THỨ BA 19/2/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

ĐTC BIỂN ĐỨC XVI

“Sự thật làm cho chúng ta thiện hảo và sự thiện hảo là những gì chân thực"

Bài Diễn Từ định nói dịp Khai Trường cho Đại Học Rôma La Sapienza Thứ Năm 17/1/2008 

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Thánh Long Mộng Phố

Bí Mật Maria  - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (118-119)

II.  Những Dấu Hiệu Tôn Sùng Mẹ Maria một cách sai lầm và chân thực 

4. Việc thực hành Tuyệt Hảo

   MẾN Yêu Thánh Thể  

          Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích            

       Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ  (173-175)    

Những Vấn Đề Trầm Trọng & Những Vấn Đề Lạm Dụng Khác

           YÊU Thương Tha Nhân              

Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

Hôn Nhân Gia Đình - Mầu Nhiệm Cao Cả

Hiện Tượng Phá Sản

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI

 

 

ĐTC BIỂN ĐỨC XVI

 

“Sự thật làm cho chúng ta thiện hảo và sự thiện hảo là những gì chân thực: Đó là tính cách lạc quan sống động nơi niềm tin Kitô giáo” – “đại học đường thời trung cổ với 4 phân khoa” 

 

Bài Diễn Từ định nói dịp Khai Trường cho Đại Học Rôma La Sapienza

Thứ Năm 17/1/2008 

 (tiếp 12/2/2008, 13/2/2008,  14/2/2008, 15/2/2008, 16/2/2008)

Cần phải thực hiện thêm một bước nữa. Con người muốn biết sự thật – họ muốn sự thật. Sự thật trước hết là một cái gì thấy được, hiểu được, “theoria” được, như truyền thống Hy Lạp quan niệm. Thế nhưng, sự thật không bao giờ chỉ là những gì lý thuyết. Thánh Âu Quốc Tinh, khi thực hiện việc tương quan giữa các phúc đức của Bài Giảng Trên Núi với những tặng ân của Thần Linh được đề cập trong Sách Tiên  Tri Isaia đoạn 11, đã khẳng định có một sự hỗ tương giữa “scientia” và “tristitia”: ngài nói, việc hiểu biết thuần túy làm cho con người ta buồn bã. Thật thế, những ai chỉ thấy và hiểu mọi sự đang xẩy ra trên thế giới này đều tiến đến chỗ trở thành buồn thảm. Thế nhưng, sự thật không phải chỉ có nghĩa là hiểu biết, ở chỗ, việc hiểu biết sự thật nhắm đến việc hiểu biết sự thiện. Đó cũng là ý nghĩa của việc tự vấn kiểu Socrate: Đâu là sự thiện làm cho chúng ta trở thành chân thực? Sự thật làm cho chúng ta thiện hảo và sự thiện hảo là những gì chân thực: Đó là tính cách lạc quan sống động nơi niềm tin Kitô giáo, vì nó chất chứa một quan niệm về Logos, về Lý Trí sáng tạo, nơi việc nhập thể của Thiên Chúa, một Lý Trí đã tỏ mình ra là Sự Thiện, là Đích Thân Thiện Hảo.  

Vào thời thần học trung cổ đã xẩy ra một cuộc tranh cãi chính yếu về mối liên hệ giữa lý thuyết và thực hành, về mối liên hệ xác đáng giữa việc hiểu biết và việc tác hành – một cuộc tranh cãi chúng ta không thể khai triển nơi đây. Thật vậy, đại học đường thời trung cổ, với 4 phân khoa của nó, cho thấy mối tương quan này. Chúng ta hãy bắt đầu với phân khoa, theo sự hiểu biết vào thời bấy giờ, là phân khoa thứ tư, tức là y khoa. Cho dù nó được coi là một “nghệ thuật” hơn là một khoa học, nhưng, việc nó được đưa vào thế giới của các “universitas” hiển  nhiên cho thấy rằng nó được đặt vào môi trường của tính cách hữu lý, rằng nghệ thuật chữa trị ở dưới sự hướng dẫn của lý trí, và thoát khỏi môi trường pháp thuật. Việc chữa trị là một công việc càng cần đến lý trí giản dị hơn nữa, song chính vì thế mà nó mới cần đến mối liên hệ giữa việc hiểu biết và quyền lực, nó cần thuộc về lãnh giới của “ratio”.     

Nơi phân khoa luật học, vấn đề liên hệ giữa thực hành và lý thuyết, giữa việc hiểu biết và việc hành động, chắc chắn phải xẩy ra. Nó là một vấn đề của việc cống hiến hình thức đúng đắn cho tự do của con người, một thứ tự do bao giờ cũng là một thứ tự do của mối hiệp thông hỗ tương: Luật lệ là những gì giả định của tự do, chứ không phải là đối thủ của tự do. Đến đây nẩy lên  ngay một vấn đề là: Chúng ta làm thế nào nhận ra được những qui chuẩn của công lý giúp cho tự do có thể khả dĩ sống chung và phục vụ phúc hạnh của con người. Đến đây lại nẩy lên một vấn nạn nữa, đó là vấn đề làm thế nào có thể thiết lập được một thứ qui chuẩn về pháp lý kiến tạo nên một cấp trật của tự do, của phẩm giá con người và của các quyền lợi của con người. Nó là vấn đề liên quan tới chúng ta ngày nay nơi những tiến trình có tính cách dân  chủ trong việc hình thành ý nghĩ, đồng thời cũng khiến cho chúng ta lo âu như là một vấn đề về tương lai của nhân loại.  

Theo quan niệm của tôi thì Jurgen Habermas bày tỏ một sự đồng thuận rộng lớn của luồng tư tưởng hiện nay, khi ông nói rằng tính cách hợp lý của một bản hiến chương pháp định, như một thứ giả định của hợp pháp tính, có thể xuất phát từ hai nguồn mạch: từ việc tham dự chính trị quân bình của tất cả mọi người công dân và từ hình thức hữu lý nhờ đó giải quyết được những xung khắc về chính trị. Về “hình thức hữu lý” này, ông ghi nhận rằng nó không thể chỉ là một cuộc đối chọi để chiếm được những gì là đa số theo toán học, mà nó cần phải có đặc tính của một “tiến trình luận chứng nhậy cảm với sự thật” ("wahrheitssensibles Argumentationsverfahren"). Điều n ày nói thì hay, song khó lòng để có thể biến thành một thứ thực hành về chính trị.  

Thành phần đại diện cho “tiến trình luận chứng” chung ấy – như chúng ta biết – phần lớn là những đảng phái như thể họ có trách nhiệm hình thành ý muốn chính trị. Thật vậy, họ lúc nào cũng nhắm tới trước hết việc chiếm được những gì là đa số và do đó khó lòng mà tránh nổi việc bận tâm đến những lợi lộc được họ hứa hẹn làm thoả đáng; song những lợi lộc như thế thường là những gì riêng biệt và không thực sự phục vụ toàn thể. Tính cách nhậy cảm đối với sự thật cứ bị dập dụi đi bởi cảm thức về các thứ lợi lộc. Tôi thấy được tính cách quan trọng được Habemas nói đến  tính chất nhậy cảm đối với sự thật như là một yếu tố cần thiết cho tiến trình của việc luận chứng chính trị, nhờ đó đưa ý niệm về sự thật vào lại cuộc tranh luận về triết lý cũng như cuộc tranh cãi về chính trị.   

Thế nhưng vấn nạn của Philatô bởi vậy xuất hiện: Chân lý là gì? Làm sao nhận ra chân lý? Nếu nơi câu trả lời cho những vấn nạn này, người ta nói tới “lý trí chung”, như Rawls làm, thì một lần nữa vấn đề tiếp theo được đặt ra là: Đâu là những gì hợp lý? Làm thế nào lý trí cho thấy mình là lý trí đích thực? Dù sao đi nữa, theo đó vấn đề trở nên hiển nhiên là trong việc tìm kiếm luật lệ cho tự do, tìm kiếm sự thật của đời sống chung chân chính, thì cần phải lắng nghe cả những tiếng nói không phải của các đảng phái và của những nhóm quan tâm nữa, song không vì thế đối chọi với tầm quan trọng của những đảng phái và những nhóm quan tâm ấy. Chúng ta hãy trở về với cấu trúc của đại học đường thời trung cổ. 
 

(còn tiếp)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu của Tòa Thánh Vatican http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/january/documents/hf_ben-xvi_spe_20080117_la-sapienza_en.html

(những tiểu đề do người dịch tự phân định)

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL


Phần I - Tổng Quan về Việc Thành Thật Sùng Kính Đức Mẹ

 

Tôn Sùng Mẹ Maria: Nội Dung 

  

II.  Những Dấu Hiệu Tôn Sùng Mẹ Maria một cách sai lầm và chân thực 

 

 4. Việc thực hành Tuyệt Hảo

118.     Sauk hi đọc hầu hết mọi cuốn sách về lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ và nói chuyện với thành phần thánh thiện nhất và học thức nhất của thời điểm này, giờ đây tôi có thể thâm tín nói rằng tôi chưa bao giờ biết đến hay nghe thấy bất cứ việc tôn sùng nào giành cho Đức Mẹ có thể sánh với việc tôn sùng tôi sắp sửa nói tới đây. Không có một việc tôn sùng nào khác đòi phải hy sinh nhiều hơn cho Thiên Chúa, không một việc tôn sùng nào làm cho chúng ta có thể hư không hóa bản thân mình và lòng tự ái cách trọn vẹn hơn, không một việc tôn sùng nào giữ chúng ta vững chắc hơn trong ân sủng của Chúa và ân sủng của Chúa nơi chúng ta. Không có một việc tôn sùng nào liên  kết chúng ta với Chúa Giêsu cách hoàn hảo hơn và dễ dàng hơn. Sau hết, không có một việc tôn sùng nào tôn vinh Thiên Chúa hơn, làm cho bản thân chúng ta hy sinh hơn hay mang lại cho tha nhân lợi ích hơn.  

119.     Vì việc tôn sùng này chính yếu là ở nơi tâm trạng của lình hồn mà nó sẽ không được mọi người hiểu được giống như nhau. Có một số – thành phần đại đa số – sẽ dừng lại ở ngay trước ngưỡng cửa và không tiến xa hơn. Còn những người khác – không nhiều cho lắm – sẽ thực hiện chị một bước duy nhất vào bên trong của nó? Vậy thì ai sẽ thực hiện bước thứ hai đây? Ai sẽ thực hiện bước thứ ba? Sau hết, ai sẽ cứ mãi mãi tiếp tục thực hành nó đây? Chỉ có con người nào được Thần Linh của Chúa Kitô tỏ cho thấy cái bí mật này mà thôi. Chính Thánh Linh sẽ dẫn linh hồn trung tín này đi từ sức mạnh này tới quyền lực kia, từ ân sủng này tới ân sủng nọ, từ ánh sáng này tới ánh sáng kia, cho tới khi họ đạt tới chỗ được biến đổi thành Chúa Giêsu nơi tuổi thành toàn của Người trên thế gian và vinh quang của Người trên thiên đàng.

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 

 

Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ


 
 
Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/rc_con_ccdds_doc_20040423_redemptionis-sacramentum_en.html

 

Chương VI
 

2. Những Vấn Đề Trầm Trọng (173)

173.     Mặc dù tính cách trầm trọng của một vấn đề được thẩm phán theo giáo huấn chung của Giáo Hội cũng như theo các qui tắc được Giáo Hội thiết định, tuy nhiên, theo khách quan, những vấn đề trầm trọng có thể được kể đến là bất cứ những gì gây nguy hiểm đến tính cách hiệu thành và đến giá trị của Thánh Thể Cực Linh, tức là bất cứ sự gì phản nghịch với những điều đã được đề cập đến ở những số 48-52, 56, 76-77, 79, 91-92, 94, 96, 101-102, 104, 106, 109, 111, 115, 117, 126, 131-133, 138, 153 và 168. Ngoài ra, cũng phải chú ý tới các qui định khác của Giáo Luật, nhất là những gì được ấn định ở các khoản 1364, 1369, 1373, 1376, 1380, 1384, 1385, 1386 và 1398.

3. Những Vấn Đề Lạm Dụng Khác (174-175)

174.     Hơn thế nữa, những hành động xẩy ra ấy, những hành động trái với những vấn đề khác được đề cập đến ở chỗ khác trong Bản Hướng Dẫn này hay theo những qui tắc luật định cũng không được coi nhẹ, mà phải được kể vào số những thứ lạm dụng cần phải cẩn thận tránh lánh và sửa sai.

175.     Những điều được nói đến trong bản Hướng Dẫn này hiển nhiên không bao gồm tất cả mọi thứ vi phạm đến Giáo Hội cũng như đến kỷ luật của Giáo Hội là những gì được qui định nơi các khoản giáo luật, nơi qui luật phụng vụ cũng như nơi các qui tắc của Giáo Hội theo giáo Huấn Quyền hay truyền thống lành mạnh. Ở đâu xẩy ra sai lầm thì ở đó cần phải sửa chữa theo qui luật.

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

      

Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

Hôn Nhân Gia Đình - Mầu Nhiệm Cao Cả

 

Hiện Tượng Phá Sản

 

Tại một cuộc hội thảo do Đại Học Lateran tổ chức có một bản phân tích các con số thống kê cho thấy một đổi thay đáng lo ngại trong vòng 20 năm (1981-2001). Theo bản tường trình này trong tờ nhật báo Corriere della Sera số ra ngày 19/3/2005 thì ở Ý vào năm 1981 các cuộc hôn nhân ở mức 5.6 trên 1000, với tổng số 316.953, nhưng vào năm 2001 mức độ đã giảm xuống còn 4.5 vụ trên 1000, hay 260.904 vụ kết hôn thôi.

 

Những cặp chung sống ngoại hôn cũng tăng. Năm 1993 có 277 ngàn cặp, năm 2001 có 453 ngàn cặp ở Ý. ĐGM Dante Lafranconi giáo phận Cremona tường trình ở buổi hội thảo này là khoảng một nửa cặp tham dự khóa dự bị hôn nhân đã sống với nhau rồi.

 

Những con số mới nhất về gia đình Ý quốc của văn phóng thống kê nước này là ISTAT cũng cho thấy mối quan ngại này. Trong năm 2002-2003, thành phần độc thân chiếm 25.4% các đơn vị gia đình, so với 21% trong thời khoảng 1994-1995 theo tường trình 10/2004 trên tờ Corriere della Sera. Con số các cặp sống chung ngoại hôn là 564.000.

 

Tây Ban Nha cũng bị thử thách nặng về đời sống hôn nhân gia đình. Một bài báo trên tờ La Razón phổ biến một bản tường trình được Viện Chính Trị Gia Đình thực hiện cho thấy 60% gia tăng trong việc ly hôn và ly dị 8 năm qua, với con số là 134.931 trong năm 2004.

 

Tờ nhật báo Guardian hôm 17/12/2004 đã tường trình những dữ kiện được Văn Phòng Thống Kê Quốc Gia cho thấy là có 41% cuộc sinh nở ở Anh quốc và Wales vào năm 2003 xuất phát từ những cuộc giao du tình dục ngoại hôn. Con số này cao hơn một thập niên trước chỉ 12%. Ở những vùng đông bắc hai nước này, còn số tăng lên tới 50%.

 

Tờ nhật báo Telegraph ở Luân Đôn đã phổ biến hôm 5/2/2005 rằng cũng theo văn phòng thống kê trên thì con số thành hôn trong năm 2003 tăng lên 4.7% so với năm trước đó, tức tăng lên 267.770 cuộc. Tuy nhiên, sở dĩ con số này tăng là vì tăng tái hôn sau ly dị. Thật vậy, trong năm 2003 chỉ có 59% cặp là thành hôn một lần. Tuổi trung bình lập gia đình lần đầu tiên ở 2 quốc gia này là 29 ở giới nữ và 31 ở nam giới, so với 40 năm trước đây, nam ở tuổi 26 và nữ ở tuổi 23.

 

Ở Bắc Mỹ tình hình cũng không kém trầm trọng. Một bản tường trình của văn phòng Thống Kê Gia Nã Đại cho thấy tình trạng gia tăng kinh khủng nơi những cuộc ly dị đi ly dị lại. Trong một bài viết trong tháng 3/2005, tờ nhật báo Globe and Mail tường trình là 16.2% của các cuộc ly dị trong năm 2003 liên quan đến nam giới đã từng ly dị trước đó. Con số ở nữ giới là 15.7%. Tất cả có 70.828 vụ ly dị trong năm 2003, tăng 1% so với một năm trước đó với 70.155 vụ.

 

Nữ giáo sư Đại Học York, một trong những chuyên viên thượng thặng về hôn nhân và ly dị ở Canada là Anne-Marie Ambert nhận định như thế này:

 

“Chúng ta … là một xã hội rất ư cá nhân chủ nghĩa, và chúng ta coi trọng việc chọn lựa, chúng ta coi trọng việc tình tứ, và chúng ta càng trở thành ít có thể chịu đựng nổi bất cứ điều gì sai trái. Chúng ta càng ít muốn giải quyết những rắc rối về mối liên hệ. Thật là dễ dàng đổ vỡ hôn nhân hơn trong quá khứ”.

 

Một bài báo khác cũng trong tờ nhật báo trên còn bày tỏ mối quan tâm về tình trạng hôn nhân ở Canada. Con số đổ vỡ hôn nhân trước khi kỷ niệm 30 năm năm lấy nhau lên tới 38.3% vào năm 2003, trong khi đó, các chính trị gia lại bận tâm với vấn đề ngả theo chiều hướng hôn nhân đồng tính, và chẳng làm gì để giúp cho các cặp vợ chồng có thể thủy chung với nhau.

 

Bài chủ biên của tờ báo này viết rằng: “Ly dị được coi là vấn đề tư riêng giữa vợ chồng với nhau, một chọn lựa riêng tư không liên quan gì tới chính quyền và xã hội là bao. Điều này rõ ràng là sai trái. Ly dị không phải chỉ là một thảm cảnh cho các đôi phối ngẫu. Nó là một rắc rối cho mọi người khác nữa”. Sauk hi đề cập đến hậu quả tác hại cho con cái cũng như cho chính các cặp vợ chồng, bài chủ biên này kết luận: “Khi một cuộc hôn nhân kết thúc, là một gia đình bị hủy diệt giống hệt như một ngôi nhà bị cháy rụi. Hết mọi cuộc ly dị là một thảm cảnh vậy”.

 

Ở Liên Hiệp Quốc, theo Associated Press tường trình ngày 1/12/2004, Văn Phòng Kiểm Tra Dân Số cho thấy con số trong năm 2003 là 1/3 nam nhân và gần 1/4 nữ giới ở vào tuổi từ 30 đến 34 chưa bao giờ lập gia đình. Con số này gần 4 lần trong năm 1970. Con số sinh nở ngoại hôn lên đến gần 35% trong năm 2003, so với 11% trong năm 1970.

 

Ở Úc Châu cũng thế. Căn cứ vào tín liệu của cuốn Niên Giám Úc Châu 2005 do Văn Phòng Thống Kê phổ biến, tờ nhật báo Úc Châu hôm 22/1/2005 tường trình là các gia đình có cả cha lẫn mẹ và tối thiểu là 1 đứa con chỉ ở vào khoảng 47%. Những gia đình chỉ có một cha hay mẹ từ 552 ngàn năm 1991 lên tới 763 ngàn trong năm 2001.

 

Đại Hội của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC: Federation of Asian Bishops' Conferences) đã kết thúc với lời kêu gọi mạnh mẽ là hãy bênh vực và cổ võ các giá trị về gia đình. Cuộc Đại Hội lần này ở Daejon Nam Hàn có chủ đề “Gia Đình Á Châu Hướng Về Một Nền Văn Hóa Sự Sống”, với sự tham dự của 189 đại biểu và phái viên, trong đó có 92 vị giám mục (bao gồm cả 6 vị hồng y), và khoảng 100 vị linh mục, tu sĩ và giáo dân. Ngoài ra Đại Hội này còn có sự tham dự của hai vị đại diện Tòa Thánh là ĐTGM Robert Sarah, bí thư của Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc, và ĐHY Fumio Hamao, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Thành Phần Di Dân và Du Hành. Đại Hội được kết thúc hôm Thứ Hai 23/8/2004.

 

Trong diễn từ khai mạc Đại Hội, ĐTGM Sarah đã nói rằng “gia đình cần phải được coi là khởi điểm của hết mọi con người và kinh nghiệm Kitô giáo. Chính ở trong các ngôi nhà, ở nơi các gia đình mà chúng ta biết nói đến Thiên Chúa, đến Chúa Kitô và đến Thần Linh. Không có gia đình, đức tin và các giá trị về luân lý không có gốc rễ.

 

Vị TGM này cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc bảo tồn các giá trị truyền thống của hôn nhân và gia đình, bắt đầu với kinh nghiệm và văn hóa của các dân tộc Phi Châu và Á Châu. Thật vậy, nó là một di sản đang trải qua một cuộc khủng hoàng trầm trọng ở Tây Phương. Đúng thế, trong những quốc gia kỹ nghệ hóa, “các nhà lập pháp coi thường cái thiết yếu của việc hiệp nhất gia đình đối với phúc hạnh của xã hội”.

 

Bản văn gợi ý của Đại Hội này thôi thúc các vị giám mục hãy cổ võ gia đình bằng “cuộc hạ sinh của một nền văn hóa sự sống”.

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net