PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

TUẦN VI THƯỜNG NIÊN NĂM C VÀ NĂM CHẴN

 

 

Chúa Nhật

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: 1 Sm 26, 2. 7-9. 12-13. 22-23

"Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay".

Trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Saolê cùng với ba ngàn quân sĩ tinh nhuệ của Israel kéo xuống hoang địa Ziphô để vây bắt Ðavít. Ban đêm Ðavít và Abisai đến nơi quân sĩ (của vua) đóng, và thấy Saolê đang nằm ngủ trong lều, cây giáo của ông thì cắm xuống đất ở phía đầu. Abner và quân sĩ thì ngủ chung quanh ông.

Abisai liền nói với Ðavít rằng: "Hôm nay, Thiên Chúa đã trao kẻ thù trong tay ngài; vậy giờ đây xin cho tôi lấy giáo đâm ông ấy một phát thâu xuống đất, không cần đến phát thứ hai". Nhưng Ðavít nói với Abisai rằng: "Chớ giết ngài, vì có ai đưa tay phạm đến Ðấng Chúa xức dầu mà vô tội đâu?" Rồi Ðavít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu của Saolê và cả hai ra đi. Không ai hay biết và không ai thức dậy, nhưng mọi người vẫn ngủ, vì Chúa khiến họ ngủ say.

Ðavít sang phía bên kia, đứng trên ngọn núi đàng xa, đôi bên cách xa nhau. Ngài hô lên rằng: "Ðây là ngọn giáo của nhà vua, một trong các cận vệ của vua hãy qua đây mà lấy, Chúa sẽ báo đáp cho mỗi người tuỳ theo sự công minh và thành tín cuả họ, vì hôm nay Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay giết đấng được Chúa xức dầu".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 8 và 10. 12-13.

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót. (c. 8a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.

3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. - Ðáp.

4) Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 45-49

"Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, Ađam cũ là người có sự sống, còn Ađam mới thì có thần trí ban sự sống. Những điều có trước, không phải thuộc linh giới, mà là thuộc thể giới, rồi mới đến cái thuộc về linh giới. Người thứ nhất bởi đất mà ra, thì thuộc về địa giới, còn người thứ hai bởi trời mà đến, thì thuộc thiên giới. Người thuộc địa giới đó thế nào, thì những người khác thuộc địa giới cũng vậy; và người thuộc thiên giới đó thế nào, thì những người khác thuộc thiên giới cũng vậy. Bởi thế, như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 27-38

"Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả má con bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại. Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng.

Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn, và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác.

Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for LK 6, 27-38

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Tiếp tục đề tài sống trọn lành (ở bài Phúc Âm tuần trước về 4 phúc thật và 4 khốn nạn), Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay, hay sống cảm thương với các môn đệ, nhất là với thành phần 12 vị vừa được tuyển chọn làm tông đồ của mình, Chúa Giêsu đã đi thẳng và đi ngay vào những gì chính yếu nhất và thiết yếu nhất Người muốn nói với các vị và muốn các vị sống như vậy.

Thật thế, ngay sau khi mở màn như một dạo khúc cho bài huấn dụ trọn lành cũng là bài huấn dụ về lòng cảm thương này, một dạo khúc bao gồm 4 "phúc" hạnh và 4 "khốn" nạn tương phản nhau, một dạo khúc đã được Chúa Giêsu tài tình hòa âm cho hai bè hát xung khắc nhau, nhưng một khi trình diễn với tất cả hồn sống của mình thì chính ca sĩ mới cảm thấy thấm thía hơn bao giờ hết, nhất là khi hát đến các phiên khúc chính yếu và các kết thúc của bản thánh ca thương xót huyền diệu siêu vời này.

Bản Thánh Ca Thương Xót này, mà điệp khúc là phần hòa âm hai bè "phúc/khốnđầy tính chất giằng co nhức nhối, có tất cả 2 phiên khúc và 2 đoạn kết thứ tự được liệt kê như sau:

Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ nhất:

"Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ hai:

"Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tạm kết:

"Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tận kết:

"Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy ban tặng, thì các con sẽ tặng lại; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".

Tất cả nội dung và ý nghĩa của bản Thánh Ca Thương Xót này, tức là tột đỉnh của bản Thánh Cha Trọn Lành này đều được cô đọng ở chung đoạn tổng kết và ở riêng câu đầu của đoạn tổng kết ấy, đó là: "các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ". Mà "nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ" ở chỗ nào, nếu không phải, cũng trong đoạn tổng kết, ở 4 thái độ thứ tự là: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng".

Trong 4 thái độ để phản ảnh lòng nhân từ của Cha trên trời xót thương nhân loại vừa được tóm kết trên đây, có 2 thái độ mang tính cách tránh những gì là tiêu cực: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", và 2 thái độ có tính cách thực hiện những gì là tích cực: 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng". 

1- "Ðừng xét đoán" và 2- ừng kết án": bởi vì, "Thiên Chúa không sai Con Ngài đến thế gian để luận án thế gian nhưng là để thế gian nhờ Người mà được cứu độ" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "đừng xét đoán" và "đừng kết án".  

3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng": bởi vì, "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Người thì không phải chết ("tha th") nhưng được sự sống đời đời ("ban tặng")" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "hãy tha thứ" và "hãy ban tặng", ở chỗ vừa "tha thứ" vừa "ban tặng" đúng như phiên khúc 1 đã khuyên dạy: (Tha Thứ) - "Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong". (Ban Tặng) - "Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".

Gương mẫu sống điển hình nhất cho giáo huấn trọn lành của Bài Phúc Âm hôm nay phải nói là vị vua thứ hai tương lai của dân Do Thái, đó là Đavít. Thật vậy, trước khi làm vua, chàng thanh niên Đavít này đã thắng tên Goliát cồ tượng của quân Philitinh bằng mấy viên đá, bởi chàng chỉ hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa mà thôi (xem 1Samuel 17:41-54). Tuy nhiên, chàng không ngờ lại được các thiếu nữ đón mừng bằng một lời chạm tự ái Vua Saolê (xem 1Samuel 18:6-9), nên bị Saulê tìm cách hãm hại 2 lần. Lần thứ hai Đavít bị vua Saolê đích thân thân chinh đi lùng giết được Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại. Thế nhưng, Đavít đã đối xử với vị vua thù địch của mình ra sao, chúng ta hãy đọc lại nguyên câu truyện của nó:

"Trong những ngày ấy, Saolê cùng với ba ngàn quân sĩ tinh nhuệ của Israel kéo xuống hoang địa Ziphô để vây bắt Ðavít. Ban đêm Ðavít và Abisai đến nơi quân sĩ (của vua) đóng, và thấy Saolê đang nằm ngủ trong lều, cây giáo của ông thì cắm xuống đất ở phía đầu. Abner và quân sĩ thì ngủ chung quanh ông. Abisai liền nói với Ðavít rằng: 'Hôm nay, Thiên Chúa đã trao kẻ thù trong tay ngài; vậy giờ đây xin cho tôi lấy giáo đâm ông ấy một phát thâu xuống đất, không cần đến phát thứ hai'. Nhưng Ðavít nói với Abisai rằng: 'Chớ giết ngài, vì có ai đưa tay phạm đến Ðấng Chúa xức dầu mà vô tội đâu?' Rồi Ðavít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu của Saolê và cả hai ra đi. Không ai hay biết và không ai thức dậy, nhưng mọi người vẫn ngủ, vì Chúa khiến họ ngủ say. Ðavít sang phía bên kia, đứng trên ngọn núi đàng xa, đôi bên cách xa nhau. Ngài hô lên rằng: 'Ðây là ngọn giáo của nhà vua, một trong các cận vệ của vua hãy qua đây mà lấy, Chúa sẽ báo đáp cho mỗi người tuỳ theo sự công minh và thành tín cuả họ, vì hôm nay Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay giết đấng được Chúa xức dầu'".

Bài Đọc 2 hôm nay Thánh Phaolô cho chúng ta biết về 2 Adong: cũ và mới, nhưng hoàn toàn khác nhau về tầm mức của bản chất của mình, ở chỗ Adong mới là Chúa Giêsu Kitô hoàn toàn trọn hảo hơn Adong cũ của nguyên tội: "Anh em thân mến, Ađam cũ là người có sự sống, còn Ađam mới thì có thần trí ban sự sống. Những điều có trước, không phải thuộc linh giới, mà là thuộc thể giới, rồi mới đến cái thuộc về linh giới. Người thứ nhất bởi đất mà ra, thì thuộc về địa giới, còn người thứ hai bởi trời mà đến, thì thuộc thiên giới. Người thuộc địa giới đó thế nào, thì những người khác thuộc địa giới cũng vậy; và người thuộc thiên giới đó thế nào, thì những người khác thuộc thiên giới cũng vậy".

Tuy nhiên, cho dù là vượt trội hơn Adong cũ về bản chất "linh giới" và "thiên giới" trọn hảo của mình, Adong mới cũng đã mặc lấy nhân tính của Adong cũ và như Adong cũ, nhờ đó, đã thăng hóa bản tính đã bị hư hoại theo nguyên tội của Adong cũ là con người thuộc "thể giới" và thuộc "địa giới". Do đó, khi lãnh nhận Phép Rửa Tái Sinh, Kitô hữu đã được biến đổi, hay đúng hơn đã được thánh hóa, đúng như Thánh Phaolô khẳng định ở câu cuối cùng của Bài Đọc 1 hôm nay: "Bởi thế, như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy".  "hình ảnh người thiên quốc" này ra sao, nếu không phải là hình ảnh đã được Chúa Kitô phác họa, mong muốn và kêu gọi các tông đồ của Người trở nên trong Bài Phúc Âm hôm nay: "nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ".

Thế nhưng, thực tế phũ phàng cho thấy, cho dù, nhờ được Thánh Tẩy Tái Sinh, Kitô hữu vẫn chưa hoàn toàn được biến đổi, bởi vẫn mang nơi bản thân mình bản chất "thể giới" và "địa giới" của Adong cũ, nên vẫn tiếp tục hướng hạ theo trần gian và hướng nội theo lòng vị kỷ của mình, hoàn toàn ngược lại với giáo huấn trọn lành của Bài Phúc Âm hôm nay, không xứng đáng với phẩm vị và tư cách của một người con Thiên Chúa, đã được mặc lấy bản chất "linh giới" và "thiên giới" của Chúa Kitô và như Chúa Kitô. Bởi thế, họ mới liên lỉ cần phải than lên như câu xướng của Bài Đáp Ca hôm nay: "Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót", với tất cả tâm tình và ý thức về bản thân mình trước nhan Thiên Chúa xót thương của chính Bài Đáp Ca này:

 

1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng.

3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi.

4) Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người.

 

Hai Thánh Giaxinta và Phanxicô

(20/2)

Image result for sts. francisco and jacinta marto

Đạo Binh Dàn Trận - Thiếu Nhi Fatima

 

Thứ Hai

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 3, 13-18

"Nếu anh em có lòng thích cãi vã, thì đừng lên mặt".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em thân mến, ai là kẻ khôn ngoan và từng trải trong anh em? Người ấy hãy lấy đời sống tốt lành mà bày tỏ công việc của mình thấm nhuần sự hiền từ khôn ngoan. Còn nếu anh em có lòng ganh tị chua cay và thích cãi vã, anh em đừng lên mặt và nói dối nghịch cùng sự thật. Vì thứ khôn ngoan đó không phải từ trời xuống, mà là thứ khôn ngoan phàm trần, mang nặng thú tính và là của ma quỷ. Bởi chưng ở đâu có ganh tị và cãi vã, ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan. Nhưng sự khôn ngoan từ trời xuống, thì trước tiên là trong trắng, rồi ôn hoà, bao dung, nhu mì, hướng thiện, đầy lòng nhân từ và hoa quả tốt lành, không xét đoán thiên vị, không giả dối. Hoa quả của công chính được gieo vãi trong bình an cho những người xây đắp an bình.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 15

Ðáp: Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can (c. 9a).

Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Ðáp.

2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.

3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. - Ðáp.

4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Ðá Tảng, là Ðấng Cứu chuộc con. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 13-28

"Lạy Thầy, tôi tin, xin Thầy trợ giúp đức tin hèn kém của tôi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu (từ trên núi xuống) và đến cùng các môn đệ, Người thấy một đám đông vây quanh các ông và những luật sĩ đang tranh luận với các ông.

Vừa thấy Người, tất cả đám đông kinh ngạc, họ sợ hãi và chạy đến chào Người. Và Người hỏi họ rằng: "Các ngươi tranh luận gì với nhau đó?" Một người trong đám đông trả lời rằng: "Lạy Thầy, tôi đem đến cùng Thầy đứa con trai tôi đang bị quỷ câm ám. Quỷ đột nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật nó ngã xuống đất và nó xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ ra. Tôi đã xin các môn đệ Thầy trừ quỷ, nhưng họ bất lực". Người đáp lại: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ? Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Ðem nó lại đây cho Ta". Và người ta đem nó đến.

Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất. Chúa Giêsu hỏi cha nó rằng: "Nó bị như thế từ bao giờ?" Ông ta đáp: "Thưa từ lúc bé! Quỷ thường xô nó vào lửa, vào nước để giết nó. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì thì xin Thầy thương giúp chúng tôi". Chúa Giêsu nói với ông: "Sao lại nói: Nếu Thầy có thể? Với kẻ nào tin, thì mọi sự đều có thể được". Tức thì cha đứa bé khóc lóc kêu lên: "Thưa Thầy tôi tin, xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi". Chúa Giêsu thấy đám đông tuôn đến, Người nạt thần ô uế rằng: "Hỡi thần câm điếc, Ta truyền cho mi: hãy xuất ra khỏi nó và không được nhập vào nó nữa". Sau khi kêu thét và dằn vật đứa trẻ dữ dội, quỷ xuất khỏi nó và đứa trẻ ra như chết, khiến đám đông nói: "Nó chết rồi". Nhưng Chúa Giêsu cầm tay nó nâng dậy và nó đứng lên.

Khi Chúa vào trong nhà, các môn đệ hỏi riêng Người: "Tại sao chúng con lại không thể trừ được nó?" Người đáp: "Loại đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

"Chính để phá hủy công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (1Gioan 3:8).

 

Suy Niệm:

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Marco thuật lại sự việc Chúa Giêsu chữa lành cho một đứa con trai cho khỏi bị quỉ câm ám. Sự việc chữa lành này xẩy ra sau biến cố Người biến hình trên núi (xem Marco 9:1-13), lúc Người cùng ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan xuống núi để đến với các môn đệ khác đang chờ Người ở dưới núi, và cũng chính là lúc "Người thấy một đám đông vây quanh các ông và những luật sĩ đang tranh luận với các ông".

 

Thánh ký Marco không thuật lại cho chúng ta biết chi tiết về vấn đề tranh luận giữa 9 môn đệ của Chúa Giêsu với các luật sĩ thông luật hơn các vị, thế nhưng chúng ta cũng có thể suy đoán rằng về vấn đề trừ quỉ, một vấn đề sau đó đã được chính các vị đặt ra hỏi Chúa Giêsu, và cũng là vấn đề thành phần luật sĩ này đã có lần trước đó xuyên tạc rằng Người lấy quỉ tướng mà trừ quỉ con (xem Marco 3:22).

 

Cũng có thể là bấy giờ các môn đệ ở dưới chân núi chờ Người thì đã cùng nhau và thay nhau trừ quỉ, nhưng không được, nên bị nhóm luật sĩ có mặt bấy giờ châm biếm: "Thày của các người đâu rồi. Các người làm gì mà trừ quỉ được, làm gì bằng sư phụ của các người, một tay phù thủy chuyên môn lấy quỉ tướng mà trừ quỉ con. Thứ tà thuật che mắt trẻ con chứ làm gì qua mặt bọn này được..."

 

Tất nhiên, nghe thấy thế, tự ái đoàn thể của các vị không thể nào không nổi lên, và vì thế các môn đệ có thể đã nhào vô bênh vực Thày và bảo vệ danh dự cho cả nhóm, chẳng hạn bằng cách chống đỡ như: "Các ông đừng có mà nói bậy. Thày của chúng tôi là một Đấng quyền năng xuất chúng chứ không phải tầm thường như các ông... Người mà có ở đây thì các ông cứ mở mắt ra mà xem... như lần trước..."

 

Chắc có thể vừa nói đến đây thì Chúa Giêsu cũng vừa xuất hiện. Bởi thế, ngay mở đầu bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Marco đã cho thấy phản ứng của dân chúng bấy giờ như sau: "Vừa thấy Người, tất cả đám đông kinh ngạc, họ sợ hãi và chạy đến chào Người...". Tại sao đám đông "kinh ngạc" - Phải chăng vừa nói đến Người thì Người liền xuất hiện!?

 

Tại sao họ lại có một phản ứng tương phản cùng một lúc: "sợ hãi" và "chạy đến chào Người"?? Đáng lẽ "sợ" Người thì theo phản ứng tự nhiên thì phải tránh Người chứ sao lại "chạy đến chào Người" là làm sao??? Phản ứng trái ngược lại xẩy ra cùng một lúc chỉ có thể hiểu là có một số thì cảm thấy "sợ hãi", chẳng hạn như thành phần luật sĩ, còn những người khác thì vui mừng "chạy đến chào Người" như họ gặp được vị cứu tinh của họ.

 

Trong những người vui mừng ấy chắc chắn là có các vị tông đồ, nhất là người cha của em trai nạn nhân bị quỉ câm ám. Bởi vì, con ông bị quỉ ám hành hạ, trong khi đó không ai có thể trừ quỉ được, thậm chí cả thành phần môn đệ của Chúa Giêsu, như ông đã thành thật mô tả cho Chúa Giêsu biết: "Lạy Thầy, tôi đem đến cùng Thầy đứa con trai tôi đang bị quỷ câm ám. Quỷ đột nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật nó ngã xuống đất và nó xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ ra. Tôi đã xin các môn đệ Thầy trừ quỷ, nhưng họ bất lực".

 

Chắc bấy giờ thành phần luật sĩ, cho dù vẫn ngờ vực quyền năng trừ quỉ của Chúa Giêsu, cũng vẫn tò mò theo dõi xem Người có thật trừ được quỉ hay chăng và trừ quỉ như thế nào. Và ngay trước mắt của họ bấy giờ, như Thánh ký Marco thuật lại, họ chứng kiến thấy rằng: "Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất". Nghĩa là cái oai phong và quyền năng của Chúa Giêsu ở ngay sự hiện diện của Người, chứ chưa nói đến việc Người ra tay hay đến lúc Người ra tay.

 

Tuy nhiên, Chúa Giêsu không ra tay trừ quỉ ngay, cho dù thấy hiện tượng em trai nạn nhân bị quỉ ám hành hạ như thế. Không biết có phải Người muốn cho thành phần luật sĩ này tin vào Người hơn qua việc Người ra tay trừ quỉ ám, khi Người lên tiếng hỏi người bố một câu hỏi có vẻ dư thừa không cần thiết cho lắm, nhưng Người cố ý như vậy để người bố nói ra cho thành phần luật sĩ ngờ vực này biết tình trạng em trai nạn nhân bị quỉ ám này khốn khổ là chừng nào bao lâu còn bị quỉ ám và ma quỉ dữ dội ác độc đến đâu, để một khi em trai nạn nhân được thoát quỉ ám thì họ biết được quyền năng của Người không phải là những gì bùa phép tà thuật.

 

Người bố đã thuật lại cho riêng Chúa Giêsu và mọi người chung quanh bấy giờ đều nghe thấy rằng: "Thưa từ lúc bé! Quỷ thường xô nó vào lửa, vào nước để giết nó". Người bố còn thêm ngay sau đó rằng: "Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì thì xin Thầy thương giúp chúng tôi". "Chúng tôi" đây bao gồm gia đình của ông: cả đứa con nạn nhân và bố mẹ của cháu, vì cha mẹ cùng ông bà và anh chị em trong cùng một gia đình làm sao chịu được khi thấy một người thân yêu của mình bị quỉ ám khốn nạn kéo dài như vậy.

 

Nghe thấy thế Chúa Giêsu vẫn chưa chịu ra tay ngay. Người vẫn như chần chờ làm sao ấy. Bởi thế, trước khi ra tay, Người còn nhắc nhở người bố một điều kiện tối yếu bất khả thiếu để Người ra tay, nhờ đó thành phần luật sĩ duy luật chỉ cậy vào việc mình làm mới thấy rằng duy đức tin mới là yếu tố cứu độ chính yếu, và câu Người bảo ông bố như ngầm giục ông hãy tuyên xưng đức tin đi thì mọi sự sẽ được như ý: "'Sao lại nói: Nếu Thầy có thể? Với kẻ nào tin, thì mọi sự đều có thể được'. Tức thì cha đứa bé khóc lóc kêu lên: 'Thưa Thầy tôi tin, xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi'".

 

Làm gì thì làm, Thiên Chúa bao giờ cũng lợi dụng mọi sự để mưu ích chẳng những cho người nhận ơn mà còn cho những người khác nữa. Chẳng hạn, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người chờ cho tới khi, như Thánh ký Marco ghi lại, "thấy đám đông tuôn đến", Người mới ra tay để "trợ giúp lòng tin yếu kém của (người bố)" cũng như làm cho chính đám đông nói chung và thành phần luật sĩ nói riêng tin vào Người. Quả thật, sau đó Người không còn chần chờ gì nữa và đã chính thức công khai ra tay như thế này:

 

"Người nạt thần ô uế rằng: 'Hỡi thần câm điếc, Ta truyền cho mi: hãy xuất ra khỏi nó và không được nhập vào nó nữa'. Sau khi kêu thét và dằn vật đứa trẻ dữ dội, quỷ xuất khỏi nó và đứa trẻ ra như chết, khiến đám đông nói: 'Nó chết rồi'. Nhưng Chúa Giêsu cầm tay nó nâng dậy và nó đứng lên".

 

Sự kiện sở dĩ chỉ có Chúa Giêsu mới trừ được quí ám trong trường hợp này, trong khi môn đệ của Người thì không, chẳng những vì tự mình Người là Đấng quyền năng, mà còn vì hai lý do chính yếu sau đây:

 

Trước hết, trong khi về phía người bố thì yếu đức tin, đúng như sự thật được Chúa Giêsu vạch trần ra ngay từ đầu: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ? Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Ðem nó lại đây cho Ta", như thể để Người làm cho các người thấy mà tin, thì về phía người trừ là các môn đệ của Người lại không hội đủ điều kiện, như trong câu Người trả lời riêng cho vấn nạn bất khả trừ quỉ của các vị sau đó: "'Tại sao chúng con lại không thể trừ được nó?' Người đáp: 'Loại đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay'".

 

Cảm Nghiệm:

 

Thật ra, khi chịu chết trên cây thập giá, như con rắn đồng được Moisen treo lên cột cao trong sa mạc để cứu những ai bị rắn cắn nhìn lên đó (xem Gioan 3:14-15), Chúa Kitô cũng đã trừ quỉ cho nhân loại rồi: "Chính để phá hủy công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (1Gioan 3:8).

 

Thành phần lãnh nhận Phép Rửa, tức là được thông phần vào cái chết của Người (xem Roma 6:3), thật sự đã được trừ quỉ ám, nghĩa là được Người giải phóng khỏi ách nô lệ của ma quỉ, khỏi quyền thống trị của chúng, gây ra bởi nguyên tội mà họ dù không phạm cũng bị vướng mắc.

 

Tuy nhiên, cho dù nhờ Phép Rửa, Kitô hữu được thanh tẩy, được trừ khỏi bị quỉ ám, nhưng thực tế cho thấy mầm mống nguyên tội vẫn còn nguyên nơi bản thân họ, bởi thế, đam mê nhục dục và tính mê nết xấu vẫn là nội công của ma quỉ nơi họ, khiến họ vẫn bị ma quỉ tiếp tục ám một cách nào đó.

 

Thế nhưng, mỗi lần Kitô hữu bị quỉ ám hành hạ, đến độ lúc nào cũng chỉ muốn giết chết họ bằng tội trọng, như chúng đã đầy đứa bé trong bài Phúc Âm hôm nay "xô vào lửa, vào nước để giết nó", thì Kitô hữu lại cần phải trừ quỉ một lần nữa, và thường xuyên nhiều lần như vậy, bằng Bí Tích Hòa Giải!

 

Còn ai mong muốn sát hại tận diệt linh hồn con người bằng ma quỉ được gọi là tử thần này, và vì là tử thần nên hắn luôn "xô" đẩy linh hồn con người vào chỗ chết như vào "lửa" hận thù ghen ghét ("lửa" đây ám chỉ "hồ lửa" cũng là "cái chết lần hai" trong Khải Huyền 20:14-15), cũng như vào "nước" đam mê nhục dục ("nước" đây ám chỉ trận lụt hồng thủy thời Noe đã nhận chìm hết con người bấy giờ toàn là xác thịt dâm loạn - xem Khởi Nguyên 6:1-6).

 

Thật vậy, nơi Bí Tích Hòa Giải chất chứa quyền năng trừ quỉ của Chúa Kitô, Đấng giải thoát những ai tin vào Người, những ai thành tâm thống hối chạy đến với lòng thương xót bao la bất tận của Người mỗi khi thấy mình sa ngã phạm tội mất lòng Người.

 

Thành phần môn đệ của Chúa Kitô không thể nào trừ được quỉ ám nơi "các linh hồn cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn" nếu chính họ cũng bị quỉ ám như ai, tức là họ sống không sạch tội, một tình trạng thiêng thiêng cho thấy, họ thực sự "không cầu nguyện và chay tịnh": "không cầu nguyện" ở chỗ không sống nội tâm với Chúa, và "không chay tịnh" ở chỗ không chịu cẩn thận khổ chế giác quan và bản tính tự nhiên, nên khó tránh dịp tội và phạm tội.

 

Vậy "cầu nguyện và chay tịnh" là việc làm khôn ngoan để nhờ đó có thể tự vệ trước quyền lực tối tăm khôn lường gian trá, nhờ có ơn khôn ngoan và thâm hiểu của Thánh Thần, và có khả năng trừ quỉ nơi tha nhân nữa, bằng ơn trí thức và huấn dụ của Chúa Thánh Thần để giúp họ tránh khỏi cạm bẫy của thần dối trá, đúng như lời Thánh Giacôbê Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Sự khôn ngoan từ trời xuống, thì trước tiên là trong trắng, rồi ôn hoà, bao dung, nhu mì, hướng thiện, đầy lòng nhân từ và hoa quả tốt lành, không xét đoán thiên vị, không giả dối. Hoa quả của công chính được gieo vãi trong bình an cho những người xây đắp an bình".

 

Thánh Phêrô Đamianô – Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh  
(1007-1072)

21-02

PeterDamian.jpg

 

ĐTC Biển Đức XVI: 9/9/2009 bài 88 - Thánh Phêrô Đamianô

 

Ngài sinh năm 1007 ở Ravenna, mồ côi cha mẹ khi còn nhỏ và sống với người anh ruột nhưng bị đối xử như người đầy tớ. Khi mới lớn một chút, ngài đã bị sai đi chăn heo. Một người anh khác, là giáo trưởng ở Ravena, thấy thương hại chú em bơ vơ nên đem ngài về nuôi nấng cho ăn học tử tế. Có lẽ vì nhớ ơn dưỡng dục của người anh này mà Phêrô đã lấy tên người anh, là Damian, thành tên của mình.


Phêrô là một học sinh có năng khiếu và sau đó trở thành một giáo sư nổi tiếng. Trong thời gian này, Phêrô cố làm quen với sự chay tịnh, sự cầu nguyện và ngài mặc áo nhặm bên trong áo thường để chống với các cám dỗ của lạc thú và mưu chước ma quỷ.


Sau một thời gian, ngài quyết tâm từ bỏ thế gian để sống đời ẩn tu với các tu sĩ Biển Ðức thuộc nhánh cải cách của Thánh Romuald ở Fonte Avellana. Các vị ẩn tu thường sống từng đôi trong một cái am cách xa nhau, để cầu nguyện và đọc sách thiêng liêng, với cuộc sống rất khắc khổ. Vì quá hăng say trong sự cầu nguyện và ngủ quá ít nên không bao lâu Phêrô bị bệnh mất ngủ trầm trọng. Ngài phải thận trọng kềm chế và săn sóc chính mình. Vì lý do đó, ngài dành nhiều thời giờ để nghiên cứu Kinh Thánh, và trở nên một thi sĩ sáng tác thơ đạo cũng nổi tiếng như trong văn chương đời trước đây.


Do một quyết định của toàn thể các vị ẩn tu, ngài phải chịu trách nhiệm lãnh đạo Cộng Ðoàn khi vị bề trên qua đời. Do đó, sau khi vị tu viện trưởng từ trần khoảng năm 1043, Phêrô đã dẫn dắt gia đình thánh thiện này với sự khôn ngoan và đạo đức. Ngài cũng thành lập thêm năm tu viện ẩn cư khác. Ngài duy trì tinh thần ẩn dật, bác ái và khiêm nhường. Nhiều vị ẩn tu dưới sự dẫn dắt của ngài là các ngôi sao sáng của Giáo Hội, kể cả Thánh Ðaminh Loricatus, Thánh Gioan ở Lodi là người kế vị ngài trong chức vụ tu viện trưởng ở Holy Cross.


Có lẽ vì là trẻ mồ côi và bị đối xử thật tệ hại khi còn nhỏ nên Phêrô Damian thật tốt với người nghèo. Trong các bữa ăn, lúc nào cũng có một hay hai người nghèo ăn chung với ngài, và đích thân ngài lo lắng cho nhu cầu của họ.


Trong nhiều năm, Phêrô Damian thường giúp các Giáo Hoàng trong công việc hòa giải giữa các tu hội kình chống nhau, hoặc giữa giáo sĩ, viên chức chính phủ và Tòa Thánh. Năm 1057, Ðức Giáo Hoàng Stephanô IX thuyết phục ngài từ bỏ đời ẩn dật và đặt ngài làm Giám Mục-Hồng Y của Ostia.


Ngài tích cực tẩy trừ nạn buôn bán chức vụ trong Giáo Hội, khuyến khích các linh mục sống độc thân, và thúc giục các linh mục triều sống thành cộng đoàn, giữ chương trình cầu nguyện. Ngài ao ước phục hồi sự kỷ luật nguyên thủy của các tu sĩ và linh mục, cảnh cáo họ về việc di chuyển không cần thiết, vi phạm đức khó nghèo và sống quá thoải mái. Ngài viết thư khiển trách Ðức Giám Mục Florence về việc chơi cờ, và Ðức Giám Mục Besancon về việc để giáo sĩ ngồi khi đọc thánh vịnh trong Kinh Nhật Tụng.


Ngài viết rất nhiều thư. Khoảng 170 lá hiện vẫn còn. Chúng ta cũng còn 53 bài giảng của ngài và bảy tiểu sử ngài viết. Ngài thích viết về gương mẫu và chuyện thật hơn là lý thuyết. Các bản văn phụng vụ của ngài cho thấy ngài có phong cách của một nhà văn.


Ngài thường xin Ðức Giáo Hoàng cho ngài từ chức Giám Mục-Hồng Y của Osia, và sau cùng Ðức Alexander II đồng ý với điều kiện là bất cứ khi nào cần ngài sẽ sẵn sàng làm việc trở lại.


Khi trở lại công việc ở Ravenna, ngài bị sốt nặng. Ngài từ trần ngày 22 tháng 2 năm 1072 với các tu sĩ đang vây quanh và đọc kinh Nhật Tụng. Ngài được chôn cất trong nguyện đường của tu viện. Thánh tích của ngài được chuyển dời vài lần. Lần di chuyển sau cùng vào năm 1898 ngài được an nghỉ trong nguyện đường kính Thánh Peter Damian của nhà thờ chính tòa Faenza, nước Ý Đại Lợi.

 

Ngài không được chính thức phong thánh nhưng Đức Giáo Hoàng Leo XII cho phép tôn kính ngài năm 1823 và tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 27 tháng 9 năm 1828.

https://dongten.net/2020/02/20/hanh-cac-thanh-20-02-thanh-phero-damiano-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-%E2%80%A81007-1072/

 

Vị tu sĩ và Hồng Y sẽ nắm giữ một vai trò hàng đầu trong Ktô giáo này chào đời năm 1007 tại Ravenne, trong một gia đình nghèo túng, đến nỗi một trong số các anh Ngài đã phải thốt lên khi Ngài sanh ra: - "Chỉ còn thiếu nỗi bất hạnh này nữa thôi. Sao lại phải có nhiều người thừa hưởng cái di sản nhỏ nhoi này vậy". Và người mẹ kiệt sức đã không muốn cho đứa trẻ sơ sinh bú sữa mà thất vọng bỏ mặc nó. Một bà hàng xóm giảng giải cho bà rằng: - "Những con báo con hùm không bỏ con chúng, trong khi chúng ta là những người Kitô hữu lại bỏ rơi con cái mình sao ? Đứa trẻ mà người ta xua đuổi này, một ngày kia biết đâu lại chẳng là niềm hân hạnh của gia đình ?"

 

Người đàn bà can đảm này không tin lời mình nói lắm, nhưng đã cung ứng những săn sóc đầu tiên cho đứa bé nghèo khổ. Người mẹ mắc cỡ nên âu yếm ẵm lấy đứa trẻ. Bà đặt tên là Phêrô.

 

Năm năm sau, Phêrô mồ côi cha mẹ, người được trao cho người anh đã giận dữ đón nhận cuộc sinh hạ của Ngài. Bị đối xử như người làm thuê Ngài phải chăn heo, ngủ chuồng của súc vật, mặc rách rưới và ăn bánh đen. Một ngày kia nhặt được đồng tiền, của trời ơi ngạc nhiên đối với đứa trẻ không hề ăn hàng, Ngài mang tiền đi xin lễ cho cha mẹ. Chính vì vậy mà dường như cha mẹ đã chúc lành cho cả đời đứa trẻ, con mình.

 

Đamianô, người anh cả của Ngài đã làm linh mục đưa Ngài về Ravenna ở với mình. Anh cho Ngài ăn học và Phêrô đã tỏ ra thông minh, đến nỗi Ngài đã sớm trở thành giáo sư. Đứa trẻ bị khinh miệt ngày trước, bây giờ dạy học tại Parma rồi tại Ravenna. Để bày tỏ lòng biết ơn với người anh cả, Ngài nhận tên mình là Phêrô Đamiano. Ngài được may mắn về mọi mặt. Nhiều gia đình quí, phải gọi Ngài tới ở. Song những thành công không làm cho Ngài thôi cầu nguyện ăn chay. Dưới bộ áo ngoài, Ngài mặc một chiếc áo nhặm.

 

Trước danh tiếng ngày càng gia tăng, Ngài tự nhủ: - Ích lợi gì nếu tôi dính bén vào được của cải chóng qua này? Bởi vì một ngày kia, tôi sẽ phải giã từ tất cả, tại sao ngay từ bây giờ tôi không hiến dâng chúng cho Thiên Chúa ?

 

Thế là Ngài từ bỏ cuộc sống dễ dãi và gia nhập dòng Camaldules, Ngài chọn cái gì nặng nhọc nhất và lui vào vô tịch ở nhà dòng Phonte Avellna. Đời khổ hạnh và cầu nguyện sắp biến Ngài thành một vị thánh lớn. Ngài chỉ muốn khiêm tốn vâng phục và thống hối, nhưng trong khi ẩn mình đi, thì năm 1043, vì vâng lời, Ngài đã được đặt làm tu viện trưởng. Khi đó, Ngài tăng số các tu sĩ, lập nhiều tu viện, giúp đỡ các dòng khác. Ý kiến của Ngài luôn hướng thượng, đến nỗi người ta nói rằng: Ngài được Thánh Thần soi sáng.

 

Giáo hội đang trải qua một thời u buồn và người tu sĩ nghèo khổ hôm qua sắp giữ một vai trò lớn lao làm giảm bớt đau đớn của Roma. Những nết xấu bỉ ổi đè nặng trên triều đại Giáo hoàng. Lời nói của Thánh Thần lẫn sự hiện diện của Ngài chưa đủ, Ngài viết một tác phẩm, "cuốn sách về thành Gomorrha", để lột trần những lạm dụng đang làm cho Giáo hội phải tủi hổ. Còn chính Ngài, để làm cân bằng cho sự yếu đuối của những giám mục bất xứng, đã tự mình đền tội đánh đòn hàng ngày đến độ chảy máu, dành giờ để hát mười thánh vịnh như Ngài đã khuyên nhủ các tu sĩ. Ngài ăn chay ba ngày mỗi tuần.

 

Phêrô Đamianô đã muốn là một tu sĩ rốt cùng suốt đời. Nhưng năm 1057, Đức Stephanô IX đã đặt Ngài làm Hồng Y giám mục Ostia. Ngài phản đối, nhưng Đức Thánh Cha khi giảng giải cho Ngài đã cầm tay xỏ nhẫn và đeo thánh giá cho Ngài. Trách vụ giao phó cho Ngài thật lớn lao. Phêrô Damianô hiến trọn tâm hồn cho gia đình mới rộng lớn này. Ngài đón nhận mọi khó khăn, chiến đấu chống các lạc giáo, chấm dứt các xáo trộn của Giáo hội Milanô dẹp tan những bất đồng với xã hội giáo hoàng. Những lo lắng mệt nhọc không cản trở Ngài sẵn sàng hiến dâng đời mình, dù chỉ cho một linh hồn thôi.

 

Dù kiệt sức, Ngài vẫn dậy sớm để giải tội, không nản lòng, Ngài săn sóc những người bất hạnh, phân phát áo mặc bánh ăn cho họ, thăm viếng các bệnh nhân. Mỗi ngày để nhắc lại tình yêu của Chúa Kitô, Ngài rửa chân cho 12 người nghèo. Đối với những người về quê lập nghiệp, Ngài gửi đồ trợ giúp họ, Ngài nhân hậu đồng đều đối với những người giàu có, những người cũng gặp khó khăn và cố gắng làm cho họ sống bác ái vị tha hơn. Thư từ còn làm cho ảnh hưởng của Ngài lan rộng hơn.

 

Sau bao nhiêu nhọc mệt và phục vụ, Phêrô trở nên già nua, Đức Thánh cha cho phép Ngài trở lại với nếp sống nhà dòng, Ngài đã muốn căn phòng xấu nhất, ăn thứ bành dành cho heo, hành hạ mình bằng dây lưng sắt, tìm đền bù cho các tội nhân và thánh hóa mình hơn nữa. Ngài nói:

 

- Một chiến sĩ của Chúa Kitô phải biết mình có thể tiến đến đâu trên đường nhân đức.

 

Phêrô Đamianô đã định ngày thứ sáu phải được thánh hiến bằng chay tịnh và thống hối, để kính nhớ Chúa Giêsu đã chịu chết trên thánh giá, và ngày thứ bảy kính Đức Mẹ, Đấng mà Ngài đã soạn một bản kinh Nhật tụng để chúc khen.

 

Tuy đã cao niên, nhưng khi Đức Thánh Cha xin Ngài làm đại diện cho mình tại Pháp. Thánh nhân lên đường ngay. Ngài viếng thăm nhiều địa phận, dẹp tan nhiều cuộc cãi vã, đi tới tận Nước Đức, hoà giải nhà vua với vợ mình là hoàng hậu Berthe, mẹ vua xin được Ngài hướng dẫn. Rồi Ngài tiêu diệt các bè rối tại Florence và mang an bình lại cho Ravenna. Phêrô Đamianô lên cơn sốt ở Faenza. Tu viện Nữ Vương các thánh thiên thần tiếp đón Ngài, Ngài đã qua đời năm 1072 đang khi xin các tu sĩ vây quanh mình đọc kinh nhật tụng. Chính Ngài đã trước tác mộ bia của mình như sau : - "Mọi cái hôm nay đều phải qua đi để cho điều tồn tại mãi mãi tới gần. Hãy mộ mến những sự trên trời hơn những sự dưới đất, mộ mến điều tồn tại hơn cái rữa tàn. Ước gì tinh thần bạn đạt tới những đỉnh cao, tới được những nơi phát ra sự sống bạn".

http://conggiao.info/thanh-phero-damiano-giam-muc-tien-si-1007-1072-d-13910

II. BÀI HỌC

Bài học quí giá nhất khi đọc lại cuộc đời thánh thiện của các vị thánh đối với chúng ta là bàn tay của Thiên Chúa qua việc gìn giữ Giáo Hội của Người.

Thánh Phêrô Đamianô sống vào lúc Giáo Hội gặp nhiều phong ba bão tố. Hai vết thương đã đục khoét và làm bạc nhược sức sống của Giáo hội hơn cả là: “Tội buôn bán đồ thánh và đời sống phóng túng của hàng giáo sĩ. Tội xấu xa đó còn len lỏi vào cả ngai tòa thánh Phêrô do con người phóng túng của Biển đức X “.

Chúng ta có thể tưởng tượng Giáo hội thời kỳ ấy lâm vào một tình trạng rối ren, suy đồi đến mức nào không ?

Trong khoảng từ năm 1045- 1049, nghĩa là chưa đầy năm năm mà ngôi tòa thánh Phêrô đã có tới sáu lần thay ngôi đổi chủ.

Ấy là chưa kể đến những chuyện giáo chủ giả danh, những tội “buôn thần bán thánh”, những thói ăn chơi đàng điếm của hàng giáo sĩ và giáo dân… Hoàn cảnh đồi bại đó đã là nguyên cớ thúc đẩy bao người ly khai với Giáo hội để lập thành những bè đảng và giáo phái. Nhắc lại trang sử đen tối đó chính là thức tỉnh mối đau lòng của những tâm hồn đạo đức và có tâm huyết như Đamianô, nhưng đồng thời cũng khơi thêm ngọn lửa mến yêu và tin tưởng của chúng ta đối với Giáo hội, vì biết rằng “nếu Giáo hội chỉ là một tổ chức hoàn toàn nhân loại khác, thì chính những đớn hèn và đồi bại của hàng giáo sĩ đã giết chết Giáo hội từ lâu không để Giáo hội tồn tại đến ngày nay “. Nhưng sở dĩ trải qua bao cuộc thăng trầm cũng như qua bao cơn bách hại mà Giáo hội còn sống và trẻ trung là vì Giáo hội còn có Chúa ở với để nâng đỡ phù trì; vì Giáo hội còn là một tổ chức của Chúa, như lời Chúa Giêsu đã phán trước khi về trời: “Ta sẽ ở với các con cho đến tận cùng nhân thế”.

Chính vì thế mà chúng ta hãy hết lòng yêu mến Giáo Hội và tin vào Tình thương của Chúa và luôn góp phần nhỏ bé của chúng ta vào việc làm cho Giáo Hội của Chúa mỗi ngày mỗi thánh thiện và tốt đẹp hơn.

Lễ cung hiến Đền thờ vừa mới xây xong, Đức Giám mục chủ sự nêu đích danh từng người đã cộng tác cách này hay cách khác vào công việc chung. Khi ngài vừa dứt lời và sắp ban phép lành thì một em bé đứng gần bên nói lớn:

Bình tĩnh, Đức Giám mục hướng về em hỏi:

Được khuyến khích bởi sự chú ý của Đức Giám mục, em bé mạnh dạn trả lời:

- Thưa Đức cha, mỗi buổi trưa con đều đem cơm cho ba con xây đền thờ này.

Đức Giám mục và toàn thể cộng đoàn vỗ tay hoan hô sự đơn sơ và ý nghĩ ngộ nghĩnh của em. Rồi cộng đoàn đồng ý là em cũng góp phần vào việc chung dù không phải là công việc quan trọng và cực nhọc, nhưng với hạn tuổi cho phép, em đã góp phần của mình và đáng được ghi danh cám ơn như những người khác.

Mỗi người chúng ta, trong mọi hoàn cảnh đều có thể góp phần của mình vào công việc chung của Thiên Chúa, để xây dựng Giáo hội và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Giáo hội là đền thờ của Thiên Chúa mà mỗi người Kitô là một viên gạch đủ loại lớn nhỏ. Đền thờ này đã bị rạn nứt bởi những chia rẽ, những thiếu sót, những tội lỗi của các thành phần Dân Chúa, của mỗi người chúng ta. Vậy mỗi người đều có bổn phận góp phần mình để tái thiết sự hiệp nhất của Giáo hội.

Không một đóng góp chân thành nào dù nhỏ mọn đến đâu mà không được Thiên Chúa ghi công, và ân sủng của Thiên Chúa sẽ làm cho những đóng góp đó trổ sinh những hoa trái tốt đẹp.

Mỗi người môn đệ Chúa Kitô chúng ta là thành phần của xã hội và do đó được mời gọi đóng góp tích cực xây dựng xã hội ngày thêm tốt đẹp hơn. Chúng ta không thể tiêu cực chỉ trích những tệ đoan xã hội, nhưng hãy tích cực đóng góp vào những công việc tốt để xây dựng. Những đóng góp đó có được nhìn nhận và ghi công hay không, điều này không quan trọng, nhưng sẽ là điều đáng buồn nếu người môn đệ của Chúa không trở thành “Ánh sáng”, thành “Muối đất”, thành “Men” trong bột. Để xây dựng một xã hội mà trong đó con người sống xứng đáng với phẩm giá của mình hơn.

Không trổ sinh hoa trái tốt lành người Kitô có thể không còn là người Kitô đích thực nữa, chỉ “hữu danh vô thực” mà thôi. Lời Chúa quở trách những người Pharisêu sống đạo giả hình đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23,27).

Lạy Chúa, xin giúp con canh tân đời sống, và dấn thân hết khả năng để làm ích cho Giáo hội, và phục vụ xã hội con đang sống vì tình yêu Chúa.

Xin đừng để ai sút tài kém đức vì chịu ảnh hưởng của con; đừng để ai vì đồng hành với con mà không còn trong trắng, chân chất, dịu dàng và cao quý như trước.

Xin cho con luôn nhớ rằng: điều vĩ đại nhất con có thể làm cho Chúa là con đối xử tốt với anh chị em con. Amen.

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-21-02-thanh-phero-damiano-53738

 

 

 

Thứ Ba sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 4, 1-10

"Anh em xin mà không nhận được là vì anh em xin không đúng".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em thân mến, bởi đâu anh em cạnh tranh và cãi cọ nhau? Nào không phải tại điều này: tức tại các đam mê đang giao chiến trong chi thể anh em đó sao? Anh em ham muốn mà không được hưởng, nên anh em giết nhau. Anh em ganh tị mà không được mãn nguyện, nên anh em cạnh tranh và cãi cọ. Anh em không có, là tại anh em không xin. Anh em xin mà không nhận được, là vì anh em xin không đúng, cứ mơ tưởng thoả mãn các đam mê của anh em. Hỡi những kẻ ngoại tình, anh em không biết rằng thân thiết với thế gian là thù địch với Thiên Chúa đó sao? Vậy kẻ nào muốn thân thiết với thế gian này, thì đặt mình làm thù địch với Thiên Chúa. Hay anh em tưởng Kinh Thánh nói cách vô lý rằng: "Chúa quyến luyến thần trí mà Người đặt trong anh em, đến nỗi ghen lên". Vả Người ban ơn bội hậu. Bởi đó có lời rằng: "Thiên Chúa chống lại những kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn phúc cho người khiêm nhường!" Vậy anh em hãy phục tùng Thiên Chúa, hãy chống trả ma quỷ, và nó sẽ trốn xa anh em. Hãy đến gần Thiên Chúa, và Người sẽ đến gần anh em. Hỡi những kẻ tội lỗi, anh em hãy rửa tay cho sạch. Hỡi những kẻ hai lòng, hãy thanh luyện tâm hồn đi. Anh em hãy buồn sầu, than van và kêu khóc. Hãy đổi tiếng cười ra tiếng khóc, và đổi niềm vui ra nỗi buồn. Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ nâng anh em lên.

Ðó là lời Chúa

 

Ðáp Ca: Tv 54, 7-8. 9-10a. 10b-11a. 23

Ðáp: Hãy trút nhẹ gánh lo âu cho Chúa để chính Người nâng đỡ thân ngươi (c. 23a).

Xướng: 1) Tôi tự nhủ: ước chi tôi có cánh như bồ cầu, tôi sẽ bay đi và tìm nơi an nghỉ. Này đây tôi sẽ rời tới cõi xa xăm, tôi sẽ ở lại chỗ sơn lâm hoang vắng. - Ðáp.

2) Tôi tìm chỗ dung thân cấp tốc vội vàng, đi ngược dòng phong ba và gió lốc. Lạy Chúa, xin đập tan, xin chia rẽ ngôn từ của chúng. - Ðáp.

3) Vì tôi thấy có bạo lực và tranh chấp trong thành trì. Ngày đêm, trên mặt tường chúng đi dạo. - Ðáp.

4) Hãy trút nhẹ gánh nặng cho Chúa, để chính Người nâng đỡ thân ngươi: Người không để người hiền lương muôn đời xiêu té. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 29-36

"Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người.

Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất.

Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Và Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Không bé nhỏ không thể chấp nhận và theo được Chúa Kitô

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Tuy nhiên cả 2 bài Phúc Âm đều được Giáo Hội, chứ không phải chính Thánh ký Marco, sử dụng cùng một câu Phúc Âm 9:9 "Khi ấy Chúa Giêu từ trên núi xuống", để mở đầu từng bài Phúc Âm, một bài được bắt đầu ở câu 13 (hôm qua) và một bài được bắt đầu ở câu 29. Như thể Giáo Hội muốn ghép biến cố đã xẩy ra trên núi trước đó với 2 biến cố liền ngay sau đó ở bài Phúc Âm hôm qua: trừ quỉ câm, và hôm nay: báo trước cuộc vượt qua lần 2.

 

Thật vậy, sau khi biến hình trên núi trước mặt 3 môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan, một sự kiện biến hình cho các vị thấy trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người, Chúa Giêsu đã trừ quỉ câm, như ám chỉ rằng Người sẽ trừ quỉ cho nhân loại bằng cuộc phục sinh của Người, hoàn toàn tiêu diệt tội lỗi và sự chết do ma quỉ gây ra cho con người, và tội lỗi cùng sự chết chỉ bị tiêu diệt nơi nhân tính của Người trong cuộc khổ nạn và tử giá của Người mà thôi, như Người báo trước cho các môn đệ lần thứ hai trong bài Phúc Âm hôm nay: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại".

 

Tuy nhiên, các vị môn đệ thân cận của Người và với Người, cho dù đã sống bên Người từ đầu, thấy được các việc quyền năng đầy lạ lùng Người làm, và nghe được những lời khôn ngoan đầy khắc phục Người nói, vẫn như Thánh ký Marco thuật lại: "các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người", cho dù về ngôn từ những gì Người nói chẳng có gì là cao siêu huyền diệu hay có tính cách triết lý thần học khó hiểu.

 

Một trong những lý do các vị không hiểu, hay không thể hiểu, hoặc chưa thể hiểu, chẳng những vì những gì Chúa Kitô tiết lộ về bản thân của Người, về thân phận vô cùng khốn nạn của Người, cho dù bằng ngôn từ minh bạch nhất và bình dân nhất, vẫn là một mầu nhiệm siêu việt, hoàn toàn vượt trên tầm mức kiến thức tự nhiên của con người, nhất là ngược hẳn với lòng trông đợi của các môn đệ về Người, mà còn, bởi thế, vì chính bản chất trần tục thấp hèn của các môn đệ nữa. Mầu nhiệm về Thày đã cao siêu trong khi bản chất của môn đệ lại thấp hèn thì làm sao có thể hòa hợp được.

 

Đó là lý do, trong bài Phúc Âm hôm nay, khi thấy các môn đệ của mình "dọc đàng tranh luận" với nhau "xem ai là người lớn nhất", chứng tỏ các vị chẳng hiểu Người gì hết, và cũng chẳng biết các vị là ai, đang đi theo một Đấng như thế nào, trái lại, cứ tưởng Người là một Moisen "tái xuất giang hồ" để đóng vai trò Cứu Tinh dân tộc Do Thái đang bị đế quốc Roma bấy giờ, như ông đã từng đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập mà về Đất Hứa ngày xưa vậy, Chúa Giêsu mới dạy cho các vị tinh thần ngược đời của Người là: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người".

 

Nếu các vị có tinh thần ngược đời này như Người dạy thì hẳn các vị đã cảm thấu được những gì Người nói trước về thân phận cứu thế của Người như một Vị Thiên Sai thực sự xuất phát từ dân Do Thái, một vị Thiên Sai được Thiên Chúa sai đến để cứu chẳng những dân Do Thái mà còn cả nhân loại nữa cho khỏi tội lỗi và sự chết, hơn là cho khỏi quyền lực chính trị, một quyền lực chính trị đang thống trị họ chỉ là tiêu biểu cho quyền lực của thần dữ, đang làm chủ thế gian ngay từ đầu lịch sử của nhân loại mà thôi.

 

Đúng thế, với tinh thần phàm tục của mình, chỉ thích tính toán như người lớn, chỉ muốn tranh giành như người lớn, hoàn toàn ngược lại với tinh thần của Chúa Kitô như thế, mà các vị, tuy thực tế vẫn theo Người đấy, nhưng tinh thần và ý thức của các vị vẫn còn quá non nớt và mềm yếu trong việc chấp nhận Người, nhất là chấp nhận Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người như Người tiết lộ cho các vị đến 2 lần, Người đã phải thực hiện một hành động hơi lạ, được Thánh ký Marco ghi lại ở cuối bài Phúc Âm hôm nay như sau:

 

"Và Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: 'Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy'".

 

"Em bé" nào đó được diễm phúc được Người "đem đặt giữa các ông", chắc chắn không phải từ người ta đã có lần sau đó mang đến với Người (xem Marco 10:13), mà do chính Người chọn lựa, một là ở ngay trong nhà Thày trò đang ở bấy giờ, hay ở đâu đó gần nhà này. Vấn đề ở đây là tại sao Người phải làm thế, chẳng những tìm chọn cho bằng được một em nhỏ, mà còn tỏ ra rất thương mến em ấy nữa: "rồi ôm nó". Chưa hết, Người còn tự đồng hóa với em nữa: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy".

 

Phải chăng ở đây, qua cử chỉ kèm theo lời nói của mình liên quan đến em bé bấy giờ, lúc mà Chúa Giêsu muốn dạy cho các môn đệ của Người còn đầy tinh thần phàm tục một đường lối ngược đời là "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người", Người đã muốn kín đáo nhắn nhủ các vị rằng, nếu các vị muốn chấp nhận Người, nhất là chấp nhận Người ở nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, các vị phải "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), vì Cha của Người chỉ tỏ những điều cao siêu mầu nhiệm, mà kẻ khôn ngoan thông thái lớn lao trên trần gian này không hề biết và chẳng thể biết, cho thành phần bé nhỏ mà thôi (xem Luca 10:21).

 

Em bé nào đó được Chúa Giêsu "đem đặt giữa" các tông đồ, thành phần theo Chúa và phụng sự Người bằng chứng từ của mình, quả thật là một mẫu gương cao cả đáng noi theo cho khuynh hướng phàm tục ham danh vọng của các tông đồ, những con người nên lắng nghe huấn dụ của Thánh Giacôbê Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay nhắc nhở như sau: "Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ nâng anh em lên". Bởi vậy, đừng tự cao tự đại tự mãn, trái lại, hãy tin tưởng vào Chúa như câu thưa của bài Đáp Ca hôm nay: "Hãy trút nhẹ gánh lo âu cho Chúa để chính Người nâng đỡ thân ngươi".

 

 

 

Ngày 22 tháng 2

LẬP TÔNG TOÀ THÁNH PHÊ-RÔ, TÔNG ĐỒ

lễ kính

 

Image result for Mt 16, 13-19

 

Được đặt trong nhà thờ chính toà của giáo phận, toà của một vị giám mục là dấu chỉ quyền dạy dỗ, quyền hiến tế và quyền lãnh đạo của giám mục. Lễ kính Tông toà thánh Phê-rô nhắc chúng ta nhớ lại sứ mạng Chúa Ki-tô đã trao phó cho vị thủ lãnh các Tông Đồ. Nhờ đặc ân không sai lầm, thánh Phê-rô là người bảo đảm đức tin của các anh em trong Tông Đồ Đoàn. Lòng tin của thánh Phê-rô là đá tảng, trên đó Chúa đã xây Hội Thánh của Người.

Phụng Vụ Giờ Kinh

Mừng chư vị công hầu vương bá,
Chốn triều đình Vua Cả Giê-su,
Chính Người đã huấn luyện xưa,
Sai làm nghĩa vụ Tông Đồ khắp nơi.

Thành Sa-lem trên trời oai vọng,
Quý ngài là nền móng cao sang,
Thánh đô nhận ngọc dát vàng,
Con Chiên toả ánh hào quang bốn bề.

Này Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa,
Đang thiết tha cảm tạ quý ngài,
Lời vàng quy tụ về đây,
Máu đào thánh hiến từ ngày khởi công.

Thời gian lúc tới vòng viên mãn,
Khi Vua Trời xử án muôn dân,
Quý ngài vinh hiển vô ngần,
Được ngồi xét xử gian trần với Vua.

Nay cả dám cậy nhờ thế lực,
Xin cầu thay nguyện giúp sớm chiều,
Để bao nhiêu hạt giống gieo,
Kho trời thu lượm bấy nhiêu lúa vàng.

Dâng Thánh Tử, Đấng từng chọn lựa,
Quý ngài làm sứ giả Vua Cha,
Ban đầy thánh sủng Ngôi Ba,
Này câu chúc tụng ngợi ca muôn đời.

Chúa Cha đã cho chúng ta được thừa hưởng gia tài cao quý do các Tông Đồ để lại, vì thế, ta hãy cảm tạ Người và tung hô :

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Chúc tụng Chúa đã xây dựng Hội Thánh trên nền tảng các Tông Đồ, - đó là nhiệm thể chúng con đang xây dựng.

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Chúc tụng Chúa đã ban Lời hằng sống do các Tông Đồ rao giảng, - đó là ánh sáng và niềm vui của chúng con.

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Chúc tụng Chúa đã ban bí tích Thánh Tẩy và Hoà Giải do các Tông Đồ loan báo, - đó là kho tàng ơn tha thứ của chúng con.

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Chúc tụng Chúa đã ban bí tích Thánh Thể do các Tông Đồ truyền lại, - đó là sức mạnh và nguồn sống của chúng con.

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã thiết lập Hội Thánh trên nền đá vững bền là lời tuyên xưng đức tin của thánh tông đồ Phê-rô, xin gìn giữ Hội Thánh khỏi nao núng giữa cảnh đời thử thách gian nan. Chúng con cầu xin

 

Ngày 22 tháng 2

Lễ Lập Tông Tòa Thánh Phêrô

Lễ Kính

 

Bài Ðọc I: 1 Pr 5, 1-4

"Là kỳ lão và nhân chứng cuộc khổ hình của Chúa Kitô".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, tôi xin gởi lời khuyên bảo đến bậc Kỳ Lão trong anh em. Tôi là một Kỳ Lão như các ngài, là một nhân chứng cuộc khổ hình của Chúa Kitô, một kẻ sẽ được thông phần vinh quang sắp được tỏ bày. Hãy chăn dắt đoàn chiên Chúa nơi anh em, hãy trông nom nó, không phải bằng cách miễn cưỡng, mà là sẵn sàng theo thánh ý Chúa; không phải để trục lợi, mà là do tình nguyện; không phải như người chuyên chế lộng hành, nhưng phải nên gương sáng cho đoàn chiên. Và khi thủ lãnh các đấng chăn chiên xuất hiện, anh em sẽ nhận lãnh triều thiên vinh quang bất diệt.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3. 4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Ðáp.

2) Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 16, 18

Alleluia, alleluia! - Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh Thầy, và cửa hoả ngục sẽ không thắng được. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 13-19

"Con là Ðá, Cha sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến miền Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một trong các tiên tri!" Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được".

Ðó là lời Chúa.

 

Đức Thánh Cha Phanxicô - Bài giảng Lễ Ngai Tòa Phêrô Năm Thánh Tình Thương Thứ Hai 22/2/2016

 

 

 

Thứ Tư sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 4, 13b-18

"Ðời sống anh em là cái gì? Lẽ ra anh em phải nói rằng: 'Nếu Chúa muốn'".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em thân mến, bây giờ anh em nói: "Hôm nay hoặc ngày mai chúng tôi sẽ đến một thành nọ, rồi ở lại đó một năm mà buôn bán kiếm lời". Nhưng anh em đâu có biết ngày mai sẽ ra sao. Bởi vì đời sống anh em là cái gì? Là một chút hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi biến đi. Lẽ ra anh em phải nói rằng: "Nếu Chúa muốn, và nếu chúng tôi còn sống, chúng tôi sẽ làm điều này điều kia". Nhưng này đây, anh em huênh hoang với những lời khoác loác. Mọi kiểu, huênh hoang như thế đều xấu xa. Vậy ai biết điều lành mà không làm, thì mắc tội.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 48, 2-3. 6-7. 8-10.11

Ðáp: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ (Mt 5, 3).

Xướng: 1) Hỡi các dân, xin nghe lấy chuyện này; xin hãy lắng tai, hết thảy những ai cư ngụ địa cầu, người phận nhỏ cũng như người quyền thế, kẻ giàu sang cũng như kẻ cơ bần! - Ðáp.

2) Tại sao tôi phải kinh hãi trong ngày tai hoạ, khi ác tâm quân thù mưu hại bao bọc quanh tôi? Bọn người này tin cậy vào tài sản, chúng tự hào vì có bạc vạn tiền muôn? - Ðáp.

3) Nhưng thực ra không ai tự cứu được bản thân, cũng không ai dâng được lên Chúa giá tiền chuộc mạng. Giá chuộc mạng quá đắt, không bao giờ người ta có đủ, hầu mong sống mãi đời đời, không phải nhìn coi sự chết. - Ðáp.

4) Bởi lẽ người ta thấy cái chết cả những người khôn, kẻ dại kẻ ngu cũng đều phải chết, để lại cho người khác tài sản của mình. - Ðáp.

 

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 37-39

"Ai không chống đối các con, là ủng hộ các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con" 

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay, có thể nói, vừa tiếp tục bài Phúc Âm hôm qua về văn tự (trong cùng một đoạn và tiếp tục các câu ngay sau các câu của bài Phúc Âm trước) vừa tiếp tục về tinh thần phàm tục của các tông đồ nữa.

 

Thật vậy, nếu trong bài Phúc Âm hôm qua các vị đã bày tỏ tinh thần phàm tục của mình qua việc tranh giành nhau về ngôi thứ trong nội bộ của các vị, thì trong bài Phúc Âm hôm nay các vị tiếp tục tinh thần tranh giành nhau về quyền lực cùng uy thế với bất cứ ai không thuộc về nhóm của các vị, như chúng ta thấy nơi câu trình của vị tông đồ vốn tự nhận mình là "người môn đệ được Chúa Kitô yêu" (Gioan 19:26, 20:2, 21:7,20):  "Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo ta, và chúng con đã ngăn cấm y'".

 

Ở đây, trong trường hợp này, qua lời của tông đồ Gioan, chúng ta không biết 2 điều cần: thứ nhất đó là "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" đây là ai? thuộc loại người nào?? - Có phải là một người biệt phái hay luật sĩ là những người vốn cảm thấy mình đầy uy lực và thế giá trước mặt dân chúng nhưng lại là thành phần hầu như đa số có khuynh hướng thù địch với chung nhóm tông đồ, nhất là với riêng bản thân Chúa Giêsu là Thày của các vị hay chăng?

 

Điều thứ hai chúng ta không biết được nơi câu trình của tông đồ Gioan đó là nhân vật "nhân danh Thầy mà trừ quỷ" ấy có thành công hay chăng? Nghĩa là có thực sự trừ được quỉ hay chăng?? Như Thày của các vị??? Và nếu quả thực "kẻ" ấy trừ được quỉ như Thày của các vị, trong khi chính các vị, vào lúc Thày của các vị ở trên núi biến hình thì ở dưới núi các vị đã không trừ được quỉ, như bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần này cho thấy, thì chẳng có gì là khó hiểu khi Chúa Giêsu biết được tâm trạng của các vị, như chúng ta đọc thấy thái độ dường như chất chứa lòng ghen tị của các tông đồ qua câu tông đồ Gioan nói.

 

Hai chi tiết được suy diễn trên đây có thể đúng: "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" là một người biệt phái hay luật sĩ và họ có thể đã thực sự trừ được quỉ. Bởi vì, có thể nói thế nhờ căn cứ vào lời Chúa Giêsu nói với chung các tông đồ, chứ không phải chỉ nói riêng với tông đồ Gioan, vì Người biết được tinh thần phàm tục nơi chung thành phần môn đệ của Người, chứ không phải chỉ có một môn đệ nào thôi, và cũng có thể là Người đã biết rằng các môn đệ đã xì xèo với nhau về sự kiện lạ thường xẩy ra ngoài nhóm của các vị nên các vị đã cử tông đồ Gioan dễ thương đại diện trình cho Người biết.

 

Lời của Chúa Giêsu nói ở đây được Thánh ký Marco ghi lại nguyên văn như sau: "Nhưng Chúa Giêsu phán: 'Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con'".

 

Trong câu nói này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy đối tượng được Chúa Giêsu nói tới "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" có thể là một nhân vật thuộc phe biệt phái hay luật sĩ, thành phần hầu như đa số thường ác cảm với Người, chống đối Người, bắt bẻ Người từng li từng tí, tìm cách gài bẫy Người, thậm chí chụp mũ xuyên tạc Người nữa, cho Người lấy quỉ tướng trừ quỉ con v.v., vì Người nói đến chi tiết liên quan đến khuynh hướng và thái độ của thành phần này như sau: "Chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy".

 

Cũng căn cứ vào câu nói này của Chúa Giêsu thì có thể là "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" ấy, cho dù là ai chăng nữa, như một nhân vật biệt phái hay luật sĩ nào đó, vẫn có thể thực sự trừ được quỉ, vẫn có thể "làm phép lạ". Bởi vì, theo nguyên tắc, họ chỉ là phương tiện chứ không phải nguyên lý của chính việc (trừ quỉ hay phép lạ) họ làm.

 

Đúng thế, nguyên lý chính yếu trong việc trừ quỉ hay làm phép lạ, những tác động hoàn toàn vượt khỏi tầm tay hữu hạn bất lực của con người, những việc làm thuộc về thế giới thần linh, chỉ xuất phát từ thần linh, từ quyền lực bởi trời, từ uy quyền của duy "danh Thày" mà thôi. Ma quỉ là loài vốn có quyền năng hơn loài người, nó không thể bị loài người khu trừ, ngoại trừ loài người được ban cho một quyền lực cao tay hơn nó, như từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tên quỉ câm đã từng ám bé trai từ lâu, như bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần này thuật lại: "Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất".

 

Bởi vì Thiên Chúa mới là chính, còn tất cả mọi sự khác chỉ là những gì phụ thuộc, bao gồm mọi tác nhân, dù thuộc thành phần nào, dù là biệt phái hay luật sĩ hoặc tông đồ, thậm chí dù xấu đến đâu chăng nữa, (như trường hợp vị linh mục thừa tác viên thánh vừa phạm tội trọng xong, cho dù có ban các bí tích thánh ngay sau đó thì bí tích ngài ban ấy vẫn thành), cũng đều là phương tiện được Chúa sử dụng để thực hiện ý định vô cùng khôn ngoan, toàn năng và yêu thương của Ngài trong việc tỏ mình Ngài ra qua họ và cho chính họ, mà tất cả đều bình đẳng trước mặt Chúa, đều không được nghi kỵ chống đối hay tranh giành nhau, như chính Chúa Giêsu đã minh định và xác quyết với các môn đệ của Người trong câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay: "Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con". Nghĩa là ai cũng phải làm sao để có thể sống vì Chúa và cho Chúa dù ý thức hay vô thức.

 

Cảm Nghiệm

 

Trong đời sống đạo của chúng ta cũng thế, nhất là trong hoạt động tông đồ hoặc mục vụ, chúng ta, thành phần mang danh là môn đệ của Chúa Kitô, thành phần đạo đức tốt lành, thậm chí còn hăng say phục vụ cộng đồng dân Chúa để xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô trong tầm tay và hoàn cảnh của mình, thường vẫn còn mang nặng tâm thức bè phái và cạnh tranh.

 

Bởi thế, chúng ta hay có ý nghĩ hay lời nói khinh thường những ai ngoại đạo, hay đồng đạo mà sống bê tha tội lỗi. Hội đoàn hay đoàn thể của chúng ta phải nổi hơn các tổ chức khác, hay chỉ có phong trào của chúng ta mới làm được việc này việc kia. Nhất là không có cá nhân của chúng ta trong hội đoàn hay phong trào, hoặc trong giáo xứ hay cộng đoàn, thì những cơ cấu tổ chức ấy không phát triển được. Không ai có thể làm thay chúng ta hay hơn chúng ta trong tổ chức được chúng ta cộng tác hay lãnh đạo. Bởi thế khi có người nổi hơn chúng ta hay được dân Chúa mộ mến hơn chúng ta, chúng ta tỏ ra những lời nói và thái độ khinh thường, chỉ trích, chê bai, chụp mũ, xuyên tạc v.v. làm sao cho họ bị hạ bệ... không bằng chúng ta, không như chúng ta!

 

Vì chúng ta coi mình không phải chỉ là những gì phụ thuộc, trái lại lấy mình là chính yếu trong hết mọi sự như thế, chứ không phải Thiên Chúa và thay cho Thiên Chúa, chiếm chỗ của Thiên Chúa, mà chúng ta, như kinh nghiệm phũ phàng cho thấy, chúng ta hay có nhiều kẻ thù, và gặp nhiều trục trặc rắc rối trong hoạt động tông đồ hoặc mục vụ của mình. Thậm chí đến độ bỏ cuộc hay phá ngang vì bất mãn và hận thù ghen ghét!

 

Tinh thần yêu thương đoàn kết trong Chúa là Chủ Tể mọi sự và là cùng đích của mọi sự là những gì khôn ngoan rất đúng với dự án thần linh và ý định cứu rỗi của Thiên Chúa, bao gồm từng cá nhân cũng như chung tập thể loài người, và loài người có được Ngài sử dụng hay được ban cho hơn ai khác thì họ cũng chỉ là phương tiện của Ngài, và cần phải chia sẻ những gì Ngài ký thác cho họ, như những nén bạc ân sủng cần phải sinh lợi theo ý chủ là Ngài.

 

Thật vậy, nếu chia rẽ thì chết và tiêu biểu cho sự chết, ngược lại đoàn kết thì sống và tiêu biểu cho sự sống, thì quả thực chỉ có sống vì Chúa và trong Chúa mới sống thực sự hiệp thông, một sự sống hiệp thông phổ quát bao gồm tất cả mọi người. Đó là ý nghĩa của những gì Thánh Giacôbê Tông Đồ khuyên dạy thành phần Kitô hữu "huênh hoang với những lời khoác lác", tự cao tự đại tự đắc đối với những ai không thuộc về mình hay theo bè phái của mình trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Anh em đâu có biết ngày mai sẽ ra sao. Bởi vì đời sống anh em là cái gì? Là một chút hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi biến đi. Lẽ ra anh em phải nói rằng: 'Nếu Chúa muốn, và nếu chúng tôi còn sống, chúng tôi sẽ làm điều này điều kia'", nghĩa là một sự sống của thành phần nghèo hèn bé mọn trước mặt Thiên Chúa, chỉ biết tìm kiếm Chúa và sống trọn ý Chúa, nhưng lại là thành phần có phúc, đúng như câu đáp của Bài Đáp Ca hôm nay thâm tín và cảm nhận: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ".

 

 

Thánh Polycarpo

 23/2

 

Ngày 23/02: Thánh Pôlycarpô, giám mục, tử đạo

 

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Theo “lá thư của các Kitô hữu thành Smyrna” về cuộc tử đạo của thánh Polycarpe, vị thánh giám mục này bị thiêu trên giàn củi ở hý trường Smyrna, vào ngày Sabbat, vào giờ thứ 8, ngày 23.02.155/156, trước mặt toàn dân. Lúc đó ngài khoảng độ 86 tuổi. Kỷ niệm này được ghi trong Hạnh các thánh tử đạo của thành Nicomédie (361). Những người Syrie, Byzantin và Copte đều mừng lễ này. Phương Tây, lễ nhớ thánh Polycarpe xuất hiện vào thế kỷ thứ VI, cho đến lần canh tân Phụng Vụ cuối cùng, Thánh lễ mừng vào ngày 26.01.

Theo truyền thống, thánh Polycarpe (có nhiều hoa trái) sinh khoảng năm 70, là môn đệ của thánh Gioan Tông Đồ và là thầy của thánh Irênê thành Lyon. Như thế, ngài đã tạo một dây liên kết giữa Giáo Hội nguyên thuỷ của các Tông Đồ với các thế hệ Kitô hữu sau này của Giáo Hội Tiểu Á và - nhờ vào môn đệ của mình là Irênê thành Lyon – nối kết với xứ Gaule.

Là giám mục thành Smyrna, ngài đón nhận Ignatiô thành Antiochia, người bị dẫn độ đến Rôma để chịu cực hình tử đạo. Theo thánh Irênê, thánh Polycarpe thích nhắc lại liên hệ của mình với thánh Tông Đồ Gioan và “những người đã thấy Chúa”. Ngài nhắc lại các lời nói của họ về đề tài Đức Giêsu và “sau khi nhận tất cả từ các chứng nhân của Ngôi Lời Hằng Sống, ngài đã nhắc lại đúng như Sách Thánh”.

Thánh Ignatio thành Antiochia, trong Lá thư gởi cho Polycarpe, đã động viên người bạn thân yêu này: “Hãy vững vàng như đe dưới búa. Một lực sĩ vĩ đại không thể thất bại dưới những cú đập như thế, nhưng phải thắng”. Thánh Polycarpe cũng đã chiến đấu cho đến khi bị thiêu sống để làm chứng cho tình yêu Chúa Kitô. Khi Tổng trấn đề nghị: “Ta thề, ta sẽ thả ông ra, nếu như ông nguyền rủa ông Kitô!” Vị thánh giám mục đã trả lời: “Đã 86 năm tôi phục vụ Người và không bao giờ Người làm một điều gì xấu cho tôi. Làm thế nào tôi có thể xúc phạm Vua của tôi, Đấng cứu tôi ?”

Sau khi Polycarpe bị thiêu, các Kitô hữu đến lượm xương còn lại, đặt vào một nơi đáng kính, nơi mà họ thường tụ tập “trong hân hoan và niềm vui để cử hành ngày lễ giỗ cho ngài”.

2. Thông điệp và tính thời sự

Sứ điệp của thánh Polycarpe chính là cuộc tử đạo của ngài, như “Lá thư Hội thánh Chúa ở Smyrna” đã nói.

Trong lời Tổng hợp, chúng ta cầu xin Thiên Chúa, nhờ lời cầu bầu của thánh nhân “được như ngài chia sẻ vào chén của Chúa Kitô để được sống lại vào đời sống vĩnh cửu”. Lời cầu nguyện này nhắc nhớ lại lời cầu nguyện của thánh Polycarpe, lúc bị trói vào cột, sẵn sàng hiến tế: “Lạy Chúa, Thiên Chúa của vũ trụ, Cha của Đức Giêsu Kitô, con chúc tụng Chúa vì xét thấy con xứng đáng được chia sẻ vào chén của Chúa Kitô, để được sống lại cả hồn lẫn xác vào cuộc sống vĩnh cửu, trong sự bất tử do Chúa Thánh Thần ban tặng”. (Phụng Vụ Giờ Kinh). Trong lời tuyên xưng đức tin của thánh Polycarpe, chúng ta thấy rõ bản chất của mầu nhiệm Kitô giáo được nói lên rõ ràng: Thiên Chúa là Cha và là Đấng Sáng Tạo; Đức Giêsu là Tôi Tớ của Thiên Chúa, đồng thời cũng là Con duy nhất, rất được Cha yêu quí, Tư tế vĩnh cửu và thiên linh; Chúa Thánh Thần là nguồn sống và sự bất tử.

Các Kitô hữu đã thấy và đã chứng kiến cuộc tử đạo của thánh Polycarpe như đang tham dự một buổi Phụng Vụ. Trong lời nguyện của thánh nhân, chúng ta gặp được các yếu tố của Kinh Nguyện Thánh Thể: “Con ca tụng Ngài ...con chúc tụng Ngài nhờ vị Thượng Tế vĩnh cửu và thiên linh là Đức Giêsu Kitô”. Vị tử đạo, bị trói, được nhìn như con dê được chọn, giữa bầy để hiến tế, một lễ vật xứng đáng dâng lên Thiên Chúa”. Cuối cùng ngài xuất hiện giữa vùng lửa “như tấm bánh đang được nung lên, như vàng hay bạc rực lên giữa lò lửa, xông lên mùi như hương, như trầm”. Thánh nhân được vẽ như một “vị tử đạo đúng Phúc Âm” có nghĩa là giống Đức Giêsu Kitô, một hiến tế của người mục tử thành Smyrna trước mắt dân chúng như một mẫu gương đức tin và kiên nhẫn. Khi bắt chước cuộc khổ nạn của Đức Kitô, người ta sẽ được đồng hình đồng dạng với Người. Vì thế thánh Polycarpe đã viết cho dân thành Philliphê: “Hãy trở thành những người bắt chước sự kiên nhẫn của Chúa Kitô và nếu như chúng ta đau khổ vì danh Người, hãy chúc tụng Người” (7,2).

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-23-02-thanh-polycarpogiam-muctu-dao-49086

3- Tiểu Sử

Là môn đệ của thánh Gioan Tông đồ và là bạn của thánh Ignatiô ở Antioch, thánh Pôlycarpô, Giám mục của Smyrna (bây giờ là Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ), là một vị lãnh đạo đáng kính của Kitô giáo trong tiền bán thế kỷ thứ hai.

Các vị lãnh đạo Giáo hội thuộc thế hệ thứ hai đã gặp những thử thách mà thế hệ trước không đề cập đến. Họ phải làm gì khi thế hệ chứng nhân thứ nhất ấy không còn nữa? Lời dạy dỗ xác thực của Chúa Giêsu phải truyền lại như thế nào? Phải trả lời thế nào với các câu hỏi chưa từng có?

Khi các Tông đồ không còn ở trần gian nữa, các lạc thuyết bắt đầu xuất hiện ngụy trang chính giáo, sự bách hại lại mạnh mẽ và bắt đầu xuất hiện các tranh chấp về vấn đề phụng vụ mà Ðức Giêsu không bao giờ nói đến.

Pôlycarpô, một người thánh thiện và là Giám mục của Smyrna, chỉ thấy có một câu trả lời – Trung thành với đời sống Ðức Giêsu và bắt chước đời sống ấy. Thánh Ignatiô nói với thánh Pôlycarpô “linh đạo của anh đặt nền móng nơi Thiên Chúa như trên một tảng đá không thể nào lay chuyển nổi.”

Khi đối diện với lạc giáo, thánh Pôlycarpô có “bộ mặt bộc trực” đến nỗi thánh Ignatiô phải thán phục, vì ngài đã bắt chước cách Ðức Giêsu trả lời người Pharisêu. Marcion, người lãnh đạo lạc thuyết nhị nguyên, chủ trương có hai Chúa. Một Chúa trong Cựu ước thì khác với Chúa của Tân ước, và Ðức Giêsu là Con của Thiên Chúa trong Tân ước. Khi Marcion đối chất với Ðức Giám mục Pôlycarpô, ông ta đã yêu cầu ngài: “Pôlycarpô, hãy thừa nhận chúng tôi.” Ðức Pôlycarpô trả lời, “Tôi thừa nhận ngài, phải, tôi thừa nhận ngài là đứa con của Satan.”

Trái lại khi đối diện với các bất đồng giữa các người Kitô hữu, ngài lại rất khoan dung và tôn trọng. Một trong những tương tranh thời ấy là việc cử hành lễ Phục sinh. Ðông phương, là xuất xứ của thánh Pôlycarpô, cử hành mầu nhiệm Vượt Qua như sự Thương khó của Ðức Kitô và tiếp theo sau bằng một Thánh lễ vào ngày kế tiếp. Tây phương cử hành lễ Phục sinh vào ngày chúa nhật sau tuần lễ Vượt Qua. Khi thánh Pôlycarpô đến Rôma để thảo luận về vấn đề này với Ðức Giáo Hoàng Anicetus, họ bất đồng ý kiến. Nhưng các ngài cũng không thấy sự khác biệt trong đức tin Kitô giáo. Và Ðức Thánh Cha Anicetus đã yêu cầu thánh Pôlycarpô cử hành Thánh lễ ngay trong nhà nguyện của Ðức Giáo Hoàng, để tỏ ý tôn trọng ngài.

Thánh Pôlycarpô đối diện với sự bách hại cũng như Ðức Kitô đã làm. Chính giáo đoàn của ngài phải thán phục ngài vì đã theo sát “gương phúc âm” – không tìm cách để tử đạo như một số người đã làm, nhưng trốn tránh sự bách hại cho đến khi thánh ý Chúa được thể hiện như Ðức Giê-su Kitô đã làm. Họ coi đó là “một dấu chỉ tình yêu nói lên sự khao khát không muốn chỉ cứu chuộc có một mình, nhưng còn cứu chuộc tất cả anh chị em Kitô Hữu.”

Trong thời kỳ đẫm máu tử đạo Kitô hữu trong đấu trường, dân chúng trở nên điên cuồng đòi hỏi phải tìm bắt thánh Pôlycarpô, vì ngài nổi tiếng thánh thiện. Thánh Pôlycarpô thật điềm tĩnh nhưng giáo dân thúc giục ngài đi trốn trong một nông trại gần thành phố. Quân lính tìm ra ngài sau khi tra khảo hai đứa bé. Ngài thiết đãi họ ăn và xin họ để ngài cầu nguyện trước khi điệu về đấu trường.

Thấy đức tin vững vàng không lay chuyển của thánh Pôlycarpô, quan thống đốc ra lệnh thiêu sống, và khi quân lính châm lửa, nhiều người chứng kể lại họ được nhìn thấy một phép lạ. Lửa cháy thành một vòng cung chung quanh thánh nhân, bao bọc ngài như các cánh buồm, và thay vì bị đốt cháy, ngài lại rực sáng như vàng đang chảy trong lò lửa. Khi quân lính thấy ngài không hề hấn gì, chúng đã lấy dao đâm ngài. Máu ngài chảy ra đã dập tắt ngọn lửa.

Quan thống đốc ra lệnh đốt xác thánh nhân mà không để giáo dân lấy xác, vì ông sợ họ sẽ thờ thánh Pôlycarpô mà không thờ tà thần của người Rôma. “Chứng từ” tử đạo của thánh Pôlycarpô là chứng từ được ghi nhận một cách xác thực về sự tử đạo của người tín hữu Kitô ngay từ thuở ban đầu. Ngài chết vào khoảng năm 156.

Trong nhiều lá thư của thánh Pôlycarpô, chỉ còn một lá ngài viết cho Giáo hội Philippi, Macedonia là còn giữ được cho đến ngày nay.

Lời bàn

Thánh Pôlycarpô được công nhận là vị lãnh đạo Kitô giáo bởi tất cả các Kitô hữu thuộc Giáo hội Tiểu Á – Một thành trì đức tin

vững mạnh và trung thành với Ðức Giêsu Kitô. Sức mạnh của ngài là bởi tín thác vào Thiên Chúa, ngay cả khi các biến động của đời sống mâu thuẫn với sự tin tưởng này. Sống giữa những người ngoại giáo và dưới chế độ đàn áp một tôn giáo mới, ngài đã chăn dẫn đàn chiên của ngài. Cũng như vị Mục tử tốt lành, ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên và gìn giữ họ khỏi bị bách hại thêm nữa. Sự tín thác vào Thiên Chúa của ngài được tóm lược trong câu nói trước khi chết: “Lạy Chúa Cha… Con ca tụng Ngài, vì đã giúp con xứng đáng cho đến ngày giờ này…” (Sổ Tử đạo, chương 14).


Lời trích

“Hãy vững vàng trong cách ăn ở và noi gương Chúa, ‘trung kiên trong đức tin, yêu thương anh chị em, đoàn kết trong chân lý,’ giúp đỡ lẫn nhau với sự dịu dàng của Chúa, đừng khinh miệt một ai” (Thánh Pôlycarpô, Thư gửi tín hữu Philippi).

Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB


 

 

Thứ Năm sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 5, 1-6

"Tiền công của những người làm công mà các ngươi đã gian lận đang kêu gào, và tiếng gào ấy đã lọt thấu tai Chúa".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Này đây, hỡi những người giàu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai hoạ sắp giáng xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi bị mục nát, áo quần các ngươi đã bị mối mọt gặm. Vàng bạc của các ngươi đã bị ten sét, và ten sét sẽ là bằng chứng tố cáo các ngươi, và sẽ ăn thịt các ngươi như lửa đốt. Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết.

Này tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào, và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 48, 14-15ab. 15cd-16. 17-18. 19-20

Ðáp: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ (Mt 5, 3).

Xướng: 1) Ðó là đường lối của những người tự tín ngu si, chung cục của những ai thoả mãn về số phận. Chúng như đoàn chiên bị dẫn xuống âm ty, tử thần chăn nuôi và người hiền lương cai trị chúng. - Ðáp.

2) Trong giây phút chúng thay đổi hình dung, và địa ngục sẽ là gia cư của chúng. Nhưng Chúa sẽ cứu hồn tôi thoát nơi địa ngục, bởi lẽ rằng Người sẽ tiếp nhận tôi. - Ðáp.

3) Ðừng e ngại khi thấy ai giàu có, khi thấy tài sản nhà họ gia tăng: bởi lúc lâm chung, họ chẳng mang theo gì hết, và tài sản cũng không cùng họ chui xuống nấm mồ. - Ðáp.

4) Dầu khi còn sống họ ca tụng mình rằng: "Thiên hạ sẽ khen ngươi, vì ngươi biết khôn ngoan tự liệu", họ sẽ tìm đến nơi đoàn tụ của tổ tiên, những người muôn thuở không được nhìn xem sự sáng. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 40-49 (Hl 41-50)

"Thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai cho các con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.

"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt. Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa.

"Muối là vật tốt, nhưng nếu muối ra lạt, các con lấy gì mà ướp nó cho mặn lại được? Các con hãy có muối ở trong mình và sống hoà thuận với nhau".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Thiên đàng toàn là thành phần bị tàn tật

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay, như bài Phúc Âm hôm qua, cũng tiếp tục bài Phúc Âm của ngày hôm trước. Tuy nhiên, bài Phúc Âm hôm nay đáng lẽ phải được đọc cùng với bài Phúc Âm hôm qua mới đúng. Bởi Chúa Giêsu đang nói với các môn đệ của Người chưa xong thì bị Giáo Hội cắt ngang, không cho đọc nữa, để những lời Chúa Giêsu đang muốn nói ấy sang bài Phúc Âm cho ngày hôm nay.

 

Thật vậy, lời Chúa Giêsu đang nói trong bài Phúc Âm hôm qua là "Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con", và Người chưa nói hết những gì Người đang muốn nói bấy giờ là "Ai cho các con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu...", thì câu này, cùng với các câu sau đó, được chuyển sang câu đầu của bài Phúc Âm hôm nay.

 

Tuy nhiên, không phải là vô lý mà Giáo Hội dám cắt ngang Lời Chúa của mình như thế. Bởi có lẽ Giáo Hội thấy rằng những gì Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay là một vấn đề khác, hoàn toàn khác, nhưng được chuyển tiếp bằng câu đầu tiên vừa được trích dẫn trên đây. Thế nhưng, nếu lưu ý, chúng ta sẽ thấy vấn đề trong bài Phúc Âm hôm qua và vấn đề trong bài Phúc Âm hôm nay vẫn có tính cách liên tục và liên hệ với nhau làm sao ấy, một cách nào đó.

 

Đúng thế, trong khi vấn đề của bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến lời minh định của Chúa Giêsu về thành phần làm việc lành thay Người cho anh chị em mình: "Chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy", thì vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến một loại người hoàn toàn ngược lại, đó là loại người tác hại đến phần rỗi của anh chị em mình, bằng gương mù gương xấu họ gây ra, những hành động đáng bị trừng phạt xứng đáng: "Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn".

 

Vẫn biết ai phạm tội thì phải chịu hình phạt tương xứng với tội phạm của mình, chứ không phải mình phạm rồi người khác chịu phạt thay mình, như chúng ta có khuynh hướng đổ tội cho nhau, như thể chúng ta vấp phạm là do người khác, nên mình vẫn đáng thông cảm tha thứ, còn người làm cớ cho mình sa ngã mới đáng bị phạt hơn là mình và thay vì mình.

 

Tuy nhiên lời Chúa Giêsu vừa quả quyết trên đây về thành phần gây dịp vấp ngã cho người khác, tuy họ phải gánh chịu trách nhiệm về việc làm xấu gây tác hại thiêng liêng của họ như vậy, nhưng ai phạm tội theo gương mù gương xấu của họ vẫn phải chịu trách nhiệm về tội phạm của mình, chứ không phải họ cần phải hay buộc phải chịu tội thay cho mình.

 

Dầu sao thành phần gây ra gương mù gương xấu trên thế gian này, trong xã hội loài người, trong đời sống chung, một hiện tượng gương mù gương xấu không thể nào không có, không thể nào không xẩy ra (xem Mathêu 18:7), vì con người trần gian chúng ta ai cũng mang một bản chất bất toàn, luôn sống với một bản tính đã bị hư đi bởi nguyên tội, đầy những đam mê nhục dục, luôn xu hướng về tội và có thể liên lỉ phạm tội nếu không có ơn Chúa.

 

Thành phần gây ra gương mù gương xấu chẳng những phải chịu trách nhiệm nặng nề về những gì mình gây ra, như thể bị "buộc thớt cối xay vào cổ", mà còn phải bị "xô xuống biển" nữa, tức bị thế gian là nơi đầy những biến động như biển khơi vùi lấp đi, như Tiên Tri Giona bị đám thủy thủ trên con tầu ông đang muốn lợi dụng để tẩu thoát lệnh truyền của Thiên Chúa sai ông, con tầu đang bị bão tố biển khơi tấn công như thể sắp sửa bị lật nhào mất tích, bất đắc dĩ ném ông xuống biển để cứu bao nhiêu là sinh mạng vô tội bị chết bởi tội ông gây ra (xem Giona 1:13-15).

 

Nếu Tiên Tri Giona nhờ tai nạn "bị xô xuống biển" này để cứu bao nhiêu sinh mạng khác, đáng lẽ bị chết đi bởi tội lỗi của ông được Thiên Chúa cứu sau đó, nhờ một con cá nuốt vào bụng nó thế nào, và nhờ đó ông đã được vào bờ an toàn, thì thành phần gây ra gương mù gương xấu cũng có thể được cứu độ như thế, một khi biết ăn năn thống hối nhận ra lầm lỗi của mình. Đó là phần của những ai gây ra dịp tội cho người khác, phải gánh chịu hậu quả những gì mình gây ra làm thiệt hại đến phần rỗi của người khác, nhưng người khác bị hư đi thì lại do chính đương sự nạn nhân chứ không phải chính tác nhân gương mù.

 

Bởi vậy mà Chúa Giêsu còn cảnh giác cả thành phần đương sự nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay nữa. Không phải hay sao, trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau khi nói về thành phần tác nhân gương mù Người đã nói ngay đến thành phần đương sự chủ thể. Theo giáo huấn của Người trong bài Phúc Âm hôm nay thì dịp tội ở ngay bản thân của đương sự chủ thể, chứ không phải ở tác nhân gương mù. Một đàng ở bên ngoài đương sự chủ thể - đó là gương mù, có tính cách khách quan, một đàng ở tại bản thân đương sự chủ thể - đó là dịp tội, có tính cách chủ quan.

 

Nghĩa là, cho dù thế gian có đầy những gương mù gương xấu không thể nào không xẩy ra, nhưng đương sự chủ thể vẫn không vì thế mà sa ngã phạm tội. Chẳng hạn, người con gái ăn mặc thời trang có vẻ sexy thời đại một cách ngây thơ vô tội, nhưng lại gây gợi cảm kích dục nơi nam nhân, nhất là nơi những con mắt vốn thèm thuồng xác thịt, nhưng vẫn không thể nào, hay khó lòng, mà trở thành dịp tội cho bất cứ nam nhân nào biết cẩn thẩn khổ chế ngũ quan hay sống đức tin chân chính.

 

"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt".

 

Ở đây, qua câu Phúc Âm này, chúng ta thấy Chúa Giêsu nói đến chẳng những dịp tội ở nơi chính chủ thể, nhất là ở 3 cơ quan đặc biệt là tay, chân và mắt trên thân thể của con người, mà còn sâu xa nói đến tiến trình phạm tội của con người nữa, một tiến trình từ ngoài vào trong, liên quan đến 3 cơ quan được Người nhắc đến. Tại sao Người không nhắc đến miệng hay tai cũng là các cơ quan dễ phạm tội nhất như mắt, mà chỉ nói đến tay, chân và mắt. Theo người viết thì "tay" là tiêu biểu cho việc làm sai trái của con người, nhưng việc làm sai trái bề ngoài đó là do quyết định bên trong của con người, một tác động nhất định làm theo ý mình có thể nói được tiêu biểu nơi "chân" bước đi của con người, và con người thường chỉ quyết định sai trái lầm lạc theo phán đoán mù tối hay theo lòng tham vọng của con người, những tác động phán đoán hay tham vọng tâm linh có thể nói được tiêu biểu nơi con "mắt" của họ. 

 

Như thế, có thể nói một cách loại suy và tếu táo rằng nếu "thà con mất một tay mà được vào cõi sống... (và) thà con mất một chân mà được vào cõi sống" thì ở trên Thiên Đàng toàn là những người bị tàn tật, mù lòa và què cụt, bởi khi còn ở trên thế gian này họ đã hy sinh tất cả những phần thể ấy của họ để được rỗi, "còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục... còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục", bởi vậy khi chết đi ai mà còn lành mạnh cả thân thể thì số phận đời đời của họ chẳng còn ở đâu khác ngoài hỏa ngục.... Thật ra thì hoàn toàn ngược lại, một khi thân xác của người lành được phục sinh trong ngày sau hết thì nên giống thân thể vinh quang của Chúa Kitô (xem Philiphe 3:21), trong khi thân xác của thành phần bị "chết lần thứ hai" (Khải Huyền 20:14) cũng sống lại nhưng "bị quăng vào hồ lửa" (Khải Huyền 20:14), phản ảnh tất cả những gì là khốn cực, hư hoại và chết chóc.

 

Bởi chính dịp tội ở ngay bản thân con người chứ không phải ở ngoài con người như gương mù gương xấu thế gian mà con người cần phải giữ mình nói chung, cần phải khổ chế giác quan và tình cảm nói riêng, để khỏi bị sa ngã phạm tội, để khỏi bị ảnh hưởng tai hại hay chiều theo gương mù gương xấu thế gian, mà ở cuối bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã vừa cảnh giác vừa kín đáo dạy cho các môn đệ của Người cách thức khôn khéo như sau:

 

"Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa":  bởi "mọi người" không trừ ai ở trên đời này tự mình mà không sa ngã phạm tội làm những gì trái với lương tâm nên bị lương tâm nung nấu cắn rứt như bị "ướp bằng lửa", thứ lửa trần gian còn được thanh tẩy, hơn là thứ lửa hỏa ngục trừng phạt muôn kiếp đời sau.

 

 "Muối là vật tốt, nhưng nếu muối ra lạt, các con lấy gì mà ướp nó cho mặn lại được?": "muối" đây trước hết ám chỉ tính chất khổ chế cần phải có nơi đời sống thiêng liêng để ướp cho bản thân con người vốn yếu đuối đầy những mầm mống tội lỗi chết chóc khỏi sa ngã phạm tội mà bị hư đi như những thứ cá ươn thối.

 

"Các con hãy có muối ở trong mình và sống hoà thuận với nhau": "muối" ở đây, sau nữa, còn ám chỉ tính chất nhẫn nhịn nhau trong đời sống bác ái yêu thương tha nhân, nhờ đó con người ướp cho nhau khỏi bị ươn thối gây ra bởi những thái độ và phản ứng gương mù gương xấu của mình.

 

Cảm Nghiệm

 

Chúng ta dù có xưng tội thường xuyên, nhưng nếu không biết mình, không nhận lỗi, thì việc xưng tội của chúng ta nên xét lại, bởi chúng ta chẳng những không thật lòng ăn năn thống hối mà còn chẳng biết mình xưng tội ra sao nữa. Có những tội thật chúng ta lại cho rằng không phải là tội. Chúng ta còn cho rằng chúng ta vấp phạm là do ngoại cảnh chứ chúng ta không tự mình phạm tội, không cố ý phạm tội, nếu không có dịp tội, nếu không thấy người con gái duyên dáng hấp dẫn ấy v.v.

 

Mà nếu không biết mình, không nhận lỗi thì làm sao có thể sửa lỗi và cải thiện được. Nhất là làm sao có thể ăn năn thống hối về tội mình phạm trước khi xưng tội. Bởi thế, chúng ta vẫn tiếp tục sống trong dịp tội và chiều theo dịp tội, mà cứ tưởng mình có tội gì đâu mà xưng v.v. Và nếu có thói quen xưng tội hằng tháng chăng nữa, cũng cứ tưởng mình công chính hơn người khác. Những con người không tránh dịp tội ở ngay nơi bản thân của mình, thì mọi sự, dù tự bản chất nó tốt, nó vẫn có thể trở thành cớ ("gương mù") gây ra hành động phạm tội của họ.

 

Đó là lý do Thánh Giacôbê Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay mới khuyên thành phần bất khôn không thể nào không gây ra gương mù gương xấu hay tránh được gương mù gương xấu những lời lẽ rất chân thật và hữu ích đầy cảnh giác sau đây:

 

"Này đây, hỡi những người giàu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai hoạ sắp giáng xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi bị mục nát, áo quần các ngươi đã bị mối mọt gặm. Vàng bạc của các ngươi đã bị ten sét, và ten sét sẽ là bằng chứng tố cáo các ngươi, và sẽ ăn thịt các ngươi như lửa đốt. Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết".

 

Theo chiều hướng đó, Bài Đáp Ca hôm nay cũng mới cảnh báo nguy cơ liên quan đến "đường lối của những người tự tín ngu si... Chúng như đoàn chiên bị dẫn xuống âm ty" (câu 1) và "địa ngục sẽ là gia cư của chúng" (câu 2), "lúc lâm chung, chúng chẳng mang theo gì hết, và tài sản cũng cùng chúng chui xuống nấm mồ" (câu 3)

 

 

 

 

Thứ Sáu sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 5, 9-12

"Kìa quan toà đã đứng trước cửa".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị lên án. Kìa quan toà đã đứng trước cửa. Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa. Ðây chúng ta gọi những người đã kiên nhẫn đau khổ là có phúc. Anh em đã nghe nói đến sự kiên nhẫn của Gióp và đã thấy kết cuộc Chúa dành để cho ông, vì Chúa đầy lòng thương xót và lân mẫn.

Anh em thân mến, trước hết, anh em đừng (có) thề, dầu viện trời, dầu viện đất hay viện một hình (vật gì) khác. Lời nói anh em phải là: Có rằng có, không rằng không, để anh em khỏi bị toà án luận phạt.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 8-9. 11-12.

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.

3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. - Ðáp.

4) Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng ta. - Ðáp.

 

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 1-12

"Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt xứ Giuđêa và miền bên kia sông Giođan. Dân chúng lại tụ họp bên Người và Người lại dạy dỗ họ như thường lệ. Những người biệt phát đến gần và hỏi thử Người rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ".

Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?"

 

Vấn đề "ly dị", nếu hiểu rộng, thì bao gồm cả "ngoại tình". Tại sao thế?

 

Suy Niệm

 

Vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay hoàn toàn khác với các vấn đề của các bài Phúc Âm trước đây trong tuần. Tuy nhiên, ở một nghĩa nào đó, có thể nói vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay một phần nào liên hệ với vấn đề của bài Phúc Âm hôm qua. Nếu vấn đề của bài Phúc Âm hôm qua về vấn đề gương mù gương xấu trong thế gian và dịp tội nơi chủ thể phạm nhân thì vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay về vấn đề tục lệ ly dị (liên quan đến gương mù gương xấu trong xã hội) và về thành phần ly dị (liên quan đến dịp tội ở chính bản thân đương sự phạm nhân).

 

Trước hết, về vấn đề tục lệ ly dị (liên quan đến gương mù gương xấu trong xã hội): "Những người biệt phát đến gần và hỏi thử Người rằng: 'Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?'". Sở dĩ vấn đề ly dị ở đây, dù có được phép chăng nữa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị", nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần bộ mặt bất chính của nó như sau: "Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó".

 

Sau nữa, về thành phần ly dị (liên quan đến dịp tội ở chính bản thân đương sự phạm nhân): "Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ".

 

Ở đây chính Chúa Giêsu đã trả lại cho ý nghĩa đích thực và giá trị cao cả của hôn nhân theo dự án thần linh từ nguyên thủy của Thiên Chúa Hóa Công. Chưa hết, để bổ túc thêm cho phần tích cực của hôn nhân liên quan đến ý nghĩa và giá trị của nó theo dự án thần linh, trong câu trả lời cho riêng các môn đệ của mình sau đó, Chúa Giêsu còn bồi thêm phần tiêu cực liên quan đền thành phần ly dị nữa, như sau: "Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: 'Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình'".

 

Vấn đề "ly dị", nếu hiểu rộng, thì bao gồm cả "ngoại tình". Tại sao thế? Tại vì "ngoại tình", dù là "ngoại tình" kín đáo trong tâm tưởng (xem Mathêu 5:28), tự nó bao giờ cũng là hành động "ly dị" lén lút, "ly dị" tạm thời, bởi lòng của người vợ hay người chồng "ngoại tình" ấy đã thật sự bất trung với lời thề hứa thủy chung của mình cho tới cùng với con người được chính Thiên Chúa đã Đấng đã xe duyên kết nghĩa vợ chồng cho mình. Và chính vì hành động ngoại tình, cho dù chưa thật sự có liên hệ xác thịt với một người không phải là vơ hay chồng chính thức của mình, cũng là một trọng tội, chứ không phải là một tội nhẹ, bởi hành động "ngoại tình" này hoàn toàn phản lại với bản chất của hôn nhân theo ý Chúa. 

 

Nếu "sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ" thì người phối ngẫu của mình chính là người được Thiên Chúa chọn cho mình, được Ngài mang đến cho mình, một cách nào đó và vào một lúc nào đó, và lòng mình cảm nhận được con người thiên duyên ấy, và tự nhiên yêu thương quyến luyến với con người như thuộc về mình từ bao giờ ấy, đến độ sống không thể thiếu được người ấy, và đến độ con người ấy trở thành như thể chính bản thân mình, chính lẽ sống của mình, không thể nào không trở nên một xác thịt trong đời sống hôn nhân gia đình.

 

Thật vậy, "từ lúc khởi đầu sáng tạo", con người duy nhất bấy giờ (là Adong) được Thiên Chúa mang nàng Evà đến cho chàng, chứ không phải chàng tự đi tìm kiếm, hay nói đúng hơn, chàng hằng thiết tha khao khát một người nội trợ xứng hợp với mình, một niềm khát vọng ở tận thâm tâm của chàng, được biểu hiệu qua một giấc ngủ say (xem Khởi Nguyên 2:21), để rồi khi thức dậy sau một giấc ngủ thật say, như thể nội tâm của chàng đã cảm nghiệm được chính bản thân của chàng, thì phản ứng đầu tiên ngay tức khắc và duy nhất của chàng bấy giờ là nhận biết và chấp nhận những gì từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa: "Cuối cùng nàng đây mới là xương bởi xương của tôi, thịt bởi thịt của tôi" (Khởi Nguyên 2:21-24), rồi đáp ứng bằng cách "lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai trở nên một thân thể" (Khởi Nguyên 2:24).

 

Chữ "cuối cùng" trong câu nói công khai đầu tiên của con người về bản thân mình cho thấy lòng khát vọng tìm được "một người nội trợ xứng hợp với mình" (Khởi Nguyên 2:20), một con người vượt trên mọi loài muông thú đã được chàng nhận biết rõ ràng và đặt tên cho từng con (xem Khởi Nguyên 2:19), nhưng chúng vẫn không hợp với chàng, nên chàng đành phải tiếp tục sống lẻ loi cô độc là một tình trạng không hợp với chàng và "không tốt" (Khởi Nguyên 2:18), nghĩa là không trọn vẹn đối với chàng là một con người chẳng những được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26), ở chỗ duy nhất, mà còn được dựng nên tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26), ở chỗ hiệp thông, cho đến khi "cuối cùng" chàng đã được toại nguyện, ở chỗ có đôi: "Thiên Chúa đã dựng nên họ có nam có nữ" (Khởi Nguyên 1:27).

 

Sau này, cho dù có nghe theo vợ mình là Evà mà anh chồng Adong đã trở thành đồng phạm ăn trái cấm với nàng và vì thế đã trắng trợn phạm đến Thiên Chúa tối cao là Đấng đã tạo dựng nên mình, nhưng trong câu đáp lời Thiên Chúa hạch hỏi: "Ai đã bảo ngươi rằng ngươi trần truồng...?", chàng vẫn công nhận nàng chứ không bao giờ chối bỏ nàng hay ruồng bỏ vợ của chàng: "Người nữ mà Ngài đã cho ở với con đây..." (Khởi Nguyên 3:12), câu thứ hai con người thân thưa cùng Vị Thiên Chúa Hóa Công của mình.

 

Nghĩa là Adong vẫn công nhận Evà thuộc về chàng và nàng được chính Thiên Chúa cho ở với chàng, bằng không, nếu chàng bỏ nàng là chàng, trước hết và trên hết, bỏ Chúa, là chàng "phân ly những gì Thiên Chúa đã liên kết ràng buộc" chàng với nàng. Ngay từ ban đầu không có như vậy, không có vấn đề hay tình trạng ly dị, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay.

 

Tuy nhiên, ngày nay, theo chủ nghĩa tương đối duy nhân bản, con người tôn thờ nhân quyền theo cá nhân chủ nghĩa, họ chủ trương "pro choice" trong cả hôn nhân (chứ không phải chỉ trong việc phá thai), ở chỗ, tôi có quyền lấy người này thì tôi cũng có quyền bỏ họ mà lấy người khác tùy tôi; người phối ngẫu của tôi là do chính tôi chọn lựa theo ý thích, ý nghĩ và ý muốn chủ quan và tự do của tôi, chứ không phải Thiên Chúa chọn cho tôi nên tôi phải chấp nhận họ, và không bao giờ được bỏ họ khi tôi không còn thích họ nữa.

 

Cảm Nghiệm

 

Hôn nhân, theo lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay và mạc khải Thánh Kinh, là do Thiên Chúa thiết lập và xe duyên kết nghĩa cho từng cặp, vì con người được Ngài dựng nên "có nam có nữ", nhờ đó họ có khả năng hiệp thông như Ngài bằng yêu thương, một yếu tố bất khả thiếu khiến họ nhận biết nhau và hiệp nhất nên một với nhau như vợ chồng.

 

Chính mối hiệp nhất nên một xác thịt này giữa con người nam nữ phối ngẫu với nhau là thực tại đòi tình yêu phối ngẫu phải là một tình yêu vĩnh viễn, tình yêu trọn đời, bất chấp tất cả những gì khác biệt nơi nhau (như sở thích hay văn hóa hoặc tôn giáo), tất cả những gì nghịch lại với nhau (như tính nết hay chủ trương hoặc chọn lựa), thậm chí bất chấp tất cả những gì xúc phạm đến nhau (như khinh bỉ nhau hay nguyền rủa nhau hoặc phản bội nhau).

 

Thế nhưng, sống với bản tính đã bị hư đi theo nguyên tội, ơn gọi và đời sống hôn nhân không dễ dàng bền vững cho đến cùng, nhất là trong thế giới đang tôn thờ cái tôi, chỉ biết quyền làm người hơn tình người, thì động một tí là họ có thể bỏ nhau, có thể "phân ly những gì Thiên Chúa đã liên kết".

 

Kinh nghiệm phũ phàng cho thấy, chính lúc con người sống đời vợ chồng có thể chứng tỏ tình yêu thương nhau một cách chân thực nhất và hoàn hảo nhất thì họ lại ly dị nhau, đó là khi họ xúc phạm đến nhau, khi họ chịu đau khổ bởi nhau. Và sở dĩ họ bỏ nhau là vì họ yêu nhau tự nhiên, trần tục, thường là theo sắc dục và lợi lộc hơn là trong Chúa là Đấng đã xe duyên kết nghĩa cho họ. Cho dù ngay từ đầu tình yêu của họ là một tình yêu đầy ý thức và có tính cách siêu nhiên, nhưng khi va chạm với những gian nan khốn khó và thử thách tình yêu chân thành ấy để nó trở thành tình yêu trọn hảo như tình yêu của Thiên Chúa, thì họ lại không thể tiếp tục chấp nhận nhau được nữa, không thể sống với nhau được nữa, bất chấp lợi ích của con cái v.v.

 

Đó là lý do vấn đề chọn lựa bạn hữu nói chung và nhất là người bạn tình muôn thuở sống đời với mình nói riêng là những gì rất quan trọng ngay từ ban đầu, cần phải thực hiện bằng lý trí hơn là chỉ duy bằng tình cảm, một tác động lý trí bất khả thiếu để khôn ngoan sáng suốt chọn lựa trong cầu nguyện và được tác động bởi đức tin. Một khi đã chọn lựa và chấp nhận nhau thật sự bằng đức tin ngay từ ban đầu thì chắc chắn sẽ trung thành với nhau đến cùng, bất chấp giá nào, đúng như nhận định của Thánh Giacôbê Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay liên quan đến chính sự chân thật và lòng trung thực, đặc biệt trong đời sống hôn nhân gia đình: "Lời anh em nói thì phải có là có, không là không, nhờ đó anh em mới khỏi bị toà án luận phạt".

 

Tuy nhiên, muốn trung thành với nhau hay thủy chung với nhau trong đời sống hôn nhân vợ chồng, một đời sống mà thế giới càng văn minh, càng nhân bản và nhân quyền thì càng ngày càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết, đến độ đã có nhiều người cảm thấy hoàn toàn bất khả, ở một tỷ lệ li dị trên 50% nơi thế giới Tây phương tân tiến vốn được gọi là thế giới Kitô giáo, Thánh Giacôbê ở Bài Đọc 1 còn cống hiến một lời khuyên hết sức chí lý và hiệu nghiệm nhất là đối với đời sống hôn nhân vợ chồng, đó là: "Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa". Tại sao thế? Tại vì các vị tiên tri là thành phần chỉ nói và làm những gì Chúa muốn chứ không phải ý của mình, bất chấp mọi gian khổ. Vậy thì vợ chồng sống với nhau, biết chấp nhận Chúa trong nhau, hay biết yêu nhau vì Chúa, thì không thể bỏ nhau, dù có chịu khổ bởi nhau cách nào!

 

 

 

 

Thứ Bảy sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 5, 13-20

"Lời cầu nguyện của người công chính rất linh nghiệm".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em thân mến, ai trong anh em buồn sầu, người đó hãy cầu nguyện. Còn ai hân hoan, người đó hãy ca hát thánh vịnh. Ai trong anh em ốm đau ư? Hãy mời các trưởng lão giáo hội đến, để các ngài cầu nguyện và nhân danh Chúa xức dầu cho người đó. Lời cầu nguyện phát xuất tự lòng tin sẽ cứu được bệnh nhân và Chúa sẽ cho người đó được bình phục; và nếu người đó mắc tội, thì sẽ được tha. Vậy anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để anh em được cứu độ, vì lời cầu nguyện của người công chính rất linh nghiệm. Elia là con người đau khổ giống như chúng ta, thế mà ông kiên tâm cầu nguyện để trời đừng có mưa, và trời đã không mưa trong ba năm sáu tháng. Rồi ông lại cầu nguyện, và trời đổ mưa, đất trổ sinh hoa quả.

Anh em thân mến, nếu ai trong anh em lạc đường chân lý, và có kẻ làm cho người đó trở lại, thì người ấy hãy biết rằng: kẻ làm cho người tội lỗi bỏ đường lầm lạc mà trở lại, sẽ cứu linh hồn người tội lỗi khỏi chết, và che lấp được nhiều tội lỗi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 140, 1-2. 3 và 8

Ðáp: Xin cho lời con nguyện bay lên Chúa như hương trầm (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con kêu lên Chúa, xin mau chóng phù trợ con, nguyện nghe tiếng con, lúc con kêu cầu Chúa. Xin cho lời con nguyện bay lên Chúa như hương trầm, tay con giơ lên thành như của lễ lúc chiều hôm. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, xin đặt quân gìn giữ miệng và lính canh gác gần cửa môi con. Ôi lạy Chúa, con mắt con hướng nhìn về Chúa, con tìm nương tựa nơi Ngài, xin đừng huỷ mạng sống con. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 13-16

"Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Linh đạo Kitô giáo không phải ở chỗ trưởng thành lớn lên mà là trở nên ngây thơ nhỏ bé

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marco thuật lại một cảnh tượng hiếm hoi chưa từng thấy, đó là cảnh tượng "người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu". Sở dĩ nói rằng đây là một cảnh tượng hiếm hoi chưa từng thấy là vì thường dân chúng chỉ mang các bệnh nhân đến với Chúa Giêsu để được Người chữa lành thôi, hay dân chúng kéo đến với Người để nghe Người giảng dạy.

 

Hôm nay, trong bài Phúc Âm này, cho dù các em nhỏ chẳng có bệnh tật gì và chẳng hiểu Người nói gì, cũng được người lớn mang đến với Người, với mục đích được Thánh ký Marco tiết lộ là "để Người đặt tay trên chúng", thế thôi. Ở sự kiện này chúng ta thấy một sự lạ khác là trong khi những người mang các em nhỏ đến với Chúa Giêsu thì họ lại gặp phải một phản ứng bất lợi, đó là: "các môn đệ khiển trách họ".

 

Qua cuộc đụng độ bất ngờ này, một cuộc đụng độ ngoài dự tưởng của những người mang trẻ nhỏ tới với Chúa Giêsu, vì họ chỉ nhắm tới Chúa Giêsu thôi, chứ không để ý gì tới các môn đệ của Người. Không biết có ai trong họ cự lại các tông đồ hay chăng: "Ủa, chúng tôi mang con trẻ nhỏ ngây thơ vô tội đến với Thày của các ông là Đấng đầy yêu thương từng người mà tại sao các ông lại ngăn cản chúng tôi chứ?"

 

Chắc không có chuyện giả tưởng này, nhưng dầu sao cũng cho thấy hai tâm thức khác nhau, giữa dân chúng không sống gần Chúa Giêsu bằng các môn đệ của Người, song lại hiểu Người hơn các vị, thành phần như người con lớn trong dụ ngôn người cha nhân hậu, dù liên lỉ ở với cha, mà chẳng hiểu cha bằng người em hoang đàng của hắn.

 

Câu Chúa Giêsu can thiệp vào vụ đụng độ bất ngờ trước mặt Người bấy giờ đã cho thấy rõ ai hơn ai đối với Người liên quan tới tinh thần của Người: "Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: 'Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó'. Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng".

 

Đúng thế, thành phần môn đệ của Chúa Kitô là thành phần người lớn, với đầy những hướng chiều và tham muốn phàm tục trong việc tranh chấp ngôi vị, như Bài Phúc Âm Thứ Ba tuần này cho thấy. Các vị coi Thầy của các vị là một Đấng uy nghi cao cả, chỉ có các vị hay thành phần giáo quyền hoặc thành phần biệt phái cùng luật sĩ hay các tư tế mới có tư cách gặp Người, hoặc những ai chính Người muốn gặp gỡ họ thôi, chứ không phải ai cũng được phép gặp Người, chẳng hạn như đám trẻ em được thành phần phụ nữ quê mùa tầm thường dẫn tới như vậy.

 

Các vị vẫn chưa hiểu được giáo huấn của Thày mình. Mới cách đó không lâu, chính Chúa Giêsu đã đích thân tìm một em bé, rồi "đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: 'Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy'", thế mà các vị vẫn chưa lĩnh hội hết ý muốn của Người, nên hôm nay, trong bài Phúc Âm này, Người lại phải lợi dụng dịp này để nhắc nhở các vị.

 

Trong câu Người nói với các môn đệ trong bài Phúc Âm hôm Thứ Ba tuần này: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy" nghĩa là, như đã chia sẻ hôm Thứ Ba, "nếu các vị muốn chấp nhận Người, nhất là chấp nhận Người ở nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, các vị phải 'hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ' (Mathêu 18:3)", thì "Nước Thiên Chúa" được Người nói trong bài Phúc Âm hôm nay chính là bản thân Người.

 

Thật vậy, hình ảnh và tác động "Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng" trong bài Phúc Âm hôm nay, không phải hay sao, đã chứng thực Người chính là "Nước Thiên Chúa" , một thực tại thần linh "là của những người giống như chúng", tức của những ai để cho Người "ôm", hoàn toàn tin tưởng vào Người, chấp nhận tất cả những gì Người tỏ ra cho họ, bằng không, một khi coi mình là người lớn, xấu hổ không để cho Người "ôm" thì họ sẽ không thể nào có thể ở trong Người và Người ở trong họ: "Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó"

 

Cảm Nghiệm

 

Linh đạo của Kitô giáo không phải là một tiến trình tiến đức lớn lên mà là nhỏ lại. Ở chỗ, Thiên Chúa càng làm chủ linh hồn thì linh hồn càng tràn đầy Chúa, khi Chúa tỏ mình ra cho họ và qua họ cho thế gian, nhờ đó thế gian nhận biết Ngài qua họ và nhờ họ.

 

Kinh nghiệm tu đức cho thấy, trong đời sống thiêng liêng của Kiô hữu, Thiên Chúa bao giờ cũng muốn làm cho linh hồn nhận biết Người, nghĩa là Ngài luôn tỏ mình ra cho họ, cho đến khi họ có thể đạt tới tầm vóc vẹn toàn của Chúa Kitô là đầu (xem Epheso 4:13,15).

 

Bởi thế, Thiên Chúa bao giờ cũng chủ động; con người chỉ làm sao đón nhận và đáp ứng. Kitô hữu trưởng thành (hay "lớn lên") trong đời sống thiêng liêng nhờ Thiên Chúa càng ngày càng sống trong họ, nơi ý nghĩ lòng muốn của họ, qua lời nói phát ngôn của họ và ở hành vi cử chỉ cùng phản ứng có tính cách thần linh của họ.

 

Thế nhưng, bởi nguyên tội, con người vốn xu hướng về "trái cấm", nghĩa là luôn xu hướng về tất cả những gì trái với ý muốn của Thiên Chúa, bởi thế, để được thừa hưởng Nước Trời, con người cần phải "hoán cải và trở nên như những trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), và để cứu độ con người mù quáng, chính Thiên Chúa cũng phải "ra tay uy quyền đánh tan người kiêu ngạo", cũng phải "hạ người quyền hạnh xuống khỏi vị cao" và cũng phải "để người giầu có trở về tay không" (Luca 1:51-53), nghĩa là Ngài làm cho họ phải nhỏ bé lại và làm sao biết kính sợ Ngài, như lòng thương xót Ngài đối với họ.

 

Con người dù có hèn hạ xấu xa tội lỗi đến đâu đi nữa, Thiên Chúa là Cha giầu lòng thương xót vẫn không thể nào bỏ họ, trái lại, Ngài sẽ làm hết cách để cứu họ, một loài tạo vật đã được Ngài tạo dựng nên" chẳng những "theo hình ảnh của Chúa" mà còn nhờ đó có được những khả năng để nhận biết Ngài và sống xứng đáng với thân phận làm người cao cả của họ, đến độ nếu chính bản thân họ không thể tự cứu được họ thì Ngài có thể sử dụng một thừa tác nhân nào đó để cứu họ, như Thánh Giacôbê trong Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy: "Anh em hãy cầu nguyện cho nhau để anh em được cứu độ, vì lời cầu nguyện của người công chính rất linh nghiệm. Elia là con người đau khổ giống như chúng ta, thế mà ông kiên tâm cầu nguyện để trời đừng có mưa, và trời đã không mưa trong ba năm sáu tháng. Rồi ông lại cầu nguyện, và trời đổ mưa, đất trổ sinh hoa quả".