SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 


"Thày là Sự Sống"
(Gioan 11:25)




Tái Sinh Thần Linh


Phụng Vụ Lời Chúa Tuần II Phục Sinh


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Nếu "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25) là chủ đề chính yếu của toàn Mùa Phục Sinh, trong đó, chủ đề "Thày là sự sống lại" cho nguyên Tuần Bát Nhật Phục Sinh là thời điểm 8 ngày có các bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc hoàn toàn liên quan đến các lần Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra mà thôi, thì chủ đề "Thày là sự sống" là chủ đề cho những ngày còn lại của Mùa Phục Sinh, bao gồm cả Chúa Nhật lẫn ngày trong tuần.
Vậy chủ đề "Thày là sự sống" ở Phụng Vụ Lời Chúa cho các ngày trong tuần lễ thứ hai của Mùa Phục Sinh như thế nào? Ngày Chúa Nhật đầu của tuần lễ thứ hai này, Ngày Chúa Nhật Lễ Lòng Thương Xót Chúa, ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật, thuộc về chính Tuần Bát Nhật, đồng thời cũng là thời điểm mở đầu cho phần thứ hai của Mùa Phục Sinh theo chủ đề "Thày là sự sống". Vì ngay ở bài Phúc Âm Chúa Nhật II Phục Sinh, ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật Phục Sinh, chúng ta thấy "sự sống" ở cả nơi Chúa Kitô tỏ mình ra cho riêng tông đồ Toma lẫn ở nơi đức tin của tông đồ Toma đặt ở nơi Người.

Thật vậy, trong 6 tuần lễ còn lại của Mùa Phục Sinh, sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh, các bài Phúc Âm, bao gồm cả Chúa Nhật lẫn ngày thường, từ Thứ Hai đến hết Thứ Bảy, đều chất chứa một
 nội dung duy nhất: "Thày là sự sống". Một điều cần lưu ý là nguyên việc Giáo Hội chọn đọc cho cả Mùa Phục Sinh suốt 7 tuần lễ, tức bao gồm cả Tuần Bát Nhật Phục Sinh, hai cuốn sách Thánh Kinh Tân Ước là Phúc Âm của Thánh Ký Gioan và Sách Tông Vụ đã đủ cho thấy hiển nhiên về chủ đề "sự sống" rồi vậy.

Bởi vì, "sự sống" đây là sự sống thần linh, sự sống xuất phát từ Chúa Kitô Vượt Qua, đồng thời cũng là sự sống cần phải được chấp nhận bằng lòng tin tưởng vào Người. Thế nên, cho dù trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh, Phụng Vụ Lời Chúa theo chiều hướng "Thày là sự sống lại", bởi các Bài Phúc Âm trong suốt tuần lễ đầu tiên này của Mùa Phục Sinh đều tường thuật lại từng lần Chúa Kitô hiện ra với các tông đồ hay các môn đệ để chứng tỏ Người đã phục sinh từ trong cõi chết, ý nghĩa chính yếu vẫn là "sự sống". Vì tự việc Chúa Kitô sống lại từ trong cõi chết tỏ mình ra "là sự sống lại", qua những lần Người hiện ra, là để các môn đệ nói chung, nhất là các tông đồ nói riêng, tin vào Người mà được sự sống.

Sách Tông Vụ là cuốn sách trong bộ Thánh Kinh Tân Ước thuật lại sứ vụ, hoạt động và tiến trình truyền giáo của Giáo Hội sơ khai, bắt đầu từ biến cố Thánh Thần Hiện Xuống trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Đấng ban sự sống, qua Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô, trước hết và trên hết bằng chứng từ của Giáo Hội về Chúa Kitô, cho dù có kèm theo việc rao giảng Phúc Âm cho lương dân. Ơn gọi, sứ vụ và công cuộc truyền giáo của Giáo Hội là để mang lại cho nhân loại sự sống đời đời, qua việc họ nhận biết Chúa Kitô, nơi lời rao giảng và chứng từ yêu thương của Kitô hữu.

Phúc Âm của Thánh ký Gioan là cuốn phúc âm về sự sống, vì cốt lõi của phúc âm này đó là "sự sống chiếu sáng con người" (Gioan 1:4), như chính Chúa Kitô là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), là chính "sự sống" đã khẳng định: "Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ được ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12). Để thông ban sự sống đời đời cho nhân loại nói chung và cho những ai tn vào Người nói riêng, Chúa Kitô Phục Sinh đã sử dụng những phương tiện để thông ban, được gọi là bí tích, trước hết và trên hết đó là chính Mình Thánh Máu Thánh của Người.

Và Người ví Người như nguồn sống của nhân loại nói chung và Kitô hữu nói riêng. Bởi thế mà, trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ nghe thấy càc bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan (nhất là trong ngày trong tuần) về sự sống, trước hết liên quan đến việc tái sinh, hay đến Bánh Sự Sống, hoặc đến vị mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên cho chiên được sự sống, hay đến cây nho thông nhựa sống cho cành nho để cành nho sinh hoa trái, hoặc đến đức bác ái yêu thương là hồn sống cho tình trạng hiệp nhất nên một, hay chính Thánh Linh là Đấng ban sự sống. Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh.



Chúa Nhật II Phục Sinh Năm C

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: Cv 5, 12-16

"Số người tin vào Chúa ngày càng gia tăng".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Khi ấy, các Tông đồ làm nhiều phép lạ và nhiều việc phi thường trong dân, và tất cả mọi người tập họp tại hành lang Salômôn; nhưng không một ai khác dám nhập bọn với các tông đồ. Nhưng dân chúng đều ca tụng các ngài. Số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng, đến nỗi họ mang bệnh nhân ra đường phố, đặt lên giường chõng, để khi Phêrô đi ngang qua, ít nữa là bóng của người ngả trên ai trong họ, thì kẻ ấy khỏi bệnh. Ðông đảo dân chúng ở những thành phụ cận Giêrusalem cũng tuôn đến, mang theo bệnh nhân và những người bị quỷ ám. Mọi người đều được chữa lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 117, 2-4. 22-24. 25-27a

Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.

2) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, nên chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Ðáp.

3) Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Kh 1, 9-11a, 12-13. 17-19

"Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời".

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự gian truân, vương quyền và kiên nhẫn trong Ðức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô vì lời Chúa và vì làm chứng Ðức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe phía sau tôi có tiếng phán lớn như tiếng loa rằng: "Hãy viết những điều ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy giáo đoàn ở Tiểu Á". Tôi quay lại để xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó tôi thấy một Ðấng giống như Con Người, mặc áo dài và ngang lưng thắt một dây nịt bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã xuống như chết dưới chân Người; Người đặt tay phải lên tôi và nói: "Ðừng sợ, Ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau cùng, Ta là Ðấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này".

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 20, 29

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 20, 19-31

"Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".

Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!"

Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

Ðó là lời Chúa.

Cảm Nhận Lời Chúa

 

"Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: 'Bình an cho các con'".

Theo Thánh ký Gioan thì lần Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra này là lần hiện ra thứ hai của Người với chung các tông đồ, và lần này cũng là lần duy nhất trong cả Tuần Bát Nhật Phục Sinh được Phúc Âm cho thấy phản ứng tích cực và chủ động của chung tông đồ đoàn qua vai trò đại diện của Tông Đồ Tôma. Để đáp lại lời trắc nghiệm về lòng tin tưởng của các tông đồ về căn tính "Thày là ai?", Tông Đồ Phêrô đã đại diện tuyên xưng "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian" (Mathêu 16:16) thế nào, thì giờ đây, Tông Đồ Tôma cũng đại diện tông đồ đoàn tuyên xưng như thế: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" 

 

 


 

 

Câu tuyên xưng của Tông Đồ Tôma sau khi Chúa Kitô Phục Sinh, về hình thức có vẻ khác lạ với câu tuyên xưng chính yếu của Tông Đồ Phêrô: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con", nhưng về nội dung cũng chất chứa những gì cốt lõi trong lời tuyên xưng của Tông Đồ Phêrô về căn tính của Người: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". "Chúa" và "Thiên Chúa" nơi lời tuyên xưng của Tông Đồ Tôma đây, trước hết, "Chúa" ám chỉ nguồn gốc thần linh của "Thày là Đức Kitô" Thiên Sai, và "Thiên Chúa" ám chỉ bản tính thần linh của "Con Thiên Chúa hằng sống". 

Câu tuyên xưng của Tông Đồ Tôma vào Chúa Kitô Phục Sinh còn có một ý nghĩa làm nên chính Mùa Phục Sinh nữa: "Thày là sự sống lại và là sự sống". Bởi vì, nếu Thày không phải là "Chúa" thì Thày đã không "sống lại", nhưng nay vì Thày đã thật sự "sống lại" nên Thày quả thực là "Thiên Chúa" hằng sống, là chính "sự sống" vậy. 

Câu Chúa Giêsu phán sau lời tuyên xưng chính xác của vị tông đồ không còn hoài nghi này là "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin":

 

Trước hết, không phải là Người hoàn toàn phủ nhận đức tin không cần chứng từ, bằng không đức tin Kitô giáo sẽ dễ trở thành hoang đường, chỉ thuần linh, nhất là thiếu chứng cứ lịch sử, không hợp với tầm mức lập luận của trí khôn và cảm nhận của tâm linh, phản lại với đường lối nhập thể của Người.

 

Bởi thế , dù “thấy” không còn là “tin” và “tin” không phải là “thấy”, vì “thấy” là thấy những gì về chất thể, còn “tin” là tin những gì về bản thể, thì “thấy” một Nhân Vật Giêsu Nazarét, “thấy” chứng cớ phục sinh, nhưng chưa chắc đã “tin” Nhân Vật Giêsu Nazarét đó là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, và đã “tin” chứng cớ mộ trống, thiên thần và khăn liệm là các dấu hiệu cho thấy Người đã sống lại từ trong cõi chết.

Câu Chúa Kitô Phục Sinh phán: "Phúc cho những ai đã không thấy mà tin" còn hiểu rằng, không một ai, kể cả Mẹ Maria, được tận mắt chứng kiến thấy thân xác tử giá của Chúa Kitô sống lại cách nào, như thế nào và vào lúc nào, nghĩa là hoàn toàn "không thấy" những gì hữu hình hợp với giác quan tự nhiên bao gồm sự kiện phục sinh, và vì thế cũng "không thấy" xác của Người đâu, nhưng chính sự kiện "không thấy" đó mới đưa các vị đến một thực tại thần linh siêu nhiên, đối tượng của chính lòng "tin", đó là mầu nhiệm phục sinh, nhất là đến chính sự thật của mầu nhiệm này, đó là Đấng bị loài người giết chết đã sống lại từ trong kẻ chết chính là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), như Tông Đồ Phêrô đã tuyên xưng khi Người còn sống, "là Chúa và là Thiên Chúa", như Tông Đồ Toma đã tuyên xưng sau khi Người phục sinh.

Thực tại thần linh và sự thật về Đấng khổ nạn và tử giá bị loài người giết chết vào chiều hôm Thứ Sáu Tuần Thánh đó nay đã sống lại và tỏ mình ra cho các môn đệ được tuyển chọn làm chứng nhân tiên khởi của Người và cho Người, thành phần Người đã báo trước về cuộc Vượt Qua của Người 3 lần, nhất là lời tiên báo trong Bữa Tiệc Ly: "Thật vậy, Thày đi (ám chỉ về cuộc khổ nạn và tử giá của Người) để dọn chỗ cho các con, sau đó Thày sẽ trở lại (ám chỉ về cuộc phục sinh của Người) để mang các con đi với Thày, để Thày ở đâu các con cũng ở đó" (Gioan 14:3, và xem Gioan 21:19 là chỗ Chúa Kitô phục sinh kêu gọi tông đồ Phêrô theo Người đi chịu chết như Người và với Người cho chiên). Quả thực Người phục sinh đã hoàn toàn ứng nghiệm lời Người đã khẳng định và tiên báo: "Tôi tự bỏ mạng sống mình đi (nơi cuộc khổ nạn) rồi lấy nó lại (nơi cuộc phục sinh)" (Gioan 10:17) để làm cho các môn đệ tin vào Người cũng như cho phần rỗi của những ai tin vào người qua chứng từ của các vị.

Sau nữa, khi khẳng định "Phúc cho những ai đã không thấy mà tin", Chúa Kitô Phục Sinh muốn nhấn mạnh đến chính cốt lõi của đức tin, đến thực tại thần linh của đức tin, như chính lời tuyên xưng của Tông Đồ Tôma, vị tông đồ không tuyên xưng: "Vâng, giờ đây con đã tin rằng Thày đã sống lại từ trong cõi chết", mà là "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con", vì biến cố phục sinh, cho dù là yếu tố then chốt của Mầu Nhiệm Vượt Qua và làm nên Mầu Nhiệm Vượt Qua, một mầu nhiệm cho thấy tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, vẫn là một phương tiện hay một đường lối hơn là cùng đích, là mục tiêu, vì biến cố phục sinh cần phải có và không thể nào không xẩy ra để Vị "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24) và "vô hình" (Colose 1:15) chứng tỏ Ngài thực sự là "Chúa" và là "Thiên Chúa".

Sau hết, khi tuyên phán "Phúc cho những ai đã không thấy mà tin", Người muốn ám chỉ đến chung Giáo Hội, một Giáo Hội có nền tảng là các tông đồ (xem Epheso 2:20), tiêu biểu nhất có thể nói là Tông Đồ Gioan, "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" cũng là người môn đệ duy nhất đứng dưới chân thập giá của Người với Mẹ của Người và được Người trao phó cho Mẹ của Người và muốn phải noi gương bắt chướng Mẹ của Người (Gioan 19:25-27), một người môn đệ, như Mẹ Maria, đã tin Người sống lại rồi, cho dù chưa được Người thực sự hiện ra như với Mai Đệ Liên (xem Gioan 20:8, 13-17).

Tông Đồ Gioan và nữ môn đệ đặc biệt Mai Đệ Liên là 2 nhân vật trung kiên theo Chúa Kitô cho đến cùng, cho đến khi đứng dưới chân thập giá của Người đấy. Thế nhưng, cả hai đều thấy chứng cớ phục sinh trước khi Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra: Nữ môn đệ Mai Đệ Liên thấy trước, thấy tảng đá đã được chuyên rời (xem Gioan 20:1), thậm chí còn nhìn thấy và nghe thấy hai thiên thần ở bên trọng ngôi mộ (xem Gioan 20:12-13), đến độ "nhìn thấy Chúa Giêsu đứng đó" (Gioan 20:14) mà vẫn chưa tin..., trong khi đó, Tông Đồ Gioan, chỉ cần chứng từ các tấm khăn liệm trong ngôi mộ trống là đủ: "Ông đã thấy và đã tin" (Gioan 20:8).

Như thế cả Tông Đồ Gioan cũng "thấy" rồi mới "tin" thì có hơn gì Tông Đồ Tôma hay Nữ Môn Đệ Mai Đệ Liên đâu? Đúng thế nhưng mà vấn đề ở đây là Tông Đồ Gioan đã "tin" trước khi được Chúa Kitô hiện ra, nghĩa là cho dù Người có hiện ra hay không thì Người quả thực đã sống lại, vì đối với Tông Đồ Gioan, như với Mẹ Maria đầy ơn phúc, Vị thậm chí không cần phải tận mắt thấy chứng cứ như Tông Đồ Gioan nữa, Chúa Kitô đã thực sự là "Chúa" và là "Thiên Chúa" rồi, nên Người không thể nào chết mà không sống lại, trái lại, chính vì Người là "Chúa" và là "Thiên Chúa" mà Người phải sống lại và chắc chắn phải sống lại để chứng tỏ lời Người đã tự xưng thực tại thần linh của Người và loan báo trước về thực tại thần linh của Người: "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25). Câu "phúc cho ai không thấy mà tin" đây phải chăng Chúa Giêsu ngầm khen tặng Người Mẹ sống đức tin của Người!?! 

Phúc Âm không hề thuật lại bất cứ lần nào Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với người mẹ của mình. Tuy nhiên, cho dù Người có âm thầm hiện ra với Mẹ của Người chăng nữa, vào một lúc nào đó, mà thường là ngay sau khi Người sống lại từ trong cõi chết vào nửa đêm Thứ Bảy rạng Chúa Nhật, lúc mọi người đang yên giấc, nhất là đám phụ nữ là thành phần sẽ thức dậy sớm ra mộ sang hôm sau, thì không phải là để chứng tỏ Người thực sự sống lại đúng như Lời Thánh Kinh và lời Người đã tiên báo, cho bằng để đáp ứng lòng Mẹ tin tưởng tràn đầy hy vọng vào cuộc vinh thắng của Người, đồng thời cũng để tưởng thưởng cho Mẹ cũng như bù đắp cho Mẹ về tất cả những khổ đau đến cùng tận mà Mẹ đã hiệp nhất nên một với Người trong việc đồng công cứu chuộc nhân loại, nhờ đó Người đã biến nỗi thống khổ sầu thương của Mẹ thành niềm chất ngất hân hoan (xem Gioan 16:21-22)

Đức tin tông truyền của Giáo Hội là ở chỗ đức tin này được tuyền lại từ chính các tông đồ. Kitô hữu hậu sinh hay thậm chí ngay từ thời các tông đồ tuy không được tận mắt “thấy” Chúa hiện ra(ngoại trừ đặc biệt Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, vị nhận lãnh đức tin vừa nhờ tông truyền vừa bằng cảm nhận bản thân – xem 1Corinto 15:3-4 và 8), hay được diễm phúc sống với Người, được diễm phúc mắt thấy, tai nghe, tay sờ vào Người như các tông đồ (xem 1 Gioan 1:1), nhưng có cùng một đức tin như chính các vị, những con người có phúc được “thấy” nhưng vẫn phải “tin”, không phải chỉ "thấy" rằng quả thực có một nhân vật Lịch Sử Nazarét, đã chịu tử giá và đã phục sinh, vào thời điểm lịch sử của các vị, mà còn "tin" rằng nhân vật Lịch Sử Nazarét, đã chịu tử giá và đã phục sinh ấy chính là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25) để sấp mình xuống tôn thờ Người: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con", trước khi có thể làm chứng về Người: “chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe” (Tông Vụ 4:20, bài đọc 1 Thứ Bảy Bát Nhật Phục Sinh).

Lời Chứng (ngôn từ) và Dấu Chứng (hành động) về Người Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua Thiên Sai Cứu Thế của các tông đồ ở Bài Đọc Sách Tông Vụ:

"Lúc bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ".

 

Ở Bài Đọc 2 hôm nay, Sách Khải Huyền của Thánh Gioan cũng đề cập đến vai trò chứng nhân của Chúa Kitô Phục Sinh, một chứng nhân đã chịu khổ vì Người và với Người, Đấng được ngài thị kiến thấy rạng ngời vinh hiển và quyền uy ở Đảo Patmo như sau:

"Tôi là Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự gian truân, vương quyền và kiên nhẫn trong Ðức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô vì lời Chúa và vì làm chứng Ðức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe phía sau tôi có tiếng phán lớn như tiếng loa rằng: 'Hãy viết những điều ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy giáo đoàn ở Tiểu Á'. Tôi quay lại để xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó tôi thấy một Ðấng giống như Con Người, mặc áo dài và ngang lưng thắt một dây nịt bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã xuống như chết dưới chân Người; Người đặt tay phải lên tôi và nói: 'Ðừng sợ, Ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau cùng, Ta là Ðấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này'".

The Things Past (Rev 1:9-20) | Pictures of jesus christ, Bible pictures,  Jesus pictures

 

Thánh Thi (Giờ Kinh Sách Các Chúa Nhật Mùa Phục Sinh - theo bản của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)

 

Hôm nay chính là ngày của Chúa

Ánh hồng thiêng rực rỡ tỏa lan

Khi dòng Máu Thánh tuôn tràn

Rửa muôn tội lỗi thế gian bao đời.

 

Nguồn hy vọng nuôi người nản chí

Ánh hào quang soi kẻ mù lòa

Nghe tên trộm được thứ tha

Ai còn sợ sệt ai mà chẳng yên?

 

Thiên thần cũng ngạc nhiên bỡ ngỡ

Ðang thấy y chịu khổ ngoài thân,

Một lời hối cải ăn năn

Bỗng đâu Chúa hứa chung phần thiên cung.

 

Ôi huyền diệu lạ lùng khôn ví:

Muốn chữa lành dịch tễ chúng nhân,

Chính thân thể Ðấng Cao Tôn

Ðền thay tội lỗi của muôn xác phàm!

 

Ôi mầu nhiệm suy làm sao thấu,

Tội chờ lòng nhân hậu tha cho,

Ân tình xua đuổi âu lo

Chết đi mới được thiên thu trường tồn!

 

Giêsu hỡi, chúng con nài nỉ

Ðược muôn đời mừng lễ Vượt Qua,

Tái sinh ơn nghĩa chan hòa

Vang vang khúc khải hoàn ca reo hò!

 

Muôn lạy Chúa Giêsu từ ái

Ðấng lừng danh đánh bại tử thần,

Ngàn đời hiển trị muôn dân

Cùng Ngôi Thánh Phụ Thánh Thần quang vinh.

 

 

 

 

Thứ Hai sau Chúa Nhật II Phục Sinh

 

Bài Ðọc I: Cv 4, 23-31

"Khi họ cầu nguyện xong, thì được đầy Thánh Thần và tin tưởng rao giảng lời Chúa".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, sau khi được phóng thích, Phêrô và Gioan trở về cùng các anh em, và thuật lại cho họ nghe tất cả những điều mà các thượng tế và kỳ lão đã nói. Vừa nghe thuật lại, họ đồng thanh cất tiếng nguyện cùng Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, Chúa là Ðấng tạo thành trời đất, biển cả và mọi vật trong đó. Nhờ Thánh Thần, Chúa đã dùng miệng tổ phụ chúng con là Ðavít tôi tớ Chúa mà phán: "Tại sao chư dân chấn động, và các nước lại mưu đồ chuyện luống công? Các vua thiên hạ đều nổi dậy, các thủ lãnh toa rập với nhau chống lại Chúa và Ðấng Kitô của Người". Vì quả thật, tại thành Giêrusalem này, Hêrôđê và Phongxiô Philatô đã liên kết với các dân ngoại và dân Israel, mà chống lại tôi tớ thánh của Chúa là Ðức Giêsu, Ðấng Chúa đã xức dầu, để thực hiện những điều mà quyền năng và ý định Chúa đã dự liệu từ trước. Và lạy Chúa, giờ đây, hãy xem họ đang đe doạ, và xin ban cho các tôi tớ Chúa được đầy lòng tin tưởng rao giảng lời Chúa, cùng xin Chúa giơ tay chữa lành các bệnh nhân, làm những dấu lạ, và những việc phi thường nhân danh Thánh Tử của Chúa là Ðức Giêsu".

Khi họ cầu nguyện xong, thì nơi họ đang tập họp liền chuyển động, mọi người được tràn đầy Thánh Thần và tin tưởng rao giảng lời Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 2, 1-3. 4-6. 7-9

Ðáp: Phúc cho tất cả những ai tin tưởng nơi Chúa (c. 13b).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Tại sao chư dân chấn động, và các nước mưu đồ chuyện luống công: các vua mặt đất cùng nổi dậy, và bậc quân vương nhất tề âm mưu phản nghịch Chúa và Ðấng Kitô của Người. Họ nói: "Ðập tan xiềng xích chúng ra, gông cùm chúng, hãy ném cho xa bọn mình". - Ðáp.

2) Ðấng ngự trên thiên đình cười nhạo, Chúa mỉa mai cười chúng. Bấy giờ Người phán bảo chúng trong cơn thịnh nộ, và làm cho chúng rối loạn trong cơn lôi đình: "Nhưng Ta đã đặt vương nhi Ta trên núi Sion, núi thánh của Ta". - Ðáp.

3) Ta sẽ truyền rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con. Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và tận cùng cõi đất làm gia tài. Con sẽ cai trị chúng bằng cây gậy sắt, như bình thợ gốm, Con đem nghiền nát chúng ra". - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 23, 19 và 20

Alleluia, alleluia! - Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 3, 1-8

"Nếu không tái sinh bởi trời, thì chẳng ai được thấy Nước Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, trong nhóm biệt phái, có người tên là Nicôđêmô, một đầu mục của người Do-thái. Ông đến thăm Chúa Giêsu ban đêm và thưa rằng: "Lạy Thầy, chúng tôi nhận biết Thầy là một vị tôn sư Thiên Chúa uỷ phái đến. Vì không ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người đó". Chúa Giêsu đáp: "Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi trời, thì chẳng ai được thấy Nước Chúa". Nicôđêmô thưa Chúa rằng: "Một người đã già, làm sao có thể tái sinh? Không lẽ người ấy lại vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa sao?" Chúa Giêsu đáp: "Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi nước và Thánh Thần, thì không ai được vào nước Thiên Chúa. Sự gì sinh bởi huyết nhục, thì là huyết nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh, thì là thần linh. Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".

Ðó là lời Chúa.






Cảm Nghiệm
Chủ đề "Thày là sự sống" của ngày Thứ Hai trong Tuần II Phục Sinh về khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được tỏ hiện hết sức minh nhiên trong chính bài Phúc Âm qua những lời Chúa Giêsu nói về chính việc tái sinh bởi trời, bởi trên cao với ông Nicôđêmô là một trong các viên chức thuộc Hội Đồng Đầu Mục Do Thái thời bấy giờ, mà điển hình nhất trong số thành phần tái sinh thần linh được bài đọc 1 hôm nay cho thấy đó là chính cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, một cộng đoàn bất khuất trước quyền lực tối tăm đầy đe dọa chết chóc bằng lòng tin tưởng mãnh liệt vào Đấng Phục Sinh quyền năng, một cộng đoàn được Người ở cùng nhờ Thánh Thần ngự xuống trên họ. 

"Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi nước và Thánh Thần, thì không ai được vào nước Thiên Chúa. Sự gì sinh bởi huyết nhục, thì là huyết nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh, thì là thần linh. Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".
Trong câu Phúc Âm chính yếu trên đây, chúng ta thấy 4 điểm then chốt về sự kiện tái sinh thần linh sau đây:

1) Tái sinh thần linh: tác nhân - "bởi nước và Thánh Thần". Khi lãnh nhận Phép Rửa, Kitô hữu dự tòng đã thật sự được rửa bởi nước cho sạch nguyên tội (lẫn tư tội nếu là người lớn), và được xức dầu Thánh Linh. Tuy nhiên, "nước và Thánh Thần" ở đây đều có thể hiểu về Thánh Thần: "nước" ám chỉ Thánh Thần được Chúa Kitô Phục Sinh thông cho các tông đồ từ thân xác phục sinh của Người khi Người hiện ra với các vị vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần (xem Gioan 20:22; Gioan 7:37-39); "Thánh Thần" đây là Đấng được Chúa Kitô Thăng Thiên từ Cha sai đến (xem Gioan 15:26; Tông Vụ 1:8, 2:1-4). Như thế, "nước" đây là Thánh Thần được ban cho Kitô hữu dự tòng khi họ lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, và "Thánh Thần" đây là Đấng được ban cho Kitô hữu trưởng thành nơi Bí Tích Thêm Sức để họ có thể làm chứng cho Chúa Kitô.

2) Tái sinh thần linh: mục đích - "được vào nước Thiên Chúa", nghĩa là được Ơn Cứu Độ, được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, được hiệp thông thần linh với Ba Ngôi Chí Thánh là Cha và Con và Thánh Thần, như được thể hiện ở Giáo Hội sơ khai được Thánh ký Luca thuật lại trong Sách Tông Vụ ở Bài Đọc 1 hôm nay: "'Lạy Chúa, giờ đây, hãy xem họ đang đe doạ, và xin ban cho các tôi tớ Chúa được đầy lòng tin tưởng rao giảng lời Chúa, cùng xin Chúa giơ tay chữa lành các bệnh nhân, làm những dấu lạ, và những việc phi thường nhân danh Thánh Tử của Chúa là Ðức Giêsu'. Khi họ cầu nguyện xong, thì nơi họ đang tập họp liền chuyển động, mọi người được tràn đầy Thánh Thần và tin tưởng rao giảng lời Thiên Chúa".

3) Tái sinh thần linh: lý do - "sự gì sinh bởi huyết nhục, thì là huyết nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh, thì là thần linh". Nghĩa là tự bản chất và khuynh hướng của mình, con người chỉ sống theo bản tính tự nhiên trần tục của mình, bởi họ "sinh bởi máu huyết, bởi ước muốn nhục dục, bởi ý muốn con người" (Gioan 1:13) hèn hạ tội lỗi, nên chỉ hướng hạ và sa ngã phạm tội mà thôi, nếu họ không được cứu độ, được giải thoát để có thể "tôn thờ Thiên Chúa là thần linh trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24), để có thể sống xứng đáng với "quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), một cách tự do, theo các tác động thần linh, "như gió muốn thổi đâu thì thổi", được chính Chúa Kitô  khẳng định cuối bài Phúc Âm hôm nay.

4) Tái sinh thần linh: tác dụng - "Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy" (Bài Phúc Âm ngày mai). Vì việc tái sinh thần linh là hoa trái của Mầu Nhiệm Vượt Qua, ở chỗ, nhờ quyền năng phục sinh của Chúa Kitô toàn thắng tội lỗi và sự chết nhờ Thánh Thần của mình mà ai tin vào Người, nên một với Người chắc chắn sẽ được Người biến đổi, đến độ có thể làm được những gì xác thịt của họ vốn hướng hạ theo chiều hướng dân ngoại lăng loàn không thể nào làm được (xem Marco 16:16-18). Bởi thế, chính tình trạng mỗi ngày được biến đổi sau khi được tái sinh thần linh mà Kitô hữu thật sự đang sống trong thời điểm cánh chung, một thời điểm cánh chung được thể hiện ngay nơi thân xác của họ mỗi ngày được trở nên giống như thân xác vinh hiển của Chúa Kitô (xem Philiphê 3:21). Nhờ tái sinh Kitô hữu sống đức tin đã và đang thực sự được biến đổi, nghĩa là được phục sinh ngay khi còn sống trong chính thân xác của mình.

THÁNH MARCÔ THÁNH SỬ

 25/4 Thứ Hai


St. Marco

 

 

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Mác-cô vinh dự rao giảng và ghi chép Tin Mừng. Xin cho chúng con được hiểu thấu những lời thánh nhân giảng dạy để trung thành bước theo Chúa Kitô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.


Marcô là ai? Chắc chắn ngài không phải là một trong 12 tông đồ. Nhưng một người tên Marcô đã được các cộng đoàn Kitô giáo sơ khai biết đến, nhiều như là người bạn đồng hành của thánh Phaolô và như người bạn thân ái của thánh Phêrô ở Rôma (Cl 4,10; 1Pr 5,13; 2Tim 4,11). Sách Công vụ ba lần nói tới một "Gioan cũng gọi là Marcô" (Cv 12,12; 25,15.17) là bạn thiết của thánh Barnaba.

 
Các học giả thường đồng ý rằng : Marcô đã được nói tới trong các thánh thư, Gioan tên Marcô trong sách công vụ và tác giả Phúc âm thứ II đều chỉ là một người. Đồng ý với sự đồng hóa trên, chúng ta có thể phác họa hình ảnh của thánh sử như sau:

 
 
Năm 43, sau khi thoát khỏi ngục tù, thánh Phêrô đã chọn nhà này làm nơi trú ngụ (Cv 12,12-17). Như thế, Marcô sớm quen thuộc với những ghi nhận của thánh Phêrô. Hai năm sau, tức là năm 45, chúng ta thấy Marcô và thánh Barnaba cùng đi trong cuộc hành trình thứ nhất của Phaolô. Nhưng khi đoàn truyền giáo đi về hướng bắc, Marcô đã từ giã để trở về Giêrusalem (Cv 13,13). Phaolô bất bình và không muốn nhận cho Marcô đi theo trong cuộc hành trình thứ hai. Năm 50, như Barnaba đề nghị, Barnaba về phe với Marcô, và đáp tàu về Cyprus là quê hương của Barnaba (Cv 15,36-39).
 
Chúng ta không thấy nói gì đến Marcô nữa cho tới năm 61 khi ngài ở Rôma với Phaolô (Cl. 4,10), ba năm sau tức là năm 64 thánh nhân vẫn có mặt ở Rôma vì Phêrô có nhắc tới tên người trong các lời chào của mình (1Pr 5,13). Đây là năm thánh Phêrô chịu tử đạo. Ít lâu sau đó có lẽ thánh Marcô đã bắt đầu viết sách Phúc âm ở Rôma, dầu một số tác giả mới đây cho rằng ở Alexandria. Năm 67, thánh sử ở Ephesô vì một ít tháng trước khi qua đời, thánh Phaolô dặn dò Timothêô đưa theo Marcô đến Rôma (2Tm 4,14). Mối bất hòa xưa đã được hàn gắn hoàn toàn.
 
Từ đây, chúng ta phải dựa vào truyền thống để tìm hiểu về Marcô. Có lẽ sau khi thánh Phêrô qua đời, Marcô đi rao giảng ở Alaexandria thành lập và làm Giám mục giáo đoàn này. Sự kiện không được chắc vì các bậc tiến sĩ của Alexandria như Clêmente (200), và Origênê (203) không nhắc nhở gì đến.
 
Cuốn Chronicon-Pascale không mấy có thế giá cho rằng : Marcô đã làm Giám mục ở Alexandrie và bị thiêu sống dưới thời Trajanô (năm 98 - 117).
 
Dựa vào bút pháp của Marcô, chúng ta cố gắng tìm hiểu tính khí của ngài. Tính chất sống động của Phúc âm thứ II biểu lộ rõ chứng tích mục kiến của Phêrô, chứ không phải của Marcô, dầu có thể là Marcô đã chứng kiến việc bắt bớ Chúa Giêsu vì các nhà chú giải đồng hóa ngài với người thanh niên vô danh bỏ chạy mình trần (Mc 14,50-52). Dầu vậy, thánh Marcô không phải là một máy ghi âm diễn lại lời của Phêrô, ngài là tác giả ghi lại ký ức của Phêrô với bút pháp riêng. Ngài là người ít lời (673 câu so với 1068 câu nơi Matthêu) và có giọng văn không chải chuốt.
 
Người ta có thể cho rằng: Ngài không có khả năng viết văn cho duyên dáng. Nhưng với những khiếm khuyết này, Marcô lại tỏ ra rất chân thành, ngài đã ương ngạnh từ chối việc bỏ bớt những sự kiện vụng về hay là giải thích chúng. Chẳng hạn không thánh sử nào giấu giếm sự chậm hiểu của các thánh tông đồ, nhưng ở Marcô nhấn mạnh : "Lòng họ ra như chai lại" ( Mc 6,51). Marcô cũng không che dấu tham vọng không thể tin nổi của họ (Mc 9,34). Chính Phêrô cũng rất thẳng thắn:

 "Ông không biết phải đáp ứng làm sao" (Mc 9,6). Có lẽ chứng cớ hùng hồn nhất nói lên sự lương thiện của Marcô là ngài đã liều tỏ ra mâu thuẫn với chính mình.
 
Chẳng hạn đối với ngài Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa với ý nghĩa đầy đủ nhất của từ ngữ "vượt các thiên thần" (3,32) "có quyền tha tội" (2,10). Nhưng rồi ngài không ngần ngại viết rằng: "Ở Nazareth Người đã không làm được phép lạ nào" (6,5) ngài cũng không dấu diếm sự kiện bà con Chúa Giêsu nghi ngờ Người thiếu khôn ngoan (3,21) hay sự kiện Chúa Giêsu thất vọng với cây vả không trái (11,13). Những chi tiết loại này khiến cho tựa đề của Marcô được nguyên vẹn (Phúc âm Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa) nhưng lại mang dáng vẻ khó hiểu vì ngài đã không thèm dấu giếm gì hết. Với một sử gia tài danh như vậy, chúng ta rất an tâm.
 
Tại đền thờ thánh Marcô người ta nói có chôn dưới bàn thờ thánh nhân do các thương gia mang từ Alexandria về vào thế kỷ IX.
 
Thánh sử được biểu trưng bằng hình con sư tử vì Phúc âm của ngài mở dầu bằng tiếng nói oai hùng của Gioan Tẩy Giả từ trong sa mạc. Đọc Phúc âm theo thánh Marcô, chúng ta như có thể nghe tiếng nói thô sơ của thánh sử:

"Đừng nhìn tôi, hãy nhìn Người".


Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý - Theo Vết Chân Người

https://giaophanphucuong.org/phung-vu-chu-thanh/thanh-marco---thanh-su-the-ky-i-1297.html




Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính thánh Mác-cô, chúng con dâng lên Chúa của lễ này để ca tụng tạ ơn Chúa. Xin Chúa thương chấp nhận và cho Giáo Hội mãi trung kiên rao giảng Tin Mừng. Chúng con cầu xin...


1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Tín hữu thuộc các Giáo hội cổ Ai Cập, Syrie và Byzantin đều mừng kính thánh Marcô vào ngày 25 tháng 4. Ở Tây Phương, kể từ thế kỷ IX, người ta cũng mừng lễ thánh nhân vào ngày này.

Marcô (tiếng Hy-lạp: Marcos, và la ngữ: Marcus = búa) được gọi là “môn đệ và phát ngôn viên của Phêrô” đồng thời là tác giả sách Tin Mừng thứ hai, theo như lời lưu truyền rất xưa, từ thời Trưởng lão Gioan (cuối thế kỷ I) được Papias (khoảng 150), giám mục thành Hierapolis (Phrygie) thuật lại. Người xưa thường đồng hóa tác giả sách Tin Mừng Marcô với Gioan Marcô, mà sách Công vụ Tông Đồ và các thư của thánh Phaolô thường nhắc đến. Họ nói người xuất thân từ Giêrusalem (Cv 12,12), là bạn đồng hành với Phaolô và Banabé (Cv12,25; 13,5,13 ...) sau đó với Phêrô tại “Babylon” (1 Pr 5,13) ngụ ý là Rôma.

Một truyền tụng khác từ thế kỷ III cho rằng thánh Marcô thiết lập giáo đoàn Alexandrie (Ai Cập), nơi đây ngài đã tử vì đạo. Thi hài của ngài ban đầu được tôn kính gần Alexandrie, rồi được các lái buôn thành Venise chuyển về thành phố của họ vào thế kỷ IX. Các thánh tích của ngài hiện được lưu giữ và tôn kính tại đại thánh đường dâng kính ngài (thánh đường thánh Marcô).

Biểu hiện hình ảnh của thánh Marcô là con sư tử, con vật của vùng sa mạc thảo nguyên. Quả thật sách Tin Mừng của Marcô khởi đầu bằng việc trình bày Gioan Tẩy giả như là tiếng hô trong sa mạc (1,3).

2. Thông điệp và tính thời sự

Phụng Vụ tôn vinh Marcô trước tiên do chính công soạn sách Tin Mừng của ngài. Ngài là người đầu tiên soạn thảo “sách Tin Mừng”, có lẽ tại Rôma, giữa các năm 40 và 75. Là phát ngôn viên của Tông Đồ Phêrô, ngài thuật lại bằng tiếng Hy Lạp - qua một câu chuyện sống động và cụ thể cuộc đời Đức Giêsu từ lúc chịu thanh tẩy cho đến khi sống lại. Đối với ngài, cuộc Khổ Nạn mang một tầm quan trọng đặc biệt.

a. Lời xướng đáp và lời nguyện đầu lễ nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo, cũng như Đức Giêsu công bố điều này trong chương cuối sách Tin Mừng của Marcô mà chúng ta đọc một trích đoạn trong Thánh lễ: Đức Giêsu nói với mười một Tông Đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” ... còn họ (nhóm mười một) thì ra đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi (16,15 ... 20).

b. Lời tung hô Tin Mừng nhắc lại (1 Cr 1, 23 –24): Chúng tôi rao giảng Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Quả vậy trong sách Tin Mừng Marcô, mọi sự đều tập trung vào Giêsu, Đấng Kitô. Là Người thật và rất nhân ái, là Con Người (2,10...) nên Người chạnh lòng thương đám đông (8,2); Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng (10,16); Người cảm thấy hãi hùng và xao xuyến (14,33). Nhưng Người cũng dần dần tự tỏ mình ra như Đấng Thánh của Thiên Chúa (9,24) hay Con Thiên Chúa (3,11...) biểu lộ quyền năng Thiên Chúa của mình qua nhiều dấu lạ. Marcô mô tả chừng hai mươi dấu lạ. Các dấu lạ Người làm khiến mọi người hỏi nhau rằng: thế nghĩa là gì ? (1,27) hay: vậy người này là ai ? (4,41). Chính Đức Giêsu cũng hỏi các Tông Đồ: Anh em bảo Thầy là ai ? (8,29). Phêrô trả lời: Thầy là Đức Kitô (= Đấng Mêssias), còn viên đại đội trưởng ngoại giáo, nhân chứng cuộc đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá, đã thốt lên: Quả thật, người này là con Thiên Chúa ! (15,39).

c. Lời nguyện đầu lễ kết thúc với lời xin Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta, nhờ lời giảng dạy của Marcô, được trung thành “bước theo Đức Kitô”.

Phần hai của sách Tin Mừng Marcô (9 –16) chỉ rõ cụ thể cách thế để theo Đức Giêsu. Cũng như con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại (8,31), cũng thế, Đức Giêsu phán: Ai muốn theo Tôi phải từ bỏ chính mình,vác thập giá mình mà theo. Nói cách khác, người môn đệ chân chính là người dám liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng. Đức Giêsu còn nói: Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy (8,35).

http://gpbanmethuot.com/tin-mung-chua-nhat---le-trong/ngay-254-thanh-mac-co---thanh-su-49005.html

.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng chúng con vừa lãnh nhận bí tích Thánh Thể nơi bàn thờ Chúa. Xin cho bí tích này thánh hoá chúng con và làm cho chúng con vững tin vào Tin Mừng mà thánh Mác-cô đã rao giảng. Chúng con cầu xin...



                                                                                                           

Thứ Ba sau Chúa Nhật II Phục Sinh

 

Bài Ðọc I: Cv 4, 32-37

"Họ một lòng một ý với nhau".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ. Ông Giuse, người mà các tông đồ đặt tên là Barnabê (nghĩa là con sự an ủi), một thầy tư tế, quê ở Cyprô, có một thửa ruộng, ông bán đi và đem tiền đặt dưới chân các tông đồ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5

Ðáp: Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).

Xướng: 1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai. Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Ðáp.

2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn có Chúa. - Ðáp.

3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 18

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 3, 7-15

"Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thật, Tôi bảo cho ông biết: Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".

Nicôđêmô hỏi lại rằng: "Việc ấy xảy ra thế nào được?" Chúa Giêsu đáp: "Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Ðiều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời".

Ðó là lời Chúa.

 


Cảm Nghiệm

Chủ đề "Thày là sự sống" của ngày Thứ Ba trong Tuần II Phục Sinh về khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua những lời Chúa Giêsu khẳng định với nghị viên Nicôđêmô trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái bấy giờ về tính chất chân thực của sự kiện hay điều kiện cần phải tái sinh thần linh để có thể được tự do làm con cái Thiên Chúa dưới tác động của Thánh Thần như gió muốn thổi đâu thì thổi, mà điển hình nhất trong số thành phần tái sinh thần linh được bài đọc 1 hôm nay cho thấy đó là chính cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, một cộng đoàn bác ái yêu thương nhau như trong một gia đình có cùng một Cha trên trời, cùng một Đầu là Chúa Kitô và cùng một hồn sống là Thánh Linh. 

Bài Đọc I (Tông Vụ 5:17-26):

"Bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi sự làm của chung...  Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ".

Phúc Âm (Gioan 3:9-13):

"Nicôđêmô hỏi lại rằng: 'Việc ấy xảy ra thế nào được?' Chúa Giêsu đáp: 'Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Ðiều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời".

Trong câu phúc âm chính yếu trên đây, "những sự dưới đất" "những sự trên trời" mà Chúa Giêsu muốn nói đến ở đây với nghị viên Nicôđêmô là thành phần thiên về Luật Moisen là gì, nếu không phải "những sự dưới đất" đây là chính sự việc tái sinh thần linh hơn là nghi thức cắt bì của Do Thái giáo trong Cựu Ước, và "những sự trên trời" đây là mạc khải thần linh, là dự án cứu độ mầu nhiệm của Thiên Chúa, là chính Nước Thiên Chúa mà chỉ những ai tái sinh thần linh mới được thừa hưởng. 

Thật vậy, nếu không được tái sinh "bởi trời" hay "bởi nước và Thánh Linh", như Chúa Kitô đã đề cập đến với nghị viên Nicôđêmô trong bài Phúc Âm hôm qua thì không một con người tạo vật nào vốn "sinh bởi xác thịt là xác thịt" có thể "vào Nước Thiên Chúa" đó là được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, thông phần vào bản tính thần linh của Ngài, sống sự sống thần linh với Ngài và như Ngài.

Chính Chúa Kitô, ở ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay đã cho biết thành phần được "tái sinh bởi trên cao", "bởi nước và Thánh Linh" hoàn toàn khác với và trổi vượt trên những ai không được hay chưa được tái sinh. Ở chỗ: "Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".

Đúng thế, những ai được "tái sinh bởi Thần Linh" là thành phần được trở nên con cái của Thiên Chúa, được Thiên Chúa ban Thần Linh của Ngài cho, để nhờ đó có thể nhận biết Ngài như Ngài là và yêu mến Ngài như Ngài xứng đáng, với tư cách là con của Ngài, thành phần, nhờ tác động của Thần Linh trong họ "như gió muốn thổi đâu thì thổi", họ chỉ biết tuân theo một cách ngoan ngoãn và mau chóng, bằng "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) như Mẹ Maria trong Biến Cố Truyền Tin, hoàn toàn tin tưởng phó thác cho Ngài, không cần "biết gió từ đâu tới và sẽ đi đâu".


Thứ Tư sau Chúa Nhật II Phục Sinh

 

Bài Ðọc I: Cv 5, 17-26

"Kìa, những người mà các ông tống ngục, hiện đang đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, vị thượng tế và mọi người thuộc phe ông, tức là phái Sađốc, đầy lòng phẫn nộ; họ ra tay bắt các tông đồ tống ngục. Nhưng đến đêm, Thiên Thần Chúa mở cửa ngục, dẫn các ngài đi và nói: "Hãy đi vào đền thờ giảng dạy cho dân chúng biết mọi lời hằng sống này". Nghe lệnh ấy, sáng sớm các ngài vào đền thờ và giảng dạy.

Lúc bấy giờ vị thượng tế và các người thuộc phe ông đến, triệu tập công nghị và tất cả các vị kỳ lão trong dân Israel, rồi sai người vào tù dẫn các tông đồ ra. Khi thủ hạ đến nơi, mở cửa ngục, không thấy các tông đồ, họ liền trở về báo cáo rằng: "Thật chúng tôi thấy cửa ngục đóng rất kỹ lưỡng, lính canh vẫn đứng gác ngoài cửa, nhưng khi chúng tôi mở cửa ra, thì không thấy ai ở bên trong cả".

Khi nghe các lời đó, viên lãnh binh cai đền thờ và các thượng tế rất lúng túng, không biết rõ công việc đã xảy đến cho các tông đồ. Lúc đó có người đến báo tin cho họ rằng: "Kìa, những người mà các ông đã tống ngục, hiện đang đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ". Bấy giờ viên lãnh binh cùng các thủ hạ tới dẫn các tông đồ đi mà không dùng bạo lực, vì sợ bị dân chúng ném đá.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. - Ðáp.

3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.

4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 26

Alleluia, alleluia! - Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 3, 16-21

"Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa.


Cảm Nghiệm

Chủ đề "Thày là sự sống" của ngày Thứ Tư trong Tuần II Phục Sinh về khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua những lời Chúa Giêsu tiếp tục nói với nghị viên Nicôđêmô trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái bấy giờ, từ "những sự dưới đất" là sự kiện tái sinh thần linh (như trong 2 bài phúc âm đầu tuần Thứ Hai và Thứ Ba), đến "những sự trên trời" về chính thực tại thần linh là tình yêu Thiên Chúa, Đấng đã muốn "những gì sinh bởi xác thịt là xác thịt" nơi con người được tái sinh thành "những gì sinh bởi thần linh là thần linh" nhờ Con của Ngài, trái với thành phần chưa được tái sinh thần linh trong bài đọc 1 hôm nay, thành phần tìm hết cách để triệt hạ các tông đồ làm chứng cho Đấng Phục Sinh cho dù họ thấy chứng cớ bất khả chối cãi nơi bản thân các vị và các việc các vị làm trong / cho cộng đồng dân chúng bấy giờ. 

Bài Đọc I (Tông Vụ 5:17-26):
"Trong những ngày ấy, vị thượng tế và mọi người thuộc phe ông, tức là phái Sađốc, đầy lòng phẫn nộ; họ ra tay bắt các tông đồ tống ngục. Nhưng đến đêm, Thiên Thần Chúa mở cửa ngục, dẫn các ngài đi và nói: 'Hãy đi vào đền thờ giảng dạy cho dân chúng biết mọi lời hằng sống này'. Nghe lệnh ấy, sáng sớm các ngài vào đền thờ và giảng dạy.

"Lúc bấy giờ vị thượng tế và các người thuộc phe ông đến, triệu tập công nghị và tất cả các vị kỳ lão trong dân Israel, rồi sai người vào tù dẫn các tông đồ ra. Khi thủ hạ đến nơi, mở cửa ngục, không thấy các tông đồ, họ liền trở về báo cáo rằng: 'Thật chúng tôi thấy cửa ngục đóng rất kỹ lưỡng, lính canh vẫn đứng gác ngoài cửa, nhưng khi chúng tôi mở cửa ra, thì không thấy ai ở bên trong cả'.

"Khi nghe các lời đó, viên lãnh binh cai đền thờ và các thượng tế rất lúng túng, không biết rõ công việc đã xảy đến cho các tông đồ. Lúc đó có người đến báo tin cho họ rằng: 'Kìa, những người mà các ông đã tống ngục, hiện đang đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ'. Bấy giờ viên lãnh binh cùng các thủ hạ tới dẫn các tông đồ đi mà không dùng bạo lực, vì sợ bị dân chúng ném đá".

Phúc Âm (Gioan 3:16-21):
"Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa".
Trong bài phúc âm hôm nay, ở phần cuối Chúa Giêsu đã nói riêng về lý do tại sao con người không chấp nhận mạc khải thần linh, không tin vào Con Một Thiên Chúa được ban cho họ để cứu độ họ

"Đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa". 
Ở câu Phúc Âm trên đây, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: "Người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách". 

Đúng thế, thực tế cũng cho thấy rõ ràng là "Người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa". Và chính vì thế, vì "hành động của họ xấu xa" mà họ mới "ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách".

Những hành động cụ thể chứng tỏ con người yêu tối tăm hơn ánh sáng, sợ ánh sáng và không dám ra trước ánh sáng như: không chấp nhận tội lỗi của mình để khỏi phải sửa mình nhờ đó có thể tiếp tục sống thoải mái theo bản tính tự nhiên, hay giải thích Lời Chúa hay luật Chúa theo khuynh hướng dễ dãi của mình để khỏi phải bỏ mình tuân giữ, hoặc sau khi cầu xin cho biết ý Chúa và biết được đâu là ý của Ngài rồi thì chối bỏ, chạy trốn, không dám theo.

Thánh phần của phe vị thượng tế và bè Sađốc trong bài đọc một hôm nay là những con người điển hình nhất "yêu tối tăm hơn ánh sáng", sợ ánh sáng, không dám ra trước ánh sáng, không dám chấp nhận sự thật, trái lại, càng muồn dập tắt ánh sáng, chôn vuì sự thật, một thực tại thần linh bất diệt không ai có thể chống lại được.

 

Thứ Năm sau Chúa Nhật II Phục Sinh

 

Bài Ðọc I: Cv 5, 27-33

"Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Hôm ấy, khi các thủ hạ dẫn các tông đồ đi, họ đem các ngài ra trước công nghị. Vị thượng tế hỏi các ngài rằng: "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?" Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Ngài trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người?" Khi nghe những lời đó, họ liền phẫn nộ và tìm mưu giết các ngài.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2 và 9. 17-18. 19-20

Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.

2) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.

3) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 16, 7 và 13

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ sai Thần Chân Lý đến, người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 3, 31-36

"Ðức Chúa Cha thương mến Con Ngài, nên ban toàn quyền trong tay Con Ngài".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng về Chúa Giêsu rằng: "Ðấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Ðấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Ðiều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Ðấng chân thật. Ðấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Cảm Nghiệm

Chủ đề "Thày là sự sống" của ngày Thứ Năm trong Tuần II Phục Sinh về khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua những lời chứng của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả về thế giá khả tín của Chúa Giêsu liên quan đến 2 vấn đề then chốt Người đã mạc khải cho nghị viên Nicôđêmô biết, bao gồm cả vấn đề "những sự dưới đất" là việc tái sinh thần linh, lẫn vấn đề "những sự trên trời" là tình yêu của Thiên Chúa muốn cứu độ con người nơi Con của Ngài, một Người Con mà các tông đồ đã được rửa trong Thánh Thần, trong bài đọc 1 hôm nay, tỏ ra hiên ngang rao giảng và làm chứng, bất chấp lệnh cấm đoán của Hội Đồng Đầu Mục Do Thái vẫn tiếp tục cố tình muốn bóp nghẹt sự thật, muốn tránh né trách nhiệm về hậu quả họ đã gây ra cho Người Con của Thiên Chúa. 

"Hôm ấy, khi các thủ hạ dẫn các tông đồ đi, họ đem các ngài ra trước công nghị. Vị thượng tế hỏi các ngài rằng: 'Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?' Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: 'Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Ngài trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người?' Khi nghe những lời đó, họ liền phẫn nộ và tìm mưu giết các ngài".

Nếu "Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời và sự sống này ở nơi Con của Ngài" (1Gioan 5:11), mà chỉ có ai tin vào Chúa Kitô mới được sự sống mà thôi (xem Gioan 3:16). Mà sự sống đây được Chúa Kitô ban phát cho dân của Người bấy giờ như của ăn mang lại sự sống đời đời (xem Gioan 6:27) là chính bản thân Người nói chung, là mạc khải thần linh của Người, qua lời Người nói và việc Người làm.

Đó là lý do Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm nay đã làm chứng về bản thân đầy thế giá và đáng tin của Chúa Kitô: "Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng về Chúa Giêsu rằng: 'Ðấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Ðấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Ðiều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Ðấng chân thật. Ðấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy'".

Vị Tiền Hô này còn khẳng định những lời Người nói hay việc Người làm (chứng) đều mang lại sự sống cho những ai tin tưởng vào Người: "Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Ðấng chân thật.... Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời". Và chính vì "lời chứng của Người không ai chấp nhận", "cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt" (Bài Phúc Âm Thứ Hai Tuần II Phục Sinh) và "Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất" (Phúc Âm hôm nay), mới cần đến "Ðấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người" để tỏ cho họ biết, nhờ đó họ có thể được "tái sinh bởi trời" (Phúc Âm Thứ Hai Tuần II Phục Sinh), như một "con người sinh bởi Thần Linh" (Bài Phúc Âm Thứ Ba Tuần II Phục Sinh).

 

28/4 Thứ Năm

Thánh Phêrô Chanel

Thánh Louis Montfort

Thánh Phêrô Chanel

Thánh Phê-rô Sa-nen sinh năm 1803 tại Cu-ết. Ngài được một linh mục thương dạy dỗ và cho vào chủng viện. Năm 1827, ngài thụ phong linh mục và đi giúp họ đạo Am-be. Nhưng thánh nhân mong ước đi truyền giáo cho dân ngoại, nhất là những dân tộc thiểu số còn kém văn minh vật chất, nên xin vào dòng Đức Maria là dòng thừa sai giảng đạo.

Và thánh nhân đã được toại nguyện. Năm 1837, ngài được bề trên sai đến đảo Fu-tu-na, mọt đảo nhỏ ít dân, còn sống hoang dã dữ tợn. Lúc đầu, ngài được dân địa phương và chủ đảo tiếp đón nồng hậu. Nhưng dần dần họ lại chống đối ngài. Nhất là khi vua đảo này nghe tin con trai ông ta theo đạo, thì ra lệnh hành hình và đánh đập ngài đến chết, vào ngày 28 tháng 4 năm 1841.

Chúng ta hãy xem gương của ngài: ” Ngay sau khi Phê-rô Sa-nen khấn dòng trong hội Đức Bà Maria, ngài được sai đi giảng đạo ở Úc châu theo như lời ngài đã xin. Ngài đã tới đảo Fu-tu-na trong Thái-bình-dương, nơi dan Đức Kitô chưa hề được rao giảng. Thầy trợ sĩ luôn lôn đi với ngài, thuật lại cuộc đời truyền giáo của ngài như sau: Trong khi đi làm việc, ngài thường bị cháy nắng và thường bị đói. Về đến nhà thì mồ hôi ra như tắm và mệt đừ. Nhưng lúc nào ngài cũng can đảm, sống động và vui vẻ, dường như ở chốn cực lạc về. Và như thế không phải chỉ một lần mà hầu như hằng ngày.

Ngài không bao giờ từ chối gí với dân Fu-tu-na; ngay cả với những kẻ bách hại làm khổ ngài. Bao giờ, ngài cũng bàu chữa cho họ. Và cho dù họ có cứng cỏi cộc cằn, ngài cũng vẫn không xua đuổi họ. Ngài hiền lành vô địch đối với mọi người; và bằng mọi cách, chẳng trừ một ai. Thế nên, chẳng có chi lạ khi người dân ở đó gọi ngài là” con người tốt bụng”. Có lần ngài nói với anh em đồng nghiệp rằng:” Ở nơi truyền giáo khó thì chúng ta phải là thánh nhân !”

Dần dà, ngài đã rao giảng Đúc Kitô và Tin Mừng. Nhưng thu lượm được ít kết quả. Với lòng kiên trì bất khuất, ngài cứ tiếp tục công cuộc truyền giáo, vừa có tính cách nhân đạo, vừa có tính cách đạo đức, tựa vào gương và lời Đức Kitô đã phán: Người gieo thì khác, mà người gặt thì khác. Trong khi đó, ngài vẫn chuyên cần tha thiết nài giúp, nài xin sự trợ giúp của Thánh Mẫu Thiên Chúa mà ngài có lòng sùng kính rất đặc biệt.

Công việc giảng đạo của ngài đã hủy bỏ được công việc thờ cúng các thần mà các tù trưởng ở Fu-tu-na đã cổ võ để giữ dân chúng dưới sự kềm kẹp của họ. Thế nên, họ giết ngài một cách dã man. Hy vọng rằng ngài chết đi thì mầm sống kitô giáo ngài gieo vãi cũng sẽ mai một luôn. Nhưng hôm trước ngày tử đạo, ngài đã nói:

Tôi có chết cũng chẳng sao. Kitô giáo đã ăn rễ sâu ở đảo này rồi. Nên tôi có chết, đạo cũng không mất được.

Máu của thánh tử đạo trước hết đã sinh ích cho dân ở Fu-tu-na. Vì chỉ ít năm sau, tất cả đã tn Chúa Kitô hết. Hơn nữa, còn có ích cho các đảo khác ở Úc châu. Nơi mà ngày nay đã mọc lên nhiều hội thánh phồn vinh, mà tất cả đều xưng thánh Phêrô là vị tử đạo tiên khởi của mình.” 1

Quyết tâm: Noi gương thánh Phêrô Sa-nen, hằng ngày tôi lo đem Chúa đến cho mọi người chưa biết Chúa, nhất là cho những người nghèo khó, dốt nát nơi xa xôi hẻo lánh.

Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Phê-rô Sa-nen được vinh phúc tử đạo để mở mang nước Chúa.Xin cho chúng con biết tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và sống lại, hầu trở nên nhân chứng của đời sống mới.

Bất cứ ai từng làm việc trong cô độc, và cần phải thích ứng tối đa và rất ít cơ hội thành công, đều tìm thấy một tinh thần tương tự nơi Thánh Phêrô Chanel.
Thánh Phêrô Chanel sinh ở Clet trong giáo phận Belley, nước Pháp. Khi là học sinh tiểu học, ngài đã được thầy giáo chú ý vì sự thông minh và đạo đức. Khi gia nhập đại chủng viện, ngài được sự thương mến và quý trọng của các giáo sư cũng như đồng bạn. Khi là linh mục trẻ, ngài làm hồi sinh một giáo xứ trong khu “tồi tệ” của thành phố chỉ sau ba năm hoạt động.
Tuy nhiên ngài vẫn muốn trở thành nhà truyền giáo, do đó lúc 28 tuổi ngài gia nhập Dòng Ðức Mẹ, là tu hội chú trọng đến công việc truyền giáo ở trong và ngoài nước. Nhưng, trái với điều mong ước, ngài lại được chỉ định công việc dạy học ở đại chủng viện Belley trong vòng năm năm kế đó, và ngài thi hành nhiệm vụ ấy với tất cả nhiệt thành.
Vào năm 1836, nhà dòng được giao cho vùng New Hebrides ở Thái Bình Dương để truyền giáo, và Cha Phêrô thật vui sướng được bổ nhiệm là bề trên của nhóm truyền giáo, tuy nhỏ nhưng hăng say rao giảng Ðức Tin cho dân cư trên đảo.
Sau mười tháng lênh đênh trên biển, họ đã cập bến và tách ra làm hai nhóm, và nhóm của Cha Phêrô thì đến Ðảo Futuna với hai người phụ tá, gồm một thầy dòng và một giáo dân người Anh. Khi ấy dân cư trên đảo còn trong tình trạng bán khai mà lệnh cấm ăn thịt người chỉ vừa mới được ban hành. Lúc đầu các vị truyền giáo được người bản xứ và tù trưởng Niuliki tiếp đón niềm nở.
Tuy nhiên, khi các ngài càng ngày càng sành sõi tiếng địa phương và càng được dân chúng tin tưởng thì ông tù trưởng cảm thấy ghen tức và lo sợ; ông thấy rằng việc chấp nhận đức tin Công Giáo sẽ đưa đến sự bãi bỏ một số đặc quyền mà ông đang được hưởng, với tư cách của một thượng tế và vừa là người cầm quyền. Sau cùng, khi chính con trai ông bày tỏ lòng ước ao muốn được rửa tội, sự căm thù của ông bùng nổ và ông sai các chiến sĩ của ông đi bắt vị trưởng nhóm truyền giáo. Do đó, ngày 28 tháng Tư 1841, Cha Phêrô bị bắt và bị đánh đập cho đến chết bởi những người mà ngài muốn cứu vớt linh hồn họ.
Chỉ trong vòng hai năm sau cái chết của ngài, mọi người trên đảo đều theo đạo Công Giáo và vẫn trung thành với đức tin ấy cho đến ngày nay. Cha Phêrô Chanel là vị tử đạo đầu tiên ở Ðại Dương Châu và là quan thầy của châu này.

Lời Bàn

Chịu đau khổ vì Ðức Kitô có nghĩa đau khổ vì muốn trở nên giống như Ðức Kitô. Thường thường chúng ta bị chống đối là vì hậu quả của sự ích kỷ và thiếu khôn ngoan. Chúng ta không phải là người tử đạo khi bị “bạc đãi” bởi những người đã đối xử với chúng ta y như chúng ta đối xử với họ. Một vị tử đạo Kitô Giáo là người, giống như Ðức Kitô, chỉ đơn giản làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, và sống thật với chính mình.

Lời Trích

“Không ai là vị tử đạo chỉ vì một quyết định, không ai là vị tử đạo vì một ý kiến; chính đức tin tạo nên vị tử đạo” (Ðức Hồng Y Newman, Bài Diễn Văn cho Các Giáo Ðoàn Hỗn Hợp)

Thánh Louis Montfort

Have You Given Yourself to Mary? - Our Lady's Blue Army

Thánh Long Mộng Phố - Louis Montfort

(xin bấm vào hàng chữ trên đây để đọc về vị thánh cùng ngày 28/4 này)

 

 

 

Thứ Sáu sau Chúa Nhật II Phục Sinh

 

Bài Ðọc I: Cv 5, 34-42

"Các ngài hân hoan ra về, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Ðức Giêsu".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Bấy giờ, có người biệt phái tên là Gamaliel, cũng là luật sĩ, có thế giá trong dân, đứng lên giữa công nghị, truyền dẫn các tông đồ ra ngoài trong giây lát, rồi nói với các người trong công nghị rằng: "Hỡi chư vị Israel, xin hãy thận trọng về việc chư vị định làm đối với những người này. Vì trước đây ít ngày, có tên Thêôđa nổi lên, tự xưng là một nhân vật, có độ bốn trăm người theo mình, y đã bị giết, và nhóm người theo y đều tan rã và không còn gì nữa. Sau y, lại có tên Giuđa người Galilêa, cũng nổi lên trong những ngày kiểm tra dân số, lôi kéo dân chúng theo mình, rồi chính hắn cũng chết, mọi kẻ theo hắn đều tan rã. Và bây giờ, tôi xin chư vị đừng can dự gì đến những người này, cứ để mặc họ: vì nếu một mưu toan hay việc này là do loài người, thì sẽ tự tan rã; nhược bằng bởi Thiên Chúa, thì chư vị không thể phá tan được, kẻo lỡ ra mang tội chống đối Thiên Chúa". Họ đồng ý. Họ cho gọi các tông đồ vào, ra lệnh đánh đòn các ngài, và cấm tuyệt đối không được nhân danh Ðức Giêsu mà giảng dạy nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu. Và hằng ngày, tại đền thờ hay tại tư gia, các ngài cứ tiếp tục giảng dạy, và loan truyền Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 13-14

Ðáp: Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi (c. 4ab).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài. - Ðáp.

3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Cl 3, 1

Alleluia, alleluia! - Nếu anh em sống lại làm một với Ðức Kitô, thì anh em hãy kiếm những sự cao siêu trên trời, nơi Ðức Kitô, đang ngự bên hữu Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 6, 1-15

"Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút".

Một trong những môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống". Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.

Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Ðấng Tiên tri phải đến trong thế gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.

Ðó là lời Chúa.






Cảm Nghiệm


Chủ đề
"Thày là sự sống" của ngày Thứ Sáu trong Tuần II Phục Sinh 
về khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua việc Chúa Giêsu làm phép lạ (lần đầu) hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng theo đuổi Người, một hành động Người làm với sự hợp tác của các môn đệ, thành phần mà, sau khi Người sống lại từ cõi chết và lên trời, đã chứng tỏ mình thực sự được tái sinh thần linh, như trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy, ở chỗ, các vị càng vui mừng vì được chịu khổ vì Đấng Phục Sinh và cứ tiếp tục tỏ ra bất khuất trong việc rao giảng và làm chứng cho những gì các vị đã thấy và đã nghe nơi Người.

Phúc Âm (Gioan 6:1-15):
"Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: 'Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?' Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: 'Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút'. Một trong những môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: 'Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người'. Chúa Giêsu nói: 'Cứ bảo người ta ngồi xuống'. Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: 'Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi'. Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư."
Bài Đọc I (Tông Vụ 5:34-42):
"'Tôi xin chư vị đừng can dự gì đến những người này, cứ để mặc họ: vì nếu một mưu toan hay việc này là do loài người, thì sẽ tự tan rã; nhược bằng bởi Thiên Chúa, thì chư vị không thể phá tan được, kẻo lỡ ra mang tội chống đối Thiên Chúa'. Họ đồng ý. Họ cho gọi các tông đồ vào, ra lệnh đánh đòn các ngài, và cấm tuyệt đối không được nhân danh Ðức Giêsu mà giảng dạy nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu. Và hằng ngày, tại đền thờ hay tại tư gia, các ngài cứ tiếp tục giảng dạy, và loan truyền Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô".
"Hai môn đệ khác" trong bài Phúc Âm không được Thánh ký Gioan kể đến như 5 tông đồ khác phải chăng là Anrê, em của tông đồ Phêrô (xem Gioan 1:40-41), và Philiphê, bạn của Nathanael (xem Gioan 1:43-45), 2 cặp môn đệ đã "đến và xem chỗ Người ở" (Gioan 1:39), và cũng chỉ có 2 môn đệ này, ở Phúc Âm phép lạ bánh hóa ra nhiều Thứ Sáu tuần trước, được Thánh ký Gioan trong đề cập tới trong việc cung cấp 5 ổ bánh và 2 con cá cho Chúa Giêsu? Phải chăng 5 chiếc bánh và 2 con cá này có liên quan đến 7 môn đệ rủ nhau đi đánh cá ở bài Phúc Âm hôm nay, 5 môn đệ có tên liên quan đến 5 ổ bánh và 2 môn đệ không có tên liên quan đến 2 con cá.

Hai con cá Anrê và Philiphê trong bài Phúc Âm hôm nay phải chăng ám chỉ các ngài cũng là những con cá được Chúa Kitô câu bắt được, giờ đây, phải được Người nướng lên mới ăn được, như Người đã làm ở bờ biển hồ Tibêria cho 7 môn đệ bắt được mẻ cá 153 con ăn, nghĩa là phải trở thành hy tế cho phần rỗi nhân loại, phải chết đi cho dân được sống. Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay, 12 thúng còn dư chỉ thu được từ 5 ổ bánh, hoàn toàn không thấy nói đến từ cá, vì bánh đây ám chỉ Chúa Kitô, Đấng được các môn đệ làm chứng bằng hy tế của mình cho loài người nhận biết Người hơn là chính các vị.

Đúng thế, các con cá tông đồ đều đã được Thày nướng lên cho chín, và các vị không thể nào để cho Người nướng lên như thế nếu các vị không sống đức tin, hoàn toàn tin tưởng phó thác trong bàn tay đầy quyền năng của Người. Mà đức tin liên quan đến tác động "nhìn" hay "thấy" hoặc "gặp", những tác động cần phải có của đức tin nhưng phụ thuộc vào đức tin hơn là đức tin phụ thuộc vào chúng. Đó là lý do trong dịp lễ Vượt Qua ở Giêrusalem, hai môn đệ Philiphê và Anrê này, (chứ không phải các vị khác, bởi 2 vị này hình như biết tiếng Hy Lạp), đã là những môn đệ trung gian môi giới được người Hy Lạp ở đó bấy giờ ngỏ ý "chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu" (Gioan 12:20-22).


Ngày 29 tháng 4 - Thứ Sáu

Thánh Ca-ta-ri-na Xi-ê-na, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh

Heilige Rita von Cassia Art Print at Art.com | St. rita, Santa rita, St  rita of cascia

Ca-ta-ri-na sinh năm 1347 tại Xi-ê-na. Ngay từ thuở niên thiếu, chị đã khao khát sống cuộc đời hoàn thiện, say mê chiêm ngưỡng Chúa Ki-tô chịu đóng đinh, và hết mình phục vụ Hội Thánh bấy giờ đang bị xâu xé. Vì thế, chị đã gia nhập Dòng Ba Đa-minh. Thấm nhuần tinh thần của thánh tổ phụ, chị yêu mến Thiên Chúa và tha nhân một cách nồng nàn, cổ võ bình an thuận hoà giữa các thành của nước Ý, can đảm bênh vực quyền lợi và sự tự do của Giáo Hội, và góp phần canh tân đời sống đạo đức. Chị đã viết nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Chị qua đời năm 1380. Đến năm 1939, đức giáo hoàng Pi-ô XII tuyên phong chị làm bổn mạng nước Ý, rồi năm 1970, đức giáo hoàng Phao-lô VI ghi tên chị vào số các tiến sĩ Hội Thánh.

Con đã nếm thử và đã nhìn thấy

Bài đọc 2

Trích sách Đối thoại của thánh Ca-ta-ri-na Xi-ê-na, trinh nữ, về Thiên Chúa quan phòng.

Ôi Thiên Chúa vĩnh hằng, ôi Ba Ngôi vĩnh cửu ! Ngài đã dùng sự kết hợp với bản tính Thiên Chúa mà làm cho máu Con Một Ngài có giá trị biết bao ! Lạy Ba Ngôi vĩnh cửu, Ngài ví tựa đại dương sâu thẳm, càng tìm con càng thấy ; càng thấy con càng tìm. Ngài làm cho linh hồn được no thoả nhưng dường như lại không no thoả. Bởi lẽ trong vực thẳm của Chúa, Chúa làm cho linh hồn được no thoả mà vẫn còn luôn đói khát Chúa, vì linh hồn vẫn hết sức ước mong khao khát được thấy Chúa là ánh sáng trong ánh sáng của Chúa, ôi lạy Ba Ngôi vĩnh cửu !

Nhờ ánh sáng trí khôn và trong ánh sáng của Chúa, lạy Chúa Ba Ngôi, con đã nếm thử và đã nhìn thấy vực thẳm của Ngài cũng như vẻ đẹp của thụ tạo do Ngài dựng nên. Vì khi chính bản thân con được mặc lấy Ngài, con đã thấy con là hình ảnh của Ngài. Lạy Cha vĩnh cửu, điều này có nghĩa là Cha ban cho con được tham dự vào quyền năng và sự khôn ngoan của Ngài, sự khôn ngoan của riêng Con Một Ngài. Còn Thánh Thần, Đấng phát xuất từ Ngài là Cha và từ Con của Ngài, lại ban cho con ý muốn, và nhờ đó làm cho con có thể yêu mến.

Vì chính Ngài, lạy Ba Ngôi vĩnh cửu, Ngài là Đấng Sáng Tạo, còn con là thụ tạo : do đó, nhờ Ngài soi sáng, con cũng biết được rằng khi tái tạo con nhờ máu của Con Một Ngài, thì Ngài đã say mê vẻ đẹp nơi thụ tạo do Ngài dựng nên.

Ôi vực thẳm, ôi Ba Ngôi vĩnh cửu, ôi Thiên Chúa, ôi đại dương sâu thẳm, Chúa còn có thể ban cho con ơn gì lớn lao hơn chính Ngài nữa chăng ? Chúa là lửa luôn rực cháy mà không thiêu rụi. Chúa dùng sức nóng của Chúa mà thiêu huỷ mọi tình yêu vị kỷ của linh hồn. Chúa là lửa đánh tan mọi băng giá, và Chúa dùng ánh sáng của Chúa mà soi sáng trí lòng. Đó là ánh sáng Chúa đã dùng để làm cho con nhận biết chân lý của Chúa.

Khi soi mình trong ánh sáng ấy như trong một tấm gương, con nhận biết rằng : Chúa là sự thiện tuyệt đối, sự thiện vượt trên mọi sự thiện, sự thiện đem lại hạnh phúc, sự thiện không thể hiểu thấu được ; Chúa là vẻ đẹp vượt trên mọi vẻ đẹp ; Chúa là sự khôn ngoan vượt trên mọi khôn ngoan. Bởi vì Chúa là chính sự khôn ngoan ; Chúa là lương thực nuôi các thiên thần, nhưng vì lòng yêu thương nung nấu, Chúa đã tặng ban chính mình cho nhân loại.

Chúa là tấm áo che cho con khỏi trần trụi ; Chúa lấy sự dịu ngọt của Chúa mà nuôi dưỡng chúng con là những kẻ đang đói lả, vì Chúa ngọt ngào không chút đắng cay. Ôi lạy Ba Ngôi vĩnh cửu !

Lạy Chúa, Chúa đã đốt lửa yêu mến nồng nàn trong lòng thánh nữ Ca-ta-ri-na Xi-ê-na, khiến thánh nữ vừa thiết tha chiêm ngưỡng Đức Ki-tô chịu khổ nạn, vừa hăng say phục vụ Hội Thánh. Xin nhậm lời thánh nữ chuyển cầu mà cho dân Chúa biết thông phần khổ nạn với Đức Ki-tô, để được vui mừng chiêm ngưỡng vinh quang Chúa. Chúng con cầu xin

(trích Giờ Kinh Phụng Vụ của Nhóm phiên dịch các Giờ Kinh Phụng Vụ)

ĐTC Biển Đức XVI: 24/11/2010 – Bài 124 - Thánh Catherine of Siena

(Xin bấm vào hàng chữ trên đây để đọc bài giáo lý của ĐTC Biển Đức XVI về vị thánh hôm nay)

 

 

 

Cartarina sinh 1347 tại Siêna, là con út của một gia đình đông đảo, cha Ngài, ông Giacômô là một thợ nhuộm giàu có, Mẹ Ngài Mônna Lapa là một người quản trị có nhiều khả năng và giàu nghị lực của gia đình sống động này.

Cartarina đã trải qua tuổi nhỏ thơ ấu bình thường với tính vui đặc biệt khác hẳn với các anh chị. Nhưng với tuổi thanh xuân, Ngài đã say mê cầu nguyện trong cô tịch. Bà Lapa rất bực mình và có thời bà coi Cartarina như một đứa con khó trị, vì cô đã cưỡng lại sự hướng dẫn của mẹ trong những công việc như ăn mặc và giải trí, chống đối cả những đề nghị thành hôn và luôn cương quyết trong ý tưởng trở nên một nữ tu.

Ngay hồi 7 tuổi, Cartarina đã khấn với Đức Trinh nữ rằng : Chúa Giêsu là vị hôn phu duy nhất của mình. Lên 12 tuổi, cha mẹ muốn gả chồng cho Cartarina. Nhưng rồi cha mẹ Ngài đã hiểu rằng: không thể thay đổi ý định của Ngài được. Đàng khác, sau nhiều thử thách, cha mẹ Ngài phải cảm kích khi thấy Ngài vẫn dịu dàng tuân phục trong những việc nặng nề và từ đó họ không chống lại tiếng gọi thần linh nữa.

Năm 16 tuổi, Cartarina được mặc áo dòng ba Đaminh. Luật lệ dòng cho phép Ngài mặc áo đen trắng của dòng mà vẫn ở nhà với cha mẹ. Từ đó, trong 3 năm trời thánh nhân chỉ rời phòng riêng khi đi lễ và xưng tội. Ngài chỉ nói chuyện với cha giải tội của Ngài thôi. Sau này vị linh mục tốt lành này thú nhận rằng mình thường cảm thấy thiếu khả năng để hứơng dẫn Cartarina.

Cũng trong thời gian này có khi thánh nhân chỉ ăn một muỗng cháo và ngủ vài giờ mỗi ngày. Những khó nhọc khổ chế thể xác ấy còn quá nhẹ so với cơn thử thách mà quỷ gây ra trong tâm hồn. Khi hết các thử thách, Chúa Giêsu hiện đến dưới hình dạng bê bết máu trên thánh giá. 

– Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con một mình chiến đấu với những dày vò kia ? Thánh nhân trách.

– Cha vẫn phải với con.  Chúa trả lời.

– Sao, Chúa ở giữa những tư tưởng kinh tởm làm nhơ nhớp linh hồn con sao ?

– Nhưng những thử thách ấy đâu có làm cho con phiền muộn quá mức ?

– Ôi, con kinh sợ và đau buồn quá mức ?

– Đó, các tư tưởng ấy đã không thể làm nhơ uế hồn con vì con tởm gớm chúng. Chính cha ngự trong lòng con và đã cho con ơn biết đau buồn vì chúng.

Chúa Giêsu đã thưởng công cho lòng dũng cảm và trung tín của Cartarina bằng cuộc viếng thăm này. Thánh nhân xin cho được kết hợp mật thiết với Chúa hơn. Trong một thị kiến, Đức trinh Nữ đã cầm tay thánh nữ và Con Ngài đã xỏ vào tay thánh nữ một chiếc nhẫn vàng và chỉ một mình thánh nữ trông thấy. Đây là Lễ Cưới nhiệm mầu.

Sau biến cố đặc biệt này, thánh nữ bắt đầu chia sẻ mọi việc trong nhà, nuôi dưỡng bệnh nhân và giúp đỡ những người nghèo. Người ta còn nhắc đến việc Ngài săn sóc cho một người cùi và một người bị ung thư; để vượt qua sự ngại ngùng, Ngài dám hôn vết thương tanh hôi của họ. Anh hùng săn sóc cho thể xác, chắc chắn Ngài cũng nhiệt tình lo lắng cho linh hồn con người . Một phạm nhân cứng lòng đã hối cải sau lời khuyên của thánh nữ, và lãnh nhận cái chết đạo đức trong tay thánh nữ.

Được ơn thấu suốt các tâm hồn, thánh nhân đã trở nên nơi tập họp của một lớp người đông đảo cầu thuộc đủ mọi thành phần. Họ bị lôi kéo bởi sự vui tươi lẫn đời sống khổ hạnh của Ngài, bởi tính khí bình dân lẫn sự hiểu biết sâu sắc về đường thiêng liêng, bởi nét đẹp bình dị của Ngài. Người ta gọi nhóm người qui tụ bên Ngài là “Trường phái thần bí”.

Với ảnh hưởng lớn lao ấy, thánh Cartarina được mệnh danh là “Thiên thần hòa giải” bởi những mối thù hận giữa gia đình không thể chống lại được ảnh hưởng của Ngài. Ngài nói : – Ghen ghét người lân cận là chống đối lại Thiên Chúa, là hủy diệt đối với người nuôi dưỡng nó, bởi vì ai sống trong ghen ghét, họ tự ghét bỏ mình còn hơn là ghét bỏ thù nghịch nữa.

Trước uy tín dặc biệt này của thánh nhân Bề trên đã đặt Ngài mang lời Chúa đến cho dân chúng. Ngài dạy ở Siêng Pisa, Rôma. Mọi người đều ngạc nhiên khi thấy một người con gái bình thường lại có thể diễn đạt tư tưởng như một nhà thần học và một nhà triết học.

Trở về phòng riêng, thánh nữ tiếp tục cuộc rao giảng Tin Mừng, khích lệ và nâng đỡ các tâm hồn. Ngài viết thư cho các vua chúa và cho cả Đức giáo hoàng, các tu sĩ vâng phục Ngài, các hiệp sĩ bày tỏ nỗi lòng với Ngài. Những việc hệ trọng nhất được giao phó cho Ngài, một trật Ngài có thể đọc cho hai hay ba thơ ký viết về những đề tài khác nhau. Bởi đó, Ngài đã giữ một vai trò lớn lao trong lịch sử, mang lại an bình cho Giáo hội, ngăn chận cuộc nổi loạn ở Pisa và Tôscane. Ngài là Thiên thần của Siêna trong cuộc nội chiến và dịch hạch. Nhiều thành phố nổi dậy chống lại Đức giáo hoàng Gregoriô XI là Đấng rời tòa sang Pháp.

Tháng 5 năm 1376, Ngài sang Avignon nài nỉ Đức giáo hoàng trở về Rôma. Các thư từ của Ngài thổi vào sự can đảm cần thiết cho cuộc trở về này. Khi cuộc nổi loạn ở Florence bùng nổ, người ta bỗng thấy thánh Cartarina xuất hiện, quỳ dưới chân thủ lãnh những người nổi loạn và nói: – Ông muốn tìm Cartarina phải không ? Nó đây, nhưng xin đừng hại những người này.

Cảm kích vì lòng gan dạ của thiếu nữ, người đứng đầu chấm dứt âm mưu nổi dậy.

Đức giáo hoàng Grêgoriô XI bỏ Avignon ngày 13 tháng 9 năm 1376. Khi đức giáo hoàng Gregoriô qua đời, Cartarina trở về Siena và đọc cho thơ ký viết cuốn: “Đối thoại về Chúa quan phòng”. Nhưng có sự chia rẽ, Ngài đứng về phía Urbanô VI. Trong những bức thư đầy sinh lực, Ngài kêu gọi các vua Au châu vâng phục Đức giáo hòang. Bốn trăm bức thư và cuốn sách thánh nhân để lại là một kho tàng lớn lao trong các tác phẩm thiêng liêng.

Giữa các hoạt động rực rỡ trên, thánh Cartarina đã phải chịu những đau đớn vô danh. Chúng ta biết rằng: từ Chúa nhật thứ IV mùa chay năm 1375, Ngài đã được in năm dấu thánh. Dấu chỉ lộ rõ sau khi Ngài qua đời.

Một chiều tháng giêng năm 1380, thánh nhân đã ngã bệnh trong khi đọc một lá thơ viết cho đức giáo hoàng Urbanô. Phục hồi một phần, nhưng Ngài vẫn sống trong một cơn hấp hối nhiệm màu, một chuộc chiến đấu với ma quỉ. Và Ngài ngã bệnh hôn mê lần thứ hai khi đang cầu nguyện tại đền thờ thánh Phêrô và qua đời ba tuần sau vào ngày 29 tháng 4 năm 1380.

Ngài được mai táng dưới chân bàn thờ dòng Đa Minh Santa Maria Sopra Minerva, nhưng đầu Ngài sau này được dời về Siena. Tám mươi mốt năm sau Ngài được phong thánh.

Ngày 04 tháng 10 năm 1970, đức Phaolô VI đã tôn phong Ngài vào hàng tiến sĩ Hội Thánh.

(Trích từ sách Theo Vết Chân Người, Dòng Đa Minh)

https://daminhtamhiep.net/2014/04/tieu-su-thanh-catarina-siena/

 

Thánh Catarina Siena: Vị Thánh của Thánh Thể

 

“Ôi Catarina, một Catarina ngọt ngào biết bao” là những gì mà tôi đã gọi tên vị thánh rất mạnh mẽ này. Thánh Nữ đã chiếm lấy trái tim tôi không giống bao nhiêu người khác.

Sinh tại Siena, nước Ý vào năm 1347, Catarina là con thứ 25 trong số 26 người con của hai ông bà Giacomo và Lapa di Benincasa. Nhiều anh chị em của Catarina, cả người chị sinh đôi, Giovanna, đã chết khi mới được vài tháng tuổi. Cha của Thánh Nữ là một thợ may quần áo, làm việc ở dưới tầng trệt của căn nhà lớn của gia đình cùng với những người làm công sống ở tầng trên.

Lúc 6 tuổi, Catarina bắt đầu nhận được nhiều ơn huyền bí và khi Catarina mới chỉ 12 tuổi, Thánh Nữ đã đoan hứa giữ khiết tịnh với Đấng Yêu Dấu là Chúa Giêsu. Khi người chị của Catarina là Bonaventura chết khi sinh con, và cô bé Catarina lúc đó 16 tuổi đã cảm thấy rất khó chịu, buồn bực về kế hoạch của cha mẹ khi cho Catarina kết hôn với quan phụ của Bonaventura, do vậy, Catarina đã cắt luôn mái tóc của mình và ăn chay liên tục. Cha mẹ của Catarina đã gửi Thánh Nữ đến gặp người anh họ mà họ yêu mến nhưng, lại không biết về cha mẹ của Catarina, chính người anh họ này lại cảm thông với mong ước của Catarina chỉ thuộc về một mình Chúa Giêsu, và là người đã khuyên Catarina cắt đi mái tóc của mình như là một dấu chỉ của tình yêu mà Catarina dành cho Chúa Giê su vì hành động này sẽ là điều cho thấy Catarina không mong muốn nhận lời của người nam nào trong những ngày này.

Catarina đã trở thành một phần tử của Dòng Ba Đa Minh sau khi đã hai lần bị từ chối và nhận những chữ đầu của T.O.S.D sau tên của ngài. Sau một thời gian gần ba năm sống trong phòng ngủ như là một “tập viện” ( không phải là tập viện của Catarina dành cho tu sĩ Đa Minh nhưng là một sự đào tạo huấn luyện cá nhân), Thánh Nữ đã được Thiên Chúa sai vào trong thế giới để làm điều tốt lành. Thánh Catarina được biết đến vì sự cống hiến thật lớn lao cho việc chăm sóc người đau bịnh- Catarina sinh ra trong thời điểm Châu Âu đang xảy ra bệnh dịch lớn- Thánh Nữ sẽ đi vào các nhà, bệnh viện và chăm sóc những bệnh nhân, điều mà người khác không làm được. Catarina đã lau rửa những vết thương ghê tởm của bệnh nhân và băng bó lại. Khi những bệnh nhân qua đời, Catarina đã tự tay chôn cất họ.

Tuy nhiên, quà tặng lớn nhất của Catarina nằm ở khả năng của Thánh Nữ về việc dạy và thuyết giảng về đức tin và tình yêu của Thánh Nữ về Bí tích Thánh Thể. Trong thời của Catarina, việc lãnh nhận Thánh Thể hằng ngày là điều không thường xuyên- nếu có, phải có phép và hầu như là đều không được lãnh nhận Thánh Thể mỗi ngày. Tuy nhiên, Catarina đã lãnh nhận được rất nhiều ơn sủng huyền bí trong Bí tích Thánh Thể - điều rất đỗi tuyệt vời là tình yêu sâu xa của Catarina dành cho Chúa Giê su trong Bí tich Thánh Thể. Những thị kiến và những lần xuất thần thường kéo dài quảng 3-4 tiếng đồng hồ lúc Rước Lễ…mà nhiều linh mục đã chứng thực về điều này. Thực vậy, linh mục giải tội, hướng dẫn thiêng liêng cho Catarina, là Cha Raymond Capua kể về người phụ nữ thánh thiện và mạnh mẽ này trong tiểu sử viết về Catarina mà Cha Raymond Capua đã viết:

“Đức Thánh Cha Greory XI…để làm toại nguyện sự khát khao của Catarina, đã ban một Sắc Chỉ cho phép Catarina có một linh mục để sắp đặt và giải gỡ cho Catarina và cho Catarina rước lễ và cũng có một bàn thờ di dộng, đến nỗi Catarina có thể nghe Thánh lễ và Rước lễ ở bất cứ khi nào, chỗ nào mà Thánh Catarina thích”. (Capua, the Life of St. Catherine of Siena – Đời sống của Thánh Catarina Siena, tr.284)

Thêm nữa…

“Với khoảng thời gian bảy năm trước khi chết, Thánh Catarina Siena đã không ăn uống gì, ngoại trừ Rước Lễ. Tuy nhiên, việc ăn chay này không ảnh hưởng gì đến sức lực Thực tế là, hầu hết các ý định, thành công lớn lao của Thánh Catarina đã diễn ra trong suốt khoảng thời gian bảy năm này. Ăn chay không làm mất đi năng lượng nơi Catarina, nhưng lại trở nên một nguồn sức mạnh lạ kỳ, Thánh nữ trở nên mạnh khỏe vào buổi chiều, sau khi đã Rước Lễ, đón nhận Chúa chúng ta trong Bí tích Thánh Thể của Ngài.

Tình yêu mãnh liệt của Catarina vào Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể đã làm cho Thánh Nữ đi đến với người nghèo, đặc biệt là những người rất đau ốm và chăm sóc họ như Catarina đã làm. Đây không phải là linh đạo Thánh Thể mà Mẹ Têrêsa Calcutta đã sống- đến nỗi mà Mẹ Teresa đã có thể nâng những người sắp chết từ những khu máng xối của ổ chuột, đưa họ về đến những phòng khám của Mẹ và chăm sóc học cho đến khi họ có thể khá hơn hay chết với phẩm giá của họ? Tình yêu và sự dâng hiến cho Chúa Giêsu nơi Thánh Thể đã làm nên điều đó. Các ngài đã mang lấy những lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthêu 25,40 “Bất cứ điều gì anh em làm cho những người anh em bé nhỏ nhất của Ta là các ngươi đã làm cho chính Ta”.

Trong cuốn Đối Thoại, Chúa Giê su nói với Catarina hai điều về tình yêu dành cho người thân cận:

“Họ yêu mến người anh em của họ với cùng một tình yêu mà họ đã yêu mến Ta” – Đối thoại 60

“Linh hồn, ngay khi biết Ta, đã tìm kiếm để yêu những người thân cận”. Đối thoại 89

Thánh Catarina Siena: Vị Thánh của Thánh ThểNhưng chính trái tim của Chúa Ki tô đã chạm đến Catarina cách sâu xa nhất. Catarina đã có một sự hiến dâng mạnh mẽ cho Trái Tim của Chúa Giêsu- vết thương ở cạnh sườn Ngài. Thánh Nữ đã từng khao khát để được uống lấy cách thiêng liêng các ân sủng đã tuôn trào cách nhưng không từ cạnh sườn Ngài, như một đứa trẻ bú lấy giòng sữa từ người mẹ và Catarina đã lấy những hình ảnh này như một nguồn suối nuôi dưỡng và làm tăng sự hiến dâng của Catarina dành cho Chúa Giêsu.

Trong cuốn Bí mật của Trái Tim ( The Secreat of the Heart)- Một Nghiên Cứu Thần Học cvề những Lời Dạy của Catarina Siena về Trái Tim Chúa Giêsu, là Sr. Mary Jeremiah, O.P - tác giả của cuốn sách- đã nói “ Mặc dù Catarina Siena đã sống trong thế kỷ 14, nhưng lời dạy của Thánh Nữ vẫn còn liên hệ đến ngày hôm nay”. Chính Thánh nữ đã viết một lá thư cho một tu sĩ nói rõ rằng trái tim của Chúa Ki tô là “ một kho mở rộng, chất chứa đầy những chất đậm đà với một sự giàu có phong nhiêu của lòng thương xót ban tặng Ân Sủng.” (trang 97)

Chúng ta được kêu mời sống với Bí tích Rửa tội để yêu người khác với trái tim của Chúa Ki tô, Đấng đã nói “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Gioan 13, 34-35). Chúng ta sẽ chẳng yêu người khác bằng một tình yêu đủ ấm áp được, nhưng vì Chúa Giêsu đã yêu chúng ta một cách vô điều kiện và dám chết vì yêu chúng ta. Yêu tha nhân không chỉ là có tình cảm với họ. Thánh Catarina và tất cả các vị thánh lớn lao đã mang lấy lệnh truyền của Chúa Ki tô để đi về phía trước và làm vì những người khác, và thường là dám chấp nhận rủi ro về mạng sống của mình. Khi Catarina tình nguyện chăm sóc một người phụ nữ có tên là Tecca, bị bệnh phong cùi đang chữa trị tại bệnh viện địa phương, Mẹ của Catarina là bà Lapa đã rất lo lắng vì lo sợ con gái mình sẽ bị nhiễm căn bệnh gớm ghiếc đó.

Đúng như vậy, bàn tay của Catarina đã bị phơi nhiễm bệnh phong, nhưng vì yêu người phụ nữ này (thường không có một trái tim biết ơn với sự chăm sóc của Catarina với mình) đã không làm cho người trinh nữ Catarina ngừng chăm sóc, phục vụ Tecca. Khi Tecca chết, chính Catarina đã tắm xác và mặc quần áo cho thân thể đầy dẫy những vết lở loét của bệnh cùi, chuẩn bị mọi sự để chôn cất, đặt thi thể người phụ nữ này cách dịu dàng, âu yếm trong chiếc quan tài, đọc kinh cầu nguyện và tự tay đóng quan tài lại. Ngay khi đó, đôi bàn tay của Catarina đã được chữa khỏi cách kỳ diệu, lạ lùng, và đôi bàn tay nhìn trẻ trung hơn trước. Đó là tình yêu và niềm tin vào Thiên Chúa mà các thánh đã có.

Tình yêu của chúng ta dành cho Chúa Giê su trong những người khác, thân cận, là những gì đưa chúng ta lên Trời. Trong Lời Nguyện Thánh Thể II của Phụng vụ khẩn nài Thiên Chúa đưa chúng ta đến “sự tràn đầy của lòng bác ái” vì đó là nơi trời ở đó. Trong thư gửi tín hữu Rôma 12,1, Thánh Phao lô đã khẩn nài chúng ta “hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động”. Đó là những gì mà Thánh Catarina đã làm khi Thánh Nữ đã khóc ra bên ngoài khi cầu nguyện “Ôi lạy Thiên Chúa Hằng Hữu, xin hãy đón nhận lễ hy sinh cuộc đời con cho Thân Thể Mầu Nhiệm của Giáo Hội Thánh của Ngài”. Theo Thánh Justin- Tử đạo, trong cuốn Dialog With Trypho the Jew của mình, Thánh Justin nói rằng, khi chúng ta được rửa tội “là chúng ta trở thành dân Israel đích thực bắt nguồn từ Chúa Kitô , vì chúng ta được tạo thành từ Trái Tim của Ngài như là từ tảng đá”.

Các ân sủng từ phép rửa phải được nuôi dưỡng thường xuyên nhất với Bí tích Thánh Thể- Thân Thể - Máu - Linh Hồn- Thần Tính Thực, cùng với việc tiếp nhận thường xuyên Bí tích hòa Giải và có thời gian Chầu Thánh Thể, chiêm ngắm Đấng yêu thương chúng ta. Chúng ta được kêu gọi để mang niềm hy vọng đến cho những người ở giữa chúng ta, với những người mà xã hội con họ là những người bị phong cùi về tinh thần, không chỉ là bằng lời nói nhưng còn là bằng hành động của chúng ta nữa.

Chúng ta hãy đứng dậy, và “đi ra khỏi đây” (Gioan 14,31); chúng ta hãy “thức dậy từ giấc ngủ của chúng ta” (Rma 13,11) để làm những điều tốt đẹp mà chúng ta có thể làm cho những người bị thế giới này khinh bỉ và cho những người “không đáng kể” 1Cr 1,28). Chúng ta hãy cầu nguyện, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Catarina Siena, đấng đã ìm thấy nhiều niềm vui trong sứ mạng phục vụ vì người nghèo hơn là trong tất cả những trạng thái ngây ngất trên thiên đàng, những thị kiến, những phép lạ và những hiện tượng bí nhiệm khác để làm Chúa Giê su hài lòng. Chúng ta hãy bày tỏ tình yêu của chúng ta với Chúa và cầu xin Người dùng chúng ta theo thánh ý và mục đích của Ngài dành cho người nghèo, và cho những người đã làm tổn thương chúng ta.

 

Tác giả: Cynthia Trainque

Chuyển ngữ: Nt. Teresa Ngọc Lễ, O.P

Nguồn: https://catholicexchange.com

http://daminhthanhtam.org/dong-da-minh/linh-dao85561335/thanh-catarina-siena--vi-thanh-cua-thanh-the.html

 






THỨ BẢY SAU CHÚA NHẬT II PHỤC SINH

 

 

Bài Ðọc I: Cv 6, 1-7

"Họ chọn bảy người đầy Thánh Thần".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên Mười Hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: "Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa". Cả đoàn thể đều tán thành lời các ngài và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna và Nicôla quê ở Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay trên các vị đó. Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 1-2. 4-5. 18-19

Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa (c. 22).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa, ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. - Ðáp.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.

3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 19, 28

Alleluia, alleluia! - Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian; bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng Cha. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 6, 16-21

"Họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ. Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh. Khi chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: "Chính Thầy đây, đừng sợ". Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới.

Ðó là lời Chúa.







Cảm Nghiệm

Chủ đề "Thày là sự sống" của ngày Thứ Bảy trong Tuần II Phục Sinh về khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua việc Chúa Giêsu đi trên biển đến với các tông đồ đang sang bên kia bờ và bị sóng gió trong đêm tối, một hành động Người làm để củng cố đức tin cho các vị, để từ từ các vị được Người tái sinh thần linh, thành phần mà, sau khi Người sống lại từ cõi chết và lên trời, còn được rửa trong Thánh Linh nữa, như trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy, chỉ "chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa" là những gì chính yếu trong sứ vụ và thừa tác vụ mục tử của các vị.

Bài Đọc I (Tông Vụ 6:1-7):

"Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên Mười Hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: 'Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa'. Cả đoàn thể đều tán thành lời các ngài và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna và Nicôla quê ở Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay trên các vị đó. Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin".

Phúc Âm (Gioan 6:16-21):

"Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ. Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh. Khi chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: 'Chính Thầy đây, đừng sợ'. Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới".
Trong bài phúc âm hôm nay, chúng ta thấy hoàn toàn hợp với đời sống đức tin tu đức của Kitô giáo chúng ta nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng:
Trước hết, sự kiện "trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ" quả thực là tình trạng mỗi khi vắng bóng Thiên Chúa, nhất là khi chúng ta tìm kiếm Ngài mà chẳng thấy Ngài đâu, ngược lại Ngài lại tự ẩn mặt đi hay cố ý khuất dạng khỏi cảm giác hay lý trí của chúng ta, chúng ta cảm thấy lẻ loi cô độc và sợ hãi.

Sau nữa, sự kiện "bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh" là sự kiện lưỡng diện cho thấy, trước hết, đối với nạn nhân trong cuộc thì thật là bất hạnh và nguy hiểm, mà thường bao giờ không có Chúa, như ở trong tối tăm đức tin thì thế nào cũng gặp "ma", gặp thử thách và cám dỗ, tuy nhiên, đối với chính Đấng muốn tỏ mình ra thì đó lại là sự kiện báo trước việc Ngài sắp xuất hiện, như các hiện tượng thiên nhiên (sấm xét. chớp sáng, động đất, lửa cháy v.v.) trước mỗi cuộc thần hiển của Thiên Chúa trong hành trình về Đất Hứa của Dân Do Thái. Bởi thế, ngay sau sự kiện "bỗng cuồng phong nổi lên, biển động mạnh" thì "Chúa Giêsu đi trên mặt biển tiến lại gần thuyền". 

Sau hết, sự kiện "họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới" cho thấy, một khi có sự hiện diện của Chúa thì mọi sự trôi chảy và linh hồn cảm thấy tiến nhanh trên đường nhân đức, nhất là sau mỗi lần thắng vượt được th thách, nhờ đó đức tin càng mạnh và đời sống siêu nhiên càng tăng trưởng lạ lùng ngoài sức tự nhiên cố gắng trước đó mãi mà hầu như vẫn dậm chân tại chỗ.

Xin xem thêm: Phụng Vụ Lời Chúa - Những Nét Chính Yếu của Mùa Phục Sinh trong Sách Tông Đồ Công Vụ

 

 

 

Thánh PIÔ V Giáo Hoàng (1504-1572) - Ngày 30/4 Thứ Bảy

 

PivsV.jpg

 

 

(1504 -1572)

"Những gì không thuộc về Thánh giá Chúa Kitô sẽ không làm cho chúng ta được vinh hiển". Đó là lời thánh Giáo Hoàng Piô V đã tuyên bố sau 60 năm tận tụy phụng sự Thiên Chúa, Giáo hội và phần rỗi nhân loại. Lời đó nhắc lại cho chúng ta giá trị đời đau khổ mà Chúa đã thánh hóa bằng Thập giá, nhưng đồng thời cũng tóm tắt đầy đủ đời sống thánh thiện của chính thánh nhân.

Thánh Giáo Hoàng Piô V tên thật là Micae Ghislieri. Ngài sinh ngày 17-01-1504 tại Bosco, một làng nhỏ xinh xinh thuộc địa phận Tortona và không xa thành Alexanđria. Đầu tiên cha mẹ ngài rất giầu sang và có thế lực, nhưng dần dần gia cảnh bị sa sút, ông bà phải tần tảo lắm mới nuôi nổi đàn con đông đúc. Cũng vì thế, Micae vừa lớn lên đã phải đi chăn chiên. Sau ba năm sống lặn lội với đoàn chiên, năm 1517, Micae được cha mẹ cho đi trường học. Còn gì hạnh phúc cho cậu hơn. Cậu coi đó là hồng ân Chúa quan phòng. Vì thế cậu sống ngoan ngoãn với các vị giáo sư, cần mẫn học tập và cố gắng thực hiện bác ái. Lợi dụng những giờ nhàn rỗi, Micae một mình vào nhà thờ cầu nguyện. Chính trong những giờ phút vắn vỏi nhưng quý báu này mà Micae đã được nghe tiếng Chúa gọi sống đời tận hiến. Năm 1518, Micae xin nhập dòng thánh Đaminh, và năm sau được nhận lời khấn trọng thể tại tu viện Vigevanô.

Nhận rõ trí khôn thông minh và nhất là khiếu đặc biệt về khoa thần học của thầy Micae, các bề trên quyết định cho thầy theo học tại đại học Bologne. Mãn học, thầy Micae chịu chức linh mục và được cử giữ chức giáo sư suốt 15 năm. Ngài làm việc tận tụy và gây được nhiều ảnh hưởng nhờ ở đời sống thánh thiện và trí óc uyên thâm. Ngài giữ luật từng chi tiết nhỏ, tuyệt đối vâng phục bề trên và thân mật với mọi anh em. Vì thế đời sống ngài sáng chói nhân đức "vâng lời và bác ái". Hơn thế, cha Micae còn nổi tiếng là một chiến sĩ Phúc âm. Ngài không quản ngại dùng hết trí lực bênh vực chân lý Giáo hội, chống lại với nhiều tà giáo, nhiều bè rối...

Năm 1551, Đức Giáo Hoàng Giuliô III cử ngài làm việc ở Bộ thánh vụ, đến đời Đức Giáo Hoàng Phaolô IV, thì ngài chính thức được thăng làm Bộ trưởng Bộ Thánh vụ. Tiếp đó ngài được Đức Giáo Hoàng tấn phong Giám mục thành Sutri và Nêpi hai địa phận gần Rôma. Hai năm sau, ngài được cử làm Hồng y.

Địa vị cao sang đó không làm giảm đời sống khắc khổ của thánh nhân. Tuy là Hồng y nhưng ngài ăn mặc rất nghèo khó, từ chối mọi phần của cải cha mẹ chia cho. Dưới triều Đức Piô IV, ngài bỏ Rôma đi kinh lược các địa phận với mục đích cảnh tỉnh tinh thần tông đồ của hàng giáo sĩ và kêu gọi sự hợp nhất của giáo dân. Nhờ cuộc kinh lược lâu dài này, Đức Hồng y đã thu được nhiều tài liệu đem trình bày tại công đồng Triđentinộ Đời sống thánh thiện và nhiệt thành làm việc của Đức Hồng y đã khiến cho mọi người phải chú ý. Họ nhìn ngài với một thầm đoán: "Ngài sẽ làm Giáo Hoàng". Dự đoán ấy đã được Chúa Quan phòng chấp nhận và thể hiện. Ngày 07-01-1566, Đức Hồng y đã đắc cử làm Giáo Hoàng với danh hiệu là Piô V.

Lên ngôi Giáo Hoàng, Đức Piô V để ý ngay đến việc thánh hoá hàng giáo sĩ. Ngài khuyến cáo những vị dù là Hồng y, Giám mục hay Linh mục thiếu tinh thần khó nghèo và chí nguyện tông đồ. Trái lại, ngài khích lệ và nâng đỡ những vị tỏ ra nhiệt thành trong việc vun xới vườn nho Thiên Chúa. Ngài rất khiêm tốn, nhưng cũng rất cương quyết. Hoạt động của Đức Thánh Cha không phải chỉ thu hẹp trong khu Vatican hay trong phạm vi truyền đạo. Nhưng Ngài đã khéo dùng quyền Chúa ban và địa vị của Giáo hội để đem hoà bình cho nhiều chính phủ, nhiều dân tộc, nhiều tổ chức. Ngài đã bận tâm không ít về chiến tranh của người Hồi giáo, đến những phương thế đưa người Do Thái về với đức tin, mặc dầu họ có thái độ kiêu căng. Đức Piô V làm việc như quên mệt, ngài hội kiến với các vị Hồng y ngay từ sáng sớm. Những khi rỗi việc, thay vì đi du ngoạn, Đức Thánh Cha kiên nhẫn ngồi nghe những lời tâm sự của đám dân nghèo. Người ta còn phải cảm phục biết bao khi thấy mỗi chiều thứ năm hằng tuần Ngài rửa chân cho 12 người nghèo và hôn kính họ, không kể chi những ung nhọt thối tha. Ngài đã cho lập hội "Nhân ái" tại Flôrencia với mục đích giúp đỡ và bênh vực những người tù tội, nô lệ, và bị oan ức. Ít lâu sau, Đức Giáo Hoàng lại truyền cho các thầy dòng thánh Gioan Thiên Chúa xây một bệnh viện tại Rôma. Công việc thành tựu, Đức Thánh Cha đến khánh thành và hàng tuần đến yên ủi các bệnh nhân. Ngoài ra Đức Thánh Cha còn trích nhiều số tiền với mục đích xây cất nhà thương và thể hiện những chương trình từ thiện khác. Đi đôi với những hoạt động bác ái, Đức Piô V còn lưu ý cách riêng đời sống thánh thiện của giáo dân. Ngài đã phát động nhiều phong trào ăn chay đền tội trong toàn Giáo hội. Và đó là phương thế Đức Thánh Cha muốn cho mọi người tín hữu cộng tác vào việc đương đầu với bè rối, nhất là các giáo phái thệ phản. Dựa vào quyền thế các Hoàng đế thiếu đức tin, các giáo phái này mỗi ngày một lan rộng và đàn áp giáo hữu tại Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Pháp, và đặc biệt tại hai nước Anh và Đức.

Đồng thời Đức Thánh Cha ra nhiều sắc lệnh ngăn cản trào lưu tư tưởng ngoại giáo tràn vào các đại học công giáo. Ngài săn sóc cách riêng các đại học Đức quốc. Chính Đức Thánh Cha khuyến khích tu sĩ Carnutô tên là Laurensô Suriô (Lauent Surius) tiếp tục nghiên cứu và viết về "đời sống các thánh Tông phụ" nhằm mục đích ngăn ngừa những luận điệu xuyên tạc của bè rối về tiểu sử các vị thánh. Năm 1576 Đức Piô V cũng ban bố sắc lệnh Ex omnibus affictionibus lên án 80 luận đề sai lạc của nhiều giáo sư đại học Louvain đã quá thiên về tư tưởng ngoại giáo, và thệ phản. Cũng với ý chí sắt đá ấy, Đức Piô V đã bảo vệ đức tin cho giới trí thức và sinh viên tại nước Thụy Sĩ, Đan Mạch, Hoà Lan, và Thụy Điển...

Ngay trong năm đầu triều đại của Ngài (1566), Đức Piô V đã phải đương đầu với nhiều cuộc xâm lấn của hồi giáo. Thời ấy, quân hồi hồi nổi lên đánh phá khắp nơi. Người công giáo phải trải qua những ngày loạn ly khổ cực. Là người cha, Đức Giáo Hoàng không thể cầm lòng thấy đoàn con tan tác vì đức tin. Vì thế, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi nhiều vương tước trung thành với đức tin dùng thế lực Chúa ban mà bênh vực Giáo hội. Đó là bước đầu cho phong trào "Đạo binh Thánh giá". Nhưng dầu sao đó chỉ là những phương tiện tùy tòng; đường lối hoạt động chính của Đức Thánh Cha vẫn là đời sống chay tịnh và cầu nguyện. Lời Quận công Soliman làm chứng điều đó: "Tôi sợ những lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha hơn là đoàn quân hùng hậu của Hoàng đế". Phải, chính nhờ sự hợp lực của toàn giáo dân về cả sức tự nhiên và siêu nhiên ấy, Đức Thánh Cha đã giữ vững con thuyền Giáo hội qua bao cơn giông tố và Nghĩa binh Thánh giá đã chiến thắng ở nhiều nơi. Đến nỗi nhiều cuộc thắng trận đã được coi như những phép lạ. Người ta kể: quãng năm giờ chiều ngày 7-10-1571, khi Đức Thánh Cha đang tiếp kiến các vị Giáo chủ, các Quận công thành Bussotti, bỗng nhiên cảm động nhìn qua cửa sổ hướng về miền đông, rồi Ngài quay lại, mặt sáng lên, Ngài nói với các vị: "Chúng ta không còn phải bận tâm nhiều nữa, nhưng chúng ta hãy đi cảm ơn Chúa, vì đạo binh công giáo vừa toàn thắng, kết thúc mọi phá hoại của quân thù". Từ chiều hôm đó, niềm hân hoan tràn ngập lòng mọi người tín hữu.

Cũng chính thời này, lòng thành kính của thánh Piô V đối với Đức Trinh Nữ Maria nổi bật đến tột điểm. Ngài đã sống và làm việc cho Giáo Hội dưới sự phù trợ của Đức Mẹ. Cuộc toàn thắng của nghĩa binh Thánh giá tại hải cảng Lêpangtê xứ Hy lạp được Ngài coi là do quyền phép của Đức Mẹ. Vì thế để ghi ơn Đức Mẹ, Ngài đã truyền thêm vào kinh cầu Đức Mẹ lời: "Đức Bà phù hộ các giáo hữu, cầu cho chúng con". Hơn thế, Ngài còn lập một lễ kính Đức Mẹ vào ngày 7-10 hằng năm với danh hiệu "Lễ Đức Mẹ Toàn Thắng". Lễ này được sửa đổi nhiều lần dưới nhiều triều Giáo Hoàng. Sau cùng Đức Piô VII định vào ngày 24-5 và đổi tên là "Lễ Kính Đức Bà phù hộ các giáo hữu". Còn ngày 7-10 dành kính Đức Mẹ mân Côi.

Nhưng để việc thánh hóa Giáo hội và bảo toàn đức tin được bền vững, Đức Piô V hết sức lưu tâm đến việc hướng dẫn và đào tạo hàng giáo sĩ. Ngài rất thận trọng trong việc cắt cử các vị Giám mục và truyền chức thánh cho các đại chủng sinh. Ngài dùng mọi phương thế giúp họ sống theo tinh thần kỷ luật và bác ái của Phúc âm. Nhưng nhất là Ngài có công nhiều trong Công đồng Triđentinô về việc sửa đổi lễ nghi phụng vụ, sách nguyện cho các linh mục, nhất là việc truyền giáo tại cả Đông Phương (Orient) và Tây Phương (Occident). Ngài lại chủ trương: các đại chủng sinh trước khi chịu chức linh mục phải qua nhiều năm thần học. Chính Ngài làm lễ tuyên phong Thánh Tôma (Thomas) làm tiến sĩ Giáo hội và buộc tất cả chủng sinh phải học khoa thần học của Thánh sư. Viết về những hoạt động và công việc cải cách của Đức Piô V một tác giả kinh nghiệm đã bày tỏ như sau: "Đường lối phục hưng của Đức Thánh Cha đã đưa lại nhiều kết quả tốt đẹp về đức tin, lòng đạo đức và cả về văn hoá, mỹ thuật. Ít có thời đại sung mãn sự thánh thiện như thời Đức Piô V".

Vì quá bận tâm với công việc, Đức Piô V như quên cơn bệnh đang phá hoại sinh lực; Ngài bị chứng sốt kinh niên ngay từ năm 1569. Dầu vậy Ngài vẫn yên lặng chịu bệnh và cứ hăng hái làm việc. Cuối năm 1571 cơn bệnh trở nên trầm trọng và Đức Thánh Cha phải nằm liệt giường. Biết ngày giờ đã gần đến, Đức Thánh Cha Piô V dọn mình sốt sắng và can đảm chịu bệnh hầu phụng sự Giáo hội cách hoàn hảo hơn. Suốt ngày đêm Ngài ôm chặt cây Thánh giá trên ngực và thầm thĩ với Chúa: "Lạy Chúa, xin thêm đau khổ cho con, xin giúp con nhẫn nại theo gương Chúa, xin cho con luôn nhớ rằng chỉ có những cái gì thuộc về Thánh giá Chúa mới làm cho con được vinh hiển".

Sứ mệnh trần gian đã hết, ngày 1-5-1572, Ngài được Chúa gọi về trời.

Xác Ngài được táng trọng thể tại thánh đường Đức Bà Cả (Sainte Marie Majeur). Năm 1671 Đức Giáo Hoàng Clêmentê X cất Ngài lên bậc Chân phước và năm 1710 Ngài lại được Đức Giáo Hoàng Clêmentê XI truy phong bậc Hiển thánh và định lễ kính Ngài hằng năm.

Lạy thánh Piô, người Chúa đã chọn để áp đảo quân thù của Giáo hội và để tu bổ việc tôn thờ Thiên Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Ngài trung thành phụng thờ Chúa, để chúng con thắng được mọi mưu mô quân thù và được hưởng phúc thanh nhàn đời đời.

http://giaophanvinhlong.net/thanh-pio-v-giao-hoang.html

 

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Đức Piô V là vị Giáo Hoàng có công Canh Tân Hội Thánh Công Giáo; ngài cương quyết thực hiện thành quả của Công Đồng Triđentinô trong suốt nhiệm kỳ Giáo Hoàng ngắn ngủi của mình (1566 –1572). Ngài được mừng lễ vào hôm trước ngày người qua đời, nhằm ngày 1 tháng 5 năm 1572.

Michele Ghislieri sinh ra từ một gia đình nghèo nàn, gần Alexandrie, thuộc vùng Píemont vào năm 1504. Ngài vào Dòng Đa Minh lúc mười bốn tuổi, sau đó được thụ phong linh mục, dạy triết học và thần học. Với tính cách của một tu sĩ nhiệt thành và nghiệm nhặt, ngài hoạt động trong các tòa án thẩm tra của Rôma cho đến khi trở thành Tổng Ủy Viên năm 1550. Sau khi được Đức Giáo Hoàng Phaolô IV phong làm Hồng Y và bổ nhiệm làm Tổng Thẩm Tra viên của các nước Kitô giáo, ngài quan tâm bảo vệ đức tin không suy chuyển.

Năm 1566, Michele Ghislieri được mọi người nhất trí bầu làm Giáo Hoàng. Trong sáu năm làm Giáo Hoàng, Đức Piô V miệt mài canh tân Hội Thánh – khởi đầu từ giáo triều Rôma – và quyết tâm thực thi cụ thể các nghị quyết về mục vụ của Công Đồng Triđentinô, với sự hỗ trợ của vị Hồng Y trẻ Charles Borromée, sau này cũng được phong thánh. Như thế vào thời ấy đã xuất hiện các sách như: Giáo lý Rôma (1566), ấn bản mới của bộ Sách Nguyện Rôma (1568) và bộ Sách Lễ (1570). Các tác phẩm của thánh Tôma Aquinô – được tôn làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1567 – cũng được tái bản toàn bộ.

Nhờ dựa vào cuộc thẩm tra, Đức Piô V cũng đấu tranh chống sức bành trướng của đạo Tin lành tại Ý và Tây Ban Nha. Về phần nước Anh, ngài ủng hộ Marie Stuart mà phạt vạ tuyệt thông cùng chủ trương hạ bệ nữ hoàng Élisabeth (1570). Song việc này chỉ khiến cho tình cảnh của những người Công Giáo trong vương quốc này càng thêm éo le hơn.

Vì lo âu trước tai họa người Thổ Nhĩ Kỳ đang gieo rắc cho Kitô giáo ở Tây Phương, nên Đức Piô V – trong một Châu Âu bị phân hóa – đã cũng với Venise và Tây Ban Nha, thành lập một Liên minh Kitô-giáo. Từ đó, dưới sự chỉ huy của Don Juan d’Autriche, hạm đội liên quân đã thắng trận Lépante (ngày 7 tháng 10 năm 1571), khiến hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ của Ali Pacha thoát chạy tán loạn. Nhân chiến công hiển hách đó đã làm nức lòng giới Kitô giáo đồng thời chấm dứt huyền thoại về đế quốc Ottoman bất bại, Đức PiôV thành lập ngày lễ Đức Bà Toàn Thắng (hay Đức Bà mân Côi).

Vì thế, vị Giáo Hoàng của công cuộc Canh Tân Hội Thánh Công giáo cũng là vị thánh của chuỗi Mân Côi. Đặc biệt ngài cũng là người cổ vũ việc lần hạt qua sắc chỉ Consueverunt (1569). Sắc chỉ này giải thích và phần nào xác định hình thức truyền thống của chuỗi Mân Côi (xem thông điệp Marialis cultus, số 42).

Hôm trước ngày người qua đời, Đức Piô V nói với các Hồng Y qui tụ quanh mình: “Ta gửi gắm cho chư vị Hội Thánh mà ta rất yêu mến. Xin chư vị hãy bầu cho Ta một người kế vị nhiệt thành; vị đó chỉ lo tôn vinh Thiên Chúa và không mưu cầu điều gì khác dưới trần thế này ngoài vinh dự của Tòa thánh và lợi ích cho các nước theo Kitô giáo”.

2. Thông điệp và tính thời sự

a. Lời nguyện riêng gợi lại những công đức to lớn của Đức Piô V. Ngài đã cương quyết bảo vệ đức tin Công giáo và đã quan tâm “canh tân Phụng Vụ”.

Khi được bầu làm Giáo Hoàng vào một giai đoạn mà các nước theo Kitô giáo càng ngày càng bị phân hóa và cần có ngay một cuộc canh tân đích thực trong các lĩnh vực tín lý, Phụng Vụ và luân lý, thì ngài đã nhiệt thành dấn thân cải cách và cho phổ biến một tác phẩm quan trọng: Sách nguyện và Sách Lễ Rôma, cùng giáo lý Công đồng Triđentinô. Ngài nói: “Tâm hồn, sức lực và mọi ý tưởng của chúng ta đều phải hướng về mục đích này: đó là gìn giữ tinh ròng nền Phụng Vụ đã được Hội Thánh cử hành”.

Ngay cả trong lĩnh vực giáo luật, Đức Piô V còn ban hành nhiều luật lệ chống lại việc mại thánh và hủ hóa cũng như giám sát việc tuyển chọn các giám mục.

b. Lời chú giải của thánh Augustinô ở phần Kinh Sách, nhắc lại vai trò của Phêrô và của những người “đấu tranh đến hy sinh mạng sống vì chân lý đức tin”. “Phêrô nghĩa là toàn thể Hội Thánh ở trần thế này đang bị rung chuyển bởi muôn vàn thử thách, song không sụp đổ bởi vì được xây dựng trên đá tảng”. Chính khi noi theo Phêrô mà chúng ta đến gần được tảng Đá sống động, bị loài người vứt bỏ song được Thiên Chúa tuyển chọn. Vì thế, cả chúng ta nữa, chúng ta sẽ trở nên những viên đá sống động của tòa nhà, nơi đó Chúa tìm được niềm vui và vinh quang của Người (xem Xướng - Đáp).

Enzo Lodi

https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/30-04-thanh-pio-v-giao-hoang-1504-1572-le-nho-tuy-chon/

 

Thánh Giáo Hoàng Piô V gia nhập Dòng Đa Minh năm 14 tuổi. Ngài là người sống rất kỉ luật và đam mê học hỏi. Chính vì lẽ đó, Ý Chúa nhiệm mầu đã muốn đặt ngài làm Giáo Hoàng để trở nên “con chó của Thiên Chúa”. Nhờ đó, ngài có thể dùng tiếng gầm của mình để chống lại cuộc li khai của Tin Lành và những người Thổ theo Hồi Giáo đang muốn thống trị Giáo Hội và nền văn minh Phương Tây. Là một Giáo Hoàng canh tân, ngài nhiệt tâm chỉnh đốn lối sống buông thả của giới tu sĩ và những bại hoại luân lý trong hàng giáo phẩm. Ngài có vai trò rất lớn trong việc thực thi thành công các sắc lệnh của công đồng Trentô và chuẩn hóa Phụng Vụ. Mặc dù rất bận rộn với vai trò là người đại diện Chúa Kitô, ngài vẫn cống hiến đắc lực cho Dòng Đa Minh và luôn mặc tu phục màu trắng Đa Minh nơi phẩm phục giáo hoàng. Theo hầu hết các sử gia, thánh Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập một tiền lệ cho những vị kế nhiệm là mặc áo chùng trắng như một phẩm phục giáo hoàng.

Lòng Sùng Kính Đức Maria

Với khát khao chuẩn hóa Phụng Vụ, ngài cho duyệt lại Phụng Vụ Các Giờ Kinh vào năm 1568. Như một phần cần duyệt lại, ngài đã đưa bản hoàn tất Kinh Kính Mừng (đã được sử dụng trong các bản kinh nhật tụng khác) vào Kinh Nhật Tụng phổ quát cho cả Giáo Hội La Mã. Như vậy, hành động này đã chính thức công bố bản Kinh Kính Mừng đầy đủ - bản kinh mà ngày nay chúng ta đang sử dụng- như một thể thức được chuẩn y một cách phổ quát. Bản Kinh Kính Mừng đầy đủ này không phải xuất phát trong triều đại giáo hoàng của Đức Piô V, bởi vì nó đã được sử dụng từ thế kỉ thứ 14. Nhờ danh tiếng và uy tín của mình, ngài đã thiết lập Kinh Kính Mừng như một quy chuẩn phổ quát.

Nhắm đối phó với cuộc chống đối của Tin Lành, thánh Giáo Hoàng Piô V đã cho phát hành Sách Giáo Lý Công Đồng Trento. Tập sách này bao gồm những giáo huấn chính thức của Hội Thánh về Đức Trinh Nữ Maria. Là người bạn thân thiết của thánh Carôlô Borromeo, hồng y và là giám mục thành Milan, thánh Giáo Hoàng Piô V đánh giá rất cao những nỗ lực của thánh Borromeo nhằm bảo vệ Kinh Mân Côi chống lại phái Tin Lành. Thánh Giáo Hoàng đặc biệt ủng hộ thánh Carôlô khi ngài tận lực bảo vệ Giáo Hội bằng cách nhấn mạnh vai trò thiết yếu của Đức Trinh Nữ Maria trong cuộc đời Đức Kitô và trong Giáo Hội. Thánh Piô V đã được an táng trong ngôi thánh đường lớn nhất của Giáo Hội Công Giáo được cung hiến cho Đức Maria. Đó là Vương cung Thánh đường Đức Bà Cả ở Roma.

Chiến Sĩ Kinh Mân Côi

Thánh Piô V là một trong những vị chiến sĩ vĩ đại nhất trên cương vị giáo hoàng về Kinh Mân Côi. Ngài đã viết hai văn kiện đặc biệt về Kinh Mân Côi. Thánh nhân quảng bá Kinh Mân Côi như một phương tiện giúp chế ngự quân Hồi Giáo, và đã thiết lập thánh lễ tôn vinh Kinh Mân Côi. Văn kiện đầu tiên được ngài ban hành vào ngày 17 tháng 11 năm 1569 có tựa đề là Consueverunt Romani Pontifices. Đi theo với việc ca ngợi Kinh Mân Côi, tông thư này bao hàm nhiều phát biểu khẳng định truyền thống đạo đức và khuyến khích lần hạt Mân Côi thường xuyên, đặc biệt là để chống lại những đe dọa đang diễn ra từ các tín đồ Hồi Giáo.

Trước âm mưu xâm lược của những người Thổ Ottoman (Hồi Giáo), thánh Giáo Hoàng Piô V đã thành lập một Liên Hiệp Thánh. Đây là một lực lượng quân đội nhằm phản kháng trước thế lực hùng mạnh của Hồi Giáo. Nhận thấy sức mạnh của Kinh Mân Côi, ngài chủ đích thiết lập Liên Hiệp này trong ngày lễ kính Thánh Đa Minh. Trong nỗ lực chiến đấu với quân Hồi Giáo, ngài kêu mời tất cả các Kitô hữu toàn cầu, đặc biệt là ở Ý, hãy quy tụ và cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi ngõ hầu có thể đánh bại quân Hồi Giáo. Chính ngài cũng tụ họp mọi người ở Rôma, ngay trong ngôi thánh đường Santa Maria Sopra Minerva thuộc dòng Đa Minh, để cùng nhau đọc Kinh Mân Côi cầu nguyện cho ý chỉ này. Những lời cầu nguyện sốt sắng của ngài và của mọi người đã được Thiên Chúa toàn năng nhậm lời. Theo ghi chép lịch sử kể lại, trước khi tin tức loan đến Rôma cho biết quân Hồi Giáo đã bị đánh bại trong trận chiến Lepanto, thì thánh Giáo Hoàng Piô V đã nhận được một thị kiến là nhìn thấy Đức Mẹ, và ngài biết chắc rằng trận chiến đã thắng là nhờ vào Liên Hiệp Thánh này.

Nhằm bày tỏ lòng biết ơn về chiến thắng ở Lepanto, và xác tín rằng chiến thắng là nhờ vào chiến dịch lần hạt Mân Côi mà mình đã khởi xướng, thánh Giáo Hoàng đã ban hành văn kiện thứ 2 về Kinh Mân Côi Salvatoris Domini vào ngày 15 tháng 3 năm 1572. Trong văn kiện này, ngài chỉ thị phải thiết lập một thánh lễ vào ngày 7 tháng 10 hằng năm nhằm tưởng niệm biến cố chiến thắng quân Hồi Giáo. Ngày lễ này được mang một cái tên thích hợp là Đức Mẹ Chiến Thắng. Cũng trong văn kiện này, để công nhận vai trò đặc biệt của Kinh Mân Côi trong cuộc chiến ở Lepanto, ngài cũng thiết lập Chúa Nhật Mân Côi. Thánh lễ này được cử hành hằng năm vào Chúa Nhật đầu tiên trong tháng Mười. Tất cả những ai tham dự thánh lễ đều được lãnh nhận một ơn toàn xá. Ngài cũng ban ơn toàn xá cho bất cứ ai đã tham gia vào Hội Mân Côi.

Trích từ Donald H. Calloway, MIC,
Champions of the Rosary, Marian Press, 2016

https://ttmv.de/song-dao/guong-thanh-nhan/4247-30-04-thanh-giao-hoang-pio-v-1504-1572