SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

Tuần XXIII Thường Niên Năm C (Chúa nhật) và Năm Chẵn (ngày trong tuần)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: Kn 9, 13-18

"Ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn".

Trích sách Khôn Ngoan.

Ai trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa? Hay ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn? Vì những ý tưởng của loài hay chết thì mập mờ, và những dự định của chúng tôi đều không chắc chắn. Vì xác hay hư nát làm cho linh hồn ra nặng nề, và nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề.

Chúng tôi ước lượng cách khó khăn các việc dưới đất, và khó nhọc tìm thấy những sự trước mắt. Còn những sự trên trời, nào ai khám phá ra được? Ai hiểu thấu Thánh ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống. Như thế, mọi đường lối những kẻ ở dưới đất được sửa lại ngay thẳng, và loài người học biết những sự đẹp lòng Chúa.

Vì, lạy Chúa, những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 89, 3-4. 5-6. 12-13. 14 và 17

Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).

Xướng: 1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến cho con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.

2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.

3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.

4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Plm 9b-10. 12-17

"Con hãy tiếp nhận nó không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh em rất thân mến".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gởi cho Philêmon.

Con thân mến, Phaolô già nua, và hiện đang bị cầm tù vì Ðức Giêsu Kitô, cha nài xin con cho Ônêsimô, đứa con cha đã sinh ra trong xiềng xích.

Cha trao nó lại cho con. Phần con, con hãy đón nhận nó như ruột thịt của cha. Cha cũng muốn giữ nó lại để thay con mà giúp đỡ cha trong lúc cha bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng vì chưa biết ý con, nên cha không muốn làm gì, để việc nghĩa con làm là một việc tự ý, chớ không vì ép buộc. Vì biết đâu nó xa con một thời gian để rồi con sẽ tiếp nhận muôn đời, không phải như một người nô lệ, nhưng thay vì nô lệ, thì như một người anh em rất thân mến, đặc biệt đối với cha, huống chi là đối với con, về phần xác cũng như trong Chúa. Vậy nếu con nhận cha là bạn hữu, thì xin con hãy đón nhận nó như chính mình cha vậy.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 25-33

"Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.

"Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế giễu người đó rằng: 'Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi'.

"Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Nếu Phụng Vụ Lời Chúa được Giáo Hội chọn đọc, bao gồm cả bài Phúc Âm là chính, và 2 Bài Đọc 1 và 2 đều phải hợp với bài Phúc Âm, thì đâu là mối liên kết chặt chẽ về ý nghĩa của cả 3 bài đọc cho Chúa Nhật Thường Niên 23 Năm C hôm nay? 

Ý tưởng chính của bài Phúc Âm được Thánh ký Luca thuật lại lời Chúa Giêsu “ngoảnh mặt lại” mà nói với “nhiều đám đông cùng đi với” Người rằng "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”. 

Nội dung thật sự của Bài Đọc 1, được trích từ Sách Khôn Ngoan, đó là niềm xác tin: “những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan”, nhbiết được ý định của Thiên Chúa”, “suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn”. 

Trong khi đó, Bài Đọc 2 lại chất chứa những lời khuyên khôn khéo theo thư Thánh Phaolô gửi cho Philêmon, những lời vị tông đồ dân ngoại này khuyên người môn đệ ấy hãy tự nguyện nhận lại tên nô lệ của mình là Ônêsimô như nhận lấy chính mình ngài. 

Căn cứ vào những ý tưởng chính nơi từng bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật 23 Thường Niên Năm C hôm nay, có thể nói như thế này: 

1-   Những ai muốn theo Chúa và theo Chúa thật thì phải làm theo ý Chúa muốn, theo lời Chúa dạy, dù ý Chúa và lời Chúa có trái với ý nghĩ, ý thích và ý muốn tự nhiên hợp tình hợp lý của mình, chẳng hạn như yêu thương và gắn bó với thân nhân của mình, hay đối xử công bằng với người khác theo quyền hạn của mình, như Philêmon với tên nô lệ Ônêsimô.

2-   Tất cả những gì là ý Chúa và lời Chúa đều thuộc về thượng giới, về lãnh vực siêu nhiên, có tính chất thần linh, hoàn toàn vượt trên những gì là tự nhiên của loài người, dù bản chất của tự nhiên là tốt, và ngược lại với những gì là đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu của họ, là những gì xấu xa dẫn đến tội lỗi, ngược lại và phản lại với ý Chúa và lời Chúa, nên ý Chúa và lời Chúa đã trở thành thập giá bất khả thiếu và bất khả tránh họ cần phải vác, trong việc muốn theo Chúa và “có thế” theo Chúa, mà nếu họ không chịu vác, không chấp nhận “thì không thể làm môn đệ Ta”.

3-   Những ai muốn theo Chúa mà không dám bỏ mình và vác thập giá là những con người không biết tính toán, như 2 trường hợp được Chúa Giêsu nêu lên trong Bài Phúc Âm hôm nay, liên quan đến việc xây cất và việc chiến đấu, vì việc vác thập giá theo Chúa không phải là những gì phá đổ hay thua bại, mà là đường lối nhờ đó tâm hồn theo Chúa xây nhà bản thân của mình trên nền đá đức tin vững chắc, và giúp cho cuộc đời của mình chiến thắng được tất cả những gì là cám dỗ và trở ngại thử thách trong sứ vụ chứng nhân.

4-   Trái lại, theo Chúa mà gặp phải gian nan khốn khó thử thách như thập giá bất khả thiếu mà buông bỏ hay tránh né, như trường hợp Philêmôn không dám chấp nhận tên nô lệ bỏ trốn của mình là Ônêsimô, như Thánh Phaolô khuyên can theo tinh thần Chúa Kitô, thì người môn đệ mang tên Philêmôn này ở trong tâm trạng được Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay cho biết: “Vì những ý tưởng của loài hay chết thì mập mờ, và những dự định của chúng tôi đều không chắc chắn. Vì xác hay hư nát làm cho linh hồn ra nặng nề, và nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề”.

5-   Nếu Philêmôn ngheo theo lời Thánh Phaolô chấp nhận tên nô lệ Ônêsimô đáng phạt của mình, thì đã hành động một cách khôn ngoan, nhờ ơn Chúa, đúng như Bài Đọc 1 đã thâm tín và khẳng định: “Chúng tôi ước lượng cách khó khăn các việc dưới đất, và khó nhọc tìm thấy những sự trước mắt. Còn những sự trên trời, nào ai khám phá ra được? Ai hiểu thấu Thánh ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống. Như thế, mọi đường lối những kẻ ở dưới đất được sửa lại ngay thẳng, và loài người học biết những sự đẹp lòng Chúa”.

6-   Và đó là lý do, lý do loài người tự mình không thể khôn ngoan trong việc chọn lựa những gì hợp với ý Chúa và lời Chúa, và do đó cũng không thể có khả năng đáp ứng ý Chúa và lời Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn thiện, mà con người mới cần phải ấp ủ một tâm nguyện bất khả thiếu, chẳng những của câu họa “Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia”, mà còn cả 4 câu xướng của Bài Đáp Ca tràn đây ý nghĩa Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay: “Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia":

1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến cho con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".

2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô.

3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.

4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.

 

ĐTC Phanxicô Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm C ngày 8/9/2013 về Chiến Tranh và Hòa Bình

"Theo Chúa Giêsu không có nghĩa là tham phần vào một cuộc phô diễn khải hoàn. Nó có nghĩa là tham dự vào tình yêu nhân hậu của Người, trở nên một thành tố cho đại sứ vụ tình thương của Người đối với từng người và hết mọi người... Mà việc thứ tha phổ quát này, tình thương này, xuất phát từ thập giá. Chúa Giêsu không muốn thực hiện sứ vụ này một mình: Người muốn bao gồm cả chúng ta nữa, trong sứ vụ mà Cha đã ủy thác cho Người... Người môn đệ của Chúa Giêsu từ bỏ tất cả những sự vật của mình, vì họ đã tìm thấy được nơi Người Sự Thiện cao cả nhất, trong đó hết mọi sản vật khác nhận được giá trị và ý nghĩa đích thực của mình: các mối liên hệ gia đình, các mối liên hệ khác, công việc, sự phong phú về văn hóa và kinh tế, vân vân.

"Ở đây, Chúa Giêsu không muốn bàn đến vấn đề chiến tranh - nó chỉ là một dụ ngôn. Thế nhưng vào thời điểm lúc này đây, khi mà chúng ta đang thiết tha nguyện cầu cho hòa bình, thì Lời này của Chúa gây tác động sâu xa nơi chúng ta, và Lời này chính yếu nói rằng: chúng ta cần phải chiến đấu với một cuộc chiến sâu xa hơn, tất cả chúng ta! Đó là cái quyết định mãnh liệt và can trường trong việc từ bỏ sự dữ cùng những những hấp dẫn của nó, mà chọn sự thiện, hoàn toàn sẵn sàng đánh đổi bản thân mình, đó là theo Chúa Kitô và vác lấy thập giá của mình! Nó là một cuộc chiến tranh sâu xa chống lại sự dữ! Nếu anh chị em không thể chiến đấu với trận chiến sâu xa để chống lại sự dữ ấy thì làm sao chống lại chiến tranh, nhiều thứ chiến tranh được chứ? Không có chuyện đó đâu! 

"Cuộc chiến chống lại sự dữ này có nghĩa là không chấp nhận hận thù huynh đệ tàn sát lẫn nhau, và không chấp nhận những thứ gian dối được nó sử dụng; là không chấp nhận bạo lực dưới tất cả mọi hình thức của nó; không chấp nhận vấn đề leo thang các thứ vũ khí và buôn bán vũ khí ở chợ đen. Có rất nhiều thứ vũ khí! Và mối ngờ vực luôn còn đó: thứ chiến tranh này xẩy ra ở đó, thứ chiến tranh kia xẩy ra ở đây - vì mọi nơi xẩy ra chiến tranh - thì có thực sự là một thứ chiến tranh về các vấn đề chăng, hay là một thứ chiến tranh về thương mại, để buôn bán những thứ vũ khí ấy ở chợ đen? Những kẻ thù ấy là thành phần chúng ta cần phải chiến đấu, một cách liên kết và gắn bó, không chạy theo những lợi lộc nào khác ngoài những lợi lộc của hòa bình và công ích.

"... Chúa Giêsu là mặt trời, Mẹ Maria là ánh sáng đầu tiên loan báo rạng đông của mặt trời này. Tối hôm qua chúng ta đã canh thức, kêu xin việc chuyển cầu của Mẹ trong lời chúng ta nguyện cầu cho hòa bình trên thế giới, nhất là ở Syria cũng như ở toàn vùng rung Đông. Vậy chúng ta hãy kêu cầu Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình. Nữ Vương Hòa Bình cầu cho chúng con!"

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo VIS (Vatican Information Service) kèm theo những chỗ tự ý nhấn mạnh

 

 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 5, 1-8

"Anh em hãy tẩy trừ men cũ, vì Chiên Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, người ta nghe nói giữa anh em có chuyện tà dâm, thứ tà dâm mà nơi dân ngoại cũng không có như vậy, là có người lấy vợ cha mình. Thế mà anh em còn lên mặt kiêu căng, đáng lẽ anh em phải để tang mà loại trừ khỏi anh em con người làm chuyện đó. Tuy tôi vắng mặt phần xác, nhưng hiện diện bằng tinh thần, tôi đã tuyên án kẻ làm chuyện đó, như tôi đang hiện diện, nhân danh Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô, tập họp anh em lại với tâm trí tôi, lấy quyền năng của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu, tôi trao con người như thế cho Satan, để xác nó chết đi, hầu cho tâm hồn nó được cứu thoát trong ngày của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu Kitô.

Việc anh em lên mặt kiêu căng không tốt đâu. Nào anh em chẳng biết rằng chỉ một dúm men là đủ làm hư cả khối bột đó sao? Anh em hãy tẩy trừ men cũ, để nên bột mới, như anh em là bánh không men. Vì Chiên Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế. Vì thế, chúng ta hãy mừng lễ không phải với men cũ, cũng không phải với men gian tà và độc ác, nhưng với bánh không men tinh tuyền và chân chính.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 5, 5-6. 7. 12

Ðáp: Lạy Chúa, xin dẫn con trong đức công minh (c. 9a).

Xướng: 1) Chúa không phải là Chúa tể ưa điều gian ác, kẻ độc dữ không được cư trú nhà Ngài, đứa bất nhân không thể đứng trước thiên nhan. Chúa ghét những kẻ làm điều gian ác. - Ðáp.

2) Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc ác và gian giảo, thì Chúa ghê tởm không nhìn. - Ðáp.

3) Nhưng hết thảy ai tìm đến Chúa sẽ mừng vui, họ sẽ hân hoan cho tới muôn đời. Chúa che chở họ, họ sẽ mừng vui bởi Chúa, đó là những kẻ yêu mến danh Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 6-11

"Các ông quan sát xem Người có chữa lành bệnh trong ngày Sabbat không".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở đó có một người tay hữu bị khô bại. Những luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người. Nhưng Người biết tư tưởng các ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây". Người đó đứng thẳng dậy. Ðoạn Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?" Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: "Ngươi hãy giơ tay ra". Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.

Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.

Ðó là lời Chúa.

Jesus heals a man's withered hand on the Sabbath Matthew 12:9-13

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Tối tăm thách thức ánh sáng

 

Lại xẩy ra một trận đụng độ nữa, liên tục, giữa Chúa Giêsu và "những luật sĩ và biệt phái", thành phần hình như luôn theo dõi nhân vật Giêsu Nazarét xuất đầu lộ diện một cách hết sức lạ kỳ, hầu như lập dị, rất ư là cấp tiến này, mà "quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người". 

Vì không phải là một con người bình thường, sợ áp lực đám đông và sợ áp lực quyền thế, Chúa Giêsu tỏ ra làm chủ tình hình, ở chỗ "Người biết tư tưởng các ông", thậm chí Người còn lợi dụng yếu điểm của đối phương để hạ gục họ: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?", nhưng họ vẫn bất chấp cho dù tận mắt chứng kiến thấy phép lạ Người làm "vào một ngày hưu lễ trong hội đường":

"'Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây'. Người đó đứng thẳng dậy. ... Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Người bảo người đó rằng: 'Ngươi hãy giơ tay ra'. Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành".

Họ chẳng những không bị thuyết phục bởi cả lý lẽ không thể chối cãi của Người, cũng như bởi phép lạ tỏ tường Người làm, trái lại, họ vẫn tiếp tục ngoan cố, đến độ: "Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu". 

Việc Chúa Giêsu, Đấng đến để cứu độ con người cả hồn lẫn xác, cố ý chữa lành cho "một người tay hữu bị khô bại" trong hội đường "vào ngày hưu lễ", như là một việc hoàn toàn trái luật hay phạm luật hoặc phá luật của ngày hưu lễ, theo quan niệm của thành phần thông luật và dạy luật trong dân chúng đây, không phải chỉ để chữa lành thể lý cho nạn nhân bị khô bại ở tay hữu, nhưng nhất là để nhờ phép lạ và qua phép lạ chữa lành này, Người khai trí mở lòng cho thành phần vốn sống giả hình, mù quáng, duy luật, chỉ sống theo chữ nghĩa chết chóc của lề luật hơn là tinh thần sống động của lề luật là lòng nhân ái. 
Sự kiện Người hầu như liên tục đụng độ với hai thành phần sư phụ trong dân chúng này, nhưng vẫn hết sức nhẫn nại làm cho họ mở mắt ra mà hầu như bất thành, chứng tỏ cho thấy: một đàng tâm thức duy luật đã trở thành bản chất tự nhiên của họ, khó lòng, nếu không muốn nói là hầu như bất khả, tẩy não, đàng khác, chính nhờ cái tâm thức cứ mù quáng này của họ mà Chúa Kitô cho thấy Người thật sự "là ánh sáng thế gian" (Gioan 12:8), "ánh sáng thật" (Gioan 1:9), "ánh sáng chiếu soi trong tăm tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng"(Gioan 1:5), "nơi Người tiềm ẩn mọi kho tàng khôn ngoan và thông hiểu" (Colose 2:3), như Thánh Phaolô đã xác tín và tuyên xưng. 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua Thư Thứ Nhất gửi cho Kitô hữu giáo đoàn Corinto, tông đồ Phaolô, nguyên là một tay biệt phái Saulê ngày xưa rất nhiệt thành với chung Do Thái giáo và với riêng lề luật, sau khi bất ngờ được hội ngộ với Đấng bị ngài bách hại, đã trải nghiệm được kinh nghiệm sống đức tin chân chính ra sao, một đức tin không thể chấp nhận chẳng những tội lỗi xấu xa đến ghê tởm, như trường hợp trong giáo đoàn này đã có "người lấy vợ cha mình
", mà cả cái tính "lên mặt kiêu căng" nữa. Bởi vì, như Thánh nhân cảnh giác họ và kêu gọi họ hãy sống xứng đáng với Chúa Kitô như sau:

"Việc anh em lên mặt kiêu căng không tốt đâu. Nào anh em chẳng biết rằng chỉ một dúm men là đủ làm hư cả khối bột đó sao? Anh em hãy tẩy trừ men cũ, để nên bột mới, như anh em là bánh không men. Vì Chiên Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế. Vì thế, chúng ta hãy mừng lễ không phải với men cũ, cũng không phải với men gian tà và độc ác, nhưng với bánh không men tinh tuyền và chân chính".

Những gì được Thánh Phaolô đề cập đến trong Bài Đọc 1 hôm nay liên quan đến tội lỗi, đã tội lỗi lại còn kiêu căng mù quáng như thành phần duy luật trong Bài Phúc Âm hôm nay, đều được Thánh Vịnh 5 nhắc nhở là hoàn toàn không hợp với Chúa, với Đấng Thánh của Israel, Đấng chỉ đoái thương những tâm hồn cởi mở và thành tâm tìm kiếm Ngài mà thôi:

1) Chúa không phải là Chúa tể ưa điều gian ác, kẻ độc dữ không được cư trú nhà Ngài, đứa bất nhân không thể đứng trước thiên nhan. Chúa ghét những kẻ làm điều gian ác.

2) Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc ác và gian giảo, thì Chúa ghê tởm không nhìn.

3) Nhưng hết thảy ai tìm đến Chúa sẽ mừng vui, họ sẽ hân hoan cho tới muôn đời. Chúa che chở họ, họ sẽ mừng vui bởi Chúa, đó là những kẻ yêu mến danh Ngài.

 

Ngày 05/09: Lễ Thánh Têrêsa Calcutta, nữ tu

 Một Biểu Tượng Bác Ái Kitô Giáo Trên Thế Giới

Chân Phước - 19/10/2003; Hiển Thánh - 4/9/2016

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp và chuyển dịch

Từ Màn Điện Toán Của Văn Phòng Tín Liệu Phong Chân Phước Cho Mẹ Têrêsa Calcutta
(HTTP://WWW.MOTHERTERESACAUSE.INFO/)

 

 

“Về huyết nhục thì tôi là người Albany.

Theo tính cách công dân thì tôi là một người Ấn Độ.

Với đức tin thì tôi là một nữ tu Công Giáo.

Theo ơn gọi của mình thì tôi thuộc về thế giới.

Với tâm hồn của mình thì tôi hoàn toàn thuộc về Trái Tim Chúa Giêsu”

Mẹ Têrêsa Calcutta: Cuộc Đời

Một con người sống cho đời

Agnes Gonxha Bojaxhiu, sau này là Mẹ Têrêsa, vào đời ngày 26/8/1910 ở Skopje, Macedonia, theo huyết tộc Alnania. Cha của bé là một thương gia được trọng vọng ở địa phương, qua đời khi bé mới được 8 tuổi, để lại mẹ của bé, một người phụ nữ sốt sắng đạo hạnh, làm nghề thêu thùa như kế sinh nhai cho gia đình. Sau thời gian niên thiếu hiết sức tham gia các hoạt động giáo xứ, Agnes đã rời gia đình vào tháng 9/1928 để nhập Nữ Tu Viện Loreto ở Rathfarnam (Dublin), Ái Nhĩ Lan, nơi cô đã được trở thành thử sinh ngày 12/10 và mang tên Têrêsa, tên của vị thánh quan thày là Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu.

Thử sinh Agnes đã được nhà dòng Loreto sai đến Ấn Độ, tới Calcutta ngày 6/1/1929. Khi đến nơi, chị thử sinh này nhập tập viện ở Darjeeling. Chị tập sinh này đã khấn trọn đời như là một sơ dòng Loreto ngày 24/5/1937, và sau đó sơ được gọi là Mẹ Têrêsa. Trong thời gian sống ở Calcutta vào thập niên 1930 và 1940, sơ đã dạy ở Trường Trung Học đệ nhất cấp Bengali Thánh Mary.

Vào ngày 10/9/1946, trên chuyến xe lửa từ Calcutta đến Darjeeling, Mẹ Têrêsa đã nhận được điều Mẹ gọi là “ơn gọi trong ơn gọi”, một ơn gọi làm phát sinh ra gia đình Thừa Sai Bác Ái của các Sư Muội, Sư Huynh, Linh Mục và Cộng Tác Viên. Nội dung của ơn soi động này được thể hiện nơi mục đích và sứ vụ Mẹ phác họa cho cơ cấu mới của Mẹ, đó là “làm giản cơn khát vô cùng của Chúa Giêsu trên thập giá vì yêu thương vì các linh hồn”, bằng “việc tận lực hoạt động cho phần rỗi và sự thánh hóa của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo”. Vào ngày 7/10/1950, hội dòng mới Thừa Sai Bác Ái được chính thức thành lập như là một tổ chức tu trì đối với Tổng Giáo Phận Calcutta.

Suốt thập niên 1950 và 1960, Mẹ Têrêsa đã phát triển công cuộc của hội dòng Thừa Sai Bác Ái cả ở Calcutta lẫn khắp Ấn quốc. Ngày 1/2/1965, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ban Sắc Lệnh Khen Tặng cho Hội Dòng này bằng việc nâng hội dòng này lên cấp trực thuộc Tòa Thánh. Cơ sở đầu tiên được thành lập ngoài Ấn Độ ở Cocorote, Venezuela năm 1965. Hội dòng này lan tới Âu Châu (ở Tor Fiscale ngoại ô Rôma) và Phi Châu (Tabora, Tanzania) năm 1968.

Từ hậu bán thập niên 1960 cho đến năm 1980, hội dòng Thừa Sai Bác Ái phát triển cả về địa dư khắp thế giới lẫn về nhân số phần tử. Mẹ Têrêsa đã thành lập những nhà ở Úc Đại Lợi, ở Trung Đông và Bắc Mỹ Châu, cũng như mở nhà tập đầu tiên ở Luân Đôn ngoài Calcutta. Năm 1979, Mẹ được giải thưởng Nobel Hòa Bình. Cũng trong năm nay đã có tới 158 cơ sở của hội dòng Thừa Sai Bác Ái.

Hội dòng Thừa Sai Bác Ái lan tới các nước Cộng sản vào năm 1979, với một nhà ở Zagreb, Croatia, và vào năm 1980 một nhà ở Đông Bá Linh, cứ thể tiếp tục phát triển suốt thập niên 1980 và 1990 với những nhà ở hầu như tất cả mọi quốc gia Cộng sản, kể cả 15 cơ sở ở Liên Sô trước đây. Tuy nhiên, cho dù đã nhiều lần cố gắng, Mẹ Têrêsa cũng không thể thiết lập một cơ sở nào ở Trung Hoa.

Mẹ Têrêsa đã nói trước Tổng Hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 10/1985, dịp kỷ niệm thành lập 40 năm của tổ chức này. Vào ngày áp Lễ Giáng Sinh cùng năm, Mẹ đã mở “Món Quà Yêu Thương” ở Nữu Ước, nhà đầu tiên Mẹ đã thiết lập cho các bệnh nhân bị chứng liệt kháng AIDS. Những năm sau đó các nhà khác theo nhau xuất hiện, ở Hiệp Chủng Quốc cũng như ở các nơi khác, đặc biệt dấn thân cho những ai mắc hội chứng liệt kháng này.

Từ cuối thập niên 1980 tới hết thập niên 1990, mặc dù tăng phát vấn đề sức khỏe, Mẹ Têrêsa cũng du hành khắp thế giới về vấn đề khấn hứa của các tập sinh, vấn đề mở các nhà mới, cũng như vấn đề phục vụ thành phần nghèo khổ và gặp tai ương hoạn nạn. Những cộng đồng mới được thành lập ở Nam Phi Châu, ở Albania, Cuba và Iraq tàn khốc chiến tranh. Cho tới năm 1997, con số Nữ Tu lên đến gần 4 ngàn phần tử, và được thiết lập ở hầu hết 600 cơ sở ở 123 quốc gia trên thế giới.

Sau một mùa thu đi đến Rôma, Nữu Ước và Washington, với tình trạng sức khỏe suy yếu, Mẹ Têrêsa trở lại Calcutta vào tháng 7/1997. Vào lúc 9 giờ 30 tối ngày 5/9, Mẹ Têrêsa qua đời ở Nhà Mẹ của Hội Dòng. Thân thể của Mẹ được chuyển đến Nhà Thờ Thánh Tôma, gần nữ tu viện Loreto, nơi đầu tiên Mẹ đã đến Ấn Độ gần 69 năm trước. Hằng trăm ngàn người thuộc tất cả mọi tầng lớp và mọi tôn giáo, từ Ấn Độ cũng như ngoại quốc đã tỏ lòng ngưỡng mộ Mẹ. Mẹ đã được quốc táng vào Ngày Thứ Bảy 13/9/1997, thi thể của Mẹ đã được rước trên chiếc xe đã từng chở thi thể của Mahandas K. Gandhi và Jawaharlal Nehru, qua các đường phố Calcutta. Các vị tổng thống, thủ tướng, nữ hoàng và đặc sứ thay mặt quốc gia trên khắp thế giới đã hiện diện trong cuộc lễ an táng Mẹ.

Một con người được tuyên phong

Ngay còn tại thế, Mẹ Têrêsa Calcutta đã được tiếng là thánh thiện, là một vị thánh sống, một con người phi thường đối với con mắt của tín đồ Ấn giáo, một con người cứu nhân độ thế trước con mắt của tín đồ Phật giáo. Vì đời sống thánh thiện quá hiển nhiên của Mẹ như thế, đến nỗi, văn kiện tuyên phong chân phước cho Mẹ đã gọi Mẹ là “biểu hiệu của Đức Bác Ái Kitô giáo”, trường hợp của Mẹ đã không cần phải chờ đợi cho đến sau 5 năm qua đời theo qui định của Giáo Hội Công giáo. Sau đây là tiến trình phong thánh cho Mẹ, khởi đầu là bậc chân phước.

23/10/1997, tức mới có gần 2 tuần Mẹ qua đời, hay 10 ngày sau khi Mẹ được an táng, ĐTGM Henry D’Souza đã thỉnh nguyện Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh chuẩn chước cho trường hợp của Mẹ qui định thời hạn 5 năm sau khi qua đời, để ngài có thể bắt đầu những bước đòi hỏi đầu tiên ở giáo phận của ngài.

12/12/1998, Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh ban chuẩn chước cho vị TGM này.

19/3/1999, Các vị bề trên tổng quyền của dòng Các Thừa Sai Bác Ái chỉ định linh mục Brian Kolodiejchuk, MC, làm Cáo Thỉnh Viên thay họ làm việc trong tiến trình tuyên phong này.

8/4/1999, các ĐGM thuộc miền Tây Bengal Ấn Độ đồng ý Hồ Sơ Tuyên Phong trước hạn kỳ 5 năm.

21/4/1999, Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh chứng nhận không gì ngăn trở “Nihil Obstat” cho hồ sơ tuyên phong.

6/6/1999, Sơ M. Lynn Mascarenhas, MC, được chỉ định làm phó cáo thỉnh viên.

11/6/1999, vị cáo thỉnh viên nộp thỉnh nguyện lên ĐTGM Calcutta xin bắt đầu việc điều tra ở cấp giáo phận, đồng thời ngài cũng gửi kèm theo tiểu sử của Mẹ và danh sách các nhân chứng.

12/6/1999, ĐTGM công khai công bố thỉnh nguyện thư tuyên phong của cáo thỉnh viên và tuyên bố việc ngài bắt đầu Hồ Sơ Phong Chân Phước và Hiển Thánh cho Tôi Tớ Chúa là Mẹ Têrêsa Calcutta.

26/7/1999, Thánh Lễ Chính Thức Tiến Trình Tuyên Phong tại Nhà Thờ Thánh Maria ở Calcutta. ĐTGM đã ban hành lời thề cho 12 phần tử thuộc Nhóm Tìm Hiểu Của Giáo Phận. Thánh Lễ này mở màn cho giai đoạn nghiên cứu, phỏng vấn với những nhân chứng và xem xét các văn kiện và tài liệu liên quan đến đời sống và hoạt động của Mẹ Têrêsa. Công việc này được kết thúc vào tháng 8/2001, với 80 tập tài liệu, mỗi tập dầy khoảng 450 trang, để trình bày cho Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh.

15/8/2001, buổi kết thúc ở Nhà Thờ Thánh Maria về Việc Giáo Phận Tìm Hiểu Đời Sống, Nhân Đức và Tiếng Tăm Thánh Thiện của Mẹ Têrêsa Calcutta Đầy Tớ Chúa. Vị cáo thỉnh viên mang Các Việc Tìm Hiểu Của Giáo Phận đến Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh ở Rôma.

29/8/2001, Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh mở Hồ Sơ Các Việc Giáo Phận Tìm Hiểu Đời Sống, Nhân Đức và Tiếng Tăm Thánh Thiện của Mẹ Têrêsa Calcutta.

22/9/2001, Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh tuyên bố hiệu thành Việỉc Tìm Hiểu của Giáo Phận Calcutta và Những Lời Khai Nhân Chứng. Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh chỉ định Đức Ông José Luis Gutiérrez Gómez làm Tường Trình Viên.

26/4/2002, Điều Kiện Phong Thánh được hoàn tất và đệ trình lên Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh để cứu xét.

20/12/2002, tại Điện Vatican của Tòa Thánh, trước sự hiện diện của Đức Thánh Cha, ĐHY Saraiva Martins đã công bố 17 sắc lệnh về 7 vị tân chân phước, 7 vị thánh mới và 3 vị đáng kính. Trong 7 vị tân chân phước có Mẹ Têrêsa Calcutta. Giáo Hội đã xác nhận việc khỏi chứng xưng bướu bao tử của chị Monika Besra, một chứng bệnh không thể mổ như các vị bác sĩ của chị cho biết, là một phép lạ do Mẹ Têrêsa làm để đáp lại lời cầu của chị phụ nữ Ấn Giáo này đã tin tưởng đặt bức ảnh của Mẹ lên chỗ dạ dầy của chị.


Mẹ Têrêsa Calcutta: Di Sản

Huân Chương

Trong số 124 Bằng Tưởng Thưởng Mẹ nhận được, trong đó có 10 bằng đặc biệt là:

1. Padmashree Award (từ Tổng Thống Ấn Độ) 8/1962;
2. Pope John XXIII Peace Prize 1/1971;
3. John F. Kennedy International Award 9/1971;
4. Jawahalal Nehru Award for International Understanding 11/1972;
5. Templeton Prize for "Progress in Religion" 4/1973;
6. Nobel Peace Prize 12/1979;
7. Bharat Ratna (Jewel of India) 3/1980;
8. Order of Merit (từ Nữ Hoàng Elizabeth) 11/1983;
9. Gold Medal of the Soviet Peace Committee 8/1987;
10. United States Congressional Gold Medal 6/1997.

 

Sự Nghiệp

7/10/1950:
Hội dòng Thừa Sai Bác Ái được chính thức hình thành trước Giáo quyền. (Bấy giờ hội dòng mới có 12 người. Người đầu tiên theo Mẹ vào tháng 3/1949. Người thừa kế đầu tiên thay Mẹ làm bề trên tổng quyền của cả hai ngành hoạt động và chiêm niệm là Sơ M. Nirmala, MC).

25/3/1963:
Ngành NamThừa Sai Bác Ái được chính thức thành hình ở Calcutta. (Cha Ian Travers-Ball, SJ, dòng Tên đã gia nhập ngành này năm 1965, với tên gọi là Sư Huynh Andrew, MC, và là bề trên tiên khởi của ngành nam. Bề trên tổng quyền của ngành nam được gọi là Tổng Phục Vụ [The Servant General] và vị Tổng Phục Vụ hiện nay là Sư Huynh Yesudas, MC)

3/1969:
Ngành Cộng Tác Viên của Mẹ Têrêsa được chính thức bắt đầu. (Ngành này bao gồm tất cả mọi giáo dân, thuộc đủ mọi tôn giáo, quốc gia và nếp sống, muốn cùng với Mẹ Têrêsa làm giãn cơn khát yêu thương và các linh hồn của Thiên Chúa, bằng việc hiến dâng cho Ngài tình yêu của họ và làm cho tình yêu của Ngài được cảm nhận, cách riêng nơi thành phần nghèo nhất trong các người nghèo, nhất là nơi những ai thuộc gia đình riêng của các phần tử ngành này. Ngành Cộng Tác Viên giáo dân đây còn có thể được thực hiện bởi một người “Cộng Sự Viên Bệnh Nhân và Đau Khổ” với một vị Thừa Sai Bác Ái).

25/6/1976:
Ngành chiêm niệm Nữ được thành hình ở Nữu Ước. (Sứ vụ của các nữ tu MC ngành chiêm niệm này là tìm kiếm các linh hồn nghèo nhất trong các người nghèo qua việc tông đồ cầu nguyện, nhất là việc tôn thờ Thánh Thể, cũng như qua các hoạt động tình thương về tinh thần)

19/3/1979:
Ngành chiêm niệm Nam được thành hình ở Rôma. (Dưới sự hướng dẫn của Cha Sebastian Vazhakala, MC, ngành nam chiêm niệm đã chính thức cộng nhận như một hội dòng thuộc giáo phận ở Rôma vào năm 1993).

1980:
Thành lập Phong Trào Thân Thể Chúa Kitô Cho Linh Mục (Corpus Christi Movement for Priests) cho các vị linh mục muốn thông dự vào linh đạo của Mẹ. (Cha Joseph Langford đã cộng tác vào việc này. Phong trào này đã tiếp tục lan rộng nơi các linh mục triều trên khắp thế giới dưới sự lãnh đạo hiện nay của Cha Pascual Cervera ở Nữu Ước. Ngoài ra, Mẹ Têrêsa còn muốn hỗ trợ các vị linh mục hơn nữa bằng chương trình Veronica Intercessors For Priests - Verônica Chuyển Cầu Cho Các Vị Linh Mục, một chương trình thừa nhận thiêng liêng giữa một vị linh mục với một nữ tu hy sinh cầu nguyện cho ngài, theo chiều hướng của Chị Thánh Têrêsa Nhỏ trước đây. Chương trình này đã được các vị giám mục cổ võ và lan truyền đến nhiều dòng tu khác nhau).

16/4/1984:
Ngành Thừa Sai Bác Ái Giáo Dân được thành hình. (Mục đích là để giáo dân sống đời sống thiêng liêng được tổ chức theo đặc sủng của Mẹ Têrêsa).

13/10/1984:

Ngành Thừa Sai Bác Ái Linh Mục được thành hình ở Bronx, Nữu Ước. (Cha Joseph Langford đã cộng tác vào việc thành lập ngành này. Mục đích của ngành này là để tạo cơ hội cho các vị linh mục phục vụ người nghèo nhất trong các người nghèo, giúp vào việc thiêng liêng cho gia đình Thừa Sai Bác Ái, cũng như để truyền bá linh đạo cùng sứ vụ của Mẹ Têrêsa. Ngành này đã trở thành một hội dòng thuộc giáo phận ở Tijuana, Mễ Tây Cơ năm 1992. Như thế, ngành nữ chiêm niệm và hoạt động chỉ là một dòng, thì ngành nam, kể cả Sư Huynh và Linh Mục, lại có ba dòng (ngành chiêm niệm Nam MC, ngành Sư Huynh MC và ngành Linh Mục MC). Nhưng tất cả đều có một mục đích duy nhất là thực hiện đặc sủng của Mẹ Têrêsa, người “Mẹ” duy nhất của tất cả các ngành, trong việc làm giãn cơn khát của Thiên Chúa, bằng đời sống thánh thiện cũng như bằng việc phục vụ phần rỗi và thánh hóa thành phần nghèo nhất trong các người nghèo).

Khi Mẹ Têrêsa qua đời 5/9/1997, tổng số Chị Em Thừa Sai Bác Ái là 3.914 ở 594 cộng đồng tại 123 quốc gia trên khắp thế giới. (Có thể vì nhiều ngành khác nhau như được kể đến trên đây mà con số này hơi khác với con số được Zenit phổ biến ngày 29/8/2003 như sau: “Vào năm 1997, năm đấng sáng lập qua đời, dòng này có 456 nhà ở 101 quốc gia, giờ đây, kể cả 10 nhà nguyên trong năm 2003 này, tất cả số nhà lên đến 710 ở 132 quốc gia. Theo niên giám 2003 của Tòa Thánh dòng này có 4.690 nữ tu kể cả tập sinh”).
 

Danh Ngôn (của Mẹ Têrêsa)

Về Đức Bác Ái:

• “Hãy làm những sự bình thường với một tình yêu phi thường”.
• “Chúng ta hãy thương yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu thương mỗi một người chúng ta. Mà tình yêu này được bắt đầu ở đâu? Ở ngay gia đình của chúng ta. Nó được bắt đầu ra sao? Ở việc cùng nhau cầu nguyện”.
• “Thiên Chúa đã bảo chúng ta rằng ‘Hãy yêu thương tha nhân như bản thân mình’. Bởi vậy trước hết tôi phải yêu bản thân tôi một cách thích đáng, rồi yêu thương tha nhân của mình như bản thân mình. Thế nhưng làm sao tôi có thể yêu bản thân mình trừ phi tôi chấp nhận bản thân tôi như Thiên Chúa đã dựng nên tôi?”
• “Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta để yêu thương và được thương yêu, và đây là khởi đầu của việc cầu nguyện, đó là biết rằng Ngài yêu thương tôi, tôi được dựng nên cho những gì là cao cả”.
• “Những việc làm yêu thương bao giờ cũng là những việc làm hòa bình”.

Về gia đình

• “Gia đình cùng nhau cầu nguyện là gia đình cùng nhau chung sống, và nếu họ cùng nhau chung sống họ sẽ yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương mỗi một người trong họ”.
• “Con trẻ là quà tặng của Thiên Chúa ban cho gia đình. Mỗi một con trẻ được dựng nên theo hình ảnh đặc biệt và tương tự như Thiên Chúa cho những sự cao cả, đó là yêu thương và được thương yêu”.

Về tình đoàn kết

• “Điều tôi làm được quí vị lại không làm được. Điều quí vị có thể làm thì tôi lại bất lực. Thế nhưng, cùng nhau chúng ta vẫn có thể làm một điều gì tuyệt vời cho Thiên Chúa”.

Về hoạt động và chiêm niệm

• “Chúng ta không phải là những cán sự xã hội. Trước mắt một số người chúng ta đang làm việc xã hội, nhưng chúng ta cần phải là những con người chiêm niệm giữa lòng thế giới”.

Về sự thánh thiện

• “Thánh thiện không phải là vấn đề hào nhoáng của một số người; thánh thiện chẳng qua chỉ là một nhiệm vụ đối với quí vị và đối với tôi mà thôi”.

Về cảm nghiệm phục vụ

“Vào một buổi tối kia, chúng tôi ra đường và thấy được 4 người. Một người trong họ hết sức thê thảm. Tôi nói với các chị em rằng: ‘Các con hãy chăm sóc 3 người kia; còn mẹ lo cho người tệ nhất ấy’. Thế là tôi đã làm tất cả những gì tình yêu của tôi có thể làm cho người phụ nữ này. Tôi đặt người phụ nữ ấy lên giường và chị đã nở ra một nụ cười tuyệt vời. Chị đã nắm lấy tay tôi nói lời duy nhất ‘cám ơn Mẹ’, rồi chị qua đời. Tôi không thể nào không xét mình trước chị phụ nữ ấy. Tôi ngẫm nghĩ: ‘Tôi sẽ nói gì nếu ở vào trường hợp của chị?’ Câu trả lời của tôi rất dễ thôi. Tôi sẽ nói rằng: ‘Tôi đói khát, tôi chết mất, tôi lạnh lẽo, tôi đau đớn’ hay một câu nào đó. Thế nhưng, chị đã cho tôi còn hơn thế nữa. Chị đã cho tôi tấm lòng ưu ái tri ân của chị. Và chị đã chết với một nụ cười trên khuôn mặt.

“Sau đó chúng tôi đã nhặt được một người đàn ông ở một cái cống rãnh, một nửa thân mình đã bị sâu bọ rúc rỉa, và sau khi chúng tôi đã mang ông ta vào nhà, ông chỉ nói rằng: ‘tôi đã sống như một con thú trên đường phố, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc’. Đoạn, sau khi chúng tôi đã lấy hết mọi thứ sâu bọ khỏi mình mẩy của ông, tất cả những gì ông nói với chúng tôi kèm theo nụ cười tươi là ‘Sơ ơi, tôi sắp về cùng Thiên Chúa’, rồi ông tắt thở. Thật là tuyệt vời khi chứng kiến thấy sự cao cả của con người đàn ông đã có thể nói như thế mà không trách cứ bất cứ một ai, không so sánh bất cứ sự gì. Như một thiên thần, đó là sự cao cả của con người phong phú về tinh thần ngay cả trong lúc nghèo khổ về vật chất”.

ĐTGM Angelo Comastri, TGP Loreto

“Mẹ Têrêsa đã sống cho người nghèo. Thế nhưng, giờ đây thế giới đã trở nên nghèo hơn nữa từ đó, từ tối ngày Thứ Sáu 5/9, tối Mẹ đã không thể chống trả nổi cuộc tấn cống cuối cùng của bệnh tim và đã chết tại nhà mà Mẹ và chị em của Mẹ đã sống ở Calcutta từ thập niên 1940. Mẹ hưởng thọ 87 tuổi và dung nhan của Mẹ, nhỏ nhắn như toàn thân của Mẹ, và hết sức nhăn nheo, đã trở thành một thứ tuyệt phẩm của đức bác ái cũng như của việc Mẹ hoàn toàn hiến thân cho kẻ khác. Mẹ được gọi là Mẹ của kẻ nghèo. Thế nhưng, ngay trong số các hình thức khác nhau của bần cùng, Mẹ Têrêsa đã sống đến mức độ tận cùng, như tình của Mẹ đã triệt để và hoàn toàn yêu Chúa Kitô. Mẹ đã muốn sống với thành phần nghèo nhất trong các người nghèo, và trong cuộc tìm kiếm này Mẹ đã làm cho thế giới, kẻ có tín ngưỡng cũng như vô tín ngưỡng, đọc được những trang Phúc Âm sống, một thứ Phúc Âm tác động giữa những chiếm đạt và mẫu thuẫn của thời đại chúng ta. Cái chết của Mẹ Têrêsa đã gây xúc động và đau buồn sâu xa khắp thế giới. Đức bác ái của Mẹ đã lưu dấu vết ở hết mọi lục địa”

 

ÐTC Gioan Phaolô II, ở Bài Giảng Phong Chân Phước ngày 19/10/2003 cho Mẹ Têrêsa Calcutta, đã nhận định về người nữ tu phục vụ những người anh chị em hèn mọn nhất mà chính Mẹ "chẳng thấy Chúa đâu"

1- Mẹ Têrêsa Calcutta, vị sáng lập dòng Chư Thừa Sai Bác Ái, vị mà hôm nay đây Tôi hân hoan ghi danh vào sổ bộ chân phước, vị đã đi theo lý lẽ tôi tớ phục vụ này. Bản thân Tôi lấy làm biết ơn người phụ nữ can trường này, người phụ nữ Tôi cảm thấy lúc nào cũng kề cận bên Tôi. Là hình ảnh của một người Samaritanô Nhân Lành, Mẹ đã đi khắp nơi để phục vụ Chúa Kitô nơi thành phần nghèo khổ nhất trong những người nghèo. Chẳng có một thứ xung đột nào và một thứ chiến tranh nào có thể cản ngăn bước tiến của Mẹ.

Từ đó đến nay, Mẹ vẫn hằng nói với Tôi về các cảm nghiệm của Mẹ trong việc phục vụ các giá trị của phúc âm. Chẳng hạn Tôi nhớ đến những gì Mẹ nói khi Mẹ lãnh Giải Thưởng Hòa Bình Nobel: “Nếu quí vị nghe thấy có người đàn bà nào không muốn sinh con và muốn phá thai, xin hãy cố thuyết phục chị ta mang đến cho tôi đứa bé ấy. Tôi sẽ yêu thương bé, vì thấy nơi bé dấu hiệu hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa” (Oslo, Dec. 10, 1979).

Mẹ muốn là dấu chứng cho “tình yêu của Thiên Chúa, sự hiện diện của Thiên Chúa, lòng cảm thương của Thiên Chúa”, nhờ đó nhắc nhở tất cả mọi người giá trị và phẩm vị của mỗi một người con Chúa “được dựng nên để yêu thương và được yêu thương”. Bởi vậy Mẹ Têrêsa đã “mang các linh hồn về cho Thiên Chúa và đưa Thiên Chúa đến cho các linh hồn”, cũng như đã làm giãn cơn khát của Chúa Kitô, nhất là con khát đối với những người khẩn thiết nhất, những người có nhãn quan về Thiên Chúa đã bị lu mờ bởi khổ đau và đớn đau.

5- Mẹ Têrêsa đã thông phần cuộc khổ nạn của Đấng Chịu Đóng Đanh, một cách đặc biệt trong những năm dài sống trong “tăm tối nội tâm”. Cuộc thử thách này có những lúc rất gắt gao mà Mẹ đã chấp nhận như ‘tặng ân và đặc ân” chuyên biệt.

Trong những giờ phút tối tăm nhất, Mẹ đã thiết tha nguyện cầu hơn nữa trước Thánh Thể. Cuộc thử thách dữ dội này đã khiến Mẹ nhận thấy mình hơn bao giờ hết giống hệt như thành phần Mẹ phục vụ hằng ngày, bằng cảm nghiệm đớn đau và có những lúc bị loại trừ. Mẹ thích lập đi lập lại rằng tình trạng bần cùng nhất là tình trạng bị bỏ rơi, tình trạng không được ai chú ý chăm sóc cho anh chị em.

6- Chúng ta hãy ca ngợi người phụ nữ nhỏ bé phải lòng Thiên Chúa này, vị sứ giả khiêm hạ của Phúc Âm đây, và là một vị ân nhân không ngừng của nhân loại. Chúng ta tôn kính nơi Mẹ một con người nổi bật nhất trong thời đại của chúng ta. Chúng ta hãy chấp nhận sứ điệp của con người này và hãy noi theo gương của con người ấy.

 

(Chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 19/10/2003)

 


Để kết thúc bài giảng phong hiển thánh cho vị nữ tu được thế giới Ấn giáo kính trọng quốc táng này ngày 4/9/2016 của mình, ĐTC Phanxicô đã nói về Mẹ Têrêsa Calcutta như thế này:

 

Mẹ Têrêsa, trong tất cả mọi khía cạnh của đời sống mình, đã là một con người quảng đại ban phát lòng thương xót Chúa, bằng cách mẹ tỏ ra sẵn sàng đối với hết mọi người, nhờ việc mẹ đón nhận và bênh vực sự sống của con người, sự sống của những thai nhi cũng như của những ai bị bỏ rơi và những ai bị loại trừ. Mẹ đã dấn thân để bênh vực sự sống, không ngừng tuyên bố rằng: "thai nhi là con người hèn yếu nhất, bé mọn nhất, dễ bị tổn thương nhất". Mẹ đã cúi mình xuống trước những ai vất vưởng, bỏ mặc cho chết trên vệ đường, khi nhìn thấy nơi họ cái phẩm giá thiên phú của họ; mẹ đã lên tiếng với các quyền lực trên thế giới này, để họ có thể nhìn nhận lỗi lầm của họ về tội ác nghèo khổ do họ gây ra. Đối với Mẹ Têrêsa, lòng thương xót là "muối đất" mang lại mùi vị cho công việc của mẹ, là "ánh sáng" chiếu soi trong bóng tối của nhiều người không còn nước mắt để khóc cho tình trạng bần cùng và khổ đau của họ.

Sứ vụ của mẹ đến với những ngoại biên xa xôi hẻo lánh, đối với chúng ta ngày nay, vẫn còn là một chứng từ sống động cho việc Thiên Chúa gần gũi những người anh chị em nghèo khổ nhất trong giới nghèo. Hôm nay, tôi muốn truyền đạt hình ảnh tiêu biểu của vai trò nữ giới cũng như của đời sống thánh hiến cho tất cả thế giới của anh chị em tình nguyện viên: chớ gì mẹ là mô phạm thánh thiện của anh chị em! Chớ gì nhân viên không mệt mỏi của lòng thương xót này giúp chúng ta càng hiểu hơn rằng tiêu chuẩn duy nhất cho hành động của chúng ta đó là tình yêu thương nhưng không, không bị chi phối bởi các thứ ý hệ và những gì bó buộc, một tình yêu cống hiến cho mọi người không phân biệt ngôn ngữ, văn hóa, chủng tộc hay tôn giáo. Mẹ Têrêsa thích nói rằng: "Có lẽ tôi không nói được ngôn ngữ của họ, nhưng ít là tôi có thể mỉm cười".  Chúng ta hãy mang nụ cười của mẹ trong lòng của chúng ta và cống hiến nó cho những ai chúng ta gặp gỡ trong cuộc hành trình của chúng ta, nhất là những ai đau khổ. Nhờ đó chúng ta sẽ tạo nên nhiều cơ hội vui tươi và hy vọng cho nhiều anh chị em của chúng ta đang chán chường và đang cần được cảm thông cùng xoa dịu.

 

http://www.news.va/en/news/homily-for-the-canonization-of-mother-teresa-full

 

 

 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 6, 1-11

"Anh em có việc kiện tụng nhau, và đem đến trước mặt người ngoại".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, làm sao trong anh em có người dám đem việc bất bình với kẻ khác ra thưa kiện trước mặt kẻ gian ác, chứ không trước mặt các thánh? Hay anh em lại không biết các thánh sẽ phán xét thế gian này sao? Và nếu anh em có quyền phán xét thế gian, thì anh em không xứng đáng xét xử những việc rất nhỏ mọn như thế sao? Anh em lại không biết chúng ta sẽ phán xét các thiên thần sao, phương chi là các việc đời này?

Vậy nếu anh em phải kiện cáo nhau về những việc đời này, anh em lại cắt đặt những người không đáng kể trong Hội thánh mà xét xử sao? Thật là một điều nhục cho anh em mà tôi phải nói như vậy. Chớ thì trong anh em không có người nào khôn ngoan có thể xét xử giữa anh em sao? Nhưng khi có việc kiện cáo giữa anh em với nhau mà lại đem đến trước mặt người ngoại ư? Nguyên việc anh em kiện tụng nhau, cũng đã là một lỗi rồi. Tại sao anh em không đành chịu một chút bất công? Tại sao anh em không đành chịu một chút thiệt thòi? Trái lại chính anh em ăn ở bất công và lừa đảo, mà lại xử như thế với chính anh em mình. Hay anh em lại không biết rằng: những kẻ gian ác sẽ không được hưởng nước Thiên Chúa sao? Anh em chớ lầm tưởng: những kẻ gian dâm, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, xấu nết, loạn dâm, trộm cắp, tham lam, say sưa, vu khống hay bóc lột đều không được hưởng nước Thiên Chúa đâu.

Xưa kia trong anh em đã có ít người như vậy. Nhưng anh em đã được rửa sạch, đã được thánh hoá, đã được công chính hoá, nhân danh Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô, và trong Thánh Thần của Thiên Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b

Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân; con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.

2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người. Hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.

3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang. Hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống. Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 12-19

"Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.

Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.

Ðó là lời Chúa.

 

Luke 9 Bible Pictures: Jesus teaching twelve disciples

THE EIGHT BEATITUDES OF JESUS


Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

... Ở tầm mức lưng chừng núi...



Theo Phúc Âm của Thánh ký Luca từ Thứ Hai đầu Tuần XXII Thường Niên tới nay, thì sau khi đụng độ với dân làng của Người ngay lần Người vừa xuất đầu lộ diện (trong bài Phúc Âm Thứ Hai tuần trước), sau khi kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên (trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước), và sau 4 lần đụng độ với thành phần luật sĩ với biệt phái (theo các bài Phúc Âm Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy tuần trước và Thứ Hai tuần này), h
ôm nay, Thứ Ba Tuần XXIII Thường Niên, bài Phúc Âm Thánh Luca mới thuật lại biến cố Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ, thành phần, như sẽ thấy ở các bài Phúc Âm ngay sau đó trong tuần này, sẽ đặc biệt được Người huấn luyện để các vị xứng đáng trở nên thành phần chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng của Giáo Hội sẽ được Người thiết lập. 
Chính vì tính cách quan trọng của công cuộc tuyển chọn này mà Phúc Âm đã thuật lại rằng: "Đức Giêsu đi lên núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ". 
Chỉ có 12 tông đồ mà Chúa Giêsu Con Thiên Chúa hằng sống đã phải thâu đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa là Cha của Người cũng chính là Đấng đã sai Người. Chắc bấy giờ Chúa Giêsu chưa có hay chưa đủ 72 môn đệ. Nhưng con số môn đệ theo Người bấy giờ chắc cũng phải trên 12 người, trong đó có cả một số không được Người tuyển chọn bấy giờ, chẳng hạn như 2 chàng Giuse và Matthia là những người đã ở với Người ngay từ đầu như các vị khác, trong đó chàng Matthia là vị sau này được chọn thay cho tông đồ Giuđa Íchca (xem Tông Vụ 1:21-26).
Như thế, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Thiên Chúa không phải để xem có nên tuyển chọn 12 tông đồ hay chăng, một việc bất khả thiếu theo khuôn mẫu 12 chi tộc Israel trong Cựu Ước như chính Thiên Chúa đã thực hiện, vì Dân Tân Ước được hình thành theo khuôn mẫu của Dân Cựu Ước và Dân Cựu Ước được nên trọn nơi Dân Tân Ước. Danh sách 12 tông đồ được Phúc Âm hôm nay liệt kê như sau: "Đó là ông Simôn mà Người gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông ; sau đó là các ông Giacôbê, Gioan, Philípphê, Batôlômêô, Mátthêu, Tôma, Giacôbê con ông Anphê, Simôn biệt danh là Quá Khích, Giuđa con ông Giacôbê, và Giuđa Ítcariốt, người đã trở thành kẻ phản bội". 
Chúa Giêsu cầu nguyện trước hết là để hội ý với Cha của Người về những ai trong số thành phần môn đệ của Người bấy giờ xứng đáng trở thành 12 tông đồ trụ cột cho Giáo Hội Người sẽ thiết lập cho đến tận thế. Có thể lúc ấy Người cũng cầu nguyện để lĩnh ý Cha của Người về đường lối huấn luyện thành phần tông đồ nồng cốt này, về sứ vụ chứng nhân thừa sai của các vị trong tương lai, về vai trò quản trị, giảng dạy và thánh hóa của các vị được thừa kế bởi hàng giáo phẩm sau này. 

Tóm lại, trong đêm nguyện cầu này của mình, Chúa Giêsu có thể đã có một viễn ảnh về riêng 
Giáo Hội Người sẽ thiết lập để làm bí tích cứu độ cho toàn thể nhân loại. 

Thế nhưng, sở dĩ "
Người đã (phải) thức suốt đêm cầu nguyện", cầu nguyện lâu đến như vậy, phải chăng là vì Người cầu nguyện cho từng người môn đệ sẽ trở thành tông đồ của Người, trong đó đặc biệt có 2 người môn đệ cần đến lời cầu nguyện của Người hơn cả, đó là một Simon Phêrô sau này sẽ chối Người 3 lần mà Người vẫn tiếp tục tin tưởng đặt làm thủ lãnh tông đồ đoàn, và một Giuđa Íchca sau này sẽ phản nộp Người. Bấy giờ Người cũng có thể nghĩ đến người môn đệ được Người yêu thương cách riêng là Gioan, nhất là đến một đệ nhất môn đệ hoàn hảo của Người là Mẹ Maria, vị sẽ thay Người chăm sóc các tông đồ sau khi Người về Trời vì Mẹ là Mẹ của Giáo Hội. 

Vấn đề được đặt ra ở đây là nếu Chúa Giêsu đã cầu nguyện thâu đêm như thế thì với tác động thần linh vô ngộ thì làm sao Người lại chọn một người môn đệ phản nộp Người một cách sai lầm như vậy được chứ? Đó là lý do không phải cứ cầu nguyện là mọi việc sẽ được tốt đẹp theo ý của mình đâu, mà là cho ý của Thiên Chúa được nên trọn. Bởi thế nên trong chính Kinh Lạy Cha mới có lời nguyện "ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Vậy cầu nguyện không phải chỉ để biết được ý Chúa mà làm theo, nhất là để nguyện cho ý Chúa được nên trọn nơi chính bản thân mình cũng như trong mọi sự, để biết chấp nhận mọi sự theo Thánh ý Chúa, tức là để phó mình cho Chúa: "Xin cất chén này cho con, nhưng đừng theo ý Con một theo ý Cha" (Luca 22:42).

Ở cuối bài Phúc Âm hôm nay chúng ta còn thấy một hình ảnh đặc biệt khác nữa, liên quan đến chính việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ, đó là "Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật". 

Phần cuối bài Phúc Âm hôm nay quả thực đã cho thấy việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ là để cùng Người phục vụ toàn thể nhân loại, ở chỗ: "Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông". Và hành động "đi xuống" này chỉ xẩy ra sau hành động đi lên: "Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại" với Người bấy giờ đang ở trên núi cầu nguyện vừa xong. Có nghĩa là các vị môn đệ trở thành tông đồ này phải có một đời sống vươn lên với Người và sống như Người, ở chỗ sống trổi vượt trên trần gian, các vị mới có thể làm chứng cho Người như "ánh sáng thế gian", như "một thành xây trên núi không thể nào khuất được nữa" (Mathêu 5:14).
Tuy nhiên, địa điểm dừng lại của hành động sau khi đi "lên núi" "Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông" đây, như Phúc Âm cho thấy "ở một chỗ đất bằng", chứ không phải ở một thung lũng hay ở đồng bằng hoặc trong sa mạc. Nghĩa là ở một nơi lưng chừng núi, có thể hiểu là ở sườn núi, một tầm mức không cao không thấp, vừa tầm với dân chúng, nhờ đó họ có thể "đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật". 

Chính vì trong bài Phúc Âm Chúa Giêsu chọn gọi 12 tông đồ và giảng dạy về các phúc đức trọn lành cho các vị, để các vị có thể trở thành chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng của Giáo Hội mà trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô mới đặt vấn đề với Kitô hữu giáo đoàn Corinto về thẩm quyền phân xử của các thánh, cùng với việc nên trọn lành của chung cộng đồng dân Chúa của họ như thế, trong 2 câu được trưng dẫn dưới đây:

"Anh em thân mến, làm sao trong anh em có người dám đem việc bất bình với kẻ khác ra thưa kiện trước mặt kẻ gian ác, chứ không trước mặt các thánh? Hay anh em lại không biết các thánh sẽ phán xét thế gian này sao? Và nếu anh em có quyền phán xét thế gian, thì anh em không xứng đáng xét xử những việc rất nhỏ mọn như thế sao? Anh em lại không biết chúng ta sẽ phán xét các thiên thần sao, phương chi là các việc đời này?"

"Nguyên việc anh em kiện tụng nhau, cũng đã là một lỗi rồi. Tại sao anh em không đành chịu một chút bất công? Tại sao anh em không đành chịu một chút thiệt thòi? Trái lại chính anh em ăn ở bất công và lừa đảo, mà lại xử như thế với chính anh em mình. Hay anh em lại không biết rằng: những kẻ gian ác sẽ không được hưởng nước Thiên Chúa sao? Anh em chớ lầm tưởng: những kẻ gian dâm, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, xấu nết, loạn dâm, trộm cắp, tham lam, say sưa, vu khống hay bóc lột đều không được hưởng nước Thiên Chúa đâu".

Việc Kitô hữu trong cùng một cộng đồng dân Chúa kiện cáo nhau trước tòa đời, theo Thánh Phaolô, đã "là một lầm lỗi", mà lại "bất công" nữa, vì chính bản thân mình sống bất công mà đi kiện cáo để lấy lại công lý. Tuy nhiên, lòng người và đời người luôn sống mâu thuẫn và giả hình là như vậy. Bởi thế, chỉ khi nào họ nhận biết tình yêu Thiên Chúa, họ mới có thể sống với nhau theo tình huynh đệ mà thôi. Bài Đáp Ca hôm nay, trích Thánh Vịnh 149, cho chúng ta thấy một cộng đồng dân Chúa nhận biết Chúa và ca tụng Thiên Chúa sẽ hoàn toàn khác hẳn  

1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân; con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ.

2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người. Hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang.

3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang. Hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.


Thứ Tư

 


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 7, 25-31

"Ngươi bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cách tháo gỡ. Ngươi không còn ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cưới vợ nữa".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, về những người đồng trinh, tôi không có lời Chúa truyền dạy nào, nhưng tôi đã được Chúa thương, nên tôi cho ý kiến như một người đáng tin cậy. Vậy tôi nghĩ rằng đó là một điều tốt theo nhu cầu hiện tại. Phải, người ta ở vậy quả là một điều tốt. Ngươi bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cách tháo gỡ. Ngươi không còn bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cưới vợ nữa. Nhưng nếu ngươi cưới vợ, ngươi chẳng có tội gì. Và nếu kẻ đồng trinh kết bạn, thì chẳng có tội gì. Nhưng những người thể ấy, sẽ chuốc lấy khốn khổ vào thân. Phần tôi, tôi muốn cho anh em tránh được điều đó.

Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ăn ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 44, 11-12. 14-15. 16-17

Ðáp: Xin hãy nghe, thưa nương tử, hãy coi và hãy lắng tai (c. 11a).

Xướng: 1) Xin hãy nghe, thưa nương tử, hãy coi và hãy lắng tai, hãy quên dân tộc và nhà thân phụ, để Ðức Vua Người sủng ái dong nhan: chính Người là Chúa của cô nương, hãy phục vụ Người. - Ðáp.

2) Tất cả huy hoàng là nàng công chúa đi vào cung nội, áo nàng dệt bằng những sợi chỉ vàng. Bận áo gấm sặc sỡ, nàng được dẫn tiến Ðức Vua, theo sau nàng là những cô trinh nữ bạn bè, họ cũng được bệ kiến long nhan. - Ðáp.

3) Họ bước đi trong niềm hân hoan vui vẻ, tiến vào trong cung điện Ðức Vua. Người sẽ có con nối gót tiên vương liệt vị, và phong họ làm quan trên cả sơn hà. - Ðáp.

 

Alleluia: Ep 1, 17-18

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 20-26

"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói:

"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.

"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".

Ðó là lời Chúa. 

 

Sermon on the Plain (Luke 6:20-26) — Tribe Church

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Tứ Phúc khốn - Tứ Họa lành



T
ừ hôm nay, Thứ Tư Tuần XXIII Thường Niên, cho đến hết Thứ Bảy tuần này, Giáo Hội chọn đọc đoạn 6 của Phúc Âm Thánh ký Luca, đoạn về Bài Giảng Sống Thương Xót của Chúa Giêsu, nhưng chỉ có gần 1 đoạn 6 ngắn gọn hơn của Thánh ký Mathêu (dài tới 3 đoạn, từ đầu đoạn 5 đến hết đoạn 7). 
Tuy nhiên, nội dung của cả hai Phúc Âm cũng giống nhau, ở chỗ: 1- Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Người hơn là dạy chung dân chúng, và ở chỗ: 2- Chúa Giêsu muốn cho thành phần môn đệ của Người, nhất là các tông đồ, phải "nên trọn lành như Cha của các con ở trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), tức là phải biết "cảm thương như Cha của các con là Đấng thương xót" (Luca 6:36). 
Thật vậy, bài giảng trọn lành (theo Thánh Mathêu) cũng là bài giảng thương xót (theo Thánh Luca), được Chúa Giêsu giảng dạy cho riêng các môn đệ của Người hơn là cho chung dân chúng. Bởi thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay mở đầu, Thánh ký Luca đã viết một chi tiết rất quan trọng như sau: "Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói". 
Người đã nói những gì? Trong bài Phúc Âm theo Thánh ký Luca hôm nay, trước hết, Chúa Giêsu đã nói về bốn điều lành được Người khẳng định là "phúc", cho dù trái với lý lẽ tự nhiên, và bốn cái dữ mà Người xác quyết là "khốn", bất chấp bản chất tốt lợi của chúng, trong khi đó ở Phúc Âm Thánh ký Mathêu (đầu đoạn 5) chỉ có 8 Mối Phúc Thật, hoàn toàn không có 4 sự dữ tiêu cực như trong Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay.
Trước hết là bốn điều lành được Người khẳng định là "phúc":
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà  các ngươi bị người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng, và loại trừ như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế".
Sau nữa là bốn cái dữ mà Người xác quyết là "khốn":

"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả". 

Chúng ta thấy cái tương phản hoàn toàn với nhau một cách nẩy lửa giữa 4 điều lành và 4 cái dữ trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, thứ tự như sau: 

1- "Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có";

2- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê";

3- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười";

4- "Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người các ngươi b người ta thù ghéttrục xuất và phỉ bángvà loại trừ như kẻ bất lương" >< "Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng".

Thật ra, 4 cái Người gọi là "khốn" này, tự bản chất của chúng, không có gì là xấu, nhưng nếu con người vốn thiên về tự nhiên và hưởng thụ chúng có thể trở thành "dịp tội" nơi họ và cho họ, khiến họ, nhất là thành phần theo Chúa, thành phần sống trọn lành hơn, thành phần chứng nhân của Người, bị hòa đồng với thế gian và biến mất trong thế gian, đến độ có thể trở thành phản chứng Kitô giáo, thành những tiên tri giả hay kitô giả, như vẫn thấy xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội, đặc biệt là trong thời đại mà nhiều người cho là tận thế đến nơi rồi đây. 

Một điển hình có thể áp dụng một cách cụ thể vào cái "khốn" cho những ai "no nê" đó là những ai thích thưởng thức loại bữa ăn "all you can eat / ăn tha hồ mặc sức". Thật vậy, để có thể "ăn thả dàn, ăn mặc sức" những gì mình thích, nhiều món mình thích mà giá cũng không mắc lắm hay cũng đáng, người ta, trước hết phải nhịn ăn trước đó để có sức mà thưởng thức tối đa. Cái đói trước bữa ăn này đã là một cái "khốn" đầu tiên. Thế rồi, cái đói trong bữa ăn kiểu này nữa, đó là một khi ăn món này nhiều thì các món còn lại cũng ngon không thể ăn nhiều được nữa, tiếc tiền, đó là cái "khốn" thứ hai. Cái "khốn" thứ ba đó là sau khi ăn xong cái bụng sao mà nó nặng nề khó chịu quá sức. Chưa hết, cái "khốn" cuối cùng và là cái "khốn" nguy hiểm nhất đó là bị cao mỡ, vì đã ăn quá nhiều tôm hùm hay cua là những hải sản mắc tiền hiếm quí.

Trái lại, cũng thế, 4 điều được Chúa Giêsu gọi là "phúc" đây, tự bản chất của chúng, quả thực là dữ, là xấu, là bất lợi, khiến con người bản tính vốn vướng mắc nguyên tội cảm thấy bất hạnh, nên họ bao giờ cũng hoàn toàn muốn tránh né hay được giải thoát. Thế nhưng, với thành phần sống đức tin và vượt thoát, sống gần với Đấng đã đến để phục vụ hơn hưởng thụ (xem Mathêu 20:28), sống chứng nhân cho Đấng đã sống thân phận mục nát của hạt lúa miến trong lòng đất (xem Gioan 12:24), thì những cái bất hạnh ấy lại trở thành phương tiện siêu thoát của họ và cứu độ trần gian.

Đúng thế, cái phúc thật của Kitô hữu theo Chúa không phải là ở đời này, mà ở tại đời sống trọn lành, cho dù là sống đời đồng trinh hay góa bụa, thậm chí cả khi sống đời hôn nhân gia đình nữa. Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô đã cho thấy cả 3 thành phần trên đây có thể sống trọn lành như thế này: "Về những người đồng trinh, tôi không có lời Chúa truyền dạy nào.... Ngươi không còn bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cưới vợ nữa.... những ai có vợ, hãy ăn ở như không có".

Tóm lại, nếu chúng ta sống đức tin, sống trọn lành, sống vượt trên trần gian, (hơn là sống ngược với trần gian ở những gì tự nó không xấu như đời sống hôn nhân), sống như tinh thần của Bài Phúc Âm về tứ phúc khốn khó và tứ họa may lành, bao gồm tất cả những gì là thăng trầm trong cuộc đời của mình, thì không gì có thể làm chúng ta mất bình an, một khi Kitô hữu là môn đệ của Người như chúng ta, theo lời Thánh Phaolô huấn dụ trong Bài Đọc 1 qua Thư ngài gửi cho cộng đoàn Corintô lần đầu, chúng ta sẽ: "than khóc như không than khóc; hân hoan như không hân hoan; mua sắm như không có gì; dùng sự đời này như không tận hưởng". Bởi tất cả chỉ là phương tiện và là đường lối nên trọn lành mà thôi!

Những tâm hồn Kitô hữu sống trọn lành trên thế gian này như thế, chẳng khác nào như thành phần "nương tử" trong Thánh Vịnh 44 ở Bài Đáp Ca hôm nay, thành phần có được một bản thân "huy hoàng" diễm lệ và một cuộc đời "hân hoan" hạnh phúc, như các câu xướng của cùng bài Đáp Ca diễn tả như sau:

1) Xin hãy nghe, thưa nương tử, hãy coi và hãy lắng tai, hãy quên dân tộc và nhà thân phụ, để Ðức Vua Người sủng ái dong nhan: chính Người là Chúa của cô nương, hãy phục vụ Người.

2) Tất cả huy hoàng là nàng công chúa đi vào cung nội, áo nàng dệt bằng những sợi chỉ vàng. Bận áo gấm sặc sỡ, nàng được dẫn tiến Ðức Vua, theo sau nàng là những cô trinh nữ bạn bè, họ cũng được bệ kiến long nhan.

3) Họ bước đi trong niềm hân hoan vui vẻ, tiến vào trong cung điện Ðức Vua. Người sẽ có con nối gót tiên vương liệt vị, và phong họ làm quan trên cả sơn hà.

 

 

Thứ Năm

 

Ngày 08 tháng 9

SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MA-RI-A

lễ kính

Tiểu sử 
Sinh nhật của Đức Ma-ri-a vượt hẳn cả sinh nhật của thánh Gio-an, vị tiền hô. Sinh nhật của Đức Ma-ri-a loan báo Sinh Nhật của Đức Giê-su, là khúc dạo đầu của Tin Mừng. Một người con gái ra đời trong gia đình bà An-na và ông Gio-a-kim đã làm cho “niềm hy vọng và bình minh ơn cứu độ mọc lên chiếu soi thế giới”. Chính vì thế, Hội Thánh mời gọi chúng ta cử hành ngày lễ này trong tâm tình hân hoan.

 

Bài Ðọc I: Mk 5, 2-5a

"Ðến khi người nữ phải sinh, sẽ sinh con".

Trích sách Tiên tri Mikha.

Ðây lời Chúa phán: "Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Ðấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người, cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an".

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc: Rm 8, 28-30

"Những kẻ Chúa đã biết trước thì Người đã tiền định họ".

Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, chúng ta biết rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành. Họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. Vì chưng, những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Nhưng những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; và những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 12, 6ab. 6cd

Ðáp: Con sẽ hớn hở vui mừng trong Chúa (c. Is 91,9a).

Xướng: 1) Xin chớ để kẻ thù con hân hoan vì con quỵ ngã: bởi con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa. - Ðáp.

2) Xin cho lòng con hân hoan vì ơn Ngài cứu độ; con sẽ hát mừng Chúa, vì Ngài ban ân huệ cho con. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ là người có phúc và rất đáng mọi lời ca tụng, vì Mẹ đã sinh ra Mặt trời Công Chính là Ðức Kitô, Chúa chúng con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 1, 1-16. 18-23

"Bà đã thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.

Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.

Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.

Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Sala-thiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:

"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc bài vắn này: Mt 1, 18-23

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:

"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Ðó là lời Chúa.

 

The Expectation of the Blessed Virgin Mary (A Novena)

Đấng cả địa cầu đại dương tinh tú
Hằng tin yêu và thờ lạy kính tôn,
Đấng trị vì khắp vũ trụ càn khôn,
Nay lại muốn đầu thai trong lòng Mẹ.

Đấng bóng nguyệt vầng ô tuân chỉ thị,
Đấng lấy thời gian điều khiển muôn loài
Đã chẳng nề bằng phép lạ trinh thai
Để cho Mẹ cưu mang tròn chín tháng.

Mẹ diễm phúc vì giờ đây mang nặng
Chúa tạo thành trời đất cõi vô biên,
Đấng Toàn Năng, tay nắm trọn uy quyền :
Thân xác Mẹ là Hòm Bia Giao Ước.

Người trinh bạch, thiên sứ chào diễm phúc,
Đã thụ thai do quyền lực Thánh Thần
Vẫn tinh tuyền khi sinh hạ Thánh Nhân,
Đấng toàn thể muôn dân từng mong đợi.

Ôi Thánh Tử Giê-su đầy lân ái
Đã sinh ra làm con Đức Nữ Trinh,
Kính dâng Ngài, cùng Thánh Phụ, Thánh Linh
Bài ca tụng đến muôn đời muôn thuở.

 

Tấu lạy Bà, quả thật Bà vinh hiển,
Ôi cao vời trên cả chín tầng mây,
Chúa Giê-su, Đấng đã dựng nên Ngài
Là Thánh Tử, chính Ngài cho bú mớm !

Ân sủng mất tại E-và xuẩn động,
Tay Ngài phục hồi nhờ bởi Chúa Con,
Để từ đây nhân loại hết tủi hờn,
Được Ngài dẫn vào thiên đường vinh phúc !

Ngài chính là cửa ngọ môn sáng rực
Đã mở ra cho Thiên Tử giáng trần,
Hãy reo hò, nào muôn nước muôn dân,
Này Trinh Nữ tặng cho ta Nguồn Sống !

Lòng hớn hở, xin hợp lời ca tụng
Dâng Chúa Cha cùng Thánh Tử, Thánh Thần,
Lượng hải hà đã ghé mắt từ nhân,
Cho Ngài mặc áo hồng ân tuyệt diệu. 

Thánh ca Tin Mừng “Chúc tụng Đức Chúa” (Benedictus)

ĐCLạy Trinh Nữ, Đức Mẹ Chúa Trời,
ngày sinh của Mẹ đem Tin Mừng cho cả trần gian,
vì Đức Ki-tô, Chúa chúng con
là Mặt Trời soi đường ngay nẻo chính,
đã từ cung lòng Mẹ sinh ra,
Người là Đấng huỷ bỏ lời chúc dữ,

đem lại muôn phúc lành,
Đấng tiêu diệt thần chết, và ban phúc trường sinh.

 

Cái cũ đã qua, này đây mọi sự đều đổi mới

 

Trích bài giảng của thánh An-rê, giám mục Cơ-rê-ta.

Cứu cánh của Lề Luật là Đức Ki-tô. Người không đẩy chúng ta xa Lề Luật cho bằng nâng chúng ta lên tới tinh thần của nó. Quả thật, nơi Người, Lề Luật được hoàn tất, vì sau khi kiện toàn và kết thúc mọi sự, thì chính Đấng lập Luật đã chuyển chữ viết sang tinh thần. Thật vậy, Người thâu hồi tất cả nơi bản thân và sống theo luật ân sủng. Luật thì Người bắt phục tùng, còn ân sủng thì Người phối hợp và liên kết với Luật. Đặc tính của bên này, Người không trộn lẫn và hoà tan với bên kia, nhưng hoán chuyển cách thần kỳ, khiến điều xưa kia nặng nề nay trở nên nhẹ nhàng và tự do, để chúng ta không phải làm nô lệ những yếu tố của vũ trụ, như thánh Phao-lô tông đồ đã nói, và chúng ta cũng chẳng phải mang ách nô lệ dựa trên chữ viết của Luật.

Quả thế, đây là hồng ân cao cả nhất Đức Ki-tô ban cho chúng ta, đây là mặc khải mầu nhiệm cứu độ, đây là sự trút bỏ vinh quang, khi Thiên Chúa làm người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ mầu nhiệm Nhập Thể. Vì khi Thiên Chúa vinh hiển và rất mực quang minh đến với nhân loại, thì cần phải có Đức Mẹ là niềm vui đi trước để chuẩn bị ơn cứu độ lớn lao cho chúng ta. Đó là ý nghĩa của buổi lễ hôm nay, mà khởi điểm là biến cố Mẹ Thiên Chúa chào đời, còn kết thúc và tận điểm là biến cố Ngôi Lời mặc lấy xác phàm. Quả thật, Đức Trinh Nữ nay được sinh ra, được cho bú mớm và được chuẩn bị để xứng đáng trở nên Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Vua muôn đời.

Điều đó đem lại cho chúng ta hai mối lợi : một là đưa chúng ta tới chân lý, hai là giải thoát chúng ta khỏi làm tôi và sống theo nghĩa đen của Lề Luật. Điều đó xảy ra thế nào và vì lý do gì ? Thưa, ánh sáng đến đẩy lui bóng tối và ân sủng mang lại tự do thay cho mặt chữ. Lễ hôm nay là mốc phân ranh giữa hai điều đó, vì lễ này nối kết chân lý với hình ảnh tượng trưng, lấy cái mới thay cho cái cũ.

Vậy, mọi loài thụ tạo hãy đồng ca, hãy nhảy múa và biểu lộ niềm vui thích hợp với ngày lễ. Hôm nay, mọi loài trên trời dưới dất hãy cùng nhau hoan hỷ và bất cứ vật nào ở trong trần gian cũng như bên trên trần gian hãy hợp nhau mừng lễ. Quả thật, hôm nay thánh điện của Đấng tạo thành muôn vật đã được xây lên, và một thụ tạo, vì một lý do mới mẻ và thích đáng, đã được chuẩn bị làm nơi cư trú mới cho Đấng Hoá Công.

 

Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giê-su Con Một Chúa, Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu Người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc, và cho chúng con hưởng bình an. Chúng con cầu xin

 

Thần Đô Huyền Nhiệm (Đoạn truyện về biến cố Mẹ Maria được sinh vào trần gian)

Ngày mồng tám tháng chín, thánh nữ Anna hiểu rằng bà sắp sinh Người Con bà hằng ước nguyện. Bà xấp mình cầu xin Thiên Chúa chúc phúc cho con mình. Lúc đó, Mẹ Maria được Chúa cho xuất thần rất cao cả, không thấy được mình sinh vào trần gian như thế nào. Lúc ra khỏi cơn xuất thần ấy, Mẹ đã thấy mình đẹp đẽ nằm trên tay thân mẫu mình.

Thánh nữ Anna được gìn giữ khỏi mọi đau đớn thông thường nơi các bà mẹ sinh con, bà dâng lên Thiên Chúa lời nguyện rằng: "Lạy Đấng Sáng Tạo mọi loài, con xin dâng Chúa người con mà con vừa được lòng lành Chúa ban cho. Con xin cảm tạ Chúa. Xin Chúa định đoạt cho mẹ con con theo ý Chúa. Con xin chúc tụng Chúa muôn đời. Con là một kẻ bất xứng, xin dạy con biết cách nuôi nấng người con của Chúa".

Thiên Chúa trả lời trong lòng bà, là bà cứ cư xử như mọi người Mẹ cư xử với con mình, đừng tỏ ra một niềm tôn kính nào bề ngoài, cứ tôn kính trong tâm hồn là đủ. Nhưng phải hết sức cẩn trọng và yêu đương.

Các thiên thần hầu cận Mẹ, cùng với vô số thiên thần khác tháp tùng, đến tỏ niềm tôn kính Mẹ. Họ hát lên một khúc ca thiên đàng, rồi bắt đầu phục vụ Mẹ. Lần đầu tiên Mẹ nhìn thấy họ dưới hình người. Mẹ mời họ ca tụng Chúa với Mẹ và nhân danh Mẹ.

Đức tổng thiên thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến báo cho các thánh ở u ngục biết tin mừng Mẹ sinh ra, một tin mừng làm các ngài hoan hỉ và tri ân vô ngần.

Tất cả những sự việc đó qua đi rất mau chóng. Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ Maria nhiều sự việc rất lạ lùng khác nữa. Việc đầu tiên là sai các thiên thần rước Mẹ lên thiên đàng. Các ngài chỉnh đốn hàng ngũ thành một cuộc khải hoàn long trọng, vừa rước Mẹ lên cao vừa ca hát cho tới trước uy nghi Thiên Chúa. Mẹ xấp mình thờ lạy Chúa.

Ngôi Lời nâng Mẹ lên, đặt bên hữu mình. Lĩnh nhận nhiều mạc khải mới, tất cả các tài năng của Mẹ tăng triển thêm. Mẹ được nhìn thấy thần tính Thiên Chúa tỏ ra ở một góc độ tuyệt vời. Bừng cháy nhiệt tâm cho danh Chúa cả sáng, Mẹ nài xin Thiên Chúa mau thi hành ơn Nhập Thể để cứu chuộc thế gian. Thiên Chúa đoan quyết với Mẹ là ước nguyện ấy của Mẹ sắp được thực hiện.

Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ cho các thiên thần biết rằng từ đời đời Ngài đã tác tạo cho Mẹ và cho Ngôi Con danh hiệu Maria và Giêsu. Trong hai danh hiệu đó, Ngài được thỏa lòng hoàn toàn. Rồi Ngài phán: "Danh hiệu Maria phải được hiển vinh lạ thường. Những ai thành thực sốt sắng kêu cầu danh hiệu ấy sẽ được ban nhiều ân sủng. Những ai kính cẩn đọc lên sẽ được ủi an. Mọi người đều tìm được trong danh hiệu ấy phương dược trị liệu bệnh tật mình; được ánh sáng soi đường; được kho tàng cứu giúp sự túng nghèo. Danh hiệu Maria làm run sợ hoả ngục và đạp nát đầu cựu xà Satan".

Chính Chúa đặt danh hiệu ấy cho Mẹ. Mẹ đón nhận với những lời ca ngợi lạ lùng. Lúc Thiên Chúa đọc danh hiệu ấy lên, các thiên thần đều phủ phục, bái chào, hát lên thánh ca tán tụng, nhất là những vị mang biểu hiệu danh hiệu ấy càng nhiệt liệt tán tụng hơn. Sau đó, cũng các Thiên Thần đã rước Mẹ lên trời lại rước Mẹ xuống đặt trên tay Thánh Nữ Anna nhưng bà không hề biết gì về sự mẹ vắng mặt. Trong lúc đó, bà được ơn xuất thần, biết được nhiều sự kiện cao cả về chức phẩm Mẹ Thiên Chúa.

Tám ngày sau, rất đông thiên thần từ trời xuống, mang theo một biểu ngữ sáng láng, ghi danh hiệu Maria. Họ nói với Thánh Nữ Anna phải mau kíp đặt tên ấy cho Con bà. Bà đi nói với Thánh Gioan Kim. Ông bà liền tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn, mời bà con thân thuộc và một tư tế đến dự. Trong niềm trịnh trọng hân hoan, ông bà đặt tên rất dịu dàng Maria cho Con Rất Thánh của mình. Các thiên thần lại tấu lên một khúc nhạc tuyệt vời, chỉ có hai mẹ con bà Anna được thưởng thức. Hạnh phúc cho trái đất biết bao, vì đã có Mẹ Đấng Cứu Chuộc.

Luật ghi trong chương 12 sách Lêvi buộc mọi người mẹ, 60 ngày sau khi sinh hạ một con gái, phải lên Đền Thờ Giêrusalem dâng một con chiên một tuổi và một con chim gáy hay một bồ câu nhỏ. Thánh nữ Anna sung sướng vì được dâng lên Thiên Chúa Người Con chí thánh Chúa đã ban cho bà, Người Con chính bà đang ẵm trên tay.  Khi bà tới Đền Thờ, đại tư tế Simeon đã ra tiếp đón. Thánh nữ Anna dâng của lễ cách sốt sắng đến rơi lệ.  Bà tuyên lại lời khấn sẽ hiến dâng Con gái mình vào Đền Thờ Thiên Chúa khi con tới tuổi thích hợp. 

Khi các nghi lễ đã xong, hai mẹ con hoan hỉ trở về Nagiarét.  Ở đây, Mẹ Maria được nuôi dưỡng y như các trẻ đương thời.  Lương thực Mẹ dùng cũng là lương thực chung mọi người, nhưng Mẹ dùng rất ít.  Mẹ ngủ đã ngắn giấc, mà còn phải ru phải dỗ mới ngủ được.  Mẹ rất ngoan ngoãn, nhưng cũng rất đoan trang, ai đến gần cũng phải tôn kính.  Mẹ cũng hay khóc và khóc nức nở, song chỉ là khóc để thương cho tội lỗi thế gian, và nài xin Đấng Cứu Chuộc đến.  Nơi Mẹ, không bao giờ có chút gì là con nít, tuy vậy Mẹ cũng sẵn lòng để thánh nữ Anna chiều chuộng.

Mẹ liên lỉ cầu nguyện cùng Thiên Chúa, dù giấc ngủ cũng không gián đoạn việc cầu nguyện ấy, vì trí năng có thể hoạt động không cần giác quan giúp đỡ.  Mẹ được hưởng đặc ân ấy cho tới khi ly trần. Không bao giờ Mẹ ngưng chuyện vãn với Chúa. Nhưng với loài người  suốt 18 tháng đầu tiên đời Mẹ, Mẹ đã im lặng y như các trẻ thơ khác. Sau mười tám tháng, Mẹ mới bắt đầu nói. Chúa dạy Mẹ cầu nguyện mỗi ngày nhiều lần để Con Chúa mau Nhập Thể, và hãy khóc lóc vì tội lỗi loài người. Trong mười tám tháng tiếp đó, nghĩa là cho tới khi Mẹ lên ba tuổi, Mẹ nói rất ít.

Cha mẹ của Mẹ không giầu lắm, cũng không nghèo lắm.  Ông bà có đủ của để may sắm cho Mẹ những bộ y phục đẹp đẽ nhưng rất đoan trang.  Trong thời gian Mẹ chưa nói, Mẹ để mặc thánh nữ Anna sắm liệu cho Mẹ, không tỏ dấu gì cưỡng lại.  Nhưng khi đã được Chúa ban lệnh nói năng,  Mẹ xin thân mẫu may cho mình những y phục vải thô, nghèo nàn, đơn bạch, mầu tro xám và, nếu có thể,  đã cũ, đồ thừa.  Thánh nữ Anna rất kính nể và tôn trọng con mình như Bà Chủ, nhưng bà không đành lòng để cho con còn thơ dại yếu đuối phải mặc áo thô.  Bà chỉ theo ý con về mầu áo và kiểu cắt may, tức mầu xám và kiểu áo của những trẻ nữ cha mẹ đã khấn hứa cho một điều nào đó.

Trong ba năm đầu đời Mẹ, Mẹ luôn thực hiện đức vâng lời hoàn thiện này.  Mẹ thường đón trước ý của thánh nữ Anna mà làm.

Khi đã lên trọn hai tuổi, Mẹ bắt đầu thi hành đức ái đối với người nghèo.  Mẹ đến xin thân mẫu của này vật nọ bố thí cho họ.  Đôi lần Mẹ còn bớt cả phần ăn của mình để cho họ nữa.  Mẹ cũng cầu nguyện cho linh hồn họ.

Mặc dầu Mẹ đầy tràn tri thức thiên phú về mọi sự vật thụ tạo, Mẹ cũng sẵn sàng được người ta dạy dỗ y như các trẻ khác, như là không biết gì. Mẹ hết sức ngoan ngoãn học hỏi nơi cha mẹ. Khi có ai chỉ dẫn thêm điều gì, hoặc khiển trách điều gì, Mẹ luôn luôn cúi đầu chấp nhận, không hề cãi trả.

Lời Mẹ nhắn nhủ:

Con hãy gắng noi gương Mẹ trong việc Mẹ đã làm suốt đời Mẹ từ khi Mẹ sinh ra. Lúc ngày mới bắt đầu, Mẹ sấp mình dưới chân Chúa, ca tụng Chúa vì những ưu phẩm vô cùng của Ngài, rồi nhìn nhận chủ quyền tuyệt đối của Ngài trên vạn vật. Mẹ cũng cảm tạ Chúa vì Ngài đã kéo Mẹ ra khỏi hư vô. Mẹ hoàn toàn phó thác dâng mình cho Ngài, để Ngài định đoạt về Mẹ tùy ý Ngài muốn trong ngày, cũng như trong suốt cuộc sống của Mẹ. Mẹ cầu xin Ngài cho Mẹ biết được những gì đẹp lòng Ngài để Mẹ chu toàn. Mẹ xin Ngài hướng dẫn, ban phép lành và chúc phúc cho hết mọi việc Mẹ làm. Mẹ còn nhắc đi nhắc lại những hành vi đó nhiều lần trong ngày.

Càng thực tâm nhiệt thành tôn kính danh hiệu rất dịu ngọt của Mẹ, con càng đi trên đường của Mẹ. Con nên biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Danh Hiệu ấy không biết bao nhiêu là ân sủng và đặc ân. Mẹ không thể nghĩ đến hay nghe đọc đến Danh Hiệu ấy mà lại không dâng lời cảm tạ Chúa. Cho nên Mẹ quyết định làm những việc cả thể cho Chúa là Đấng đã ban cho Mẹ Danh Hiệu quí báu ấy. 

 

Thứ Năm
 

(Nếu ngày Thứ Năm này không bị át bởi Lễ Kính Sinh Nhật Đức Mẹ như năm 2022)


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 8, 1b-7, 11-13

"Anh em làm tổn thương lương tâm yếu đuối của họ, là anh em phạm đến Ðức Kitô".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, sự thông thái làm cho người ta ra kiêu căng, còn lòng yêu thương thì xây dựng. Nếu ai tưởng mình biết điều gì, thì kẻ ấy chưa biết mình phải biết đúng cách. Nhưng nếu ai yêu mến Thiên Chúa, thì kẻ ấy được Thiên Chúa nhận biết. Còn về đồ ăn đã cúng tế cho các ngẫu tượng, chúng ta biết ngẫu tượng ở thế này là hư vô, và chẳng có Chúa nào khác ngoài một Thiên Chúa. Vì chưng, dù trên trời dưới đất, có những vị được người ta gọi là thần, (thật ra người ta cho rằng có nhiều thần nhiều chúa), nhưng đối với chúng tôi, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, bởi Người mà mọi sự đều có và chúng ta phải quy về Người. Và có một Chúa là Ðức Giêsu Kitô, nhờ Người mà có mọi sự, và cũng nhờ chính Người mà có chúng ta. Nhưng không phải mọi người đều có sự thông biết, vì cho đến nay, còn có ít kẻ giữ thói quen thờ ngẫu thần, nên họ ăn của cúng tế cho ngẫu tượng, và lương tâm họ vốn yếu đuối, nên ra nhơ nhớp.

Và tại sự thông biết của ngươi, mà người anh em yếu đuối phải hư đi, người anh em mà Ðức Kitô đã chết cho. Và làm tổn thương lương tâm yếu đuối của họ, là anh em phạm đến Ðức Kitô. Vì thế, nếu thức ăn làm cho người anh em tôi vấp phạm, thì tôi sẽ không ăn thịt cho tới muôn đời, kẻo làm cho người anh em tôi vấp phạm.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 138, 1-3. 13-14ab. 23-24

Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con lúc con ngồi, khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con từ đàng xa. Khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết; Ngài để ý tới mọi đường lối của con. - Ðáp.

2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thực diệu huyền. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin dò xét con và nhận biết lòng con; xin thử thách con và biết tỏ tư tưởng con. Xin Chúa nhìn coi hoặc giả con đi đường bất chính, và xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Cr 5, 19

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian với Người, và đã đặt lời giải hoà trên môi miệng chúng tôi. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 27-38

"Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại.

Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng.

Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác.

Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Reflection on Matthew 22:37 – Those Who Love God Live a More Meaningful Life

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Bài Thánh Ca Thương Xót

 

 

 

Tiếp tục đề tài sống trọn lành hay sống cảm thương với các môn đệ, nhất là với thành phần 12 vị vừa được tuyển chọn làm tông đồ của mình, Chúa Giêsu đã đi thẳng và đi ngay vào những gì chính yếu nhất và thiết yếu nhất Người muốn nói với các vị và muốn các vị sống như vậy.

Thật thế, ngay sau khi mở màn như một dạo khúc cho bài huấn dụ trọn lành cũng là bài huấn dụ về lòng cảm thương này, một dạo khúc bao gồm 4 "phúc" hạnh và 4 "khốn" nạn tương phản nhau, một dạo khúc đã được Chúa Giêsu tài tình hòa âm cho hai bè hát xung khắc nhau, nhưng một khi trình diễn với tất cả hồn sống của mình thì chính ca sĩ mới cảm thấy thấm thía hơn bao giờ hết, nhất là khi hát đến các phiên khúc chính yếu và các kết thúc của bản thánh ca thương xót huyền diệu siêu vời này.

Bản Thánh Ca Thương Xót này, mà điệp khúc là phần hòa âm hai bè "phúc/khốnđầy tính chất giằng co nhức nhối, có tất cả 2 phiên khúc và 2 đoạn kết thứ tự được liệt kê như sau:

Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ nhất:

"Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ hai:

"Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tuyệt kết:

"Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tổng kết:

"Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy ban tặng, thì các con sẽ tặng lại; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".

Tất cả nội dung và ý nghĩa của bản Thánh Ca Thương Xót này, tức là tột đỉnh của bản Thánh Cha Trọn Lành này đều được cô đọng ở chung đoạn tổng kết và ở riêng câu đầu của đoạn tổng kết ấy, đó là: "các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ". Mà "nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ" ở chỗ nào, nếu không phải, cũng trong đoạn tổng kết, ở 4 thái độ thứ tự là: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng".

Trong 4 thái độ để phản ảnh lòng nhân từ của Cha trên trời xót thương nhân loại vừa được tóm kết trên đây, có 2 thái độ mang tính cách tránh những gì là tiêu cực: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", và 2 thái độ có tính cách thực hiện những gì là tích cực: 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng". 

1- "Ðừng xét đoán" và 2- ừng kết án": bởi vì, "Thiên Chúa không sai Con Ngài đến thế gian để luận án thế gian nhưng là để thế gian nhờ Người mà được cứu độ" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "đừng xét đoán" và "đừng kết án".  

3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng": bởi vì, "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Người thì không phải chết ("tha th") nhưng được sự sống đời đời ("ban tặng")" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "hãy tha thứ" và "hãy ban tặng", ở chỗ vừa "tha thứ" vừa "ban tặng" đúng như phiên khúc 1 đã khuyên dạy: "(Tha Thứ) - Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. (Ban Tặng) - Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".

 Tuy nhiên Bài Thánh Ca Thương Xót trên đây chỉ có thể tuyệt diệu trình diễn hay trình bày một cách điêu luyện, khi người ca sĩ hay giọng ca tiếng hát chuyên nghiệp nào đó hội đủ những gì được Thánh Phaolô nhắc nhở Kitô hữu Giáo đoàn Corintô trong Thứ Thứ 1 của ngài ở Bài Đọc 1 hôm nay: "Anh em thân mến, sự thông thái làm cho người ta ra kiêu căng, còn lòng yêu thương thì xây dựng. Nếu ai tưởng mình biết điều gì, thì kẻ ấy chưa biết mình phải biết đúng cách. Nhưng nếu ai yêu mến Thiên Chúa, thì kẻ ấy được Thiên Chúa nhận biết".

Đúng thế, không phải là thứ kiến thức "thông thái kiêu căng" mà là "yêu thương xây dựng", mà là "được Thiên Chúa nhận biết", nghĩa là được Thiên Chúa chiếm đoạt, được Thiên Chúa sống trong bản thân mình, bấy giờ họ mới có thể  không còn tôn thờ ngẫu tượng ở bất cứ một hình thức nào, mà "chỉ có một Thiên Chúa là Cha" và "một Chúa là Ðức Giêsu Kitô", nhờ đó, họ cũng mới có những tác hành "thương xót như Cha" và cứu độ hơn là hủy diệt (xem Gioan 3:17) như Chúa Kitô, chẳng hạn trong việc, như trường hợp cụ thể được Thánh Phaolô đề cập tới trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "nếu thức ăn làm cho người anh em tôi vấp phạm, thì tôi sẽ không ăn thịt cho tới muôn đời, kẻo làm cho người anh em tôi vấp phạm".

Vậy, để có thể chẳng những thưởng thức mà còn trình diễn Bài Thánh Ca Thương Xót bất khả thiếu này nơi bản thân và đời sống của một Kitô hữu là môn đệ Chúa Kitô như chúng ta, chúng ta hãy cùng với Thánh Vịnh 138 ở Bài Đáp Ca hôm nay dâng lên Thiên Chúa tâm nguyện sau đây:

 

1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con lúc con ngồi, khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con từ đàng xa. Khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết; Ngài để ý tới mọi đường lối của con.

2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thực diệu huyền.

3) Lạy Chúa, xin dò xét con và nhận biết lòng con; xin thử thách con và biết tỏ tư tưởng con. Xin Chúa nhìn coi hoặc giả con đi đường bất chính, và xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời.

 


Thứ Sáu

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 9, 16-19. 22b-27

"Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Tin Mừng, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giả như nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm trọn nghĩa vụ đã giao phó cho tôi. Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi.

Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng. Anh em không biết rằng những kẻ chạy trong vận động trường, thì mọi người đều chạy nhưng chỉ có một người đoạt giải đó sao? Cũng vậy, anh em hãy chạy sao để đoạt được giải. Mọi tay đua đều phải kiêng cữ đủ điều, và những kẻ ấy kiêng cữ để đoạt lấy triều thiên hay hư nát, còn chúng ta, chúng ta nhắm đoạt triều thiên không hay hư nát.

Phần tôi cũng chạy như thế, chứ không phải chạy lẩn quẩn; tôi đấu võ, không phải như đấm vào không khí, nhưng tôi chế ngự thân xác, bắt nó tùng phục tôi, kẻo lỡ ra tôi giảng dạy cho kẻ khác, mà chính tôi phải bị loại ra chăng.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 83, 3. 4. 5-6. 12

Ðáp: Ôi Chúa thiên binh, khả ái thay cung điện của Ngài (c. 2).

Xướng: 1) Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh. - Ðáp.

2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bạn thờ Chúa. Ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con. - Ðáp.

3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Phúc thay người được Chúa nâng đỡ, họ tiến lên ngày càng thêm hăng hái. - Ðáp.

4) Vì Thiên Chúa là thuẫn khiên, thành lũy. Thiên Chúa rộng ban ân sủng với vinh quang. Ngài không từ chối ơn lành với những ai sống sạch trong vô tội. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 39-42

"Người mù có thể dẫn người mù được chăng?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.

"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh", trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".

Ðó là lời Chúa.

The Gospel of the day: 11th September – Archdiocese of Malta

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Cái đấu đong thương xót

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXIII Thường Niên, Thánh ký Luca tiếp tục thuật lại Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Người về lòng "cảm thương như Cha thương xót", mô phạm tối cao của chung nhân loại, của riêng thành phần con cái của Cha trên trời và nhất là của thành phần môn đệ Chúa Kitô, thành phần tông đồ làm chứng cho Chúa Kitô.

Ý tưởng chính trong bài Phúc Âm hôm nay đó là câu Chúa Giêsu nói ở ngay đầu: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư?" Ngay sau câu này, Chúa Giêsu còn thêm một câu nữa, đó là: "Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi", như thế có nghĩa là gì, câu trước và câu sau có liên hệ gì với nhau chăng? 

Tất nhiên một khi Chúa Giêsu đã nói là phải có ý nghĩa của nó, phải có lý của nó. Phải chăng ở đây Người có ý nói rằng người mù không thể nào dẫn người mù được, chắc chắn cả hai sẽ lọt xuống hố mà thôi? 

Bởi vậy, con người cần phải học hỏi bởi những người khôn ngoan hơn, cần được họ dẫn dắt như là những bậc sư phụ của mình, đặc biệt là Chúa Giêsu, một Đại Sư đệ nhất thiên hạ, là chính "chân lý" (Gioan 14:6), thì mới có thể tránh được lầm lỗi, thất bại, và nếu con người làm trò tỏ ra biết dễ dạy lắng nghe tuân thủ những gì được các bậc sư phụ khôn ngoan hướng dẫn thì con người mới có thể đạt tới chỗ khôn ngoan "hoàn hảonhư bậc thày của mình.

Một trong những trường hợp hay khuynh hướng chứng thực con người vốn sống mù quáng, đó là con người không "tri kỷ tri bỉ", không biết mình biết người, như Chúa Giêsu đã nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay:

"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".

Thật thế, theo tâm lý tự nhiên, thường ai cũng cho mình là hay là tốt, hiếm người hay ít người tự nhận mình là kém tài kém đức thua nhiều người khác. Thậm chí miệng nói tôi tài hèn sức mọn, ấy thế mà không được trọng dụng thì bất mãn, hay thấy ai nổi hơn mình thì chọc phá tìm cách hạ bệ. Hoặc bị phê bình hay chê trách là choảng lại liền, hay đổ lỗi cho người khác hoặc cho hoàn cảnh, vì lý do kỹ thuật v.v. 

Với tâm tính đầy tự cao tự đại và nặng tự ái như thế, con người tự nhiên chẳng những tìm cách bênh vực mình bao nhiêu có thể trong mọi sự, không muốn bị ai dò xét, không muốn bị người nào bình phẩm hay đụng chạm tới, ngược lại, họ cứ thích pha mình vào cuộc đời của người khác, ở chỗ xét đoán người khác, thường là xét đoán xấu hơn là xét đoán tốt, thậm chí còn tự suy diễn và kết tội người khác, chẳng những trong lòng của họ mà còn công khai trước cộng đồng của họ nữa. 

Nếu người ta đeo kính râm thì nhìn mọi sự mờ mờ hơn là sáng tỏ thế nào, thì bản chất con người vốn hướng hạ và hướng xấu, nhất là dễ tin những điều xấu hơn điều tốt, họ sẽ thấy anh chị em của mình một cách thiển cận, không rõ ràng, thậm chí còn có khuynh hướng suy bụng ta ra bụng người nữa - mình xấu thì không ai được tốt hơn. Đó là lý do nguyên tắc và đường lối sáng suốt khôn ngoan mà Vị Đại Sư dạy trong bài Phúc Âm hôm nay cần phải được áp dụng: "hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".

Chính vì con người rất khó bỏ tật xét đoán tha nhân một cách thiển cận và ngặt nghèo mà, theo tu đức, vì lòng nhân từ của mình, muốn cho một tâm hồn nào đó biết mình, nhờ đó họ không dám khinh người nào nữa, Cha trên trời hay sử dụng chiêu "các con lấy đấu nào mà đong cho ai thì sẽ bị đong lại cho đấu ấy" (Mathêu 7:2). Cái đấu ấy cũng có thể là chính lòng thương xót: "Ai có lòng xót thương ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thương xót vậy" (Mathêu 5:7).

Cha trên trời hay sử dụng chiêu "các con lấy đấu nào mà đong cho ai thì sẽ bị đong lại cho đấu ấy" (Mathêu 7:2) bằng cách để cho người xét đoán xấu cho anh chị em mình bị người khác xét đoán xấu y như vậy hay hơn vậy nữa. Nếu nạn nhân bị người khác đong trả cho đấu mà họ đong cho người khác, bấy giờ, tâm hồn thiện chí thấy được Thiên Chúa thật tốt lành, đã sử dụng chính những xét đoán xấu của người khác để làm cho họ mở mắt ra không dám xét đoán xấu cho ai nữa, trái lại, hoàn toàn thông cảm với mọi người hơn trước, không dám khinh thường một ai. 

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã nói đến tình trạng mù quáng tâm linh của thành phần lãnh đạo dân Chúa trong tương lai là các vị tông đồ đang nghe Người bấy giờ, một tình trạng nguy hiểm, chẳng những làm hại chính bản thân mình mà còn kéo theo cả cộng đồng dân Chúa được mình phục vụ nữa: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư?", thì có một vị tông đồ sinh non là Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã thực sự ý thức được tầm quan trọng nơi sứ vụ "rao giảng Tin Mừng" của ngài, thậm chí còn " một nhu cầu đối với tôi".

Thế nhưng, ngài đã thực hiện sứ vụ và nhu cầu rao giảng tin mừng này một cách khôn ngoan sáng suốt, chứ không lơ mơ vớ vẩn, cứ chạy "lẩn quẩn" hay "đấm vào không khí", giống như một kẻ chẳng biết mình là ai, như say rượu, như mộng du v.v., như chính ngài đã xác nhận ở cuối Bài Đọc 1 được trình từ Thứ 1 gửi Giáo đoàn Corintô của ngài, về chính bản thân ngài, đồng thời ngài cũng kêu gọi cả thành phần Kitô hữu ở cộng đoàn này nữa:

"Cũng vậy, anh em hãy chạy sao để đoạt được giải. Mọi tay đua đều phải kiêng cữ đủ điều, và những kẻ ấy kiêng cữ để đoạt lấy triều thiên hay hư nát, còn chúng ta, chúng ta nhắm đoạt triều thiên không hay hư nát. Phần tôi cũng chạy như thế, chứ không phải chạy lẩn quẩn; tôi đấu võ, không phải như đấm vào không khí, nhưng tôi chế ngự thân xác, bắt nó tùng phục tôi, kẻo lỡ ra tôi giảng dạy cho kẻ khác, mà chính tôi phải bị loại ra chăng".

Chính những lời huấn dụ của vị tông đồ dân ngoại ở Bài Đọc thứ 1 hôm nay, phản ảnh trung thực giáo huấn của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm cùng ngày, đã cho thấy chỉ những tâm hồn nào sống gắn bó với Thiên Chúa mới có thể sống như vậy, mới có thể sáng suốt, nhất là mới có thể, như Chúa Kitô phán trong Bài Phúc Âm hôm nay, "được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi". Những tâm hồn được tuyển chọn phục vụ cộng đoàn dân Chúa, hơn ai hết, cần phải luôn hiệp thông thần linh với Đấng đã tuyển chọn mình và mình đáp ứng, bằng tất cả tâm tình của Thánh Vịnh 83 trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh.

2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bạn thờ Chúa. Ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con.

3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Phúc thay người được Chúa nâng đỡ, họ tiến lên ngày càng thêm hăng hái.

4) Vì Thiên Chúa là thuẫn khiên, thành lũy. Thiên Chúa rộng ban ân sủng với vinh quang. Ngài không từ chối ơn lành với những ai sống sạch trong vô tội.

 

 

Ngày 9/9 - Thánh Phêrô Claver, linh mục

Ngày 09/09: Thánh Phêrô Claver, linh mục

 

Vào lúc đó, việc buôn bán nô lệ đã được thịnh hành ở Mỹ Châu khoảng 100 năm, và Cartagena là trung tâm. Hàng năm, có đến mười ngàn người nô lệ từ Tây Phi Châu đổ về hải cảng này sau khi vượt biển Atlantic trong những điều kiện tệ hại và bất nhân đến nỗi có đến một phần ba đã chết trong cuộc hành trình. Mặc dù việc buôn bán nô lệ bị Ðức Giáo Hoàng Phaolô III lên án và sau này Ðức Piô IX gọi là “hành động vô cùng ghê tởm“, nhưng nó vẫn phát đạt.

Thánh Phêrô Claver sinh năm 1580 tại Verdu, nước Tây Ban Nha, trong một gia đình nghèo. Nhờ một ân nhân, ngài được đi học. Năm 16 tuổi, ngài học văn chương và triết lý tại Barcelona. Năm 22 tuổi, ngài gia nhập Dòng Tên tại Tarragona. Năm 24 tuổi, ngài được gởi đến học viện Montesion của Dòng tại thành phố Palma, trên đảo Mallorca ở Địa Trung Hải. Tại đây, Tại đây, học viên trẻ Phêrô Claver kết thân với tu huynh gác cổng là thánh Anphong Rodriguez. Vị tu huynh thánh thiện đã thấy được khao khát cháy bỏng muốn phục vụ Chúa Kitô và những người nghèo khổ nơi học viên này, nên đã khuyến khích anh đi truyền giáo ở Nam Mỹ.

Sau khi hoàn tất chương trình thần học tại Barcelona, Phêrô Claver được bề trên cho phép đi Nam Mỹ. Năm 1610, ngài đến Cartagena, thường được gọi là chợ nô lệ, miền bắc nước Colombia, để sống và chết với người da đen bị bán làm nô lệ. Sau khi thụ phong linh mục, ngài làm Năm Tập Ba, rồi khấn lần cuối với lời khấn phụ suốt đời làm nô lệ cho người da đen: “TÔI PHÊRÔ CLAVER, MÃI MÃI LÀ NÔ LỆ CỦA NHỮNG NGƯỜI ETHIÔPI”.

Cha Alfonso de Sandoval, là một linh mục dòng Tên đã hy sinh cuộc đời để phục vụ người nô lệ ở đây trước khi Cha Phêrô Claver đến để tiếp tục công việc của ngài, và cha tự nhận mình là “người nô lệ muôn đời của người da đen.” 

Ngay sau khi thuyền chở người nô lệ cập bến, Cha Phêrô Claver đi xuống khoang thuyền hôi hám để giúp đỡ những người đau yếu và những hành khách khốn cùng. Sau khi người nô lệ bị lùa ra khỏi tầu và bị xích với nhau như đàn vật trong một khu đất có hàng rào để người ta chọn lựa, Cha Claver lại lẩn quẩn trong bọn họ để cung cấp thuốc men, thực phẩm, rượu, chanh và thuốc lá. Với sự giúp đỡ của thông dịch viên, ngài nói về giáo lý căn bản và đảm bảo các anh chị em của ngài về nhân phẩm và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Trong 40 năm phục vụ, Cha Claver đã giảng dạy và rửa tội cho khoảng 300,000 người nô lệ.

Khi gửi huấn thị cho các vị thừa sai lên đường đi Châu Mỹ La Tinh, Thánh Phanxicô Borgia, vị bề trên tổng quyền thứ 3 của Dòng tên, đã viết cho họ rằng: nếu hoàn cảnh đưa đẩy họ đến việc phục vụ những người nô lệ, “thì điều duy nhất phải làm là lo giải phóng cho họ, chứ không phải là làm điều gì khác.”

Sự mù quáng của các Kitô hữu thời bấy giờ đã không cho phép ngài đòi hỏi gì hơn, như người ta có thể nói ngày nay, là cầm đầu cuộc đấu tranh cho công bằng. Điều này cũng không hơn gì sự mù quáng hiện nay của nhiều Kitô hữu đã không hiểu rằng việc phá thai mà hằng trăm hàng ngàn người đang làm là “một tội ác ghê tởm” như công đồng Vatican II tuyên bố.

Sau khi chân nhận rằng “có những lời chí trích chống lại việc chấp nhận cho có nô lệ,” Borgia ra lệnh “chỉ dùng những thổ dân tự do và tự nguyện, là những người hiểu rõ việc họ làm và tự do muốn lao động trong một thời hạn với một giá lương tương xứng mà ta sẽ thỏa thuận với họ.” Lối xử sự này là một điều chưa từng nghe thấy đối với nhiều người thời bấy giờ, vì ngay cả những người lương thiện thời ấy cũng nghĩ rằng ở Mỹ châu cần có những lao động lực lưỡng làm thay cho họ, và đó là những người Phi Châu bị cưỡng bức đem đi làm nô lệ.

Trong bối cảnh xã hội ấy, Phêrô Claver đã hào hùng khám phá thấy một vấn đề lớn lao và rất nghiêm trọng. Ngài đã tìm ra một lối giải quyết theo cách thức của Mẹ Têrexa: trở thành nô lệ hơn cả những người nô lệ để trả lại cho họ phẩm giá con người. 

Sứ vụ tông đồ của ngài không chỉ hạn hẹp trong việc săn sóc người nô lệ, ngài trở nên một người có uy quyền về luân lý, quả thật, ngài là tông đồ của Cartagena. Ngài rao giảng trong trung tâm thành phố, truyền giáo cho các thủy thủ và thương gia, và nếu có thể, ngài cố tránh né lòng quý mến của các nông gia và chủ nhân mà chỉ muốn sống trong các khu dành riêng cho người nô lệ.

Thời ấy, người Châu âu da trắng thường đến Châu Phi dùng vũ lực bắt người da đen dồn xuống tàu đem qua Châu Mỹ bán cho các chủ đồn điền. Được tin một chiếc tàu nô lệ sắp đến, ngài chờ sẵn ở cảng. Tàu vừa cập bến, ngài xuống giúp đỡ những người đau yếu, bệnh tật, thiếu ăn, thiếu mặc… Tiếp đến, ngài ở bên cạnh họ khi họ bị dồn vào những khu tập trung và bị đem bán như súc vật. Rồi khi họ đã được ông chủ nào đó mua về làm nô lệ, ngài thăm viếng, bênh vực khi họ bị đối xử bất công. Ngài kiên trì trong công việc bác ái này suốt 40 năm trời, cho đến khi ngài bệnh tật. Sau bốn năm bị bệnh khiến thánh nhân ngừng hoạt động và hầu như bị lãng quên, ngài chết ngày 8-9-1654. Ông toà của thành phố, trước đây rất khó chịu vì sự quan tâm của ngài đối với người da đen thấp hèn, đã ra lệnh chôn cất ngài với công quỹ và với nghi thức long trọng.. Ngài rửa tội cho khoảng 100 ngàn người, phần lớn trong số họ là người da đen. Ngài được gọi là Thiên sứ hòa bình của thành phố Cartagena.

Với lòng yêu mến và ao ước phục vụ Chúa Giêsu và các linh hồn, cha Phêrô Claver luôn tâm niệm bốn nguyên tắc: 1- Nỗ lực tìm kiếm và nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi sự, 2- hoàn toàn tuân phục bề trên, 3- làm mọi sự cho vinh danh Thiên Chúa hơn, 4- nỗ lực bằng mọi giá để giúp cho các linh hồn được ơn cứu độ. Cha cũng luôn tự nhắc mình và các bạn của cha rằng: “Chúng ta phải nói với họ bằng đôi tay, trước khi nói với họ bằng miệng lưỡi của chúng ta.”

Ngài được Đức Thánh Cha Lêô XIII tuyên thánh năm 1888 và được Hội Thánh biểu dương như một Phanxicô Xavier của người da đen. Ngài được đặt làm quan thầy các xứ truyền giáo cho người Châu Phi; ngài còn là quan thầy cho xứ Colombia.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ website của Dòng tên, của GP Lạng Sơn và TGP Sài Gòn

 

 

Thứ Bảy



Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 10, 14-22a

"Chỉ có một bánh, nên chúng ta tuy nhiều, cũng chỉ làm thành một thân xác".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy xa lánh sự thờ lạy các ngẫu tượng. Tôi muốn nói với những người biết điều! Ðiều tôi tuyên bố, anh em hãy xét thử! Chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa, chẳng phải là thông hiệp với Máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra, chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao? Bởi vì chỉ có một bánh, mà tất cả chúng ta đều thông phần vào một bánh đó, nên chúng ta tuy nhiều, cũng chỉ làm thành một thân xác. Anh em hãy xem Israel về phần xác: Nào những kẻ ăn của tế lễ, chẳng phải là thông phần vào bàn thờ sao?

Vậy nói thế nghĩa là gì? Tôi nói, của lễ dâng lên ngẫu tượng có là cái gì đâu? Hay ngẫu tượng có là cái gì đâu? Nhưng các dân ngoại tế lễ, là tế lễ cho ma quỷ, chứ không phải cho Thiên Chúa. Nhưng tôi không muốn anh em giao kết với ma quỷ. Anh em không thể uống cả chén của Chúa, cả chén của ma quỷ được. Anh em không thể thông phần vừa vào bàn tiệc Chúa, vừa vào bàn tiệc ma quỷ được. Hay là chúng ta muốn chọc tức Chúa?

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 115, 12-13. 17-18

Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ (c. 17a).

Xướng: 1) Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa. - Ðáp.

2) (Lạy Chúa,) con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 43-49

"Tại sao các con gọi Thầy "Lạy Chúa, lạy Chúa", mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra. Tại sao các con gọi Thầy: "Lạy Chúa, lạy Chúa", mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".

Ðó là lời Chúa.

Thought of the Day – The Fruit – ReDeemed Christian Church

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Không thể theo Chúa mà lại không thực hành giáo huấn của Người

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXIII Thường Niên, là phần kết của những lời Chúa Giêsu huấn dụ các môn đệ của Người về đời sống trọn lành bằng Lòng Thương Xót như Cha trên trời, cho dù bài Phúc Âm hôm nay không trực tiếp đến chủ đề chính yếu ấy. Tuy nhiên, không phải vì bài Phúc Âm hôm nay không trực tiếp đến chủ đề chính yếu ấy mà Chúa Giêsu không nói đến như một phần bất khả thiếu của tất cả những gì Người muốn huấn dụ thành phần môn đệ của Người, bằng không, bài huấn dụ quan trọng này có thể sẽ trở thành vô bổ. 

Chủ ý Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở trong bài Phúc Âm hôm nay đó là hãy đem những gì Người truyền dạy ra thực hành chứ đừng nghe suông thì chẳng bổ ích chi: "Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành". 

Qua câu vừa có tính cách chất vấn (khúc đầu) vừa có tính cách khẳng định (khúc cuối) này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ vừa nghe xong chủ đề sống lòng thương xót như Cha trên trời rằng: nếu các con coi Thày là Thày của các con thì các con hãy thi hành những gì Thày đã truyền dạy cho các con, như thế các con mới chứng tỏ các con quả thực là môn đệ của Thày và thật sự muốn theo Thày.

Không biết khi nói câu này, Chúa Giêsu có nghĩ đến một trong thành phần 12 tông đồ được Người tuyển chọn sau cả một đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa là Giuđa Íchca hay chăng? Bởi vì, nếu người tông đồ được liệt kê cuối cùng này đem những gì Người truyền dạy ra thực hành thì người tông đồ đáng thương này đã không đi đến chỗ phản nộp Người. 

Phải chăng đó là lý do ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã nêu lên nguyên tắc "trong sao ngoài vậy" và đường lối "xem quả biết cây" để thấy được chân tướng của những ai có thực hành lời Người hay chăng và họ để cho lời của Người tác dụng nơi họ hay chăng

"Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra". 

Đường lối xem quả biết cây như thế không phải chỉ liên quan đến thiên nhiên nơi loại thảo mộc mà còn liên quan đến chính vấn đề khôn ngoan và công sức của con người nữa, như trong việc con người có biết xây nhà trên nền tảng vững chắc hay không. Chúa Giêsu đã so sánh thành phần nghe lời của Người mà đem ra thực hành hay không đem ra thực hành như sau:

"Người ấy (Người thực hành lời Chúa) giống như người xây nhà: người ấy đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".

Nếu ở câu đầu bài Phúc Âm hôm nay, khi nói đến nguyên tắc "trong sao ngoài vậy" và đường lối "xem quả biết cây" có thể Chúa Giêsu đã nghĩ đến tông đồ Giuđa Íchca thế nào, thì trong câu Phúc Âm cuối bài này, Chúa Giêsu cũng có thể đã nghĩ đến tông đồ Phêrô sẽ được Người đổi tên là "đá", một người môn đệ cho dù sau này có lỡ chối bỏ Người, nhưng tự bản chất rất chân tình và nhiệt tình, luôn đơn sơ dễ dậy lắng nghe và thực hành lời của Người, như bài Phúc Âm Thứ Năm tuần trước về mẻ cá lạ cho thấy, vẫn được Người đặt làm nền tảng cho Giáo Hội Người thiết lập (xem Mathêu 16:18).

"Đá" liên quan đến tên gọi "Phêrô, con là đá" (Mathêu 16:18) ở đây có một ý nghĩa thiêng liêng hơn là tự nhiên. Thật vậy, theo tự nhiên, đã là đá thì tự bản chất của nó phải cứng rắn và vững chắc, bằng không không phải là hay không còn là đá, như đã là ánh sáng thì phải chiếu soi, bằng không, không chiếu soi, không phải là hay không còn là ánh sáng. Nhưng "đá" được Chúa Giêsu sử dụng để làm nền tảng cho Giáo Hội Người thiết lập đây lại bao gồm 2 đặc tính hoàn toàn tương phản nhau, ở chỗ vừa cứng lại vừa mềm: mềm ở bản chất của con người lãnh đạo tông đồ đoàn mang tên Simon này, và cứng ở lòng tin tưởng của ngài nơi Đấng đã kêu gọi và tuyển chọn ngài. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nhắn nhủ ngài rằng: 

"Simôn, Simôn ơi, kìa Satan đã xin được sàng tất cả các con như người ta sàng gạo. Thế nhưng Thầy đã cầu nguyện cho con để con không bị mất lòng tin. Phần con, một khi đã trở lại, con hãy kiên cường củng cố cho anh em của con" (Luca 22:31-32). 

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu khuyên dạy các tông đồ môn đệ của Người hãy thực hành lời Người giảng dạy cho các vị về phúc đức trọn lành: "nghe lời Thầy và đem ra thực hành", "giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá", như thế các vị mới xứng đáng và mới có thể làm chứng nhân tiên khởi cho Người và trở thành nền tảng vững chắc của Giáo Hội được Người thiết lập sau này, thì trong Bài Đọc 1 hôm nay cũng thế, Thánh Phaolô đã khuyên Kitô hữu Giáo đoàn Corintô phải dứt khoát với ngẫu tượng, vừa nhân tạo và giả tạo, từ "ma quỉ", mà chỉ hoàn toàn dứt khoát theo một mình Chúa Kitô thôi, bằng việc "thông hiệp" với "Máu Chúa Kitô" và "Mình Chúa": "tôi không muốn anh em giao kết với ma quỷ. Anh em không thể uống cả chén của Chúa, cả chén của ma quỷ được. Anh em không thể thông phần vừa vào bàn tiệc Chúa, vừa vào bàn tiệc ma quỷ được".

Thánh Vịnh 115 trong Bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa tâm tình của những ai sống gắn bó với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, như được Ngài mạc khải trong toàn bộ Cựu Ước, cũng như với "Chúa Kitô là Đấng Cha sai" (Gioan 17:3), những con người đã được Chúa tuyển chọn, sử dụng và tỏ mình ra, như một phương tiện, một bí tích, trong giòng Lịch Sử cứu độ của dân Do Thái, cũng như của Dân Tân Ước, trong giòng lịch sử của loài người cho đến ngày cùng tháng tận:

1) Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa.

2) (Lạy Chúa,) con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài.