SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

"Thày là Sự Sống"

 

Mục Tử Thần Linh

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần IV Phục Sinh

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

   Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh

(cho các Chúa Nhật)

 

Nếu "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25) là chủ đề chính yếu của toàn Mùa Phục Sinh, trong đó, chủ đề "Thày là sự sống lại" cho nguyên Tuần Bát Nhật Phục Sinh là thời điểm 8 ngày có các bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc hoàn toàn liên quan đến các lần Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra mà thôi, thì chủ đề "Thày là sự sống" là chủ đề cho những ngày còn lại, bao gồm cả Chúa Nhật lẫn ngày trong tuần.

 

Vậy chủ đề "Thày là sự sống" ở Phụng Vụ Lời Chúa cho cả Chúa Nhật lẫn các ngày trong tuần lễ Thứ IV của Mùa Phục Sinh như thế nào, nếu không phải, so sánh với nội dung của phụng vụ Lời Chúa cho các tuần trước và các tuần còn lại, thì nội dung của Phụng Vụ Lời Chúa cho Tuần IV Phục Sinh này cho thấy chủ đề "Thày là sự sống" liên quan đến chiều kích Mục Tử Thần Linh.

 



Chúa Nhật IV Phục Sinh: S
ự Sống - Mục Tử Thần Linh

Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Phục Sinh bao giờ cũng được Giáo Hội chọn làm Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, và vì thế càng làm sáng tỏ chủ đề "Thày là sự sống" trong Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh. Trong Chúa Nhật này, cả 3 chu kỳ phụng vụ A-B-C đều được trích từ Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn 10, về Vị Mục Tử Nhân Lành thật lòng yêu thương chiên của mình và muốn cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn (Năm A), đến độ dám hiến mạng sống của mình cho chiên (Năm B), để chiên có thể được sự sống đời đời trường sinh bất tử (Năm C).

Năm A 
Sự Sống xuất phát từ vị Mục Tử Thần Linh thật lòng yêu thương chiên của mình và muốn cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn. 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cv 2, 14a. 36-41

"Thiên Chúa đã tôn Người làm Chúa và làm Ðấng Kitô".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: "Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Ðấng Kitô".

Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: "Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?" Phêrô nói với họ: "Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến". Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ mà rằng: "Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này". Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng, đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Pr 2, 20b-25

"Anh em đã trở về cùng Ðấng canh giữ linh hồn anh em".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, khi làm việc lành, nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ, đó mới là ân phúc trước mặt Thiên Chúa. Anh em được gọi làm việc đó, vì Ðức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Ðấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Ðấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành. Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Ðấng canh giữ linh hồn anh em.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 10, 14

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 10, 1-10

"Ta là cửa chuồng chiên".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ". Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".

Ðó là lời Chúa. 




Suy Niệm Lời Chúa

Chủ đề "Thày là sự sống" của toàn Mùa Phục Sinh, ngoại trừ Tuần Bát Nhật, đã được tiếp nối từ tuần 2, với điều kiện cần "phải được tái sinh bởi trời" (các bài Phúc Âm thứ 2-5 Tuần II), nhờ đó mới có thể thưởng thức "Bánh Sự Sống" (các bài Phúc Âm từ Thứ Sáu tuần II tới hết Thứ Bảy tuần III), và "Bánh Sự Sống" đó chính là tấm bánh được bẻ ra, cũng chính là Chúa Kitô khổ nạn và tử giá, một vị chủ chiên "đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào" (Bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Năm A hôm nay).

Một chi tiết trong lời Chúa Giêsu nói ở bài Phúc Âm hôm nay, có liên hệ với đề tài "Thày là sự sống" nơi "Bánh Sự Sống" tuần trước, với "sự sống" được Người là vị chủ chiên ban cho chiên ở Chúa Nhật tuần này, đó là: "Tôi là cửa chuồng chiên", một ngõ lối duy nhất và bất khả thiếu cho những "ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân", nghĩa là tìm thấy "sự sống", bằng không, sẽ chẳng bao gặp được "sự sống".

Tuần trước Chúa Kitô nói về Bánh Sự Sống, và "bánh" cũng mang ý nghĩa phương tiện, cũng giống như "cửa" mang tính cách phương tiện, để nhờ phương tiện này con người mới có được "sự sống". Và đó là lý do Chúa Kitô, trong bữa tiệc ly, mới khẳng định về mình theo thứ tự như sau: "Thày là đường, là sự thật và là sự sống" (Gioan 14:6). "Đường" trước "sự sống" sau, vì "đường" (hay "bánh" hoặc "cửa" đều là phương tiện) dẫn đến nguồn mạch "sự sống" hay thông ban "sự sống".

"Thày là cửa chuồng chiên" đây, đối với các vị được Chúa Kitô chọn làm mục tử thay Người để chăn dắt chiên của Người, lại là chính gương sống mục tử của Người. Bởi vậy, mà Người đã khẳng định ngay trong bài Phúc Âm hôm nay rằng: "ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp". Nghĩa là, bất cứ vị chủ chiên nào được Người chọn để thay Người tiếp tục chăn dắt đoàn chiên của Người thì cũng phải như Người, ở chỗ biết chiên của mình: "gọi đích danh từng con chiên của mình", nhờ đó cũng biết cả bản chất và nhu cầu của chúng, hầu đáp ứng một cách hợp tình hợp lý những gì chiên cần hay thiếu: "Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau".

"Thày là cửa chuồng chiên" đây, đối với chung Kitô hữu là môn đệ của Chúa Kitô, cũng ám chỉ cả Phép Rửa nhân danh Chúa Kitô (Tông Vụ 2:38) nữa. Vì chỉ khi nào thành phần dự tòng được lãnh nhận Phép Rửa nhân danh Chúa Kitô rồi, nhờ đó, đã trở thành Kitô hữu đích thực rồi, thì họ từ đấy mới "ra vào và tìm thấy của nuôi thân", nghĩa là mới có quyền tham hưởng "sự sống" của Chúa Kitô và từ Chúa Kitô thông ban cho, như thân nho thông nhựa sống thần linh sang cho họ, qua các Bí Tích Thánh, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Khi còn là dự tòng, những Kitô hữu tân tòng chỉ được phép tham dự vào phần phụng vụ Lời Chúa thôi, chứ không được phép tham dự vào phần phụng vụ Thánh Thể là như thế.


Đó là lý do, ở Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phêrô mới nhắc nhở đặc ân được làm chiên của Chúa Kitô, nhờ đó, được Người chăm sóc đặc biệt: "Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Ðấng canh giữ linh hồn anh em". Thật vậy, Kitô hữu chúng ta, nhờ ơn Chúa, "đã trở về cùng vị mục tử", Đấng trong Bài Phúc Âm hôm nay cũng đã tự nhận mình đồng thời cũng là "cửa chuồng chiên", và như chúng ta đã suy diễn trên đây, "cửa chuồng chiên" ám chỉ gương sống của Người nữa. Do đó, Thánh Phêrô đã khuyên Kitô hữu là chiên của Người trong cùng Bài Đọc 2 như sau:

"Ðức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Ðấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Ðấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành".

Ở trong Bài Đọc 1, trích sách Tông Vụ, Thánh Phêrô còn nói với 3 ngàn dự tòng ở bài giảng tiên khởi của Người sau biến cố Thánh Thần Hiện Xuống, về điều kiện "qua cửa chuồng chiên mà vào", đó là "chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội" như sau: "Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến".

Và nhờ qua cửa Chúa Kitô nơi Phép Rửa mà vào như thế, chẳng những họ là người Do Thái, là dân Chúa chọn để tỏ mình ra trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, mà còn cả dân ngoại nữa, thành phần được vị trưởng tông đồ đoàn Phêrô ám chỉ trong Bài Đọc 1 hôm nay: "mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến", nhờ đó, cuối cùng, đúng như vị chủ chiên "đến cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn" mong muốn và đã tiên báo: "chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên", như trong Bài Phúc Âm cùng tuần lễ IV Phục Sinh này mà Năm B.

Chính vì được thương yêu kêu gọi một cách nhưng không hoan hưởng một "sự sống và sự sống viên mãn hơn" từ Vị Chủ Chiên Nhân Lành là Chúa Giêsu Kitô Vượt Qua này, mà Kitô hữu chúng ta không thể không vang lên tâm tình của bài Thánh Vịnh 22 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.

 

 

 

 

Năm B 
Sự Sống xuất phát từ vị Mục Tử Thần Linh đã yêu thương chiên của mình đến độ dám hiến mạng sống của mình cho chiên

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Cv 4, 8-12

"Ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, Phêrô được đầy Thánh Thần, đã nói: "Thưa chư vị Thủ lãnh toàn dân và Kỳ lão, xin hãy nghe, nhân vì hôm nay chúng tôi bị đem ra xét hỏi về việc thiện đã làm cho một người tàn tật, về cách thức mà con người đó đã được chữa khỏi, xin chư vị và toàn dân Israel biết cho rằng: Chính nhờ danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng ta, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây. Chính người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên Ðá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác. Bởi chưng, không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được ban tặng cho loài người, để phải nhờ Danh đó mà chúng ta được cứu độ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 117, 1 và 8-9. 21-23. 26 và 28cd và 29

Ðáp: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường (c. 22).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa ở loài người. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa những bậc quân vương. - Ðáp.

2) Con cảm tạ Chúa vì Chúa đã nghe con, và đã trở nên Ðấng cứu độ con. Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. - Ðáp.

3) Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến, từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Ngài muôn thuở. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Ga 3, 1-2

"Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, các con hãy coi: tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và sự thật là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con cái Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 10, 14

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 10, 11-18

"Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Ðó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

 


Suy Niệm Lời Chúa


Nếu Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Phục Sinh Năm A đọc phần Phúc Âm cùng đoạn 10 của Thánh Gioan nhấn mạnh đến vai trò Chúa Kitô "là cửa chuồng chiên", thì bài Phúc Âm cho cùng Chúa Nhật IV Năm B này liên quan đến Chúa Kitô chính là "Chủ Chiên nhân lành", một vị chủ chiên nhân lành, như Chúa Kitô minh định, thì phải là vị chủ chiên dám "thí mạng sống vì chiên".

Ở Bài Phúc Âm hôm nay, cho Chúa Nhật IV của cùng Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn 10, như Năm A và Năm C, về cùng một vị chủ chiên, nhưng là cho Năm B, chúng ta vẫn thấy Chúa Kitô, như bài Phúc Âm Năm A, so sánh mình là vị "mục tử nhân lành" với thành phần không phải là chủ chiên đích thực: "Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên".

Nếu trong bài Phúc Âm Năm A, Chúa Kitô là vị chủ chiên đích thực khác với, hay không phải là, thành phần
"kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ", tức thành phần "không qua cửa mà vào", thì trong bài Phúc Âm hôm nay, Người so sánh người là vị chủ chiên đích thực với thành phần "làm thuê không phải là chủ chiên", thành phần cũng chẳng hơn gì thành phần trộm cắp, chỉ gây hại cho chiên hơn là mang lại lợi ích cho chiên, nhất là "khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát".

Chúa Kitô cố ý sử dụng 2 hình ảnh "kẻ trộm" ở bài Phúc Âm Năm A và "chăn thuê" ở bài Phúc Âm Năm B là để cho chúng ta thấy rằng, Người không có tính cách tiêu cực như thế. Bởi "Con Người đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10), vì "Con Người đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho phần rỗi của nhiều người" (Mathêu 20:28).

Đồng thời, qua bài Phúc Âm Năm B này, cũng như bài Phúc Âm Năm A về người chủ chiên đích thực là Người, Người cũng muốn nhắc nhở thành phần chủ chiên, thành phần có trách nhiệm đến phần rỗi của người khác, chẳng hạn như thành phần biệt phái và luật sĩ thông luật và dạy luật, những người bấy giờ đang được Người nhắm tới nói cho biết, nhưng cũng gián tiếp nhắc khéo các tông đồ là những vị sau này lãnh đạo đàn chiên của Người, về sứ vụ chăn chiên đích thực, để nhờ đó họ sống động cùng tác hành xứng đáng đúng với sứ vụ và vai trò giảng dạy "ngồi trên tòa Moisen / chair of Moses" (Mathêu 23:2) của họ, hay ngồi trên "ngai tòa Phêrô / Chair of Peter" của các vị giáo hoàng thừa kế Thánh Phêrô, hay các vị giám mục thừa kế các tông đồ.

Một trong những tính chất chính yếu của vị chủ chiên đích thực, một tính chất tiên khởi và bất khả thiếu, trước khi vị chủ chiên đích thực, cũng chính là "vị chủ chiên tốt lành", có thể dám thí mạng sống mình vì chiên, đó là vị chủ chiên này phải "biết chiên" của mình, và đồng thời cũng được "chiên biết" tới:
"Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta".

"Biết chiên"
nghĩa là không phải chỉ biết nó là gì và cần chi, mà còn biết thương cảm chiên của mình nữa, đến độ bị ảm mùi chiên như nó. Không phải hay sao, Chúa Kitô đã không sống chung đụng với đàn chiên 12 tông đồ của Người, đến độ trở nên như họ, khiến khó phân biệt được Người với họ, nên muốn bắt Người cần phải có nội công Giuđa Íchca, với cái hôn làm dấu của người môn đệ đáng thương này vào Đêm Thứ Năm Tuần Thánh ở trong Vườn Cây Dầu âm u tăm tối hay sao? (xem Mathêu 26:48-49).

"Chiên biết", bao gồm cả dân ngoại lẫn dân Do Thái, ở chỗ, ngay khi vị "Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên" trên Thánh Giá thì con chiên trộm cướp đã "nhận biết" Người (xem Luca 23:42-43), và cả con chiên đại đội trưởng Roma dân ngoại đã "nhận biết" Người (xem Luca 23:47), lẫn con chiên dân chúng Do Thái ở hiện trường Canvê bấy giờ cũng "nhận biết" Người (xem Luca 23:48).

Và lý do chính yếu để Người được "chiên biết", đó là vì Người không làm theo ý của mình, mà là ý Cha là Đấng đã sai Người: "Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống". Và nếu "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Giêsu Kitô là Đấng Cha sai" (Gioan 17:3), thì quả thực chính nhờ việc Người tuân phục mà "khi hoàn thành, Người đã trở nên nguồn mạch cứu độ cho những ai tín phục Người" (Do Thái 9:28).

Đó cũng là lý do ở Bài Đọc 1, trích từ Sách Tông Vụ hôm nay, Thánh Phêrô đã khẳng định về vị chủ chiên nhân lành thí mạng sống cho chiên được sự sống này rằng: "Chính người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên Ðá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác. Bởi chưng, không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được ban tặng cho loài người, để phải nhờ Danh đó mà chúng ta được cứu độ".

Qua vai trò chủ chiên nhân lành thí mạng sống vì chiên này của Chúa Kitô, đàn chiên của Người cũng nhận biết được cả Đấng đã sai Người nữa, bởi sự sống đời đời bao gồm việc nhận biết cả Cha lẫn Con, như chính Chúa Kitô đã cho các môn đệ của Người biết khi Người dâng lời nguyện hiến tế và lời cầu hiệp nhất lên Cha của Người vào cuối bữa tiệc ly, như được trích dẫn trên đây (xem Gioan 17:3), một vị "Thiên Chúa đã yếu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để ai tin vào Người thì được sự sống" (Gioan 16:3), đúng như Thánh Gioan đã lập lại trong Thư 1 của ngài được Giáo Hội chọn đọc cho Bài Đọc 2 hôm nay: "tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và sự thật là thế".

Những lời của Thánh Vịnh 117 ở Bài Đáp Ca hôm nay là những tâm tình tri ân cảm tạ cả Cha lẫn Con mà Kitô hữu chúng ta là đàn chiên của Chúa trong lòng Giáo Hội cần phải đồng thanh vang lên rằng:

1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa ở loài người. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa những bậc quân vương.

2) Con cảm tạ Chúa vì Chúa đã nghe con, và đã trở nên Ðấng cứu độ con. Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta.

3) Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến, từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Ngài muôn thuở.

 


 

Năm C 
Sự Sống xuất phát từ vị Mục Tử Thần Linh đến để cho chiên của mình có thể được sự sống đời đời trường sinh bất tử.

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Cv 13, 14. 43-52

"Ðây chúng tôi quay về phía các dân ngoại".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường. Có nhiều người Do-thái và tòng giáo theo các ngài, được các ngài khuyên bảo bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa.

Ðến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: "Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất". Nghe vậy các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.

Những người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo và các thân hào trong thành bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy hân hoan và Thánh Thần.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 99, 2. 3. 5

Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy phụng sự Chúa với niềm vui vẻ; hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.

2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người, ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. - Ðáp.

3) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Kh 7, 9. 14b-17

"Chiên Con sẽ thống trị họ, và dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống".

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan, đã xem thấy một đám đông không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên; họ mặc áo trắng dài, tay cầm lá vạn tuế.

Và một bô lão đã nói với tôi: "Ðây là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự Người trong đền thánh Chúa, Ðấng ngự trên ngai vàng đặt ở giữa họ. Họ sẽ không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 10, 14

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 10, 27-30

"Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một".

Ðó là lời Chúa.




Suy Niệm Lời Chúa


Chúa Nhật Thứ IV Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, và vì thế chúng ta thấy trong cả 3 bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật này hoàn toàn theo Thánh ký Gioan, ở đoạn 10, và về vị chủ chiên nhân lành là Chúa Giêsu. Tuy nhiên, nếu 2 bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Phục Sinh Năm A và Năm B về chính vị chủ chiên thì bài Phúc Âm cho Năm C nói riêng và phụng vụ Lời Chúa cho Năm C này nói chung lại nhấn mạnh đến chiên của vị chủ chiên nhân lành Giêsu này.

Thật vậy, hình ảnh chiên được Chúa Kitô nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, cũng như trong Tuần IV Phục Sinh, là hình ảnh của thành phần được cứu rỗi. Bởi vì, chiên được liệt kê ở bên phải (khác với dê ở bên trái) của Vị Quan Phán Chung Thẩm (xem Mathêu 25:33), và chiên cũng là hiện thân của "Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian" (Gioan 1:29), một con chiên hiền lành bị dẫn đi sát tế (xem Isaia 53:7; 1Phero 1:19-20).

Chiên là hiện thân của Vị Mục Tử nhân lành vì như chủ chiên của nó bị mang đi sát tế thế nào thì nó cũng là thành phần bị sát hại như thế, như nó đã được giặt áo của mình trong máu của Con Chiên, như Bài Đọc 2 hôm nay cho thấy (xem Khải Huyền 7:14): "Ðây là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên". Đó là lý do mới xẩy ra trường hợp 2 con chiên tông đồ Phaolô và Barnabê trong Sách Tông Vụ ở Bài Đọc 2 hôm nay mới xẩy ra chuyện: "Ðến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy... Những người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo và các thân hào trong thành bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ".

Chiên có một bản tính hiền lành dễ dạy trước sự lành, chủ chiên bảo sao nói gì thì nghe theo đúng như vậy: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta", đến độ nó còn có khả năng phân biệt được đâu là những tiếng lạ không phải của chủ chiên mình, như Chúa Giêsu đã cho biết trong Bài Phúc Âm Năm A cùng Chúa Nhật IV Phục Sinh tuần này: "Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ". Tuy nhiên, không phải vì thế, vì không theo tiếng lạ của thế gian, của kẻ chăn thuê, mà chiên thoát khỏi những tai họa xẩy đến cho mình đâu, trái lại, chính vì thế mà nó càng bị đám sói dữ ma quỉ giận dữ xông vào cắn xé, và, giống như vị chủ chiên nhân lành của mình, nó hoàn toàn chịu thua trước kẻ dữ, ở chỗ không phản ứng lại với kẻ dữ là những con sói rừng cắn xé nó, trái lại còn cầu xin ơn tha thứ cho sói dữ nữa, như chủ chiên của mình ở trên thập tự giá (xem Luca 23:34).

Thái độ phản ứng trước tâm trạng hằn thù ghen tức cùng hành động chống đối cùng tẩy chay loại trừ các vị từ người Do Thái, mà hai con chiên tông đồ Phaolô và Barnabê trong Sách Tông Vụ ở Bài Đọc 1 hôm nay đã cho thấy đúng như vậy: "Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô".

Thế nhưng, chính vì chiên của Chúa Kitô là thành phần được cứu rỗi, thành phần được Người hằng quan tâm lưu ý và yêu thương cùng chăm sóc: "Ta biết chúng", nên "không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta"; hơn nữa, sở dĩ Người "biết chúng" những con chiên rất ư là cao trọng và cao quí của Người, như chính sinh mạng của Người, bởi chúng từ Cha mà đến: "Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta".

Thị Kiến trong Sách Khải Huyền ở Bài Đọc II hôm nay cũng chứng thực như thế: "Họ sẽ không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ". Thật sự hai con chiên tông đồ Phaolô và Barnabê trong Sách Tông Vụ ở Bài Đọc 1 hôm nay đã được "dẫn đến nguồn nước ban sự sống", ở chỗ sinh hoa kết trái dồi dào nơi dân ngoại, thành phần dân ngoại được hai vị tông đồ đã dứt khoát cho dân Do Thái biết rằng các vị "quay về phía các dân ngoại": "Nghe vậy các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng", và thậm chí cho dù sau khi hai con chiên đầu đàn Phaolô và Barnabê của họ bất đắc dĩ phải bỏ đi, thì họ lại được "đầy hân hoan và Thánh Thần".

Và chính vì những gì của Cha cũng là của Người: "Ta và Cha Ta là một", nên Người không thể nào để mất một con nào: "Tôi đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư vong" (Luca 19:10), trái lại, Người phải tìm kiếm cho bằng được con chiên lạc cuối cùng (xem Luca 15:4-5), cho dù có phải thí mạng sống mình vì chiên (xem Gioan 10:11). Trước tấm long thương xót Chúa "yêu cho đến cùng" (Gioan 13:1) như thế, cho đến cùng không phải chỉ ở chỗ thí mạng sống mình vì chiên mà còn cho đến con chiên lạc cuối cùng, chiên của Người không thể nào không vang lên tâm tình của Thánh Vịnh 99 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

 1) Hãy phụng sự Chúa với niềm vui vẻ; hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá.

2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người, ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.

3) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ.

 

 

St. Marco

 

THÁNH MARCÔ THÁNH SỬ

 25/4
 

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Mác-cô vinh dự rao giảng và ghi chép Tin Mừng. Xin cho chúng con được hiểu thấu những lời thánh nhân giảng dạy để trung thành bước theo Chúa Kitô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.


Marcô là ai? Chắc chắn ngài không phải là một trong 12 tông đồ. Nhưng một người tên Marcô đã được các cộng đoàn Kitô giáo sơ khai biết đến, nhiều như là người bạn đồng hành của thánh Phaolô và như người bạn thân ái của thánh Phêrô ở Rôma (Cl 4,10; 1Pr 5,13; 2Tim 4,11). Sách Công vụ ba lần nói tới một "Gioan cũng gọi là Marcô" (Cv 12,12; 25,15.17) là bạn thiết của thánh Barnaba.

 
Các học giả thường đồng ý rằng : Marcô đã được nói tới trong các thánh thư, Gioan tên Marcô trong sách công vụ và tác giả Phúc âm thứ II đều chỉ là một người. Đồng ý với sự đồng hóa trên, chúng ta có thể phác họa hình ảnh của thánh sử như sau:

 
 
Năm 43, sau khi thoát khỏi ngục tù, thánh Phêrô đã chọn nhà này làm nơi trú ngụ (Cv 12,12-17). Như thế, Marcô sớm quen thuộc với những ghi nhận của thánh Phêrô. Hai năm sau, tức là năm 45, chúng ta thấy Marcô và thánh Barnaba cùng đi trong cuộc hành trình thứ nhất của Phaolô. Nhưng khi đoàn truyền giáo đi về hướng bắc, Marcô đã từ giã để trở về Giêrusalem (Cv 13,13). Phaolô bất bình và không muốn nhận cho Marcô đi theo trong cuộc hành trình thứ hai. Năm 50, như Barnaba đề nghị, Barnaba về phe với Marcô, và đáp tàu về Cyprus là quê hương của Barnaba (Cv 15,36-39).
 
Chúng ta không thấy nói gì đến Marcô nữa cho tới năm 61 khi ngài ở Rôma với Phaolô (Cl. 4,10), ba năm sau tức là năm 64 thánh nhân vẫn có mặt ở Rôma vì Phêrô có nhắc tới tên người trong các lời chào của mình (1Pr 5,13). Đây là năm thánh Phêrô chịu tử đạo. Ít lâu sau đó có lẽ thánh Marcô đã bắt đầu viết sách Phúc âm ở Rôma, dầu một số tác giả mới đây cho rằng ở Alexandria. Năm 67, thánh sử ở Ephesô vì một ít tháng trước khi qua đời, thánh Phaolô dặn dò Timothêô đưa theo Marcô đến Rôma (2Tm 4,14). Mối bất hòa xưa đã được hàn gắn hoàn toàn.
 
Từ đây, chúng ta phải dựa vào truyền thống để tìm hiểu về Marcô. Có lẽ sau khi thánh Phêrô qua đời, Marcô đi rao giảng ở Alaexandria thành lập và làm Giám mục giáo đoàn này. Sự kiện không được chắc vì các bậc tiến sĩ của Alexandria như Clêmente (200), và Origênê (203) không nhắc nhở gì đến.
 
Cuốn Chronicon-Pascale không mấy có thế giá cho rằng : Marcô đã làm Giám mục ở Alexandrie và bị thiêu sống dưới thời Trajanô (năm 98 - 117).
 
Dựa vào bút pháp của Marcô, chúng ta cố gắng tìm hiểu tính khí của ngài. Tính chất sống động của Phúc âm thứ II biểu lộ rõ chứng tích mục kiến của Phêrô, chứ không phải của Marcô, dầu có thể là Marcô đã chứng kiến việc bắt bớ Chúa Giêsu vì các nhà chú giải đồng hóa ngài với người thanh niên vô danh bỏ chạy mình trần (Mc 14,50-52). Dầu vậy, thánh Marcô không phải là một máy ghi âm diễn lại lời của Phêrô, ngài là tác giả ghi lại ký ức của Phêrô với bút pháp riêng. Ngài là người ít lời (673 câu so với 1068 câu nơi Matthêu) và có giọng văn không chải chuốt.
 
Người ta có thể cho rằng: Ngài không có khả năng viết văn cho duyên dáng. Nhưng với những khiếm khuyết này, Marcô lại tỏ ra rất chân thành, ngài đã ương ngạnh từ chối việc bỏ bớt những sự kiện vụng về hay là giải thích chúng. Chẳng hạn không thánh sử nào giấu giếm sự chậm hiểu của các thánh tông đồ, nhưng ở Marcô nhấn mạnh : "Lòng họ ra như chai lại" ( Mc 6,51). Marcô cũng không che dấu tham vọng không thể tin nổi của họ (Mc 9,34). Chính Phêrô cũng rất thẳng thắn:

 "Ông không biết phải đáp ứng làm sao" (Mc 9,6). Có lẽ chứng cớ hùng hồn nhất nói lên sự lương thiện của Marcô là ngài đã liều tỏ ra mâu thuẫn với chính mình.
 
Chẳng hạn đối với ngài Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa với ý nghĩa đầy đủ nhất của từ ngữ "vượt các thiên thần" (3,32) "có quyền tha tội" (2,10). Nhưng rồi ngài không ngần ngại viết rằng: "Ở Nazareth Người đã không làm được phép lạ nào" (6,5) ngài cũng không dấu diếm sự kiện bà con Chúa Giêsu nghi ngờ Người thiếu khôn ngoan (3,21) hay sự kiện Chúa Giêsu thất vọng với cây vả không trái (11,13). Những chi tiết loại này khiến cho tựa đề của Marcô được nguyên vẹn (Phúc âm Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa) nhưng lại mang dáng vẻ khó hiểu vì ngài đã không thèm dấu giếm gì hết. Với một sử gia tài danh như vậy, chúng ta rất an tâm.
 
Tại đền thờ thánh Marcô người ta nói có chôn dưới bàn thờ thánh nhân do các thương gia mang từ Alexandria về vào thế kỷ IX.
 
Thánh sử được biểu trưng bằng hình con sư tử vì Phúc âm của ngài mở dầu bằng tiếng nói oai hùng của Gioan Tẩy Giả từ trong sa mạc. Đọc Phúc âm theo thánh Marcô, chúng ta như có thể nghe tiếng nói thô sơ của thánh sử:

"Đừng nhìn tôi, hãy nhìn Người".


Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý - Theo Vết Chân Người

https://giaophanphucuong.org/phung-vu-chu-thanh/thanh-marco---thanh-su-the-ky-i-1297.html




Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính thánh Mác-cô, chúng con dâng lên Chúa của lễ này để ca tụng tạ ơn Chúa. Xin Chúa thương chấp nhận và cho Giáo Hội mãi trung kiên rao giảng Tin Mừng. Chúng con cầu xin...


1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Tín hữu thuộc các Giáo hội cổ Ai Cập, Syrie và Byzantin đều mừng kính thánh Marcô vào ngày 25 tháng 4. Ở Tây Phương, kể từ thế kỷ IX, người ta cũng mừng lễ thánh nhân vào ngày này.

Marcô (tiếng Hy-lạp: Marcos, và la ngữ: Marcus = búa) được gọi là “môn đệ và phát ngôn viên của Phêrô” đồng thời là tác giả sách Tin Mừng thứ hai, theo như lời lưu truyền rất xưa, từ thời Trưởng lão Gioan (cuối thế kỷ I) được Papias (khoảng 150), giám mục thành Hierapolis (Phrygie) thuật lại. Người xưa thường đồng hóa tác giả sách Tin Mừng Marcô với Gioan Marcô, mà sách Công vụ Tông Đồ và các thư của thánh Phaolô thường nhắc đến. Họ nói người xuất thân từ Giêrusalem (Cv 12,12), là bạn đồng hành với Phaolô và Banabé (Cv12,25; 13,5,13 ...) sau đó với Phêrô tại “Babylon” (1 Pr 5,13) ngụ ý là Rôma.

Một truyền tụng khác từ thế kỷ III cho rằng thánh Marcô thiết lập giáo đoàn Alexandrie (Ai Cập), nơi đây ngài đã tử vì đạo. Thi hài của ngài ban đầu được tôn kính gần Alexandrie, rồi được các lái buôn thành Venise chuyển về thành phố của họ vào thế kỷ IX. Các thánh tích của ngài hiện được lưu giữ và tôn kính tại đại thánh đường dâng kính ngài (thánh đường thánh Marcô).

Biểu hiện hình ảnh của thánh Marcô là con sư tử, con vật của vùng sa mạc thảo nguyên. Quả thật sách Tin Mừng của Marcô khởi đầu bằng việc trình bày Gioan Tẩy giả như là tiếng hô trong sa mạc (1,3).

2. Thông điệp và tính thời sự

Phụng Vụ tôn vinh Marcô trước tiên do chính công soạn sách Tin Mừng của ngài. Ngài là người đầu tiên soạn thảo “sách Tin Mừng”, có lẽ tại Rôma, giữa các năm 40 và 75. Là phát ngôn viên của Tông Đồ Phêrô, ngài thuật lại bằng tiếng Hy Lạp - qua một câu chuyện sống động và cụ thể cuộc đời Đức Giêsu từ lúc chịu thanh tẩy cho đến khi sống lại. Đối với ngài, cuộc Khổ Nạn mang một tầm quan trọng đặc biệt.

a. Lời xướng đáp và lời nguyện đầu lễ nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo, cũng như Đức Giêsu công bố điều này trong chương cuối sách Tin Mừng của Marcô mà chúng ta đọc một trích đoạn trong Thánh lễ: Đức Giêsu nói với mười một Tông Đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” ... còn họ (nhóm mười một) thì ra đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi (16,15 ... 20).

b. Lời tung hô Tin Mừng nhắc lại (1 Cr 1, 23 –24): Chúng tôi rao giảng Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Quả vậy trong sách Tin Mừng Marcô, mọi sự đều tập trung vào Giêsu, Đấng Kitô. Là Người thật và rất nhân ái, là Con Người (2,10...) nên Người chạnh lòng thương đám đông (8,2); Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng (10,16); Người cảm thấy hãi hùng và xao xuyến (14,33). Nhưng Người cũng dần dần tự tỏ mình ra như Đấng Thánh của Thiên Chúa (9,24) hay Con Thiên Chúa (3,11...) biểu lộ quyền năng Thiên Chúa của mình qua nhiều dấu lạ. Marcô mô tả chừng hai mươi dấu lạ. Các dấu lạ Người làm khiến mọi người hỏi nhau rằng: thế nghĩa là gì ? (1,27) hay: vậy người này là ai ? (4,41). Chính Đức Giêsu cũng hỏi các Tông Đồ: Anh em bảo Thầy là ai ? (8,29). Phêrô trả lời: Thầy là Đức Kitô (= Đấng Mêssias), còn viên đại đội trưởng ngoại giáo, nhân chứng cuộc đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá, đã thốt lên: Quả thật, người này là con Thiên Chúa ! (15,39).

c. Lời nguyện đầu lễ kết thúc với lời xin Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta, nhờ lời giảng dạy của Marcô, được trung thành “bước theo Đức Kitô”.

Phần hai của sách Tin Mừng Marcô (9 –16) chỉ rõ cụ thể cách thế để theo Đức Giêsu. Cũng như con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại (8,31), cũng thế, Đức Giêsu phán: Ai muốn theo Tôi phải từ bỏ chính mình,vác thập giá mình mà theo. Nói cách khác, người môn đệ chân chính là người dám liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng. Đức Giêsu còn nói: Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy (8,35).

http://gpbanmethuot.com/tin-mung-chua-nhat---le-trong/ngay-254-thanh-mac-co---thanh-su-49005.html

.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng chúng con vừa lãnh nhận bí tích Thánh Thể nơi bàn thờ Chúa. Xin cho bí tích này thánh hoá chúng con và làm cho chúng con vững tin vào Tin Mừng mà thánh Mác-cô đã rao giảng. Chúng con cầu xin...

 

 

Thứ Hai

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cv 11, 1-18

"Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, các tông đồ và anh em ở Giuđêa nghe tin rằng cả dân ngoại cũng đã đón nhận lời Thiên Chúa. Khi Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người rằng: "Tại sao ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ?" Phêrô trình bày cho họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: "Tôi đang ở tại thành Gióp-pê, lúc cầu nguyện, trong một thị kiến, tôi thấy một vật gì giống chiếc khăn lớn túm bốn góc, từ trời thả xuống sát bên tôi. Tôi chăm chú nhìn và thấy những con vật bốn chân, những mãnh thú, rắn rết và chim trời. Tôi nghe tiếng phán bảo tôi: "Phêrô, hãy chỗi dậy giết mà ăn". Tôi thưa: "Lạy Chúa, không được, vì con không khi nào bỏ vào miệng con những đồ dơ nhớp hay bẩn thỉu". Tiếng từ trời nói lần thứ hai: "Vật gì Thiên Chúa cho là sạch, ngươi đừng nói là dơ nhớp". Ba lần xảy ra như thế, và mọi sự lại được kéo lên trời.

"Và ngay lúc đó, ba người từ Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi đừng ngần ngại đi với họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một người. Anh thuật lại cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào; thiên thần đứng trong nhà anh và nói với anh rằng: "Hãy sai người đến Gióp-pê tìm Simon có tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và cả nhà ngươi được cứu độ". Lúc tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự trên chúng ta lúc ban đầu. Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: "Gioan đã rửa bằng nước, còn các con, các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần". Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như đã ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể ngăn cản Thiên Chúa?"

Nghe những lời ấy, họ thinh lặng và ca tụng Thiên Chúa rằng: "Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 41, 2. 3; 42, 3. 4

Ðáp: Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống (Tv 41, 3a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi. - Ðáp.

2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống; ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời! - Ðáp.

3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.

4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúng con biết rằng Ðức Kitô đã thật sự sống lại từ cõi chết: Lạy Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 10, 1-10

"Ta là cửa chuồng chiên".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ".

Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".

Ðó là lời Chúa.

 

Trong Năm A, bài Tin Mừng dưới đây được đọc thay bài Tin Mừng trên:

Phúc Âm: Ga 10, 11-18

"Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Ðó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Lời Chúa

 

Chủ đề "Thày là sự sống" theo chiều kích Mục Tử Thần Linh cho Tuần IV Phục Sinh chẳng những được tỏ hiện rõ ràng ở bài Phúc Âm Chúa Nhật, cũng được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, bài phúc âm cho cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, mà còn cho cả các bài đọc ở các ngày thường trong tuần lễ này nữa. Rõ ràng nhất là bài Phúc Âm cho ngày Thứ Hai hôm nay, cũng chính là bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Năm A hôm trước, bài Phúc Âm được chính Chúa Kitô khẳng định Người chẳng những là cửa đàn chiên mà còn đến để mang lại sự sống cho chiên nữa: 

 

"Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".

 

Trong bài phúc âm hôm nay, ở phần đầu, Chúa Giêsu còn cho thấy các đặc tính chứng tỏ ai là mục tử đích thực, ai là kẻ trộm cướp phá hoại nữa: 1- "qua cửa mà vào chuồng chiên", chứ không "trèo vào lối khác" như "kẻ trộm cướp", không phải mục tử; 2- nhờ đó, họ "được người giữ cửa mở cho và chiên nghe theo tiếng của kẻ ấy"; 3- và vì là mục tử chân thực nên họ biết chiên của họ, đến độ có thể "gọi đích danh từng con chiên của mình mà dẫn ra", nghĩa là họ để ý đến từng con chiên của mình để chăm sóc cho từng trường hợp của mỗi con; 4- "Khi lùa chiên ra ngoài thì kẻ ấy đi trước chiên", chứ không đi sau chiên, như để canh chừng chiên hơn là tin tưởng chiên, vì "đi trước chiên" có nghĩa là làm gương cho chiên và mở đường dẫn lối cũng như sẵn sàng liều mình che chở bảo vệ chiên trước tất cả mọi nguy khốn dù có phải hiến mạng sống mình cho chiên được sống.

 

Tất cả những thái độ và hành động của vị chủ chiên trên đây đều ở nơi một mình Chúa Kitô là Chủ Chiên Nhân Lành, và vì thế, nếu vị chủ chiên nào không theo gương của Người và như Người để chăn chiên của Người, là dân Do Thái xưa, hay Giáo Hội nay, thì đều là kẻ trộm cướp, trèo rào mà vào và sẽ tác hại chiên hơn là phục vụ chiên. Và đó là ý nghĩa của hình ảnh Người là cửa chiên, tức người là vị chủ chiên gương mẫu của tất cả của những ai được ủy thác cho trách nhiệm phải chăn chiên của Người và thay Người, trước Người trong Cựu Ước, cũng như sau Người trong Tân Ước. Tuy nhiên, như chính Người đã xác quyết ở cuối bài Phúc Âm, tất cả mọi kẻ chăn chiên trước Người đều là trộm cướp, như các vị cua Do Thái chẳng hạn, bao gồm cả thánh vương Đavít, một ông vua cũng có lúc ngoại tình và giết người.

 

Ngoài ra, "cửa chiên" là chính Chúa Kitô đầy còn có thể hiểu theo 2 ý nghĩa nữa, đó là, đối với thành phần trộm cướp thì cửa này luôn đóng kín để bảo vệ chiên, còn đối với chính chiên lại chẳng bao giờ đóng, luôn mở cho chiên thoải mái ra vào, thậm chí cả những con chiên hoang đàng muốn bỏ đàn mà đi, vì thành phần chiên lạc này dù có đi đâu, cũng không thể nào thoát được mạng lưới thương xót của vị chủ chiên nhân lành, Đấng biết được chúng đi đâu và ở chỗ nào, như Adong có trốn sau nguyên tội cũng không thể thoát khỏi ánh mắt thần linh như vệ tinh của một vị Thiên Chúa hóa công yêu thương, Đấng tìm kiếm chàng không phải để trừng phạt chàng cho bằng để cứu chàng, bằng lời hứa cứu chuộc tự Ngài trấn an chàng, một lời hứa cứu độ đã hoàn toàn hiện thực nơi vị chủ chiên nhân lành Giêsu là Con Một của Ngài đã được Ngài sai đến thế gian không phải để luận phát thế gian mà là thế gian mà được cứu độ.

 

Tuy nhiên, nếu bài Phúc Âm trên đây đã được đọc trong Chúa Nhật IV theo chu kỳ Phụng Vụ Năm A thì có thể đọc bài Phúc Âm của Chúa Nhật IV Năm B, một bài phúc âm cũng vẫn theo chủ đề “Thày là sự sống”, nhưng liên quan đến bản chất nhân lành của vị mục tử:

 

"Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống mình vì chiên... Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta".


Căn cứ vào hai câu Chúa Giêsu nói về Người là vị mục tử tốt lành, thì vị mục tử tốt lành cần 2 yếu tố bất khả thiếu và bất khả phân ly, đó là dám chết vì chiên, cũng như chẳng những biết chiên mà còn được chiên biết đến nữa. Chỉ có những vị mục tử nào biết chiên và được chiên biết đến mới dám liều mạng sống mình vì chiên.


Tuy nhiên, nếu biết chiên mà không được chiên biết thì cũng không phải hay chưa phải là mục tử tốt lành, bởi chưa biết chiên thực sự, hay chỉ biết những cái xấu của chiên để mà sửa phạt, chứ không thông cảm và nâng đỡ, hoặc biết những cái tốt của chiên nhưng lại không sử dụng, trái lại, còn coi thường và tẩy chay, chỉ sợ mất uy tín của mình v.v.

Một vị chủ chiên tốt lành thì được chiên mộ mến lắng nghe, tuy nhiên, nếu vị chủ chiên ấy lợi dụng lòng mộ mến của chiên để mà cạnh tranh với các chủ chiên khác, hay đàn áp những con chiên dám nói thẳng những gì cần được xây dựng chính đáng, hoặc tỏ ra bất tuân phục thẩm quyền của mình, hay nể nang mị dân không dám dẫn dắt chiên theo đúng tinh thần và đường lối của Chúa v.v., thì cũng chỉ là những chủ chiên tốt lành giả hình, mang tinh thần của kẻ trộm cướp mà thôi, và chắc chắn sẽ không dám liều mạng sống vì chiên.

 

Bài Đọc I (Tông Vụ 11:1-18):

 

Nếu trong bài Phúc Âm, Chúa Kitô là "cửa chuồng chiên", tức là vị mục tử gương mẫu, mà nếu ai không "qua cửa mà vào", nghĩa là không theo gương Người mà chăn chiên "đều là trộm cướp", phá hoại chiên, thì hành động của Tông Đồ Phêrô trong bài đọc I hôm nay cũng quả thực là ngài đã "qua cửa mà vào", chứ không bị thành kiến Do Thái giáo ngăn chặn không cho ngài đến với dân ngoại:

 

"Khi Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người rằng: 'Tại sao ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ?' Phêrô trình bày cho họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: '... ngay lúc đó, ba người từ Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi đừng ngần ngại đi với họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một người. Anh thuật lại cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào; thiên thần đứng trong nhà anh và nói với anh rằng: 'Hãy sai người đến Gióp-pê tìm Simon có tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và cả nhà ngươi được cứu độ'".

 

Nếu Chúa Kitô là Mục Tử Thần Linh đến cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn thì vị tông đồ được Người trao cho sứ vụ Mục Tử Thần Linh thay Người chăn dắt chiên của Người (xem Gioan 21:15-17), vì đã "qua cửa mà vào chuồng chiên", cũng làm cho chiên được sự sống và sự sống viên mãn, đúng như bài đọc 1 cho thấy:

 

"Lúc tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự trên chúng ta lúc ban đầu. Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: 'Gioan đã rửa bằng nước, còn các con, các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần'. Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như đã ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể ngăn cản Thiên Chúa?' Nghe những lời ấy, họ thinh lặng và ca tụng Thiên Chúa rằng: 'Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống'".

 

 

 

Thứ Ba

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Cv 11, 19-26

"Họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, vì cơn bách hại xảy ra nhân dịp Têphanô bị giết, có nhiều người phải sống tản mác, họ đi đến Phênixê, Cyprô và Antiôkia, họ không rao giảng lời Chúa cho một ai ngoài những người Do-thái. Nhưng một ít người trong họ quê ở Cyprô và Xyrênê; khi đến Antiôkia, họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp nữa. Và tay Chúa ở với họ; nên có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu tai Hội Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và thấy việc ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng tin nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi, liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đồ lần đầu tiên nhận tên là Kitô hữu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 86, 1-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa (Tv 116, 1a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Chúa yêu cơ sở Ngài thiết lập trên núi thánh; Ngài yêu cửa nhà Sion hơn mọi cư xá nhà Giacóp. Hỡi thành trì của Thiên Chúa, thiên hạ đang nói những điều hiển hách về ngươi. - Ðáp.

2) Ta sẽ kể Rahab và Babel vào số người thờ phượng Ta, kìa Philitinh, Tyrô và dân Êthiôpi: những người này đã sinh ra tại đó. Và thiên hạ sẽ nói về Sion rằng: "Riêng từng người và hết mọi người đã sinh tại đó, chính Ðấng Tối Cao đã củng cố thành này". - Ðáp.

3) Chúa sẽ ghi chép vào sổ sách của chư dân rằng: "Những người này đã sinh ra tại đó". Và khi ca vũ, người ta sẽ ca rằng: "Mọi nguồn vui thú của tôi đều ở nơi ngươi". - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô, Ðấng tác tạo mọi loài, đã sống lại và đã xót thương nhân loại. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 10, 22-30

"Tôi và Cha Tôi là một".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết". Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Ðiều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Lời Chúa

Khía cạnh "Mục Tử Thần Linh" trong chủ đề "Thày là sự sống" trong Mùa Phục Sinh hậu Tuần Bát Nhật Phục Sinh cũng vẫn tiếp tục được tỏ hiện trong bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Ba trong Tuần IV Phục Sinh. Ở chỗ, Chúa Kitô cho biết lý do tại sao chiên của Người cao quí đến độ xứng đáng để Người thí mạng sống mình cho chiên, đó là vì chiên chẳng những ngoan hiền ở chỗ nhận biết Người và theo Người mà nhất là vì chiên thuộc về Cha của Người là Đấng đã trao chúng cho Người nữa:

"Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: 'Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết'. Chúa Giêsu đáp: 'Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Ðiều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một'".

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành, đã minh định chiên của Người có bản chất và khuynh hướng tự nhiên ra sao, đó là "nghe tiếng Tôi (tức tin vào Người) và theo Tôi", bởi thế, những ai không nghe tiếng Người, hay "không tin" vào Người, như Người đã nói thẳng vào mặt dân Do Thái bấy giờ "không tin" Người nên "không thuộc về đàn chiên của Tôi".

 

Kitô hữu chúng ta cũng thế, cũng là chiên của Chúa, của Vị Chủ Chiên Nhân Lành đã hiến sự sống mình cho chiên là chúng ta được sống, nhưng nếu xét lại, chúng ta có hữu danh vô thực hay chăng, nghĩa là có nghe tiếng Chúa là chủ chiên của chúng ta hay chăng, hay chúng ta thích nghe / đọc tin tức hay truyện phiếm hoặc fake news hơn Lời Chúa, nhất là chúng ta dễ tin theo và làm theo tiếng của thế gian, theo áp lực của bạn bè, theo xúi giục của ma quỉ hơn là lương tâm, hơn là giáo huấn của Giáo Hội, hơn là Lời Chúa, hơn tinh thần Phúc Âm, chỉ vì chúng ta coi thường Lời Chúa, không ưu tiên cho Lời Chúa vô cùng khôn ngoan và thiện hảo trên hết mọi sự bằng những cái thứ yếu giả tạo và tạm bợ khác, nên chúng ta cũng chẳng được Lời Chúa tác động tâm ngôn hành của chúng ta theo đúng như Ý muốn tối cao mà được cứu độ và thánh hóa, trái lại, vì bỏ Lời Chúa, không nghe tiếng chủ chiên mà chúng ta dễ trở thành chiên lạc và càng ngày càng lạc loài, không còn biết đâu mà về, hay có muốn về cũng không còn đủ sức v.v.

 

Ở đây Chúa Giêsu không hất hủi một ai, nhất là thành phần được Cha của Người tuyển chọn làm dân riêng, một dân tộc Người mang huyết thống khi hóa thành nhục thể. Người chỉ nói rằng họ vì không tin nên "không thuộc (đúng hơn chưa thuộc) về đàn chiên của Tôi" thôi, cho đến khi họ tin thì họ sẽ thuộc về đàn chiên của Người, và hành động đầy thiện chí của họ trong việc theo đuổi tìm hiểu về nguồn gốc của Người cho bằng được, như ở đầu bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết", đã đủ chứng tỏ họ muốn tin Người, cần Người nhẫn nại tỏ mình ra cho họ, theo cách thức mù tối và cứng lòng của họ để nhờ đó họ có thể tin vào Người.

 

Riêng đối với chiên của Người, nghĩa là đối với những ai tin vào Người và theo Người, thì như Người quả quyết: 1- "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời", một sự sống thần linh liên quan đến mầu nhiệm nhập thể của Người, ở chỗ "ai chấp nhận Người, thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12); 2- "Chúng sẽ không bao giờ hư mất", một hứa hẹn thần linh liên quan đến mầu nhiệm tử giá, ở chỗ: "Vì họ mà Con tự thánh hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19); và 3- "Không ai có thể cướp chúng khỏi tay Tôi", một quyền lực thần linh liên quan đến mầu nhiệm phục sinh của Người, bởi vì "Thày được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18).

 

Thật vậy, "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi", thế nhưng, nếu "chúng theo Tôi", thì chúng còn cần phải được "Tôi biết chúng" nữa. Bởi vì, tự bản chất hiền lành của mình, chiên của Người cũng dễ bị sói dữ ăn thịt, nếu không có Người luôn ở với chúng, ở chỗ "biết chúng", như tỏ ra quan tâm đến chúng, đến từng nhu cầu của chúng, tỏ ra chăm sóc cho chúng, bằng cách đáp ứng nhu cầu của chúng, và sẵn sàng đi tìm kiếm chúng, một khi chúng bị lạc đàn.

 

Đời sống của Kitô hữu là một hành trình đức tin là như thế: trước hết ở chỗ "nghe tiếng Tôi" khi lãnh nhận Phép Rửa tái sinh; sau nữa ở chỗ được Đấng biết họ, "Tôi biết chúng" thông ban sự sống thần linh cho: "Vị Chủ Chiên nhân lành đến cho chiên được sống và sống viên mãn" (Gioan 10:10), và sau hết, ở chỗ, "chúng theo Tôi" để truyền đạt sự sống thần linh viên mãn nơi mình nhờ được hiệp thông thần linh với Cây Nho là Chúa Kitô (xem Gioan 15:4), như trường hợp của tông đồ Phêrô được Chúa Kitô là Đấng ủy thác cho ngài sứ vụ chăn dắt các chiên con chiên mẹ cho kèm theo số phận hy sinh cho chiên thì được Người kêu gọi "Hãy theo Thày" (Gioan 21:19).

Bài Đọc I (Tông Vụ 11:19-26):

 

Nếu trong bài Phúc Âm Chúa Kitô đã khẳng định tính chất của thành phần chiên của Người là "Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi",  "các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi", thì thành phần dân ngoại Hy Lạp ở Antiôkia trở lại theo lời rao giảng của những ai đã tin theo Chúa Kitô nhờ lời rao giảng của các tông đồ sau biến cố Hiện Xuống ở Giêrusalem, nhất là của nhị vị Barnabê và Phaolô, mà nếu so với đa số dân Do Thái và riêng thành phần lãnh đạo giáo quyền của họ đã tỏ ra hết sức cứng lòng tin, cho dù có được đích thân Chúa Kitô rao giảng và tỏ mình ra, thì thành phần dân ngoại Hy Lạp này quả thực đúng là "Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi":

 

"Trong những ngày ấy, vì cơn bách hại xảy ra nhân dịp Têphanô bị giết, có nhiều người phải sống tản mác, họ đi đến Phênixê, Cyprô và Antiôkia, họ không rao giảng lời Chúa cho một ai ngoài những người Do-thái. Nhưng một ít người trong họ quê ở Cyprô và Xyrênê; khi đến Antiôkia, họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp nữa. Và tay Chúa ở với họ; nên có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu tai Hội Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và thấy việc ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng tin nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi, liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đồ lần đầu tiên nhận tên là Kitô hữu".

 

Thứ Tư

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Cv 12, 24 - 13, 5a

"Hãy dành Saolô và Barnaba riêng cho Ta".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, lời Chúa được lan rộng và tiến triển. Nhưng Barnaba và Saolô, sau khi hoàn tất sứ mạng, đã rời Giêrusa-lem, đem theo Gioan cũng gọi là Marcô.

Bấy giờ trong Hội Thánh Antiôkia có những tiên tri và tiến sĩ, trong số đó có Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của vua Hêrôđê lúc còn thơ ấu, và Saolô. Ðang khi các ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo các ông rằng: "Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho Ta, để làm công việc mà Ta đã chỉ định". Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường.

Ðược Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xêlêucia, rồi từ đó vượt biển sang Cyprô. Khi đến Salamina, hai ông rao giảng lời Chúa trong các hội đường Do-thái.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8

Ðáp: Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.

2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.

3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô đã sống lại và chiếu soi chúng ta, là những kẻ Người đã cứu chuộc bằng máu của Người. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 12, 44-50

"Ta là sự sáng đã đến thế gian".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng: "Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Ðấng đã sai Ta. Và ai thấy Ta là thấy Ðấng đã sai Ta. Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Ðấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Lời Chúa

 

Chủ đề "Thày là sự sống" về khía cạnh Mục Tử Thần Linh cho Tuần IV Phục Sinh vẫn còn được thấy tỏ hiện trong bài Phúc Âm của Thứ Tư trong Tuần IV Phục Sinh hôm nay. Ở chỗ, Vị Mục Tử Thần Linh là Chúa Kitô đây, sở dĩ yêu thương chiên của mình đến độ hiến mạng sống của mình cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn chẳng những vì chiên thuộc về Cha là chính Đấng đã trao chiên cho Người mà còn vì Người là Đấng Thiên Sai thật sự, Đấng vì được Cha sai nên luôn chỉ làm theo ý của Cha, đúng như những gì Cha muốn và cách thức Cha muốn, như Người đã tự chứng về bản thân Người với dân Do Thái trong bài Phúc Âm hôm nay:

 

"Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Ðấng đã sai Ta. Và ai thấy Ta là thấy Ðấng đã sai Ta. ...  Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Ðấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy".

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta còn thấy một điều rất quan trọng nữa, đó là nguyên tắc phán xét tối hậu, ở chỗ, Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu, chỉ biết yêu thương - "đến độ đã ban Con Một mình" (Gioan 3:16), chỉ biết bày tỏ tình yêu của mình ra "cho đến cùng" (Gioan 13:1), cho đến hết cỡ - "không dung tha cho Con Một của Ngài, một phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Rôma 8:32), như ánh sáng không thể nào không soi chiếu như bản chất tự nhiên của mình, còn những gì được ánh sáng soi chiếu có tiếp nhận ánh sáng hay chăng, hoặc có được thừa hưởng ánh sáng hay chăng là tùy ở những thứ ấy. Đó là lý do Chúa Giêsu Kitô đã khẳng định và tuyên bố với thành phần thính giả nghe Người rằng:

 

"Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết". 

 

Do đó, để có thể dung hòa giữa 2 thái cực chủ trương một là có Lòng Thương Xót Chúa hai là có hỏa ngục chứ không thể nào có cả hai, hãy căn cứ vào nguyên tắc trong bài Phúc Âm hôm nay ngay trên đây. Nghĩa là có cả hai: Thiên Chúa không thể nào không yêu thương, không thương xót, vì đó là bản tính của Ngài, và kẻ nào không chấp nhận tình yêu thương vô cùng nhân hậu của Ngài thì tự họ bị hư đi, và chính tình yêu vô cùng nhân hậu bất diệt của Thiên Chúa sẽ trở thành hình phạt cho họ đời đời trong hỏa ngục, nơi họ chỉ còn khóc lóc và nghiến răng, khóc lóc vì đau khổ và nghiến răng vì hận mình (hơn là hối hận) nhưng đã quá muộn.

 

Kinh nghiệm làm người cũng đã cho thấy điều ấy. Ở chỗ, một khi con người chối bỏ lương tâm, thì chính lương tâm nơi họ sẽ trở thành quan án của họ và cắn rứt họ, đến độ họ không thể nào chịu được, có trường hợp phải tự ra đầu thú để bớt ray rứt lương tâm cho dù có bị tù đầy khổ sở xác thân và cuộc đời. Khi chết cũng vậy, chính lương tâm là tòa phán xét con người, và tự mình họ biết họ đi về đâu: Thiên Đàng hay hỏa ngục.

 

Vấn đề quan trọng ở đây đối với thành phần được Chúa Kitô nói rằng "ai khinh dể Tôi" trong bài Phúc Âm là ở chỗ đó - ở chỗ vì khinh thường Chúa, không coi Chúa ra gì, cho dù tận thâm tâm không có ý, nhưng hành động thật sự là thế, Nếu coi trọng Người thì nghe Lời Người, thì coi Lời Người trên hết mọi sự, là thực hành Lời Người. Thậm chí đọc Lời Người mà không hiểu rồi không chịu đọc nữa cũng ngầm mang tính cách khinh dể Chúa, coi thường Lời Chúa, bởi coi Lời Chúa chỉ là một thứ giáo khoa tầm thường, ngang hàng với các thứ sách học hỏi trần gian, đã đọc là phải hiểu.

 

Hai nguyên tổ đã không khinh dể Lời Chúa là gì, tức là lệnh cấm không được động chạm đến cây biết lành biết dữ ở giữa vườn, khi 2 vị đã ngang nhiên bất tuân, coi Lời Chúa vô cùng chân thật và chỉ vì yêu thương lo cho sự sống còn của họ không chân thật và thiện hảo bằng lời xúi giục của rắn quỉ, nên các vị đã tin hắn hơn tin Đấng Hóa Công Chí Tôn Chí Thánh đã tạo dựng nên các vị, từ đó và vì thế đã tôn sùng quỉ hơn Chúa, đã coi Tên Gian Ác là Chúa của mình, để rồi hậu quả tất yếu không thể nào không xẩy ra cho các vị, đúng như Lời Chúa đã báo trước cho các vị mà các vị không tin, đó là các vị phải đã bị chết cả phần hồn lẫn phần xác, do chính các vị tự mình chuốc lấy, chứ Chúa không hề muốn các vị bất hạnh như vậy.

 

Bài Đọc I (Tông Vụ 12:24 - 13:5a):

 

Theo gương Mục Tử Thần Linh là "cửa chuồng chiên", đến chỉ làm theo ý muốn của Đấng đã sai mình, thành phần môn đệ trung thực của Người cũng luôn tuân theo tác động thần linh mà Thánh Thần của Đấng Phục Sinh và Thăng Thiên đã ban cho họ và sai đến với họ để Người có thể ở cùng họ cho đến tận thế (xem Mathêu 28:20), và qua họ tiếp tục vai trò Mục Tử Thần Linh của Người nơi dân ngoại, chẳng hạn qua nhị vị Saolô và Barnabê ở Antiôkia trong bài đọc một hôm nay:

 

"Bấy giờ trong Hội Thánh Antiôkia có những tiên tri và tiến sĩ, trong số đó có Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của vua Hêrôđê lúc còn thơ ấu, và Saolô. Ðang khi các ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo các ông rằng: 'Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho Ta, để làm công việc mà Ta đã chỉ định'. Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường. Ðược Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xêlêucia, rồi từ đó vượt biển sang Cyprô. Khi đến Salamina, hai ông rao giảng lời Chúa trong các hội đường Do-thái".

 

28/4

Thánh Phêrô Chanel

Thánh Louis Montfort

Thánh Phêrô Chanel

Thánh Phê-rô Sa-nen sinh năm 1803 tại Cu-ết. Ngài được một linh mục thương dạy dỗ và cho vào chủng viện. Năm 1827, ngài thụ phong linh mục và đi giúp họ đạo Am-be. Nhưng thánh nhân mong ước đi truyền giáo cho dân ngoại, nhất là những dân tộc thiểu số còn kém văn minh vật chất, nên xin vào dòng Đức Maria là dòng thừa sai giảng đạo.

Và thánh nhân đã được toại nguyện. Năm 1837, ngài được bề trên sai đến đảo Fu-tu-na, mọt đảo nhỏ ít dân, còn sống hoang dã dữ tợn. Lúc đầu, ngài được dân địa phương và chủ đảo tiếp đón nồng hậu. Nhưng dần dần họ lại chống đối ngài. Nhất là khi vua đảo này nghe tin con trai ông ta theo đạo, thì ra lệnh hành hình và đánh đập ngài đến chết, vào ngày 28 tháng 4 năm 1841.

Chúng ta hãy xem gương của ngài: ” Ngay sau khi Phê-rô Sa-nen khấn dòng trong hội Đức Bà Maria, ngài được sai đi giảng đạo ở Úc châu theo như lời ngài đã xin. Ngài đã tới đảo Fu-tu-na trong Thái-bình-dương, nơi dan Đức Kitô chưa hề được rao giảng. Thầy trợ sĩ luôn lôn đi với ngài, thuật lại cuộc đời truyền giáo của ngài như sau: Trong khi đi làm việc, ngài thường bị cháy nắng và thường bị đói. Về đến nhà thì mồ hôi ra như tắm và mệt đừ. Nhưng lúc nào ngài cũng can đảm, sống động và vui vẻ, dường như ở chốn cực lạc về. Và như thế không phải chỉ một lần mà hầu như hằng ngày.

Ngài không bao giờ từ chối gí với dân Fu-tu-na; ngay cả với những kẻ bách hại làm khổ ngài. Bao giờ, ngài cũng bàu chữa cho họ. Và cho dù họ có cứng cỏi cộc cằn, ngài cũng vẫn không xua đuổi họ. Ngài hiền lành vô địch đối với mọi người; và bằng mọi cách, chẳng trừ một ai. Thế nên, chẳng có chi lạ khi người dân ở đó gọi ngài là” con người tốt bụng”. Có lần ngài nói với anh em đồng nghiệp rằng:” Ở nơi truyền giáo khó thì chúng ta phải là thánh nhân !”

Dần dà, ngài đã rao giảng Đúc Kitô và Tin Mừng. Nhưng thu lượm được ít kết quả. Với lòng kiên trì bất khuất, ngài cứ tiếp tục công cuộc truyền giáo, vừa có tính cách nhân đạo, vừa có tính cách đạo đức, tựa vào gương và lời Đức Kitô đã phán: Người gieo thì khác, mà người gặt thì khác. Trong khi đó, ngài vẫn chuyên cần tha thiết nài giúp, nài xin sự trợ giúp của Thánh Mẫu Thiên Chúa mà ngài có lòng sùng kính rất đặc biệt.

Công việc giảng đạo của ngài đã hủy bỏ được công việc thờ cúng các thần mà các tù trưởng ở Fu-tu-na đã cổ võ để giữ dân chúng dưới sự kềm kẹp của họ. Thế nên, họ giết ngài một cách dã man. Hy vọng rằng ngài chết đi thì mầm sống kitô giáo ngài gieo vãi cũng sẽ mai một luôn. Nhưng hôm trước ngày tử đạo, ngài đã nói:

Tôi có chết cũng chẳng sao. Kitô giáo đã ăn rễ sâu ở đảo này rồi. Nên tôi có chết, đạo cũng không mất được.

Máu của thánh tử đạo trước hết đã sinh ích cho dân ở Fu-tu-na. Vì chỉ ít năm sau, tất cả đã tn Chúa Kitô hết. Hơn nữa, còn có ích cho các đảo khác ở Úc châu. Nơi mà ngày nay đã mọc lên nhiều hội thánh phồn vinh, mà tất cả đều xưng thánh Phêrô là vị tử đạo tiên khởi của mình.” 1

Quyết tâm: Noi gương thánh Phêrô Sa-nen, hằng ngày tôi lo đem Chúa đến cho mọi người chưa biết Chúa, nhất là cho những người nghèo khó, dốt nát nơi xa xôi hẻo lánh.

Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Phê-rô Sa-nen được vinh phúc tử đạo để mở mang nước Chúa.Xin cho chúng con biết tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và sống lại, hầu trở nên nhân chứng của đời sống mới.

Bất cứ ai từng làm việc trong cô độc, và cần phải thích ứng tối đa và rất ít cơ hội thành công, đều tìm thấy một tinh thần tương tự nơi Thánh Phêrô Chanel.
Thánh Phêrô Chanel sinh ở Clet trong giáo phận Belley, nước Pháp. Khi là học sinh tiểu học, ngài đã được thầy giáo chú ý vì sự thông minh và đạo đức. Khi gia nhập đại chủng viện, ngài được sự thương mến và quý trọng của các giáo sư cũng như đồng bạn. Khi là linh mục trẻ, ngài làm hồi sinh một giáo xứ trong khu “tồi tệ” của thành phố chỉ sau ba năm hoạt động.
Tuy nhiên ngài vẫn muốn trở thành nhà truyền giáo, do đó lúc 28 tuổi ngài gia nhập Dòng Ðức Mẹ, là tu hội chú trọng đến công việc truyền giáo ở trong và ngoài nước. Nhưng, trái với điều mong ước, ngài lại được chỉ định công việc dạy học ở đại chủng viện Belley trong vòng năm năm kế đó, và ngài thi hành nhiệm vụ ấy với tất cả nhiệt thành.
Vào năm 1836, nhà dòng được giao cho vùng New Hebrides ở Thái Bình Dương để truyền giáo, và Cha Phêrô thật vui sướng được bổ nhiệm là bề trên của nhóm truyền giáo, tuy nhỏ nhưng hăng say rao giảng Ðức Tin cho dân cư trên đảo.
Sau mười tháng lênh đênh trên biển, họ đã cập bến và tách ra làm hai nhóm, và nhóm của Cha Phêrô thì đến Ðảo Futuna với hai người phụ tá, gồm một thầy dòng và một giáo dân người Anh. Khi ấy dân cư trên đảo còn trong tình trạng bán khai mà lệnh cấm ăn thịt người chỉ vừa mới được ban hành. Lúc đầu các vị truyền giáo được người bản xứ và tù trưởng Niuliki tiếp đón niềm nở.
Tuy nhiên, khi các ngài càng ngày càng sành sõi tiếng địa phương và càng được dân chúng tin tưởng thì ông tù trưởng cảm thấy ghen tức và lo sợ; ông thấy rằng việc chấp nhận đức tin Công Giáo sẽ đưa đến sự bãi bỏ một số đặc quyền mà ông đang được hưởng, với tư cách của một thượng tế và vừa là người cầm quyền. Sau cùng, khi chính con trai ông bày tỏ lòng ước ao muốn được rửa tội, sự căm thù của ông bùng nổ và ông sai các chiến sĩ của ông đi bắt vị trưởng nhóm truyền giáo. Do đó, ngày 28 tháng Tư 1841, Cha Phêrô bị bắt và bị đánh đập cho đến chết bởi những người mà ngài muốn cứu vớt linh hồn họ.
Chỉ trong vòng hai năm sau cái chết của ngài, mọi người trên đảo đều theo đạo Công Giáo và vẫn trung thành với đức tin ấy cho đến ngày nay. Cha Phêrô Chanel là vị tử đạo đầu tiên ở Ðại Dương Châu và là quan thầy của châu này.

Lời Bàn

Chịu đau khổ vì Ðức Kitô có nghĩa đau khổ vì muốn trở nên giống như Ðức Kitô. Thường thường chúng ta bị chống đối là vì hậu quả của sự ích kỷ và thiếu khôn ngoan. Chúng ta không phải là người tử đạo khi bị “bạc đãi” bởi những người đã đối xử với chúng ta y như chúng ta đối xử với họ. Một vị tử đạo Kitô Giáo là người, giống như Ðức Kitô, chỉ đơn giản làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, và sống thật với chính mình.

Lời Trích

“Không ai là vị tử đạo chỉ vì một quyết định, không ai là vị tử đạo vì một ý kiến; chính đức tin tạo nên vị tử đạo” (Ðức Hồng Y Newman, Bài Diễn Văn cho Các Giáo Ðoàn Hỗn Hợp)

Thánh Louis Montfort

Have You Given Yourself to Mary? - Our Lady's Blue Army

Thánh Long Mộng Phố - Louis Montfort

 

 

Thứ Năm

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Cv 13, 13-25

"Bởi dòng dõi Ðavít, Thiên Chúa đã ban Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Rời Paphô, Phaolô và các bạn vượt biển đến Perghê xứ Pamphy-lia; còn Gioan từ biệt các ngài, và trở về Giêrusalem. Hai ngài sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường. Sau khi đọc sách luật và các tiên tri, những thủ lãnh nhà hội đường sai người đến nói với các ngài rằng: "Hỡi anh em, nếu ai trong anh em có lời khuyên bảo dân chúng, xin hãy nói".

Phaolô đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng và nói: "Hỡi người Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây. Thiên Chúa dân Israel đã chọn Tổ phụ chúng ta, Người đã thăng tiến dân Người khi họ còn cư ngụ trong nước Ai-cập và Người ra tay mạnh mẽ đưa cha ông chúng ta ra khỏi nước ấy. Trong thời gian bốn mươi năm, Người chịu đựng thói xấu họ trong hoang địa; và sau khi đã tiêu diệt bảy dân tộc trong đất Canaan, Người đã cho họ chiếm đất của các dân tộc ấy gần bốn trăm năm mươi năm; và sau đó, Người ban cho họ các thẩm phán cho đến tiên tri Samuel. Kế đó, họ xin một nhà vua và Thiên Chúa cho Saolê, con ông Cis, thuộc chi họ Bengiamin, cai trị họ bốn mươi năm. Sau khi loại bỏ Saolê, Chúa đã đặt Ðavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã phán: "Ta đã gặp được Ðavít con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta".

"Bởi dòng dõi Ðavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ, Ðấng mà Gioan đã báo trước khi người đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành trình, ngài tuyên bố: "Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 21- 22. 25 và 27

Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời", trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.

2) Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta. Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người. - Ðáp.

3) Thành tín và ân sủng của Ta hằng ở với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người tăng thêm mãi. Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Tảng Ðá cứu độ của con". - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 28, 19 và 20

Alleluia, alleluia! - Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 13, 16-20

"Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Sau khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: "Thật, Thầy bảo thật các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc. Thầy không nói về tất cả các con, vì Thầy biết những kẻ Thầy đã chọn, nhưng lời Thánh Kinh sau đây phải được ứng nghiệm: Chính kẻ ăn bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta. Thầy nói điều đó với các con ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy đến, để một khi xảy đến, các con tin rằng: Thầy là ai. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Ðấng đã sai Thầy".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Lời Chúa

 

Khía cạnh "Mục Tử Thần Linh" của chủ đề "Thày là sự sống" trong Tuần Thứ IV Phục Sinh tiếp tục được chất chứa trong bài Phúc Âm của Thứ Năm hôm nay. Ở chỗ Chúa Kitô tỏ mình ra cho các tông đồ biết "Ta là cửa chuồng chiên... Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân...Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào", khi Người phục vụ các vị là chiên của Người bằng cách rửa chân cho các vị, và vì thế, để vào "qua cửa chuồng chiên" là Người thì các tông đồ cũng phải noi gương bắt chước Người thì mới thực sự phản ảnh vai trò Mục Tử Thần Linh của Người, nhờ đó mới mang lại cho chiên sự sống và là sự sống viên mãn. 

 

"Sau khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: 'Thật, Thầy bảo thật các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc... Thật, Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Ðấng đã sai Thầy".  

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu còn kín đáo nói đến người môn đệ Giuđa Íchca cũng có mặt ngay lúc Người nói về hắn bấy giờ: "Thầy không nói về tất cả các con, vì Thầy biết những kẻ Thầy đã chọn, nhưng lời Thánh Kinh sau đây phải được ứng nghiệm: Chính kẻ ăn bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta".

 

Đúng thế, Giuđa Íchca là người môn đệ biểu hiệu cho cái chân, vì trong bất cứ một danh sách nào liệt kê 12 tông đồ của bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm, thì trước tiên là Phêrô, vị tông đồ làm đầu lãnh đạo tông đồ đoàn, và sau hết trong danh sách tông đồ đoàn là Giuđa Íchca, vị tông đồ đóng vai cuối cùng trong thân thể con người là cái chân. Bởi thế, việc Chúa Kitô rửa chân cho các tông đồ ám chỉ "Người đã yêu thương những kẻ thuộc về mình thì Người muốn chứng thực rằng Người yêu thương họ cho đến cùng" (Gioan 13:1), tức Người yêu cả "đầu" là Phêrô, thân mình là tông đồ đoàn, bao gồm cả "chân" là Giuđa Íchca.

Và việc Người rửa chân bao gồm cả Giuđa Íchca tội lỗi, một con chiên lạc đàn bất hạnh đáng thương, là cố ý để, như Người tiết lộ sau việc Người rửa chân, làm gương cho các vị tông đồ làm theo, nghĩa là thành phần tông đồ môn đệ của Người, thành phần sẽ thay Người chăm sóc đàn chiên của Người, cũng cần phải biết "yêu thương cho đến cùng", chẳng những nơi việc hy hiến mạng sống mình như Người cho chung đàn chiên, mà còn phải yêu thương đến cùng ở chỗ yêu thương từng con chiên, nhất là các con chiên lạc, có thế mới thật sự nên giống Người và mới có thể làm chứng về Người, "Vị chủ chiên nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên.... cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn hơn" (Gioan 10:11,10).

 

 

Bài Đọc I (Tông Vụ 13:13-25):

 

Đúng thế, vai trò Mục Tử Thần linh của Chúa Kitô Thiên Sai đã được tiếp nối bởi những ai được Người tuyển chọn và sai đi, thành phần như Người khẳng định trong bài phúc âm là "Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy", vì họ đã '"qua cửa chuồng chiên" là chính Người mà vào, nghĩa là đã noi gương bắt chước tinh thần phục vụ của Người, ở chỗ chỉ lo cho lợi ích của chiên, hơn là của mình, đến độ sẵn lòng hy sinh cho chiên được sống, nhờ đó, lời chứng đầy thâm tín của họ trở thành khả tín và có sức thuyết phục, như trường hợp của Tông Đồ Phaolô ở Antiôkia trong bài đọc thứ nhất hôm nay:

 

"Phaolô đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng và nói: 'Hỡi người Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây... Bởi dòng dõi Ðavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ, Ðấng mà Gioan đã báo trước khi người đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành trình, ngài tuyên bố: 'Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người'".

 

Ngày 29 tháng 4

Thánh Ca-ta-ri-na Xi-ê-na, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh

On Not Losing Heart: Catherine of Siena and the Strategies of Prayer and  Friendship - C21 Engage

Ca-ta-ri-na sinh năm 1347 tại Xi-ê-na. Ngay từ thuở niên thiếu, chị đã khao khát sống cuộc đời hoàn thiện, say mê chiêm ngưỡng Chúa Ki-tô chịu đóng đinh, và hết mình phục vụ Hội Thánh bấy giờ đang bị xâu xé. Vì thế, chị đã gia nhập Dòng Ba Đa-minh. Thấm nhuần tinh thần của thánh tổ phụ, chị yêu mến Thiên Chúa và tha nhân một cách nồng nàn, cổ võ bình an thuận hoà giữa các thành của nước Ý, can đảm bênh vực quyền lợi và sự tự do của Giáo Hội, và góp phần canh tân đời sống đạo đức. Chị đã viết nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Chị qua đời năm 1380. Đến năm 1939, đức giáo hoàng Pi-ô XII tuyên phong chị làm bổn mạng nước Ý, rồi năm 1970, đức giáo hoàng Phao-lô VI ghi tên chị vào số các tiến sĩ Hội Thánh.

Con đã nếm thử và đã nhìn thấy

Bài đọc 2

Trích sách Đối thoại của thánh Ca-ta-ri-na Xi-ê-na, trinh nữ, về Thiên Chúa quan phòng.

Ôi Thiên Chúa vĩnh hằng, ôi Ba Ngôi vĩnh cửu ! Ngài đã dùng sự kết hợp với bản tính Thiên Chúa mà làm cho máu Con Một Ngài có giá trị biết bao ! Lạy Ba Ngôi vĩnh cửu, Ngài ví tựa đại dương sâu thẳm, càng tìm con càng thấy ; càng thấy con càng tìm. Ngài làm cho linh hồn được no thoả nhưng dường như lại không no thoả. Bởi lẽ trong vực thẳm của Chúa, Chúa làm cho linh hồn được no thoả mà vẫn còn luôn đói khát Chúa, vì linh hồn vẫn hết sức ước mong khao khát được thấy Chúa là ánh sáng trong ánh sáng của Chúa, ôi lạy Ba Ngôi vĩnh cửu !

Nhờ ánh sáng trí khôn và trong ánh sáng của Chúa, lạy Chúa Ba Ngôi, con đã nếm thử và đã nhìn thấy vực thẳm của Ngài cũng như vẻ đẹp của thụ tạo do Ngài dựng nên. Vì khi chính bản thân con được mặc lấy Ngài, con đã thấy con là hình ảnh của Ngài. Lạy Cha vĩnh cửu, điều này có nghĩa là Cha ban cho con được tham dự vào quyền năng và sự khôn ngoan của Ngài, sự khôn ngoan của riêng Con Một Ngài. Còn Thánh Thần, Đấng phát xuất từ Ngài là Cha và từ Con của Ngài, lại ban cho con ý muốn, và nhờ đó làm cho con có thể yêu mến.

Vì chính Ngài, lạy Ba Ngôi vĩnh cửu, Ngài là Đấng Sáng Tạo, còn con là thụ tạo : do đó, nhờ Ngài soi sáng, con cũng biết được rằng khi tái tạo con nhờ máu của Con Một Ngài, thì Ngài đã say mê vẻ đẹp nơi thụ tạo do Ngài dựng nên.

Ôi vực thẳm, ôi Ba Ngôi vĩnh cửu, ôi Thiên Chúa, ôi đại dương sâu thẳm, Chúa còn có thể ban cho con ơn gì lớn lao hơn chính Ngài nữa chăng ? Chúa là lửa luôn rực cháy mà không thiêu rụi. Chúa dùng sức nóng của Chúa mà thiêu huỷ mọi tình yêu vị kỷ của linh hồn. Chúa là lửa đánh tan mọi băng giá, và Chúa dùng ánh sáng của Chúa mà soi sáng trí lòng. Đó là ánh sáng Chúa đã dùng để làm cho con nhận biết chân lý của Chúa.

Khi soi mình trong ánh sáng ấy như trong một tấm gương, con nhận biết rằng : Chúa là sự thiện tuyệt đối, sự thiện vượt trên mọi sự thiện, sự thiện đem lại hạnh phúc, sự thiện không thể hiểu thấu được ; Chúa là vẻ đẹp vượt trên mọi vẻ đẹp ; Chúa là sự khôn ngoan vượt trên mọi khôn ngoan. Bởi vì Chúa là chính sự khôn ngoan ; Chúa là lương thực nuôi các thiên thần, nhưng vì lòng yêu thương nung nấu, Chúa đã tặng ban chính mình cho nhân loại.

Chúa là tấm áo che cho con khỏi trần trụi ; Chúa lấy sự dịu ngọt của Chúa mà nuôi dưỡng chúng con là những kẻ đang đói lả, vì Chúa ngọt ngào không chút đắng cay. Ôi lạy Ba Ngôi vĩnh cửu !

Lạy Chúa, Chúa đã đốt lửa yêu mến nồng nàn trong lòng thánh nữ Ca-ta-ri-na Xi-ê-na, khiến thánh nữ vừa thiết tha chiêm ngưỡng Đức Ki-tô chịu khổ nạn, vừa hăng say phục vụ Hội Thánh. Xin nhậm lời thánh nữ chuyển cầu mà cho dân Chúa biết thông phần khổ nạn với Đức Ki-tô, để được vui mừng chiêm ngưỡng vinh quang Chúa. Chúng con cầu xin

 

 

Cartarina sinh 1347 tại Siêna, là con út của một gia đình đông đảo, cha Ngài, ông Giacômô là một thợ nhuộm giàu có, Mẹ Ngài Mônna Lapa là một người quản trị có nhiều khả năng và giàu nghị lực của gia đình sống động này.

Cartarina đã trải qua tuổi nhỏ thơ ấu bình thường với tính vui đặc biệt khác hẳn với các anh chị. Nhưng với tuổi thanh xuân, Ngài đã say mê cầu nguyện trong cô tịch. Bà Lapa rất bực mình và có thời bà coi Cartarina như một đứa con khó trị, vì cô đã cưỡng lại sự hướng dẫn của mẹ trong những công việc như ăn mặc và giải trí, chống đối cả những đề nghị thành hôn và luôn cương quyết trong ý tưởng trở nên một nữ tu.

Ngay hồi 7 tuổi, Cartarina đã khấn với Đức Trinh nữ rằng : Chúa Giêsu là vị hôn phu duy nhất của mình. Lên 12 tuổi, cha mẹ muốn gả chồng cho Cartarina. Nhưng rồi cha mẹ Ngài đã hiểu rằng: không thể thay đổi ý định của Ngài được. Đàng khác, sau nhiều thử thách, cha mẹ Ngài phải cảm kích khi thấy Ngài vẫn dịu dàng tuân phục trong những việc nặng nề và từ đó họ không chống lại tiếng gọi thần linh nữa.

Năm 16 tuổi, Cartarina được mặc áo dòng ba Đaminh. Luật lệ dòng cho phép Ngài mặc áo đen trắng của dòng mà vẫn ở nhà với cha mẹ. Từ đó, trong 3 năm trời thánh nhân chỉ rời phòng riêng khi đi lễ và xưng tội. Ngài chỉ nói chuyện với cha giải tội của Ngài thôi. Sau này vị linh mục tốt lành này thú nhận rằng mình thường cảm thấy thiếu khả năng để hứơng dẫn Cartarina.

Cũng trong thời gian này có khi thánh nhân chỉ ăn một muỗng cháo và ngủ vài giờ mỗi ngày. Những khó nhọc khổ chế thể xác ấy còn quá nhẹ so với cơn thử thách mà quỷ gây ra trong tâm hồn. Khi hết các thử thách, Chúa Giêsu hiện đến dưới hình dạng bê bết máu trên thánh giá. 

– Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con một mình chiến đấu với những dày vò kia ? Thánh nhân trách.

– Cha vẫn phải với con.  Chúa trả lời.

– Sao, Chúa ở giữa những tư tưởng kinh tởm làm nhơ nhớp linh hồn con sao ?

– Nhưng những thử thách ấy đâu có làm cho con phiền muộn quá mức ?

– Ôi, con kinh sợ và đau buồn quá mức ?

– Đó, các tư tưởng ấy đã không thể làm nhơ uế hồn con vì con tởm gớm chúng. Chính cha ngự trong lòng con và đã cho con ơn biết đau buồn vì chúng.

Chúa Giêsu đã thưởng công cho lòng dũng cảm và trung tín của Cartarina bằng cuộc viếng thăm này. Thánh nhân xin cho được kết hợp mật thiết với Chúa hơn. Trong một thị kiến, Đức trinh Nữ đã cầm tay thánh nữ và Con Ngài đã xỏ vào tay thánh nữ một chiếc nhẫn vàng và chỉ một mình thánh nữ trông thấy. Đây là Lễ Cưới nhiệm mầu.

Sau biến cố đặc biệt này, thánh nữ bắt đầu chia sẻ mọi việc trong nhà, nuôi dưỡng bệnh nhân và giúp đỡ những người nghèo. Người ta còn nhắc đến việc Ngài săn sóc cho một người cùi và một người bị ung thư; để vượt qua sự ngại ngùng, Ngài dám hôn vết thương tanh hôi của họ. Anh hùng săn sóc cho thể xác, chắc chắn Ngài cũng nhiệt tình lo lắng cho linh hồn con người . Một phạm nhân cứng lòng đã hối cải sau lời khuyên của thánh nữ, và lãnh nhận cái chết đạo đức trong tay thánh nữ.

Được ơn thấu suốt các tâm hồn, thánh nhân đã trở nên nơi tập họp của một lớp người đông đảo cầu thuộc đủ mọi thành phần. Họ bị lôi kéo bởi sự vui tươi lẫn đời sống khổ hạnh của Ngài, bởi tính khí bình dân lẫn sự hiểu biết sâu sắc về đường thiêng liêng, bởi nét đẹp bình dị của Ngài. Người ta gọi nhóm người qui tụ bên Ngài là “Trường phái thần bí”.

Với ảnh hưởng lớn lao ấy, thánh Cartarina được mệnh danh là “Thiên thần hòa giải” bởi những mối thù hận giữa gia đình không thể chống lại được ảnh hưởng của Ngài. Ngài nói : – Ghen ghét người lân cận là chống đối lại Thiên Chúa, là hủy diệt đối với người nuôi dưỡng nó, bởi vì ai sống trong ghen ghét, họ tự ghét bỏ mình còn hơn là ghét bỏ thù nghịch nữa.

Trước uy tín dặc biệt này của thánh nhân Bề trên đã đặt Ngài mang lời Chúa đến cho dân chúng. Ngài dạy ở Siêng Pisa, Rôma. Mọi người đều ngạc nhiên khi thấy một người con gái bình thường lại có thể diễn đạt tư tưởng như một nhà thần học và một nhà triết học.

Trở về phòng riêng, thánh nữ tiếp tục cuộc rao giảng Tin Mừng, khích lệ và nâng đỡ các tâm hồn. Ngài viết thư cho các vua chúa và cho cả Đức giáo hoàng, các tu sĩ vâng phục Ngài, các hiệp sĩ bày tỏ nỗi lòng với Ngài. Những việc hệ trọng nhất được giao phó cho Ngài, một trật Ngài có thể đọc cho hai hay ba thơ ký viết về những đề tài khác nhau. Bởi đó, Ngài đã giữ một vai trò lớn lao trong lịch sử, mang lại an bình cho Giáo hội, ngăn chận cuộc nổi loạn ở Pisa và Tôscane. Ngài là Thiên thần của Siêna trong cuộc nội chiến và dịch hạch. Nhiều thành phố nổi dậy chống lại Đức giáo hoàng Gregoriô XI là Đấng rời tòa sang Pháp.

Tháng 5 năm 1376, Ngài sang Avignon nài nỉ Đức giáo hoàng trở về Rôma. Các thư từ của Ngài thổi vào sự can đảm cần thiết cho cuộc trở về này. Khi cuộc nổi loạn ở Florence bùng nổ, người ta bỗng thấy thánh Cartarina xuất hiện, quỳ dưới chân thủ lãnh những người nổi loạn và nói: – Ông muốn tìm Cartarina phải không ? Nó đây, nhưng xin đừng hại những người này.

Cảm kích vì lòng gan dạ của thiếu nữ, người đứng đầu chấm dứt âm mưu nổi dậy.

Đức giáo hoàng Grêgoriô XI bỏ Avignon ngày 13 tháng 9 năm 1376. Khi đức giáo hoàng Gregoriô qua đời, Cartarina trở về Siena và đọc cho thơ ký viết cuốn: “Đối thoại về Chúa quan phòng”. Nhưng có sự chia rẽ, Ngài đứng về phía Urbanô VI. Trong những bức thư đầy sinh lực, Ngài kêu gọi các vua Au châu vâng phục Đức giáo hòang. Bốn trăm bức thư và cuốn sách thánh nhân để lại là một kho tàng lớn lao trong các tác phẩm thiêng liêng.

Giữa các hoạt động rực rỡ trên, thánh Cartarina đã phải chịu những đau đớn vô danh. Chúng ta biết rằng: từ Chúa nhật thứ IV mùa chay năm 1375, Ngài đã được in năm dấu thánh. Dấu chỉ lộ rõ sau khi Ngài qua đời.

Một chiều tháng giêng năm 1380, thánh nhân đã ngã bệnh trong khi đọc một lá thơ viết cho đức giáo hoàng Urbanô. Phục hồi một phần, nhưng Ngài vẫn sống trong một cơn hấp hối nhiệm màu, một chuộc chiến đấu với ma quỉ. Và Ngài ngã bệnh hôn mê lần thứ hai khi đang cầu nguyện tại đền thờ thánh Phêrô và qua đời ba tuần sau vào ngày 29 tháng 4 năm 1380.

Ngài được mai táng dưới chân bàn thờ dòng Đa Minh Santa Maria Sopra Minerva, nhưng đầu Ngài sau này được dời về Siena. Tám mươi mốt năm sau Ngài được phong thánh.

Ngày 04 tháng 10 năm 1970, đức Phaolô VI đã tôn phong Ngài vào hàng tiến sĩ Hội Thánh.

(Trích từ sách Theo Vết Chân Người, Dòng Đa Minh)

https://daminhtamhiep.net/2014/04/tieu-su-thanh-catarina-siena/

Thánh Catarina Siena: Vị Thánh của Thánh Thể

 

“Ôi Catarina, một Catarina ngọt ngào biết bao” là những gì mà tôi đã gọi tên vị thánh rất mạnh mẽ này. Thánh Nữ đã chiếm lấy trái tim tôi không giống bao nhiêu người khác.

Sinh tại Siena, nước Ý vào năm 1347, Catarina là con thứ 25 trong số 26 người con của hai ông bà Giacomo và Lapa di Benincasa. Nhiều anh chị em của Catarina, cả người chị sinh đôi, Giovanna, đã chết khi mới được vài tháng tuổi. Cha của Thánh Nữ là một thợ may quần áo, làm việc ở dưới tầng trệt của căn nhà lớn của gia đình cùng với những người làm công sống ở tầng trên.

Lúc 6 tuổi, Catarina bắt đầu nhận được nhiều ơn huyền bí và khi Catarina mới chỉ 12 tuổi, Thánh Nữ đã đoan hứa giữ khiết tịnh với Đấng Yêu Dấu là Chúa Giêsu. Khi người chị của Catarina là Bonaventura chết khi sinh con, và cô bé Catarina lúc đó 16 tuổi đã cảm thấy rất khó chịu, buồn bực về kế hoạch của cha mẹ khi cho Catarina kết hôn với quan phụ của Bonaventura, do vậy, Catarina đã cắt luôn mái tóc của mình và ăn chay liên tục. Cha mẹ của Catarina đã gửi Thánh Nữ đến gặp người anh họ mà họ yêu mến nhưng, lại không biết về cha mẹ của Catarina, chính người anh họ này lại cảm thông với mong ước của Catarina chỉ thuộc về một mình Chúa Giêsu, và là người đã khuyên Catarina cắt đi mái tóc của mình như là một dấu chỉ của tình yêu mà Catarina dành cho Chúa Giê su vì hành động này sẽ là điều cho thấy Catarina không mong muốn nhận lời của người nam nào trong những ngày này.

Catarina đã trở thành một phần tử của Dòng Ba Đa Minh sau khi đã hai lần bị từ chối và nhận những chữ đầu của T.O.S.D sau tên của ngài. Sau một thời gian gần ba năm sống trong phòng ngủ như là một “tập viện” ( không phải là tập viện của Catarina dành cho tu sĩ Đa Minh nhưng là một sự đào tạo huấn luyện cá nhân), Thánh Nữ đã được Thiên Chúa sai vào trong thế giới để làm điều tốt lành. Thánh Catarina được biết đến vì sự cống hiến thật lớn lao cho việc chăm sóc người đau bịnh- Catarina sinh ra trong thời điểm Châu Âu đang xảy ra bệnh dịch lớn- Thánh Nữ sẽ đi vào các nhà, bệnh viện và chăm sóc những bệnh nhân, điều mà người khác không làm được. Catarina đã lau rửa những vết thương ghê tởm của bệnh nhân và băng bó lại. Khi những bệnh nhân qua đời, Catarina đã tự tay chôn cất họ.

Tuy nhiên, quà tặng lớn nhất của Catarina nằm ở khả năng của Thánh Nữ về việc dạy và thuyết giảng về đức tin và tình yêu của Thánh Nữ về Bí tích Thánh Thể. Trong thời của Catarina, việc lãnh nhận Thánh Thể hằng ngày là điều không thường xuyên- nếu có, phải có phép và hầu như là đều không được lãnh nhận Thánh Thể mỗi ngày. Tuy nhiên, Catarina đã lãnh nhận được rất nhiều ơn sủng huyền bí trong Bí tích Thánh Thể - điều rất đỗi tuyệt vời là tình yêu sâu xa của Catarina dành cho Chúa Giê su trong Bí tich Thánh Thể. Những thị kiến và những lần xuất thần thường kéo dài quảng 3-4 tiếng đồng hồ lúc Rước Lễ…mà nhiều linh mục đã chứng thực về điều này. Thực vậy, linh mục giải tội, hướng dẫn thiêng liêng cho Catarina, là Cha Raymond Capua kể về người phụ nữ thánh thiện và mạnh mẽ này trong tiểu sử viết về Catarina mà Cha Raymond Capua đã viết:

“Đức Thánh Cha Greory XI…để làm toại nguyện sự khát khao của Catarina, đã ban một Sắc Chỉ cho phép Catarina có một linh mục để sắp đặt và giải gỡ cho Catarina và cho Catarina rước lễ và cũng có một bàn thờ di dộng, đến nỗi Catarina có thể nghe Thánh lễ và Rước lễ ở bất cứ khi nào, chỗ nào mà Thánh Catarina thích”. (Capua, the Life of St. Catherine of Siena – Đời sống của Thánh Catarina Siena, tr.284)

Thêm nữa…

“Với khoảng thời gian bảy năm trước khi chết, Thánh Catarina Siena đã không ăn uống gì, ngoại trừ Rước Lễ. Tuy nhiên, việc ăn chay này không ảnh hưởng gì đến sức lực Thực tế là, hầu hết các ý định, thành công lớn lao của Thánh Catarina đã diễn ra trong suốt khoảng thời gian bảy năm này. Ăn chay không làm mất đi năng lượng nơi Catarina, nhưng lại trở nên một nguồn sức mạnh lạ kỳ, Thánh nữ trở nên mạnh khỏe vào buổi chiều, sau khi đã Rước Lễ, đón nhận Chúa chúng ta trong Bí tích Thánh Thể của Ngài.

Tình yêu mãnh liệt của Catarina vào Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể đã làm cho Thánh Nữ đi đến với người nghèo, đặc biệt là những người rất đau ốm và chăm sóc họ như Catarina đã làm. Đây không phải là linh đạo Thánh Thể mà Mẹ Têrêsa Calcutta đã sống- đến nỗi mà Mẹ Teresa đã có thể nâng những người sắp chết từ những khu máng xối của ổ chuột, đưa họ về đến những phòng khám của Mẹ và chăm sóc học cho đến khi họ có thể khá hơn hay chết với phẩm giá của họ? Tình yêu và sự dâng hiến cho Chúa Giêsu nơi Thánh Thể đã làm nên điều đó. Các ngài đã mang lấy những lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthêu 25,40 “Bất cứ điều gì anh em làm cho những người anh em bé nhỏ nhất của Ta là các ngươi đã làm cho chính Ta”.

Trong cuốn Đối Thoại, Chúa Giê su nói với Catarina hai điều về tình yêu dành cho người thân cận:

“Họ yêu mến người anh em của họ với cùng một tình yêu mà họ đã yêu mến Ta” – Đối thoại 60

“Linh hồn, ngay khi biết Ta, đã tìm kiếm để yêu những người thân cận”. Đối thoại 89

Thánh Catarina Siena: Vị Thánh của Thánh ThểNhưng chính trái tim của Chúa Ki tô đã chạm đến Catarina cách sâu xa nhất. Catarina đã có một sự hiến dâng mạnh mẽ cho Trái Tim của Chúa Giêsu- vết thương ở cạnh sườn Ngài. Thánh Nữ đã từng khao khát để được uống lấy cách thiêng liêng các ân sủng đã tuôn trào cách nhưng không từ cạnh sườn Ngài, như một đứa trẻ bú lấy giòng sữa từ người mẹ và Catarina đã lấy những hình ảnh này như một nguồn suối nuôi dưỡng và làm tăng sự hiến dâng của Catarina dành cho Chúa Giêsu.

Trong cuốn Bí mật của Trái Tim ( The Secreat of the Heart)- Một Nghiên Cứu Thần Học cvề những Lời Dạy của Catarina Siena về Trái Tim Chúa Giêsu, là Sr. Mary Jeremiah, O.P - tác giả của cuốn sách- đã nói “ Mặc dù Catarina Siena đã sống trong thế kỷ 14, nhưng lời dạy của Thánh Nữ vẫn còn liên hệ đến ngày hôm nay”. Chính Thánh nữ đã viết một lá thư cho một tu sĩ nói rõ rằng trái tim của Chúa Ki tô là “ một kho mở rộng, chất chứa đầy những chất đậm đà với một sự giàu có phong nhiêu của lòng thương xót ban tặng Ân Sủng.” (trang 97)

Chúng ta được kêu mời sống với Bí tích Rửa tội để yêu người khác với trái tim của Chúa Ki tô, Đấng đã nói “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Gioan 13, 34-35). Chúng ta sẽ chẳng yêu người khác bằng một tình yêu đủ ấm áp được, nhưng vì Chúa Giêsu đã yêu chúng ta một cách vô điều kiện và dám chết vì yêu chúng ta. Yêu tha nhân không chỉ là có tình cảm với họ. Thánh Catarina và tất cả các vị thánh lớn lao đã mang lấy lệnh truyền của Chúa Ki tô để đi về phía trước và làm vì những người khác, và thường là dám chấp nhận rủi ro về mạng sống của mình. Khi Catarina tình nguyện chăm sóc một người phụ nữ có tên là Tecca, bị bệnh phong cùi đang chữa trị tại bệnh viện địa phương, Mẹ của Catarina là bà Lapa đã rất lo lắng vì lo sợ con gái mình sẽ bị nhiễm căn bệnh gớm ghiếc đó.

Đúng như vậy, bàn tay của Catarina đã bị phơi nhiễm bệnh phong, nhưng vì yêu người phụ nữ này (thường không có một trái tim biết ơn với sự chăm sóc của Catarina với mình) đã không làm cho người trinh nữ Catarina ngừng chăm sóc, phục vụ Tecca. Khi Tecca chết, chính Catarina đã tắm xác và mặc quần áo cho thân thể đầy dẫy những vết lở loét của bệnh cùi, chuẩn bị mọi sự để chôn cất, đặt thi thể người phụ nữ này cách dịu dàng, âu yếm trong chiếc quan tài, đọc kinh cầu nguyện và tự tay đóng quan tài lại. Ngay khi đó, đôi bàn tay của Catarina đã được chữa khỏi cách kỳ diệu, lạ lùng, và đôi bàn tay nhìn trẻ trung hơn trước. Đó là tình yêu và niềm tin vào Thiên Chúa mà các thánh đã có.

Tình yêu của chúng ta dành cho Chúa Giê su trong những người khác, thân cận, là những gì đưa chúng ta lên Trời. Trong Lời Nguyện Thánh Thể II của Phụng vụ khẩn nài Thiên Chúa đưa chúng ta đến “sự tràn đầy của lòng bác ái” vì đó là nơi trời ở đó. Trong thư gửi tín hữu Rôma 12,1, Thánh Phao lô đã khẩn nài chúng ta “hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động”. Đó là những gì mà Thánh Catarina đã làm khi Thánh Nữ đã khóc ra bên ngoài khi cầu nguyện “Ôi lạy Thiên Chúa Hằng Hữu, xin hãy đón nhận lễ hy sinh cuộc đời con cho Thân Thể Mầu Nhiệm của Giáo Hội Thánh của Ngài”. Theo Thánh Justin- Tử đạo, trong cuốn Dialog With Trypho the Jew của mình, Thánh Justin nói rằng, khi chúng ta được rửa tội “là chúng ta trở thành dân Israel đích thực bắt nguồn từ Chúa Kitô , vì chúng ta được tạo thành từ Trái Tim của Ngài như là từ tảng đá”.

Các ân sủng từ phép rửa phải được nuôi dưỡng thường xuyên nhất với Bí tích Thánh Thể- Thân Thể - Máu - Linh Hồn- Thần Tính Thực, cùng với việc tiếp nhận thường xuyên Bí tích hòa Giải và có thời gian Chầu Thánh Thể, chiêm ngắm Đấng yêu thương chúng ta. Chúng ta được kêu gọi để mang niềm hy vọng đến cho những người ở giữa chúng ta, với những người mà xã hội con họ là những người bị phong cùi về tinh thần, không chỉ là bằng lời nói nhưng còn là bằng hành động của chúng ta nữa.

Chúng ta hãy đứng dậy, và “đi ra khỏi đây” (Gioan 14,31); chúng ta hãy “thức dậy từ giấc ngủ của chúng ta” (Rma 13,11) để làm những điều tốt đẹp mà chúng ta có thể làm cho những người bị thế giới này khinh bỉ và cho những người “không đáng kể” 1Cr 1,28). Chúng ta hãy cầu nguyện, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Catarina Siena, đấng đã ìm thấy nhiều niềm vui trong sứ mạng phục vụ vì người nghèo hơn là trong tất cả những trạng thái ngây ngất trên thiên đàng, những thị kiến, những phép lạ và những hiện tượng bí nhiệm khác để làm Chúa Giê su hài lòng. Chúng ta hãy bày tỏ tình yêu của chúng ta với Chúa và cầu xin Người dùng chúng ta theo thánh ý và mục đích của Ngài dành cho người nghèo, và cho những người đã làm tổn thương chúng ta.

 

Tác giả: Cynthia Trainque

Chuyển ngữ: Nt. Teresa Ngọc Lễ, O.P

Nguồn: https://catholicexchange.com

http://daminhthanhtam.org/dong-da-minh/linh-dao85561335/thanh-catarina-siena--vi-thanh-cua-thanh-the.html

 

 

 

 

Thứ Sáu

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cv 13, 26-33

"Thiên Chúa đã làm trọn lời hứa khi cho Ðức Giêsu sống lại".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, khi Phaolô đến Antiôkia thuộc xứ Pisiđia, ông lên tiếng trong hội đường rằng: "Thưa chư huynh, con cháu Abraham, và những người kính sợ Thiên Chúa ở giữa chư huynh, lời cứu độ đó đã được rao giảng cho chư huynh. Những người cư ngụ ở Giêrusalem và các thủ lãnh của họ đã không nhìn nhận Ðức Giêsu và các lời tiên tri mà họ đọc mỗi ngày Sabbat; thế mà họ đã làm ứng nghiệm lời tiên tri khi lên án Người. Và dầu không thấy nơi Người lý do nào đáng phải chết, họ cũng xin Philatô cho giết Người. Và khi đã hoàn tất mọi điều đã chép về Người, họ đã tháo Người xuống khỏi cây thập giá và mai táng Người trong mồ. Nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết vào ngày thứ ba. Và trong nhiều ngày, Người đã hiện ra với những kẻ đã cùng với Người từ Galilêa lên Giêrusalem. Bây giờ những kẻ đó là những chứng nhân của Người trước mặt dân chúng.

"Phần chúng tôi, chúng tôi loan báo cho chư huynh hay rằng: lời hứa ban cho tổ phụ chúng ta, Thiên Chúa đã làm hoàn tất cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Ðức Giêsu sống lại, như đã chép trong thánh vịnh thứ hai rằng: 'Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con' ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 2, 6-7. 8-9. 10-11

Ðáp: Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con (c. 7).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Chính Ta đã đặt vương nhi Ta trên Sion, núi thánh của Ta. Ta sẽ tuyên rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con". - Ðáp.

2) Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia tài. Con sẽ cai trị chúng bằng cây gậy sắt, như bình thợ gốm, Con đem nghiền nát chúng ra. - Ðáp.

3) Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu biết, quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan mừng Người, hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô đã sống lại ra khỏi mồ, Người đã chịu treo trên thập giá vì chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 14, 1-6

"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Lời Chúa

 

Khía cạnh "Mục Tử Thần Linh" trong chủ đề "Thày là sự sống" cho Mùa Phục Sinh hậu Bát Nhật Phục Sinh tiếp tục với bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần IV Phục Sinh hôm nay. Ở chỗ, Vị "Mục Tử Thần Linh" này tiếp tục tỏ mình ra là "cửa chuồng chiên", là đường lối đến với chiên của Người và sống cho chiên như Người. Nếu Vị "Mục Tử Thần Linh" "cửa chuồng chiên" ở nơi tấm gương "hiến mạng sống mình vì chiên" (Gioan 10:11) thì Người cũng muốn các môn đệ tiếp tục vai trò Mục Tử Thần Linh của Người cũng hiến mạng sống của họ vì chiên như thế, như Người đã ngầm nói trong bài Phúc Âm:

 

"Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi".

 

"Thày đi dọn chỗ cho anh em" đây là gì mà Người trước đó đã phải trấn an các môn đệ của Người rằng "anh em đừng xao xuyến", nếu không phải là Người "tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19), nghĩa là Người đi chịu chết, tự hiến "để họ được thánh hóa trong chân lý", tức là để họ nhận biết Người là ai, nhờ đó, họ cũng có thể chết vì Người và như Người để làm chứng cho Người, đúng như ý nghĩa sâu xa của câu Người nói với các tông đồ: "Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó". 

Đó là ý nghĩa Thày "là cửa chuồng chiên", hay nói khác đi, theo câu tự xưng của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay, sau khi Người được người môn đệ tên Toma đặt vấn đề: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?", đó là: "Thày là đường", ám chỉ mẫu gương của Người, ám chỉ giáo huấn của Người, hầu những ai theo Người có thể chăn dắt đàn chiên của Người như Người, dám chết cho chiên: "Thày là sự thật", cho chiên được sống: "Thày là sự sống".

 

Thật vậy, trước hết "Thày là Đường" ở nơi mầu nhiệm nhập thể của Người, khi Người mặc lấy nhân tính như phương tiện để tỏ mình ra, cũng là "để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18). Sau nữa, "Thày là sự thật", nghĩa là "Tôi được sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật" (Gioan 18:37), bằng Mầu Nhiệm Khổ Giá của Người, để chứng thực Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, được sai đến bởi Vị "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến ban Con Một của mình" (Gioan 3:16) "không phải để luận phạt thế gian, mà là để thế gian nhờ Người mà được cứu độ" (Gioan 3:17).

 

Và cuối cùng "Thày là sự sống" nơi Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người, ở chỗ, Người chẳng những đã chiến thắng tội lỗi và sự chết của con người và nơi con người, mà còn tái sinh loài người vào sự sống thần linh của Người, nhất là thành phần "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi" (Gioan 10:27), thành phần "chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12) với Người và như Người, dù với tư cách chỉ là thành phần dưỡng tử của Cha Trên Trời.

 

Bài Đọc I (Tông Vụ ):

 

Nếu trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các tông đồ biết về số phận của Vị "Mục Tử Thần Linh" cần phải "đi để dọn chỗ cho anh em", tức là "tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý", hay hy sinh cho chiên được sống, mà chiên của Người đây, trước hết và trên hết là Giáo Hội Nhiệm Thể của Người, bao gồm chính thành phần môn đệ được Người tuyển chọn ở với Người mà làm chứng nhân cho Người, thì trong bài đọc thứ nhất hôm nay, thành phần đã được Người tự hiến để thánh hóa họ trong chân lý ấy đã thực sự trở thành chứng nhân của Người và cho Người, bằng chứng từ đầy xác tín và thuyết phục của họ, như được Sách Tông Vụ thuật lại như sau:

 

"Thưa anh em, là con cái thuộc dòng giống Áp-ra-ham, và thưa anh em đang hiện diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta. Dân cư thành Giê-ru-sa-lem và các thủ lãnh của họ đã không nhận biết Đức Giê-su; khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi ngày sa-bát. Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-la-tô xử tử. Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Trong nhiều ngày, Đức Giê-su đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân. Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này : điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con".

 

 

 

Thánh PIÔ V Giáo Hoàng (1504-1572)

PivsV.jpg

 

 

(1504 -1572)

"Những gì không thuộc về Thánh giá Chúa Kitô sẽ không làm cho chúng ta được vinh hiển". Đó là lời thánh Giáo Hoàng Piô V đã tuyên bố sau 60 năm tận tụy phụng sự Thiên Chúa, Giáo hội và phần rỗi nhân loại. Lời đó nhắc lại cho chúng ta giá trị đời đau khổ mà Chúa đã thánh hóa bằng Thập giá, nhưng đồng thời cũng tóm tắt đầy đủ đời sống thánh thiện của chính thánh nhân.

Thánh Giáo Hoàng Piô V tên thật là Micae Ghislieri. Ngài sinh ngày 17-01-1504 tại Bosco, một làng nhỏ xinh xinh thuộc địa phận Tortona và không xa thành Alexanđria. Đầu tiên cha mẹ ngài rất giầu sang và có thế lực, nhưng dần dần gia cảnh bị sa sút, ông bà phải tần tảo lắm mới nuôi nổi đàn con đông đúc. Cũng vì thế, Micae vừa lớn lên đã phải đi chăn chiên. Sau ba năm sống lặn lội với đoàn chiên, năm 1517, Micae được cha mẹ cho đi trường học. Còn gì hạnh phúc cho cậu hơn. Cậu coi đó là hồng ân Chúa quan phòng. Vì thế cậu sống ngoan ngoãn với các vị giáo sư, cần mẫn học tập và cố gắng thực hiện bác ái. Lợi dụng những giờ nhàn rỗi, Micae một mình vào nhà thờ cầu nguyện. Chính trong những giờ phút vắn vỏi nhưng quý báu này mà Micae đã được nghe tiếng Chúa gọi sống đời tận hiến. Năm 1518, Micae xin nhập dòng thánh Đaminh, và năm sau được nhận lời khấn trọng thể tại tu viện Vigevanô.

Nhận rõ trí khôn thông minh và nhất là khiếu đặc biệt về khoa thần học của thầy Micae, các bề trên quyết định cho thầy theo học tại đại học Bologne. Mãn học, thầy Micae chịu chức linh mục và được cử giữ chức giáo sư suốt 15 năm. Ngài làm việc tận tụy và gây được nhiều ảnh hưởng nhờ ở đời sống thánh thiện và trí óc uyên thâm. Ngài giữ luật từng chi tiết nhỏ, tuyệt đối vâng phục bề trên và thân mật với mọi anh em. Vì thế đời sống ngài sáng chói nhân đức "vâng lời và bác ái". Hơn thế, cha Micae còn nổi tiếng là một chiến sĩ Phúc âm. Ngài không quản ngại dùng hết trí lực bênh vực chân lý Giáo hội, chống lại với nhiều tà giáo, nhiều bè rối...

Năm 1551, Đức Giáo Hoàng Giuliô III cử ngài làm việc ở Bộ thánh vụ, đến đời Đức Giáo Hoàng Phaolô IV, thì ngài chính thức được thăng làm Bộ trưởng Bộ Thánh vụ. Tiếp đó ngài được Đức Giáo Hoàng tấn phong Giám mục thành Sutri và Nêpi hai địa phận gần Rôma. Hai năm sau, ngài được cử làm Hồng y.

Địa vị cao sang đó không làm giảm đời sống khắc khổ của thánh nhân. Tuy là Hồng y nhưng ngài ăn mặc rất nghèo khó, từ chối mọi phần của cải cha mẹ chia cho. Dưới triều Đức Piô IV, ngài bỏ Rôma đi kinh lược các địa phận với mục đích cảnh tỉnh tinh thần tông đồ của hàng giáo sĩ và kêu gọi sự hợp nhất của giáo dân. Nhờ cuộc kinh lược lâu dài này, Đức Hồng y đã thu được nhiều tài liệu đem trình bày tại công đồng Triđentinộ Đời sống thánh thiện và nhiệt thành làm việc của Đức Hồng y đã khiến cho mọi người phải chú ý. Họ nhìn ngài với một thầm đoán: "Ngài sẽ làm Giáo Hoàng". Dự đoán ấy đã được Chúa Quan phòng chấp nhận và thể hiện. Ngày 07-01-1566, Đức Hồng y đã đắc cử làm Giáo Hoàng với danh hiệu là Piô V.

Lên ngôi Giáo Hoàng, Đức Piô V để ý ngay đến việc thánh hoá hàng giáo sĩ. Ngài khuyến cáo những vị dù là Hồng y, Giám mục hay Linh mục thiếu tinh thần khó nghèo và chí nguyện tông đồ. Trái lại, ngài khích lệ và nâng đỡ những vị tỏ ra nhiệt thành trong việc vun xới vườn nho Thiên Chúa. Ngài rất khiêm tốn, nhưng cũng rất cương quyết. Hoạt động của Đức Thánh Cha không phải chỉ thu hẹp trong khu Vatican hay trong phạm vi truyền đạo. Nhưng Ngài đã khéo dùng quyền Chúa ban và địa vị của Giáo hội để đem hoà bình cho nhiều chính phủ, nhiều dân tộc, nhiều tổ chức. Ngài đã bận tâm không ít về chiến tranh của người Hồi giáo, đến những phương thế đưa người Do Thái về với đức tin, mặc dầu họ có thái độ kiêu căng. Đức Piô V làm việc như quên mệt, ngài hội kiến với các vị Hồng y ngay từ sáng sớm. Những khi rỗi việc, thay vì đi du ngoạn, Đức Thánh Cha kiên nhẫn ngồi nghe những lời tâm sự của đám dân nghèo. Người ta còn phải cảm phục biết bao khi thấy mỗi chiều thứ năm hằng tuần Ngài rửa chân cho 12 người nghèo và hôn kính họ, không kể chi những ung nhọt thối tha. Ngài đã cho lập hội "Nhân ái" tại Flôrencia với mục đích giúp đỡ và bênh vực những người tù tội, nô lệ, và bị oan ức. Ít lâu sau, Đức Giáo Hoàng lại truyền cho các thầy dòng thánh Gioan Thiên Chúa xây một bệnh viện tại Rôma. Công việc thành tựu, Đức Thánh Cha đến khánh thành và hàng tuần đến yên ủi các bệnh nhân. Ngoài ra Đức Thánh Cha còn trích nhiều số tiền với mục đích xây cất nhà thương và thể hiện những chương trình từ thiện khác. Đi đôi với những hoạt động bác ái, Đức Piô V còn lưu ý cách riêng đời sống thánh thiện của giáo dân. Ngài đã phát động nhiều phong trào ăn chay đền tội trong toàn Giáo hội. Và đó là phương thế Đức Thánh Cha muốn cho mọi người tín hữu cộng tác vào việc đương đầu với bè rối, nhất là các giáo phái thệ phản. Dựa vào quyền thế các Hoàng đế thiếu đức tin, các giáo phái này mỗi ngày một lan rộng và đàn áp giáo hữu tại Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Pháp, và đặc biệt tại hai nước Anh và Đức.

Đồng thời Đức Thánh Cha ra nhiều sắc lệnh ngăn cản trào lưu tư tưởng ngoại giáo tràn vào các đại học công giáo. Ngài săn sóc cách riêng các đại học Đức quốc. Chính Đức Thánh Cha khuyến khích tu sĩ Carnutô tên là Laurensô Suriô (Lauent Surius) tiếp tục nghiên cứu và viết về "đời sống các thánh Tông phụ" nhằm mục đích ngăn ngừa những luận điệu xuyên tạc của bè rối về tiểu sử các vị thánh. Năm 1576 Đức Piô V cũng ban bố sắc lệnh Ex omnibus affictionibus lên án 80 luận đề sai lạc của nhiều giáo sư đại học Louvain đã quá thiên về tư tưởng ngoại giáo, và thệ phản. Cũng với ý chí sắt đá ấy, Đức Piô V đã bảo vệ đức tin cho giới trí thức và sinh viên tại nước Thụy Sĩ, Đan Mạch, Hoà Lan, và Thụy Điển...

Ngay trong năm đầu triều đại của Ngài (1566), Đức Piô V đã phải đương đầu với nhiều cuộc xâm lấn của hồi giáo. Thời ấy, quân hồi hồi nổi lên đánh phá khắp nơi. Người công giáo phải trải qua những ngày loạn ly khổ cực. Là người cha, Đức Giáo Hoàng không thể cầm lòng thấy đoàn con tan tác vì đức tin. Vì thế, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi nhiều vương tước trung thành với đức tin dùng thế lực Chúa ban mà bênh vực Giáo hội. Đó là bước đầu cho phong trào "Đạo binh Thánh giá". Nhưng dầu sao đó chỉ là những phương tiện tùy tòng; đường lối hoạt động chính của Đức Thánh Cha vẫn là đời sống chay tịnh và cầu nguyện. Lời Quận công Soliman làm chứng điều đó: "Tôi sợ những lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha hơn là đoàn quân hùng hậu của Hoàng đế". Phải, chính nhờ sự hợp lực của toàn giáo dân về cả sức tự nhiên và siêu nhiên ấy, Đức Thánh Cha đã giữ vững con thuyền Giáo hội qua bao cơn giông tố và Nghĩa binh Thánh giá đã chiến thắng ở nhiều nơi. Đến nỗi nhiều cuộc thắng trận đã được coi như những phép lạ. Người ta kể: quãng năm giờ chiều ngày 7-10-1571, khi Đức Thánh Cha đang tiếp kiến các vị Giáo chủ, các Quận công thành Bussotti, bỗng nhiên cảm động nhìn qua cửa sổ hướng về miền đông, rồi Ngài quay lại, mặt sáng lên, Ngài nói với các vị: "Chúng ta không còn phải bận tâm nhiều nữa, nhưng chúng ta hãy đi cảm ơn Chúa, vì đạo binh công giáo vừa toàn thắng, kết thúc mọi phá hoại của quân thù". Từ chiều hôm đó, niềm hân hoan tràn ngập lòng mọi người tín hữu.

Cũng chính thời này, lòng thành kính của thánh Piô V đối với Đức Trinh Nữ Maria nổi bật đến tột điểm. Ngài đã sống và làm việc cho Giáo Hội dưới sự phù trợ của Đức Mẹ. Cuộc toàn thắng của nghĩa binh Thánh giá tại hải cảng Lêpangtê xứ Hy lạp được Ngài coi là do quyền phép của Đức Mẹ. Vì thế để ghi ơn Đức Mẹ, Ngài đã truyền thêm vào kinh cầu Đức Mẹ lời: "Đức Bà phù hộ các giáo hữu, cầu cho chúng con". Hơn thế, Ngài còn lập một lễ kính Đức Mẹ vào ngày 7-10 hằng năm với danh hiệu "Lễ Đức Mẹ Toàn Thắng". Lễ này được sửa đổi nhiều lần dưới nhiều triều Giáo Hoàng. Sau cùng Đức Piô VII định vào ngày 24-5 và đổi tên là "Lễ Kính Đức Bà phù hộ các giáo hữu". Còn ngày 7-10 dành kính Đức Mẹ mân Côi.

Nhưng để việc thánh hóa Giáo hội và bảo toàn đức tin được bền vững, Đức Piô V hết sức lưu tâm đến việc hướng dẫn và đào tạo hàng giáo sĩ. Ngài rất thận trọng trong việc cắt cử các vị Giám mục và truyền chức thánh cho các đại chủng sinh. Ngài dùng mọi phương thế giúp họ sống theo tinh thần kỷ luật và bác ái của Phúc âm. Nhưng nhất là Ngài có công nhiều trong Công đồng Triđentinô về việc sửa đổi lễ nghi phụng vụ, sách nguyện cho các linh mục, nhất là việc truyền giáo tại cả Đông Phương (Orient) và Tây Phương (Occident). Ngài lại chủ trương: các đại chủng sinh trước khi chịu chức linh mục phải qua nhiều năm thần học. Chính Ngài làm lễ tuyên phong Thánh Tôma (Thomas) làm tiến sĩ Giáo hội và buộc tất cả chủng sinh phải học khoa thần học của Thánh sư. Viết về những hoạt động và công việc cải cách của Đức Piô V một tác giả kinh nghiệm đã bày tỏ như sau: "Đường lối phục hưng của Đức Thánh Cha đã đưa lại nhiều kết quả tốt đẹp về đức tin, lòng đạo đức và cả về văn hoá, mỹ thuật. Ít có thời đại sung mãn sự thánh thiện như thời Đức Piô V".

Vì quá bận tâm với công việc, Đức Piô V như quên cơn bệnh đang phá hoại sinh lực; Ngài bị chứng sốt kinh niên ngay từ năm 1569. Dầu vậy Ngài vẫn yên lặng chịu bệnh và cứ hăng hái làm việc. Cuối năm 1571 cơn bệnh trở nên trầm trọng và Đức Thánh Cha phải nằm liệt giường. Biết ngày giờ đã gần đến, Đức Thánh Cha Piô V dọn mình sốt sắng và can đảm chịu bệnh hầu phụng sự Giáo hội cách hoàn hảo hơn. Suốt ngày đêm Ngài ôm chặt cây Thánh giá trên ngực và thầm thĩ với Chúa: "Lạy Chúa, xin thêm đau khổ cho con, xin giúp con nhẫn nại theo gương Chúa, xin cho con luôn nhớ rằng chỉ có những cái gì thuộc về Thánh giá Chúa mới làm cho con được vinh hiển".

Sứ mệnh trần gian đã hết, ngày 1-5-1572, Ngài được Chúa gọi về trời.

Xác Ngài được táng trọng thể tại thánh đường Đức Bà Cả (Sainte Marie Majeur). Năm 1671 Đức Giáo Hoàng Clêmentê X cất Ngài lên bậc Chân phước và năm 1710 Ngài lại được Đức Giáo Hoàng Clêmentê XI truy phong bậc Hiển thánh và định lễ kính Ngài hằng năm.

Lạy thánh Piô, người Chúa đã chọn để áp đảo quân thù của Giáo hội và để tu bổ việc tôn thờ Thiên Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Ngài trung thành phụng thờ Chúa, để chúng con thắng được mọi mưu mô quân thù và được hưởng phúc thanh nhàn đời đời.

http://giaophanvinhlong.net/thanh-pio-v-giao-hoang.html

 

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Đức Piô V là vị Giáo Hoàng có công Canh Tân Hội Thánh Công Giáo; ngài cương quyết thực hiện thành quả của Công Đồng Triđentinô trong suốt nhiệm kỳ Giáo Hoàng ngắn ngủi của mình (1566 –1572). Ngài được mừng lễ vào hôm trước ngày người qua đời, nhằm ngày 1 tháng 5 năm 1572.

Michele Ghislieri sinh ra từ một gia đình nghèo nàn, gần Alexandrie, thuộc vùng Píemont vào năm 1504. Ngài vào Dòng Đa Minh lúc mười bốn tuổi, sau đó được thụ phong linh mục, dạy triết học và thần học. Với tính cách của một tu sĩ nhiệt thành và nghiệm nhặt, ngài hoạt động trong các tòa án thẩm tra của Rôma cho đến khi trở thành Tổng Ủy Viên năm 1550. Sau khi được Đức Giáo Hoàng Phaolô IV phong làm Hồng Y và bổ nhiệm làm Tổng Thẩm Tra viên của các nước Kitô giáo, ngài quan tâm bảo vệ đức tin không suy chuyển.

Năm 1566, Michele Ghislieri được mọi người nhất trí bầu làm Giáo Hoàng. Trong sáu năm làm Giáo Hoàng, Đức Piô V miệt mài canh tân Hội Thánh – khởi đầu từ giáo triều Rôma – và quyết tâm thực thi cụ thể các nghị quyết về mục vụ của Công Đồng Triđentinô, với sự hỗ trợ của vị Hồng Y trẻ Charles Borromée, sau này cũng được phong thánh. Như thế vào thời ấy đã xuất hiện các sách như: Giáo lý Rôma (1566), ấn bản mới của bộ Sách Nguyện Rôma (1568) và bộ Sách Lễ (1570). Các tác phẩm của thánh Tôma Aquinô – được tôn làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1567 – cũng được tái bản toàn bộ.

Nhờ dựa vào cuộc thẩm tra, Đức Piô V cũng đấu tranh chống sức bành trướng của đạo Tin lành tại Ý và Tây Ban Nha. Về phần nước Anh, ngài ủng hộ Marie Stuart mà phạt vạ tuyệt thông cùng chủ trương hạ bệ nữ hoàng Élisabeth (1570). Song việc này chỉ khiến cho tình cảnh của những người Công Giáo trong vương quốc này càng thêm éo le hơn.

Vì lo âu trước tai họa người Thổ Nhĩ Kỳ đang gieo rắc cho Kitô giáo ở Tây Phương, nên Đức Piô V – trong một Châu Âu bị phân hóa – đã cũng với Venise và Tây Ban Nha, thành lập một Liên minh Kitô-giáo. Từ đó, dưới sự chỉ huy của Don Juan d’Autriche, hạm đội liên quân đã thắng trận Lépante (ngày 7 tháng 10 năm 1571), khiến hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ của Ali Pacha thoát chạy tán loạn. Nhân chiến công hiển hách đó đã làm nức lòng giới Kitô giáo đồng thời chấm dứt huyền thoại về đế quốc Ottoman bất bại, Đức PiôV thành lập ngày lễ Đức Bà Toàn Thắng (hay Đức Bà mân Côi).

Vì thế, vị Giáo Hoàng của công cuộc Canh Tân Hội Thánh Công giáo cũng là vị thánh của chuỗi Mân Côi. Đặc biệt ngài cũng là người cổ vũ việc lần hạt qua sắc chỉ Consueverunt (1569). Sắc chỉ này giải thích và phần nào xác định hình thức truyền thống của chuỗi Mân Côi (xem thông điệp Marialis cultus, số 42).

Hôm trước ngày người qua đời, Đức Piô V nói với các Hồng Y qui tụ quanh mình: “Ta gửi gắm cho chư vị Hội Thánh mà ta rất yêu mến. Xin chư vị hãy bầu cho Ta một người kế vị nhiệt thành; vị đó chỉ lo tôn vinh Thiên Chúa và không mưu cầu điều gì khác dưới trần thế này ngoài vinh dự của Tòa thánh và lợi ích cho các nước theo Kitô giáo”.

2. Thông điệp và tính thời sự

a. Lời nguyện riêng gợi lại những công đức to lớn của Đức Piô V. Ngài đã cương quyết bảo vệ đức tin Công giáo và đã quan tâm “canh tân Phụng Vụ”.

Khi được bầu làm Giáo Hoàng vào một giai đoạn mà các nước theo Kitô giáo càng ngày càng bị phân hóa và cần có ngay một cuộc canh tân đích thực trong các lĩnh vực tín lý, Phụng Vụ và luân lý, thì ngài đã nhiệt thành dấn thân cải cách và cho phổ biến một tác phẩm quan trọng: Sách nguyện và Sách Lễ Rôma, cùng giáo lý Công đồng Triđentinô. Ngài nói: “Tâm hồn, sức lực và mọi ý tưởng của chúng ta đều phải hướng về mục đích này: đó là gìn giữ tinh ròng nền Phụng Vụ đã được Hội Thánh cử hành”.

Ngay cả trong lĩnh vực giáo luật, Đức Piô V còn ban hành nhiều luật lệ chống lại việc mại thánh và hủ hóa cũng như giám sát việc tuyển chọn các giám mục.

b. Lời chú giải của thánh Augustinô ở phần Kinh Sách, nhắc lại vai trò của Phêrô và của những người “đấu tranh đến hy sinh mạng sống vì chân lý đức tin”. “Phêrô nghĩa là toàn thể Hội Thánh ở trần thế này đang bị rung chuyển bởi muôn vàn thử thách, song không sụp đổ bởi vì được xây dựng trên đá tảng”. Chính khi noi theo Phêrô mà chúng ta đến gần được tảng Đá sống động, bị loài người vứt bỏ song được Thiên Chúa tuyển chọn. Vì thế, cả chúng ta nữa, chúng ta sẽ trở nên những viên đá sống động của tòa nhà, nơi đó Chúa tìm được niềm vui và vinh quang của Người (xem Xướng - Đáp).

Enzo Lodi

https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/30-04-thanh-pio-v-giao-hoang-1504-1572-le-nho-tuy-chon/

 

Thánh Giáo Hoàng Piô V gia nhập Dòng Đa Minh năm 14 tuổi. Ngài là người sống rất kỉ luật và đam mê học hỏi. Chính vì lẽ đó, Ý Chúa nhiệm mầu đã muốn đặt ngài làm Giáo Hoàng để trở nên “con chó của Thiên Chúa”. Nhờ đó, ngài có thể dùng tiếng gầm của mình để chống lại cuộc li khai của Tin Lành và những người Thổ theo Hồi Giáo đang muốn thống trị Giáo Hội và nền văn minh Phương Tây. Là một Giáo Hoàng canh tân, ngài nhiệt tâm chỉnh đốn lối sống buông thả của giới tu sĩ và những bại hoại luân lý trong hàng giáo phẩm. Ngài có vai trò rất lớn trong việc thực thi thành công các sắc lệnh của công đồng Trentô và chuẩn hóa Phụng Vụ. Mặc dù rất bận rộn với vai trò là người đại diện Chúa Kitô, ngài vẫn cống hiến đắc lực cho Dòng Đa Minh và luôn mặc tu phục màu trắng Đa Minh nơi phẩm phục giáo hoàng. Theo hầu hết các sử gia, thánh Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập một tiền lệ cho những vị kế nhiệm là mặc áo chùng trắng như một phẩm phục giáo hoàng.

Lòng Sùng Kính Đức Maria

Với khát khao chuẩn hóa Phụng Vụ, ngài cho duyệt lại Phụng Vụ Các Giờ Kinh vào năm 1568. Như một phần cần duyệt lại, ngài đã đưa bản hoàn tất Kinh Kính Mừng (đã được sử dụng trong các bản kinh nhật tụng khác) vào Kinh Nhật Tụng phổ quát cho cả Giáo Hội La Mã. Như vậy, hành động này đã chính thức công bố bản Kinh Kính Mừng đầy đủ - bản kinh mà ngày nay chúng ta đang sử dụng- như một thể thức được chuẩn y một cách phổ quát. Bản Kinh Kính Mừng đầy đủ này không phải xuất phát trong triều đại giáo hoàng của Đức Piô V, bởi vì nó đã được sử dụng từ thế kỉ thứ 14. Nhờ danh tiếng và uy tín của mình, ngài đã thiết lập Kinh Kính Mừng như một quy chuẩn phổ quát.

Nhắm đối phó với cuộc chống đối của Tin Lành, thánh Giáo Hoàng Piô V đã cho phát hành Sách Giáo Lý Công Đồng Trento. Tập sách này bao gồm những giáo huấn chính thức của Hội Thánh về Đức Trinh Nữ Maria. Là người bạn thân thiết của thánh Carôlô Borromeo, hồng y và là giám mục thành Milan, thánh Giáo Hoàng Piô V đánh giá rất cao những nỗ lực của thánh Borromeo nhằm bảo vệ Kinh Mân Côi chống lại phái Tin Lành. Thánh Giáo Hoàng đặc biệt ủng hộ thánh Carôlô khi ngài tận lực bảo vệ Giáo Hội bằng cách nhấn mạnh vai trò thiết yếu của Đức Trinh Nữ Maria trong cuộc đời Đức Kitô và trong Giáo Hội. Thánh Piô V đã được an táng trong ngôi thánh đường lớn nhất của Giáo Hội Công Giáo được cung hiến cho Đức Maria. Đó là Vương cung Thánh đường Đức Bà Cả ở Roma.

Chiến Sĩ Kinh Mân Côi

Thánh Piô V là một trong những vị chiến sĩ vĩ đại nhất trên cương vị giáo hoàng về Kinh Mân Côi. Ngài đã viết hai văn kiện đặc biệt về Kinh Mân Côi. Thánh nhân quảng bá Kinh Mân Côi như một phương tiện giúp chế ngự quân Hồi Giáo, và đã thiết lập thánh lễ tôn vinh Kinh Mân Côi. Văn kiện đầu tiên được ngài ban hành vào ngày 17 tháng 11 năm 1569 có tựa đề là Consueverunt Romani Pontifices. Đi theo với việc ca ngợi Kinh Mân Côi, tông thư này bao hàm nhiều phát biểu khẳng định truyền thống đạo đức và khuyến khích lần hạt Mân Côi thường xuyên, đặc biệt là để chống lại những đe dọa đang diễn ra từ các tín đồ Hồi Giáo.

Trước âm mưu xâm lược của những người Thổ Ottoman (Hồi Giáo), thánh Giáo Hoàng Piô V đã thành lập một Liên Hiệp Thánh. Đây là một lực lượng quân đội nhằm phản kháng trước thế lực hùng mạnh của Hồi Giáo. Nhận thấy sức mạnh của Kinh Mân Côi, ngài chủ đích thiết lập Liên Hiệp này trong ngày lễ kính Thánh Đa Minh. Trong nỗ lực chiến đấu với quân Hồi Giáo, ngài kêu mời tất cả các Kitô hữu toàn cầu, đặc biệt là ở Ý, hãy quy tụ và cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi ngõ hầu có thể đánh bại quân Hồi Giáo. Chính ngài cũng tụ họp mọi người ở Rôma, ngay trong ngôi thánh đường Santa Maria Sopra Minerva thuộc dòng Đa Minh, để cùng nhau đọc Kinh Mân Côi cầu nguyện cho ý chỉ này. Những lời cầu nguyện sốt sắng của ngài và của mọi người đã được Thiên Chúa toàn năng nhậm lời. Theo ghi chép lịch sử kể lại, trước khi tin tức loan đến Rôma cho biết quân Hồi Giáo đã bị đánh bại trong trận chiến Lepanto, thì thánh Giáo Hoàng Piô V đã nhận được một thị kiến là nhìn thấy Đức Mẹ, và ngài biết chắc rằng trận chiến đã thắng là nhờ vào Liên Hiệp Thánh này.

Nhằm bày tỏ lòng biết ơn về chiến thắng ở Lepanto, và xác tín rằng chiến thắng là nhờ vào chiến dịch lần hạt Mân Côi mà mình đã khởi xướng, thánh Giáo Hoàng đã ban hành văn kiện thứ 2 về Kinh Mân Côi Salvatoris Domini vào ngày 15 tháng 3 năm 1572. Trong văn kiện này, ngài chỉ thị phải thiết lập một thánh lễ vào ngày 7 tháng 10 hằng năm nhằm tưởng niệm biến cố chiến thắng quân Hồi Giáo. Ngày lễ này được mang một cái tên thích hợp là Đức Mẹ Chiến Thắng. Cũng trong văn kiện này, để công nhận vai trò đặc biệt của Kinh Mân Côi trong cuộc chiến ở Lepanto, ngài cũng thiết lập Chúa Nhật Mân Côi. Thánh lễ này được cử hành hằng năm vào Chúa Nhật đầu tiên trong tháng Mười. Tất cả những ai tham dự thánh lễ đều được lãnh nhận một ơn toàn xá. Ngài cũng ban ơn toàn xá cho bất cứ ai đã tham gia vào Hội Mân Côi.

Trích từ Donald H. Calloway, MIC,
Champions of the Rosary, Marian Press, 2016

https://ttmv.de/song-dao/guong-thanh-nhan/4247-30-04-thanh-giao-hoang-pio-v-1504-1572

 

 

 

 

 

 

 

 

Thứ Bảy

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Cv 13, 44-52

"Ðây chúng tôi quay về phía các dân ngoại".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Ðến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: "Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất". Nghe vậy, các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.

Những người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo, các thân hào trong thành, bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy hân hoan và Thánh Thần.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4

Ðáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.

 

Alleluia: Cl 3, 1

Alleluia, alleluia! - Nếu anh em sống lại làm một với Ðức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự cao siêu trên trời, nơi Ðức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 14, 7-14

"Ai thấy Thầy là xem thấy Cha".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".

Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Philipphê, Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin, vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Lời Chúa

 

Vai trò "Mục Tử Thần Linh" của Chúa Kitô là vai trò của một Đấng Thiên Sai, đến để làm theo ý Đấng đã sai chứ không phải theo ý của mình, đến độ làm cho thế gian nhờ mình mà nhận biết Cha, và đến độ bất cứ ai tin vào Người thì được sự sống, đúng như Người đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần IV Phục Sinh về chủ đề "Thày là sự sống". 

 

"Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: 'Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha'?  Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.  Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm". 

 

Trong câu khẳng định trên đây của mình, Chúa Giêsu đã ngầm tái xác nhận lời tuyên xưng của Tông Đồ Phêrô “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mathêu 16:16) là chính xác. Vì là “Đức Kitô” Thiên Sai mà Người đến chỉ “nói” “làm” những gì Cha là Đấng đã sai Người muốn mà thôi, chứ không phải những gì Người muốn, và chính vì thế, Người cho thấy “Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày”, và cho thấy Người là “Con Thiên Chúa hằng sống”, “đồng bản thể với Cha” (Kinh Tin Kính), đến độ, “ai thấy Thày là thấy Cha”, nơi nhân tính của Người, qua những gì Người nói và làm trong bản tính của con người, một bản tính loài người được Người mặc lấy để “tỏ Cha ra” (Gioan 1:18), hay để Cha tỏ mình ra nơi Người và qua Người.

 

Nếu Chúa Giêsu tỏ mình ra là hiện thân của Cha như thế, thì thành quả hay tác dụng của niềm tin vào Vị Mục Tử Thần Linh Thiên Sai là ở chỗ làm cho kẻ tin vào Người được hiệp nhất nên một với Người, được Người biến đổi, thậm chí đến độ còn làm được những việc hơn Người làm nữa, như cành nho dính liền với thân nho thì sinh muôn vàn hoa trái nhờ nhựa sống từ thân cây, trong khi chính thân nho lại chẳng sinh hoa trái gì: 

 

"Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó". 

“Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” nghĩa là gì? Nếu không phải nghĩa là một khi Người Thăng Thiên "về cùng Cha" thì nhân tính của Người, một bản tính Người mặc lấy khi nhập thể vốn được Ngôi Hiệp với thần tính của Người trên thế gian, nhờ phục sinh đã trở thành linh thiêng,  bấy giờ được hoàn toàn hoan hưởng Thực Tại Thần Linh là Thánh Thần với Cha và như Cha. Bởi thế, ai tin vào Người thì được hiệp nhất nên một với Người là Đấng từ Cha sẽ sai Thánh Thần đến (xem Gioan 15:26) để nhờ đó họ có thể làm chứng về Người cho đến tận cùng trái đất (xem Tông Vụ 1:8).

"Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa" là vì thế - vì Chúa Kitô Phục Sinh và Thăng Thiên ở trong họ bằng Thánh Thần của Người, và "Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa" là như thế - ở chỗ nhờ Thánh Thần và cùng với Thánh Thần của Người họ có thể làm chứng về Người, nhờ đó Người được nhận biết và yêu mến khắp thế giới chứ không phải chỉ ở nơi dân Do Thái là thành phần vốn không tin Người cho dù Người đã tỏ hết mình ra cho họ, và nhờ đó Người là hạt lúa miến mục nát đi nơi mầu nhiệm khổ giá trổ sinh muôn vàn hoa trái là phần rỗi các linh hồn (xem Gioan 12:24).

Bài Đọc I (Tông Vụ ):

 

Vai trò Mục Tử Thần Linh của Chúa Kitô Thiên Sai tiếp tục sinh hoa trái nơi thành phần môn đệ được Người sai đi làm chứng về Người, như bài đọc một hôm nay cho thấy, đến độ, càng bị chống đối và thử thách, các vị càng sinh nhiều hoa trái như cành nho đã sinh trái thì cần được cắt tỉa đi cho càng sai trái hơn (xem Gioan 15:2):

"Tại I-cô-ni-ô cũng xảy ra như vậy: hai ông vào hội đường người Do-thái và giảng dạy, khiến rất đông người Do-thái và Hy-lạp tin theo. Nhưng những người Do-thái không tin theo thì xúi giục những người ngoại và làm cho họ có ác cảm với các anh em. Vậy hai ông ở lại một thời gian khá lâu, mạnh dạn vì dựa vào Chúa, là Đấng chứng nhận lời giảng về ân sủng của Người, khi cho tay các ông thực hiện những dấu lạ điềm thiêng".