SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XVIII Thường Niên Năm B và Lẻ

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật 18 Quanh Năm Năm B

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Xh 16, 2-4. 12-15

"Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa".

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, toàn thể cộng đoàn con cái Israel kêu trách Môsê và Aaron, họ nói với hai ông rằng: "Thà chúng tôi chết trong đất Ai-cập do tay Chúa, khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn no nê. Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như vầy?"

Chúa liền phán cùng Môsê rằng: "Ðây Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa: dân chúng phải đi lượm bánh ăn mỗi ngày, để Ta thử coi dân có tuân giữ lề luật của Ta hay không. Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel: ngươi hãy nói với họ rằng: 'Chiều nay các ngươi sẽ ăn thịt, và sáng mai sẽ ăn bánh no nê, như thế các ngươi sẽ biết rằng Ta là Thiên Chúa các ngươi'".

Chiều hôm ấy, có chim cút bay tới che rợp các trại, và sáng hôm sau có sương sa xuống quanh trại. Tới lúc sương tan trên mặt đất, thì thấy có vật gì nho nhỏ tròn tròn như hột sương đông đặc trên mặt đất. Con cái Israel thấy vậy, liền hỏi nhau rằng: "Man-hu", có nghĩa là: "Cái gì vậy?" vì họ không biết là thứ gì. Môsê liền nói với họ: "Ðó là bánh do Chúa ban cho anh em ăn".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 77, 3 và 4bc. 23-24. 25 và 54

Ðáp: Chúa đã ban cho họ được bánh bởi trời (c. 24b).

Xướng: 1) Ðiều mà chúng tôi đã nghe, đã biết mà tổ tiên đã thuật lại cho chúng tôi hay, chúng tôi sẽ kể lại cho thế hệ tương lai: đó là những lời khen ngợi và quyền năng của Chúa. - Ðáp.

2) Nhưng Người đã ra lệnh cho ngàn mây trên cõi cao xanh, và Người đã mở rộng các cửa trời. Người đã làm mưa man-na xuống để họ ăn, và Người đã ban cho họ được bánh bởi trời. - Ðáp.

3) Con người được ăn bánh của những bậc hùng anh; Người ban cho họ lương thực ăn tới no nê. Người đưa họ vào nơi thánh địa của Người, tới miền núi non mà tay hữu Người tậu sắm. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Ep 4, 17. 20-24

"Hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, tôi nói với anh em điều này, và chứng thực trong Chúa là anh em chớ ăn ở như Dân Ngoại ăn ở, chiều theo sự giả trá của tâm tư mình. Phần anh em, anh em không hề học biết Ðức Kitô như thế đâu, nhưng nếu anh em đã nghe biết Người và đã được thụ giáo trong Người, như sự chân thật trong Ðức Giêsu dạy, là anh em hãy khử trừ lối sống xưa kia, hãy lột bỏ con người cũ, đã bị hư theo những đam mê lầm lạc. Anh em hãy trở nên mới trong lòng trí anh em, hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 6, 24-35

"Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, lúc đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền và đến Caphar-naum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa Giê-su đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu".

Họ liền thưa lại rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu đáp: "Ðây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Ðấng Ngài sai đến".

Họ thưa Chúa Giêsu: "Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời". Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian".

Họ liền thưa Người rằng: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi". Chúa Giêsu nói: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ".

Ðó là lời Chúa.

 Image result for jn 6, 24-35

 

Suy Nghiệm Lời Chúa


Chủ đề "sự sống" trong Mùa Phục Sinh vẫn được tiếp tục với Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVIII Thường Niên Năm B hôm nay, cũng như của 3 tuần sau này, liên quan đến đề tài Bánh Hằng Sống được Thánh Ký Gioan thuật lại.


Thật vậy, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước thuật lại, Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay, bắt đầu dẫn nhập vào đề tài Bánh Hằng Sống của Người. Ở chỗ nào? Ở chỗ Người đã khôn khéo gợi ý để họ đi từ thắc mắc và yêu cầu đến tự động ngỏ ý xin Người ban cho họ Bánh Hằng Sống là chính bản thân của Người. Thứ tự như sau:


Trước hết, Người gợi ý về việc họ cần phải tìm kiếm hay làm việc cho được sự sống bất diệt đời đời chứ đừng tìm kiếm hay làm việc chỉ cho sự sống tạm bợ phai tàn ở đời này mà thôi: 


"Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: 'Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?' Chúa Giê-su đáp: 'Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu'".


Sau nữa, Người chẳng những trả lời thắc mắc của họ về vấn đề "làm việc của Thiên Chúa" mà còn giải quyết yêu cầu của họ về "dấu lạ" Người cần phải làm để nhờ đó họ có thể tin vào Người:


"Họ liền thưa lại rằng: 'Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?' Chúa Giêsu đáp: 'Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến'. Họ thưa Chúa Giêsu: 'Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời. Chúa Giêsu đáp: 'Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian'".


Sau hết, để đáp lại những gì chính họ tự động ngỏ ý xin Người liên quan đến thứ "bánh bởi trời... ban sự sống cho thế gian" được Người nói đến, dù họ chưa nắm bắt được tất cả ý nghĩa của thứ bánh này, như người phụ nữ ngoại lai Samaritanô ở bờ giếng Giacóp đã xin Người "nước... không còn bao giờ khát nữa", dù nàng chưa hề biết nước ấy là gì và như thế nào (xem Gioan 4:14-15), Người đã tỏ mình ra cho dân chúng bằng lời tuyên bố về Người như sau:


"Họ liền thưa Người rằng: 'Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi'. Chúa Giêsu nói: 'Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ'".


Trong 3 bài Phúc Âm tới đây ở Chúa Nhật XIX, XX và XXI Năm B, chúng ta sẽ thấy tất cả những gì liên quan đến mạc khải thần linh về mầu nhiệm Bánh Hằng Sống liên quan trực tiếp đến bản thân của Chúa Kitô, đúng như lời tuyên bố của Người ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Chính Tôi là bánh ban sự sống".


Hình ảnh manna nuôi dân Do Thái trong suốt cuộc hành trình 40 năm họ băng qua sa mạc để tiến về Đất Hứa chỉ là những gì ám chỉ về Bánh Hằng Sống là Chúa Kitô sẽ ban cho những ai tin vào Người, những ai tìm kiếm và làm việc của Thiên Chúa là Đấng luôn tỏ mình ra cho họ qua Chúa Kitô Con của Ngài để làm cho họ tin mà được sự sống đời đời. 


Bài Đọc 1 hôm nay được Sách Xuất Hành cho thấy Thiên Chúa đã đáp ứng nhu cầu sinh sống hằng ngày của dân Do Thái, thành phần dân được Ngài tuyển chọn để chẳng những giải thoát họ khỏi bị làm nô lệ bên Ai Cập mà còn mang họ vào Đất Hứa là nơi tràn đầy sự sống qua hình ảnh chảy sữa và mật, chứ không phải để họ chỉ sống trong sa mạc là nơi tiểu biểu cho khô cằn và chết chóc, bằng cách, trong suốt cuộc hành trình 40 năm như thể "vượt qua sự chết mà vào sự sống"(Gioan 5:24) này, Ngài đã ban lương thực hằng ngày cho họ là manna như bánh ăn làm món chính cho họ và còn kèm theo cả thịt chim cút nữa:

 


"Đây Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa: dân chúng phải đi lượm bánh ăn mỗi ngày, để Ta thử coi dân có tuân giữ lề luật của Ta hay không. Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel: ngươi hãy nói với họ rằng: 'Chiều nay các ngươi sẽ ăn thịt, và sáng mai sẽ ăn bánh no nê, như thế các ngươi sẽ biết rằng Ta là Thiên Chúa các ngươi'". Chiều hôm ấy, có chim cút bay tới che rợp các trại, và sáng hôm sau có sương sa xuống quanh trại. Tới lúc sương tan trên mặt đất, thì thấy có vật gì nho nhỏ tròn tròn như hột sương đông đặc trên mặt đất. Con cái Israel thấy vậy, liền hỏi nhau rằng: 'Manhu', có nghĩa là: 'Cái gì vậy?' vì họ không biết là thứ gì. Moisen liền nói với họ: 'Đó là bánh do Chúa ban cho anh em ăn'".


Việc Thiên Chúa nuôi dân Do Thái bằng manna và chim cút trong suốt cuộc hành trình 40 năm băng qua sa mạc của họ không phải chỉ để bảo tồn sự sống thể lý của họ, mà nhất là để nhờ đó họ có thể nhận biết Ngài là Thiên Chúa của họ: "như thế các ngươi sẽ biết rằng Ta là Thiên Chúa các ngươi", và việc nhận biết Thiên Chúa của họ được thể hiện bằng việc họ "tuân giữ lề luật của Ta". Có thể nói cuộc hành trình 40 năm băng qua sa mạc của dân Do Thái tiến về Đất Hứa là một cuộc hành trình đức tin, ở chỗ từ bỏ con người cũ để xứng đáng được hưởng sự sống dồi dào trong mảnh Đất Hứa chảy sữa và mật. 


Trong cuộc hành trình đức tin của Kitô hữu là thành phần dân Tân Ước được tuyển chọn của Thiên Chúa cũng thế, một thành phần cho dù đã được lãnh nhận Phép Rửa nhưng vẫn còn nơi bản thân mình đam mê nhục dục và tính mê nết xấu là những gì thuộc về con người cũ mà họ cần phải cởi bỏ và thắng vượt để sống con người mới trong Chúa Kitô và như Chúa Kitô. Đó là lý do, trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã khuyên giáo đoàn Êphêsô đừng ăn ở như dân ngoại, trái lại, hãy cởi bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới, như sau:


"Anh em thân mến, tôi nói với anh em điều này, và chứng thực trong Chúa là anh em chớ ăn ở như Dân Ngoại ăn ở, chiều theo sự giả trá của tâm tư mình. Phần anh em, anh em không hề học biết Đức Kitô như thế đâu, nhưng nếu anh em đã nghe biết Người và đã được thụ giáo trong Người, như sự chân thật trong Đức Giêsu dạy, là anh em hãy khử trừ lối sống xưa kia, hãy lột bỏ con người cũ, đã bị hư theo những đam mê lầm lạc. Anh em hãy trở nên mới trong lòng trí anh em, hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật".


Bài Đáp Ca hôm nay bao gồm tâm tình của thành phần hậu thế Do Thái, thành phần cho dù chỉ nghe "thuật lại" những kỳ công Thiên Chúa "quyền năng" đã làm cho cha ông của họ (câu 1), trong đó có cả manna như thứ "bánh bởi trời" được Ngài ban cho cha ông của họ (câu 2), một thứ bánh đặc biệt để nhờ đó họ tin vào Ngài như thể "Người đưa họ vào nơi thánh địa của Người" (câu 3):

 

1) Điều mà chúng tôi đã nghe, đã biết mà tổ tiên đã thuật lại cho chúng tôi hay, chúng tôi sẽ kể lại cho thế hệ tương lai: đó là những lời khen ngợi và quyền năng của Chúa. 


2) Nhưng Người đã ra lệnh cho ngàn mây trên cõi cao xanh, và Người đã mở rộng các cửa trời. Người đã làm mưa manna xuống để họ ăn, và Người đã ban cho họ được bánh bởi trời. 


3) Con người được ăn bánh của những bậc hùng anh; Người ban cho họ lương thực ăn tới no nê. Người đưa họ vào nơi thánh địa của Người, tới miền núi non mà tay hữu Người tậu sắm. 

 

 

Thánh Anphongso Ligouri, Giám Mục Tiến Sĩ - Sáng Lập Dòng Chúa Cứu Thế

 

Thánh Anphongsô Maria Liguori, Giám mục Tiến sĩ Hội Thánh (1696 - 1787)

 

ĐTC Biển Đức XVI về

 

Thánh Alphonsus of Ligouri


 ThanhAnphongso.mp3

 

 


Thứ Hai

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ds 11, 4b-15

"Một mình tôi không mang nổi dân này".

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, con cái Israel nói rằng: "Ai sẽ cho chúng tôi thịt ăn? Chúng tôi nhớ lại hồi còn ở Ai-cập, cá thì được ăn không, rồi có dưa chuột, dưa gang, rau cải, hành tỏi. Giờ thì chúng tôi suy nhược, thiếu hết mọi thứ: quay đi ngó lại chỉ thấy manna".

Manna hình giống hạt ngò, sắc giống hạt châu. Dân chúng đi rảo quanh mà hốt, rồi cho vào cối mà xay hoặc lấy chày mà giã; sau cùng, bỏ vào nồi nấu thành bánh. Mùi vị nó như bánh chiên dầu. Cứ thường đêm, khi sương sa xuống trại thì manna cũng rơi xuống.

Môsê nghe dân chúng than khóc, nhà nào cũng đứng ở cửa lều. Chúa bừng bừng nổi giận. Môsê rất đỗi bực mình. Ông thưa cùng Chúa rằng: "Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa? Sao con không được nghĩa với Chúa? Sao Chúa bắt con phải mang cả dân này? Con đâu có cưu mang cả đám dân này, con đâu có sinh ra nó, mà Chúa bảo con: "Hãy ẵm nó vào lòng, như vú nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó vào đất Ta đã thề hứa ban cho tổ tiên nó?" Con biết tìm đâu ra thịt để cho cả đám dân này? Họ kêu khóc với con rằng: "Hãy cho chúng tôi ăn thịt". Một mình con không mang nổi dân này vì là gánh nặng nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với con như thế, thì xin giết con đi, và cho con được nghĩa với Chúa, kẻo con phải khốn cực dường này".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 80, 12-13. 14-15. 16-17

Ðáp: Hãy reo mừng Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta (c. 2a).

Xướng: 1) Dân tộc của Ta chẳng có nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích. - Ðáp.

2) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở, thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay. - Ðáp.

3) Quân thù của chúng sẽ phải xưng tụng chúng, và vận mạng của chúng sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 14, 13-21

"Mọi người đều ăn no".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ và chữa những người bệnh tật trong họ.

Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn".

Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy".

Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 14, 13-21

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

xin Thầy giải tán dân chúng </> các con hãy cho họ ăn


Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XVIII Thường Niên hôm nay của Thánh Ký Mathêu thuật lại về biến cố phép lạ bánh hóa ra nhiều từ 5 ổ bánh và 2 con cá. Cùng biến cố hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất này cũng đã được Phúc Âm của Thánh ký Gioan thuật lại trong Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm B tuần trước. 

 

Trong bài Phúc Âm được Thánh ký Gioan thuật lại về biến cố phép lạ hóa bánh ra nhiều thì Chúa Giêsu đóng vai chủ động. Ở chỗ, chính Người lên tiếng hỏi các ông trước và đích thân Người phân phát bánh cùng cá cho dân chúng. 

 

Chính Người lên tiếng hỏi: "Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: 'Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?' Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm". 

 

Chính Người đích thân phân phát bánh cùng cá cho dân: "Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".

 

Trong khi đó, ở bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay, các tông đồ đóng vai chủ động, cả về việc quan tâm đến dân chúng lẫn phân phát cho dân chúng. 

 

Các tông đồ quan tâm đến dân chúng: "Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: 'Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn'".

 

Các tông đồ phân phát cho dân chúng: "Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng".

 

Tuy nhiên, việc các tông đồ quan tâm đến dân chúng đói ăn đây có tích cách tiêu cực hơn là tích cực. Ở chỗ các vị đẩy trách nhiệm cho chính dân chúng hơn là chính các vị tìm cách thỏa đáng nhu cầu đói ăn của họ. Lý do cũng dễ hiểu, là vì việc làm ấy quá sức của các vị. Thế nhưng Thày của các vị đang ở đó: tại sao các vị không đến với Người như Mẹ Maria đã đến với Người trong tiệc cưới Cana mà nhắc khéo Người rằng: "Thày ơi, dân chúng đang đói kìa!"

 

Cho dù các tông đồ không tích cực và chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu đói ăn của dân chúng bấy giờ, nhưng các vị hình như đã sửa soạn sẵn sàng nên đã mau mắn đáp lại khi được Chúa Giêsu hỏi các vị trước khi ra tay làm phép lạ hóa bánh ra nhiều:

 

"Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn'. Các ông thưa lại rằng: 'Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá'. Người bảo các ông rằng: 'Hãy đem lại cho Thầy'".

Thật sự là các tông đồ đã sửa soạn sẵn sàng, bởi thế, vừa được Chúa Giêsu hỏi là các vị trả lời liền, không cần phải thắc mắc hay do dự gì, sau đó các vị đáp ứng ngay khi được Chúa bảo: "Hãy đem lại cho Thầy".

 

Căn cứ vào chi tiết nho nhỏ này thì có thể các tông đồ đã đi thăm dò dân chúng xem họ có mang theo lương thực phòng thân hay chăng, nhưng chắc các vị thấy hầu hết hay hầu như chẳng mấy ai có gì để ăn uống hết, ngoài trừ có một cậu bé có 5 ổ bánh và 2 con cá. 

 

Thấy tình hình như thế nên các vị mới giục Thày giải tán dân chúng cho họ đi tìm của ăn. Nhưng không ngờ lý lẽ của Chúa Giêsu khác với, đúng ra hơn hẳn lý lẽ của các tông đồ, ở chỗ, không phải là dân chúng tự lo giải quyết tình trạng đói ăn của họ mà ngược lại: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". 


Có những giải thích phép lạ Chúa Giêsu làm theo kiểu khoa học, như thể cố ý hay tìm cách xuyên tạc phép lạ Chúa Giêsu làm, bằng cách gián tiếp hay trực tiếp chối bỏ các phép lạ của Người. Chẳng hạn trong phép lạ bánh hóa ra nhiều này, họ giải thích rằng vì dân chúng nghe lời giảng của Chúa Giêsu xong thì động lòng nên ai có đồ ăn thức uống thì mang ra chia cho nhau cùng ăn cùng uống, nên ai cũng ăn no. 

 

Vậy thì "12 thúng đầy" dư ở đâu mà ra, dư từ 5 chiếc bánh và 2 con cá hóa nhiều hay từ đồ ăn của dân chúng san sẻ cho nhau? Nếu thế thì (theo Phúc Âm Thánh ký Gioan) chính Chúa Giêsu phân phát cho dân chúng bánh trước và cá sau phải hiểu như thế nào, từ 5 ổ bánh và 2 con cá hay từ những gì của chính dân chúng chứ? Và trong Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay, lời Chúa Giêsu bảo các tông đồ "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn" phải hiểu ra sao, từ 5 ổ bánh và 2 con cá do Người làm phép lạ hóa ra nhiều hay từ những gì của dân chúng mang theo??

 

Phép lạ hóa bánh ra nhiều của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã được báo trước qua hình ảnh manna được Thiên Chúa hằng ngày ban cho dân Do Thái trong thời gian 40 năm hành trình băng qua sa mạc từ Biển Đỏ về Đất Hứa, một thứ lương thực mà họ được hưởng một cách nhưng không, và vì thế họ cũng tưởng là "bởi trời" như Bánh Sự Sống là chính Chúa Kitô khi Người giảng cho họ nghe về Bánh Sự Sống này ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 6. Sách Dân Số ở Bài Đọc 1 hôm nay đã diễn tả manna như thế này: "Manna hình giống hạt ngò, sắc giống hạt châu. Dân chúng đi rảo quanh mà hốt, rồi cho vào cối mà xay hoặc lấy chày mà giã; sau cùng, bỏ vào nồi nấu thành bánh. Mùi vị nó như bánh chiên dầu. Cứ thường đêm, khi sương sa xuống trại thì manna cũng rơi xuống".

 

Nếu các tông đồ ở trong bài Phúc Âm hôm nay không biết giải quyết thế nào khi được Chúa Kitô bảo các vị rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn'", sau khi các vị cảm thấy gánh nặng phải lo cho dân chúng quá ư là đông đảo đã ngỏ ý cùng Người "xin Thầy giải tán dân chúng", thì trong Bài Đọc 1 hôm nay, Moisen cũng cảm thấy gánh nặng đến độ muốn hoàn toàn trút bỏ như sau: "Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa? Sao con không được nghĩa với Chúa? Sao Chúa bắt con phải mang cả dân này? Con đâu có cưu mang cả đám dân này, con đâu có sinh ra nó, mà Chúa bảo con: 'Hãy ẵm nó vào lòng, như vú nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó vào đất Ta đã thề hứa ban cho tổ tiên nó?'".

 

Tâm trạng của Moisen chán nản đến tột cùng, như ông van xin Chúa cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay rằng: "Một mình con không mang nổi dân này vì là gánh nặng nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với con như thế, thì xin giết con đi, và cho con được nghĩa với Chúa, kẻo con phải khốn cực dường này", xét về phương diện loài người, như phản ảnh tâm trạng của Thiên Chúa trước dân của Ngài, một tâm trạng được Thánh Vịnh 80 ở bài Đáp Ca hôm nay cho thấy như sau: 
 

1) Dân tộc của Ta chẳng có nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích.

2) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở, thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay. 

3) Quân thù của chúng sẽ phải xưng tụng chúng, và vận mạng của chúng sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra.

 

 Thánh Eusebio Vercelli Giám Mục, và Thánh Phêrô Eymard, Linh mục (2/8)

 

EusebioVercellesi.jpg

Thánh Eusêbiô sinh tại Sardinia trong một gia đình quí phái. Nhưng trổi vượt sự sao sang giàu có trần thế. Ngài được vinh dự là con của một người cha chịu chết vì đức tin dưới thời Diôclêtianô. Mẹ Ngài đã đưa hai người con về sống tại Roma. Ngài được Đức giáo hoàng Eusêbiô rửa tội và lấy chính tên mình đặt cho con trẻ.

 

Eusêbiô được nuôi dưỡng trong bầu khí đạo đức, Ngài theo học văn chương và nghệ thuật. Gia nhập hàng giáo sĩ, Ngài được phong chức đọc sách.

 

Ngài được sai đi Vercelli và năm 345 được chọn làm giám mục tiên khởi của giáo phận này. Xét rằng phương cách hữu hiệu nhất để thánh hóa các linh hồn là phải có một hàng giáo sĩ được huấn luyện tử tế, Ngài thiết lập một trường đào tạo linh mục. Cùng với nhóm môn sinh, Ngài sống đời ẩn tu ngay giữa thành phố. Nhưng lời khuyên dạy đầy cảm kích đã làm cho Vercellêsi thay đồi hẳn. Các tội nhân tìm về lãnh nhận các bí tích và nhiệt thành phụng sự Chúa.

 

Chịu bách hại vì đạo, cuộc đời Eusêbiô đã đạt tới vinh quang cao cả. Khi ấy bè rối Ariô bành trướng mạnh mẽ, với sự bảo trợ của hoàng đế Constantino. Eusêbiô mãnh liệt chống lại và đức tin không thể lay chuyển của Ngài mang lại niềm an ủi cho Đức giáo hoàng chỉ định dẫn dầu phái đoàn các giám mục đến gặp hoàng đế để bênh vực đức tin. Đầy nhiệt tâm Ngài thuyết phục được hoàng đế triệu tập một công đồng.

 

Năm sau công đồng khai diễn tại Milan. Tại công đồng, hoàng đế thúc bách các giám mục phải để cho Eusêbiô tham dự. Nhưng những người theo bè rối Ariô ngăn cản. Cuối cùng Ngài được tham dự. Thấy phần đông theo lạc giáo, Ngài trình biểu thức đức tin của công đồng Nicea, đòi mọi người ký nhận trước khi bàn đến điều gì khác nữa. Bọn lạc giáo tức giận. Ngược lại, Ngài cương quyết không chịu ký vào văn bản lên án thánh Athanasiô, vị giám mục chúng sợ nhất. Tức giận chúng vận động hoàng đế đẩy Ngài đi Palestina.

 

Nơi lưu đầy, Eusêbiô chịu không biết bao nhiêu là điều cực khổ bởi cách đối xử dã man của các địch thù, Ngài bị giam trong phòng tối, bị bỏ đói. Khi biết rằng không thể bắt phục được con người sắt đá này, chúng còn trói chân Ngài lại và lôi kéo Ngài qua các bậc thang nhiều lần. Theo lời thánh Hiêrônimô kể lại, thánh nhân còn bị gởi đi Cappadocia và tới miền thượng Thébaide bên Ai cập. Tại những nơi nầy thánh nhân còn chịu muôn vàn cực hình cho đến khi hoàng đế Constantiô băng hà và được hồi hương.

 

Dầu vậy trên đường về theo lệnh Đức giáo hoàng, thánh Eusêbiô còn phải ghé nhiều giáo đoàn để an ủi khích lệ các giáo hữu bị đau khổ bởi những tàn phá của phái Ariô để lại, dàn xếp những tranh chấp nội bộ của một số giáo đoàn.

 

Trở về Vercelli, thánh Eusêbiô được tiếp đón nồng nhiệt như một vị anh hùng. Già cả và yếu sức, Ngài vẫn tận tụy phục vụ giáo phận cho đến khi qua đời năm 371. Người ta tôn kính Ngài như vị thánh tử đạo, vì những đau khổ mà Ngài đã chịu suốt những ngày lưu đày.

 

http://conggiao.info/thanh-eusebio-vercellesi-giam-muc-371-d-17540

 

Thứ Tư 17/10/2007 – Bài Giáo Lý 54 - Thánh giáo phụ Eusebius of Verceili

 

Thánh Phêrô Eymard, Linh mục

 

Có thể là hình ảnh về 1 người

 

THÁNH TỔ PHỤ PHÊRÔ GIULIANÔ EMA - ĐẤNG SÁNG LẬP ...



Mười Điểm Đặc Biệt Trong Cuộc Đời Thánh Phêrô Giulianô ...

 

 

 

 

 


Thứ Ba

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ds 12, 1-13

"Môsê không như tiên tri khác; sao các ngươi dám nói xấu ông ta?"

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, Maria và Aaron nói xấu ông Môsê, vì vợ ông này là người xứ Êthiôpia. Họ nói: "Thiên Chúa chỉ phán với một mình Môsê mà thôi ư? Người chẳng phán cùng chúng ta như thế sao?" Chúa nghe biết sự ấy - vì Môsê là người hiền lành nhất trong thiên hạ - Chúa liền phán cùng Môsê, Aaron và Maria rằng: "Cả ba hãy đến nhà xếp giao ước".

Khi cả ba ra đi, thì Chúa ngự xuống trong cột mây, đứng ngay ở cửa nhà xếp, gọi Aaron và Maria. Hai người tiến tới, và Chúa phán rằng: "Hãy nghe lời Ta nói đây: Nếu trong các ngươi có ai là tiên tri của Chúa, thì Ta hiện ra cùng người ấy trong thị kiến; hay Ta nói truyện với người ấy trong giấc mộng. Nhưng Môsê tôi tớ của Ta không phải thế. Ông rất trung thành trong cả nhà Ta. Ta trực tiếp đối diện nói truyện với ông, ông thấy Chúa tỏ tường, không bí ẩn hay là hình bóng. Vậy sao các ngươi dám chê trách Môsê tôi tớ của Ta?" Chúa nổi giận họ mà bỏ đi, và đám mây trên nhà xếp cũng bay đi. Thế là Maria bị phung cùi, mình trắng như tuyết.

Aaron ngoảnh lại thấy bà ấy đã bị phung cùi, nên nói với Môsê rằng: "Thưa Ngài, xin đừng phạt chúng tôi đã dại phạm tội. Xin đừng để em tôi nên như kẻ chết và như trẻ sinh non? Ðây phân nửa thịt nó đã bị bệnh phung cùi làm thối nát". Môsê kêu van cùng Chúa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin Chúa cứu chữa bà ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 5-6a. 6bc-7. 12-13

Ðáp: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, vì con đã phạm tội (c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Vì sự lỗi con thực là con biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Thiên Chúa. - Ðáp.

3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. - Ðáp.

4) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 14, 22-36

"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.

Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa" và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ". Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến". Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con". Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!"

{Khi đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được chữa lành}.

Ðó là lời Chúa. 

 

Related image


Suy Niệm Cảm Nghiệm:


Chúa thích chơi trò ma quái

B
ài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XVIII Thường Niên hôm nay thu
ật lại một biến cố xẩy ra sau phép lạ bánh hóa nhiều. Biến cố này xẩy ra thứ tự 4 phần như sau:
Phần nhất: "Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Đến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió".
Ở đây chúng ta thấy chính Chúa Giêsu giải tán dân chúng, chứ Người không bảo các tông đồ làm một việc xứng với thân phận và vai trò là môn đệ của Người. Người đích thân làm việc này có thể là vì "Người lên núi cầu nguyện một mình". Bởi đó Người đã "giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước", con thuyền mà Thày trò đã sử dụng để tránh dân chúng tuốn đến trước đó (xem Marco 6:32). Và có thể là vì một mục đích khác nữa, có lợi cho các tông đồ, nên cho mãi "đến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió".

Phần hai: "Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: 'Ma kìa' và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ'". 
Phải, ở đây chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cố ý để cho thuyền của các tông đồ "ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió" rồi Người mới xuất hiện giữa đêm tối: "Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông", chứ không xuất hiện với các vị khi trời còn sáng và vào lúc không có sóng gió gì, khiến các ông bấy giờ không còn nhận ra Người, càng hoảng sợ hơn nữa: "mà nói rằng: 'Ma kìa' và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng". Thiên Chúa hay chơi trò ma quái này với thành phần thiểu số được Ngài tuyển chọn, và Ngài thích tỏ mình ra trong những cơn gian nan khốn khó của những ai cần tin vào Ngài: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ". 
Phần ba: "Phêrô thưa lại rằng: 'Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy'. Chúa phán: 'Hãy đến'. Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy Thầy, xin cứu con'. Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?' Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'".
Được trấn an và nhận ra quả thực là Thày của mình chứ chẳng phải ma quái gì, Tông Đồ Phêrô chẳng những cảm thấy hết sợ mà còn trở nên khoái chí đến độ đã xin với Người rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúng ta thấy Tông Đồ Phêrô không tự ý nhào ra khỏi thuyền mà đến với Thày mà là xin lệnh của Thày trước. Và khi được Người cho phép "hãy đến" ngài liền "xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu".
Về sự kiện Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến cùng các môn đệ này cũng thế, người ta cũng tìm cách giải thích nghe có lý để gạt bỏ những gì gọi là phép lạ của Chúa Giêsu đi. Chẳng hạn, họ giải thích rằng bấy giờ là mùa đông nên nước bị đông cứng nên Chúa Giêsu đã bước đi trên tảng băng chứ không phải trên nước. Đúng là một giải thích trẻ con, chỉ đánh lừa được những ai không cẩn thận đọc Thánh Kinh. Vậy thì chỉ có chỗ Tông Đồ Phêrô bị chìm xuống là chỗ duy nhất không bị đông đá hay sao? Hay chỉ có chỗ nào Chúa Giêsu đi thì mới bị đóng băng còn chỗ nào thuyền của các môn đệ chèo thì toàn là nước à? Thật là một hiện tượng có vẻ ảo thuật hơn là thiên nhiên.

Ch
úng ta không biết được từ thuyền đến chỗ Chúa Giêsu đang đi trên biển mà đến với thuyền của các tông đồ bao xa. Nhưng chắc cũng không còn xa cho lắm, bởi trong đêm tối các tông đồ còn có thể nhìn thấy được Người và còn có thể nghe được tiếng của Người giữa sóng gió ào ào. Vậy từ thuyền đến chỗ của Chúa Giêsu rất gần nên có thể suy đoán rằng Tông Đồ Phêrô vừa mới ra khỏi thuyền được một chút thì đã cảm thấy chới với: "Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy Thầy, xin cứu con'". 
Tất nhiên Chúa Giêsu ở ngay đó không thể nào để cho vị tông đồ này chết chìm: "Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?'". Đúng thế, chỉ vì "nghi ngờ" mà Tông Đồ Phêrô mới bị chìm xuống, trái lại, nếu sóng gió càng mạnh, càng cản trở vị tông đồ này đến cùng Chúa Giêsu, mà ngài cứ tiếp tục thắng vượt tất cả, bằng một lòng tin tưởng tuyệt đối vào Thày, Đấng đang ở ngay phía trước mặt ngài và là chính mục tiêu tiến đến của ngài, thì chắc chắn ngài đã gặp được Người trong chính sóng gió và giữa đêm tối. 
Dầu sao Chúa Giêsu cũng đạt được mục đích của Người là tỏ mình ra cho các tông đồ giữa cơn gian nan khốn khó đầy hiểm nguy của các vị để các vị nhờ đó mà tin vào Người: "Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'". 
"Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng" có nghĩa là cuộc thử thách đức tin của các tông đồ được Chúa Giêsu sắp xếp xẩy ra chỉ tới đó thôi, nghĩa là cho tới khi Người bước vào trong thuyền của các vị, và cũng chính là lúc và là nơi các vị nhận biết Người đúng như những gì Người mong muốn nơi các vị: "Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'"

Điều tích cực cần phải áp dụng thực hành được bài Phúc Âm gợi lên cho chúng ta hôm nay được rút từ trường hợp của tông đồ Phêrô, vị tông đồ một khi hoảng sợ, ở chỗ bị chi phối bởi cuồng phong nên bị chìm xuống thế nào, thì một khi Kitô hữu chúng ta không gắn mắt đức tin của chúng ta vào Chúa, mà chỉ vào những sự kiện hay con người gây khốn cho mình, chúng ta khó lòng, nếu không muốn nói là không thể nào không tức giận, không trả đũa, bất an ..., nghĩa là chúng ta bị chìm xuống dưới nước là hình ảnh bản tính tự nhiên của chúng ta, chứ không vượt trên (như tông đồ Phêrô đi trên mặt nước) bản tính tự nhiên của mình, cho tới khi chúng ta nhìn lên Chúa, sống đức tin, như tông đồ Phêrô đã tuyên xưng qua lời kêu cứu của ngài: "Thày ơi, cứu con với".

Điều tiêu cực cần phải tránh đó là đừng bao giờ để mắt của mình bị quáng gà đến độ "nhìn cò ra quạ", nhìn Chúa lại tưởng ma. Tại sao? Tại vì hoảng sợ! Tại vì bất an! Chính cái hoảng sợ và bất an làm cho mắt con người bị mờ đi, khiến cho sự thật trước mắt bị nhạt nhòa, bị sóng sánh, bị chao đảo đến độ bị biến dạng trước những con mắt không còn làm chủ được mình. Như thế, chỉ còn một cách duy nhất để bị tình trạng quáng gà đó là áp dụng đường lối tích cực trên đây, đó là cứ nhìn thẳng vào đối tượng mình tin tưởng ngay từ ban đầu.


Tâm trạng đột nhiên hoảng hốt của tông đồ Phêrô nên vị tông đồ đang tin tưởng đi trên nước đến với Thày mình thì bị chìm ngay xuống nước trong bài Phúc Âm hôm nay, được phản ảnh phần nào nơi trường hợp của Maria và Aaron là anh chị em ruột thịt của Moisen trực tiếp "nói xấu ông Môsê, vì vợ ông này là người xứ Êthiôpia. Họ nói: 'Thiên Chúa chỉ phán với một mình Môsê mà thôi ư? Người chẳng phán cùng chúng ta như thế sao?'", mà chính là gián tiếp trách móc Thiên Chúa như thể cho Ngài là thiên vị, nên đã phạm đến cả Thiên Chúa, đến độ, sau khi Chúa tỏ cho 2 vị này biết về Moisen ở trong "nhà xếp giao ước", thì "Chúa nổi giận họ mà bỏ đi, và đám mây trên nhà xếp cũng bay đi. Thế là Maria bị phung cùi, mình trắng như tuyết. Maria bị phung cùi, mình trắng như tuyết".

Sau khi "Aaron ngoảnh lại thấy bà ấy đã bị phung cùi, nên nói với Môsê rằng: 'Thưa Ngài, xin đừng phạt chúng tôi đã dại phạm tội. Xin đừng để em tôi nên như kẻ chết và như trẻ sinh non? Ðây phân nửa thịt nó đã bị bệnh phung cùi làm thối nát'. Môsê kêu van cùng Chúa rằng: 'Lạy Thiên Chúa, xin Chúa cứu chữa bà ấy'", một tiếng kêu van thay cho chính phạm nhân Maria, một người chị em của ông chắc chắn đã nhận biết lỗi lầm của mình, khi bị Chúa trừng phạt nhãn tiền như thế, để cảnh tỉnh bà và giúp cho bà nhờ đó sống tốt lành hơn nhờ biết mình và tin vào Ngài hơn, bằng tất cả tâm hồn thiống hối ăn năn như tâm trình của Thánh Vịnh 50 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. .

2) Vì sự lỗi con thực là con biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Thiên Chúa.

3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con.

4) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.

 



Thứ Tư

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ds 13, 1-3a. 26 -- 14, 1. 26-29. 34-35

"Ðất ngon lành họ đã không thèm" (Tv 77, 24)

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê (ở trong hoang địa Pharan) rằng: "Ngươi hãy sai đàn ông, mỗi chi tộc một người (thuộc hàng vương công trong chúng), đi xem đất Canaan mà Ta sẽ ban cho con cái Israel".

Sau bốn mươi ngày, những người dò thám đất đi khắp miền, đoạn trở về.

{Họ đi gặp Môsê, Aaron và toàn thể cộng đồng con cái Israel ở sa mạc Pharan, tại Cađê. Và họ đã báo cáo với các ông và toàn thể cộng đồng, và cho người ta thấy thổ sản đất ấy. Họ đã tường thuật và nói: "Chúng tôi đã vào đất, nơi các ông sai chúng tôi đến, và thật là đất chảy tràn sữa và mật, và đây là thổ sản đất ấy. Hiềm một nỗi là dân cư trong xứ hùng cường! Thành trì kiên cố (và) lớn lắm, và chúng tôi đã thấy ở đó cả những con cháu Anaq. Có Amalec ở vùng Namsa; có dân Hit-tit, Giơbusi và Amori ở trên núi; còn dân Canaan thì ở gần biển và bờ sông Giođan".

Bấy giờ Caleb truyền cho dân nín bặt trước Môsê. Ông nói: "Ta cứ lên chiếm đất ấy, vì ta sẽ thắng nổi nó!" Những người cùng lên với ông đáp lại: "Ta không thể lên đánh dân ấy, vì nó mạnh hơn ta". Và họ buông lời chê bai giữa con cái Israel về đất họ đã dò thám, họ nói: "Ðất chúng tôi đã băng qua để dò thám là đất làm tiêu diệt cả những người ở trên ấy; dân chúng tôi đã thấy trong xứ toàn là những người vóc dạng. Chúng tôi đã thấy ở đó những người khổng lồ (con cháu của Anaq thuộc hạng người khổng lồ). Quay nhìn lại mình, thật chúng tôi chỉ như những con châu chấu, và trước mắt họ, chúng tôi chỉ như thế đó".

Và toàn thể cộng đồng kêu la; họ lên tiếng},

và đêm ấy toàn dân la lối khóc lóc. (Họ trách móc Môsê và Aaron, và nói rằng: "(...) Phải chi chúng tôi chết quách ở trong sa mạc này!").

Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: "Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng rằng: Chúa phán: Ta hằng sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên Ta sẽ làm cho các ngươi như vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên rừng vắng này. Tất cả các ngươi, tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều đã kêu trách Ta. Các ngươi đã xem thấy đất, trong bốn mươi ngày, (thì) một năm kể thay cho một ngày; các ngươi mang lấy cái khổ của sự gian ác các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét của Ta: vì Ta đã phán thế nào, thì Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên chống lại Ta như vậy: nó sẽ hao mòn và chết trên rừng vắng này".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 6-7a. 13-14. 21-22. 23

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ đến chúng con (c. 4a).

Xướng: 1) Chúng con đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa. - Ðáp.

2) Nhưng họ đã mau quên công việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân Ngài, họ không tin cậy vào định kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng ở nơi hoang địa, và thử thách Thiên Chúa trong cõi cô liêu. - Ðáp.

3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.

4) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là Người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Người, để Người nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 15, 21-28

"Này bà, bà có lòng mạnh tin".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".

Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel".

Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống".

Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.

Ðó là lời Chúa. 

 

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Ma Nữ Cao Thủ Đức Tin

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư trong Tuần XVIII Thường Niên, Thánh ký Mathêu thuật lại cho chúng ta về việc Chúa Giêsu chữa cho con gái của người đàn bà xứ Canaan được khỏi bị quỉ ám, một người đàn bà dân ngoại nhưng có một đức tin đầy ma lực đến độ "muốn gì đưc nấy". 

 

Thế nhưng, để có một đức tin "muốn gì được nấy" này, người đàn bà ngoại bang Cannan này đã phải trải qua một một cơn thử thách phải nói là khủng khiếp, một trận đấu sinh tử, trận đấu thập tử nhất sinh, liên quan đến sắc tộc của bà cũng như đến chính phẩm giá của bà.

 

Cuộc thử thách đức tin liên quan đến sắc tộc của người đàn bà Canaan: "Các môn đệ đến gần Người mà rằng: 'Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi'. Người trả lời: 'Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel'". Qua câu trả lời cho các môn đệ này, Chúa Giêsu như muốn nói rằng chỉ có dân Do Thái của Người là nhất, còn các dân ngoại chỉ là đồ thứ yếu, không đáng chú trọng cho bằng dân Do Thái. 

 

Cuộc thử thách đức tin liên quan đến phẩm giá làm người của người đàn bà Canaan"Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: 'Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi'. Người đáp: 'Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó'". Đến đây, bị chạm tự ái như thế, bị coi như loài chó như vậy, không biết có ai còn nhẫn nại để tiếp tục với con người khinh bỉ mình và chửi mình như thế nữa hay chăng, hay là điên tiết quại lại bằng câu hùng hổ như: "Này, ông đừng có tưởng rằng ông ngon lắm, không đáp ứng những gì tôi xin thì thôi, chứ đừng có mà khinh bỉ tôi như vậy. Tôi cóc cần ông".  

 

Thế nhưng, cho dù người đàn bà Canaan bị một độc chưởng vô cùng lợi hại chỉ từ chết tới bị thương như vậy mà bà chẳng những vẫn không hề hấn gì, trái lại, bà còn tung lại một tuyệt chiêu vô cùng ngoạn mục: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống", một tuyệt chiêu đã làm cho đối thủ vô địch của bà đành chào thua bà lập tức"Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy"

 

Điều duy nhất người đàn bà ngoại bang Canaan này muốn đó là làm sao để người con gái của bà khỏi "bị quỷ ám khốn cực lắm", đến độ, bà cảm thấy cái khổ của chính con bà như là của bà, nên bà đã xin Chúa Giêsu thương chính bản thân bà chứ không phải là đứa con gái của bà: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi". Để rồi, nhờ đức tin "muốn gì được nấy" của bà mà "ngay lúc đó, con gái bà đã được lành".

 

Nếu so sánh với đức tin của các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm qua thì quả thật nhân vật ma nữ cao thủ đức tin này đã hoàn toàn trổi vượt, ở chỗ, cho dù Chúa có tiếp tục chơi trò ma quái với cả bà là một kẻ thuộc dân ngoại chăng nữa, bà chẳng những đã không cảm thấy bị Người nát đến hoảng sợ thế nào, trái lại, còn nhìn thẳng vào Người, nên đã không bị chìm xuống như tông đồ Phêrô - Như thế phải chăng ma nữ cao thủ đức tin này chẳng những đi trên mặt nước mà còn bay trên mặt nước, bất chấp bão tố còn dữ dội kinh hoàng về tinh thần hơn là thứ phong ba bão tố về thể lý thử thách các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm qua.

 

Nếu đức tin của người đàn bà ngoại bang Canaan trong Bài Phúc Âm hôm nay phi thường như thế nào thì đức tin của dân Chúa trong Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Dân Số, cho thấy quá ư là yếu tin, cho dù đã thấy được biết bao nhiêu là dấu lạ và phép lạ Thiên Chúa tỏ mình ra trong thời gian 40 năm trong sa mạc, đến độ Thiên Chúa, sau lần họ đúc bò vàng để thờ như một vị cứu chúa của họ khi họ mới băng qua Biển Đỏ chẳng được bao lâu, lại muốn hủy diệt họ đi một lần nữa ngay trước khi họ sắp vào được Đất Hứa,

"Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: 'Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng rằng: Chúa phán: Ta hằng sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên Ta sẽ làm cho các ngươi như vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên rừng vắng này. Tất cả các ngươi, tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều đã kêu trách Ta. Các ngươi đã xem thấy đất, trong bốn mươi ngày, (thì) một năm kể thay cho một ngày; các ngươi mang lấy cái khổ của sự gian ác các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét của Ta: vì Ta đã phán thế nào, thì Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên chống lại Ta như vậy: nó sẽ hao mòn và chết trên rừng vắng này'".

 

Tuy nhiên, mỗi lần cảm thấy Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ, nhất là khi bị Ngài trừng phạt xứng với tội của mình, thì dân Ngài lại ăn năn thống hối, bởi Chúa là Đấng thấu biết mọi sự, biết  được lý do chính yếu mà dân Ngài cứ tiếp tục cứng lòng tin là bởi khuynh hướng hãy quên việc Ngài làm cho họ, như Thánh Vịnh 105 ở bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:
 

1) Chúng con đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa.

2) Nhưng họ đã mau quên công việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân Ngài, họ không tin cậy vào định kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng ở nơi hoang địa, và thử thách Thiên Chúa trong cõi cô liêu.

3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ.

4) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là Người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Người, để Người nguôi giận và đừng tiêu diệt họ.

 


Ngày 4 tháng 8

Thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh mục

lễ nhớ bắt buộc

Thánh Gioan Vianney

Thánh nhân sinh năm 1786 tại Ly-ông. Sau biết bao khó khăn gian khổ, người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ Ác-xơ thuộc giáo phận Ben-le. Người quả là vị mục tử gương mẫu : hoàn toàn lo việc loan báo Lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện và hãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà người đem hết lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng. Người qua đời năm 1859.

 

Bài đọc 2

Cầu nguyện và yêu mến : phận sự cao quý của con người

Trích bài giáo huấn của thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê.

Các con thân mến, kho tàng của người Ki-tô hữu không phải ở dưới đất, nhưng ở trên trời. Thế thì lòng trí chúng ta phải hướng đến nơi có kho tàng của chúng ta.

Con người có một bổn phận cao đẹp là cầu nguyện và yêu mến... Các con cầu nguyện, các con yêu mến : đó là hạnh phúc của con người trên trần gian.

Cầu nguyện không gì khác hơn là kết hợp với Thiên Chúa. Khi có tâm hồn trong sạch và gắn bó với Thiên Chúa, ta thấy nơi mình một thứ hương thơm dịu dàng ngây ngất, một luồng ánh sáng rực rỡ chói chang. Trong mối kết hợp mật thiết này, Thiên Chúa và linh hồn tựa hai khối sáp nóng chảy hoà vào nhau, không thể tách rời nhau nữa. Thiên Chúa kết hợp với thụ tạo bé nhỏ của Người : đẹp đẽ biết bao ! Hạnh phúc này, không sao hiểu thấu.

Xưa kia chúng ta chẳng xứng đáng cầu nguyện, nhưng Thiên Chúa đã thương cho chúng ta được thưa chuyện với Người. Lời cầu nguyện của chúng ta là làn hương thơm rất đẹp lòng Người.

Các con thân mến, trái tim các con nhỏ hẹp, nhưng lời cầu nguyện sẽ khiến nó mở rộng và có sức yêu mến Thiên Chúa... Cầu nguyện là nếm trước hạnh phúc trời cao, là làm cho phúc lộc thiên đàng tuôn đổ. Không bao giờ cầu nguyện mà không thấy dịu êm. Cầu nguyện là mật chảy vào hồn, biến tất cả nên êm ái ngọt ngào. Buồn phiền cực nhọc sẽ biến tan khi cầu nguyện sốt sắng, tựa tuyết tan dưới ánh mặt trời.

Cầu nguyện làm cho thời gian đi rất mau và đầy hứng thú, khiến ta không cảm thấy lâu. Đúng vậy : hồi các cha sở vùng Bơ-rét-xơ bị bệnh hầu hết, cha phải đi khắp vùng. Cha vừa đi vừa cầu nguyện với Thiên Chúa nhân lành. Nói thật với các con là cha chẳng thấy lâu gì cả.

Cha biết có những người đắm chìm trong cầu nguyện như cá trong nước. Họ thuộc trọn về Thiên Chúa nhân lành. Họ không bị chia trí. Ôi, cha mến những tâm hồn quảng đại này quá ! Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di và thánh Co-lê-ta trông thấy Chúa và chuyện vãn với Người như chúng ta vẫn trò chuyện với nhau. Còn chúng ta, biết bao lần chúng ta đến nhà thờ mà chẳng biết mình đến để làm gì, cũng chẳng biết mình muốn xin gì ! Thế mà khi đến nhà ai thì ta lại biết rõ mình đến để làm gì... Có những người như muốn nói với Thiên Chúa nhân lành rằng : “Con đến nói mấy câu cho xong chuyện với Chúa đây...” Cha thường nghĩ rằng : Khi đến tôn thờ Chúa, chúng ta sẽ được mọi điều như sở nguyện, với điều kiện là lời cầu xin của chúng ta đi đôi với một đức tin sống động và một tấm lòng thật trong trắng.

Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, Chúa đã làm cho thánh linh mục Gio-an Ma-ri-a nên một tấm gương tuyệt vời về lòng tận tuỵ hy sinh của người mục tử. Vì lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con hằng noi theo lòng bác ái của người mà cố gắng đem nhiều anh em về với Đức Ki-tô, để muôn đời cùng nhau hưởng nguồn vinh phúc. Chúng con cầu xin

 

 

ThanhGioanVianney.mp3

 



Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Ds 20, 1-13

"Xin Chúa mở kho tàng châu báu của Chúa là mạch nước hằng sống".

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, vào tháng Giêng, con cái Israel và toàn thể cộng đồng đến rừng Sim. Dân chúng định cư ở Cađê. Tại đây bà Maria đã qua đời và được chôn cất.

Và khi dân chúng thiếu nước, họ toa rập nhau chống đối Môsê và Aaron. Họ công kích Môsê rằng: "Phải chi chúng tôi chết đi như anh em chúng tôi đã chết trước mặt Chúa. Tại sao các ông dẫn cộng đoàn của Chúa vào rừng vắng này, để chúng tôi lẫn súc vật chúng tôi phải chết? Tại sao bắt chúng tôi bỏ Ai-cập mà dẫn lên chỗ rất xấu xa này, chẳng cày cấy được, chẳng sinh quả vả, nho lựu, hơn nữa không có nước mà uống".

Môsê và Aaron lánh mặt khỏi dân chúng và vào nhà xếp giao ước. Hai ông sấp mình xuống đất, kêu van cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin nghe tiếng dân này kêu van, và xin mở cho họ kho tàng châu báu của Chúa là mạch nước hằng sống, để họ uống no đầy mà hết kêu trách".

Sự vinh quang của Chúa hiện ra trên họ. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Hãy cầm lấy gậy và tập họp dân chúng lại, ngươi và Aaron khiến hòn đá, trước mắt họ, và đá liền chảy nước. Khi ngươi làm cho nước từ hòn đá này chảy ra, thì toàn dân và súc vật sẽ được uống".

Môsê cầm lấy cây gậy để trước mặt Thiên Chúa như Chúa đã truyền dạy ông. Khi tập họp cộng đồng đến trước hòn đá, ông bảo họ rằng: "Hỡi bọn người phản loạn và cứng lòng, hãy nghe đây. Chúng tôi có thể làm cho nước từ hòn đá này chảy ra cho các ngươi được không?" Môsê giơ tay cầm gậy đánh vào hòn đá hai lần: nước chảy ra tràn trề. Dân chúng và súc vật được uống.

Bấy giờ Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: "Vì các ngươi không tin Ta mà tuyên xưng thánh danh Ta trước mặt con cái Israel, thì các ngươi không được đem dân này vào Ðất Ta sẽ ban cho chúng nó".

Ðây là nước mâu thuẫn nơi con cái Israel trách Chúa, và Người dùng nước để tỏ ra thánh danh Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9

Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: các ngươi đừng cứng lòng (c. 8a).

Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. - Ðáp.

2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.

3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa, trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử thách Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 13-23

"Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Ðức Kitô.

Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image



Suy Niệm Cảm Nghiệm

Thâm Cung Bí Sử về Nhân Vật Giêsu Nazarét


B
ài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XVIII Thường Niên, được Thánh ký Mathêu thuật lại về sự kiện tông đồ đoàn, qua vị đại diện của mình là Tông Đồ Phêrô, tuyên xưng thực tại thần linh chân thực về Chúa Kitô, một Chúa Kitô sau đó chẳng những thiết lập Giáo Hội của Người trên nền tảng đức tin của vị tông đồ này, mà còn tỏ ra cho các tông đồ biết một bí mật quân sự tối quan hệ về Người. 
Tông Đồ Phêrô, tuyên xưng thực tại thần linh chân thực về Chúa Kitô: 
"Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: 'Người ta nói Con Người là ai?' Các ông thưa: 'Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ'. Đức Giêsu lại hỏi: 'Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?' Ông Simôn Phêrô thưa: 'Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống'". 
Chúa Kitô đã thiết lập Giáo Hội của Người trên nền tảng đức tin của vị tông đồ này:
"Đức Giêsu nói với ông: 'Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy". 

Chúa Kitô tỏ ra cho các tông đồ biết một bí mật quân sự tối quan hệ về Người:
"Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: 'Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!' Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: 'Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người'".
Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể tự hỏi là tại sao Chúa Giêsu bỗng nhiên lại hỏi các tông đồ về nhận định của dân chúng nói chung và của các tông đồ nói riêng về Người, trong khi Người vẫn cố ý che dấu căn tính của Người, như trong chính bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô"?

Phải chăng Người chỉ có ý muốn trắc nghiệm xem kiến thức thần linh và cảm nghiệm thần linh về Người nơi các vị như thế nào sau thời gian được gần gũi với Người hơn quần chúng? Căn cứ vào nội dung và kết cấu của bài Phúc Âm thì Chúa Kitô không phải chỉ muốn trắc nghiệm mức độ đức tin của các tông đồ, vì tự mình Người đã biết đức tin của các vị ra sao rồi, chẳng cần phải hỏi, mà Người muốn tiết lộ một bí mật hết sức phũ phàng về Người mà Người biết chắc chắn rằng các tông đồ không thể nào chấp nhận được, dù các vị có tuyên xưng hết sức chính xác về Người đi chăng nữa. 
Thật thế, điều tối mật về Người đó là Người chẳng những là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" mà còn là một Đức Kitô tử nạn và phục sinh nữa, để chứng tỏ Người thực sự là "Đức Kitô" (qua mầu nhiệm tử giá) và đồng thời cũng chính là "Con Thiên Chúa hằng sống" (qua mầu nhiệm phục sinh), chứ không phải như lý lẽ tự nhiên của các tông đồ, tiêu biểu qua tông đồ Phêrô, hiểu theo kiểu trần gian, ở chỗ đã là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thì Người không thể nào lại chết được. 
Nếu chung các tông đồ và riêng tông đồ Phêrô không chấp nhận sự thật này về "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thì các vị sẽ không thể nào theo Người được. Đó là lý do các vị đã phản nộp Người, như một tông đồ Giuđa Íchca, hay đã trắng trợn chối bỏ Người, như một tông đồ Phêrô đầu đàn. Đó cũng là lý do các vị ru rú lo âu sợ hãi trong căn thượng lầu khóa kín sau khi Thày của các vị chết đi. 
Đó còn là lý do khi nhận biết tất cả sự thật về một Chúa Kitô Phục Sinh, tông đồ Toma đã tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi" (Gioan 20:28), chứ không tuyên xưng "Vâng, con tin Thày đã chết nhưng đã sống lại". Bởi vì, chính vì Thày là Chúa và là Thiên Chúa mà Thày dù có chết cũng sẽ sống lại, để làm Chúa của cả kẻ sống lẫn người chết, để chứng tỏ Người là Vị Thiên Chúa hằng sống bất diệt. Lời tuyên xưng này của tông đồ Tôma như thể lập lại lời tuyên xưng của tông đồ Phêrô: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". 

 

Sự kiện tông đồ Phêrô tuyên xưng chính xác về căn tính của "Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" Thày của mình trong bài Phúc Âm hôm nay, nhưng sau đó, vị tông đồ này đã có một cảm nghiệm đức tin hoàn toàn không thích hợp với sự thật thần linh về mạc khải thần linh vừa được ngài tuyên xưng, nên ngài đã bị Vị Sư Phụ đáng tôn kính quí yêu thậm tệ quở trách.  Sách Dân Số cũng thuật lại nhân vật Moisen hằng tin tưởng vào Thiên Chúa của mình, bằng không ông đã không dấn thân gánh vác sứ vụ giải phóng dân Chúa ra khỏi Ai Cập vô cùng khó khăn và đau khổ, thế mà cũng có lúc không đẹp lòng Chúa, như trường hợp ông theo lệnh Chúa dùng gậy khiến nước chảy ra từ tảng đá, được ghi nhận ở Bài Đọc 1 hôm nay:

 

"Môsê cầm lấy cây gậy để trước mặt Thiên Chúa như Chúa đã truyền dạy ông. Khi tập họp cộng đồng đến trước hòn đá, ông bảo họ rằng: 'Hỡi bọn người phản loạn và cứng lòng, hãy nghe đây. Chúng tôi có thể làm cho nước từ hòn đá này chảy ra cho các ngươi được không?' Môsê giơ tay cầm gậy đánh vào hòn đá hai lần: nước chảy ra tràn trề. Dân chúng và súc vật được uống. Bấy giờ Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: 'Vì các ngươi không tin Ta mà tuyên xưng thánh danh Ta trước mặt con cái Israel, thì các ngươi không được đem dân này vào Ðất Ta sẽ ban cho chúng nó'".

 

Nếu "đó là nước mâu thuẫn nơi con cái Israel trách Chúa, và Người dùng nước để tỏ ra thánh danh Người", như câu kết của Bài Đọc 1 hôm nay cho biết, thì phải chăng ám chỉ đến Chúa Kitô là tảng đá bị bị thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường (xem Thánh Vịnh 118:22; Mathêu 21:42) ban nước hằng sống, nhưng chỉ cho những ai tin vào Người mà thôi. Bởi thế mà bài DaĐp Ca hôm nay, trích từ Thánh Vịnh 94, mới có những lời kêu gọi thích đáng như sau:

 

1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.

2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.

3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa, trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử thách Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta".

 

Ngày 05: Cung hiến đền thờ Ðức Bà cả

 

 

 


Thứ Sáu

 

 

Ngày 6 tháng 8

CHÚA HIỂN DUNG

lễ kính

 

Jesus&#39; Transfiguration Bible Story Study Guide

 

Phụng Vụ Giờ Kinh

 

Bốn mươi ngày trước lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ Hiển Dung nhắc cho các tín hữu nhớ rằng Chúa Ki-tô đã muốn “chuẩn bị tâm hồn các môn đệ khỏi vấp phạm vì khổ hình thập giá”. Nhưng đồng thời lễ này cũng loan báo cho mọi tín hữu biết mình được nhận làm con cái Thiên Chúa, nhờ Con Thiên Chúa là Đức Giê-su, và loan báo ánh sáng diệu kỳ một ngày kia sẽ rạng ngời trên toàn thân thể nhiệm mầu, tức là Hội Thánh.

Muôn lạy Đức Giê-su Cứu Chúa
Là Hào Quang phát tự Hào Quang,
Xin thương ghé mắt dịu dàng,
Nhậm lời cầu khẩn hát mừng thiết tha.

Dung nhan Chúa vượt xa chính ngọ,
Áo trắng như tuyết phủ non ngàn,
Hiển dung trên đỉnh thiên san
Để cho các vị chứng nhân ngắm nhìn.

Này ngôn sứ kề bên môn đệ,
Cựu tân hai thế hệ khác nhau,
Giờ đây ý hợp tâm đầu,
Tin Ngài Con Đấng Tối Cao giáng trần.

Lời Thánh Phụ vang ngân trong gió,
Gọi Ngài là Thánh Tử dấu yêu,
Chúng con xưng tụng hoà theo :
Ngài là Vua Cả thiên triều muôn năm.

Xưa đã mặc xác phàm yếu đuối,
Cứu loài người thoát khỏi hư vong,
Giờ xin biến đổi chúng con
Thành phần thân thể oai phong của Ngài.

Xin dâng Chúa đôi lời tán tụng,
Ôi Giê-su cao cả vinh quang,
Thánh Linh, Thánh Phụ chứng rằng :
Ngài là Thánh Tử Cha hằng yêu thương.


Bài đọc 2

Chúng con ở đây, thật hay quá

Trích bài giảng lễ Chúa Hiển Dung của giám mục A-nát-ta-xi-ô Xi-nai.

Đức Giê-su đã bày tỏ mầu nhiệm này cho các môn đệ trên núi Ta-bo. Đang khi cùng đi đường, Người đã chuyện trò với các ông về Nước Trời và về cuộc quang lâm của Người. Có lẽ các ông chưa xác tín những điều Người tiên báo về Nước Trời, nên Người muốn cho các ông thâm tín tận đáy lòng và từ những việc hiện tại, các ông có thể tin vào những việc tương lai. Vì thế, trên núi Ta-bo, Người đã cho các ông thấy một quang cảnh thần diệu như hình ảnh báo trước về Nước Trời. Dường như Người muốn nói với các ông : “Để anh em khỏi mất lòng tin trong khi còn phải chờ đợi, thì ngay bây giờ, Thầy bảo thật anh em : trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị trong vinh quang của Cha Người.”

Để chứng tỏ Đức Ki-tô muốn thế nào thì có quyền làm như thế, tác giả sách Tin Mừng thêm : Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và kìa các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.

Đó là những điều kỳ diệu của ngày đại lễ hôm nay ; đó là mầu nhiệm đem lại ơn cứu độ cho chúng ta, mầu nhiệm đang được thực hiện trên núi vào chính lúc này. Quả thế, cả sự chết lẫn vinh quang của Đức Ki-tô đang quy tụ chúng ta. Vậy chúng ta sẽ đi sâu vào những mầu nhiệm thánh thiêng khôn tả này cùng với những người Đức Ki-tô đã tuyển chọn trong số môn đệ được Thiên Chúa dẫn lối soi đường. Để được như thế, chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói thánh thiêng của Thiên Chúa. Từ đỉnh núi cao, Người đang khẩn thiết kêu mời chúng ta.

Tôi dám nói là chúng ta phải mau chân tìm đến đó như Đức Giê-su. Giờ đây, trên trời, Người vẫn đưa đường dẫn lối cho chúng ta. Cùng với Người, chúng ta sẽ rực sáng, và chỉ những ai có đức tin mới nhận ra, vì một cách nào đó, khuôn mặt tâm linh của chúng ta được đổi mới, được nên đồng hình đồng dạng với Người, và cũng như chính Người, chúng ta không ngừng được biến đổi hình dạng, được thông phần bản tính thần linh và sẵn sàng để được đưa về trời.

Chúng ta hãy chạy đến đó, phấn khởi hân hoan ; hãy vào sâu trong đám mây, như các ông Mô-sê và Ê-li-a hay các ông Gia-cô-bê và Gio-an. Như ông Phê-rô, hãy say sưa chiêm ngắm cảnh tượng thần thiêng, hãy để cho cuộc biến đổi hình dạng vinh quang của Chúa biến đổi con người bạn, giúp bạn siêu thoát cõi đời và xa rời trần thế. Hãy từ bỏ xác thịt, lìa xa thụ tạo và quay về với Tạo Hoá, với Đấng mà trong phút xuất thần, ông Phê-rô đã thưa lên : Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật hay quá.

Hẳn rồi, lạy thánh Phê-rô, ở đây với Đức Giê-su và ở đây mãi mãi thì thật hay quá. Còn gì hạnh phúc hơn, còn gì cao cả và quý báu hơn là được ở với Thiên Chúa, được nên đồng hình đồng dạng với Người và được chan hoà ánh sáng ? Hẳn rồi, mỗi chúng ta khi có Thiên Chúa ở trong mình và được biến đổi nên hình ảnh thần thiêng của Người, thì phải vui mừng kêu lên : Ở đây thật hay quá, vì ở đây, mọi sự đều sáng ngời rực rỡ ; ở đây, có niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào ; ở đây, lòng ta được hoàn toàn bình an, thanh tĩnh và êm đềm ; ở đây, ta được nhìn thấy Đức Ki-tô ; Người chọn chỗ này làm nơi cư ngụ cùng với Chúa Cha. Vừa bước vào, Người đã nói : Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này ; ở đây, có Đức Ki-tô là có những kho tàng chất chứa phúc lộc đời đời ; ở đây những hoa trái đầu mùa và những hình ảnh tiên báo đời sau được mô tả như đang hiển hiện trong một tấm gương vậy.

Xướng đápMt 17,2.3 ; x. Lc 9,32.34

XDung nhan Đức Giê-su chói lọi như mặt trời.

ĐĐược chiêm ngưỡng vinh quang của Người, các môn đệ vừa ngỡ ngàng vừa sợ hãi.

XVà kìa có ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.

ĐĐược chiêm ngưỡng vinh quang của Người, các môn đệ vừa ngỡ ngàng vừa sợ hãi.

 

Hôm nay Thiên Chúa muốn cho Đức Ki-tô tỏ vinh quang mình cho ba môn đệ được thấy. Ta hãy tôn vinh Người và thiết tha cầu nguyện :

Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, Chúa đã cho ba môn đệ được nhìn ngắm vinh quang của Thánh Tử Giê-su, và được nghe tiếng Chúa phán dạy phải vâng nghe lời Người, - xin cho chúng con cũng biết vâng phục Người luôn mãi.

Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.

Chúa đã ban phúc lộc đầy dư cho những người Chúa chọn, - xin cho chúng con biết tìm đến Đức Ki-tô là mạch suối trường sinh.

Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.

Trong những giờ đen tối, xin cho chúng con được soi sáng nhờ ánh vinh quang Chúa tỏ hiện nơi dung nhan Đức Ki-tô, - và cho chúng con hằng tha thiết chiêm ngưỡng thánh nhan Người.

Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.

Nhờ mầu nhiệm Đức Ki-tô hiển dung, Chúa kêu gọi chúng con đổi mới cuộc đời, - xin cho mọi người trên thế giới được nhờ ánh sáng Tin Mừng mà đạt tới phúc trường sinh.

Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.

Vì yêu thương, Chúa đã cho chúng con được trở thành con cái Chúa, - xin làm cho chúng con thật nên giống Thánh Tử Giê-su khi Người quang lâm.

Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.

 

 

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Con Một Chúa biểu lộ dung nhan vinh hiển Người, Chúa đã dùng hai chứng nhân Cựu Ước là ông Mô-sê và ông Ê-li-a, để củng cố niềm tin của các Tông Đồ vào mầu nhiệm cứu độ, và báo trước hồng ân lạ lùng Chúa sẽ ban là nhận chúng con làm nghĩa tử. Xin cho chúng con nghe lời Con Một Chúa, để mai sau được chung hưởng gia nghiệp với Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Ðn 7, 9-10. 13-14

"Áo Người trắng như tuyết".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Tôi ngắm nhìn cho đến khi đặt ngai toà xong, và một vị Bô Lão ngự trên ngai: áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người như những ngọn lửa, các bánh xe như lửa cháy. Một con sông lửa chảy lan tràn trước mặt Người. Hằng ngàn kẻ phụng sự Người, và muôn vàn kẻ chầu chực Người. Người ngự toà xét xử, và các quyển sách đều mở ra.

Trong một thị kiến ban đêm, tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời. Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài: quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất: vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 96, 1-2. 5-6. 9

Ðáp: Chúa hiển trị, Chúa là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất (c. 1a và 9a).

Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao toả chung quanh; công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.

2) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi trái đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, vì Ngài là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất, Ngài rất đỗi siêu phàm giữa muôn chúa tể. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Pr 1, 16-19

"Chúng tôi đã nghe tiếng ấy từ trời phán xuống".

Trích thư thứ hai của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, chúng tôi không theo những truyện bày đặt khôn khéo, để tỏ ra cho anh em biết quyền năng và sự hiện diện của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta; nhưng chúng tôi đã được chứng kiến nhãn tiền sự uy nghi của Người. Người đã được Chúa Cha ban cho vinh dự và vinh quang, khi có lời từ sự vinh quang cao cả xuống phán về Người rằng: "Này là Con Ta yêu dấu, Người đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Chúng tôi đã nghe tiếng ấy từ trời phán xuống, lúc chúng tôi ở với Người trên núi thánh. Và chúng tôi có lời nói chắc chắn hơn nữa là lời nói tiên tri: anh em nên nghe theo lời đó, nó như ngọn đèn sáng soi trong nơi u tối, cho đến khi rạng đông và sao mai mọc lên trong lòng anh em.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Mt 17, 5c

Alleluia, alleluia! - Này là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 1-9

"Ðây là Con Ta yêu dấu".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu.

Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.

Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"

Ðó là lời Chúa.

 

LỄ CHÚA KITÔ BIẾN HÌNH

VINH QUANG BA NGÔI NƠI VIỆC CHÚA KITÔ BIẾN HÌNH

 

(ĐTC Gioan Phaolô II: Bài Giáo Lý 8 ngày 26/4/2000 trong loạt 33 bài về Chúa Ba Ngôi cho Đại Năm Thánh 2000)

 

1-         Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, một tuần được coi như là một ngày trọng đại duy nhất, phụng vụ không ngừng lập đi lập lại sứ điệp Phục Sinh: “Chúa Giêsu thực sự đã sống lại rồi!”. Lời loan báo này mở ra cho toàn thể nhân loại một chân trời mới. Tất cả những gì được ám chỉ một cách mầu nhiệm nơi Cuộc Biến Hình trên Núi Tabo đều trở thành hiện thực nơi Cuộc Phục Sinh. Lúc biến hình, Chúa Giêsu tỏ cho các vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy phép lạ hiển vinh cùng với ánh sáng được niêm ấn bằng tiếng của Chúa Cha: “Đây là Người Con yêu dấu của Ta” (Mk 9:7).

 

Vào ngày lễ Phục Sinh, những lời này hiện lên cho chúng ta thấy trọn vẹn thực tại của chúng. Người Con yêu dấu của Chúa Cha, tức Đức Kitô bị đóng đanh và tử nạn, đã sống lại vì chúng ta. Trong sự tỏ rạng của Người, tín hữu chúng ta thấy được ánh sáng, và, như phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương xướng lên, “được Thần Linh phục sinh, chúng ta muôn đời chúc tụng Ba Ngôi Thiên Chúa đồng bản thể” (Kinh Tối Trọng Thể Lễ Chúa Kitô Biến Hình). Với một tấm lòng tràn đầy niềm vui Phục Sinh, hôm nay tinh thần chúng ta hãy leo lên ngọn núi thánh nổi bật trên đồng bằng Galilêa để chiêm ngưỡng ở chóp đỉnh của nó một biến cố xẩy ra hướng vọng tới biến cố Phục Sinh.

 

2-         Chúa Kitô là tâm điểm của Cuộc Biến Hình. Hai chứng nhân của Cựu Ước hiện ra với Người là Moisen, vị trung gian của lề luật, và Elia, vị tiên tri của Thiên Chúa hằng sống. Thần tính của Chúa Kitô, được tiếng của Chúa Cha công bố, cũng tỏ hiện bởi những biểu hiệu bằng hình ảnh theo kiểu diễn tả của thánh ký Marcô. Thật vậy, có ánh sáng và mầu trắng tiêu biểu cho vĩnh cửu và siêu việt tính: “Y phục của Người trở nên sáng láng, trắng tinh đến nỗi không một thợ giặt tẩy nào trên trần gian này có thể làm nổi” (Mk 9:3). Thế rồi có cả mây trời, dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện trong cuộc Xuất Ai Cập của dân Yến Duyên cũng là dấu hiệu Ngài hiện diện nơi lều Giao Ước (x Ex 13:21-22, 14:19, 24, 40: 34, 38).

 

Vào Buổi Sáng ngày lễ Biến Hình, phụng vụ Đông Phương cũng xướng lên rằng: “Ôi Lời Thiên Chúa, sự rạng ngời tinh nguyên của ánh sáng Chúa Cha, trong ánh sáng tỏa chiếu của Chúa trên Núi Tabo, hôm nay chúng con đã được thấy ánh sáng là Chúa Cha và ánh sáng là Thần Linh, một ánh sáng soi chiếu tất cả mọi tạo vật”.

3-         Bản văn phụng vụ này đề cao chiều kích Ba Ngôi nơi Cuộc Biến Hình trên núi của Chúa Kitô. Thật vậy, Chúa Cha hiện diện rõ ràng nơi tiếng nói phát ra. Truyền thống Kitô Giáo có một thoáng nhìn ngấm ngầm về việc Thánh Linh hiện diện nơi biến cố biến hình song song với biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa ở sông Dược Đăng, lúc mà Thần Linh lấy hình bồ câu đậu xuống trên Người (Mk 1:10). Thật vậy, mệnh lệnh “Hãy lắng nghe Người” (Mk 9:7) của Chúa Cha cho thấy Chúa Giêsu đầy Thánh Linh để các lời của Người đều là “thần trí và là sự sống” (Jn 6:63, x. 3:34-35).

Bởi vậy, chúng ta có thể leo lên ngọn núi này để trầm tư, chiêm ngưỡng và dìm mình vào mầu nhiệm ánh sáng của Thiên Chúa. Tabo tiêu biểu cho tất cả mọi ngọn núi dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, như các nhà thần bí vẫn thích dùng hình ảnh so sánh này. Một bản văn khác của Giáo Hội Đông Phương kêu gọi chúng ta thực hiện cuộc tiến lên tới chóp đỉnh và tới ánh sáng như sau: “Hỡi các dân, hãy đến mà theo tôi! Chúng ta hãy leo lên ngọn núi thánh thiên đình; tâm linh của chúng ta hãy dừng lại ở thành đô Thiên Chúa hằng sống và lấy tinh thần mà chiêm ngưỡng thần tính của Chúa Cha và Thánh Thần được rạng ngời nơi Người Con Duy Nhất” (troparion at the conclusion of the Canon of St John Damascene).

4-         Nơi Cuộc Biến Hình, chúng ta chẳng những chiêm ngưỡng mầu nhiệm Thiên Chúa, đi từ ánh sáng tới ánh sáng (x Ps 36:10), chúng ta còn được mời gọi để lắng nghe lời thần linh nói với chúng ta nữa. Vượt trên ngôn từ của Lề Luật hiện thân nơi Moisen cũng như ngôn từ của tiên tri hiện thân nơi Êlia, tiếng nói của Chúa Cha có thể nghe thấy có liên quan đến tiếng nói của Chúa Con, như Tôi vừa đề cập tới (x Mk 9:7). Khi dẫn giải về cảnh Biến Hình, Bức Thư Thứ Hai của Thánh Phêrô nhấn mạnh đến tiếng nói thần linh. Chúa Giêsu Kitô “đã nhận được vinh dự cùng vinh quang từ Thiên Chúa Cha và có một tiếng nói đã phát ra với Người từ vinh quang uy nghi cao cả: ‘Đây là Người Con yêu dấu của Ta, Người mà Ta hài lòng’; chúng tôi đã nghe thấy tiếng nói ấy phát ra từ trời, vì chúng tôi đã ở với Người trên núi thánh. Do đó chúng tôi càng vững vàng hơn nữa về lời ngôn sứ. Anh em tỏ ra vững chắc khi chú ý tới lời như là ngọn đèn sáng soi trong nơi tăm tối cho đến ngày rạng đông và sao mai mọc lên trong tâm trí anh em” (2Pt 1:17-19).

Chúng ta hãy chúc tụng Chúa Cha, Ngôi Lời và Thánh Linh.

5-         Bởi vậy, nhìn và nghe, chiêm ngưỡng và tuân phục là những đường lối dẫn chúng ta lên núi thánh, nơi Ba Ngôi tỏ mình ra trong vinh quang của Chúa Con. “Cuộc Biến Hình làm cho chúng ta nếm trước việc Chúa Kitô đến trong vinh quang, khi Người ‘biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân xác vinh hiển của Người’ (Phil 3:21). Thế nhưng, Cuộc Biến Hình đồng thời cũng nhắc nhớ là ‘chính nhờ trải qua nhiều cuộc bách hại chúng ta mới được vào vương quốc của Thiên Chúa’ (Acts 14:22)” (Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 556). 

Như linh đạo của Giáo Hội Đông Phương nêu lên, phụng vụ về Cuộc Biến Hình cho thấy một “bộ ba” nhân loại nơi ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, những vị chiêm ngưỡng Ba Ngôi thần linh. Như ba người trẻ trong lò lửa của Sách Tiên Tri Đaniên (3:51-90), phụng vụ “chúc tụng Thiên Chúa là Cha và là Đấng Hóa Công, ngợi khen Ngôi Lời là Đấng đã xuống giúp họ và biến lửa thành sương sa, cùng tôn vinh Thánh Linh là Đấng ban sự sống cho tất cả mọi người đến muôn đời” (Kinh Ban Mai Lễ Biến Hình).

Giớ đây chúng ta hãy cầu nguyện cùng Chúa Kitô biến hình bằng những lời của Kinh Nguyện Thánh Gioan Đamascênô: “Ôi Chúa Kitô, Chúa đã thu hút con bằng lòng khao khát Chúa, và đã biến đổi con bằng tình yêu thần linh. Xin Chúa hãy thiêu đốt tội lỗi của con bằng lửa thiêng của Chúa và xin hãy đoái thương làm cho con tràn đầy nỗi dịu ngọt của Chúa, để vui mừng hớn hở, con sẽ chúc tụng tất cả mọi biểu hiện của Chúa”.

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osseervatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 3/5/2000)

 

 

 

LeChuaGiesuBienHinh.mp3

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa (theo ngày trong tuần)

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ðnl 4, 32-40

"Người đã yêu thương cha ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: "Các ngươi hãy tìm hiểu những thời xa xưa trước kia, từ khi Thiên Chúa tác thành con người trên mặt đất, từ chân trời này đến chân trời nọ, có bao giờ xảy ra một việc vĩ đại như thế này chăng? Có bao giờ người ta đã nghe thấy những việc lạ lùng như vậy chăng? Có bao giờ một dân tộc đã nghe lời Thiên Chúa từ trong lửa phán ra như các ngươi đã nghe mà còn sống chăng? Có bao giờ Chúa đã dùng sự thử thách, dấu chỉ, điềm lạ, chiến tranh, cánh tay quyền năng mạnh mẽ và những thị kiến khủng khiếp, để chọn lấy cho mình một dân tộc giữa các dân tộc khác, như Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã làm tất cả các điều đó trước mặt các ngươi trong đất Ai-cập chăng? Tất cả những điều đó, Người chỉ cho các ngươi xem thấy, để các ngươi biết rằng Chúa là Thiên Chúa thật, và ngoài Người, không có chúa nào khác. Từ trên trời, Người cho các ngươi nghe tiếng Người; ở dưới đất, Người cho các ngươi thấy đám lửa to lớn của Người; và từ giữa đám lửa ấy, các ngươi đã nghe lời Người, vì Người đã yêu thương cha ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy. Người đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập khi Người dùng quyền năng cao cả mà đi trước mặt các ngươi, để tiêu diệt trước mặt các ngươi những dân tộc lớn mạnh hơn các ngươi, và đem các ngươi vào trong xứ của họ và ban đất của họ cho các ngươi làm gia nghiệp, như các ngươi vẫn thấy hiện nay. Vậy hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng: Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Hãy tuân giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính ta truyền dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau được hạnh phúc, và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho các ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 76, 12-13. 14-15. 16 và 21

Ðáp: Tôi hồi tưởng lại những việc làm của Chúa (c. 12a).

Xướng: 1) Tôi hồi tưởng lại những việc làm của Chúa; tôi cũng nhớ những điều kỳ diệu thuở trước của Ngài. Tôi nghiền ngẫm về mọi việc làm của Chúa, và tôi suy tư về những đại sự của Ngài. - Ðáp.

2) Ôi Thiên Chúa, đường lối của Ngài thánh thiện; có thần minh nào vĩ đại như Thiên Chúa chúng tôi? Ngài là Thiên Chúa làm nên những điều kỳ diệu, làm sáng tỏ quyền năng ở giữa chư dân. - Ðáp.

3) Ngài đã ra tay thục mạng dân Ngài, thục mạng con cháu của Giacóp và Giuse. Nhờ tay Môi-sen và Aaron, Chúa chăn dắt dân Ngài như thể đoàn chiên. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 24-28

"Người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?

"Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật, Thầy bảo các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không nếm sự chết trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Cộng = Trừ và Trừ = Cộng


Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XVIII Thường Niên, để tiếp tục tất cả sự thật về mầu nhiệm Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm qua, ở chỗ: Nếu Ngưòi là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", thì Người đồng thời cũng phải là một Đức Kitô Vượt Qua, tử giá và phục sinh, nhờ đó Người mới chứng thực Người quả là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", Chúa Kitô, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã thẳng thắn tuyên bố một hệ luận hay một lối sống liên quan trực tiếp đến thân phận của những ai muốn theo Người là một Đức Kitô Vượt Qua từ khổ giá đến phục sinh rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy".

 

Sau đó, Người cho các môn đệ của Người biết về lý do tại sao họ cần phải sống như thế, cần phải bỏ mình và vác thập giá mà theo Người như vậy, hay đúng hơn cần phải bỏ mình và vác thập giá mới có thể theo Người, bằng không, họ không thể nào theo Người được, thậm chí như Người phán trong Phúc Âm của Thánh ký Luca: "Ai không vác thập giá mình mà theo Thày không xứng đáng làm môn đệ của Thày" (14:27). Lý do được Người nêu lên cho các môn đệ thấy đó là:

 

"Vì chưng, ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?"

Câu tuyên bố này của Chúa Kitô có thể hiểu về trường hợp của các vị tử đạo trong Giáo Hội từ trước tới nay trong lịch sử của Giáo Hội. Nguyên tắc cứu thì mất bỏ thì còn có vẻ mâu thuẫn này cũng đúng trong cả trường hợp bị rắn độc cắn nếu không chặt cánh tay hay chặt bàn chân bị nó cắn chỉ vì tiếc rẻ hay sợ đau cứ muốn giữ lấy chỗ bị cắn đó thì nạn nhân sẽ mất mạng, ngược lại thì còn mạng. 

 

Đó là lý do trong bài giảng Phúc Đức Trọn Lành trên núi của Phúc Âm Thánh ký Mathêu, Chúa Kitô cũng đã khuyên các môn đệ của Người rằng nếu mắt của các con hay tay của các con mà nên cớ vấp phạm cho các con thì hãy móc nó đi, hãy chặt nó đi, thà mất một mắt hay thiếu một tay mà vào Nước Trời còn hơn còn nguyên toàn thân lại bị quẳng vào hỏa ngục (xem 5:29-30).

 

"Sự sống mình" mà Chúa bảo cần phải mất đi để "được sự sốngđây là gì, nếu không phải nếu "sự sống" họ được đây là Chúa Kitô, Đấng đã tuyên bố mình là "sự sống" (Gioan 11:25,14:6), thì "sự sống mình" đây chính là bản thân con người. Đó là lý do Người đã dứt khoát với những ai muốn theo Người "phải bỏ chính bản thân mình đi - must deny his very self". 

 

Việc "phải bỏ chính bản thân mình" của những ai muốn theo Chúa Kitô này không phải là việc họ tự hủy diệt bản thân họ, mà là một tiến trình biến đổi bản thân họ, biến đổi từ bản thân vô cùng thấp hèn xấu xa tội lỗi của họ để trở nên một Chúa Kitô vô cùng cao cả là chính sự sống thần linh của họ, nghĩa là họ đánh đổi bản thân mình để lấy chính Chúa Kitô, như thể họ là người tim thấy kho tàng là Chúa Kitô trong thửa ruộng thế gian thì đã bán hết mọi sự mình có, bán chính bản thân mình đi, để mua lấy thửa ruộng có kho tàng được chôn giấu ấy vậy (xem Mathêu 13:44).

 

Chúa Kitô là "sự sống" của thành phần muốn theo Người và cho những ai từ bỏ chính bản thân mình, đến độ không một sự gì trên thế gian này có thể so sánh được: có Người là có tất cả, mất Người là mất tất cả. Đó là lý do Chúa Kitô đã khẳng định với các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?". 

 

Chưa hết, những ai dám hy sinh tất cả mọi sự chẳng là gì trên trần gian tạm gửi mau qua chóng hết hết sức tầm thường này để theo Người cho tới cùng thì sau này sẽ được phần thưởng xứng đáng bất diệt đời sau nữa, như Người hứa với họ ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tùy theo việc họ làm". 

 

Thế nhưng, để có thể "bỏ chính bản thân mình" mà theo Chúa, con người cần phải có đức tin, phải tin vào Đấng đã kêu gọi họ và chính là Đấng họ theo đuổi cho tới cùng, Đấng luôn tỏ mình ra cho họ, chẳng những bằng điềm thiêng dấu lạ trong cuộc đời họ mà nhất là bằng đau khổ thử thách để họ càng tin vào Người hơn, nhờ đó họ có thể hiệp nhất nên một với Người là "sự sống" của họ mỗi ngày một hơn.

 

Đúng thế, không có đức tin con người không thể nào bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa được. Thế nhưng, con người cũng không thể nào tin vào Thiên Chúa được nếu chính bản thân họ không được Ngài tỏ mình ra cho, để qua đó họ có thể tin vào Ngài mỗi ngày một hơn đúng như mạc khải thần linh của Ngài. Và đó là lý do những gì được nhân vật Moisen nhắc lại cho dân Chúa nghe trong Bài Đọc 1 hôm nay, từ Sách Đệ Nhị Luật, đều là để giúp cho dân Chúa nhớ lại và tái nhận thức về Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình mà tin vào Ngài hơn, qua việc tuân giữ lề luật Ngài ban như dấu hiệu trung thành với Ngài.

 

"Các ngươi hãy tìm hiểu những thời xa xưa trước kia, từ khi Thiên Chúa tác thành con người trên mặt đất, từ chân trời này đến chân trời nọ, có bao giờ xảy ra một việc vĩ đại như thế này chăng? Có bao giờ người ta đã nghe thấy những việc lạ lùng như vậy chăng? Có bao giờ một dân tộc đã nghe lời Thiên Chúa từ trong lửa phán ra như các ngươi đã nghe mà còn sống chăng? Có bao giờ Chúa đã dùng sự thử thách, dấu chỉ, điềm lạ, chiến tranh, cánh tay quyền năng mạnh mẽ và những thị kiến khủng khiếp, để chọn lấy cho mình một dân tộc giữa các dân tộc khác, như Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã làm tất cả các điều đó trước mặt các ngươi trong đất Ai-cập chăng? Tất cả những điều đó, Người chỉ cho các ngươi xem thấy, để các ngươi biết rằng Chúa là Thiên Chúa thật, và ngoài Người, không có chúa nào khác. Từ trên trời, Người cho các ngươi nghe tiếng Người; ở dưới đất, Người cho các ngươi thấy đám lửa to lớn của Người; và từ giữa đám lửa ấy, các ngươi đã nghe lời Người, vì Người đã yêu thương cha ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy. Người đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập khi Người dùng quyền năng cao cả mà đi trước mặt các ngươi, để tiêu diệt trước mặt các ngươi những dân tộc lớn mạnh hơn các ngươi, và đem các ngươi vào trong xứ của họ và ban đất của họ cho các ngươi làm gia nghiệp, như các ngươi vẫn thấy hiện nay. Vậy hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng: Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Hãy tuân giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính ta truyền dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau được hạnh phúc, và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho các ngươi".

 

Thánh Vịnh 76 ở bài Đáp Ca hôm nay đã tỏ ra tích cực đáp ứng lời kêu gọi của ông Moisen trong Bài Đọc 1 hôm nay, với những nhận thức và tâm tình đầy tin tưởng và xác tín như sau:

1) Tôi hồi tưởng lại những việc làm của Chúa; tôi cũng nhớ những điều kỳ diệu thuở trước của Ngài. Tôi nghiền ngẫm về mọi việc làm của Chúa, và tôi suy tư về những đại sự của Ngài.

2) Ôi Thiên Chúa, đường lối của Ngài thánh thiện; có thần minh nào vĩ đại như Thiên Chúa chúng tôi? Ngài là Thiên Chúa làm nên những điều kỳ diệu, làm sáng tỏ quyền năng ở giữa chư dân.

3) Ngài đã ra tay thục mạng dân Ngài, thục mạng con cháu của Giacóp và Giuse. Nhờ tay Môi-sen và Aaron, Chúa chăn dắt dân Ngài như thể đoàn chiên.

 

 


Thứ Bảy

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ðnl 6, 4-13

"Hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng ngươi".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Môsê nói với dân chúng rằng: "Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng. Hãy kể lại những lời ấy cho con cái ngươi, hãy suy ngắm những lời ấy khi ngồi ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi chỗi dậy. Ngươi hãy buộc những lời đó vào bàn tay như dấu hiệu, lên trán như một vòng khăn, hãy viết lên cột và cửa nhà ngươi.

"Khi Chúa là Thiên Chúa ngươi dẫn ngươi đến xứ Người đã thề với các tổ phụ ngươi là Abraham, Isaac và Giacóp, và ban cho ngươi những thành phố to lớn và phồn thịnh mà ngươi không xây cất, những ngôi nhà đầy mọi của cải mà ngươi không làm ra, những giếng nước mà ngươi không đào, vườn nho và vườn cây ôliu mà ngươi không trồng, ngươi sẽ được no nê: ngươi hãy nhớ, đừng quên Chúa, Ðấng đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi nhà nô lệ. Ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa ngươi, hãy làm tôi một mình Người và lấy danh Người mà thề".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 47 và 51ab

Ðáp: Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).

Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng, chiến lũy, và cứu tinh. - Ðáp.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.

3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 17, 14-19

"Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: "Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được". Chúa Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta". Chúa Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy. Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: "Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Hôm nay, bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XVIII Thường Niên không phải là bài tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, cuối đoạn 16 theo Phúc Âm Thánh Mathêu, mà là bài Phúc Âm sang đoạn 17, từ câu 14 đến 21, thay vì từ câu 1 đến câu 13. Bởi vì bài Phúc Âm từ câu 1 đến 13 mở đầu đoạn 17 là bài Phúc Âm về biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, một biến cố đã được Giáo Hội cử hành hôm Thứ Năm vừa rồi (là ngày 6/8 trong tháng như năm 2015).

 

Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho ngày cuối tuần XVIII Thường Niên hôm nay tường thuật về sự việc Chúa Giêsu trừ quỉ cho đứa con trai của một người đến xin Người, vì môn đệ của Người đã không thể trừ được quỉ cho con của ông ta:

 

"Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: 'Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được'". 

Chính các môn đệ cũng thắc mắc là tại sao các vị không trừ được quỉ, và đã được Chúa Giêsu trả lời cho các vị biết rằng: "Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: 'Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Vì các con yếu lòng tin!'"

 

Đó là lý do sau khi nghe ông bố của đứa con trai bị quỉ ám cho biết các môn đệ của Người không trừ được quỉ ra khỏi con ông ta, Chúa Giêsu đã không than trách chung dân chúng và riêng ông bố đang xin Người trừ quỉ cho con ông ta, cho bằng chính các môn đệ của Người, thành phần đã được Người ban cho quyền trừ quỉ từ khi Người sai các vị đi truyền giáo trước kia (xem Mathêu 10:1) mà quyền trừ quỉ nơi các vị vẫn không có công hiệu gì nơi các vị trong trường hợp này, chỉ vì các vị yếu lòng tin: "Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa?"

 

Như thế, căn cứ vào trường hợp trừ quỉ được bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại hôm nay thì không phải có quyền trừ quỉ mà trừ được quỉ đâu, nếu chính tác nhân trừ quỉ yếu đức tin. Đúng thế, nếu "ai được sinh bởi Thiên Chúa là kẻ chiến thắng thế gian và quyền năng chiến thắng thế gian là đức tin của chúng ta" (1Gioan 5:4) thì ai không có đức tin hay yếu đức tin không thể nào chiến thắng thế gian vốn thuộc quyền cai trị của ma quỉ sau nguyên tội. 

 

Nếu "Con Thiên Chúa tỏ mình ra là để hủy hoại các việc làm của ma quỉ" (1Gioan 3:8) thì quả thực "Người chiến thắng thế gian là ai? Chính là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa"(1Gioan 5:5). Đó là lý do, như bài Phúc Âm hôm Thứ Năm tuần này cho thấy, ngay sau khi vừa tuyên xưng thật chính xác "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), tông đồ Phêrô đã bị Thày thậm tệ nguyền rủa là "đồ Satan" (Mathêu 16:23), vì ngài phán đoán theo thế gian hơn là theo Thiên Chúa, mà theo thế gian là theo ma quỉ, vậy thì trừ quỉ làm sao được là đúng lắm vậy!?!

 

Trái lại, nếu các tông đồ có đức tin mạnh mẽ thì các vị chẳng những trừ được quỉ mà còn làm gì cũng được nữa, kiểu "muốn gì được nấy", (giống trường hợp của người đàn bà Canaan trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần này), như lời Chúa Giêsu khẳng định kết bài Phúc Âm hôm nay: "Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".

 

"Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải" đây nghĩa là gì nếu không phải trong dụ ngôn về Nước Trời giống như hạt cải (xem Mathêu 13:31-32) mà hạt cải nhỏ bé nhất trở thành cây lớn nhất ám chỉ Chúa Kitô nhập thể tử giá (hạt nhỏ nhất) và phục sinh thăng thiên (cây lớn nhất), thì "lòng tin" của các môn đệ cần phải "lớn bằng hạt cải" đây có nghĩa là "lòng tincủa các vị cần phải đạt tới tầm vóc Chúa Kitô, nghĩa là "lòng tincủa các vị cần phải làm sao hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Kitô, đến độ Chúa Kitô sống trong họ, biến họ trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Người, tác nhân để Người tỏ mình ra và làm mọi sự trong họ, nhờ họ và qua họ. 

 

Nếu "đức tin tỏ hiện qua đức mến" (Galata 5:6) thì tình trạng của các tâm hồn tin vào Chúa Kitô cũng được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô trong tình yêu là thế, như trên vừa cảm nhận.

 

Đối với dân Do Thái thì đức tin của họ đưoọc tỏ hiện bằng việc họ kính mến Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, được thể hiện cụ thể qua lòng tri ân của họ ở chỗ luôn nhớ đến những gì Ngài làm cho họ chỉ vì thương yêu tuyển chọn họ. Và đó là lý do Moisen, trong Sách Nhị Luật ở Bài Đọc 1 hôm nay, đã căn dặn và huấn dụ thành phần dân được ông theo lệnh Chúa dẫn họ ra khỏi Ai Cập như sau:

 

"Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng. Hãy kể lại những lời ấy cho con cái ngươi, hãy suy ngắm những lời ấy khi ngồi ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi chỗi dậy. Ngươi hãy buộc những lời đó vào bàn tay như dấu hiệu, lên trán như một vòng khăn, hãy viết lên cột và cửa nhà ngươi."Khi Chúa là Thiên Chúa ngươi dẫn ngươi đến xứ Người đã thề với các tổ phụ ngươi là Abraham, Isaac và Giacóp, và ban cho ngươi những thành phố to lớn và phồn thịnh mà ngươi không xây cất, những ngôi nhà đầy mọi của cải mà ngươi không làm ra, những giếng nước mà ngươi không đào, vườn nho và vườn cây ôliu mà ngươi không trồng, ngươi sẽ được no nê: ngươi hãy nhớ, đừng quên Chúa, Ðấng đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi nhà nô lệ. Ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa ngươi, hãy làm tôi một mình Người và lấy danh Người mà thề".

 

Và đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay, bài Đáp Ca trích từ Thánh Vịnh 17, đã chất chứa những tâm tình tin tưởng và kính mến Thiên Chúa như sau:

1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng, chiến lũy, và cứu tinh.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù.

3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài.

 

 

Thánh Systo II Giáo Hoàng và các bạn tử đạo; Thánh Catejano, linh mục (7/8)

 

 

Thánh Systo II Giáo Hoàng và các bạn tử đạo

 

Thánh XISTÔ II Giáo Hoàng và Các Bạn Tử Đạo

Ngày 30 tháng 8 năm 257, Đức Xystô lên ngôi Giáo hoàng, kế vị Đức Stephanô I giữa lúc Giáo hội đang chìm trong con người bách hại thời Valerianô. Pontiô, một phó tế của Thánh Cyprianô gọi Ngài là "Linh mục nhân hậu hòa nhã". Ngài đã tránh được một cuộc ly khai khi để cho các Giáo hội địa phương tự do theo thói quen rửa tội lại cho các người theo lạc giáo.

Một năm sau thánh Cyprianô loan tin: Đức giáo hoàng Xystô đã bị xử tử đêm 6 tháng 8 cùng với 4 vị trợ tá (phó tế) của Ngài. Các Kitô hữu Roma đã bị binh lính đột kích trong khi đang cử hành thánh lễ tại hang toại đạo Callistô. Để khỏi bị bắt giam tất cả, Đức Xystô đã hiến mình chịu chết. Ngài bị chặt đầu ngay tại ngai tòa giám mục cùng với 4 vị trong số 7 vị trợ tá (phó tế) của Ngài là Gianuariô. Mahnô, Vicentê và Stêphanô. Hai vị khác là Fêlicissimô và Agapitô đã bị bắt và bị chặt đầu cùng ngày tại hang toại đạo Praetextato.

Cái chết vì đoàn chiên trong những cảnh thương tâm như vậy đã khiến cho Đức Xystô được dân chúng tôn kính rộng rãi. Ngài được mai táng trong hầm mộ giáo hoàng tại chính nơi Ngài chịu chết. Tuy nhiên di hài của Ngài có lẽ đã được Đức Lêô IV (847 - 855) dời về thánh đường Xystô vẫn còn được tôn kính cho đến ngày nay.

 

http://conggiao.info/thanh-xisto-ii-giao-hoang-va-cac-ban-tu-dao-d-17667

 

Thánh Sixtô II và các bạn tử đạo

Thánh Sixtô II là công dân thành Athena, theo học và tốt nghiệp trường đại học triết lý tại Hy Lạp, được bầu làm giáo hoàng ngày 31.8.257.

Trở ngại đầu tiên của Giáo Hoàng Sixtô II là phải bảo vệ đức tin Công giáo trước những lầm lạc mà các bè phái lạc giáo, ly giáo gieo rắc trong Giáo hội. Ngoài ra, ngài đã khôn ngoan dàn xếp một cách ổn thỏa các ý kiến về phép Rửa Tội giữa các giám mục và giáo sĩ, nhờ vậy toàn thể giáo sĩ và giáo dân cùng hiệp lực chung xây dựng Giáo hội. Con thuyền Giáo hội còn bị phong ba bão táp trước sức tấn công của vua Valêrianô, một bạo vương luôn muốn tróc nã và hành quyết các tông đồ của Chúa, ngăn cấm không cho những người Kitô hữu tụ họp và ra lệnh sát hại các giám mục, linh mục và phó tế.

Một lần kia, thánh Sixtô II cùng với bốn phó tế bị phát hiện khi đang dâng thánh lễ tại hầm mộ của thánh Calistô. Ngài bị trảm quyết cùng với các phó tế Janvier, Magne, Vicentê và Etienne vào ngày 6.8.258. Ngoài ra, thầy Félicissime và Agapit cũng đã bị bắt và bị xử chém tại nghĩa trang Prétextat, trong khi đó, thầy Laurent bị hành hình và chết vào bốn ngày sau.

Thánh Sixtô II được an táng ngay trong hầm mộ và trở thành vị Giáo hoàng thứ hai được nhiều người sùng kính nhất sau thánh Phêrô. 

 

http://www.cgvdt.vn/lich-cong-giao/thanh-sixto-ii-va-cac-ban-tu-dao_a7694

 

 

 

Thánh Catejano, linh mục

 

HISTORIA

 

Vào năm 1523, Giáo Hội trong tình trạng tiêu điều. Ðời sống tâm linh cần thiết của giáo dân không được chăm sóc bởi rất đông các mục tử thiếu học thức và thiếu đạo đức, họ chỉ biết đồng tiền mà không hoạt động gì cả. Khi các linh mục tốt lành và giáo dân chạy đến các đấng có quyền để xin giúp đỡ, họ cũng chỉ gặp sự thờ ơ lãnh đạm của các vị chủ chiên.

Một người Công Giáo tốt lành phải phản ứng thế nào trước hoàn cảnh này? Tất cả chúng ta đều biết Luther và một số người khác đã phản ứng bằng cách tách rời khỏi Giáo Hội Công Giáo khi thỉnh cầu của họ không được lắng nghe.

Thánh Cajetan lại theo một phương cách khác. Cũng như Luther, khi lưu tâm đến những gì họ được thấy trong đời sống Giáo Hội, ngài đến Rôma năm 1523 — không phải để trình lên đức giáo hoàng hay đấng có quyền nhưng để gia nhập Hội A¨i Hữu Tình Yêu Thiên Chúa, là một tổ chức nhỏ bé, bán chính thức, tận tụy trong công việc bác ái. Họ chăm sóc người nghèo, người đau yếu, trẻ mồ côi và các tù nhân. Dần dà họ gây được ảnh hưởng khắp nước Y¨.

Sau khi chịu chức linh mục, năm 1518 Cajetan trở về quê nhà ở Vicenza khi mẹ ngài sắp từ trần. Ở đây, ngài gia nhập Hội Dòng Thánh Giêrôme. Sau khi mẹ chết, ngài dùng tất cả tài sản để cứu giúp người đau yếu, đồng thời sáng lập một hội dòng tương tự ở Venice, là nơi ngài cổ võ đời sống tâm linh và chăm sóc người nghèo, người đau yếu không chỉ bằng lời nói mà còn bằng gương mẫu anh hùng.

Năm 1523, ngài trở về Rôma, với sự tiếp tay của các bạn thân trong hàng giáo phẩm, ngài quyết định thành lập một tu hội dựa trên đời sống của các tông đồ, với hy vọng rằng đời sống của các thánh sẽ khích lệ họ và người khác cố gắng sống một cuộc đời thánh thiện vì Ðức Giêsu Kitô. Ðể hoàn thành mục đích này, họ nhắm đến đời sống luân lý, học hỏi Kinh Thánh, rao giảng và chăm sóc mục vụ, giúp đỡ người bệnh tật, và các nền tảng vững chắc của đời sống mục vụ. Tu hội mới này được gọi là Tu Sĩ Dòng Theatine.

Dĩ nhiên, các linh mục phóng túng và tham lam chẳng bao giờ đặt chân đến tu hội, nhưng Cajetan vẫn kiên trì chịu đựng sự chống đối từ các giáo sĩ và giáo dân không muốn cải tổ. Chính gương mẫu đời sống thánh thiện cũng như lời rao giảng của ngài mà nhiều người đã hoán cải.

Kiệt quệ vì các khó khăn trong Giáo Hội và ở quê nhà, Cajetan lâm trọng bệnh. Khi các y sĩ tìm cách khiêng ngài từ chiếc giường gỗ thô thiển lên chiếc giường nệm êm ấm, Cajetan thều thào, “Chúa Cứu Thế chết trên thập giá. Hãy để tôi được chết trên tấm gỗ này.” Ngài từ trần ngày 7 tháng Tám 1547.

Ngài được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê phong thánh năm 1671.

Lời Trích

Có lần Thánh Cajetan nói với các anh em trong dòng, “Chúng ta cố gắng phục vụ Thiên Chúa qua sự thờ phượng trong hội dòng này; nhưng trong bệnh viện, chúng ta mới có thể nói là thực sự tìm thấy Ngài.”

 

https://dongten.net/2019/08/06/hanh-cac-thanh-07-08-thanh-cajetan/

 

https://giaophanvinhlong.net/thanh-cajetan-14801547.html

 

https://www.hddaminhthanhlinh.net/a7332/7-thang-tam-thanh-cajetan-1480-1547-

 

Thánh Cajêtan sinh tại Vicenza, nước Ý, vào năm 1480. Ngài là con trai của một bá tước. Cajêtan tốt nghiệp trường đại học Pađua với văn bằng cử nhân lưỡng luật, đạo và đời. Sau đó, Cajêtan phục vụ tại văn phòng của giáo triều Rôma. Cajêtan thụ phong linh mục năm 1516. Rồi ngài trở về thành phố quê hương Vicenza và làm việc mục vụ tại đây. Dù cho những bạn bè quý tộc của Cajêtan ra sức phản đối và giận dữ, thánh nhân vẫn tham gia với nhóm người khiêm tốn, chuyên phục vụ các bệnh nhân và những người nghèo khổ. Cajêtan đi khắp thành phố tìm kiếm những người bất hạnh và chính ngài đã tự phục vụ họ. Cajêtan vào bệnh viện săn sóc những người mang những chứng bệnh kinh tởm nhất. Tại các thành phố khác, thánh Cajêtan cũng làm các việc từ thiện ấy. Thánh nhân cũng thường khuyến khích mọi người hãy năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Ngài nói: “Tôi sẽ không bao giờ vui sướng cho tới khi nào được thấy các Kitô hữu cùng nhau tiến lên lãnh nhận Bánh Ban Sự Sống với lòng hăm hở vui mừng, chứ không lo buồn tủi hổ.”

Cùng với ba người đạo đức khác, thánh Cajêtan đã thiết lập một tu hội giáo sĩ dòng, gọi là tu hội Các Anh Em Dòng Thêatin, chuyên đi thuyết giảng. Họ khuyến khích việc năng xưng tội, lãnh nhận bí tích Thánh Thể, giúp bệnh nhân và làm những công việc từ thiện khác.

Thánh Cajêtan qua đời lúc được 67 tuổi. Trong cơn bạo bệnh cuối cùng, thánh nhân chỉ nằm trên những tấm ván thô cứng dù các bác sĩ khuyên ngài nên dùng nệm êm. Nhưng Cajêtan nói: “Đấng Cứu Chuộc tôi đã chết trên cây thập giá. Vậy ít ra, hãy để tôi được chết trên tấm gỗ này!” Cajêtan về trời ngày mùng 7 tháng Tám năm 1547 tại thành phố Napôli. Tới năm 1671, đức thánh cha Clêmentê X tôn phong Cajêtan lên bậc hiển thánh.

 Để noi gương vị thánh này, chúng ta hãy đặt Chúa Giêsu Thánh Thể làm trung tâm đời sống của chúng ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh Cajêtan giúp chúng ta biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể như ngài.

Biên dịch: Đa Minh M. Nguyễn Phúc Lộc, CMC

http://mtgcaimon.net/mtgnews/index.php/suy-niem/hanh-cac-thanh/4555-thanh-cajetan.html