SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa Tuần X Thường Niên Năm C Chẵn

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG NĂM 2022

(xin bấm vào hàng chữ trên đây để đọc PVLC kèm theo chia sẻ)

 

 

 

Chúa Nhật X Thường Niên

(nếu không trùng với Lễ Hiện Xuống như Năm 2022)

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: St 3,9-15

"Ta sẽ gây mối thù giữa dòng giống mi và dòng giống người đàn bà".

Trích sách Sáng thế.

Sau khi con người ăn trái cây biết lành biết dữ, Ðức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: "Ngươi ở đâu?" Con người thưa: "Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẫn trốn". Ðức Chúa là Thiên Chúa hỏi: "Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?" Con người thưa: "Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn". Ðức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: "Ngươi đã làm gì thế?" Người đàn bà thưa: "Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn". Ðức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn:

"Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất

trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú.

Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,

giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;

dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 129, 1-2.3-4.5-6a.6b-8

Ðáp: Chúa luôn luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa. (c. 7bc)

Xướng: 1) Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. - Ðáp.

2) Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài. - Ðáp.

3) Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông. - Ðáp.

4) Hơn lính canh mong đợi hừng đông, trông cậy Chúa đi, Ítraen hỡi, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa. Chính Người sẽ cứu chuộc Ítraen cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2Cr 4,13 - 5,1

"Chúng tôi tin, nên chúng tôi mới nói".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Thưa anh em, có được cùng một lòng tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói. Quả thật, chúng tôi biết rằng: Ðấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy, cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em. Thật vậy, tất cả những điều ấy xảy ra là vì anh em. Như thế, ân sủng càng dồi dào, thì càng có đông người hơn dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người.

Cho nên chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn.

Quả thật, chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 12,31b-32

Alleluia, alleluia! - Chúa nói: Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3,20-35

"Xatan đã tận số".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Ðức Giêsu và các môn đệ trở về nhà, và đám đông lại kéo đến, nên Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.

Còn các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám, và người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ. Ðức Giêsu liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: "Xatan làm sao trừ Xatan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy Xatan mà chống Xatan, Xatan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai có thể vào nhà kẻ mạnh mà cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó.

"Tôi bảo thật các ông: mọi tội lỗi và lời phạm thượng, dù nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng sẽ được tha cho con cái loài người. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ đã nói: "Ông ấy bị thần ô uế ám".

Mẹ và anh em Ðức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!" Nhưng Người đáp lại: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?" Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: "Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi".

Ðó là lời Chúa.

 

Cảm Nghiệm Lời Chúa

 

Phụng niên của Giáo Hội bao gồm 2 giai đoạn của Mùa Thường Niên hay cũng gọi là Mùa Quanh Năm, giai đoạn đầu sau Mùa Giáng Sinh và giai đoạn cuối sau Mùa Phục Sinh. Giai đoạn Mùa Thường Niên sau Mùa Giáng Sinh chỉ kéo dài nhất là 9 tuần lễ, và ngắn nhất là 5 tuần lễ. Tuần 10 Thưòng Niên, đối với năm nào có giai đoàn Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh dài 8 hay 9 tuần, là tuần kể như bắt đầu giai đoạn Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh. Mà giai đoạn Mùa Thường Niên nào cũng thế, cũng liên hệ với Mùa Phụng Vụ ngay trước đó, với Mùa Giáng Sinh hay với Mùa Phục Sinh. Nếu giai đoạn Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh liên quan đến Mùa Giáng Sinh, ở chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), thì giai đoạn Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh cũng liên quan đến Mùa Phục Sinh, ở chủ đề: "Tôi đến cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn" (Gioan 10:10).

 

Như thế, sự sống ngay từ ban đầu của loài người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh thần linh và tương tự thần linh (xem Khởi Nguyên 1:26-27) dù là sự sống thần linh đấy, vì bấy giờ con người đang ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, đang được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa phải là "sự sống viên mãn", một "sự sống viên mãn" tràn đầy Thánh Linh chỉ được thông ban cho loài người tạo vật qua Con Một của Ngài mà thôi. Bởi vậy, ngay sau khi hai nguyên tổ vừa sa ngã phạm tội mất lòng Thiên Chúa Hóa Công của mình, Thiên Chúa dường như đã chộp ngay lấy cơ hội ấy để hứa ban cho họ "sự sống viên mãn" này, nơi Đấng được Ngài hứa ngay trong bản án nguyên tội được Bài Đọc I hôm nay ghi lại: "Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó".

 

Trong bản án nguyên tội này bao gồm lời hứa cứu chuộc, lời hứa ban cho loài người được "sự sống và là sự sống viên mãn" hơn như thế, Thiên Chúa như thể đáp ứng ước vọng sâu xa của con người muốn nên giống như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 3:5), tức muốn được "sự sống và là sự sống viên mãn" như Ngài và với Ngài, nhưng con người đã sử dụng phương cách để đạt được mục đích ấy không đúng, bằng cách tự động muốn hái trái cấm mà ăn, thay vì hái trái cây sự sống. Đúng thế, "sự sống viên mãn" chỉ có ở nơi Thiên Chúa và do Thiên Chúa ban mới được. Bởi thế, sau khi thấy được ước vọng của con người muốn nên giống như Ngài, Ngài đã hứa ban chính bản thân Ngài là Con Một của Ngài, là "sự sống viên mãn" của Ngài cho họ.

 

Tuy nhiên, "sự sống viên mãn" chỉ được ban cho con người nói chung và Giáo Hội nói riêng chỉ sau khi Chúa Kitô từ trong kẻ chết sống lại mà thôi, khi "Người thở hơi trên các môn đệ mà phán 'các con hãy nhận lấy Thánh Linh'" (Gioan 20:22), nhất là sau khi Người thăng thiên về cùng Cha và từ Cha sai Thánh Thần xuống trên các tông đồ (xem Gioan 15:26) vào Ngày Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem (xem Tông Vụ 2:1-4;1:8), nhờ đó, các tông đồ đã thông ban "sự sống viên mãn" của mình ra qua việc các ngài, điển hình nhất là trường hợp tông đồ Phêrô được sai đến nhà của viên đại đội trưởng Corneliô ở Cesarea để rao giảng và làm phép rửa (xem Tông Vụ 10:44-48).

 

Bởi thế, chẳng lạ gì, vì chưa được "sự sống viên mãn" nên hai nguyên tổ sa ngã phạm tội thế nào, thì một khi Chúa Kitô chưa Phục Sinh, chính các môn đệ nói chung và cả thành phần tông đồ thân tín nhất của Người "tất cả đã bỏ Người mà tẩu thoát" (Marco 14:50), khi Người bị bắt điệu đi từ Vườn Cây Dầu vào Đêm Thứ Năm Tuần Thánh, thậm chí người môn đệ lãnh đạo tông đồ đoàn cũng trắng trợn chối bỏ Người 3 lần đúng như Người đã tiên báo (xem Marco 14:27-31). Nếu các tông đồ của Chúa Kitô còn như thế thì cũng chẳng lạ gì thái độ lạ đời nơi "thân nhân của Người", và thái độ quái gở như lộng ngôn phạm đến Thánh Linh của thành phần "kinh sư từ Giêrusalem xuống", vì họ "nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám, và người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ".

 

Là "chân dung thương xót - misericordiae vultus" của Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu, Chúa Giêsu chẳng những không tỏ ra giận dữ trước những lời lộng ngôn phạm thượng quá sức của họ như thế, những lời như thể cho Người bị quỉ ám, trái lại, Người vẫn bình tĩnh, nhẫn nại và nhịn nhục, tìm cách làm cho họ thấy được chính cái sai lầm của họ, ngay ở nơi lập luận mâu thuẫn của họ, nhờ đó mà họ có thể nhận biết Người hơn: "Ðức Giêsu liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: 'Xatan làm sao trừ Xatan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy Xatan mà chống Xatan, Xatan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số'".

 

Trong cùng Bài Phúc Âm hôm nay, về phần tích cực, Chúa Giêsu cũng chỉ cách để được "sự sống viên mãn" của Người và với Người, như Người Mẹ đầy ơn phúc của Người, đó là: "Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi". Ngoài Mẹ của Người ra, còn một con người nữa có thể nói là tiêu biểu cho thành phần có được "sự sống viên mãn" này, đó là vị Tông Đồ Dân Ngoại, vị mà trong Bài Đọc 2 hôm nay đã tràn đầy Thánh Thần đến độ hết sức phấn khởi trong việc bày tỏ tất cả lòng tin tưởng của mình ra để có thể loan báo và khuyến dụ tín hữu Cộng Đoàn Corinto trong Thư Thứ 2 gửi họ rằng:

 

"Quả thật, chúng tôi biết rằng: Ðấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy, cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em.... Cho nên chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn".

 

Tuy nhiên, vì "sự sống viên mãn" là của Chúa và do Chúa ban cho, nên dù con người Kitô hữu chưa có được "sự sống viên mãn" như Thánh Phaolô, vị dám nói rằng "tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Galata 2:20), một khi họ thực lòng thống hối ăn năn, nhận biết mình và nhận biết Chúa, và hết sức khao khát nhân đức trọn lành thì chắc chắn họ sẽ được no đủ vậy (xem Mathêu 5:7), bằng cách họ hoàn toàn tin tưởng trông cậy vào Chúa, thì Chúa sẽ trở thành tất cả của họ, thành "sự sống viên mãn" của họ, ở tầm mức xứng với họ, đúng như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay: 

 

1) Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu.

2) Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài.

3) Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông.

4) Hơn lính canh mong đợi hừng đông, trông cậy Chúa đi, Ítraen hỡi, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa. Chính Người sẽ cứu chuộc Ítraen cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn.  

 

 

Thứ Hai Tuần X - Mùa Thường Niên

 

Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

 

Tước hiệu Mẹ Hội Thánh được dành cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a vì chính Mẹ đã sinh hạ Đức Ki-tô là Đầu của Hội Thánh và trước khi Con lòng Mẹ trút hơi thở trên thập giá, Mẹ trở nên Hiền Mẫu của những kẻ được cứu chuộc. Đức Phao-lô VI đã long trọng xác nhận danh hiệu này trong diễn từ đọc trước các nghị phụ Công Đồng Va-ti-ca-nô II ngày 21-11-1964, và quyết định : “Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa.”

 

Sắc Lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích về việc cử hành trong lịch chung Rôma lễ kính nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh

 

Ngày 03 tháng 03 năm 2018, Toà thánh đã công bố Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích - ký ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Ðức Mẹ Lộ Ðức - về việc cử hành trong lịch chung Rôma lễ kính nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, và cử hành hằng năm vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, theo lịch chung của Giáo Hội.

Sau đây là bản dịch Việt ngữ toàn văn Sắc lệnh, cùng bản văn phụng vụ với các bài đọc, và bài đọc II Giờ Kinh Sách của lễ này; bản dịch tiếng Việt của Uỷ ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.

* * *

Trong Hội Thánh hiện nay, việc hân hoan dâng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa, dưới ánh sáng của những suy tư về mầu nhiệm Chúa Kitô và về bản tính của chính Hội Thánh, luôn phải nhắc đến hình ảnh của một người nữ (x. Gl 4,4): Ðức Trinh nữ Maria, Ðấng vừa là Mẹ của Chúa Kitô vừa là Mẹ của Hội Thánh.

Ðiều này đã được khơi lên trong suy tư của Hội Thánh từ những gợi ý của thánh Augustinô và thánh Lêô Cả. Theo thánh Augustinô, Ðức Maria là mẹ của các chi thể Chúa Kitô, vì Mẹ đã yêu thương cộng tác vào việc tái sinh các tín hữu trong Hội Thánh; theo thánh Lêô, khi Ðầu được sinh ra thì toàn thân thể cũng được sinh ra, vì thế Ðức Maria vừa là mẹ của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, vừa là mẹ của các chi thể trong nhiệm thể Người chính là Hội Thánh. Ðây là những khẳng định liên quan đến tư cách Thánh Mẫu của Ðức Maria và sự kết hợp mật thiết của Mẹ với công trình của Ðấng Cứu thế, đạt đến cao điểm trong giờ hy tế thập giá.

Bên chân thập giá (x. Ga 19,25), Mẹ đã đón nhận lời trối đầy yêu thương của Chúa Giêsu Con Mẹ, và nơi người môn đệ được Chúa sủng ái, Mẹ đã tiếp nhận mọi người như những người con phải được tái sinh vào đời sống thần linh, và như thế, Mẹ đã trở nên người mẹ từ ái của Hội Thánh đã được tác sinh trên Thánh giá khi Chúa Kitô trao ban Thần Khí. Trong khi đó, cũng nơi người môn đệ yêu dấu, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ thay mặt Người thể hiện tình yêu thương đối với Ðức Maria, Người trao gửi để họ đón nhận Mẹ trong tâm tình thảo hiếu kính yêu.

Như một người hướng dẫn tận tâm của Hội Thánh vừa được thiết lập, Ðức Maria bắt đầu sứ mạng làm mẹ khi hiện diện với các Tông đồ nơi phòng Tiệc ly, cùng cầu nguyện đợi chờ Chúa Thánh Thần (x. Cv 1,14). Trong tâm tình đó, suốt bao thế kỷ, nền đạo đức Kitô giáo đã tôn vinh Ðức Maria với những tước hiệu khác nhau, mang ý nghĩa tương tự nhau, chẳng hạn Mẹ các môn đệ, Mẹ các giáo hữu, Mẹ các tín hữu, Mẹ của tất cả những kẻ được tái sinh trong Chúa Kitô, và "Mẹ của Hội Thánh", tước hiệu này đã xuất hiện trong những tác phẩm của các tác giả tu đức cũng như trong các văn kiện Huấn quyền của Ðức Bênêđictô XIV và Lêô XIII.

Vào ngày 21 tháng 9 năm 1964, khi bế mạc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II, Ðức chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã dựa vào những yếu tố nói trên như cơ sở nền tảng để công bố Ðức Trinh Nữ Maria là "Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là Mẹ của toàn thể các Kitô hữu, giáo dân cũng như mục tử, những người vẫn gọi Mẹ là Mẹ vô cùng nhân ái", và Ðức Giáo hoàng xác lập việc "toàn thể đoàn dân Kitô giáo từ nay phải luôn gia tăng lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa dưới tước hiệu vô cùng dịu ngọt ấy".

Trong Năm Thánh Hòa giải 1975, Tòa Thánh đã biên soạn và đưa vào Sách Lễ Rôma bản văn lễ ngoại lịch kính Ðức Trinh Nữ Maria Mẹ Hội Thánh; tước hiệu này cũng được thêm vào Kinh cầu Ðức Mẹ (1980), một số bản văn khác cũng được phổ biến trong tập sách các lễ kính Ðức Trinh Nữ Maria (1986). Theo ý thỉnh nguyện, lễ này đã được phép ghi vào lịch riêng của một số quốc gia, giáo phận và hội dòng.

Ðức Giáo hoàng Phanxicô, sau khi thận trọng cân nhắc hiệu quả của việc sùng kính này có thể giúp nâng cao cảm thức làm mẹ của Hội Thánh, đồng thời cũng gia tăng lòng tôn kính Ðức Mẹ nơi các mục tử, tu sĩ và các tín hữu, đã quyết định đưa vào lịch chung của Hội Thánh Rôma, lễ nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, được cử hành hằng năm vào ngày thứ Hai sau lễ Hiện xuống.

Việc cử hành lễ này sẽ giúp chúng ta nhớ rằng, sự tăng trưởng của đời sống Kitô hữu phải luôn gắn kết với mầu nhiệm Thánh Giá, với hy tế của Chúa Kitô nơi bàn tiệc Thánh Thể cũng như với tâm tình hiến dâng của Ðức Trinh Nữ, Mẹ của Ðấng Cứu thế và của những người được cứu chuộc.

Lễ nhớ này phải được ghi trong lịch và sách phụng vụ để cử hành Thánh lễ và Phụng vụ Giờ kinh. Bản văn phụng vụ liên quan được phổ biến cùng với sắc lệnh này, và các bản dịch sẽ được công bố sau khi đã được các Hội Ðồng Giám Mục phê duyệt và Bộ Phụng Tự chuẩn nhận.

Tại những nơi đã được phép đặc biệt để cử hành lễ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, vào một ngày khác và với bậc lễ cao hơn, vẫn có thể tiếp tục cử hành như thế.

Bất chấp mọi điều trái nghịch.

Ban hành từ trụ sở Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích, ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Ðức Mẹ Lộ Ðức.

 

Hồng y Robert Sarah

Tổng trưởng

Tổng Giám mục Arthur Roche

Thư ký

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài đọc I St 3,9-15.20

"Mẹ của toàn thể chúng sinh"

Bài trích sách Sáng thế

Sau khi Ađam ăn trái cấm,

9 Chúa là Thiên Chúa đã gọi ông

và nói cùng ông rằng: "Ngươi ở đâu vậy?"

10 Ông thưa: "Con nghe tiếng Ngài trong vườn, nhưng con sợ hãi,

vì con trần truồng và con ẩn núp".

11 Chúa hỏi ông: "Ai đã cho ngươi biết ngươi đang trần truồng?

Có phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi ăn không?"

12 Ađam thưa: "Người phụ nữ mà Ngài đã cho làm bạn với con,

chính bà ấy đã cho con trái cây và con đã ăn".

13 Chúa là Thiên Chúa nói cùng người phụ nữ rằng:

"Tại sao ngươi làm điều đó?"

Người phụ nữ thưa: "Con rắn đã lừa dối con, và con đã ăn".

14 Chúa là Thiên Chúa phán cùng con rắn rằng: "Bởi vì mi đã làm điều đó,

mi là thứ bị chúc dữ giữa mọi súc vật và thú hoang!

Mi sẽ bò bằng bụng và sẽ ăn bụi đất suốt đời mi.

15 Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ,

giữa miêu duệ mi và miêu duệ Bà,

người miêu duệ này sẽ đạp đầu mi, còn mi sẽ cắn gót chân người".

20 Rồi Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh.

Ðó là Lời Chúa.

 

Hoặc: Cv 1,12-14

"Các Tông đồ đồng tâm kiên trì cầu nguyện cùng với Ðức Maria, mẹ của Chúa Giêsu"

Bài trích sách Công vụ Tông đồ

12 Sau khi Chúa Giêsu lên trời,

các Tông đồ rời núi Cây Dầu trở về Giêrusalem,

núi này ở gần Giêrusalem,

chỉ cách một quãng đường được đi trong ngày sabbat.

13 Sau khi trở về thành, các ông lên phòng trên lầu.

Hiện diện tại đây có các ông Phêrô, Gioan, Giacôbê, Anrê,

Philipphê, Tôma, Bartôlômêô, Matthêu, Giacôbê con ông Alphê,

Simon nhiệt thành, và Giuđa con ông Giacôbê.

14 Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện,

cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria, mẹ của Chúa Giêsu,

và các anh em Người.

Ðó là Lời Chúa.

 

Thánh vịnh đáp ca Tv 86 (87) 1-2.3 và 5.6-7

Ðáp: Hỡi thành đô của Thiên Chúa,

mọi người truyền tụng những điều hiển hách về thành.

 

1 Nền móng Sion được đặt trên núi thánh,

2 Chúa yêu chuộng cửa thành

hơn mọi nơi cư ngụ của nhà Giacob.

3 Hỡi thành đô của Thiên Chúa.

Mọi người truyền tụng những điều hiển hách về thành. - Ð.

 

5 Nói đến Sion, thiên hạ bảo:

"Tại đó, người người đã sinh ra,

chính Ðấng Tối Cao củng cố thành". - Ð.

 

6 Thiên Chúa ghi vào sổ bộ các dân:

"Kẻ này người nọ đã sinh ra tại đó",

7 và họ múa nhảy hát ca:

"Mọi nguồn mạch của tôi ở nơi thành". - Ð.

 

Alleluia

Kính chào Ðức Trinh Nữ diễm phúc, Mẹ đã hạ sinh Chúa Giêsu.

Kính chào Mẹ Hội Thánh, Mẹ là Ðấng giữ gìn trong chúng con

Thần Khí của Thánh Tử Giêsu Kitô

 

Tin Mừng Ga 19, 25-27

Này là Con Bà. Này là Mẹ con.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan

Khi ấy, 25 đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có mẹ Người,

cùng với chị mẹ Người là bà Maria, vợ ông Clêôpas và Maria Mađalêna.

26 Khi thấy mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu,

Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà".

27 Rồi Người nói với môn đệ: "Này là Mẹ con".

Và từ giờ đó môn đệ đã đón bà về nhà mình.

Ðó là Lời Chúa. 

 

Bài đọc 2

Đức Ma-ri-a, Mẹ Hội Thánh

Trích diễn từ của Đức Phao-lô VI, dịp kết thúc khoá III Công Đồng Va-ti-ca-nô II, ngày 21-11-1964.

Khi suy xét những mối tương quan liên kết chặt chẽ Đức Ma-ri-a với Hội Thánh, để tôn vinh Đức Thánh Trinh Nữ và để an ủi mọi người chúng ta, chúng tôi công bố : Đức Ma-ri-a rất thánh là Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là của toàn dân Ki-tô giáo, cả tín hữu lẫn mục tử, vốn gọi Người là Mẹ rất mực yêu thương, và chúng tôi quyết định rằng : Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa mà dâng lên Người những lời khẩn nguyện.

Chư huynh đáng kính, đây không phải là danh hiệu lạ lẫm đối với lòng đạo đức của các Ki-tô hữu, mà trái lại, các tín hữu Ki-tô và toàn thể Hội Thánh vẫn thích kêu cầu Đức Ma-ri-a bằng danh hiệu là Mẹ hơn các danh hiệu khác. Thật vậy, danh hiệu này dẫn đến lý do đích thực cho lòng sùng kính Đức Ma-ri-a, vì đặt nền vững chắc trên chính phẩm tước đã được ban cho Đức Ma-ri-a là Mẹ của Ngôi Lời Nhập thể.

Vì, cũng như thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa làm cho Đức Ma-ri-a có những tương quan hết sức đặc biệt với Đức Ki-tô và làm cho Mẹ hiện diện trong công trình cứu độ loài người do Đức Ki-tô Giê-su thực hiện, thì cùng một cách ấy, những tương quan giữa Đức Ma-ri-a và Hội Thánh cũng đặc biệt phát sinh từ thiên chức làm Mẹ, bởi lẽ Đức Ma-ri-a là Mẹ Đức Ki-tô, Đấng ngay khi nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng đồng trinh của Mẹ, đã lập tức liên kết thân mình mầu nhiệm của Người là Hội Thánh với bản thân Đấng là Đầu. Vậy Đức Ma-ri-a, với tư cách là Mẹ Đức Ki-tô, cũng phải được xem là Mẹ của mọi tín hữu và mọi mục tử, tức là của Hội Thánh.

Bởi thế, chúng ta có lý do để, dù bất xứng, dù yếu hèn, cứ lấy tinh thần đức tin và tình yêu con thảo mà đưa mắt sốt sắng nhìn lên Mẹ. Xưa kia Mẹ đã trao ban cho chúng ta Đức Giê-su là nguồn suối ân sủng từ trời, thì nay Mẹ không thể không đem lại cho Hội Thánh sự phù trợ từ mẫu của Mẹ, nhất là khi Hiền Thê của Đức Ki-tô đang hăng say nhiệt thành và nỗ lực chu toàn trọng trách mang ơn cứu độ cho mọi người.

Niềm tín thác này, chúng ta được khuyên dạy hãy bền lòng hơn nữa mà dưỡng nuôi và củng cố cho vững vàng, vì giữa Mẹ chúng ta trên trời với loài người vẫn có những mối ràng buộc hết sức chặt chẽ. Mặc dầu được Thiên Chúa ban dư đầy những hồng ân rất trọng đại và tuyệt vời để nên Thân Mẫu xứng đáng của Ngôi Lời Nhập Thể, Mẹ vẫn rất gần gũi chúng ta. Mẹ là nữ tử của A-đam như chúng ta và do đó cũng là chị em với chúng ta vì cùng chung bản tính loài người. Thực ra, Mẹ được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ nhờ công trạng sau này của Đức Ki-tô ; nhưng ngoài các ơn Chúa ban, Mẹ còn nêu gương đức tin hoàn hảo khiến Tin Mừng ca tụng : “Bà thật có phúc vì đã tin”.

Trong cuộc đời phải chết này, khi diễn tả mẫu người môn đệ hoàn hảo của Đức Ki-tô, Mẹ đã nêu gương mọi nhân đức và đã hoạ lại đầy đủ các mối phúc Đức Ki-tô rao giảng. Vì thế, khi quãng diễn sức sống thiên hình vạn trạng và đầy năng động nhiệt thành của mình, toàn thể Hội Thánh nhận Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa làm mẫu gương tuyệt vời mà bắt chước Đức Ki-tô cách hoàn hảo.

Xướng đápx. Lc 1,35

XThánh Thần ngự xuống trên Đức Ma-ri-a :

ĐQuyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên Bà.

XNhờ liên kết với cuộc Thương Khó của con mình, Bà được đầy tràn Thánh Thần để trở nên Mẹ những kẻ được cứu chuộc.

ĐQuyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên Bà.

Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, khi chịu đóng đinh trên thập giá, Con Một Chúa đã muốn Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, thân mẫu Người, làm Mẹ chúng con ; xin cho Hội Thánh Chúa đang ngày một thêm đông, nhờ tình thương Mẹ hiền nâng đỡ, được vui mừng vì đoàn con thánh thiện và vì lôi cuốn muôn dân về với mình. Chúng con cầu xin

 

Thứ Hai

(Nếu không trùng với Lễ Mẹ Giáo Hội như năm 2022 này)

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 17, 1-6

"Êlia đứng trước tôn nhan Chúa, Thiên Chúa Israel".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Êlia người Thesbê thuộc miền Galaad, tâu vua Acáp rằng: "Có Chúa là Ðấng hằng sống, Thiên Chúa dân Israel, mà tôi đứng trước tôn nhan! Trong những năm sắp tới, sẽ không có sương mà cũng không có mưa, nếu tôi không ra lệnh". Và Chúa đã phán cùng Êlia như sau: "Ngươi hãy bỏ nơi này, đi về hướng đông và ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Nơi đây ngươi sẽ uống nước suối, và Ta đã truyền cho chim quạ nuôi ngươi". Vậy ông trẩy đi và làm như lời Chúa dạy. Ông đến ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Sáng sớm quạ đem cho ông bánh và thịt; ban chiều quạ cũng lại đem cho ông bánh và thịt, và ông uống nước suối.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 120, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8

Ðáp: Ơn phù trợ của tôi do nơi danh Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời (c. 2).

Xướng: 1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ của tôi do nơi danh Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời. - Ðáp.

2) Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té, Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say. - Ðáp.

3) Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm. - Ðáp.

4) Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến, Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi, khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 1-12

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".

"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy".

Ðó là lời Chúa. 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Sự sống chiếu tỏa

 

Suy Niệm


Hôm nay, Tuần X Thường Niên, theo phụng vụ cho ngày thường trong tuần, dù chu kỳ phụng niên thuộc năm lẻ hay năm chẵn (giành cho chỉ bài đọc 1), bắt đầu sang Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, sau 9 tuần lễ đầu theo Phúc Âm của Thánh ký Marco. 

 

Và đoạn Phúc Âm đầu tiên của Phúc Âm Thánh kỳ Mathêu được Giáo Hội chọn đọc để tiếp nối các bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho 9 tuần lễ đầu của Mùa Thường Niên đó là đoạn về Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành trên núi của Chúa Giêsu huấn dụ các môn đệ của Người. 

 

Mối liên hệ giữa việc chuyển tiếp từ Phúc Âm Thánh ký Marco ở cuối đoạn 12 cho Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên sang Phúc Âm của Thánh ký Mathêu ở đoạn 5 cho Thứ Hai Tuần X Thường Niên thật là khít khao và tuyệt vời. Ở chỗ, trong bài Phúc Âm cuối cùng của Thánh ký Marco cho Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên trước, Chúa Giêsu vừa mới chỉ cho các tông đồ thấy gương sống trọn lành của bà góa 1 xu, thì trong bài Phúc Âm Thứ Hai bắt đầu của Thánh ký Mathêu (5:1-12) Tuần X Thường Niên này Người nói ngay với các tông đồ v Các Phúc Đức Trọn Lành.

 

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy".


Trong bài Phúc Âm về Phúc Đức Trọn Lành này, Thánh ký Mathêu đã mô tả một cảnh tượng rất thích hợp với nội dung của bài giảng Phúc Đức Trọn Lành ấy: "Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng...". 


Trước hết, về thời điểm, bài giảng này của Chúa Giêsu chỉ được Người thực hiện và chỉ xẩy ra vào lúc "khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi...", tức là vì dân chúng mà có bài giảng này, nhưng, ngay câu sau đó lại cho thấy lại bài giảng này giành riêng cho các tông đồ, nghĩa là giáo huấn của Người được truyền đạt từ cao (tấm mức tông đồ, Giáo Hội) xuống thấp (tầm mức dân chúng, giáo dân, cộng đồng)

 

Sau nữa, về địa điểm, bài giảng này được Chúa Giêsu giảng không phải là dưới thung lũng, hay ở đồng bằng, hoặc trong thành phố, hay ở trên thuyền ngoài bờ biển như các lần khác sau này, mà là ở trên "núi", một biểu hiệu cho ý nghĩa trọn lành, sống trổi vượt hơn thế gian, hơn phàm nhân; 

 

Sau hết, về tính cách, bài giảng này được Chúa Giêsu giảng một cách thân tình, ở tư thế "ngồi xuống" với thành phần "các môn đệ đến gần Người" để Người có thể dạy bảo các vị những gì giúp các vị "là ánh sáng thế gian" (5:14). Cử chỉ "ngồi" đây còn ám chỉ quyền giảng dạy của Chúa Giêsu nữa, một quyền giảng dạy được Người trao ban cho chung Tông Đồ Đoàn (xem Mathêu 18:18) và cho riêng Tông Đồ Phêrô (xem Mathêu 16:19), một quyền bính được Giáo Hội hằng năm tưởng kính nơi phụng vụ Lễ "Ngai Tòa Thánh Phêrô - Chair of Peter" vào ngày 22/2 hằng năm. 

 

Một chi tiết được Thánh ký Mathêu ghi nhận cũng cần lưu ý ở đây nữa là: "lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người", tức là thế giá và uy tín của Chúa Giêsu đã lôi kéo các môn đệ đến cùng Người, và chỉ có từ Chúa Kitô và bởi lằng nghe Chúa Kitô, thấm nhuần giáo huấn của Người, các tông đồ mới có thể trở thành chứng nhân tiên khởi của Người và cho Người sau này.  


Nếu căn cứ vào các chữ "phúc" ở đầu mỗi phúc thì có tất cả là 9 Phúc hơn là chỉ có 8 phúc. Và phúc nào cũng ngược đời hết. Ở chỗ, trong khi thế gian cho những 9 điều được Chúa Giêsu gọi là và cho là phúc thì họ cho là khốn, đặc biệt là 3 phúc đầu và 2 phúc cuối. Theo tu đức Kitô giáo vốn có 3 bậc hay 3 giai đoạn nên trọn lành thì 9 phúc được Chúa Giêsu liệt kê theo thứ tự trong bài Phúc Âm hôm nay, về ý nghĩa liên hệ của của chúng với nhau, có thể được ghép lại thành 3 phúc cho một giai đoạn hay một bậc nên trọn lành. Chẳng hạn, 3 phúc đầu (1-2-3) thuộc về bậc hay giai đoạn tu đức khởi sinh (từ bỏ), 3 phúc tiếp theo (4-5-6) thuộc về bậc hay giai đoạn tu đức tiến sinh (tập đức), và 3 phúc cuối cùng (7-8-9) thuộc về bậc hay giai đoạn tu đức hiệp sinh (nên một).


Cảm Nghiệm

 

Có thể nói hình ảnh một Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 cho năm chẵn hôm nay là một hình ảnh siêu thoát, sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian. Ở chỗ, trong khi thế gian bị hạn hán, một hình ảnh tiêu biểu cho khô cằn tàn úa và chết chóc bởi tội lỗi, sự dữ và gương mù gương xấu v.v., thì vị tiên trị sống ẩn khuất theo lời Chúa này lại được chính Ngài chăm sóc và dưỡng nuôi.

 

"Trong những ngày ấy, Êlia người Thesbê thuộc miền Galaad, tâu vua Acáp rằng: 'Có Chúa là Ðấng hằng sống, Thiên Chúa dân Israel, mà tôi đứng trước tôn nhan! Trong những năm sắp tới, sẽ không có sương mà cũng không có mưa, nếu tôi không ra lệnh'. Và Chúa đã phán cùng Êlia như sau: 'Ngươi hãy bỏ nơi này, đi về hướng đông và ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Nơi đây ngươi sẽ uống nước suối, và Ta đã truyền cho chim quạ nuôi ngươi'. Vậy ông trẩy đi và làm như lời Chúa dạy. Ông đến ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Sáng sớm quạ đem cho ông bánh và thịt; ban chiều quạ cũng lại đem cho ông bánh và thịt, và ông uống nước suối".

 

Đời sống bởi Chúa và trong Chúa của vị tiên tri này là một đời sống thật hạnh phúc. Đến độ, vị tiên tri này dường như có thẩm quyền và quyền năng gây ra hạn hán và mưa rơi tùy ý: "Có Chúa là Ðấng hằng sống, Thiên Chúa dân Israel, mà tôi đứng trước tôn nhan! Trong những năm sắp tới, sẽ không có sương mà cũng không có mưa, nếu tôi không ra lệnh".

 

Theo dự án thần linh của Thiên Chúa, quả thực ơn cứu chuộc của Người được Chúa Kitô thực hiện và ban phát cho chung toàn thể nhân loại, nhưng qua môi giới Giáo Hội của Người được Người thiết lập để làm bí tích và phương tiện cứu độ, đến độ, khi sống lại từ trong kẻ chết, vào tối ngày thứ nhất trong tuần, Người đã hiện ra với chung các môn đệ lần đầu tiên mà thở hơi trên họ và phán: "Các con hãy nhận lấy Thánh Linh. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại" (Gioan 20:21-22). 

 

Cuộc đời các vị thánh trong Giáo Hội cũng thế, dường như vận mệnh thế giới và của nhân loại đều nằm ở trong tay của các vị, như số phận của thành Sodoma và Gomorra lệ thuộc vào việc can thiệp của tổ phụ Abraham, hay số phần sống còn của dân Do Thái hai lần ở trong tay của Moisen vậy. Nghĩa là thế gian này hay nhân loại ở trong thế gian tối tăm chết chóc lệ thuộc vào một số linh hồn ưu tú sống đúng với bản chất của mình "là muối đất" và "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:13,14).

 

Và thành phần môn đệ của Chúa Kitô chỉ có thể sống đúng với bản chất "là muối đất" và "là ánh sáng thế gian" khi họ sống các phúc đức trọn lành được Chúa Giêsu giảng dạy riêng cho các vị trong bài giảng trên núi, bắt đầu từ bài Phúc Âm hôm nay. Họ là những tâm hồn luôn "ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao" để tìm kiếm Chúa, để nhận biết ý Chúa, để đáp ứng ý Chúa, để cậy trông vào Chúa, để Chúa có thể thực hiện tất cả mọi sự nơi họ và tỏ mình ra qua họ, theo tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay.

 

 

1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ của tôi do nơi danh Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời.

2) Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té, Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say.

3) Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm.

4) Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến, Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi, khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời.

 



Thứ Ba

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 17, 7-16

"Vò bột không cạn và bình dầu không giảm như lời Chúa đã dùng lời Êlia mà phán".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, giòng suối nơi Êlia ẩn náu đã cạn, vì trong xứ không mưa. Bấy giờ Thiên Chúa phán cùng Êlia rằng: "Hãy chỗi dậy, đi Sarephta thuộc miền Siđon và ở lại đó: Ta đã truyền cho một quả phụ nuôi dưỡng ngươi". Ông liền lên đường đi Sarephta. Khi ông đến trước cửa thành, ông thấy một quả phụ đang lượm củi; ông gọi bà và nói với bà rằng: "Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi uống". Ðương lúc bà đi lấy nước, ông gọi lại mà nói: "Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh". Bà thưa: "Có Chúa là Thiên Chúa hằng sống chứng giám: Tôi không có sẵn bánh, tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình. Này đây tôi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn, rồi chết thôi". Êlia trả lời bà rằng: "Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy, trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: "Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi, cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất". Bà đi làm theo lời ông Êlia; chính ông và bà cùng cả nhà đều đủ ăn; từ ngày đó, hũ bột không cạn và bình dầu không vơi, như lời Chúa đã dùng Êlia mà phán.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 4, 2-3. 4-5. 7-8

Ðáp: Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con (c. 7b).

Xướng: 1) Khi con cầu, nguyện Chúa nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã giải thoát con trong cơn khốn khó, nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu. Người quyền thế, các ông cứng lòng tới bao giờ nữa? Tại sao say đắm bả phù hoa và kiếm chuyện sai ngoa? - Ðáp.

2) Nên biết rằng Chúa biệt đãi thánh nhân Ngài, Chúa sẽ nghe tôi khi tôi cầu khẩn Chúa. Hãy run lên và thôi phạm tội, hãy hồi tâm nghĩ lại trên giường nằm, và hãy lặng thinh. - Ðáp.

3) Nhiều người nói: "Ai chỉ cho ta thấy điều thiện hảo?" Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con. Chúa đã gieo vào lòng con niềm vui, vui hơn tụi kia khi chúng tràn đầy lúa rượu. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 13-16

"Các con là sự sáng thế gian".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".

Ðó là lời Chúa. 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

sức sống nội tâm 

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần X Thường Niên hôm nay tiếp tục ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, một bài Phúc Âm về Các Phúc Đức Trọn Lành được Chúa Giêsu chỉ dạy riêng cho các môn đệ thân tín của Người, để các vị có thể "giảng dạy cho họ tất cả những gì Thày đã truyền dạy các con" (Mathêu 28:20), trước hết bằng đời sống chứng nhân của các vị, như "ánh sáng" chiếu tỏa trên "thế gian" này. 

 

Đúng thế, nội dung của những lời Chúa Giêsu tiếp tục dạy cho các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay (5:13-16) đã cho thấy rõ ý hướng của Người, như câu mở đầu của bài Phúc Âm hôm qua, tỏ lộ, ở chỗ Người dạy riêng cho các môn đệ nhưng nhắm đến lợi ích chung dân chúng và riêng đoàn chiên của các vị sau này: "Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng...".

 

Đó là lý do Người đã khẳng định với các môn đệ của Người rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".

 

Chúa Giêsu đã ví các môn đệ của Người như "muối đất" và như "ánh sáng thế gian". Tại sao Người không đề cập đến "ánh sáng thế gian" trước mà là "muối đất" trước. Phải chăng Người có ý nói đến 2 phương diện tối yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly của thành phần môn đệ được Người tuyển chọn, đó là phương diện nội tâm (cần phải có trước) và phương diện làm chứng (thành quả tất yếu đến sau)? 

 

Đúng vậy, nếu một người tông đồ mà không có đời sống nội tâm sâu xa mặn mà như "muối đất", trái lại, nội tâm của họ hết sức nông cạn, hời hợt, sống theo tình cảm, đầy ắp kiến thức suông, mang tâm tình tự phụ tự mãn v.v., chẳng kết hợp với Chúa Kitô và theo tác động thần linh của Chúa Thánh Thần, thì làm sao họ có thể có cùng một tâm tưởng của Chúa Kitô, có những lời nói sưởi ấm lòng người như Chúa Kitô, có những tác hành và phản ứng nhân ái yêu thương với Chúa Kitô, và vì thế họ không thể nào làm chứng cho Người theo đúng như ơn gọi và sứ vụ chuyên biệt trổi vượt cao cả của họ như "một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được nữa".

 

Chính vì ý thức được thâm sâu những gì Chúa Giêsu truyền dạy như thế mà Giáo Hội, qua Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962 - 8/12/1965), đã khẳng định về căn tính và sứ vụ chính yếu bất khả thiếu của mình là "Ánh Sáng Chư Dân - Lumen Gentium", nhan đề của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, một căn tính và sứ vụ chiếu soi muôn dân, sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô: "Tự bản chất, Giáo Hội lữ hành là truyền giáo" (Công Đồng Chung Vaticanô II - Sắc Lệnh 'Ad Gentes - Cho Chư Dân' về Việc Truyền Giáo của Giáo Hội - đoạn 2).

 

Cảm Nghiệm

 

Hai hình ảnh thứ tự "muối" trước và "ánh sáng" sau trong Bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến bản chất các môn đệ là thành phần theo Người có thể ám chỉ đức tin (muối) và đức mến (ánh sáng) là những gì bất khả thiếu và gắn liền với nhau. Ở chỗ, "đức tin hoạt động qua đức mến" (Galata 5:6). Không có đức tin không thể nào có đức mến, vì đức tin chiếu tỏa ánh sáng đức mến, hay ánh sáng đức tin (lumen fidei - nhan đề bức thông điệp đầu tay của ĐTC Phanxicô ban hành ngày 29/6/2013) chính là đức mến, là những việc làm bác ái yêu thương vậy. 

 

Bà góa dân ngoại trong Bài Đọc 1 hôm nay, nếu không có niềm tin tưởng mãnh liệt phi thường, bà đã không thể nào thực hiện một việc bác ái yêu thương với vị tiên tri của dân Do Thái, mà có thể bà chưa hề biết đến hay gặp gỡ bao giờ, ở chỗ bà đã dám liều lĩnh làm theo điều vị tiên tri này bảo bà làm, cho dù bà và người con trai duy nhất của bà có phải chết sớm hơn bởi bà bớt phần ăn của hai mẹ con bà cho vị tiên tri lạ mặt người dưng nước lã ấy, theo như lời ông yêu cầu.

 

Qua cử chỉ bác ái yêu thương đầy tin tưởng ấy của bà góa thành Sarephta, không thể phủ nhận là nơi bà góa này quả thực vừa có muối tin tưởng và ánh sáng yêu thương. Và chính vì lòng tin như muối của bà đã chẳng những làm cho từ bà chiếu tỏa ra ánh sáng đức tin là các việc bác ái yêu thương mà còn làm cho hai mẹ con bà thậm chí đã không trở thành hai thây ma thối rữa bởi chết đói như bao nhiêu người khác thuộc cùng một khu vực bị hạn hán trong một thời gian kéo dài lúc bấy giờ.

 

"Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con", câu Đáp Ca hôm nay quả thực đã ứng ngjiệm nơi cả Tiên Tri Elia và bà góa ở Sidon, vì cả hai đều có muối và ánh sáng, hai nhân vật tiêu biểu cho huấn dụ của Chúa Kitô với các môn đệ của Người, thành phần mà Người muốn họ phải "là muối đất" và "là ánh sáng thế gian": "muối đất" để thế gian khỏi hư thối bởi nội tâm nguyện cầu và đời sống khổ chế cùng khổ đau của họ, và "ánh sáng" để làm chứng cho thế gian để họ nhận biết Chúa Kitô "là đường, là sự thật và là sự sống" (Gioan 14:6).

 

Hiệp cùng Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa tâm nguyện sau đây:

 

1) Khi con cầu, nguyện Chúa nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã giải thoát con trong cơn khốn khó, nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu. Người quyền thế, các ông cứng lòng tới bao giờ nữa? Tại sao say đắm bả phù hoa và kiếm chuyện sai ngoa?

2) Nên biết rằng Chúa biệt đãi thánh nhân Ngài, Chúa sẽ nghe tôi khi tôi cầu khẩn Chúa. Hãy run lên và thôi phạm tội, hãy hồi tâm nghĩ lại trên giường nằm, và hãy lặng thinh.

3) Nhiều người nói: "Ai chỉ cho ta thấy điều thiện hảo?" Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con. Chúa đã gieo vào lòng con niềm vui, vui hơn tụi kia khi chúng tràn đầy lúa rượu.  

 


                                                                                                                                                                                                 Thứ Tư

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II)  1 V 18, 20-39

"Chớ gì dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa đã hoán cải lòng họ".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Vua Acáp sai người triệu tập toàn thể con cái Israel và nhóm họp các tiên tri trên núi Carmel.

Bấy giờ Êlia đến cùng toàn dân và tuyên bố rằng: "Các ngươi đi nước đôi cho đến khi nào? Nếu Chúa là Thiên Chúa, các ngươi hãy theo Người; nếu Baal là thiên chúa, thì hãy theo nó đi!" Dân chúng không thưa lại được lời nào. Êlia nói tiếp: "Chỉ còn tôi là tiên tri duy nhất của Chúa, mà tiên tri của Baal thì có đến bốn trăm năm mươi người. Hãy cho chúng tôi hai con bò đực; họ hãy chọn lấy một con cho họ, xẻ ra từng miếng đặt trên củi, nhưng đừng đốt lửa. Phần tôi, tôi làm thịt con bò kia, xếp trên củi và cũng không châm lửa. Ðoạn các ông hãy kêu cầu danh các thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh Chúa của tôi. Ðấng nào đáp lời cho lửa xuống đốt, thì Ðấng ấy là Thiên Chúa". Toàn dân đồng thanh đáp: "Ðề nghị hay đấy!"

Vậy Êlia nói với các tiên tri của Baal rằng: "Các ông hãy chọn lấy một con bò và làm thịt trước đi, vì các ông đông hơn, rồi hãy kêu cầu danh thần của các ông, nhưng đừng châm lửa". Họ liền bắt con bò người ta trao cho mà làm thịt. Họ kêu cầu danh Baal từ sáng đến trưa và nguyện rằng: "Lạy thần Baal, xin nghe lời chúng tôi!" Nhưng chẳng có tiếng đáp, cũng chẳng ai trả lời. Họ nhảy múa chung quanh bàn thờ họ đã dựng lên. Khi trời đã trưa, Êlia chế diễu họ rằng: "Hãy gào thét to hơn, vì Baal là một vị thần. Có khi Người đang là tính công chuyện hoặc đang bận việc, hoặc đi vắng, hay đang ngủ chăng, và sẽ thức dậy". Họ càng kêu lớn tiếng, lấy gươm giáo rạch mình theo tập tục họ, cho đến khi mình đầy máu me. Khi đã quá trưa, họ còn đọc thần chú đến giờ dâng lễ vật thường lệ, nhưng không có tiếng đáp, cũng chẳng có ai trả lời tỏ dấu lưu tâm đến.

Bấy giờ Êlia nói với toàn dân rằng: "Hãy lại gần tôi". Toàn dân liền đến gần bên ông. Ông dựng lại bàn thờ Chúa trước kia đã bị phá huỷ. Ông lấy mười hai hòn đá đúng theo số mười hai chi tộc con cái Giacóp, là kẻ đã được nghe lời Chúa phán như sau: "Ngươi sẽ gọi là Israel". Ông dùng các hòn đá ấy làm bàn thờ kính danh Chúa. Rồi ông đào một cái mương, rộng chừng hai đấu hạt giống, chung quanh bàn thờ; ông xếp củi, xẻ con bò ra từng miếng và đặt trên củi. Ðoạn ông nói: "Hãy múc đầy bốn hũ nước và đổ trên của lễ toàn thiêu và củi". Và họ làm như thế. Ông còn dạy: "Hãy làm như vậy một lần thứ hai". Khi người ta đã làm như ông dạy, ông lại ra lệnh: "Hãy làm như thế một lần thứ ba". Và họ làm lần nữa. Nước chảy chung quanh bàn thờ, mương đầy nước.

Khi đã đến giờ dâng của lễ toàn thiêu, tiên tri Êlia tiến ra cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, xin tỏ ra Chúa là Thiên Chúa của Israel và con là tôi tớ của Chúa, và chính vì tuân lệnh Chúa truyền mà con đã làm các việc này. Lạy Chúa, xin nhậm lời con, xin đoái nghe lời con, hầu cho dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa hoán cải lòng họ". Bấy giờ lửa Chúa giáng xuống thiêu đốt của lễ toàn thiêu, củi, đá và cả bụi đất, đồng thời cũng hút hết nước trong mương. Trông thấy thế, toàn dân kinh hãi sấp mặt xuống đất mà nói rằng: "Chúa là Thiên Chúa! Chúa là Thiên Chúa!"

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a. 4. 5 và 8. 11

Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).

Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể con. - Ðáp.

2) Thiên hạ tăng thêm nhiều nỗi đau thương của họ, họ là những kẻ chạy theo các thần tượng ngoại lai. Con sẽ không dâng lễ quán bằng máu của chúng, cũng không đọc tên chúng trên môi. - Ðáp.

3) Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ vận mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.

4) Chúa sẽ chỉ cho con đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 17-19

"Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

                                                                                                    Luật Thánh bất diệt

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư trong Tuần X Thường Niên, vẫn tiếp tục và theo sát bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia cả về đoạn 5 lẫn 3 câu tiếp ngay sau 2 bài Phúc Âm Thứ Hai và Thứ Ba đầu tuần.

 

Trong bài Phúc Âm này, Chúa Giêsu khẳng định 3 điều rất quan trọng, thứ tự như sau: 

 

1- Lề luật cần được Người kiện toàn hơn là hủy hoại: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn". Trong Đoạn 5 và 6 về Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi này đã làm sáng tỏ lời khẳng định này của Chúa Giêsu, khi Người thường dùng công thức: lề luật thì dạy cho chung Dân Do Thái một cách căn bản như thế này... còn Thày thì dạy cho các con sống trọn lành theo tinh thần của lề luật hơn thế nữa mới xác đáng và mới hoàn toàn.

 

2- Lề luật là những gì bất biến và vĩnh viễn: "Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành". Bởi vì, lề luật từ Thiên Chúa mà có, nên không bao giờ sai lầm, được Ngài ban bố cho dân Do Thái qua Moisen, để giúp cho dân của ngài sống xứng đáng với Ngài, sống vượt lên trên các dân tộc ngoại bang không nhận biết Chúa nên họ thờ tà thần và sống lăng loàn theo tự nhiên.

 

3- Lề luật là những gì cần phải tuân giữ và giảng dạy một cách chính xác: "Bởi vậy, ai hủy bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời". Chúa Giêsu đến là để làm lề luật của Cha Người ban bố cho dân Do Thái được nên trọn hảo hơn, để nhờ đó họ có thể sống phản ảnh "Cha trên trời là Đấng trọn lành" (5:48), và cũng nhờ đó ai càng tỉ mỉ tuân theo lời Người khuyên dạy càng nên giống Cha, tức càng "cao cả trong Nước Trời".

 

Cảm Nghiệm

 

Còn mang mầm mống nguyên tội và xu hướng về tự nhiên, luôn tìm kiếm đường rộng mà đi hơn là cứ cửa hẹp mà vào (xem Mathêu 7:13-14), nên cho dù con người có nhiều lúc cầu xin cho được biết đâu là ý Chúa mà theo nhưng tìm mãi không ra, bởi có những lúc họ thực sự biết được ý của Ngài rồi, như qua cha linh hướng hay bị lương tâm cắn rứt, lại không dám theo vì những Thiên Chúa muốn bao giờ cũng trái với ý muốn của mình, những gì khiến họ cần phải bỏ mình và vác thập giá mà theo Ngài (xem Mathêu 16:24), điển hình nhất là trường hợp của tiên tri Gionna được Thiên Chúa sai đến rao giảng thống hối cho thành Ninive (xem Gionna đoạn 1).

 

Lịch sử cứu độ của dân Do Thái cũng cho thấy như vậy. Họ là dân tộc duy nhất trên trái đất này được Chúa là Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ ban cho lề luật thánh để họ có thể sống xứng đáng với Ngài là Đấng Thánh và nhờ đó đáp ứng với Giao Ước Thánh của Ngài như Ngài đã hứa với các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp của họ. Thế nhưng, vì sống giữa dân Ai Cập hơn 400 năm, bị lây nhiễm những xu hướng và thói tục đa thần của dân tộc ngoại bang này, cho dù đã được giải phóng và đã từ từ thấy được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của cha ông mình, qua những lần Ngài tỏ mình ra cho họ, nhất là trong cuộc vượt qua vùng đất nô lệ Ai Cập mà về miền Đất Hứa tự do, họ vẫn tiếp tục sống theo xu hướng đa thần và tà thần, hoàn toàn phản lại Luật Thánh của Thiên Chúa.

 

Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ, trái lại, còn thông cảm và thương cảm họ hơn bao giờ hết, không tru diệt họ, như Ngài đã từng muốn thực hiện 2 lần trong 40 năm sa mạc của họ, khi họ tôn thờ bò vàng khi mới thoát khỏi Ai Cập và muốn cùng nhau trở về Ai Cập khi gần đến Đất Hứa. Trong Bài Đọc I cho Năm Chẵn hôm nay, Thiên Chúa vẫn trung thành thương yêu dân tộc được Ngài tuyển chọn cách riêng giữa mọi dân nước trên thế gian này, để chẳng những tỏ mình ra cho họ mà còn cho chư dân nữa, nên Ngài đã sai Tiên Tri Elia đến với họ để tiếp tục đánh động họ, giúp họ tỉnh ngộ mà quay về với Ngài là Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, chứ không phải thứ thần Baal nào đó mà họ đang bị đám tiên tri phù thủy của thần này gian trá mê hoặc lừa đảo họ. Thiên Chúa tỏ mình ra qua tiên tri Elia như được Bài Đọc 1 thuật lại đầu tiên như sau:

 

"Bấy giờ Êlia đến cùng toàn dân và tuyên bố rằng: 'Các ngươi đi nước đôi cho đến khi nào? Nếu Chúa là Thiên Chúa, các ngươi hãy theo Người; nếu Baal là thiên chúa, thì hãy theo nó đi!' Dân chúng không thưa lại được lời nào. Êlia nói tiếp: 'Chỉ còn tôi là tiên tri duy nhất của Chúa, mà tiên tri của Baal thì có đến bốn trăm năm mươi người. Hãy cho chúng tôi hai con bò đực; họ hãy chọn lấy một con cho họ, xẻ ra từng miếng đặt trên củi, nhưng đừng đốt lửa. Phần tôi, tôi làm thịt con bò kia, xếp trên củi và cũng không châm lửa. Ðoạn các ông hãy kêu cầu danh các thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh Chúa của tôi. Ðấng nào đáp lời cho lửa xuống đốt, thì Ðấng ấy là Thiên Chúa'. Toàn dân đồng thanh đáp: 'Ðề nghị hay đấy!'"

 

Cuối cùng dân của Ngài đã thực sự nhận biết Ngài, như được đoạn cuối của cùng Bài Đọc 1 này thuật lại. Thậm chí qua phép lạ của tiên tri Elia, Thiên Chúa cũng muốn cứu cả chính thành phần tiên tri của thần Baal này, bằng cái chết đền tội của bản thân họ (xem 1 Chư Vương 18:40).

 

"Khi đã đến giờ dâng của lễ toàn thiêu, tiên tri Êlia tiến ra cầu nguyện rằng: 'Lạy Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, xin tỏ ra Chúa là Thiên Chúa của Israel và con là tôi tớ của Chúa, và chính vì tuân lệnh Chúa truyền mà con đã làm các việc này. Lạy Chúa, xin nhậm lời con, xin đoái nghe lời con, hầu cho dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa hoán cải lòng họ'. Bấy giờ lửa Chúa giáng xuống thiêu đốt của lễ toàn thiêu, củi, đá và cả bụi đất, đồng thời cũng hút hết nước trong mương. Trông thấy thế, toàn dân kinh hãi sấp mặt xuống đất mà nói rằng: 'Chúa là Thiên Chúa! Chúa là Thiên Chúa!'"

 

Tuy nhiên, một khi còn sống, con người vẫn còn có thể tiếp tục bất trung, cho dù có thấy được, vào một lúc nào đó, tác động thần linh của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình, thấy được Ngài thực sự hiện diện thần linh trong mình, như lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho thấy, nhất là trong thời kỳ Quan Án trước thời kỳ quân chủ. Bởi thế, họ phải làm sao để luôn ý thức và mang tâm tình cậy trông gắn bó với Thiên Chúa của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể con.

2) Thiên hạ tăng thêm nhiều nỗi đau thương của họ, họ là những kẻ chạy theo các thần tượng ngoại lai. Con sẽ không dâng lễ quán bằng máu của chúng, cũng không đọc tên chúng trên môi.

3) Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ vận mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.

4) Chúa sẽ chỉ cho con đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời!



Thứ Năm

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 18, 41-46

"Êlia cầu nguyện và trời đổ mưa" (Gc 5, 18).

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Êlia tâu cùng Acáp rằng: "Xin bệ hạ lên ăn uống, vì tôi nghe có tiếng mưa to". Acáp liền lên ăn uống. Phần Êlia, ông trèo lên đỉnh núi Carmel, cúi mình xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối. Ðoạn ông nói với người đầy tớ rằng: "Hãy lên đây nhìn về phía biển". Người đầy tớ leo lên, đưa mắt nhìn, rồi thưa ông: "Không có gì hết." Êlia lại nói với y: "Cứ xem lại bảy lần". Ðến lần thứ bảy (nó báo:) "Kìa, có đám mây nhỏ bằng vết chân người, từ biển kéo lên". Êlia liền bảo: "Hãy lên tâu với Acáp chuẩn bị xe xuống gấp kẻo mắc mưa". Ðang lúc vua còn loay hoay thì bỗng trời tối om, mây bao phủ, gió thổi lên, trời đổ mưa như trút. Acáp lên xe đi Giêrahel. Tay Chúa phù hộ Êlia: Ông thắt lưng chạy trước Acáp cho đến khi tới Giêrahel.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 64, 10abcd. 10e-11. 12-13

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa đáng ca tụng trên núi Sion (c. 2a).

Xướng: 1) Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội, Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần. Sông ngòi của Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã chuẩn bị cho thiên hạ có lúa mì. - Ðáp.

2) Vì Ngài đã chuẩn bị như thế này cho ruộng đất: Ngài đã tưới giội nước vào những luống cày, và Ngài san bằng mô cao của ruộng đất, Ngài làm cho đất mềm bởi thấm nước mưa, Ngài chúc phúc cho mầm cây trong đất. - Ðáp.

3) Chúa đã ban cho năm hồng ân, và lốt xe ngự giá của Người khơi nguồn phong phú. Ðống đất hoang vu có nước chảy đầm đìa, và các đồi núi bận xiêm y hoan hỉ. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 29

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 20-26

"Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.

"Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án". Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc", thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!"

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

"vạ lửa địa ngục"


Suy Niệm

 

Trong bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần X Thường Niên hôm nay (Mathêu 5:20-26), Chúa Giêsu bắt đầu cho thấy những gì là căn bản theo lề luật vẫn được thành phần "luật sĩ và biệt phái" tỉ mỉ tuân hành một cách "văn tự", thứ tuân hành của họ "chẳng được vào Nước Trời", và những gì lề luật cần được Người hoàn trọn bằng một tinh thần trọn lành hơn nơi từng khoản lề luật được Người tự ý nêu lên cho các môn đệ của Người thấy.

 

Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại điều luật đầu tiên được Chúa Giêsu nhắc đến liên quan đến điều răn Thứ 5 trong Thập Giới, để dạy các môn đệ của mình sống trọn lành hơn như sau:

 

"Các con đã nghe dạy người xưa rằng: 'Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án'. Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là 'ngốc', thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là 'khùng', thì sẽ bị vạ lửa địa ngục".

 

Ở đây, theo luật cũ thì phạm nhân giết người "sẽ bị luận phạt nơi toà án", còn đối với Chúa Giêsu thì không cần phải phạm tội ác giết người, mà chỉ cần "phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt" rồi. Chưa hết, tội còn nặng hơn nữa nếu "ai bảo anh em là 'ngốc', thì bị phạt trước công nghị". Sau hết, tội càng trầm trọng hơn bao giờ hết với hình phạt tương xứng có thể nói là nặng nhất kèm theo đó là "Ai rủa anh em là 'khùng', thì sẽ bị vạ lửa địa ngục". 

 

Đến đây, đọc lại đoạn Chúa dạy này, chúng ta thấy hình như tội giết người có vẻ nhẹ nhất, không bằng tội nguyền rủa anh em mình là khùng! Hình như Chúa Giêsu muốn ngầm cho các môn đệ của Người biết rằng, nếu con người ta mang tâm tư phẫn nộ giận dữ anh chị em mình, có tâm trạng khinh thường anh chị em mình đến độ dám nguyền rủa anh chị em mình thì kể như họ đã giết anh chị em họ ngay trong tâm hồn của họ, và nếu có súng trong tay họ có thể giết anh em của họ bất cứ khi nào họ muốn, nhất là khi họ không cầm được cơn giận. 

 

Bởi thế, ngay sau đó, Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ, nếu các vị là nạn nhân, chẳng hạn như các vị bị ai hận tức, khinh bỉ chúng ta hay nguyền rủa chúng ta, thi hành một việc rất khó làm, hoàn toàn phản khắc với lý lẽ tự nhiên trần tục, thậm chí bị trần gian coi là nhu nhược và điên khùng, đó là "Nếu các con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em của các con có điều gị bất bình với các con, thì các con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, rồi đi làm hoà với người anh em của các con trước đã, rồi hãy trở lại mà dâng của lễ". 

 

Ở đây, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ thực hành một điều thật là trái khuấy, ở chỗ nạn nhân phải tự động làm hòa với phạm nhân trước, chứ không phải phạm nhân theo phép công bằng phải đi xin lỗi nạn nhân. Hành động trọn lành được Chúa Giêsu dạy đây đã được chính bản thân Người thực hiện, đó là Vị Thiên Chúa bị loài người xúc phạm qua nguyên tổ của họ ngay từ ban đầu đã tự động giải hòa với con người phạm nhân tội lỗi bằng bửu huyết tử giá Con của Ngài (xem Colose 1:20).

 

Hành động bác ái trọn lành khác thường đến phi thường này có thể nói còn có giá trị hơn cả việc con người dâng lễ vật lên cho Thiên Chúa nữa. Hay nói đúng hơn, để xứng đáng dâng lễ vật cho Ngài con người ta còn cần phải yêu thương trọn lành như Ngài, biết tha thứ cho những ai làm khốn mình. Đó là lý do, ở phần đầu Thánh Lễ có nghi thức xám hối, một nghi thức để ngay bấy giờ chúng ta âm thầm tha thứ cho những ai phạm đến chúng ta, như thể chúng ta bỏ của lễ lại mà về làm hòa vậy.

 

Cảm Nghiệm

 

Theo tâm lý tự nhiên, khi lòng mình còn chấp nhất ai, dù họ có thật sự có lỗi hay do tự mình suy ra, thì chính đương sự chủ thể cảm thấy nặng nề, khó thở và cuộc đời của họ tự nhiên trở nên cằn cỗi như một mảnh đất bị hạn hán vậy, cho đến khi có thể tha thứ cho kẻ thù của mình, một tác động họ không thể nào tự mình có thể vượt qua nếu không có ân sủng từ trời cao như mưa tuôn đổ xuống trên tâm hồn càng chấp nhất càng hạn hán khô cằn đầy tàn úa và chết chóc của họ.

 

Thế nhưng, muốn được ơn Chúa, con người cần đến một vị trung gian có thế lực, như vị Tiên Tri trong Bài Đọc 1 cho năm chẵn hôm nay: "Tay Chúa phù hộ Êlia", vị thậm chí đã có thể thấy trước được cả sự kiện mưa xuống trước khi nó xẩy ra. Thật vậy, "trong những ngày ấy, Êlia tâu cùng Acáp rằng: 'Xin bệ hạ lên ăn uống, vì tôi nghe có tiếng mưa to'", nhưng bấy giờ mưa vẫn chưa rơi, cho đến khi người đầy tớ của vị tiên tri này, canh chừng bằng việc "nhìn về phía biển" 7 lần theo lời căn dặn của vị tiên tri ấy, hô lên rằng: "Kìa, có đám mây nhỏ bằng vết chân người, từ biển kéo lên".

 

Chúa Kitô, Vị Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (xem 1 Timôthêu 2:5), cũng đã chỉ cho họ biết dấu chỉ của một trận mưa ân sủng mỗi khi mảnh đất cuộc đời của họ trở nên khô cằn tàn úa chết chóc vì hạn hán gây ra bởi lòng hận thù ghen ghét của họ với tha nhân, đó là hãy tự động làm hòa với phạm nhân, tức là hãy tự động tha thứ cho họ, một tác động chẳng khác gì như họ tự giải thoát bản thân họ khi họ nhốt mình vào ngục tù chấp nhất oán hận.

 

Một khi con người biết tự tha thứ cho nhau, như chính họ được Thiên Chúa thứ tha cho họ, thì họ mới được Ngài "viếng thăm" để rồi nhờ đó ân sủng của Ngài làm cho họ trở nên tươi tốt tràn đầy sức sống như Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:

 

1) Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội, Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần. Sông ngòi của Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã chuẩn bị cho thiên hạ có lúa mì.

2) Vì Ngài đã chuẩn bị như thế này cho ruộng đất: Ngài đã tưới giội nước vào những luống cày, và Ngài san bằng mô cao của ruộng đất, Ngài làm cho đất mềm bởi thấm nước mưa, Ngài chúc phúc cho mầm cây trong đất.

3) Chúa đã ban cho năm hồng ân, và lốt xe ngự giá của Người khơi nguồn phong phú. Ðống đất hoang vu có nước chảy đầm đìa, và các đồi núi bận xiêm y hoan hỉ.  

 


Thánh Ephrem, Phó Tế, Tiến Sĩ Hội Thánh
(306 - 373)

Ephrem.jpg

Vào ngày mồng 09 tháng 06, Giáo hội Công giáo cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem Phó Tế, Tiến Sĩ Hội Thánh (Ephrem có nghĩa là sự phong nhiêu kép). Thánh Nhân là một con người hết sức vĩ đại nhưng lại sống một cuộc đời vô cùng khiêm nhu. Sau đây là một số chi tiết liên quan đến cuộc đời Thánh Nhân.

1.Tiểu sử

Thánh Ephrem sinh năm 306 tại Nisibe, một thành phố nằm ở khu vực biên giới giữa đế quốc Persia và đế quốc Byzantin hồi đó (tức Iran và Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay). Các sử gia vẫn chưa thống nhất với nhau được về niềm tin tôn giáo của cha mẹ Ngài. Nhiều sử gia cho rằng, thân mẫu của Ephrem là một nữ Ki-tô hữu, sinh ra tại Amid (tức Diar Bekir, Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay). Còn thân phụ Ngài thì sinh ra tại Nisibe, và là một tư tế ngoại giáo. Khi đã cao niên, thân phụ của Thánh Nhân mới đón nhận Đức Tin Ki-tô giáo. Và cùng với người bạn đời của mình, ông đã được đón nhận hồng phúc Tử Đạo dưới thời hoàng đế Schabur II của Persia.

Một số nhà chuyên chép sử về các Thánh nói rằng, Thánh Ephrem đã lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy vào lúc khoảng 18 tuổi. Ngài đã bị thân phụ tống cổ khỏi nhà vì coi thường những thực hành tôn giáo phù phép của người ngoại giáo. Người thanh niên trẻ đã tìm được nơi ẩn trú bên Thánh Gia-cô-bê, Giám Mục thành Nisibe. Vị Giám Mục này đã cảm thấy rất ấn tượng về lòng đạo đức cũng như về trí thông minh vượt trội của Ephrem, và đã nhận người thanh niên này vào trường của mình. Ở đó, Ephrem đã tỏa sáng nhờ đức hạnh cao vời của mình cũng như nhờ những thành công rực rỡ trong học tập. Sau đó, Thánh Gia-cô-bê đã đặt Ephrem vào chính chức vụ do Ngài đang đảm nhận: Ngài bổ nhiệm Ephrem làm giáo sư, và làm hiệu trưởng của trường rất nổi tiếng do chính vị Giám Mục này sáng lập. Và rồi, Thánh Nhân đã phong chức Phó Tế cho Ephrem. Theo một số sử gia, Thánh Gia-cô-bê còn đặt Thầy Ephrem làm thư ký riêng của mình để Thầy cùng được tham dự Công Đồng Nicea năm 325. Và theo một số truyền thuyết, Ephrem đã gặp Thánh Basilio Cả, Giám mục thành Cesarea (329-379), và Thầy đã tiếp tục con đường của mình tới tận Ai-cập, rồi ở đó, Thầy có được kinh nghiệm về đời sống Ẩn Sĩ.

Sau khi Thánh Gia-cô-bê qua đời, Ephrem vẫn tiếp tục làm hiệu trưởng của trường học do Giáo Phận quản lý, dưới thời ba vị Giám mục khác: Babo (338-349), Walgache (349-361) và Áp-ra-ham (361).

Khi hoàng đế Jovian giao Nisibe lại cho vua Persia vào năm 359, Ephrem đã rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn của mình để đi tới Edessa (tức thành phố Urfa của Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay). Tất cả các giáo viên của trường Nisibe và phần lớn những người nổi tiếng khác cũng đều đi theo Ngài. Tại Edessa, Ngài đã lập nên một ngôi trường rất nổi tiếng và đã dậy học ở đó cho tới những năm cuối cùng đời Ngài. Thánh Ephrem đã qua đời vào ngày mồng 09 tháng 06 năm 373. Sau này, một Đan Viện đã được kiến thiết ngay trên phần mộ của Ngài. Khi người Kurd xâm lược Edessa vào năm 1145, các hiệp sĩ của Thập Tự Quân đã mang hài cốt và những Thánh Tích khác của Ngài về Rô-ma.

2.Thánh Nhân

Thánh Ephrem là một vị Đại Thánh. Đức Giám Mục của Ngài đã rất lấy làm cảm phục trước sự đạo đức và sự thông minh của Ngài, và đã muốn phong chức Linh mục cho Ngài. Nhưng Thánh Nhân đã coi mình là bất xứng, và vì Ngài đã không biết cách phải chạy trốn trước niềm mong muốn của Đức Giám Mục Giáo phận thế nào, nên Ngài đã giả bộ hóa điên, và nhờ thế, Ngài đã suốt đời làm Phó Tế.

Ngài sống trong một hang động tại Edessa. Ban ngày Ngài đi dậy học và đặt mình trong sự phục vụ tha nhân, còn đêm về thì Ngài dành thời gian để cầu nguyện và nghiên cứu Kinh Thánh. Một người sống cùng thời với Ngài là Thánh Grê-gô-ri-ô thành Nyssê (355-394), đã để lại cho chúng ta một bức chân dung sau đây về Thánh Ephrem: „Thánh Ephrem là một người sống theo gương mẫu của các Tông Đồ đầu tiên; Ngài trở thành mẫu gương của tất cả mọi Đan Sĩ và Ẩn Sĩ. Ngài sống nhưng không hề có tiền túi, cũng chẳng hề có của dư. Ngài không có vàng cũng chẳng có bạc. Lương thực của Ngài là bánh lúa mạch và rau xanh; đồ uống của Ngài chỉ là nước lã hoặc nước đun sôi. Thân xác Ngài giống như một bộ xương làm bằng đất sét.“ Dẫu rằng Ngài đã gỡ mình ra khỏi thế gian, nhưng Ngài lại sống trong sự phục vụ những người đau khổ trên thế gian này. Theo gương mẫu của Thầy mình trong đời sống Ẩn Sĩ, Ngài đã liên kết đời sống hoạt động với đời sống chiêm niệm. Một trận dịch bệnh đáng sợ đã bất ngờ tấn công thành phố Edessa. Ngay lập tức Thánh Ephrem đã rời bỏ nơi cô tịch và sách vở của Ngài để đi chăm sóc các bệnh nhân, an ủi những người phiền muộn và kêu gọi mọi người giúp đỡ cũng như bố thí cho họ.

Ngay trước lúc qua đời, Thánh Ephrem đã xin các học trò và những người bạn của Ngài cầu nguyện cho mình, cũng như xin họ hãy chôn cất mình ngay tức khắc và đừng tổ chức nghi lễ rình rang dưới bất cứ hình thức nào. Ngài cũng xin họ chỉ bận cho thi hài Ngài một chiếc áo duy nhất của người Đan Sĩ, đừng đặt thi hài Ngài dưới một bàn thờ, vì Ngài thấy mình là một tội nhân, nhưng hãy chôn cất Ngài ở nghĩa địa dành cho những người ngoại kiều, vì Ngài cũng là một ngoại kiều như họ.

3.Tiến Sĩ Hội Thánh

Trong một Thánh Thi của mình, Thánh Ephrem đã kể lại rằng, khi Ngài còn rất nhỏ, Ngài đã nhìn thấy một hình dạng trong đêm, mà theo Ngài, nó giống như một cây nho đang phát triển; các nhánh của nó có rất nhiều chùm, và trông nó có vẻ như thế khi nó phủ lên toàn bộ khu đất. Nhiều đàn chim kéo đến và thưởng thức những trái nho, mà những trái nho ấy càng ngày lại càng mọc thêm ra nhiều, cho tới khi đàn chim mổ hết sạch. Đó là một giấc mơ hay là một thị kiến? Có lẽ các tác phẩm của Thánh Ephrem được ví giống như những gì liên quan đến con số của chúng: đó là một đại dương mà người ta hầu như không thể nhận ra bờ của nó. Urtez Urban, một Linh mục uyên bác Dòng Tên, người am tường cách đặc biệt về văn chương Syria, đã không ngần ngại viết như sau: "Chúng ta đừng coi chứng từ của sử gia Sosimus là cường điệu. Ông này viết rằng, Thánh Ephrem đã sáng tác khoảng ba triệu câu thơ". Còn Photius, Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinopoli (858-886) thì nói: Bên cạnh những Thánh Thi và những bài Thánh Ca, Thánh Ephrem còn để lại hơn một ngàn bài diễn văn và bài giảng.

Vào ngày mồng 05 tháng 10 năm 1920, trong Tông Sắc tôn phong Thánh Ephrem lên bậc Tiến Sĩ Hội Thánh, Đức Bê-nê-đíc-tô XV (+1922) đã viết rằng: "Thánh Ephrem chính là vị Ngôn Sứ vĩ đại của dân tộc Syria, là triều thiên của đất nước vùng Aram này, là mặt trời của các ngôi trường, là Thầy của các vị thầy, là đầu của các nhà giáo, là hoàng tử của các thi sĩ, là giếng phun trào của khoa học, là chiếc búa đối với những kẻ lạc giáo, là mẫu gương của các Ẩn Sĩ, là mỏ ngọc, là cột trụ của Giáo hội, là triết gia của Thiên Chúa, là cây hạc cầm của Chúa Thánh Thần…"

Không những thế, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XV còn bổ sung thêm vào với những tước hiệu lấp lánh kể trên một tước hiệu khác mà nó là triều thiên của tất cả những tước hiệu đó. Ngài viết: "Sẽ thật là vô cùng hạnh phúc đối với chúng ta khi bổ sung cho triều thiên của Thánh Ephrem Ẩn Sĩ một bông huệ mới… Theo lời mời gọi của Chúa Thánh Thần, Cha cảm thấy tràn ngập niềm vui khi tặng cho thánh Ephrem tước hiệu "Tiến Sĩ Hội Thánh".

Ở đây cũng cần phải nhấn mạnh rằng, trong số rất nhiều các Thánh Tiến Sĩ Hội Thánh, chỉ có một mình Thánh Ephrem là Phó Tế mà thôi. Vì sự khiêm nhượng, nên Ngài đã giữ chức vụ Phó Tế cho đến suốt đời.

4.Thần Học Gia

Thánh Ephrem đã sáng tác 56 Thánh Thi để chống lại những người theo tà thuyết, 87 Thánh Thi về Đức Tin, 4 Thánh Thi chống lại hoàng đế Julian và những người chối đạo, 15 Thánh Thi về Thiên Đàng, một thiên khảo luận về Chúa Giê-su Ki-tô, một thiên khảo luận về Lời Tựa của Tin Mừng theo Thánh Gio-an, 52 Thánh Thi về mầu nhiệm Chúa Ki-tô và về Đức Trinh Nữ Maria, 52 Thánh Thi về Giáo hội, 2 Thánh Thi về tính tự cao tự đại của thế gian, một Thánh Thi về thư gửi các Ẩn Sĩ tại Edessa, cũng như nhiều thiên khảo luận về bài giảng của Ngôn Sứ Giô-na tại Ninive và về lòng thống hối.

5.Sử gia và chuyên viên Phụng Vụ

Thánh Ephrem đã sáng tác 16 Thánh Thi về cuộc Giáng Sinh của Chúa Ki-tô và về cuộc Hiển Linh của Ngài, 8 Thánh Thi về Mùa Chay và về sự Phục Sinh, 21 Thánh Thi về bánh Không Men, 12 Thánh Thi về các vị Thánh Tử Đạo và về những người công khai tuyên xưng Đức Tin, 15 Thánh Thi theo bảng chữ cái ABC về vị Thầy của Ngài trong đời sống Ẩn Sỹ, đó là thánh Abraham Al Kaydouni, 24 Thánh Thi về Thánh Julian, một Thánh Thi về anh em nhà Macabê, một thiên khảo luận về cơn mưa, 77 Thánh Thi «De Nisibena» về những cuộc khởi nghĩa của người Nisibe (Thổ-nhĩ-kỳ) chống lại đế quốc Persia (Iran) và người kế vị Thánh Gia-cô-bê Giám mục thành Nisibe.

6.Nhà bút chiến và hộ giáo

Trước Thánh Ephrem, một nhà thơ tên là Bardeisan (154-222) đã lôi kéo nhiều người nhờ vào những khúc ca hời hợt và có tính tà giáo của mình. Để chống lại thi sĩ đó, Thánh Ephrem đã biến những ca khúc của chính ông ta thành những vũ khí, bằng cách là: Thánh Nhân giữ lại những vần điệu của Bardeisan, nhưng thay đổi từ ngữ. Ngài thành lập một Ca Đoàn với những chàng trai và cô gái trẻ để phổ biến cách tốt hơn những Học Thuyết lành mạnh. Sáng kiến đầy can đảm này đã lan rộng khắp cả Đông Phương lẫn Tây Phương. Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XV đã nói về sáng kiến đó như sau: "Chúng ta có thể khẳng định được rằng, các Ca Đoàn và các ca điệu trong Phụng Vụ đều có nguồn gốc từ Thánh Ephrem. Thánh Gio-an Kim Khẩu (+407) "đã vay mượn" những ca điệu đó cũng như đã du nhập chúng vào Constantinopoli; Thánh Ambrôsiô (+337) đã đưa chúng về Mi-lan; và từ Mi-lan, các ca điệu của Thánh Ephrem đã lan rộng trên toàn nước Ý. Dưới Triều Đức Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô Cả (+604), những điệu nhạc đó đã đạt tới cao điểm của chúng. Theo các chuyên gia, công lao chính của Thánh Ephrem là tạo ra nghệ thuật Thánh Nhạc, mà sau đó, nghệ thuật này đã được các Giáo Phụ, cả Hy-lạp lẫn La-tinh "nhận làm con"…"

7.Thi sĩ và ca sĩ của Đức Trinh Nữ Maria

Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XV nói về Thánh Ephrem rằng: "Không ai, kể cả những người hùng biện nhất của nhân loại, có thể miêu tả về Tình Yêu bừng cháy của Mẹ Thiên Chúa như cách mà Thánh Ephrem đã mô tả.“ Rất sớm, trước tất cả các Giáo Phụ, các Tiến Sĩ Hội Thánh và các Công Đồng, trong một cuộc đối thoại với Chúa Giê-su, Thánh Nhân nói rằng: "Ôi Chúa Giê-su và Thân Mẫu Chúa, cả Chúa và Mẹ đều có sự mỹ miều cao nhất; nơi Chúa không hề có bất cứ tì vết nào, và nơi Thân Mẫu Chúa cũng không một chút bợn nhơ". Thánh Nhân còn viết về đức Khiết Trinh trọn đời của Mẹ Thiên Chúa như sau: "Đức Maria đã sinh ra Đấng Emmanuel, Chúa Giê-su, và sau cuộc sinh nở đó, Mẹ đã không sinh bất cứ người con nào khác". Thánh Nhân đã ca ngợi tư cách làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria với một giọng hùng vang sánh ngang tiếng sét: "Từ nơi huyệt mộ, xương cốt con gầm thét lên rằng, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa".

8.Các ngày cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem của các Giáo hội

Hiện tại, Giáo hội Công giáo đang cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem vào chính ngày Ngài qua đời, tức ngày mồng 09 tháng 06. Nhưng trước đây Giáo hội cử hành Lễ Kính Ngài vào ngày mồng 01 tháng 02.

Giáo hội Tin lành cử hành ngày tưởng nhớ Thánh Ephrem cũng vào ngày mồng 09 tháng 06.

Giáo hội Anh giáo cử hành ngày kính Thánh Ephrem cũng vào ngày mồng 09 tháng 06.

Các Giáo hội Chính Thống cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem vào ngày 28 tháng Giêng, tức ngày di dời Thánh Tích của Ngài từ Thổ Nhĩ Kỳ về Rô-ma.

Giáo hội Armenia cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem cũng vào ngày 28 tháng Giêng.

Giáo hội Coptit cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem vào ngày mồng 02 tháng Giêng và vào ngày mồng 9 tháng 07.

Còn Giáo hội Chính thống Syria thì cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem vào các ngày sau: mồng 01 tháng Giêng; mồng 01 tháng 02; 19 tháng 02; 20 tháng 02; thứ Bảy đầu tiên của Mùa Chay; mồng 09 tháng 06; 15 tháng 06; 18 tháng 06 và ngày mồng 09 tháng 07.


Lm Đa-minh Trần Tiến Thiệu, O.Cist

http://hoidongxitothanhgia.com/thu-vien/thanh-ephrem-pho-te-3413.html

 

Thánh Ephrem sinh năm 306 tại Nisibis, miền Mesopotamia, thuộc đế quốc La mã. Gia đình ngài là người ngoại giáo, và cha ngài là thầy cả đền thờ Abnil, nhưng thánh nhân lại có thiện cảm với người Kitô hữu. Khi trở lại Kitô giáo, thánh nhân đã trở nên mẫu mực cho nhiều người khác về sự khiêm tốn, bác ái, say mê học hỏi khoa học thánh, yêu thích sự tĩnh lặng, chuyên chăm cầu nguyện và nhiệt thành nói về Chúa cho người khác.

Chúng ta có thể dừng lại ở hai nét nổi bật sau:

·         Yêu Thích Cuộc Sống Thanh Vắng

Thánh Ephrem luôn muốn sống ẩn dật, để tách mình khỏi những vướng bận thế gian và  dành trọn cuộc đời cho Chúa. Ngài thường lui vào nơi thanh vắng, chuyên chăm cầu nguyện, hy sinh hãm mình, nhưng cũng sẵn sàng giúp đỡ những ai tìm đến ngài. Với thánh Ephrem, “sa mạc” không phải là nơi của chết chóc, cô độc mà là không gian thuận lợi cho con người cởi bỏ cái tôi ích kỷ, thanh luyện bản thân và luôn sống trong mối tình thân thiết với Chúa. Cũng từ nơi hoang vằng, ngài đã viết nhiều bài văn có ý tưởng phong phú, diễn tả một đời sống nội tâm sâu sắc và khát vọng luôn làm đẹp ý Chúa: “Lạy Chúa, Đấng cứu chuộc chúng con, kế hoạch thần diệu của Chúa là hình ảnh của thế giới thần thiêng, xin cho chúng con biết đi trong kế hoạch đó như là con người thần thiêng”.

Được thụ phong phó tế, nhưng vì sự khiêm tốn, thánh nhân đã từ chối chức linh mục.

·         Một Văn Sĩ Tài Ba

      Khi chiến trang bùng nổ, Nisibis nằm dưới ách thống trỉ của người Ba tư, và thánh Ephrem đã lui về Edessa. Ở đây, ngài đã tận tình chăm sóc bệnh nhân, người nghèo khổ, an ủi và đồng hành với những người bị bỏ rơi. Ngoài ra, thánh nhân còn chú tâm hoạt động về lãnh vực tri thức như: Giảng Lời Chúa cho mọi người, viết  sách tu đức, giải thích thơ phú  và chú giải Kinh Thánh. Với tâm hồn nghệ sĩ, ngài đã viết các bài giảng bằng thơ, các thánh thi ca ngợi Đức Kitô và Đức Trinh Nữ Maria. Các thánh thi của ngài hiện nay vẫn còn được sử dụng trong Phụng Vụ Syria và gây ảnh hưởng sâu rộng trong việc sáng tác các thánh thi ở Châu Âu.  

Thánh nhân được mệnh danh là “Cây đàn của Thánh Linh”, và là người tiên phong trong việc tôn kính Đức Maria Trinh Nữ, đấng mà ngài hằng tuyên xưng là “hoàn toàn trong sạch mọi tội lỗi”.

Thánh Ephrem qua đời tại Edessa vào ngày 09 tháng 06 năm 373. Ngày 05tháng 10 năm 1920, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV đã nâng ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Ephrem phó tế ơn sức mạnh của Chúa Thánh Thần, để thánh nhân luôn biết ca tụng tình yêu Chúa bằng chính cuộc sống yêu thích sự thanh vắng, thực thi bác ái và  đào luyện tri thức. Xin cho chúng con biết đón nhận tất cả với niềm tri ân cảm tạ để danh Chúa luôn được hiển vinh. Amen. 

                                                                       Montfort Nguyễn Xuân Pháp O.Cist

http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang6/Ngay9_Ephrem.htm 

 

Thánh nhân sinh tại Nisibis, miền Mesopotamia vào khoảng đầu thế kỷ thứ IV. Có truyện kể rằng: hồi nhỏ, một lần Ngài lấy đá chọi con bò mẹ gần chết. Khi chủ nhân hỏi thăm có thấy con bò ở đâu Ngài đã trả lời xấc xược để chữa lỗi. Ephrem đã khóc suốt đời về sự độc ác và hèn nhát này. Sau này có lần vào đêm khuya bị lạc vào giữa đồng, một đứa chăn chiên cho Ngài trú ngụ trong lều của nó. Nhưng đứa chăn chiên này đã xấu bụng lại đang say rượu. Đêm ấy chó sói vào tàn sát đàn chiên. Để chữa mình, thằng chăn chiên đổ lỗi cho Ephrem. Trong tù Ngài nghe nhiều người than thở vì bị hàm oan. Một buồi chiều, trong giấc mơ, Ngài thấy thiên thần cho biết lần này Ngài vô tội nhưng phải khổ để đền bù vào những lỗi lầm khác. Thức dậy, Ephrem nhớ lại con bò và thú nhận với mọi người. Thân phụ Ephrem là một thày cả thờ thần Abnil. Hình như Ngài bị đuổi khỏi nhà vì có thiện cảm với các Kitô hữu. Thánh Giacôbê, Giám mục Nisibis tiếp nhận dạy dỗ và rửa tội cho Ngài hồi 10 tuổi. Để sống, Ngài làm việc ở những hồ tắm công cộng. Nhưng sau đó Ngài lại vào sa mạc sống với sự hướng dẫn của thánh Abbê ẩn tu; dệt vải để sống như thói quen của các ẩn sĩ Ai cập và Mêsôpôtamia thời đó.

Ephrem thường khóc tội mình và tội người khác. Các tập “tự thú” Ngài viết cho thấy Ngài rất mực khiêm tốn, Ngài rất ghét tính kiêu căng:

- Tính kiêu căng phá đổ ơn Chúa và thiêu hủy mọi nhân đức.

Thánh Ephrem luôn ao ước sống đời ẩn dật. Nhưng một cuộc chiến đã bùng ra giữa người Rôma và người Batư. Người Batư bách hại các Kitô hữu cách tàn bạo. Nghe tin này, Ephrem về Nisibis để giúp đỡ và khích lệ họ. Danh thơm nhân đức của Ngài lan rộng đến nỗi người ta cho việc giải phóng khỏi ách thống trị của Sapor II là bởi lỗi cầu nguyện của thánh nhân.

Được thụ phong phó tế, nhưng rồi thánh nhân đã từ chối chức linh mục vì khiêm tốn. Được Đức Giám mục Nisibis trao cho trách nhiệm rao giảng lời Chúa, Ngài dùng hết tài lợi khẩu để khêu gợi nhiệt tình nơi các linh hồn:

- “Thần dữ nói: Ta đi tìm những người khô khan là bạn hữu của ta, và ta không cần phải tìm đến mưu kế, ta chỉ cần giữ chúng trong xiềng xích mà chúng ưa thích là đủ.”

Thánh Ephrem đã gặp thánh Basiliô thành Cappadocia. Truyền thuyết cho rằng: hai vị hiểu nhau dầu ngôn ngữ bất đồng.

Chiến tranh tái phát, Nisibis rơi vào tay người Batư, thánh Ephrem trốn đến Sdessa. Nơi đây, Ngài tận tâm phục vụ bệnh nhân và người nghèo, hoạt động trí thức bằng việc viết sách và giải thích thơ phú. Thánh Ephrem đã viết các bài giảng bằng thơ, các thánh thi ca ngợi vinh quang Chúa Kitô và Đức Trinh Nữ Maria. Người luôn được gọi là “cây đàn của Thánh Linh” là một trong những người rao truyền việc VÔ NHIỄM THAI.

- Lạy Chúa, chỉ có Chúa và Mẹ Chúa là tuyệt mỹ. Nơi Mẹ Chúa không vương một tì tích nào.

Một năm trước khi thánh nhân qua đời, Edessa bị một cơn đói. Ngài kêu gọi lòng quảng đại của mọi người và người ta đã rộng tay đóng góp vào công cuộc phát chẩn của thánh. Cơn đói chấm dứt, thánh nhân trở lại chòi của mình. Lên cơn sốt, Ngài nghĩ tới lúc chết:

- Đừng liệm xác tôi bằng đồ quí giá, cũng đừng dựng đài tưởng niệm. Hãy đối xử với tôi như một người lữ khách vì thực sự tôi là một lữ khách xa lạ trên mặt đất này thôi.

Ngài qua đời có lẽ vào tháng 6 năm 373. Thánh Gregoriô miền Nyssa viết về thánh Ephrem:

- Vinh quang đời sống và giáo thuyết của thánh nhân chiếu giãi khắp hoàn cầu.

Năm 1820, Đức Bênêđictô XI tôn phong Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-ephrempho-tetien-si-hoi-thanh-42855

http://giaophanvinhlong.net/thanh-ephrem-pho-te-tien-si-hoi-thanh-306373.html

 

ĐTC Biển Đức XVI: Thứ Tư 28/11/2007 – Bài Giáo Lý 60 - Thánh giáo phụ  Ephrem người Syria

 

 

 


Thứ Sáu

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 19, 9a. 11-16

"Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, khi Êlia đã lên núi Horeb của Thiên Chúa, ông trú ẩn trong một cái hang. Có lời Chúa phán cùng ông rằng: "Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa". Bỗng Chúa đi qua; có một cơn gió mạnh xé núi non và nghiền nát đá trước mặt Chúa. Nhưng Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất động; Chúa cũng không ở trong cơn động đất. Sau cơn động đất thì có lửa; nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa thì có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe thấy, Êlia liền lấy áo choàng che mặt lại, đi ra đứng ở cửa hang. Bỗng có tiếng nói với ông: "Hỡi Êlia, ngươi làm gì ở đây?" Ông thưa: "Lòng nhiệt thành với Chúa các đạo binh nung nấu con, vì con cái Israel đã phản bội với giao ước của Chúa, phá huỷ các bàn thờ, dùng gươm giết các tiên tri của Chúa, chỉ còn con sống sót và họ đang tìm hại mạng sống con". Nhưng Chúa phán cùng ông: "Hãy lên đường trở về qua lối sa mạc miền Ðamas. Tới nơi, ngươi hãy xức dầu phong Hazael làm vua Syria, xức dầu phong Giêhu con ông Namsi làm vua Israel, và xức dầu cho Êlisê, con Saphat người xứ Abel-Mêhula, làm tiên tri thế ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 7-8a. 8b-9abc. 13-14

Ðáp: Lạy Chúa, con tìm kiếm dung nhan Chúa (c. 8b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: "Hãy tìm ra mắt Ta". - Ðáp.

2) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Người trong thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con. - Ðáp.

3) Con tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! - Ðáp. 

 

Alleluia: Ga 1, 14 và 22b

Alleluia, alleluia! - Ngôi lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 27-32

"Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Chớ ngoại tình". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi. Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.

"Có lời dạy rằng: "Ai bỏ vợ mình, hãy trao cho vợ một giấy ly dị". Phần Thầy, Thầy bảo các con: bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

"ngươi làm gì ở đây?"

 

Suy Niệm

 

Nếu Bài Phúc Âm hôm qua, Bài Giảng về Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Người liên quan đến điều răn thứ 5 là "chớ giết người", thì bài Phúc Âm hôm nay, lời của Người dạy liên quan đến điều răn thứ 9 là "chớ muốn vợ chồng người": "Chớ ngoại tình".

 

Tuy nhiên, hành động "ngoại tình" hay tội "ngoại tình" ở đây, như Chúa Kitô dạy, không phải chỉ ở chỗ trực tiếp liên hệ xác thịt với người khác phái, mà còn ở chỗ, cách riêng với nam nhân, ước muốn hoan hưởng thân xác của người phụ nữ nữa. Chính cái thèm khát dâm dục với bất cứ người phụ nữ nào nơi nam nhân thì họ đã ngoại tình với người nữ ấy rồi, cho dù người nữ ấy không có chồng: "Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ (ở đây Chúa nói trống và nói chung về "người nữ", chứ không phải là người nữ có chồng) mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi".

 

Còn trường hợp họ có chồng mà bị chồng bỏ, không phải vì lý do gian dâm là hành vi hoàn toàn phản nghịch lại với bản chất của hôn nhân vợ chồng nên một xác thịt với nhau (chứ không phải với bất cứ một ai khác ngoài chồng của mình hay vợ của mình), thì người chồng bỏ vợ ấy đã tạo cơ hội chẳng những cho vợ mình ngoại tình mà còn cho cả người nào ăn nằm với nàng nữa: "bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa".

 

Ở đây Chúa Kitô chỉ nói đến trách nhiệm của người chồng bỏ vợ nếu nàng ăn ở với người khác, hay nếu người nam khác ăn nằm với nàng, nhưng không phải vì thế mà Người không bao gồm tội ngoại tình của người chồng, ở chỗ, một khi không có vợ, người chồng bỏ vợ ấy có thể sẽ đi đến chỗ thèm thuồng dâm dục với bất cứ người đàn bà nào không phải là vợ của mình, thậm chí vì đã thèm thuồng người nữ khác ngon hơn vợ của mình nên họ đã bỏ vợ mình, hay họ trực tiếp liên hệ dâm dục với những người đàn bà mà chàng cảm thấy bị thu hút bất khả chống cưỡng, khi không còn vợ nữa, đến độ họ có thể cưỡng hiếp người ta khi bị chống cự cho thỏa mãn thú tính lăng loàn của họ.

 

Cảm Nghiệm

 

Một trong những lý do chính yếu khiến con người sa ngã phạm tội đó là vì họ quên mất sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa trong tâm hồn của họ và trong cuộc đời của họ. Ngài là Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, cho dù những gì sâu thẳm nhất trong thâm tâm của họ, như ước muốn hoan hưởng xác thịt của người nữ nào mà họ đang thèm khát. Và cũng chính vì Thiên Chúa biết cả những gì kín mật nhất và xấu xa của họ như thế mà tác động ước muốn ấy mới xấu xa và có tội phạm đến Ngài.

 

Đó là lý do trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thiên Chúa đã kêu gọi tiên tri Elia, cũng chính là kêu gọi những ai tin vào Ngài, rằng: "Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa". Nghĩa là hãy luôn sống cao thượng hay hướng thượng ("trên núi") trước tôn nhan Chúa, như Đấng thấu suốt mọi sự, không gì có thể che giấu được Ngài. Ngài là vị Thiên Chúa kín nhiệm và sâu thẳm chứ không ồn ào và náo động bề ngoài, đúng như Bài Đọc 1 ám chỉ cho thấy:

 

"Bỗng Chúa đi qua; có một cơn gió mạnh xé núi non và nghiền nát đá trước mặt Chúa. Nhưng Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất động; Chúa cũng không ở trong cơn động đất. Sau cơn động đất thì có lửa; nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa thì có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe thấy, Êlia liền lấy áo choàng che mặt lại, đi ra đứng ở cửa hang. Bỗng có tiếng nói với ông: 'Hỡi Êlia, ngươi làm gì ở đây?'"

 

Phải, bất cứ lúc nào trong cuộc đời của mình, nhất là khi sa ngã phạm tội, con người sẽ được Đấng thấu suốt mọi sự khách quan đặt vấn đề với họ để họ tự vấn: "Hỡi Êlia, ngươi làm gì ở đây?", hay như xưa kia Ngài đã hỏi con người sau khi nguyên tổ ăn trái cấm: "Ngươi đang ở đâu?" (Khởi Nguyên 3:9). Câu hỏi kiểu chất vấn này không phải là chứng cớ cho thấy Thiên Chúa không biết gì, mà là dấu chứng cho thấy Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người và luôn nhẹ nhàng nhắc nhở ý thức của họ về trách nhiệm của họ đối với Ngài là Đấng luôn ở với họ và thấu biết họ hơn chính họ biết họ.

 

Đúng thế, sau khi Tiên Tri Elia trình bày với Thiên Chúa những gì ông (có thể) tưởng Ngài không biết, hay dù Ngài có biết ông cũng cứ lập lại theo lời chất vấn của Ngài, thì ông đã nhận được lệnh của Ngài phải làm gì để giải quyết vấn đề liên quan đến "Lòng nhiệt thành với Chúa các đạo binh nung nấu con", thế mà lại bị chính "con cái Israel đã phản bội với giao ước của Chúa, phá huỷ các bàn thờ, dùng gươm giết các tiên tri của Chúa, chỉ còn con sống sót và họ đang tìm hại mạng sống con".

 

Tuy nhiên, nếu con người luôn ý thức được sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, Quan Phòng mọi sự theo Thánh Ý vô cùng khôn ngoan, thiện hảo và toàn năng của Ngài, không bao giờ bỏ rơi những ai tin tưởng cậy trông vào Ngài, trong khi họ bị cám dỗ sa ngã phạm tội mất lòng Ngài (như tội ngoại tình trong tư tưởng ở Bài Phúc Âm), hay khi họ bị thử thách bách hại vì Ngài, thì họ sẽ có cùng một ý thức và tâm tình của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: "Hãy tìm ra mắt Ta".

2) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Người trong thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con.

3) Con tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!  


Thứ Bảy

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 19, 19-21

"Êlisê chỗi dậy đi theo Êlia".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Êlia xuống núi tìm đến cùng Êlisê, con ông Saphat, đang cày với mười hai đôi bò; chính Êlisê là người dẫn đôi bò thứ mười hai. Êlia tiến đến gần ông và ném áo choàng mình trên ông. Êlisê bỏ đôi bò đó, chạy lại Êlia và thưa rằng: "Xin cho tôi về hôn cha mẹ tôi đã, rồi tôi sẽ theo Ngài". Êlia nói với ông: "Cứ về rồi trở lại, vì ta đã làm gì ngươi đâu?" Êlisê rời Êlia, bắt đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi, nấu thịt bò và đem cho dân chúng ăn. Ðoạn Êlisê chỗi dậy đi theo làm đồ đệ Êlia.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (c. 5a).

Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. - Ðáp.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.

3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát. - Ðáp. 

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 33-37

"Thầy bảo các con: đừng thề chi cả".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: "Ðừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được. Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".

Ðó là lời Chúa. 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

"ném chiếc áo choàng"

 

Suy Niệm

 

Nếu Bài Phúc Âm Thứ Năm tuần này liên quan đến điều răn thứ 5 "chớ giết người" và bài Phúc Âm thứ 9 "chớ ngoại tình" thì bài Phúc Âm hôm nay, có thể nói, liên quan đến điều răn thứ 8 "chớ làm chứng dối":

 

"Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được. Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".

 

Thật ra, nội dung của lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ trong bài Phúc Âm hôm nay, bề ngoài có vẻ liên quan đến giới răn thứ 8 "chớ làm chứng dối", nhưng về tinh thần liên quan đến tính chất chân thật nơi con người, được thể hiện qua lòng trung thành của con người với sự thật bất biến với bất cứ giá nào, không thay đổi hay bóp méo hoặc giảm khinh hay thỏa hiệp sự thật ấy bằng bất cứ cách nào, ở bất cứ khía cạnh nào, vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu: "lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".

 

"Ðừng thề chi cả" đó là lời khuyên dậy vô cùng khôn ngoan của Đấng "là sự thật" (Gioan 14:6), "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), Đấng không bao giờ thề chi hết, cho dù gặp những trường hợp mà theo quan điểm nhân loại cần phải thề để thêm uy tín và lấy lòng tin của đối tượng là dân Người nói chung và các môn đệ của Người nói riêng, nhất là trường hợp các môn đệ bỏ đi sau khi nghe Bài Giảng về Bánh Sự Sống của Người (xem Gioan 6:60,66).

 

Bởi lời của Người chính "là thần linh và là sự sống" (Gioan 6:63) sẽ làm cho những ai tin vào Người nhận biết Người, nhờ đó chính họ sẽ được lời Người là chân lý giải phóng cho họ: "Nếu quí vị sống theo giáo huấn của Tôi thì quí vị thực là môn đệ của Tôi, rồi quí vị sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng quí vị" (Gioan 8:31-32).

 

Cảm Nghiệm

 

Như thế, muốn cho những gì mình nói và làm có một uy tín đáng tin, không cần phải thề thốt gì hết, không cần phải nhân danh một cái gì đó cao hơn mình để chứng giám, để tăng thêm uy tín cùng thế lực thu hút cùng chinh phục lòng người, con người cần phải sống thực với mình, phải sống với tất cả sự thật và sống trong sự thật, đến độ sự thật được hiện tỏ nơi con người họ, nơi tư tưởng, lời nói, việc làm và thái độ của họ, khiến người khác cảm mến và tin theo, nhờ đó những ai tin vào họ cũng được sự thật giải phóng.

 

Hành vi cử chỉ có một tác dụng thần linh của con người sống chân thật như thế, có thể nói, được biểu hiệu nơi cử chỉ Tiên Tri Elia "ném áo choàng mình trên ông (Êlisê)" là người, trong Bài Đọc 1 hôm qua, được Thiên Chúa chọn thay thế Tiên Tri Elia. Thế rồi, tác dụng từ tấm "áo choàng" của Tiên Tri Elia đã khiến cho Elisê hưởng ứng và đáp ứng liền một cách hết sức tích cực, như Bài Đọc 1 đã cho thấy:

 

"'Xin cho tôi về hôn cha mẹ tôi đã, rồi tôi sẽ theo Ngài'. Êlia nói với ông: 'Cứ về rồi trở lại, vì ta đã làm gì ngươi đâu?' Êlisê rời Êlia, bắt đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi, nấu thịt bò và đem cho dân chúng ăn. Ðoạn Êlisê chỗi dậy đi theo làm đồ đệ Êlia".

 

Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô, khi lãnh nhận Phép Rửa, đã được mặc lấy Chúa Kitô là con người mới của họ, nên họ chỉ cần hiệp nhất nên một với Chúa Kitô là họ có thể làm cho Chúa Kitô tỏ mình ra qua họ, nơi lời nói, việc làm và phản ứng đầy Kitô tính của họ, không bao giờ có tính cách phản kitô của họ, nhờ đó, họ trở nên chứng nhân trung thực và sống động của Chúa Kitô, và nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mà tất cả những gì xuất phát từ họ đều có một mãnh lực thần linh lôi cuốn và thu hút con người về với Chúa Kitô.

 

Thế nhưng, để đạt được mục đích và tác dụng thần linh tối đa như thế, Kitô hữu cần phải liên lỉ gắn bó với Chúa Kitô, với Thiên Chúa, như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay sau đây:

 

1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.

3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát.  

 

Thánh BARNABA TÔNG ĐỒ





 

Hôm nay, trong số đạo binh đông đảo nam nữ cộng tác viên của Thánh Phaolô, chúng ta chú trọng tới 3 vị trong số những nhân vật ấy, những vị có một vai trò quan trọng trong việc truyền bá phúc âm hóa từ ban đầu là Barnabê, Silas và Apollos.

 

‘Barnabas’ nghĩa là ‘người con của niềm khích lệ’ (Acts 4:36) hay ‘người con của niềm ủi an’, là biệt hiệu của một người Do Thái thuộc giòng họ Levi sinh quán ở Cyprus. Di chuyển về Giêrusalem, ngài là một trong những người đầu tiên theo Kitô Giáo sau khi Chúa Kitô phục sinh.

 

Với tấm lòng rất quảng đại, ngài đã bán một thửa ruộng của mình, dâng cúng tiền bạc cho các vị Tông Đồ để giải quyết nhu cầu trong Giáo Hội (x Acts 4:37). Ngài trở thành bảo đảm viên đối với việc hoán cải của Thánh Phaolô đối với cộng đồng Kitô hữu ở Giêrusalem, một cộng đồng vẫn tỏ ra ngờ vực về nhân vật đã từng bắt bớ mình (x Acts 9:27).

 

Được gửi tới Antiôkia xứ Syria, ngài đã tìm kiếm Phaolô ở Tarsê là nơi Phaolô đã đến, và ngài đã sống ở đó cả năm với Phaolô, dấn thân thực hiện việc truyền bá phúc  âm hóa cho thành phố quan trọng đó, và ngài đã có tiếng là ngôn sứ và y sĩ tại Giáo Hội ở đấy (x Acts 13:1).

 

Vậy Thánh Barnabê, ở vào thời điểm xẩy ra những cuộc hoán cải đầu tiên  của dân ngoại, đã hiểu rằng giờ khắc của Saulê đã điểm; Saolê đã đến Tarsê là thành phố của mình. Ngài đã đến đó để tìm Saolê. Vào giây phút quan trọng ấy, ngài đã thực sự mang Phaolô về cho Giáo Hội; ngài đã cống hiến một lần nữa Vị Tông Đồ Dân Ngoại cho Giáo Hội ở một nghĩa nào đó.

 

Từ Giáo Hội ở Antiôkia, Thánh Barnabas được sai đi truyền giáo cùng với Thánh Phaolô, thực hiện cuộc hành trình được gọi là cuộc truyền giáo đầu tiên của vị Tông Đồ này. Thực ra, đó là cuộc truyền giáo của Thánh Barnabê, vì ngài là người được giao phó trách nhiệm. Thánh Phaolô liên hợp với ngài như là một hợp tác viên, băng qua những miền đất của Cyprus và miền trung nam phần của Anatolia là Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay, qua các thành phố Atalia, Perga,  Antioch ở Psidia, Lycaonia, Lystra and Derbe (x Acts 13:14).

 

Thế rồi, cùng với Thánh Phaolô, ngài đã về tham dự biến cố được gọi là Công Đồng Giêrusalem, một công đồng mà sau khi sâu xa khảo sát vấn nạn được đặt ra, các Tông Đồ cùng với các vị trưởng lão đã quyết định loại bỏ vấn đề thi hành việc cắt bì (x Acts 15:1-35).

 

Cuối cùng, chỉ có thế các vị mới chính thức cho phép thành lập Giáo Hội nơi dân ngoại, một Giáo Hội phi cắt bì: Chúng ta là con cái của Abraham chỉ bằng đức tin vào Chúa Kitô mà thôi.

 

Hai vị, Thánh Phaolô và Barnabê, sau này đã trở nên đối chọi với nhau vào đầu cuộc hành trình truyền giáo thứ hai, vì Thánh Barnabê muốn đem John Marcô them, trong khi Thánh Phaolô lại không, cho rằng con người trẻ này đã tách khỏi các vị trong cuộc hành trình trước đó (x Acts 13:13, 15:36-40).

 

Thế nên, giữa các vị thánh cũng có những đối chọi, bất hòa và tranh cãi. Và đối với tôi thì đó là điều rất an ủi, vì chúng ta thấy rằng các thánh nhân đã không phải là những người ‘từ trời rơi xuống’. 

 

Họ cũng là người như chúng ta, với những thứ trục trặc rắc rối. Thánh thiện không phải là ở chỗ chẳng vấp phải lỗi lầm chi hay chẳng bao giờ sa ngã phạm tội. Thánh thiện gia tăng theo khả năng hoán cải, thống hối, sẵn sàng bắt đầu lại, nhất là theo khả năng hòa giải và thứ tha.

 

Có thế, Thánh Phaolô, vị tỏ ra khó khăn và cay nghiệt với Thánh Marcô, cuối cùng đã gặp lại Thánh Marcô. Trong những bức thư cuối cùng của Thánh Phaolô, một gửi cho Philêmon và một (bức thứ hai) gửi cho Timôthêu, Thánh Marcô đã xuất hiện thực sự như là ‘hợp tác viên của tôi’.

 

Chúng ta không trở thành thánh nhân vì chúng ta không bao giờ vấp phải một lỗi lầm nào, mà vì khả năng chúng ta có thể thứ tha và hòa giải. Và tất cả chúng ta đều có thể học biết đường lối nên thánh này. Dầu sao thì Thánh Barnabê cùng với Thánh Marcô đã trở về Cyprus (x Acts 15:39) khoảng năm 49.

 

Từ đó trở đi thì tất cả mọi dấu vết về ngài đều bị thất lạc. Giáo phụ Tertullian đã qui cho ngài Bức Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái, rất có thể vì thuộc về chi họ Levi Thánh Barnabê đã chú trọng tới đề tài về thiên chức linh mục. Và Bức Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái giải thích một cách đặc biệt vai trò tư tế của Chúa Giêsu đối với chúng ta.

 

ĐTC Biển Đức XVI: Thứ Tư 31/1/2007 - Bài 29: Thánh Barnabê, và Sila với Apollos



http://www.thoidiemmaria.net/GIAOHOI/Giao%20Ly%20ve%20Giao%20Hoi/Bai22.htm

Thánh Barnaba vốn là một Thầy Lê-vi, và là con của một chủ trang trại người Sýp, gốc Do-thái. Tên khai sinh của Ngài là Giu-se, nhưng các Tông Đồ đã đổi tên cho Ngài là Barnaba, nghĩa là người có tài yên ủi (Cv 4,36). Trong cuộc bầu chọn để trở thành thành viên của nhóm Mười Hai, Barnaba cũng là một trong hai ứng cử viên được đề cử để thế chỗ cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Tuy nhiên khi các Tông Đồ tổ chức rút thăm thì Ngài đã không trúng, nhưng thánh Mát-thi-a đã trúng (Cv 1,23-26). Sau khi gia nhập cộng đoàn Giáo hội sơ khai, Thánh Nhân đã bán hết tài sản, nhà cửa và ruộng vườn của mình đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ (Cv 4, 36-37). Thánh Nhân còn là người có tài khuyên bảo, đầy Thánh Thần và Đức Tin (Cv 11,23-24). Không những thế, Thánh Bác-na-ba còn là người bảo lãnh để Cộng đoàn Giáo hội tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem đón nhận Thánh Phao-lô, khi vị Tông Đồ này trở lại (Cv 9,26-27).

Sau khi Thánh Phao-lô bị gửi về quê, còn mình thì được các Tông Đồ cử đến Antiochia (tức Antakya ngày nay), Thánh Barnaba đã trẩy đi Tác-xô để tìm Thánh Phao-lô. Sau đó cả hai cùng trở lại Antiochia và cùng hoạt động truyền giáo tại đó trong suốt một năm (Cv 11,22-26). Thánh Barnaba cũng đồng hành với Thánh Phao-lô trong cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên tới đảo Sýp, cũng như tới vùng Tiểu Á. Cả hai đã cùng tham dự Công Đồng Giê-ru-sa-lem. Tại Công Đồng này, các Tông Đồ đã thống nhất đưa ra quyết định sẽ thi hành sứ mạng truyền giáo cho cả người Do-thái lẫn người gốc dân ngoại (Cv 15,2-35).

Một cuộc tranh cãi đã nổ ra giữa Thánh Phao-lô và Thánh Barnaba vì vấn đề liên quan đến bổn phận phải tuân giữ những quy định của Do-thái giáo đối với các Ki-tô hữu gốc dân ngoại (Gl 2,11-14; Cv 15,22-35), cũng như vì vấn đề của Gio-an Mác-cô, em họ của Barnaba. Do cuộc tranh cãi này nên hai vị Tông Đồ đã chia tay nhau. Sau đó, Thánh Barnaba cùng với Thánh Mác-cô đến thăm các Cộng Đoàn tại đảo Sýp, quê hương của Ngài (Cv 15,39). Theo nhiều truyền thuyết có tính huyền thoại, thì Thánh Barnaba đã chữa lành nhiều bệnh tật bằng cách dùng cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu mà Ngài luôn mang theo mình, để đặt lên đầu các bệnh nhân. Cũng theo truyền thuyết, Thánh Barnaba còn đến truyền giáo tại Rô-ma, và đã ban Bí Tích Thanh Tẩy cho một tân tòng, mà sau này người tân tòng ấy đã trở thành Giám mục của Rô-ma, tức Đức Giáo Hoàng Clê-men-tê I. Rời Rô-ma, Ngài đến Mi-lan, và được coi là Giám mục tiên khởi của Giáo đoàn này. Nhưng theo một truyền thuyết khác thì Thánh Bác-na-ba đã trở lại đảo Sýp, và tại đó, Ngài được phúc Tử Đạo với việc bị ném đá đến chết.

Một số chuyên gia đã coi Thánh Barnaba ngang hàng với Thánh Phao-lô về tầm quan trọng của Ngài trong công cuộc truyền giáo cho dân ngoại. Có một bức thư mang tên Ngài, nhưng nó được coi là mạo danh, và cũng được xếp vào hàng các sách Ngụy Thư. Bức thư này muốn chứng minh những giáo thuyết của Ki-tô giáo nguyên thủy về Chúa Giê-su Ki-tô và về cuộc khổ hình của Ngài như là sự tương ứng và hài hòa với Cựu Ước; trong thời Giáo hội cổ đại, bức thư này đôi khi được coi là thành phần của quy điển Tân Ước. Thực tế thì bức thư đó đã xuất hiện khá muộn, chỉ khoảng vào năm 130, và với cách giải thích Cựu Ước có tính bài Do-thái của mình, nên nó không được công nhận là của Thánh Barnaba. Cũng có một cuốn Tin Mừng mạo danh Thánh Nhân, nhưng tiếc rằng nó đã bị thất truyền. Một tác phẩm khác cũng mạo danh Thánh Nhân, nhưng mãi tới thế kỷ XVI nó mới được biên soạn. Theo một truyền thống trước đây, mà truyền thống này phát xuất từ Tertullianô, Thánh Barnaba được coi là tác giả của Thư gửi Tín Hữu Do-thái. Các Giáo hội Chính Thống đã liệt Thánh Nhân vào nhóm 70 môn đệ do đích thân Chúa Giê-su tuyển chọn.

Tương truyền về việc Thánh Barnaba được hưởng phúc Tử Đạo tại đảo Sýp xem ra đáng tin cậy hơn. Nếu đúng thế thì Ngài đã được phúc Tử Đạo vào khoảng năm 63 dưới thời hoàng đế Nero, và được an táng tại đó trong một hang mộ của một nghĩa trang lớn thuộc vùng Salamis cổ, tức khu hoang tàn của Famagusta ngày nay (phía Đông đảo Sýp). Một ngôi Thánh Đường của Giáo hội Sýp đã được kiến thiết ngay trên ngôi mộ của Ngài. Sau một cuộc tranh cãi lâu dài giữa các nhà lãnh đạo của Giáo hội Sýp với Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Antiochia về tính độc lập của Giáo hội Sýp, tại Công Đồng Ê-phê-sô, các Nghị Phụ đã đưa ra quyết định nghiêng về Giáo hội Sýp, nhưng Antiochia đã thu hồi quyết định đó. Theo tương truyền, vào năm 477, trong một buổi tối, Thánh Barnaba đã hiện ra với Đức Tổng Giám Mục Anthemios của đảo Sýp, và đã chỉ cho Đức Tổng Giám Mục này biết vị trí ngôi mộ của Ngài. Sau đó, thi hài của Thánh Nhân đã được tìm thấy. Khi khai quật ngôi mộ của Ngài, người ta phát hiện ra rằng, lúc Thánh Bác-na-ba qua đời, người bạn đường của Ngài là Thánh Mác-cô, đã an táng Ngài với một cách thức hết sức trang trọng. Trên ngực của Thánh Barnaba có đặt một bản sao cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu do chính Thánh Barnaba chép lại. Đức Tổng Giám mục Anthemios đã cấp tốc báo cho triều đình hoàng đế Zenon tại Constantinopoli biết tin về vụ khai quật. Với viêc đó, vị Tổng Giám mục của Giáo hội Sýp đã thành công trong việc thuyết phục nhà cầm quyền rằng, Giáo hội Sýp được thành lập bởi Thánh Barnaba, nên không ít tính Tông Truyền hơn Giáo hội Antiochia, và vì thế được coi là ngang hàng với Giáo hội đó. Một nguồn suối đã bắt nguồn ngay bên cạnh ngôi mộ trống ngày nay. Nguồn suối ấy được cho là có khả năng chữa lành cũng như có nhiều khả năng kỳ diệu khác, đặc biệt là đối với những phụ nữ vô sinh và những bệnh ngoài da. Vào năm 1953, một nhà nguyện mới đã được kiến thiết ngay trên phần mộ được cho là của Thánh Barnaba.

Các Thánh Tích của Thánh Barnaba đã được bảo quản và tôn kính tại nhiều nhà thờ khác nhau trên nước Ý, cũng như tại một số nơi khác như Prag (Tiệp Khắc), Köln, Andechs (Đức), Toulouse (Pháp) và Namur (Bỉ).

Từ năm 1530, Hội Dòng do Thánh Anton Maria Zaccaria thành lập đã đến đóng đô tại Tu Viện Thánh Barnaba ở Mi-lan. Người ta cũng gọi Hội Dòng này là Dòng Thánh Barnaba.

Vào năm 1521, người Pháp muốn đánh chiếm thành phố Logroño của Tây-ban-nha. Nhưng sau hơn 6 tuần vây hãm, người Pháp vẫn không sao chiếm được thành phố ấy, nên đành phải rút quân. Ngày lui binh của quân đội Pháp rơi đúng vào ngày 11 tháng 06 cùng năm. Vì thế, ngay sau khi quân Pháp thoái triệt, Thánh Barnaba đã được thành phố Logroño nhận làm Bổn Mạng. Trong ngày mừng Bổn Mạng của mình, người dân thành phố Logroño luôn sử dụng cá để làm món ăn chính, vì trong suốt hơn 6 tuần bị người Pháp vây đánh, dân chúng trong thành phố này đã sống sót nhờ vào việc ăn cá được bắt từ hồ Ebro.

Ngay từ thế kỷ thứ IX, Thánh Barnaba đã được Giáo hội Rô-ma mừng kính vào ngày 11 tháng 06 hàng năm, nhưng các Giáo hội Phương Đông thì lại cử hành Lễ kính Thánh Nhân vào ngày 11 tháng 04.

Giáo hội Tin Lành và Giáo hội Anh giáo cũng cử hành Lễ Kính Thánh Barnaba vào ngày 11 tháng 06.

Còn các Giáo hội Chính thống thì cử hành hai ngày để kính Thánh Barnaba, đó là ngày mồng 04 tháng Giêng và ngày 11 tháng 06.

Riêng tại Giáo hội Armenia thì Thánh Barnaba được mừng kính tới 4 ngày, gồm: mồng 09 tháng 04, 11 tháng 06, 29 tháng 10, và thứ Năm sau Chúa Nhật Suy Tôn Thánh Giá.

Giáo hội Cóp-tít cử hành hai ngày Kính Thánh Barnaba: 11 tháng 06 và 17 tháng 12.

Giáo hội Chính Thống Syria cử hành ba ngày kính Thánh Barnaba, gồm: 11 tháng 05, 11 tháng 06 và 17 tháng 12.

Lm Đa-minh Trần Tiến Thiệu, O.Cist

Thánh Barnaba là một trong bảy mươi môn đệ đầu tiên đã nghe Chúa Giêsu giảng dạy và đã trở thành môn đệ của Ngài.

Thánh nhân cùng với thánh Phaolô đi truyền giáo ở Antiôkia, nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy và tài giảng thuyết, ngài đã đưa được biết bao nhiêu người trở về với Chúa. Barnaba và Phaolô được Chúa trao cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Dân bản xứ và các người ngoại giáo, đón tiếp các ngài một cách nhiệt tình, và tin theo các ngài. Tuy nhiên cũng có những người Do Thái có óc thủ cựu, hẹp hòi đã tìm cách gièm pha, chế giễu, xúi giục những thành phần bất hảo ngược đãi và trục xuất các ngài (Cv 13,50). Chúa cho các ngài làm nhiều phép lạ: xua trừ ma quỷ, chữa bệnh, làm cho kẻ chết sống lại để củng cố niềm tin của các tân tòng.

Xin Chúa cho chúng ta cũng biết nhiệt thành công tác trong công việc nhà Chúa.

I. ĐÔI HÀNG TIỂU SỬ

Banaba “là một người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin’’ (Cv 11,23). Ngài được sách Công Vụ nhận là Tông Đồ (14,4) cho dù ngài không thuộc nhóm Mười Hai

Ngài là một người Do Thái thuộc giáo tỉnh Cypern, gốc Lêvi và tên gọi là Giuse. Chúng ta không biết ngài đã gia nhập Kitô giáo lúc nào. Như Sách Tông Đồ Công Vụ ghi, ngài có lòng đại độ: “Giuse, người đã được các Tông Đồ đặt tên là Banaba nghĩa là con của sự an ủi một người Lêvi, người gốc Kyprô, có một thửa ruộng, ông đã bán đi và đem bạc đặt dưới chân các Tông Đồ” (Cv 4,36-37)

Ngài là người hướng dẫn Saolô sau khi Saulô trở lại đến gặp các vị Tông Đồ ở Giêrusalem (Cv 9,26-27). Sau này vào khoảng năm 42, Barnaba đã tìm đến với Saolô ở Tarsô rồi cùng với Phaolô sang truyền giáo tại Antiôkia. Trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất này, cả hai đi Kyprô và mạn nam Tiểu Á. Chính các ngài đã đi Giêrusalem dự Công Nghị Tông Đồ để đấu tranh cho việc những người dân ngoại, khi gia nhập Kitô giáo, không phải lệ thuộc Lề Luật cũ. Sau đó xẩy ra một cuộc tranh cãi giữa hai người. Lý do là vì Phaolô không muốn đem theo Marcô, bà con của Banaba đi theo mình trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai cho nên Banaba đã đem Marcô đi với mình đến Kyprô (Cv 15,39).

Theo truyền thuyết, sau này Banaba bị ném đá chết tại Salamít. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

II. CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH

Phaolô và Banaba đều là những tông đồ nhưng cá tính và cách đối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẻo. Bởi thế đôi khi hai ông đụng độ nhau:

Lần thứ nhất là về vấn đề ăn chung (Ga 2,13). Số là Giáo Hội đã có quyết định rằng lương dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ Do thái giáo, trong đó có tục lệ phân biệt những món ăn nào sạch những món ăn nào dơ. Bởi đó các tông đồ đều hòa đồng với lương dân, ăn chung bàn với họ. Nhưng một lần kia vì sự có mặt của những người Do thái nên và vì muốn tránh không muốn gây khó chịu cho họ, nên thánh Banaba và cả thánh Phêrô đã tránh ngồi chung bàn ăn với những người lương tòng giáo. Lần đó Phaolô đã nổi giận đứng lên công khai trách hai người nặng lời. Sách thánh không viết gì về phản ứng ngược lại của hai vị, tức là hai vị đã nhịn. Chúng ta nên để ý: Lúc đó Phêrô vị lãnh đạo Giáo Hội, và Banaba người đỡ đầu cho Phaolô. Phaolô chỉ là một người đến sau, một người cấp dưới. Là một người đến sau và người cấp dưới vậy mà hôm nay Phaolô dám công khai chỉ trích hai bậc trưởng thượng của mình trước mặt cả người Do thái lẫn người lương mới tòng giáo. Vậy mà hai Phêrô và Barnaba vẫn nhịn. Đây phải nói là một tấm gương hết sức sống động về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí.

Lần đụng độ thứ hai là về việc có liên quan đến Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba đã cho Marcô nhập đoàn. Nhưng sau một số gian khổ, Marcô đã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô rất giận. Đến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô đi theo, có ý là để cho Marcô đoái công chuộc tội. Nhưng Phaolô cương quyết không nhận. Phần vì Banaba thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên nhất định giữ anh này lại. Kết quả là Banaba và Phaolô đành phải chia tay nhau, mỗi người dẫn một đoàn truyền giáo riêng đi giảng mỗi người một hướng. Thật không dè rằng chuyện bất đồng này lại đưa đến kết quả tốt. Đó là việc truyền giáo càng ngày càng được đẩy mạnh hơn. Và thêm một kết quả nữa cũng hết sức tốt đẹp. Nó đã chứng minh cho quan điểm của Banaba là hợp lý. Đó là Barnaba đã thực sự cứu chữa được Marcô, không những đã giúp Marcô trở thành một tông đồ nhiệt thành mà sau này còn là tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.

Tóm lại chúng ta thấy mỗi người chúng ta khi sinh ra đã mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.

https://dongnuvuonghoabinh.org/hanh-cac-thanh/ngay-1106-thanh-barnaba-tong-do-39015.html



…Thánh Barnaba là một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội. Ngài đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Đồng thời, chính ngài là người đã đứng ra đảm bảo về sự trở lại thực sự của thánh Phaolô trước mặt cộng đoàn Kitô hữu khi Phaolô mới trở lại đạo…

Mặc dù thánh Barnaba không phải là một người trong nhóm mười hai tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, nhưng thánh Luca coi ngài như vị tông đồ, vì ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Thánh nhân là người gốc Do Thái, sinh tại đảo Síp. Tên của ngài là Giuse, nhưng các tông đồ đổi thành Barnaba sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông đồ cai quản. Danh xưng này có nghĩa là “người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi”.

Thánh Barnaba là một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội. Ngài đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Đồng thời, chính ngài là người đã đứng ra đảm bảo về sự trở lại thực sự của thánh Phaolô trước mặt cộng đoàn Kitô hữu khi Phaolô mới trở lại đạo. Sau đó, Barnaba được sai đi rao giảng ở Antiôkia để rao giảng Tin Mừng. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnaba đã xin Phaolô đến giúp sức cho mình. Cả hai đã xây dựng một Giáo Hội thật phát triển tại nơi đây. Theo sách Công Vụ Tông Đồ, chính ở Antiôkia mà “lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu”.

Sau một thời gian, Chúa Thánh Thần đã chọn thánh Barnaba và thánh Phaolô để thực hiện một sứ vụ quan trọng, đó là đem Tin Mừng đến cho dân ngoại. Do đó, hai ông đã khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên ở nước ngoài, trước hết là đến Síp và sau đó là đến lục địa Tiểu Á. Lúc đầu các ngài rao giảng cho người Do Thái, nhưng bị chống đối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và đã thành công lớn. Tuy nhiên, công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh một vấn đề là người tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Thánh Phaolô và Barnaba đã chống đối tập tục này và lập trường của các ngài đã được Công đồng Giêrusalem chấp thuận, tức là những người ngoài Do Thái khi rửa tội không buộc phải chịu cắt bì.

Barnaba và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo của mình, nhưng ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra là có nên đem theo một môn đệ nữa hay không, là ông Máccô, vị thánh sử tương lai. Vì vấn đề này mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnaba đem Máccô đến đảo Síp. Sau này cả ba người là Phaolô, Barnaba và Máccô đã làm hòa với nhau.

Tuy không có những dữ kiện rõ ràng, nhưng theo truyền thuyết thì thánh Barnaba đã được phúc tử đạo tại Síp vào năm 61. Đồng thời, truyền thống Hội Thánh nhìn nhận ngài là vị sáng lập Hội Thánh tại đảo Síp. Bên cạnh đó, người ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448 và trên ngực ngài còn có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba đã chép tay.

Thánh Barnaba là mẫu gương về lòng nhiệt thành trong việc rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, và là mẫu gương về một đời sống khiêm nhường, bác ái và chia sẻ cho tha nhân. Chúng ta hãy cầu xin thánh nhân phù trợ cho mỗi người chúng ta, để trong đời sống thường ngày chúng ta biết quan tâm và chia sẻ Tin Mừng tình yêu của Chúa đến cho mọi người.

https://danchuahiepthong.wordpress.com/2019/06/11/thanh-barnaba-tong-do/


Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của sách công vụ tông đồ, không phải cho mình mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh hùng trong cuốn sách. Ngài là một người Do thái được sinh tại Chypre. Và là một phần tử trong Giáo hội sơ khai ở Giêrusalem.
 
Chính ở địa vị này mà khoảng năm 39, tân tòng Saolê được đón nhận vào cộng đoàn các tông đồ (Cv 9-27). Bốn năm sau, ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo mới được thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26). Thành phố này rất quan trọng, chỉ kém Rôma và đã trở nên trung tâm Kitô giáo của lương dân. Một lần nữa, cùng với Saolê, ngài được trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi về cho Giáo hội Giêrusalem (Cv 27-30). Nơi đây hai người lại được Gioan Maccô là bà con của Barnaba (Gl 4,10) nhập bọn. Ba người họp thành đoàn truyền giáo, lên đường khoảng năm 45 (Cv 13 và 14). Từ đây Barnaba dần dần ẩn mặt đi. Dầu Chypre là sinh quán của ngài, nhưng chính Saolê dưới tên mới là Phaolô dẫn dầu cuộc truyền bá Phúc âm. Phaolô và đoàn tùy tùng lên đường tới lục địa Tiểu Á. Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba được coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes.
 
Đây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông. Ba năm sau Phaolô trở về và được Công đồng Giêrusalem phê chuẩn về đường lối ngài theo trong chuyến hành trình (Cv 15,1-35). Năm sau, dự định hành trình truyền giáo thứ hai có sự tranh chấp về việc kết nạp Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn đồng hành khác và Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô đã được hoàn thành và tên ngài không còn được nhắc đến trong sách Công vụ nữa. Trong việc trao đổi thư từ của Phaolô với Giáo hội Côrintô cho thấy khoảng năm 56 thánh Barnaba vẫn còn sống (1Cr 9,5). Sáu năm sau Phaolô xin Marcô đến gặp mình ở Rôma (2Tm 4). Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba đã qua đời.
 
Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan, ngài là Giám mục tiên khởi. Một truyền thống đáng tin hơn cho biết ngài chết vì ném đá ở Salamine, sinh quán của ngài.
 
Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thư Phúc âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnaba. Nhưng những tài liệu này không cho biết nhiều hơn những điều đã biết được từ sách Công vụ các tông đồ. (Cuốn gọi là thơ thánh Barnaba mà nhiều Giáo phụ chép vào thư mục Thánh kinh, nay người ta biết được là tác phẩm của một người Do thái theo Kitô giáo ở Alexandria).
 
Người ta nói rằng mộ ngài được tìm thấy năm 448. Trên ngực ngài còn có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba đã chép tay. 

Theo Vết Chân Người - Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý

https://giaophanphucuong.org/phung-vu-chu-thanh/thanh-barnaba-tong-do-1732.html

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-barnaba-tong-do-42850


“Vị thánh này có phúc, vì đáng được kể thêm vào số các Tông Đồ: Người thật là tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin”( Cv 11, 24 ). Thánh Barnabê là một trong 72 môn đệ đầu tiên đã nghe Chúa Giêsu giảng dậy và đã trở thành môn đệ của Ngài

 THÁNH BARNABÊ, MÔN ĐỆ CỦA CHÚA GIÊSU:

Đã có lần, có dịp nghe Chúa Giêsu giảng dậy và đã chứng kiến Chúa Giêsu làm phép lạ, thánh Barnabê đã trở thành một trong 72 môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Vì Chúa Giêsu đã nói:” Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái...”( Ga 15, 16 ).Chính Chúa Giêsu đã chọn Barnabê để thánh nhân làm chứng cho tình yêu của Chúa và giới thiệu Chúa Giêsu cho nhiều người. Sau biến cố Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sai Barnabê đi truyền giáo ở Antiokia, một miền trù phú và thịnh vượng, phồn vinh nhất lúc bấy giờ. Và như lời Chúa nói:”...hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danhThầy thì Thầy ban cho anh em”( Ga 15, 16 ). Thánh Barnabê luôn có Chúa Thánh Thần tràn đầy và nhờ tài giảng thuyết, Ngài đã đưa được biết bao nhiêu người trở về với Chúa. Thánh nhân đã mời thánh Phaolô về ở với mình và cùng giảng dậy, loan báo Tin Mừng ở Antiokia. Sau đó, thánh nhân mang món tiền mà Ngài đã quyên góp được về Giêrusa lem gặp các vị kỳ mục và các tông đồ khác. Đường lối và ý nhiệm mầu của Chúa lại khác, Barnabê và Phaolô lại được trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, nên các Ngài lại trẩy đi Séleucie và Chypre. Dân bản xứ và các người ngoại giáo, đón tiếp các Ngài một cách nhiệt tình, họ tin theo các Ngài. Tuy nhiên cũng có những người Do Thái có óc thủ cựu, hẹp hòi đã tìm cách gièm pha, chế diễu và nói nhiều lời ngạo mạn đối với các Ngài, họ xúi giục những thành phần bất hảo ngược đãi và trục xuất các Ngài ( Cv 13, 50 ). Chúa cho các Ngài làm nhiều phép lạ: xua trừ ma quỉ, chữa bệnh, làm cho kẻ chết sống lại để củng cố niềm tin của các tân tòng.

 CHÚA THƯỞNG CÔNG CHO THÁNH BARNABÊ:

Thánh Barnabê và thánh Marcô tiếp tục rao giảng ở đảo Chypre. Chúa đã yêu thương cho thánh Barnabê được lãnh triều thiên qua cái chết tử đạo của Ngài:” Hạt lúa mì rơi xuống đất không thúi đi, thì nó sẽ không sinh nhiều bông hạt...”. Người Do Thái ở Syria đã xúi giục dân chúng ném đá và xử tử thánh Barnabê. Đời Hoàng Đế Zénon, vào năm 488, người ta đã tìm thấy xác của thánh Barnabê tại Salamine thuộc đảo Chypre, Hy Lạp.

 Lạy Chúa, Chúa đã truyền phải dành riêng thánh Barnabê là một người đầy lòng tin và Thánh Thần, để thánh nhân đưa dân ngoại về với Chúa. Xin cho mọi tín hữu biết dùng lời nói và việc làm để trung thành loan báo Tin Mừng Đức Kitô như thánh nhân đã can đảm rao truyền( ca nhập lễ, lễ thánh Barnabê, tông đồ ).      

  Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

http://mtgcaimon.net/mtgnews/index.php/suy-niem/hanh-cac-thanh/2023-thanh-barnaba-tong-do.html

 

Tên của Dù không phải là một trong số mười hai Tông đồ được Đức Chúa Giêsu tuyển chọn, nhưng Thánh Barnaba (Barnabê) được Thánh ký Luca gọi là tông đồ trong sách Tông đồ Công vụ của ngài.ngài là Giuse nhưng các tông đồ đổi thành Barnaba. Danh xưng này có nghĩa là “con của sự an ủi”.

Dù không phải là một trong số mười hai Tông đồ được Đức Chúa Giêsu tuyển chọn, nhưng Thánh Barnaba (Barnabê) được Thánh ký Luca gọi là tông đồ trong sách Tông đồ Công vụ của ngài. Vì như Tông đồ Phaolô, Barnaba cũng nhận được từ Thiên Chúa một sứ vụ đặc biệt. Thánh nhân là người gốc Do Thái, sinh tại đảo Cyprô. Tên của ngài là Giuse nhưng các tông đồ đổi thành Barnaba. Danh xưng này có nghĩa là “con của sự an ủi”.

Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba được coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes. Đây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông.

Ngay khi trở thành Kitô hữu, Thánh Barnaba đã bán tất cả những gì ngài có và đem tiền dâng cho các Tông đồ. Thánh nhân là người tốt bụng. Ngài rất nhiệt thành hăng say tin yêu Đức Chúa Giêsu. Barnaba được sai đến thành Antiôkia để rao giảng Tin mừng. Antiôkia là thành phố lớn thứ ba trong đế quốc Rôma thời ấy. Tại đây, những người tin theo Đức Chúa Giêsu lần đầu tiên được gọi là Kitô hữu. Barnaba nhận thấy mình cần sự giúp đỡ nên liền nghĩ tới Phaolô thành Tarsô. Ngài tin rằng Phaolô đã thực sự được ơn trở lại. Chính Barnaba đã đứng ra thuyết phục Thánh Phêrô và cộng đoàn Kitô hữu; và đã xin cho Phaolô đến làm việc với mình. Barnaba là người khiêm tốn. Ngài không ngại chia sẻ năng lực và trách nhiệm. Ngài cũng biết Phaolô có một ân sủng rất đặc biệt và ngài muốn Thánh nhân có cơ hội để trao ban.

Một thời gian sau, Chúa Thánh Linh đã chọn Phaolô và Barnaba để thực hiện một sứ vụ quan trọng. Sau đó không lâu, hai vị Tông đồ đã lên đường thực hiện sứ mệnh anh dũng này. Các ngài đã phải chịu nhiều đau khổ và thường hay gặp nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng giữa những thử thách cam go, việc rao giảng của các ngài đã thuyết phục được nhiều người trở về với Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người.

Sau đó, Thánh Barnaba tiếp tục thực hiện một cuộc truyền giáo khác. Lần này với Thánh Marcô, người bà con với ngài. Họ đi về Cyprô, quê hương của Barnaba. Qua việc rao giảng của Thánh Barnaba, rất nhiều người đã trở nên Kitô hữu đến nỗi Barnaba được gọi là Tông đồ của đảo Cyprô. Theo ý kiến chung, người ta cho rằng vị đại thánh này đã bị ném đá chết vào năm 61.

 Thánh Barnaba đã nhận một danh xưng biểu hiệu đúng con người của ngài: một người tốt luôn luôn khuyến khích người khác yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện với vị thánh này và xin ngài làm cho chúng ta cũng được trở nên những “người con của sự an ủi” như thánh nhân.

(Theo tinmung.net)

http://www.cgvdt.vn/lich/hanh-cac-thanh/thanh-barnaba_a2943