những ai tìm kiếm Mẹ, thì còn hồ nghi gì
nữa khi bảo rằng, Mẹ hân hoan, nếu không muốn nói là nao nức, nhận lấy
những khát vọng của Giáo Hội hoàn vũ.
Việc tôn sùng rất cao cả và đáng tin cậy đối với Nữ Vương uy linh Thiên
Đình này chưa bao giờ chiếu giải ánh quang như những lúc Giáo Hội chiến
đấu của Thiên Chúa gặp gian nguy bởi những tấn công của lạc thuyết lan
tràn, bởi thương luân bại lý không thể chấp nhận được, hay bởi những tấn
công của các địch thủ dũng mãnh. Lịch sử trong quá khứ cũng như mới đây,
nhất là Giáo sử biên niên, còn ghi chứng về những lời cầu chung riêng
dâng lên Mẹ Thiên Chúa xin ơn trợ giúp đã được Mẹ ban cho, và xin ơn an
bình trật tự cũng đã được Thiên Chúa ban cho qua Mẹ. Bởi thế, Mẹ xứng
danh là “Đấng Phù Hộ Các Giáo Hữu”, “Đấng An Ủi Kẻ Âu Lo”, “Quyền Năng
Chiến Đấu của chúng ta”, “Nữ Vương Vinh Thắng”, “Nữ Thần Hòa Bình.”
Trong số những tước hiệu này, một tước hiệu quen thuộc đáng chú ý nhất
là tước hiệu Mân Côi, một tước hiệu mà những ơn ích tỏ tường Người đã
xin cho toàn thể thế giới Kitô giáo vẫn được tưởng nhớ một cách long
trọng.
Qúi Huynh thân kính, không một ai trong qúi huynh lại không nhớ đến việc
Hội Thánh Chúa, vào cuối thế kỷ 12, đã chịu đựng một cơn hoạn nạn hết
sức đau buồn gây ra do bè rối Albigensê, miêu duệ của các Hậu Nhị Nguyên
Thuyết, một bè rối lan tràn ở miền Nam nước Pháp và các phần đất khác
thuộc thế giới Latinh, đầy những sai lầm hiểm hại cùng với những lực
lượng tàn sát và tàn phá khủng khiếp khắp nơi khắp chốn.
Thiên Chúa nhân lành của chúng ta, như qúi huynh biết, đã dùng một vị
rất thánh thiện để chống lại các kẻ địch thù lợi hại này, đó là vị tổ
phụ lừng danh sáng lập dòng Đaminh. Cao cả ở giáo thuyết thuần tín, ở
gương sáng các nhân đức và ở các công cuộc tông đồ của mình, thánh nhân
đã dũng liệt tấn công các đối thủ của Giáo Hội Công Giáo, không phải cậy
dựa vào khí giới, song bằng việc tôn sùng mà ngài là người đầu tiên khởi
xướng lên, việc tôn sùng dưới tước hiệu Rất Thánh Mân Côi, việc tôn sùng
mà ngài cũng như các môn đệ của ngài đã truyền bá khắp nơi trên thế
giới.
Thật vậy, được thần hứng và ân sủng hướng dẫn, thánh nhân đã thấy trước
được rằng việc tôn sùng này như là một khí giới chiến đấu vô địch sẽ đẩy
lui địch thủ, khống chế được lòng vô đạo điên cuồng và ngang tàng của
họ. Thành quả đúng là như vậy. Nhờ phương thức cầu nguyện mới mẻ này -
khi được chấp nhận và thi hành như thánh Đaminh sáng lập dòng thiết lập
- lòng đạo đức, đức tin và sự hiệp nhất bắt đầu vãn hồi; những dự tính
và sách lược của các kẻ lạc đạo tan như mây khói. Nhiều kẻ lạc bước quay
về con đường cứu rỗi, và cơn phẫn nộ của những kẻ vô đạo bị kiềm tỏa bởi
khí giới của những người Công Giáo cương quyết chống lại cuộc tấn công
của họ.
Công hiệu và quyền lực của việc tôn sùng này còn được thể hiện trong thế
kỷ 16, khi mà lực lượng hùng hậu của người Thổ Nhĩ Kỳ đang đe dọa chụp
cái gông hoang đường và man rợ lên gần hết cả Âu Châu. Đức Giáo Hoàng
lúc ấy là Thánh Piô V, sau khi khơi động lòng nhiệt thành của các vua
chúa trong việc cùng nhau tự vệ, đã hăng hái nỗ lực, hơn hết mọi sư, để
xin Mẹ Thiên Chúa hết sức quyền năng thương đến thế giới Kitô giáo. Tấm
gương hết sức cao qúi này được dâng lên thiên đình, và tất cả hợp một
lòng một ý với ngài lúc bấy giờ. Thế là, sẵn lòng hy sinh mạng sống và
máu đào để bảo toàn Đức Tin và quê hương của mình, các chiến sĩ tín hữu
Chúa Kitô hiên ngang đối đầu với địch quân ở gần vịnh Côrintô; trong khi
đó, những người không thể đi chiến đấu như họ thì hợp lại thành đạo quân
sốt sắng nguyện cầu, hiệp nhất trong lời kinh Mân Côi liên tục chúc tụng
Mẹ Maria, kêu xin Người ban chiến thắng cho thành phần đang chiến đấu
của mình. Đức Mẹ cao sang quả thật đã ban ơn trợ giúp. Trong trận thủy
chiến gần quần đảo Echinades, hạm đội Kitô hữu đã đại thắng mà không bị
thiệt hại nặng và địch quân hoàn toàn thảm bại.
Để tưởng nhớ đặc ân này và để kỷ niệm một cuộc chiến đáng ghi nhớ như
thế, vị Thánh Giáo Hoàng này đã muốn lập một lễ tôn kính Đức Mẹ Thắng
Trận, một lễ mà Đức Giáo Hoàng Gregôriô XIII đã đặt cho danh xưng là
“Rất Thánh Mân Côi”.
Trong thế kỷ qua còn có những thành quả quan trọng khác tương tự như thế
đối với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Temesvar nước Hung Gia Lợi và ở Corfu. Trong
cả hai trường hợp này đều dính dáng trùng hợp với các ngày lễ của Đức Mẹ
và với các cuộc tổ chức đọc kinh Mân Côi chung. Kết quả đã làm cho vị
tiền nhiệm của Ta là Đức Clementê XI, để tỏ lòng tri ân, đã truyền cho
cả Giáo Hội hằng năm phải đặc biệt tôn kính Đức Mẹ Thiên Chúa bằng kinh
Mân Côi của Người.
Từ đó, thể thức cầu nguyện này rõ ràng là một cách cầu nguyện đẹp lòng
Đức Trinh Nữ, và cũng là một phương tiện hiệu nghiệm trong việc bảo vệ
Giáo Hội và mọi Kitô hữu. Bởi thế, không lạ gì đã có một số vị tiền
nhiệm của Ta tỏ ra mộ mến và thúc giục truyền bá ra cho sâu rộng.
- Đức Urbanô IV chứng nhận là: “mỗi ngày kinh Mân Côi mang lại những ơn
phúc mới mẻ cho Kitô giáo.”
- Đức Sixtô IV tuyên ngôn rằng phương pháp cầu nguyện này “làm tăng thêm
việc tôn vinh Thiên Chúa và Đức Trinh Nữ, cũng như rất thích hợp trong
việc phòng ngừa những hiểm nguy đang đe dọa”.
- Đức Lêô X: “Kinh Mân Côi được thiết lập để chống lại các kẻ gieo rắc
lầm lạc và các lạc thuyết.”
- Đức Juliô III lại gọi kinh Mân Côi là “vinh quang của Giáo Hội.”
- Thánh Piô V nói rằng “nhờ việc truyền bá lòng tôn sùng này mà tín hữu
trở nên nhiệt tình hơn trong việc suy niệm và sốt sắng hơn trong việc
cầu nguyện; họ biến đổi một cách nhanh chóng; bóng tối lạc thuyết biến
tan và ánh sáng Đức Tin Công Giáo bừng rạng trong vinh quang đổi mới.”
- Sau hết, đến lượt Đức Grêgôry XIII, ngài công bố rằng: “Kinh Mân Côi
được thánh Đaminh thiết lập để ngăn cản cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và
để kêu cầu sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria.”
(Vì
muốn cho Lời của các vị Giáo Hoàng nói về Kinh Mân Côi nổi bật hơn,
Người dịch tự phân đoạn Lời của các vị, mà theo nguyên bản được viết
liền với nhau, và làm cho những Lời đó đậm lên)
Cảm kích trước những lời và gương sáng này của các vị tiền nhiệm, Ta tin
rằng, với cùng một lý lẽ như các ngài, đây là lúc thuận tiện nhất cho
việc thiết lập những kinh nguyện chung và cho việc cố gắng lợi dụng
những lời kinh nguyện của chuỗi kinh Mân Côi dâng lên Đức Trinh Nữ, để
xin Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ, một sự trợ giúp tương tự đối với những hiểm
nguy hiện nay. Qúi Huynh thân kính, qúi huynh đã thấy rõ những thử thách
mà Giáo Hội hằng ngày phải đương đầu: lòng đạo đức Kitô hữu, nền luân lý
chung, không những thế, ngay cả chính Đức Tin, sự thiện tối cao và đầu
mối của mọi nhân đức, hằng ngày bị đe dọa tàn lụi đi một cách thảm khốc
nhất.
Trước tình thế khốn khó hiện nay, không phải là những người bàng quan,
với đức ái của mình cũng như của Ta, quí huynh cảm thấy bị xâu xé đớn
đau. Còn gì buồn thảm và đau đớn cho bằng, khi thấy rất nhiều linh hồn
được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, bị những cơn gió lốc lầm lạc
đương thời, cuốn mất ơn cứu độ, mà nhào xuống vực thẳm của sự chết đời
đời. Nhu cầu của chúng ta hôm nay cũng khẩn thiết như thời mà Đại Thánh
Đaminh khởi xướng sử dụng Kinh Mân Côi của Mẹ Maria để băng bó những vết
thương thời đại của Ngài. Vị thánh danh tiếng này thực sự, với ơn soi
sáng thần linh, đã thấy rằng không có một phương cách nào hiệu nghiệm
hơn để chống lại với những sự dữ của thời đại bấy giờ, làm cho người ta
trở về với Chúa Kitô “là đường, là sự thật và là sự sống”, bằng việc
thường xuyên suy niệm ơn cứu độ mà Người lập được cho chúng ta, khi tìm
cầu sự can thiệp của Thiên Chúa qua Đức Trinh Nữ, Đấng có thể phá tan
tất cả mọi lạc thuyết.
Thế nên, thánh nhân đã sáng tác Kinh Mân Côi để tưởng nhớ theo thứ tự
các mầu nhiệm cứu độ của chúng ta, mà chủ điểm để suy niệm được tóm gọn
và kết cầu, đúng như vậy, giữa Lời Thiên Thần Chào và các lời nguyện xin
Thiên Chúa cũng là Cha của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Bởi thế, là
những người tìm kiếm phương cách chữa trị những sự dữ như thế, chúng ta
không được hồ nghi kinh nguyện đã được khởi xướng lên bởi một con người
hết sức thánh thiện này đã mang lại rất nhiều thắng lợi cho thế giới
Công Giáo, cũng sẽ mang lại những công hiệu cả thể trong việc khử trừ
những tai ương của thời đại chúng ta. Ta chẳng những hết lòng khuyên
giục tất cả mọi Kitô hữu không ngừng hăng say lần hạt Mân Côi chung, hay
riêng tại tư gia trong gia đình, mà còn ước mong trọn Tháng Mười năm nay
được hiến dâng cho Trinh Nữ Vương Mân Côi.
Quí Huynh thân kính, với tấm lòng tôn kính Đức Maria và an sinh xã hội
loài người, Quí Huynh chắc hẳn càng hết sức thực hiện việc nuôi dưỡng
lòng đạo đức của các tín hữu đối với Vị Đại Trinh Nữ và tăng tiến lòng
tin tưởng của họ nơi Người. Ta tin rằng, đây là những gì Thiên Chúa Quan
Phòng muốn, trong những thời điểm Giáo Hội bị thử thac1h như thế này,
việc tôn sùng cổ kính đối với Trinh Nữ Cao Cả phải được sống động và
triển nở một cách rộng rãi hơn trong thế giới Kitô giáo. Chớ gì các quốc
gia Kitô giáo ngày nay, nhờ lời khuyên dụ của Ta gợi hứng và lời kêu gọi
của Quí Huynh nung nấu, tìm kiếm sự phù hộ của Đức Maria mỗi ngày một
nhiệt liệt hơn. Chớ gì họ càng gắn bó hơn với việc lần hạt Mân Côi, một
việc tôn sùng mà các vị tiền bối của Ta vẫn có thói quen thực hành,
chẳng những như một phương thế bao giờ cũng hiệu nghiệm đối với những
lầm than của mình, mà còn như nhãn hiệu thực sự cho lòng đạo đức của
người Kitô hữu. Vị Nữ Thánh Sư trên trời của loài người sẽ vui mừng nhận
lãnh những lời nguyện cầu và nguyện xin này, và sẽ mau mắn làm cho kẻ
lành được tấn tới trên đường nhân đức, kẻ lầm lạc thống hối trở về với
ơn cứu rỗi, và Thiên Chúa, Đấng báo oán tội lỗi, cảm thương sẽ giải cứu
vương quốc Kitô giáo cũng như xã hội loài người khỏi mọi hiểm nguy,
trong một nền hòa bình hằng mong đợi.
An lòng với niềm cậy trông này, bằng tất cả sức mạnh linh hồn của chúng
ta, Ta dâng lên Chúa những lời nguyện nhiệt thành nhất, để, nhờ sự cầu
bầu của Đấng mà Ngài đã ban cho đầy mọi thiện hảo, Ngài tràn đổ xuống
trên Quí Huynh thân kính, tràn đầy hết mọi ân phúc.
Đức Mẹ Mân Côi Thắng Trận với Cuộc Hải Chiến Lepanto Ngày 7/10/1571
Thánh Đaminh đã lãnh nhận kinh mân côi từ Đức Trinh Nữ Maria trong một thị kiến đang khi ngài cố gắng để hoán cải thành phần bè rối Albigensê năm 1208. Mẹ Maria đã nói với vị đại thánh này rằng kinh mân côi là “một thứ vũ khí được Thiên Chúa Ba Ngôi có ý sử dụng để canh tân thế giới”. Trong Trận Chiến ở Muret ngày 12/9/1213, kinh nguyện Thánh Mẫu này đã đánh bại bè rối Albegensê và sau đó một đền thờ đầu tiên được xây cất kính Đức Mẹ Thắng Trận.
Qua các thế kỷ, kinh mân côi đã được lần đặc biệt trong những lúc nguy hiểm để van nài việc trợ giúp của Đức Nữ Trinh này. Ngày 7/10/2006 này là năm thứ 435 kỷ niệm Trận Hải Chiến Lepantô, một biến cố đã mang lại cho thế giới một thánh lễ mân côi.
Khắp thế kỷ 16, những cuộc đụng độ về hải quân với hạm đội của Thổ Nhĩ Kỳ càng ngày càng gia tăng. Sauk hi chiếm được thành Constantinople của đế quốc Byzantine năm 1453, Quân D8ến Quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ thiết lập một hạm đội với mục đích chiến thắng toàn thể Âu Châu,, trước hết bằng đường biển sau bằng đường bộ.
Hạm đội của Thổ Nhĩ Kỳ là một hạm đội hầu như bất khả thắng. Họ đã chiếm Cyprus, Rhodes và chỉ gần như bị đẩy lui ở Malta mà thôi.
Thánh Giáo Hoàng Piô V, một nhà cải cách dòng Đaminh và là bạn của Thánh Charles Borromeo, đã hy vọng ngăn chặn được một cuộc tấn công không thể tránh sắp tới trước khi nó xẩy ra, và tìm cách qui tụ vua của nước Tây Ban Nha cùng các nước cộng hòa Venice và Genoa hợp với hạm đội của đức giáo hoàng trong việc chặn đứng hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ rời vùng biển riêng của nó.
Lực lượng liên minh quan đáng kể này bao gồm nhiều kẻ thù truyền kiếp, thành phần đã quyết định gạt bỏ những khác biệt của mình ra ngoài để hỗ trợ việc chung. Họ đã hạ thủy 200 chiếc tầu hùng mạnh để giao chiến với 220 tầu của hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ.
Thánh Giáo Hoàng Piô V, ngoài việc thống hối cá nhân, đã kêu gọi toàn thế giới Kitô hữu hãy cầu kinh mân côi và tổ chức những cuộc cung nghinh Đức Mẹ khắp thành phố để cầu cùng Mẹ Maria. Vào ngày 7/10/1571, trong khi đang làm việc với các vị hồng y của mình, vị giáo hoàng này đã ngước mắt lên mà nói: “Cuộc ngừng bắn đã xẩy ra, công việc lớn lao của chúng ta vào lúc này là tạ ơn Thiên Chúa về chiến thắng Ngài vừa ban cho quân đội Kitô Giáo”.
Thật vậy, một ít giờ đồng hồ sau đó, Don John của Áo quốc, vị tổng chỉ huy của Liên Minh Thánh, đã chiến thắng vào ngày hôm ấy, chẳng những đánh bại hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ mà còn giải phóng cho gần 20 ngàn nô lệ Kitô hữu khỏi các tầu bè của người Thổ.
Bởi thế ban đầu đã có Lễ Đức Bà Thắng Trận, sau được Giáo Hoàng Grêgôriô XIII đổi thành lễ Đức Mẹ Mân Côi, và đã phổ biến cho toàn thế giới bởi Đức Clêmentê vào năm 1716.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đáng kính nhớ đã nhắc nhở người Công Giáo rằng, trong thời đại tân tiến của chúng ta đây, chúng ta hơn bao giờ hết cần đến kinh mân côi. Sau biến cố 11/9/2001, ngài đã tuyên bố rằng: “trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tôi kêu mời tất cả mọi người – cá nhân, gia đình, cộng đồng – hãy cầu kinh nguyện Thánh Mẫu này, hằng ngày có thể, cho hòa bình, nhờ đó, thế giới được giữ cho khỏi nạn khủng bố gian ác”. Năm sau đó, ngài đã mở Năm Mân Côi (2003-1004) và thêm 5 Mầu Nhiệm Ánh Sáng vào tràng kinh mân côi 150.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/10/2006
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Gn 4, 1-11
"Ngươi buồn bực vì dây dưa, chớ thì Ta không tha thứ cho Ninivê, một thành phố rộng lớn sao?"
Trích sách Tiên tri Giona.
Ông Giona buồn bực quá sức và giận dữ, ông cầu nguyện cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa, chớ thì chẳng phải như lời con đã cầu xin khi con còn ở quê nhà con sao? Bởi đó con lo trốn sang Tharsê: vì con biết Chúa là Thiên Chúa khoan nhân, từ bi, nhẫn nhục, đầy tình thương và tha thứ tội ác. Lạy Chúa, giờ đây xin Chúa cất linh hồn con ra khỏi con, vì thà con chết còn hơn là sống". Chúa liền hỏi rằng: "Ngươi có nghĩ là ngươi giận đúng không?"
Ông Giona ra khỏi thành phố và ngồi ở phía đông thành phố; ông tự dựng một cái lều, và ngồi dưới bóng nó, chờ xem biến cố sẽ xảy ra trong thành. Chúa là Thiên Chúa khiến một dây dưa mọc lên khỏi đầu ông Giona, rợp bóng trên đầu ông, che mát cho ông (vì ông mệt mỏi); nhờ dây dưa đó, ông Giona rất hân hoan vui mừng. Sáng sớm hôm sau, Thiên Chúa khiến một con sâu cắn dây dưa, và nó ra khô héo. Khi mặt trời mọc lên, Chúa khiến cơn gió nóng thổi lên và mặt trời giọi xuống đầu ông Giona, ông nóng nực và xin cho mình chết mà rằng: "Thà con chết đi còn hơn là sống".
Chúa phán cùng ông Giona rằng: "Ngươi có nghĩ ngươi giận vì dây dưa là đúng không?" Ông thưa: "Ðúng, con giận cho đến chết (đi được!)" Chúa phán: "Ngươi buồn bực vì dây dưa mà ngươi không mất công vun trồng, không làm cho nó mọc lên, đêm nay nó mọc lên và đêm sau nó khô héo. Chớ thì Ta không tha thứ cho Ninivê, một thành phố rộng lớn, trong đó có trên một trăm hai mươi ngàn người chưa biết phân biệt tay tả tay hữu mình thế nào, và nhiều súc vật sao?"
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 85, 3-4. 5-6. 9-10
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung (c. 15b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, xin thương con, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giầu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài. - Ðáp.
3) Các dân tộc mà Chúa tạo thành, họ sẽ tới, lạy Chúa, họ sẽ thờ lạy Ngài, và họ sẽ ca tụng danh Ngài. Vì Ngài cao cả và làm nên những điều kỳ diệu; duy một mình Ngài là Thiên Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 1-4
"Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói:
"Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bài
Phúc Âm của
Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Tư Tuần XXVII Thường Niên, tiếp
ngay sau bài
Phúc Âm hôm qua, chẳng những liên tục về bố cục theo đoạn và câu
mà
còn liên tục về cả nội dung của hai bài Phúc Âm này nữa. Ở chỗ, nếu bài
Phúc Âm hôm qua liên
quan đến đời sống nội tâm thì bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến tinh
thần cầu
nguyện.
Đúng thế, Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm
nay thuật lại rằng: "Ngày
kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có
một môn đệ thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện
như Gioan đã dạy môn đệ ông'".
Thánh ký Luca không cho chúng ta biết rõ tên của người "môn đệ" nào trong 12 tông đồ hay trong 72 môn đệ đã xin Người dạy cho chung các vị cầu nguyện, mà là cầu nguyện theo kiểu của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả dạy cho các môn đệ của ngài. Chúng ta có thể suy đoán, người "môn đệ" ấy một là Tông Đồ Anrê hai là Tông Đồ Philiphê, hai môn đệ của vị tiền hô này đã đến xem chỗ Người ở, ba là Nathanael / Bartholomeo và bốn là Simon / Phêrô là 2 người được hai vị đến trước và về rủ đến sau (xem Gioan 1:35-51).
Chúng ta ở đây không biết Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã dạy các môn đệ cầu nguyện của ngài như thế nào mà môn đệ này đã cảm thấy hay đến độ xin Chúa Giêsu dạy cho họ như thế hay hơn thế. Chỉ biết rằng, đích thân Chúa Giêsu đã đáp ứng lời yêu cầu chính đáng của người môn đệ đại diện ấy bằng cách cống hiến cho môn đệ của mình công thức cầu nguyện cùng Cha của Người như sau:
"Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'".
Chúng ta cũng không biết kinh nguyện trên đây của Chúa Giêsu có phải là chính tâm nguyện chính yếu và liên lỉ của Người đối với Cha của Người, những tâm nguyện được Người bộc phát và bày tỏ ra cùng Cha của Người mỗi lần Người cầu nguyện cùng Cha của Người hay chăng? Nhưng chúng ta chắc chắn một điều rằng nếu những lời cầu nguyện ấy không phải là những gì hay nhất, tuyệt vời nhất và đẹp lòng Cha của Người nhất, vì không ai biết Cha Người bằng Người, thì Người đã không dạy cho các môn đệ của Người, không dạy cho chúng ta.
Thế nhưng, nếu cho rằng những lời cầu ấy là chính tâm nguyện của Chúa Giêsu ấp ủ đối với Cha của Người thì phần "nguyện" đầu của lời cầu mà chúng ta vẫn gọi là Kinh Chúa Dạy hay Kinh Lạy Cha này là những gì có thể khả chấp: "Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến", nhưng còn phần "xin" sau đó dường như không hợp với Người, không xứng với Người, Đấng không cần những vấn đề thuộc hạ giới này của loài thuần nhân như chúng ta: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
Tuy nhiên, ở đây, Chúa Kitô cầu nguyện với tư cách là một Con Người, (chứ không phải với tư cách là một Vị Thiên Chúa), một Con Người cầu nguyện thay con người, cầu nguyện với con người và cầu nguyện cho con người. Vì là Con Người, Người cũng cần "xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày" là biết làm theo và chu toàn ý muốn Cha là Đấng đã sai Người (xem Gioan 4:34). Vì Người là Đấng gánh tội trần gian và đền tội cho trần gian mà Người cũng xin Cha "tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con", ở chỗ tha nợ cho Người cũng là tha nợ cho đồng loại tội nhân của Người, như Người đã tha nợ cho những kẻ lầm lẫn không biết việc mình làm khi ra tay sát hại Người (xem Luca 23:34). Vì là Đấng đã hóa thân làm người, cũng có ý muốn riêng theo bản tính loài người mà Người cũng "xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ" là khuynh hướng luôn tìm theo ý riêng mình hơn là ý muốn của Thiên Chúa, một ý muốn tối cao nhưng vô cùng oan khiên khắc nghiệt của Thiên Chúa đối với ý riêng của con người.
Bài Đọc 1 hôm nay rất thích hợp với Kinh Lạy Cha nói chung, nhất là với lời cầu cuối cùng của Kinh Lạy Cha của bài Phúc Âm hôm nay: "xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ" . Tiên tri Giona chẳng những đã bị cám dỗ bỏ trốn, không thi hành lệnh truyền của Ngài trong việc đến rao giảng thống hối cho dân Thành Ninivê. Thế nhưng, cho dù được Chúa trừng phạt rồi giải cứu, vị tiên tri này lại càng bị cám dỗ trầm trọng hơn trước nữa, ở chỗ thấy Chúa cũng tỏ lòng thương dân ngoại, như dân Do Thái của mình, nhất là khi vị tiên tri này thấy họ lắng nghe Thiên Chúa qua lời cảnh báo của ông mà ăn năn thống hối nên đã được Chúa tha cho họ, không trừng phạt tội lỗi của họ nữa.
Bị cơn cám dỗ ghen tương bủa vây, vị tiên tri này đã "buồn bực quá sức và giận dữ, ông cầu nguyện cùng Chúa rằng: 'Lạy Chúa, chớ thì chẳng phải như lời con đã cầu xin khi con còn ở quê nhà con sao? Bởi đó con lo trốn sang Tharsê: vì con biết Chúa là Thiên Chúa khoan nhân, từ bi, nhẫn nhục, đầy tình thương và tha thứ tội ác. Lạy Chúa, giờ đây xin Chúa cất linh hồn con ra khỏi con, vì thà con chết còn hơn là sống'". Nhưng lòng thương xót Chúa đã tỏ ra cho dân ngoại tội lỗi thế nào thì lại càng tỏ ra cho dân của Ngài hơn nữa, điển hình là qua trường hợp của vị tiên tri Giona này. Và Thiên Chúa đã "cứu chúng con cho khỏi sự dữ" ra sao nơi trường hợp tiên tri Giona bấy giờ? Cách thức của Ngài được chính tiên tri Giona thuật lại như sau:
"Ông Giona ra khỏi thành phố và ngồi ở phía đông thành phố; ông tự dựng một cái lều, và ngồi dưới bóng nó, chờ xem biến cố sẽ xảy ra trong thành. Chúa là Thiên Chúa khiến một dây dưa mọc lên khỏi đầu ông Giona, rợp bóng trên đầu ông, che mát cho ông (vì ông mệt mỏi); nhờ dây dưa đó, ông Giona rất hân hoan vui mừng. Sáng sớm hôm sau, Thiên Chúa khiến một con sâu cắn dây dưa, và nó ra khô héo. Khi mặt trời mọc lên, Chúa khiến cơn gió nóng thổi lên và mặt trời giọi xuống đầu ông Giona, ông nóng nực và xin cho mình chết mà rằng: 'Thà con chết đi còn hơn là sống'. Chúa phán cùng ông Giona rằng: 'Ngươi có nghĩ ngươi giận vì dây dưa là đúng không?' Ông thưa: 'Ðúng, con giận cho đến chết (đi được!)' Chúa phán: 'Ngươi buồn bực vì dây dưa mà ngươi không mất công vun trồng, không làm cho nó mọc lên, đêm nay nó mọc lên và đêm sau nó khô héo. Chớ thì Ta không tha thứ cho Ninivê, một thành phố rộng lớn, trong đó có trên một trăm hai mươi ngàn người chưa biết phân biệt tay tả tay hữu mình thế nào, và nhiều súc vật sao?'"
Bài Đáp Ca hôm nay, được Giáo Hội trích từ Thánh Vịnh 85, chất chứa tâm tình tri ân cảm tạ và chúc tụng ngợi khen của những tâm hồn nào thực sự cảm nghiệm thấy lòng thương xót Chúa đối với bản thân tội lỗi, khốn nạn và bất xứng của mình:
1) Lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, xin thương con, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa.
2) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giầu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài.
3) Các dân tộc mà Chúa tạo thành, họ sẽ tới, lạy Chúa, họ sẽ thờ lạy Ngài, và họ sẽ ca tụng danh Ngài. Vì Ngài cao cả và làm nên những điều kỳ diệu; duy một mình Ngài là Thiên Chúa.
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ml 3, 13 - 4, 2a
"Ðây sẽ đến ngày bừng cháy lên như lò lửa".
Trích sách Tiên tri Malakhi.
Chúa phán: "Lời của các ngươi chống lại Ta thật thô kệch. Các ngươi đã nói: "Chúng tôi có nói gì chống lại Chúa đâu?" Các ngươi còn nói: "Kẻ phụng thờ Thiên Chúa thật luống công! Chúng ta đã tuân giữ giới răn của Chúa, và đã sầu não tiến bước trước mặt Chúa các đạo binh, nào ích lợi gì? Vậy giờ đây chúng ta kể kẻ kiêu căng là những người có phúc: quả thật, những kẻ làm điều ác thì được thịnh vượng, họ đã thử thách Thiên Chúa mà vẫn được cứu thoát".
Bấy giờ những kẻ kính sợ Chúa đàm đạo với nhau, thì Chúa lắng nghe. Trước mặt Chúa là quyển sách kỷ niệm ghi danh sách những kẻ kính sợ Chúa và tưởng nhớ đến thánh danh Người. Chúa các đạo binh phán: "Trong ngày Ta định hành động, họ sẽ là của riêng Ta. Ta sẽ tha thứ cho họ, như một người tha thứ cho đứa con biết phụng sự mình. Khi trở lại, các ngươi sẽ xem thấy sự khác biệt giữa người lành và kẻ dữ, giữa người phụng thờ Thiên Chúa và kẻ không phụng thờ Người".
"Vì đây sẽ đến ngày bừng cháy lên như lò lửa: tất cả những kẻ kiêu căng và những người làm tội ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy đến sẽ thiêu đốt họ, và không để sót lại cho họ cội rễ ngành chồi gì cả", Chúa các đạo binh phán như vậy. "Phần các ngươi là những kẻ kính sợ thánh danh Ta, các ngươi sẽ được Mặt Trời công chính soi sáng cho, mang theo sự cứu chữa dưới cánh Người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (c. Tv 39,5a).
Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.
3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.
Alleluia: Lc 4, 18-19
Alleluia, alleluia! - Chúa đã sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 5-13
"Các con hãy xin thì sẽ được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: "Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy". Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: "Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được". Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
"Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XXVII Thường Niên hôm nay tiếp tục tinh thần cầu nguyện của bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến lòng tin tưởng vào Đấng ban ân sủng cho những ai chân thành thỉnh nguyện.
Trong bài Phúc Âm hôm nay chúng ta cảm thấy như thể xin gì được nấy, xin gì cũng được, căn cứ vào lời Chúa vừa thúc giục:
"Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho", vừa hứa quyết: "Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho".
Có hai lý do để xin gì được nấy, như chiều hướng của bài Phúc Âm cho thấy: trước hết là chỉ cần nhẫn nại kêu xin bằng cách liên tục quấy rầy Chúa:
"Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần".
Lý do chính yếu để được những gì mình xin là tin tưởng vào tấm lòng yêu thương vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng là Cha trên trời bao giờ cũng yêu thương con cái và muốn ban cho con cái những gì tốt nhất và lợi nhất:
"Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".
Tất nhiên, một khi đã sâu xa và đích thực nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân lành và hoàn toàn tin tưởng vào Ngài thì con người có thể biết được những gì đẹp lòng Ngài nhất, và chỉ xin những gì đáng xin, cần xin và phải xin mà thôi, nhất là xin cho tha nhân, xin vì đức bác ái yêu thương v.v. như trường hợp được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thiết đãi anh ấy".
Đối với những ai cầu xin với Thiên Chúa mà không tin tưởng ở chỗ thiếu nhẫn nại, cứ muốn xin ơn kiểu mì ăn liền, xin là được và xin phải được, được như ý, và được ngay lập tức, thì họ chẳng khác gì như thành phần được bài Đọc 1 hôm nay tự nhủ: "Kẻ phụng thờ Thiên Chúa thật luống công! Chúng ta đã tuân giữ giới răn của Chúa, và đã sầu não tiến bước trước mặt Chúa các đạo binh, nào ích lợi gì? Vậy giờ đây chúng ta kể kẻ kiêu căng là những người có phúc: quả thật, những kẻ làm điều ác thì được thịnh vượng, họ đã thử thách Thiên Chúa mà vẫn được cứu thoát".
Trái lại, đối với những ai cầu xin Chúa với tất cả tấm lòng tin tưởng cậy trông vào Ngài, chỉ tìm biết xem điều gì Chúa muốn và đẹp lòng Chúa để làm theo và để cầu xin, thì lời Chúa qua miệng tiên tri Malachi trong Bài Đọc 1 hôm nay cho biết rằng: "Trước mặt Chúa là quyển sách kỷ niệm ghi danh sách những kẻ kính sợ Chúa và tưởng nhớ đến thánh danh Người... Các ngươi là những kẻ kính sợ thánh danh Ta, các ngươi sẽ được Mặt Trời công chính soi sáng cho, mang theo sự cứu chữa dưới cánh Người".
Thân phận của những tâm hồn thành tâm tìm kiếm Chúa và chỉ biết tin tưởng cậy trông vào Ngài được Thánh Vịnh gia ca ngợi là "Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa" (Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay), và diễn tả về họ trong Thánh Vịnh 1 ở Bài Đáp Ca hôm nay như thế này:
1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.
Thánh Điônysiô / Dennis, Giám mục và các bạn tử đạo
9/10
Điều đầu tiên chúng ta được biết về ba vị này là họ được tử đạo khoảng năm 258, theo như văn bản của Thánh Grêgôriô ở Tours thuộc thế kỷ thứ sáu. "Thánh Điônysiô, Giám mục Paris, đã chịu nhiều đau khổ vì danh Chúa Kitô và kết thúc cuộc đời dưới lưỡi gươm."
Câu nói trên đây của thánh Grêgoriô thành Tours là tất cả những gì chúng ta biết được về thánh Điônysiô. Người ta kể lại truyền thuyết rất hấp dẫn về Ngài như sau:
Dựa theo tường thuật của thánh Ghê-gô-ri-ô thành Tua, năm 200, thì vào năm 251, Đức Giáo Hoàng Fabianô đã sai bảy Giám mục đi truyền giáo tại xứ Gaules (Tên gọi nước Pháp ngày xưa). Các vị tông đồ này đã vượt qua mọi gian nguy và thiết lập nên các giáo đoàn Arles, Toulouse, Narbonne, Clermont, Limoges, Tours và Lutèce. Trước hết, các Ngài dừng lại ở Arles, rồi phân tán đi các tỉnh xứ Gaules. Lutèce là tỉnh xa nhất. Nhiệt tâm với đức tin, Điônysiô đã muốn tới đó. Ngài đến tận kinh đô Pa-ri lúc đó gọi là Lu-téc, và đi khắp nơi giảng đạo Chúa. Đi đến đâu, người ta cũng ùn ùn kéo đến nghe ngài giảng, và rất nhiều người trở lại đạo. Ngài cho cất nhiều nhà thờ để tập họ đọc kinh cầu nguyện, tham dự Thánh lễ và ban các Bí tích cho họ. Với các giáo dân ngày càng đông, thánh nhân thành lập giáo đoàn tại Pa-ri và làm Giám mục tiên khởi giáo phận nầy.
Điônysiô đã thực hiện được nhiều cuộc trở lại rất ngoạn mục. Chỉ kêu cầu đến danh Chúa, Ngài đã làm lật nhào pho tượng thần Hỏa (Mars) khổng lồ. Chứng kiến cảnh tượng này, nhiều người đã phục dưới chân Ngài xin theo đạo. Cùng với linh mục Eleutheeiô và phó tế Rusticô, Điônysiô tiến xa về hướng Bắc và dừng lại tại Lutèce. Ngài thiết lập giáo đoàn Paris và làm Giám mục tiên khởi của giáo đoàn này. Ngài luận bác sự điên dại của các ngẫu thần và rao giảng một Thiên Chúa duy nhất và Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc.
Phần đông thính giả tin theo ánh sáng Kitô giáo. Một trong số những người trở lại là lãnh chúa miền Montmorency. Tên ông là Lisiniue. Ông đã cho thánh Điônysiô trú ngụ và biến gia thất thành nơi hội họp của các Kitô hữu. Dân chúng đổ xô đến nghe rao giảng, từ bỏ tà thần và lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Thánh Điônysiô phong chức cho nhiều thừa tác viên mới. Dùng của cải dân Gaules dâng hiến, Ngài dựng nên bốn nhà nguyện: một dâng hiến Chúa Ba Ngôi (nơi này sẽ thánh thánh đường kính thánh Bênêđictô). Năm 1685, người ta đọc được ở đó những dòng chữ này: “Trong nguyện đường này, thánh Điônysiô đã khởi sự yêu cầu Chúa Ba Ngôi”, một nguyện đường dâng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô (thánh Ghenevière thích đến cầu nguyện và được mai táng tại đây), nguyện đường thứ ba dâng kính thánh STêphanô và nguyện đường thứ tư dâng kính Đức Bà (nay gọi là đền thờ Notre-dame-des-champs).
Thánh Điônysiô vui mừng vì thành quả gặt hái được. Nhưng các người
ngoại, nhất là các tư tế dân ngoại bực tức. Họ than phiền với quan chức
của vương quốc. Khi hoàng đế Maximilianô mang quân qua xứ Gaules, lệnh
bách hại Kitô giáo được ban hành nghiêm nhặt. Vị tông đồ cùng với hai vị
bị điệu ra tòa. Ngài trả lời rằng:
-
Chúng tôi là tôi tớ Chúa Kitô.
Thánh Denis đặt địa bàn truyền giáo ở một hòn đảo trong vùng Seine gần thành phố Lutetia Parisorium -- sau này trở thành thủ đô Balê. Vì lý do đó ngài được coi là vị giám mục đầu tiên của Balê và là Tông Đồ nước Pháp. Ở đây ngài bị bắt cùng với Rusticus và Eleutherius. Các học giả sau này đề cập đến Rusticus và Eleutherius như linh mục và thầy sáu của Đức Giám Mục Denis, ngoài ra chúng ta không còn biết gì thêm.
Thánh Điônysiô cùng hai bạn bị tống ngục, nơi sẽ trở thành thánh đường
thánh Điônysiô thành Chartres. Bị đánh đòn, bị hành hạ đến chảy máu,
thánh nhân không hề than trách kêu la. Thay tiếng rên xiết, Ngài nói lên
niềm tin và lời ca tụng. Bọn lý hình giương búa, múa roi trước mặt Ngài,
nhưng lão già 110 tuổi đầu bạc vẫn đầy tin tưởng và êm dịu trả lời:
-
Chớ gì tôi phải chịu tất cả mọi cực hình này cùng một lúc để tôi sớm
được hạnh phúc với Chúa Kitô.
Ngài bị ném cho thú vật xâu xé. Nhưng những thú dữ chỉ liếm chân Ngài. Bị treo lên Thập Giá, nhưng từ trên cao, Ngài giảng về cuộc khổ nạn của Chúa khiến cho nhiều người trở lại. Vừa sợ vừa giận, quan tòa ra lệnh xử trảm con người đầy dũng cảm này. Nơi hành hình là một ngọn đồi dâng kính Thủy thần (Nercure), nhưng sau này được coi là núi các thánh tử đạo (Montmartre). Xác các thánh tử đạo không được chôn cất, nhưng phải để làm mồi cho súc vật. Nhưng có huyền thoại kể rằng: thánh Điônysiô sau khi bị chặt đầu, đã chỗi dậy cầm lấy đầu mình, đi xa khoảng hai dặm về hướng đông. Một sử gia nói rằng: Ngài dừng lại ở nơi Ngài muốn chôn cất và là tu viện của Ngài.
Có một phụ nữ tên là Catulla đã chôn xác Ngài ở một ngôi làng (làng này sẽ mang tên Điônysiô) bà dựng một nguyện đường bằng gỗ. Vào thế kỷ V, tại Catulliacus (nay là thành phố Saint-Denis), thánh nữ Geneviève đã cho xây một ngôi thánh đường tu viện trên phần mộ vị thánh bổn mạng của Paris này. Và vào thế kỷ VII, vua Dagobert cho trùng tu lại; ngôi thánh đường này đã trở thành khu nghĩa trang của các vua nước Pháp.
Đến thế kỷ thứ chín, tiểu sử của Thánh Denis bị lẫn lộn với Thánh Dionysius người Areopagite, nhưng sau này các học giả xác định ngài là một vị thánh riêng biệt.
Thánh Denis thường được vẽ khi ngài tử đạo -- không có đầu (với một cành nho vươn lên từ cổ) và tay ngài cầm chính đầu của ngài với nón giám mục.
Được coi là vị thánh đặc biệt của Balê, Thánh Denis là quan thầy của nước Pháp.
Lời Nguyện của ngày nhắc chúng ta nhớ đến cuộc tử đạo của “thánh giám mục Denis và các bạn tử đạo”. Cuộc hy sinh của các ngài đã xây dựng nên Hội Thánh ở Paris cách nay mười bảy thế kỷ. Khi nhớ lại cuộc tử đạo của các ngài, chúng ta cũng nhớ đến nguồn gốc đức tin của chúng ta và tôn vinh Đức Kitô, Đấng Sáng Lập duy nhất của Hội Thánh. Chính Người đã làm cho máu các thánh tử đạo sinh hoa kết quả và làm cho các môn đệ của Người trở thành muối đất và ánh sáng thế gian (xem Tin mừng của ngày). Trong Phụng vụ Giờ Kinh Sách, thánh Ambrôsiô chú giải Thánh vịnh 118 như sau: “Mỗi ngày, bạn đều làm chứng nhân cho Chúa Kitô... Vì thế bạn hãy trung thành và can đảm trong những thử thách bên trong, để cũng chiến thắng trong những thử thách bên ngoài. Trong các cuộc thử thách bên trong, cũng có những vua chúa, những quan án có quyền lực kinh khủng. Việc Chúa Giêsu chịu ma quỉ cám dỗ là một ví dụ cho bạn về điều này.”
Thánh Đi-ô-ni-xi-ô là một vị thánh rất nổi tiếng, nhất là ở Pháp, nơi có nhiều làng mang tên ngài. Thành phố Paris chọn ngài làm thánh bổn mạng, và được ca tụng là một thành phố “có phước” trong một bài tán dương của vị cố vấn giám mục Giêrusalem ngày 3 tháng 10 năm 833: “Phước thay thành phố đang gìn giữ cái đầu thánh thiện và vinh quang và hài cốt quí báu của ngài – ngài vừa là một vị tử đạo, vừa là một nhà giảng thuyết và giám mục đáng ca ngợi –, cũng như hài cốt của các bạn ngài mà ngài đã giới thiệu với Thiên Chúa như những hiến tế tinh tuyền và toả ngát hương thơm ca tụng. Từ mảnh đất thấm đượm máu đào, vọt trào giòng nước sống để làm giải khát những ai được niềm tin thúc đẩy đến kêu cầu ngài chữa lành các bệnh nhân của họ. Thực vậy, phước thay thành phố Paris! Biết bao thành phố khác của nước Gaule rộng lớn hơn Paris, nhưng nó có thể hãnh diện vì có ngài, vị tiến sĩ đáng kính, một kho báu vinh quang hơn mọi của cải vật chất, một vị thánh quan thầy và bảo trợ. Thiên Chúa đã ban ngài cho Paris để ngài thánh hóa đoàn dân Kitô hữu và các khách hành hương, để ngài trở thành động lực thiêng liêng và nguồn mạch niềm vui sướng, không phải thứ vui sướng làm thoả mãn thể xác, tạo kiêu hãnh cho cung điện, là những thứ mau qua chóng tàn. Ngài là một thành lũy kiên cố cho Paris...một pháo đài được bảo vệ bởi các đồn bót, các tháp canh, các ổ trọng pháo, tựa một bức chắn bằng sắt. Không, cái mang lại sức mạnh cho thành phố là sự thánh thiện của ngài và các bạn tử đạo của ngài.”
Khi mừng kính một trong những vị truyền đạo vĩ đại nhất của đất Gaule, chúng ta nhớ lại nguồn gốc đức tin của chúng ta, và chúng ta tôn vinh chính Thiên Chúa, Đấng kỳ diệu nơi các thánh của Người.
Thánh Gioan Lêônarđô, linh mục
cùng ngày 9/10
Thánh Gioan Lêônarđô sinh năm 1541 tại Luca miền Tuscia. Từ nhỏ thánh nhân đã theo học ngành thuốc, nhưng rồi bỏ nghề, Ngài muốn làm linh mục. Năm 25 tuổi, Ngài mới bắt đầu học tiếng Latinh, triết học và thần học. Năm 1571, Ngài được thụ phong linh mục. Sau khi chịu chức, người rất tích cực hoạt động tông đồ, nhất là ở bệnh viện và nhà tù. Sự tận tụy và gương mẫu đời sống của người đã thu hút vài người trẻ, và họ bắt đầu tiếp tay với người. Sau này chính họ cũng trở thành linh mục.
Hồi đó tại Tuscia, tinh thần đạo đức của dân chúng bị hoang mang vì lạc thuyết mà Bêrnađinô thành Sienna gieo vãi. Là linh mục trẻ đầy nhiệt huyết, cha Gioan đã tìn cách chấn hưng bằng việc chăm lo giảng dạy và ngồi tòa. Hơn nữa, cha còn lập “hội giáo lý” qui tụ những người có thiện chí lo việc dạy giáo lý cho các trẻ em.
Phấn khởi với luồng gió cải cách mà Công Ðồng Triđentinô đề ra, Cha Gioan và các linh mục bạn đề nghị một tổ chức cho các linh mục địa phận. Năm 1574, thánh Gioan Lêônarđô thành lập một hội dòng, đặt trụ sở tại nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi. Ðề nghị này bị chống đối dữ dội, nhưng vào năm 1583, tổ chức của người được đức giám mục của Lucca công nhận với sự phê chuẩn của Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XIII vào năm 1621, tổ chức này được chính thức đặt tên là Các Tu Sĩ Chuyên Nghiệp của Mẹ Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XV đặt tu hội ngang hàng với các dòng tu kỳ cựu khác. Cha Gioan được sự trợ giúp của Cha Philíp Nêri và ChaGiuse Calasanctius, và vào năm 1595, tổ chức này được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII công nhận, và đức giáo hoàng đã giao cho Cha Gioan công việc chấn chỉnh các tu sĩ ở Vallombrosa và Monte Vergine.
Nhiệt tình của thánh Gioan Lêônarđô và của dòng do Ngài sáng lập, đã mang lại nhiều thành quả tốt đẹp. Nhưng cũng vì thành công này, mà Ngài phải chịu rất nhiều thử thách. Cuối cùng, Ngài đành phải chịu rời Tuscia để về Rôma. Tại đây, Ngài được Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XIII tiếp đón ân cần. Ngài cũng có dịp làm quen với thánh Philpphê Nêri, là một người hiền hoà tận tụy, thánh Gioan Lêônarđô được nhiều người tín nhiệm, Ngài còn giải quyết được nhiều cuộc tranh chấp khó khăn.
Tại Rôma, thánh Gioan Lêônarđô vẫn nuôi mộng truyền giáo. Cùng với Đức Hồng Y Baotixita Vivès, năm 1603, Ngài góp phần đào tạo nhiều giáo sĩ các xứ truyền giáo. Năm 1627, Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII chính thức thiết lập ngôi trường mà thánh Gioan Lêônarđô đặt nền móng thành “trường truyền giáo”, quy tụ các chủng sinh từ các nước xa xăm.
Ngày 09 tháng 10 năm 1609, Gioan Lêônarđô từ trần, khi mới 68 tuổi vì bị lây bệnh dịch khi chăm sóc các bệnh nhân ở Rôma. Người được sùng kính vì những phép lạ và lòng đạo đức nhiệt thành của người, và được coi là một trong những sáng lập viên của Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin. Người được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tuyên thánh năm 1938. Năm 1706, Giáo Hội lập hồ sơ phong thánh cho Ngài. Năm 1861, Ngài được nâng lên hàng Á thánh và năm 1938 Người được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tuyên thánh.
Trong buổi tiếp kiến chung hằng tuần tại quảng trường thánh Pherô sáng thứ Tư 7 tháng 10 năm 2009, Ðức thánh cha Beneđitô XVI ôn lại gương sáng của thánh Gioan Leonardi, quan thầy của các dược sĩ. Ðức thánh cha nói rằng, vị thánh người Ý này có thể chỉ cho chúng ta thấy rằng "phương dược của Thiên Chúa, tức Chúa Giêsu, là thước đo của mọi sự".
Cùng với đức ông Juan Vives và cha Martin de Funes, một linh mục Dòng Tên, thánh Gioan Leonardi đã giúp thành lập Trường Truyền Giáo chuyên đào tạo các linh mục.
Mặc dù hiến thân phục vụ Chúa và Giáo hội bằng cuộc sống thánh hiến, thánh nhân không bao giờ quên ngành dược. Ngài xác tín rằng "phương dược của Thiên Chúa, tức Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã chịu đóng đinh và sống lại, là thước đo mọi sự".
Thánh nhân cũng làm cố vấn cho một nhóm bạn trẻ mà năm 1574 được qui tụ thành Dòng các linh mục Ðức Trinh Nữ Canh Tân, về sau được biết đến dưới danh hiệu "Các giáo sĩ dòng Mẹ Thiên Chúa".
Ôn lại cuộc đời của thánh Gioan Leonardi, Ðức thánh cha nói: "Gương sáng của vị thánh này mời gọi tất cả mọi tín hữu Kitô, cách riêng các linh mục, hãy cố gắng không ngừng để tiến đến "thước đo cao nhứt của đời sống Kitô là sự thánh thiện". Theo Ðức thánh cha, "chỉ xuyên qua sự trung thành với Chúa Kitô mà sự canh tân Giáo hội đích thực mới có thể phát sinh".
Ðức thánh cha nhắc lại rằng vào thời thánh Gioan Leonardi, người ta đã bắt đầu thấy có sự rạn nứt giữa đức tin và lý trí. Trào lưu này tạo ra những hậu qua tiêu cực, đẩy Thiên Chúa ra bên lề cuộc sống và tạo ra ảo tưởng về sự tự trị hoàn toàn của con người, sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu.
Ðức thánh cha nói rằng đây cũng chính là cuộc khủng hoảng trong tư tưởng hiện đại mà ngài đã nhiều lần nói đến khi đề cập đến những hình thức của chủ nghĩa duy tương đối.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp TGP Sài Gòn, TGP Hà Nội, Người Tín Hữu, GP Vĩnh Long, Giáo Xứ Tân Việt, VNTaiwan
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ge 1, 13-15; 2, 1-2
"Ngày của Chúa, ngày của u tối mù mịt".
Trích sách Tiên tri Giôel.
Hỡi các tư tế, hãy thắt lưng và kêu khóc! Hỡi các thừa tác viên bàn thờ, hãy la lên! Hỡi các thừa tác viên của Thiên Chúa tôi, hãy tiến vào, hãy mặc áo vải gai mà thức suốt đêm, vì lễ chay, lễ quán bị cất khỏi đền thờ Thiên Chúa các ngươi.
Hãy công bố cuộc chay thánh. Hãy triệu tập đại hội. Hãy tụ họp các bô lão, tất cả những dân cư trong nước hiệp mặt lại trong đền thờ Thiên Chúa các ngươi và hãy kêu cầu Chúa: Ôi, ôi, ôi! ngày vô phúc, vì ngày của Chúa gần đến rồi, nó đến như cuộc tàn phá do Ðấng Quyền Năng thực hiện.
Hãy thổi kèn tại Sion! Hãy la lối trên núi thánh của Ta! Tất cả dân cư trong nước hãy run sợ, vì ngày Chúa đã gần đến rồi, ngày u tối mù mịt, ngày mây đen bão táp: một dân tộc đông đảo và hùng mạnh như rạng đông giãi trên các núi đồi, từ cổ chí kim và bao thế hệ về sau cũng chẳng xảy ra giống như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 9, 2-3. 6 và 16. 8-9
Ðáp: Chúa công minh thống trị địa cầu (c. 9a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao. - Ðáp.
2) Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời. Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cái bẫy mà họ đã che. - Ðáp.
3) Nhưng Chúa ngự trị tới muôn đời, Ngài dựng vững ngai vàng ngõ hầu cai trị. Ngài công minh thống trị địa cầu, Ngài chính trực xét xử chư dân. - Ðáp.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 15-26
"Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.
Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: "Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.
"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: "Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi". Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XXVII Thường Niên hôm nay cách bài Phúc Âm hôm qua chỉ có một câu duy nhất, đó là câu "Chúa Giêsu trừ một quỉ câm, và khi tên quỉ này bị khu trừ thì người câm nói được. Thấy thế đám đông tỏ ra bàng hoàng kinh ngạc" (Luca 11:14).
Tuy nhiên, giữa lúc hầu hết dân chúng chứng kiến thấy thế thì đều tỏ ra bàng hoàng kinh ngạc như vậy, cũng còn có một số người vẫn nhất định không tin bằng những dẫn giải lệch lạc hay tiếp tục đòi hỏi hơn thế nữa theo ý của họ rồi mới chịu tin, như bài Phúc Âm hôm nay kể tiếp: "thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: 'Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ'. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống".
Trước thái độ thách thức của một thiểu số con người cứng lòng tin này, Chúa Giêsu đã nhẫn nại cho họ thấy những dẫn giải của họ là sai lầm, hoàn toàn mâu thuẫn, khi Người lấy gậy ông đập lưng ông, lấy chính lập luận của họ để bẻ gẫy họ, khiến họ cứng họng, ở chỗ:
"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Phải, Chúa Giêsu đã chẳng những vạch ra cho những con người cứng lòng tin này thấy cái mâu thuẫn đầy thành kiến của họ, mà còn từ đó cho họ thấy dấu chỉ thời đại về Nước Thiên Chúa ở ngay sự kiện Người trừ quỉ câm bấy giờ nữa: "Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Nếu theo nguyên tắc "Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán", như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, thì những kẻ dẫn giải sai lầm về sự kiện trừ quỉ câm của Người trong bài Phúc Âm là thành phần nghịch với Người, đồng thời cũng vì thế mà trở thành những kẻ "phân tán" hay cũng gọi là thành phần thọc gậy bánh xe hay thành phần phá đám.
Đoạn cuối cùng của Bài Phúc Âm hôm nay cũng rất đáng chú ý, bởi vì nó hình như liên quan đến chính bản thân của con người được Chúa Giêsu trừ quỉ cho:
"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: 'Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi'. Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".
Ở đây chúng ta có thể áp dụng vào trường hợp của thành phần tân tòng được trừ quỉ nhờ Phép Rửa lúc họ được thanh tẩy khỏi nguyên tội, hay trường hợp của thành phần được trừ quỉ nhờ quyền năng tha tội của Thiên Chúa trong tòa giải tội, hoặc trường hợp của những tâm hồn được trừ quỉ bởi ân sủng dồi dào nhờ một cuộc tĩnh tâm tuyệt vời nào đó v.v.
Thế nhưng, trong tiến trình tiến đức và hành trình đức tin, nhất là gặp những giai đoạn khô khan nguội lạnh, các đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, (được ám chỉ nơi 7 mối tội đầu, là những gì không bao giờ bị tiêu diệt hoàn toàn trong con người dù họ đã được lãnh nhận Phép Rửa, đã được thánh hóa), bấy giờ chúng được xu hướng xấu nơi con người, một xu hướng đóng vai "thần ô uế" nơi con người, chộp ngay lấy thời cơ này, sau một thời gian thiếp ngủ trước tác dụng của ân sủng thần linh nơi tâm hồn tân tòng hay mới hòa giải hoặc mới tĩnh tâm sốt sắng về, tái hoành hành và tung hoành còn dữ dội hơn trước nữa, vì có thêm vây cánh của nó là 7 mối tội đầu, những mối tội đóng vai như "7 tà thần khác", khiến tình trạng tâm hồn vừa sốt sắng hay trở lại ấy trở nên khốn đốn hơn bao giờ hết, nếu không biết "tỉnh thức và cầu nguyện" (Mathêu 26:41).
Tuy nhiên, theo sự quan phòng thần linh vô cùng huyền diệu của Vị Thiên Chúa toàn thiện và toàn ái thì cuộc tấn công của "thần ô uế" cùng với "7 tà thần khác" đó nơi tâm hồn Kitô hữu chỉ mặc hình thức của một cuộc thử thách đức tin của họ, như tiên tri Joel ở Bài Đọc 1 hôm nay diễn tả như là "ngày Chúa đã gần đến rồi, ngày u tối mù mịt, ngày mây đen bão táp", nhờ đó họ chứng tỏ họ sống công chính có thật hay chăng và tới đâu.
Và nếu chỉ vì họ bất trung cách nào mà họ phải chịu hậu quả "khốn nạn hơn trước" như thế, hoặc vì họ đã chiều theo "thần ô uế" là khuynh hướng xấu của họ và "7 tà thần khác" là 7 mối tội đầu trong họ, mà họ đã sống buông tuồng sau một thời gian sốt sắng đạo đức tốt lành, thì việc họ cần phải làm để chống lại xu hướng xấu cùng với 7 mối tội đầu ấy, cũng đã được tiên tri Joel kêu gọi thực hiện, đó là: "hãy thắt lưng và kêu khóc... hãy mặc áo vải gai mà thức suốt đêm... Hãy công bố cuộc chay thánh".
Việc họ trung kiên sống đức tin trước sức cám dỗ của xu hướng xấu và mầm mống tội lỗi nơi họ, hay trở lại với đức tin sau khi sa ngã sống buông tuồng cách nào, cũng chính là việc họ tuyên xưng: "Chúa công minh thống trị địa cầu", như câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay, một bài Đáp Ca chất chứa tâm tình tri ân cảm tạ của những tâm hồn nhận biết Ngài là Vị Thiên Chúa tối cao làm chủ tất cả mọi sự theo dự án thần linh và công cuộc cứu độ của Ngài:
1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao.
2) Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời. Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cái bẫy mà họ đã che.
3) Nhưng Chúa ngự trị tới muôn đời, Ngài dựng vững ngai vàng ngõ hầu cai trị. Ngài công minh thống trị địa cầu, Ngài chính trực xét xử chư dân.
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ge 3, 12-21
"Các ngươi hãy tra lưỡi hái, vì mùa gặt đã tới".
Trích sách Tiên tri Giôel.
Ðây Chúa phán: "Các dân hãy chỗi dậy và tiến đến đồng Giosaphát: vì Ta sẽ ngự nơi đó để phán xét mọi dân tộc chung quanh. Các ngươi hãy tra lưỡi hái, vì mùa gặt đã tới. Này, các ngươi hãy xuống đi, vì bàn ép đã đầy, các chum đã tràn, vì tội ác của chúng đã gia tăng.
"Có vô số dân tộc trong cánh đồng giết chóc: vì ngày Chúa đến trong cánh đồng giết chóc đã gần. Mặt trời mặt trăng đã ra tối tăm, các vì sao đã mất ánh sáng. Từ Sion, Chúa sẽ hét to, và từ Giêrusalem, tiếng Người sẽ vọng ra: trời đất sẽ rung chuyển và Chúa sẽ là niềm cậy trông của dân Người, là sức mạnh của con cái Israel. Các ngươi sẽ biết rằng Ta là Thiên Chúa các ngươi, đang ngự trên Sion, núi thánh của Ta: Giêrusalem sẽ là thành thánh và các ngoại kiều không còn lai vãng qua đó nữa.
"Trong ngày ấy, sẽ xảy ra là các núi sẽ nhỏ mật ngọt, các đồi sẽ chảy ra sữa; nước sẽ chảy qua các sông ở Giuđa, mạch nước từ đền thờ Chúa sẽ chảy ra tưới suối gai góc. Ai-cập sẽ trở nên hoang vu; Iđumê sẽ trở thành rừng bị tiêu huỷ: lý do là tại chúng ngược đãi con cái Giuđa, và đổ máu vô tội trong lãnh thổ của chúng. Còn đất Giuđa sẽ có người cư ngụ đời đời, và Giêrusalem cũng sẽ có người cư ngụ từ đời nọ tới đời kia. Ta sẽ rửa sạch máu chúng mà trước Ta chưa rửa sạch, và Chúa sẽ ngự tại Sion".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 96, 1-2. 5-6. 11-12
Ðáp: Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa! (c. 12a).
Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Mây khói và sương mù bao toả chung quanh, công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.
2) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.
3) Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người! - Ðáp.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 27-28
"Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: "Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!" Nhưng Người phán rằng: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXVII hôm nay phải nói là bài Phúc Âm ngắn nhất trong các bài Phúc Âm cho phần phụng vụ lời Chúa. Vì bài Phúc Âm này chỉ có 2 câu vắn gọn mà thôi: "Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: 'Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!' Nhưng Người phán rằng: 'Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn'".
Qua 2 câu ngắn ngủi của bài Phúc Âm này, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta biết về sự kiện có một người đàn bà nghe thấy Chúa Giêsu giảng dạy thì bị cảm kích nên đã lên tiếng ngợi khen mẹ của nhà đại giảng thuyết có phúc vì đã được cưu mang ngài và cho ngài bú, thế nhưng chính vị đại giảng thuyết gia này đã đính chính về cái phúc thật mẹ của Người có được không như người đàn bà ấy tưởng nghĩ.
Thật vậy, Chúa Giêsu có ý đề cao mẹ của Người về hạnh phúc thật nơi Mẹ không phải chỉ ở tầm mức thể lý là "cưu mang" Người và cho Người "bú" mớm như một người mẹ bình thường, mà trên hết và trước hết ở chỗ Mẹ đã "nghe và giữ lời Thiên Chúa", bằng không Mẹ đã vĩnh viễn không xứng đáng làm Mẹ của Người và có khả năng làm Mẹ của Người, Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng đến không phải để làm theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai Người (xem Gioan 6:38).
Thật vậy, Mẹ Maria đầy ân phúc đã chẳng những được Thiên Chúa ở cùng, được làm Mẹ Con Đấng Tối Cao, làm Mẹ Con Thiên Chúa (xem Luca 1:28,32,34), mà còn đầy ân phúc vì đã tin (xem Luca 1:45), đã xin vâng (xem Luca 1:38), "đã theo Con Chiên đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới" (Khải Huyền 14:4), cho tới khi đứng bên Thánh Giá với con mình (xem Gioan 19:25).
Bản thân Mẹ Maria đầy ơn phúc chỉ biết "nghe và giữ lời Thiên Chúa", luôn đáp ứng từng tác động thần linh của Chúa nơi Mẹ, trung kiên cho đến khi Mẹ đứng bên thập giá của Chúa Kitô Con Mình là chính "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), có thể được ám chỉ nơi một số hình ảnh liên quan đến và ám chỉ về ân sủng thần linh và sự sống thần linh (mật, sữa, nước) được tiên tri Joel tiên báo trong Bài Đọc 1 hôm nay, đó là: "Các núi sẽ nhỏ mật ngọt, các đồi sẽ chảy ra sữa; nước sẽ chảy qua các sông ở Giuđa, mạch nước từ đền thờ Chúa sẽ chảy ra tưới suối gai góc".
Những tâm hồn chỉ biết "nghe và giữ Lời Thiên Chúa" như Mẹ Maria, được Thánh Vịnh 96 ở Bài Đáp Ca hôm nay gọi là "Người hiền đức", thành phần luôn cảm thấy "mừng vui trong Chúa" là Đấng Tối Cao, là Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình, Đấng chí tôn chí ái trên hết mọi sự của họ, Đấng vô cùng đáng tôn vinh chúc tụng, như tâm thức được chất chứa trong Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:
1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Mây khói và sương mù bao toả chung quanh, công minh chính trực là nền kê ngai báu.
2) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người.
3) Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người!
Ngày 11/10
Đức Thánh Cha Gioan XXIII là người đã triệu tập Công Đồng Vatican II, mở cánh cửa Giáo Hội ra với thế giới bên ngoài, và đem một sinh khí mới vào đời sống của Giáo Hội.
Triệu tập Công đồng là một công việc vĩ đại, phát xuất từ nhiều lo lắng cho tương lai Giáo Hội với quá nhiều vấn đề khó khăn, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lại vẫn thường cầu nguyện rất đơn sơ nhẹ nhàng trước giờ đi ngủ: “Lạy Chúa, Giáo Hội là của Chúa, con chỉ là tôi tớ. Giáo Hội mạnh yếu thành đạt là trách nhiệm của Chúa. Con đã làm bổn phận của con, giờ này đến giờ con đi ngủ, xin Chúa ban phúc lành cho con.” Nói thế rồi, Ngài đi vào giấc ngủ ngon. Như vậy, dù thường xuyên suy tư trăn trở cho Giáo Hội, ngài lại rất thực tế sống tinh thần phó thác - giống như chỉ chuyên chăm hoàn tất bổn phận hằng ngày của mình với "Mười Điều Tâm Niệm" mà ngài đã đề ra cho mình.
Đức Gioan XXIII cũng thường được gọi là "Giáo hoàng Gioan nhân hậu". Ngài coi mình là "con cái của Thánh Phanxicô" khi gia nhập Dòng Ba Phanxicô lúc còn là một chủng sinh. Vị Giáo hoàng khiêm tốn này thường bắt chước lời của ông Giuse ở Ai Cập (Cựu Ước) chào hỏi các thành viên của Dòng Ba Phanxicô: "Tôi là Giuse, người anh em của quý vị."
Vị Giáo hoàng thứ 261 này có tên khai sinh là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh tại làng Sotto il Monte, thuộc tỉnh Bergamo, vào ngày 25.11.1881, con trai đầu của ông Giovanni Battista Roncalli và bà Marianna Mazzola. Ngay buổi chiều hôm đó, trẻ sơ sinh Angelo được rửa tội. Người đỡ đầu là ông Zaverio Roncalli, một trong những người bác của ông bố Battista, rất đạo đức, ở độc thân, tự nhận lấy bổn phận dạy giáo lý cho nhiều đứa cháu. Sau này, Đức Gioan XXIII đã cảm động nhớ lại nhiều kỷ niệm và biết ơn về những lo lắng chăm sóc của ông.
Ngay từ thời thơ ấu, đã có một khuynh hướng nghiêm chỉnh về đời sống Giáo hội, nên sau khi học học bậc tiểu học, cậu chuẩn bị vào chủng viện giáo phận nhờ sự trợ giúp học thêm tiếng Ý và tiếng Latinh của một số linh mục trong khi theo học tại một trường có uy tín của Celana. Ngày 07-11-1892, cậu gia nhập chủng viện Bergamo. Sau khi hoàn tất tốt đẹp năm thứ hai của thần học vào tháng Bảy năm 1900, thầy được gửi về Roma vào tháng Giêng năm sau để vào chủng viện Apollinare, nơi có một số học bổng cho hàng giáo sĩ thuộc giáo phận Bergamo.
Ngày 13 tháng 7 năm 1904, mới hai mươi tuổi rưỡi, thầy đậu tiến sĩ thần học. Ngày 10 tháng 8 năm 1904, thầy được thụ phong linh mục trong nhà thờ Đức Maria di Monte Santo; ngài cử hành Thánh Lễ đầu tiên vào ngày hôm sau trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô. Dịp này, ngài quyết tâm tận hiến hoàn toàn cho Chúa Kitô và hết lòng trung thành với Giáo hội.
Sau một thời gian ngắn về nghỉ tại quê nhà, vào tháng Mười, ngài bắt đầu theo học giáo luật tại Rôma, và rồi phải nghỉ học vào tháng Hai năm 1905, khi ngài được chọn làm thư ký của Giám mục mới của giáo phận Bergamo, Đức cha Giacomo Radini Tedeschi.
Ngoài nhiệm vụ thư ký, ngài còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác. Từ năm 1906, ngài đảm nhiệm giảng dạy nhiều môn học trong chủng viện: Lịch sử giáo hội, Giáo phụ và Hộ giáo. Từ năm 1910, ngài cũng phụ trách môn Thần học cơ bản. Ngài nghiên cứu lịch sử địa phương, xuất bản tác phẩm viết về những chuyến viếng thăm mục vụ của thánh Carlo Bergamo (1575), một nỗ lực trong nhiều thập kỷ dài và tiếp tục cho đến những ngày trước cuộc bầu cử Giáo hoàng. Ngài cũng là chủ nhiệm tờ báo định kỳ của giáo phận “La Vita Diocesana" và kể từ năm 1910, ngài làm trợ úy cho Liên hiệp những Phụ nữ Công giáo.
Khi Thế chiến thứ I bùng nổ, vào năm 1915 ngài làm tuyên úy hơn ba năm với cấp bậc trung sĩ, chăm sóc thương binh trong các bệnh viện ở Bergamo. Vào tháng Bảy năm 1918, ngài dấn thân phục vụ cho những người lính bị bệnh lao.
Tiếp theo, ngài được giao phụ trách công việc của Bộ Truyền giáo tại Ý, đồng thời cũng làm linh hướng trong chủng viện. Ngài đã thực hiện một chuyến đi lâu dài ra ngoại quốc để thi hành kế hoạch của Tòa Thánh nhằm mang về Roma những tổ chức khác nhau để hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo và viếng thăm một số giáo phận Ý để quyên góp nguồn tài trợ và giải thích về công việc mà ngài đang phụ trách.
Vào năm 1925, với sự bổ nhiệm làm Visitatore Apostolico tại Bulgaria, ngài đã bắt đầu giai đoạn phục vụ cho ngành ngoại giao của Tòa Thánh cho đến năm 1952. Sau lễ phong chức giám mục diễn ra tại Roma vào ngày 19 tháng 3 năm 1925, ngài khởi hành đi Bulgaria để giúp đỡ cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé và đang gặp nhiều khó khăn tại đó. Trong hàng chục năm, Đức cha Roncalli đã đặt nền móng cho việc thiết lập một Tông tòa mà ngài đã được bổ nhiệm làm vị đại diện đầu tiên vào năm 1931. Ngài phục hồi được mối quan hệ thân thiện với Chính phủ và Hoàng gia Bulgaria, mặc dù có đôi chút trở ngại vì đám cưới theo nghi lễ chính thống của vua Boris với công chúa Giovanna của hoàng gia Savoia, và đó cũng là dịp để khởi động những mối quan hệ đại kết đầu tiên với Giáo hội Chính thống Bulgaria.
Vào ngày 27-11-1934, ngài được bổ nhiệm làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Các nước này chưa có quan hệ ngoại giao với Vatican. Với tính nhạy bén và năng động của mình, ngài đã tổ chức được một số lần gặp gỡ chính thức với Đức Thượng phụ Constantinople sau nhiều thế kỷ tách biệt với Giáo hội Công giáo.
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã thận trọng giữ được tính trung lập, giúp cho cả hàng ngàn người Do Thái khỏi thành nạn nhân diệt chủng, và giúp cho người Hy Lạp thoát khỏi nạn đói.
Ngài được bổ nhiệm về làm Khâm sứ tại Paris vào ngày 30 tháng 12 năm 1944. Một hoàn cảnh khá phức tạp đang chờ đợi. Chính phủ lâm thời buộc tội Giáo hội hợp tác với chính phủ Vichy và đòi Giáo hội phải thoái vị ba mươi giám mục. Nhờ sự bình tĩnh và linh động của vị tân sứ thần, chỉ có ba vị bị bãi nhiệm. Phẩm chất con người của ngài đã mang lại sự kính nể trong bối cảnh ngoại giao và chính trị tại Paris.
Sau khi lãnh tước vị hồng y, ngài được chuyển về Venice vào ngày 5 tháng 3 năm 1953 và hoàn thành nhiệm vụ giám mục tại đây cách tốt đẹp với những chuyến thăm viếng mục vụ, cử hành Công nghị giáo phận, thực hiện kế hoạch làm cho các tín hữu gần gũi với Kinh Thánh...
Ngày 28 tháng 10 năm1958, ngài được bầu chọn làm giáo hoàng. Một vị Giáo hoàng nhận chức khi đã bảy mươi bảy tuổi khiến nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một triều đại chuyển tiếp. Nhưng ngay từ đầu, Đức Gioan XXIII đã tỏ ra là một giáo hoàng của thời đại: khôi phục lại các hoạt động đúng đắn trong các cơ quan của giáo triều, viếng thăm các giáo xứ, bệnh viện và nhà tù của giáo phận Rôma, triệu tập Công nghị giáo phận...
Sự đóng góp lớn nhất của Đức Gioan XXIII là việc triệu tập Công đồng Vatican II, được loan báo trong Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô vào ngày 25 tháng 01 năm 1959. Các mục tiêu ban đầu của Công đồng được nêu rõ trong bài phát biểu vào lễ khai mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962: không phải là để đưa ra những chân lý mới, nhưng để xác định lại các học thuyết truyền thống phù hợp hơn với sự nhạy cảm đương đại. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII mời gọi Giáo hội, thay vì lên án và công kích, hãy hướng về lòng thương xót và ủng hộ việc đối thoại với thế giới, trong một nhận thức mới về sứ mệnh của Giáo Hội là đón nhận tất cả mọi người. Trong tinh thần cởi mở phổ quát ấy, các giáo hội Kitô khác cũng được mời tham dự vào Công đồng để khởi đầu một tiến trình xích lại gần nhau hơn.
Vào mùa xuân năm 1963, Đức Gioan XXIII được trao giải thưởng Balzan về hòa bình, xác nhận những nỗ lực của ngài đối với hòa bình qua việc ban hành Thông điệp Mater et Magistra (1961) và Pacem in Terris (1963), cũng như vai trò của ngài trong cuộc khủng hoảng tại Cuba vào mùa thu năm 1962.
Ngài qua đời vào tối ngày 3 tháng 6 năm 1963 và được phong thánh vào ngày 27-4-2014 lúc 10g tại Vatican.
Gioan XXIII: Giáo Hội cởi mở đại đồng đại kết
Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tiếp tục truyền thống của các giáo hoàng tiền nhiệm, muốn giáo triều chứng tỏ sức mạnh và quyền lực của mình trên cả thế giới. Các Kitô Hữu Tin Lành và các người khác thường cho rằng đức giáo hoàng, và người Công Giáo nói chung, hay đắc thắng, kiêu ngạo đề cao sự vinh hiển và quyền lực thần thánh của Giáo Hội Công Giáo mà không nhận ra sự yếu đuối và khuyết điểm của con người. Vì lý do này, Giáo Hội Công Giáo không được sự tin tưởng của những người bên ngoài giáo hội khi họ thấy các giáo hoàng và Giáo Hội Công Giáo cũng chỉ là một tổ chức con người và cũng phạm tội.
Vị giáo hoàng thay đổi toàn thể hình ảnh của Giáo Hội Công Giáo trong cái nhìn của thế giới là Ðức Gioan XXIII. Trong khi các giáo hoàng trước đây mang hình ảnh của một đấng vị vọng và ngay cả xa cách với người dân, Ðức Gioan XXIII là một người vui tính, thật tự nhiên, yêu quý đời sống cũng như dân chúng và ngài không ngần ngại bộc lộ điều ấy. Ðó là một ông cụ bảy mươi sáu tuổi thường mời bạn hữu đến dùng cơm, hay lang thang trên đường phố Rôma để chuyện trò với dân chúng, luôn đến thăm các bệnh viện và nhà tù, và thường kể chuyện vui làm mọi người đều thích thú. Người Công Giáo và Kitô Hữu nói chung đều hân hoan khi thấy đức giáo hoàng cũng là một con người bình thường, và ngài đã chinh phục được nhiều tâm hồn cũng như sự trung kiên của nhiều người.
Tuy nhiên, thật sai lầm khi nghĩ rằng Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII là một người hiểu biết tầm thường. Ðiều nổi bật trong triều đại ngắn ngủi của ngài là sự tin cậy vào Thiên Chúa và cái nhìn sáng suốt của ngài. Thay vì công khai chống đối cộng sản, hoặc bất cứ chính thể nào, Ðức Gioan XXIII tìm cách hòa giải và chuyển trao thông điệp của ngài đến với mọi người: Pacem in Terris (Hoà Bình Trên Thế Giới) và Mater et Magister về trật tự xã hội. Ngài kêu gọi mọi người hãy cùng nhau làm việc để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, phù hợp với các nguyên tắc về công bằng và ích lợi chung mà đã được mọi người công nhận.
Ðức Gioan XXIII còn là người mở đường cho phong trào đại kết, tái hợp nhất mọi Kitô Hữu. Vào đầu thế kỷ mười chín, sự lưu tâm mạnh mẽ đến vấn đề đại kết được phát sinh trong công cuộc truyền giáo của Tin Lành. Họ thấy thật dại dột và hổ thẹn khi các giáo phái Kitô Giáo khác nhau lại tranh dành các lãnh thổ truyền giáo. Các tổ chức nổi tiếng như "Faith and Order" (1925) và "Life and Work" (1927) cố gắng đem người Tin Lành lại với nhau trên phương diện học thuyết và phục vụ. Vào năm 1948, các tổ chức này kết hợp thành tổ chức duy nhất "World Council of Churches". Giáo Hội Công Giáo vẫn đứng tách biệt không dính dáng gì đến sinh hoạt đại kết này, vì cho rằng các người Tin Lành phải giải quyết các mâu thuẫn của họ trước khi thảo luận về sự tương giao với Giáo Hội Công Giáo. Các giáo hoàng tiền nhiệm cho rằng Ðức Giêsu chỉ thiết lập một đức tin và một giáo hội thực, là Giáo Hội Công Giáo. Trong khi không từ chối tính cách độc đáo của Giáo Hội Công Giáo, Ðức Gioan XXIII nhận thức rằng người Công Giáo phải đến với các Kitô Hữu khác và cộng tác với họ để tìm kiếm sự hiệp nhất mà Ðức Giêsu đã mong muốn cho dân của Ngài. Ðức Gioan XXIII đặc biệt yêu quý Giáo Hội Chính Thống Giáo, vì ngài từng là đại diện đức giáo hoàng ở vùng Cận Ðông. Khi đến lúc triệu tập công đồng, Ðức Gioan XXIII đã mời các quan sát viên từ mọi truyền thống Kitô Giáo, và đón nhận các ý kiến cũng như suy tư của họ về diễn tiến của công đồng.
Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII: "Mười Điều Tâm Niệm" Sống Ngày Hôm Nay
1. Ngày hôm nay, tôi sẽ sống tích cực trọn vẹn, chứ không tìm cách giải
quyết mọi vấn đề của đời mình.
2. Ngày hôm nay, tôi sẽ chú ý đặc biệt đến dáng vẻ của mình: ăn mặc đơn sơ,
không lớn tiếng, lịch sự trong cách ứng xử; tôi sẽ không phê phán ai; tôi
cũng sẽ không đòi ai phải ứng xử hoặc kỷ luật ai, trừ ra chính con người của
mình.
3. Ngày hôm nay, tôi vui sướng tin chắc rằng tôi được tạo dựng để sống hạnh
phúc, không chỉ cho đời sau mà ngay cả từ đời này.
4. Ngày hôm nay, tôi sẽ sống theo hoàn cảnh của mình, mà không đòi hỏi hoàn
cảnh phải phù hợp với những ước muốn của tôi.
5. Ngày hôm nay, tôi sẽ dành 10 phút để đọc điều gì thật hữu ích, và luôn
nhớ rằng lương thực cần cho cuộc sống như thế nào thì đọc điều hữu ích cũng
cần thiết để nuôi dưỡng cho linh hồn mình như vậy.
6. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm một điều tốt mà không kể cho ai nghe.
7. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một điều tôi không thích: và nếu tôi bị
tổn thương, thì tôi cũng không cho ai biết điều này.
8. Ngày hôm nay, tôi sẽ hoạch định một chương trình cho riêng tôi: tôi có
thể không theo sát được từng chữ, nhưng tôi sẽ có một chương trình như thế.
Và tôi sẽ đề phòng hai điều tai hại: cẩu thả và lừng khừng, không dám quyết
tâm.
9. Ngày hôm nay, tôi tin chắc rằng, dù thế nào đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn
yêu thưong tôi như chỉ có mình tôi trên thế gian này.
10. Ngày hôm nay, tôi sẽ không sợ hãi gì. Tôi sẽ không ngần ngại thưởng
ngoạn vẻ đẹp thiên nhiên và tin tưởng vào lòng nhân ái của con người và cuộc
đời.
Thực thế, trong vòng 12 tiếng đồng hồ, tôi chắc chắn có thể làm tốt điều
mà tôi nghĩ rằng sẽ thật kinh hoàng nếu phải làm nó suốt cả đời.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp từ tài liệu của TGP Sài Gòn, Đaminh VN và Muốn Nên Thánh