SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXIII Thường Niên

Năm A (Chúa Nhật) và Năm Lẻ (Trong tuần)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Ed 33, 7-9

"Nếu ngươi không chịu nói cho kẻ gian ác, thì Ta đòi máu nó bởi tay ngươi".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Ðây Chúa phán: "Hỡi con người, Ta đã làm cho ngươi trở nên người lính canh nhà Israel: vậy khi nghe lời miệng Ta nói, ngươi hãy loan báo cho chúng thay Ta. Khi Ta phán cùng kẻ gian ác rằng: "Hỡi kẻ gian ác, mi sẽ phải chết"; nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình, thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi. Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9

Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Các ngươi đừng cứng lòng" (x. c. 8).

Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người! - Ðáp.

2) Hãy tiến liên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.

3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 13, 8-10

"Yêu thương là chu toàn cả lề luật".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật. Ðó là: "Chớ ngoại tình; chớ giết người; chớ trộm cắp; chớ làm chứng gian; chớ mê tham", và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: "Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình". Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 18, 15-20

"Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.

"Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ.

"Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy".

Ðó là lời Chúa.

Reflection for Gospel of 23rd Sunday in Ordinary Time (Year A), Mt 18 :15--Aleteia

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

"Lính canh nhà Israel"

 

"Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó" - có thể nói đây là đề tài chính cho phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm A hôm nay. Nghĩa là phụng vụ lời Chúa hôm nay bao gồm 2 vế: vế phạm nhân "sai lỗi" và vế thẩm quyền "sửa dạy" phạm nhân.

Trước hết, về phía phạm nhân là những ai "lỗi phạm". Trong khi trong Bài Phúc Âm Chúa Giêsu không hề nói đến "lỗi phạm" điều gì hay "lỗi phạm" ra sao hoặc "lỗi phạm" thế nào, mà chỉ nói trống "lỗi phạm" thế thôi.

Thế nhưng, trong Bài Đọc 2, Vị Tông Đồ Phaolô đã nói rõ về những gì phạm nhân có thể "lỗi phạm" mà ngài thấy cần phải liệt kê rõ ở dưới dạng khuyên răn như sau: "Chớ ngoại tình; chớ giết người; chớ trộm cắp; chớ làm chứng gian; chớ mê tham".

Chính vì "lỗi phạm" đến 5 điều căn bản và chính yếu ấy là lỗi phạm đến lề luật của Chúa, một lề luật lại liên quan đến tha nhân, liên quan đến đức bác ái yêu thương mà thánh nhân đã khẳng định rằng: "ai yêu người là đã giữ trọn lề luật... yêu thương là chu toàn cả lề luật".

Sau nữa, về phía thẩm quyền "sửa dạy" phạm nhân. Theo lời Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm "phán cùng các môn đệ" thì họ là các vị thuộc hàng giáo phẩm có quyền quản trị, giảng dạy và thánh hóa đàn chiên của mình.

Các vị có thẩm quyền "sửa dạy" phạm nhân, và việc "sửa dạy" phạm nhân của các vị là điều bắt buộc theo trách nhiệm giảng dạy của các vị mà các vị không thể nào tránh né vì sợ sệt hay nể nang, sợ bị chính chiên ghét bỏ, bị mất cảm tình với chiên mà bỏ qua không dám làm. Bằng không, các vị sẽ phải chịu trách nhiệm của mình, đúng như lời Chúa cảnh báo các vị qua môi miệng của Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Đọc I hôm nay:

"Hỡi con người, Ta đã làm cho ngươi trở nên người lính canh nhà Israel: vậy khi nghe lời miệng Ta nói, ngươi hãy loan báo cho chúng thay Ta. Khi Ta phán cùng kẻ gian ác rằng: 'Hỡi kẻ gian ác, mi sẽ phải chết'; nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình, thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi. Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi".

Thẩm quyền của thành phần lãnh đạo dân của Chúa, nhất là dân Tân Ước như các vị tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm nay, thành phần sẽ thay Người và cùng với Người dẫn dắt đàn chiên của Người và được Người trao phó cho, có một tầm vóc vĩ đại và trọng đại đến độ, như Chúa Kitô đã khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ". Điển hình là một khi bị Giáo Hội tuyệt thông thì linh hồn phạm nhân sẽ nguy hiểm đến phần rỗi nếu họ không sớm được Giáo Hội giải cho trước khi qua đời.

Hay một khi Giáo Hội, qua thẩm quyền vô ngộ của Giáo Hoàng (căn cứ vào câu Phúc Âm của Thánh ký Mathêu 16:19) hay qua Công Đồng Chung (căn cứ vào câu Phúc Âm của Thánh ký Mathêu vừa được trích dẫn) tuyên bố một tín điều nào, liên quan đến Mẹ Maria (như Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội bởi Đức Giáo Hoàng Piô IX ngày 8/12/1854 và Mẹ Mông Triệu bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII ngày 1/11/1950), hoặc đến chính thẩm quyền tối thượng của Giáo Hoàng (bởi Công Đồng Chung Vaticanô I năm 1870), thì buộc tất cả mọi con cái của Giáo Hội phải tin tưởng chấp nhận, bằng không sẽ trở thành rối đạo, lạc đạo, tuyệt thông, rất nguy hiểm đến phần rỗi đời đời của phạm nhân, vì "trên trời cũng cầm buộc" như vậy.

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là phải làm thế nào để thẩm quyền giảng dạy của thành phần "lính canh nhà Israel" này, ám chỉ cả thẩm quyền quản trị của Giáo Hội Chúa Kitô đây, có thể "sửa dạy" một cách khôn khéo nhất, để nhờ đó, mang lại hiệu quả tốt đẹp nơi phạm nhân thuộc thẩm quyền giảng dạy của mình?

Chính Chúa Kitô, trong Bài Phúc Âm hôm nay, đã chỉ dạy những ai lãnh đạo Giáo Hội của Người, những vị thừa kế các tông đồ được Người nói với trong Bài Phúc Âm cách thức thực hiện theo tiến trình từ kín đáo đến công khai, từ nhẹ nhàng theo tình bác ái yêu thương đến quyết liệt theo chính lý công minh, như sau:

"Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế".

Thực tế cho thấy Giáo Hội đã từng áp dụng đường lối "sửa dạy" này đối với các phần tử "sai lỗi" của mình, nhất là từ sau Công Đồng Chung Vaticano II (1962-1965). Ở chỗ, chẳng hạn, một vị giáo sư nào giảng dạy trong đại học mang danh là Công giáo chính thức của Giáo Hội và trong Giáo Hội, thường là các vị linh mục, được tiếng là thần học gia, có những chủ trương thiên lệch, phản lại với huấn quyền của Giáo Hội, điển hình như về luân lý đối với vấn đề ngừa thai hay phá thai, qua sách vở của các vị, thì vị bản quyền địa phương hay bề trên của vị này cần phải thực hiện tiến trình "sửa dạy" ba bước theo lời Chúa dạy như sau:

Trước hết, "riêng ngươi và nó thôi", nghĩa là mời vị linh mục hay tác giả "sai lỗi" ấy đến nói chuyện riêng. Sau đó, nếu vị ấy vẫn không nghe, vẫn cho mình là đúng, thì đấng bản quyền địa phương hay bề trên mời thêm các chuyên gia về cùng vấn đề được đặt ra trong giáo phận hay trong dòng của mình đến "hãy đem theo một hoặc hai người nữa", để cùng nhau nhận định, hầu tránh tính cách chủ quan hay thiên kiến hoặc ác cảm có thể có nơi vị có thẩm quyền "sửa dạy".

Nếu cá nhân "sai lỗi" vẫn bất chấp cả một hội đồng chứng nhân trong dòng hay trong giáo phận của mình thì Đấng bản quyền hay bề trên của vị này trình lên thẩm quyền tối hậu là Tòa Thánh: "hãy trình với cộng đoàn". Để rồi, cuối cùng cá nhân "sai lỗi" ấy vẫn cứ bất chấp cả Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin của Tòa Thánh thì Tòa Thánh đành phải bất đắc dĩ công khai và chính thức ban hành một văn thư cấm vị này không được giảng dạy trong các đại học Công giáo, và tác phẩm của vị ấy không ai được đọc nữa: "hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế".

Phần phạm nhân "sai lỗi", nếu vì lòng ngay và nhận ra lầm lỗi của mình, nhờ đường lối "sửa dạy" khôn ngoan Giáo Hội thực hiện chỉ vì phần rỗi của mình nói riêng và cho công ích của Nhiệm Thể Chúa Kitô nói chung, sẽ không cố chấp đến độ coi cá nhân mình hơn đoàn thể Giáo Hội, coi bản thân hữu hạn của mình trên thẩm quyền bao gồm của Giáo Hội. Bởi vì, Thiên Chúa chỉ ở với đoàn thể hơn là cá nhân, chỉ ngự giữa tình đoàn kết và bác ái yêu thương hơn là những nơi tự phụ và chia rẽ, như chính Chúa Kitô khẳng định ở cuối bài Phúc Âm hôm nay:

 "Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy". Ở đây, Chúa Giêsu dường như muốn khẳng định tính chất bất khả ngộ của cộng đồng Giáo Hội được Người thiết lập là vì, chính Người "là đường, là sự thật và là sự sống" (Gioan 14:6), với tư cách là vị mục tử tối cao, luôn "ở cùng các con" là các vị chủ chăn đại diện Người, "cho đến tận thế" (Mathêu 28:10).

Đó là lý do, qua câu đáp chính của Bài Đáp Ca hôm nay, Giáo Hội đã kêu gọi con cái mình nói chung, nhất là những đứa con "sai lỗi" được Giáo Hội sử dụng thẩm quyền quản trị, giảng dạy và thánh hóa của mình để mà "sửa dạy", cho lợi ích chung của Giáo Hội cũng như cho phần rỗi của cá nhân "sai lỗi", hãy ngoan ngoãn trung thành với Thiên Chúa qua thẩm quyền được Ngài trao phó trên trần gian này: "Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: 'Các ngươi đừng cứng lòng'".

 

 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 1, 24 - 2, 3

"Tôi đã được trở thành người phục vụ Hội thánh để rao giảng mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Anh em thân mến, hiện nay tôi vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu vì anh em. Tôi bổ khuyết nơi thân xác tôi những gì còn thiếu sót trong cuộc thương khó của Ðức Kitô, để Hội thánh là thân xác của Người được nhờ. Tôi đã được trở thành người phục vụ Hội thánh, theo sự an bài của Thiên Chúa đã trao phó cho tôi rao giảng đầy đủ lời Chúa, đó là mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở qua muôn thế hệ, nhưng nay đã được tỏ bày cho các thánh của Người. Thiên Chúa muốn tỏ bày cho họ biết thế nào là sự phong phú vinh quang của mầu nhiệm nơi dân ngoại, tức là Ðức Kitô trong anh em, Người là niềm hy vọng vinh quang. Tôi loan báo Người, cảnh tỉnh mọi người, đem tất cả khôn ngoan mà dạy dỗ mọi người, để làm cho mọi người nên hoàn hảo trong Ðức Giêsu Kitô. Chính vì lẽ đó, tôi khó nhọc chiến đấu nhờ vào năng lực mà Người hành động mạnh mẽ trong tôi. Vì chưng, tôi muốn anh em nhận thấy tôi lo lắng biết bao cho anh em và cho những người ở Laođicêa, và cho những ai chưa hề thấy mặt tôi tận mắt, để lòng họ được an ủi, và khi được giáo huấn trong đức mến, họ được dư đầy sự thông hiểu là được nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa Cha và Ðức Kitô Giêsu, nơi Người tiềm ẩn mọi kho tàng khôn ngoan và thông hiểu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 61, 6-7. 9

Ðáp: Vinh dự và an toàn của tôi ở nơi Thiên Chúa (c. 8a).

Xướng: 1) Duy nơi Thiên Chúa, hỡi linh hồn tôi, hãy an vui, vì do chính Người, tôi được ơn cứu độ. Phải, chính Chúa là Ðá Tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến luỹ của tôi, tôi sẽ không hề nao núng. - Ðáp.

2) Hỡi dân tộc, hãy trông cậy Người luôn mọi lúc; hãy đổ giốc niềm tâm sự trước nhan Người, vì Thiên Chúa là nơi ta nương náu.- Ðáp.

 

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 6-11

"Các ông quan sát xem Người có chữa lành bệnh trong ngày Sabbat không".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở đó có một người tay hữu bị khô bại. Những luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người. Nhưng Người biết tư tưởng các ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây". Người đó đứng thẳng dậy. Ðoạn Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?" Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: "Ngươi hãy giơ tay ra". Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.

Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.

Ðó là lời Chúa.

WORD FOR THE DAY-07SEP15 | Living Waters

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Tối tăm thách thức ánh sáng

 

Lại xẩy ra một trận đụng độ nữa, liên tục, giữa Chúa Giêsu và "những luật sĩ và biệt phái", thành phần hình như luôn theo dõi nhân vật Giêsu Nazarét xuất đầu lộ diện một cách hết lạ kỳ hầu như lập dị rất ư là cấp tiến này, hầu "quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người". 

Vì không phải là một con người bình thường, sợ áp lực đám đông và sợ áp lực quyền thế, Chúa Giêsu tỏ ra làm chủ tình hình, ở chỗ "Người biết tư tưởng các ông", thậm chí Người còn lợi dụng yếu điểm của đối phương để hạ gục họ: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?", nhưng họ vẫn bất chấp cho dù tận mắt chứng kiến thấy phép lạ Người làm "vào một ngày hưu lễ trong hội đường":

"'Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây'. Người đó đứng thẳng dậy. ... Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Người bảo người đó rằng: 'Ngươi hãy giơ tay ra'. Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành".

Họ chẳng những không bị thuyết phục bởi cả lý lẽ không thể chối cãi của Người lẫn bởi phép lạ tỏ tường Người làm kèm theo, trái lại, họ vẫn tiếp tục ngoan cố, đến độ: "Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu". 

Việc Chúa Giêsu, Đấng đến để cứu độ con người cả hồn lẫn xác, cố ý chữa lành cho "một người tay hữu bị khô bại" trong hội đường "vào ngày hưu lễ" như là một việc hoàn toàn trái luật hay phạm luật hoặc phá luật của ngày hưu lễ theo quan niệm của thành phần thông luật và dạy luật trong dân chúng đây, không phải chỉ để chữa lành thể lý cho nạn nhân bị khô bại ở tay hữu, nhưng nhất là để nhờ phép lạ và qua phép lạ chữa lành này, Người khai trí mở lòng cho thành phần vốn sống giả hình, mù quáng, duy luật, chỉ sống theo chữ nghĩa chết chóc của lề luật hơn là tinh thần sống động của lề luật là lòng nhân ái. 

Sự kiện Người hầu như liên tục đụng độ với hai thành phần sư phụ trong dân chúng này nhưng vẫn hết sức nhẫn nại làm cho họ mở mắt ra mà hầu như bất thành chứng tỏ cho thấy: một đàng tâm thức duy luật đã trở thành bản chất tự nhiên của họ, khó lòng, nếu không muốn nói là hầu như bất khả tẩy não, đàng khác, chính nhờ cái tâm thức cứ mù quáng này của họ mà Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian" (Gioan 12:8), "ánh sáng thật" (Gioan 1:9), "ánh sáng chiếu soi trong tăm tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng"(Gioan 1:5), "nơi Người tiềm ẩn mọi kho tàng khôn ngoan và thông hiểu" (Colose 2:3), như Thánh Phaolô đã xác tín và tuyên xưng ở Bài Đọc 1 hôm nay trong Thư gửi giáo đoàn Côlôsê. 


Việc Chúa Kitô chữa lành cho nạn nhân bại tay trong bài Phúc Âm hôm nay, một tật bệnh không trầm trọng bằng bất toại hay mù hoặc câm điếc, mà vẫn được Chúa Kitô quan tâm và sử dụng để chẳng những giúp cho thành phần luật sĩ và biệt phái giữ luật, thông luật và dạy luật biết mục đích chính yếu của lề luật là để mang lại lợi ích cho con người hơn là tác hại con người, mà còn để tỏ mình ra là một Đấng nhân hậu, chữa lành cho một nạn nhân bị tật bệnh không đến nỗi nào. Nghĩa là một khi mặc lấy nhân tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội, về cả phần hồn lẫn phần xác, Người đã gánh lấy hết mọi tật nguyền bệnh nạn của con người, sẵn sàng chịu thay cho họ, để nhờ Người mà họ được chữa lành hết mọi tật bệnh, trở lại nguyên vẹn hình hài như trước nguyên tội, thậm chí còn hơn thế nữa, chẳng những "được sống và được sống viên mãn" (Gioan 10:10).

Là một người biệt phái như thành phần biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, nhưng nhờ ơn Chúa, chàng Saolê ngày xưa đã trở thành một vị tông đồ dân ngoại, một chứng nhân của Chúa Kitô như các vị tông đồ khác, thậm chí còn hơn nhiều vị nữa là đàng khác, vì đời sống của ngài đã phản ảnh trung thực và sống động chính Đấng đã quật ngã ngài, chiếm đoạt ngài, sống trong ngài (xem Galata 2:20) và sai ngài đi. Đến độ, như chính ngài đã bày tỏ với giáo đoàn Côlôsê ở Bài Đọc 1 hôm nay:

"Anh em thân mến, hiện nay tôi vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu vì anh em. Tôi bổ khuyết nơi thân xác tôi những gì còn thiếu sót trong cuộc thương khó của Ðức Kitô, để Hội thánh là thân xác của Người được nhờ. Tôi đã được trở thành người phục vụ Hội thánh, theo sự an bài của Thiên Chúa đã trao phó cho tôi rao giảng đầy đủ lời Chúa, đó là mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở qua muôn thế hệ, nhưng nay đã được tỏ bày cho các thánh của Người. Thiên Chúa muốn tỏ bày cho họ biết thế nào là sự phong phú vinh quang của mầu nhiệm nơi dân ngoại, tức là Ðức Kitô trong anh em, Người là niềm hy vọng vinh quang. Tôi loan báo Người, cảnh tỉnh mọi người, đem tất cả khôn ngoan mà dạy dỗ mọi người, để làm cho mọi người nên hoàn hảo trong Ðức Giêsu Kitô. Chính vì lẽ đó, tôi khó nhọc chiến đấu nhờ vào năng lực mà Người hành động mạnh mẽ trong tôi".

Tuy nhiên, vị tông đồ dân ngoại này luôn nhận biết ân sủng của Thiên Chúa trong ngài, không bao giờ vênh vang về những gì ngài sống và ngài làm như thể tự mình ngài có thể được như thế, một tâm tình của câu họa của bài Đáp Ca hôm nay: "Vinh dự và an toàn của tôi ở nơi Thiên Chúa", bài Đáp Ca được trích từ Thánh Vịnh 61, trong đó chất chứa tất cả những xác tín thần linh của vị tông đồ dân ngoại này:

1) Duy nơi Thiên Chúa, hỡi linh hồn tôi, hãy an vui, vì do chính Người, tôi được ơn cứu độ. Phải, chính Chúa là Ðá Tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến luỹ của tôi, tôi sẽ không hề nao núng.

2) Hỡi dân tộc, hãy trông cậy Người luôn mọi lúc; hãy đổ giốc niềm tâm sự trước nhan Người, vì Thiên Chúa là nơi ta nương náu.

 

 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 2, 6-15

"Chúa đã cho anh em được chung sống với Người, Người đã ân xá mọi tội lỗi của anh em".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Anh em thân mến, như anh em đã nhận lãnh Chúa Giêsu Kitô, anh em hãy sống trong Người, hãy đâm rễ và xây dựng trong Người, và kiên trì trong lòng tin, như anh em đã học biết, hãy đầy lòng cảm tạ trong Người.

Anh em hãy cẩn thận, đừng để ai lấy triết lý và những mánh khoé gian giảo mà lừa dối anh em, theo truyền thống loài người, theo những yếu tố phàm trần, chứ không theo Ðức Kitô; nơi Người chứa đựng tất cả sự viên mãn của bản tính Thiên Chúa, và trong Người, anh em cũng được sung mãn, chính Người là Ðầu mọi thủ lãnh và quyền năng. Trong Người, anh em đã chịu cắt bì, một phép cắt bì không do tay người phàm cất khỏi xác thịt, nhưng là phép cắt bì của Ðức Kitô. Nhờ phép rửa tội, anh em đã được mai táng làm một với Ðức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người, bởi đã tin vào quyền năng Thiên Chúa, Ðấng đã cho Người từ cõi chết sống lại.

Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính xác thịt của anh em, (nhưng) Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người. Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ văn tự bất lợi cho chúng ta, vì (nó) làm cho chúng ta bị kết án; Người đã huỷ bỏ bản văn tự đó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. Người đã tước quyền những kẻ chấp chính và những kẻ cầm quyền. Người đã mạnh bạo điệu chúng ra và toàn thắng chúng trong bản thân Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 1-2. 8-9. 10-11

Ðáp: Chúa hảo tâm với hết mọi loài (c. 9a).

Xướng: 1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. - Ðáp.

2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống. Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 12-19

"Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.

Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lc 6, 12-19

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

... Ở tầm mức lưng chừng núi...



Theo Phúc Âm của Thánh ký Luca từ Thứ Hai đầu Tuần XXII Thường Niên tới nay, thì sau khi đụng độ với dân làng của Người ngay lần Người vừa xuất đầu lộ diện (trong bài Phúc Âm Thứ Hai tuần trước), sau khi kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên (trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước), và sau 4 lần đụng độ với thành phần luật sĩ với biệt phái (theo các bài Phúc Âm Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy tuần trước và Thứ Hai tuần này), h
ôm nay, Thứ Ba Tuần XXIII Thường Niên, bài Phúc Âm Thánh Luca mới thuật lại biến cố Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ, thành phần, như sẽ thấy ở các bài Phúc Âm ngay sau đó trong tuần này, sẽ đặc biệt được Người huấn luyện để các vị xứng đáng trở nên thành phần chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng của Giáo Hội sẽ được Người thiết lập. 

Ch
ính vì tính cách quan trọng của công cuộc tuyển chọn này mà Phúc Âm đã thuật lại rằng: "Đức Giêsu đi lên núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ". 

Ch
ỉ có 12 tông đồ mà Chúa Giêsu Con Thiên Chúa hằng sống đã phải thâu đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa là Cha của Người cũng chính là Đấng sai Người. Chắc bấy giờ Chúa Giêsu chưa có hay chưa đủ 72 môn đệ. Nhưng con số môn đệ theo Người bấy giờ chắc cũng phải trên 12 người, trong đó có cả một số không được Người tuyển chọn bấy giờ, chẳng hạn như 2 chàng Giuse và Matthia là những người đã ở với Người ngay từ đầu như các vị khác, trong đó chàng Matthia là vị sau này được chọn thay cho tông đồ Giuđa Íchca (xem Tông Vụ 1:21-26).

Nh
ư thế, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Thiên Chúa không phải để xem có nên tuyển chọn 12 tông đồ hay chăng, một việc bất khả thiếu theo khuôn mẫu 12 chi tộc Israel trong Cựu Ước như chính Thiên Chúa đã thực hiện, vì Dân Tân Ước được hình thành theo khuôn mẫu của Dân Cựu Ước và Dân Cựu Ước được nên trọn nơi Dân Tân Ước. Danh sách 12 tông đồ được Phúc Âm hôm nay liệt kê như sau: "Đó là ông Simôn mà Người gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông ; sau đó là các ông Giacôbê, Gioan, Philípphê, Batôlômêô, Mátthêu, Tôma, Giacôbê con ông Anphê, Simôn biệt danh là Quá Khích, Giuđa con ông Giacôbê, và Giuđa Ítcariốt, người đã trở thành kẻ phản bội". 

Chúa Giêsu 
cầu nguyện trước hết là để hội ý với Cha của Người về những ai trong số thành phần môn đệ của Người bấy giờ xứng đáng trở thành 12 tông đồ trụ cột cho Giáo Hội Người sẽ thiết lập cho đến tận thế. Có thể lúc ấy Người cũng cầu nguyện để lĩnh ý Cha của Người về đường lối huấn luyện thành phần tông đồ nồng cốt này, về sứ vụ chứng nhân thừa sai của các vị trong tương lai, về vai trò quản trị, giảng dạy và thánh hóa của các vị được thừa kế bởi hàng giáo phẩm sau này. 

Tóm lại, trong đêm nguyện cầu này của mình, Chúa Giêsu có thể đã có một viễn ảnh về riêng 
Giáo Hội Người sẽ thiết lập để làm bí tích cứu độ cho toàn thể nhân loại. 

Thế nhưng, sở dĩ "
Người đã (phải) thức suốt đêm cầu nguyện", cầu nguyện lâu đến như vậy, phải chăng là vì Người cầu nguyện cho từng người môn đệ sẽ trở thành tông đồ của Người, trong đó đặc biệt có 2 người môn đệ cần đến lời cầu nguyện của Người hơn cả là một môn đệ Simon Phêrô sau này sẽ chối Người 3 lần mà Người vẫn tiếp tục tin tưởng đặt làm thủ lãnh tông đồ đoàn, và một Giuđa Íchca sau này sẽ phản nộp Người. Bấy giờ Người cũng có thể nghĩ đến người môn đệ được Người yêu thương cách riêng là Gioan, nhất là đến một đệ nhất môn đệ hoàn hảo của Người là Mẹ Maria, vị sẽ thay Người chăm sóc các tông đồ sau khi Người về Trời vì Mẹ là Mẹ của Giáo Hội. 

Vấn đề được đặt ra ở đây là nếu Chúa Giêsu đã cầu nguyện thâu đêm như thế, với tác động thần linh vô ngộ, thì làm sao Người lại chọn một người môn đệ phản nộp Người một cách sai lầm như vậy được chứ?! Đó là lý do không phải cứ cầu nguyện là mọi việc sẽ được tốt đẹp theo ý của mình đâu mà là ý của Thiên Chúa. Bởi thế nên trong chính Kinh Lạy Cha mới có lời nguyện "ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Vậy cầu nguyện không phải chỉ để biết được ý Chúa để làm theo mà nhất là để nguyện cho ý Chúa được nên trọn nơi chính bản thân mình và trong mọi sự, để biết chấp nhận mọi sự theo Thánh ý Chúa, tức là để phó mình cho Chúa: "Xin cất chén này cho con, những đừng theo ý Con một theo ý Cha" (Luca 22:42).

Ở cuối bài Phúc Âm hôm nay chúng ta còn thấy một hình ảnh đặc biệt khác nữa, liên quan đến chính việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ, đó là "
Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật". 

Phần cuối bài 
Phúc Âm hôm nay quả thực đã cho thấy việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ là để cùng Người phục vụ toàn thể nhân loại, ở chỗ: "Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông". Và hành động "đi xuống" này chỉ xẩy ra sau hành động đi lên: "Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại" với Người bấy giờ đang ở trên núi cầu nguyện vừa xong. Có nghĩa là các vị môn đệ trở thành tông đồ này phải có một đời sống vươn lên với Người và sống như Người, ở chỗ sống trổi vượt trên trần gian, các vị mới có thể làm chứng cho Người như "ánh sáng thế gian", như "một thành xây trên núi không thể nào khuất được nữa" (Mathêu 5:14).

Tuy nhi
ên, địa điểm dừng lại của hành động sau khi đi "lên núi" "Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông" đây, như Phúc Âm cho thấy "ở một chỗ đất bằng", chứ không phải ở một thung lũng hay ở đồng bằng hoặc trong sa mạc. Nghĩa là ở một nơi lưng chừng núi, có thể hiểu là ở sườn núi, một tầm mức không cao không thấp, vừa tầm với dân chúng, nhờ đó họ có thể "đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật". 

Sự kiện Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện thâu đêm, sau đó Người chọn 12 vị trong số các môn đệ trở thành tông đồ, rồi cùng với các vị tông đồ xuống núi để gặp gỡ các môn đệ khác cũng như chung dân chúng từ khắp nơi kéo đến gặp Người và nghe Người ở một khoảng đất bằng, nơi Người bắt đầu Bài Giảng Trên Núi của Người về các phúc đức trọn lành, (như sẽ thấy trong các bài Phúc Âm tới đây), là những gì cho thấy thế giá và uy tín thần linh của Người, chẳng những đối với nội bộ các môn đệ mà còn với cả chung dân chúng nữa. Có thể nói không ai hay hiếm có người nào cảm nghiệm về Chúa Kitô như vị tông đồ dân ngoại Phaolô, ở mức độ như ngài, vị đã truyền dạy cho giáo đoàn Côlôsê ở Bài Đọc 1 hôm nay môt số khái niệm tín lý về Người như sau:

"Người chứa đựng tất cả sự viên mãn của bản tính Thiên Chúa, và trong Người, anh em cũng được sung mãn, chính Người là Ðầu mọi thủ lãnh và quyền năng... Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ văn tự bất lợi cho chúng ta, vì (nó) làm cho chúng ta bị kết án; Người đã huỷ bỏ bản văn tự đó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. Người đã tước quyền những kẻ chấp chính và những kẻ cầm quyền. Người đã mạnh bạo điệu chúng ra và toàn thắng chúng trong bản thân Người".

Chính vì Chúa Kitô như thế mà Thánh Phaolô, trong cùng bức Thư gửi cho họ ở Bài Đọc 1 hôm nay, còn khuyên dạy giáo đoàn Côlôsê này sống tu đức với Người một cách xứng hợp như sau:

"Anh em thân mến, như anh em đã nhận lãnh Chúa Giêsu Kitô, anh em hãy sống trong Người, hãy đâm rễ và xây dựng trong Người, và kiên trì trong lòng tin, như anh em đã học biết, hãy đầy lòng cảm tạ trong Người. Anh em hãy cẩn thận, đừng để ai lấy triết lý và những mánh khoé gian giảo mà lừa dối anh em, theo truyền thống loài người, theo những yếu tố phàm trần, chứ không theo Ðức Kitô... Trong Người, anh em đã chịu cắt bì, một phép cắt bì không do tay người phàm cất khỏi xác thịt, nhưng là phép cắt bì của Ðức Kitô. Nhờ phép rửa tội, anh em đã được mai táng làm một với Ðức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người, bởi đã tin vào quyền năng Thiên Chúa, Ðấng đã cho Người từ cõi chết sống lại. Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính xác thịt của anh em, (nhưng) Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người".

 

Đúng thế, chính vì "anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính xác thịt của anh em, (nhưng) Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người"  họ cần phải vang lên những cảm nghiệm thần linh của mình như Thánh Vịnh 144 ở Bài Đáp Ca hôm nay như sau:

1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời.

2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.

3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.

 

LỄ THÁNH DANH MARIA CỦA ĐỨC MẸ NGÀY 12/9

Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp từ 3 nguồn khác nhau, bao gồm cả một chút chia sẻ của mình

Say the Most Holy Name of “Mary” - The Best Catholic

 

Kính chào Mẹ là Sao Bắc Đẩu,
Đấng mệnh danh Hiền Mẫu Chúa Trời,
Chói loà trinh tiết gương soi,
Cửa vào cõi phúc tuyệt vời thiên cung.

Khi nhận tiếng “Kính Mừng” vinh dự,
Gáp-ri-en thần sứ tặng ban,
Chữ “E-va” Mẹ đảo vần
Thành “A-ve” gửi bình an cho đời.

Xin cởi dây trói người tội lỗi,
Mở mắt ai tăm tối đui mù,
Đuổi xa hoạn nạn rủi ro,
Đổ tuôn hồng phúc tựa hồ mưa sa.

Xin chứng tỏ Mẹ là Từ Mẫu,
Chuyển lời cầu đạt thấu Hoàng Thiên,
Toà cao Thánh Tử uy quyền,
Vua Trời Cứu Thế đã nên người trần.

Ôi Trinh Nữ siêu phàm khôn ví,
Ôi hiền hoà tuyệt thế Nữ Trinh,
Cứu đoàn con khỏi tội tình,
Trở nên thanh khiết hiền lành từ đây !

Xin giúp sống chuỗi ngày trong trắng,
Mẹ dẫn đường là chẳng phải lo,
Mai ngày gặp Chúa Giê-su,
Vui mừng hưởng phúc thiên thu chan hoà.

Lạy Thiên Chúa Ngôi Cha từ ái,
Lạy Ngôi Con quảng đại vô lường,
Thánh Thần trải rộng tình thương,
Ba Ngôi hiển trị thiên đường quang vinh.

 

I. THÁNH DANH MARIA - PHỤNG VỤ

Năm 1683, sau khi chiếm nước Hungary, quân Thổ Nhĩ Kỳ tiến vào nước Áo và dùng hai vạn quân binh để vây hãm kinh đô Vienna của nước này.

Dân thành Vienna hiệp nhau phòng thủ hết sức cẩn thận vì họ biết rằng sa vào tay quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ thì thế nào cũng bị hành hạ rất dã man.

Trong lúc dân thành Vienna sống trong phập phồng lo sợ, thì họ lại hú vía khi biết được rằng một nhà thờ đang bị bốc lửa, và lửa lan rộng rất nhanh, lan đến gần kho vũ khí. Nếu lửa chạm vào kho vũ khí, kho vũ khí sẽ nổ lớn, thành phố sẽ thiệt hại nặng về tài sản và nhân mạng, và quân địch sẽ vào chiếm thành dễ dàng.

Hôm đó là ngày Lễ Đức Mẹ Mông Triệu Thăng Thiên. Toàn dân thành Vienna sốt sắng kêu xin Đức Mẹ cứu họ khỏi thảm cảnh lửa cháy này. Họ van lên lớn tiếng Danh Thánh Mẹ “Lạy Mẹ Maria! Lạy Mẹ Maria!

Lạ thay! Ngọn lửa đang cháy rùng rợn, bỗng dừng lại trước kho vũ khí và tắt. Kho vũ khí không nổ.

Trong khi đó, dân thành Vienna lại nhận được tin vui: viện binh Ba Lan của tướng Sobieski và việnh binh Đức của ông hoàng Carlo di Lorena đang tìm cách đến giải vây thành Vienna. Hai toán quân này gặp nhau trên đường đi cứu viện. Trước khi tiến quân ra trận giải cứu, họ tham dự thánh lễ. Và sau khi tham dự thánh lễ, họ đồng thanh hô to: “Chúng ta hãy lên đường! Đức Mẹ Maria sẽ ở cùng chúng ta!

Một trận chiến nẩy lửa xảy ra. Quân Thổ bại trận, rút lui, để lại rất nhiều vũ khí, trong đó có 200 khẩu đại bác. Một nữa quân lính của họ bị thương và chết.

Đức Giáo Hoàng Inôxenxiô XI tuyên bố lập Thánh lễ dâng kính Thánh Danh Đức Mẹ Maria để kỷ niệm trận thắng lạ lùng này.

(Website của Cộng Đoàn Dũng Lạc)

 

II. THÁNH DANH MARIA - TÊN GỌI

Thánh Danh Maria theo tiếng Do Thái trong Cựu ước là Myriam, tiếng Aram là Maryam, tiếng Hy Lạp dịch Cựu ước là Mariam, tiếng Hy Lạp dịch Tân ước là Maria, tiếng Anh là Mary, tiếng Pháp là Marie, tiếng Latinh là Maria.

Trong Thánh kinh có tám người mang tên như Thánh Danh Đức Mẹ:
1. Chị ông Maisen thường gọi là Miriam (Xh 15:20-21; Ds 12:1-10);
2. Một phụ nữ con gái của Ezra (1 Sb 4:17);
3. Maria Mađalêna, người phụ nữ được trừ khỏi bảy quỉ (Lc 8:2);
4. Maria chị Lagiarô và em của Martha (Lc 10:38-42);
5. Maria mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan (Mc 15:40-47);
6. Maria vợ ông Clopas (Ga 19:25) có lẽ là mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan;
7. Maria mẹ của Thánh Marcô tác giả Phúc âm II (Cv 12:12);
8. Maria là một Kitô hữu ở Rôma mà Thánh Phaolô gửi lời chào (Rm 16:6).

III. THÁNH DANH MARIA - Ý NGHĨA

Thánh Danh Maria có những ý nghĩa:

1. Theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Do Thái có nghĩa là "biển". Do đó, Thánh Bênađô gọi Đức Mẹ là "Sao biển". Giáo hội có Thánh thi "Ave Maris Stella".

2. Cũng theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Aram là "Marta = Bà Chúa". Tiếng Latinh là Domina, tiếng Ý là Madona, tiếng Pháp là Notre Dame, tiếng Anh là Our Lady.

3. Maria tiếng Ai Cập là "mari" nghĩa là được yêu, là "mara" nghĩa là phương phi, hợp với vẻ thẩm mỹ của Á Đông là "lộng lẫy diễm lệ".

4. Maria tiếng Ugarit là "mrym" nghĩa là cao sang, uy nghi, tuyệt vời.

5. Theo nhà Thánh Mẫu học Scheeben, Maria tiếng Do Thái là Miryam biến thành myrrha maris, stilla maris, stella maris.

6. Maria nghĩa hay nhất là "làm sáng tỏ" vì Mẹ là bức gương trong, phản chiếu ánh sáng hằng hữu, là trung gian ánh sáng ơn thánh, là rạng đông và là mỹ nữ lồng bóng mặt trời.

7. Maria có nghĩa Tân Evà đem lại ơn Cứu rỗi, tương phản với Evà đem lại ác hoạ.

L.m. Phêrô Ngô Minh Châu, CRM (phần II + III trên đây)

 

IV. THÁNH DANH MARIA - XUẤT XỨ

Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ cho các thiên thần biết rằng từ đời đời Ngài đã tác tạo cho Mẹ và cho Ngôi Con danh hiệu Maria và Giêsu. Trong hai danh hiệu đó, Ngài được thỏa lòng hoàn toàn. Rồi Ngài phán: "Danh hiệu Maria phải được hiển vinh lạ thường. Những ai thành thực sốt sắng kêu cầu danh hiệu ấy sẽ được ban nhiều ân sủng. Những ai kính cẩn đọc lên sẽ được ủi an. Mọi người đều tìm được trong danh hiệu ấy phương dược trị liệu bệnh tật mình; được ánh sáng soi đường; được kho tàng cứu giúp sự túng nghèo. Danh hiệu Maria làm run sợ hoả ngục và đạp nát đầu cựu xà Satan".

Chính Chúa đặt danh hiệu ấy cho Mẹ. Mẹ đón nhận với những lời ca ngợi lạ lùng. Lúc Thiên Chúa đọc danh hiệu ấy lên, các thiên thần đều phủ phục, bái chào, hát lên thánh ca tán tụng, nhất là những vị mang biểu hiệu danh hiệu ấy càng nhiệt liệt tán tụng hơn.

Càng thực tâm nhiệt thành tôn kính danh hiệu rất dịu ngọt của Mẹ, con càng đi trên đường của Mẹ. Con nên biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Danh Hiệu ấy không biết bao nhiêu là ân sủng và đặc ân. Mẹ không thể nghĩ đến hay nghe đọc đến Danh Hiệu ấy mà lại không dâng lời cảm tạ Chúa. Cho nên Mẹ quyết định làm những việc cả thể cho Chúa là Đấng đã ban cho Mẹ Danh Hiệu quí báu ấy.

(Trích từ Thần Đô Huyền Nhiệm, bản dịch của Phạm Duy Lễ)

 

V. THÁNH DANH MARIA - CĂN TÍNH

Xét cho cùng thì Thánh Danh Maria của Đức Mẹ là chính căn tính của Mẹ. Bởi thế, trong lời chào của Tổng sứ thần Gabiên mở đầu cho biến cố Truyền Tin, chỉ là "Kính mừng đầy ơn phúc" (Luca 1:28), chứ không phải "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", như trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn đọc. Nếu bình thường, khi chào ai thì chào tên người ấy, thì khi Tổng sứ thần Gabiên chào "kính mừng đầy ơn phúc" ngài thật sự đã ám chỉ "Maria", "một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a" (Luca 1:27). Như thế, quả thực "đầy ơn phúc" là chính Thánh Danh của Mẹ, một con người lịch sử mang tên gọi là "Maria, "mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô" (Mathêu 1:16).

Tên gọi bao giờ cũng chất chứa, nói lên hay phản ảnh chính căn tính của một hữu thể. Nếu tên của Thiên Chúa, được Ngài trả lời cho Moisen từ cuộc thần hiển bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi là "I am who am - Ta là Đấng hiện hữu (hay) Ta là Đấng có" (Xuất Hành 3:14), nghĩa là, Thiên Chúa là Đấng tự hữu, hằng hữu, toàn hữu, theo bản tính thần linh của Ngài, không ai dựng nên Ngài, trái lại, Ngài đã chẳng những tạo dựng nên tất cả mọi tạo vật hữu hình và vô hình trên trời dưới đất, mà còn quan phòng tất cả mọi sự một cách vô cùng khôn ngoan và toàn năng trong giòng lịch sử của chung tạo vật, nhất là của riêng loài người.

Thế nên, trong Lịch sử Cứu độ của dân Do Thái, Ngài mới liên lỉ hiện hữu, thủy chung, "bởi Ngài không thể nào chối bỏ chính mình Ngài" (2Timôthêu 2:13), không bao giờ thay đổi, không bao giờ bỏ họ dù họ có bỏ Ngài, đến độ, Ngài luôn ra tay cứu độ họ rất nhiều lần, trước hết và trên hết, nơi biến cố vượt qua từ Ai Cập, nơi họ mang thân phận nô lệ bất xứng, mà đem họ vào mảnh đất hứa chảy sữa sự sống và mật tự do của thành phần dân riêng của Ngài. Nên Ngài đã tự động xác nhận thêm về danh xưng của Ngài với Moisen cho rõ ràng hơn nữa: "Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: 'Ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en thế này: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia'." (Xuất Hành 3:15).

Như thế, nếu danh xưng của Thiên Chúa trong lịch sử nghĩa là "thủy chung" đối với dân của Ngài, tức Ngài "là Alpha và là Omega, là nguyên thủy và là cùng tận" (Khải Huyền 21:6), "Đấng hiện có, đã có và đang đến, Đấng toàn năng" (Khải Huyền 1:8), mà "thủy chung" gắn liền với "tình yêu mạnh như sự chết" (Diễm Tình Ca 8:6), một "thủy chung" là chính bản chất của tình yêu, là căn tính của Vị "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16), dám "chết cho người mình yêu" (xem Gioan 15:13), thì "đầy ơn phúc", ám chỉ Maria, là phản ảnh trung thực và sống động tình yêu thủy chung muôn thuở bất diệt này của Thiên Chúa, hay đúng hơn, là phản ảnh trung thực và sống động chính Vị "Thiên Chúa là tình yêu". Do đó nên đệ nhất tạo vật về ân sủng "đầy ơn phúc" Maria mới được Diễm Tình Ca trong Cựu Ước tỏ ra bàng hoàng ngỡ ngàng khi thấy "Kìa bà nào đang tiến lên ... rực rỡ như mặt trời" (6:10).

Có nghĩa là Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương trên hết mọi thụ tạo của Ngài: "Thiên Chúa ở cùng trinh nữ" (Luca 1:28), không phải chỉ bắt đầu vào chính lúc vị Tổng sứ thần chào Mẹ, mà ngay từ khi Mẹ được hoài thai trong lòng thai mẫu, với ơn vô nhiễm nguyên tội Chúa ban cho Mẹ, và chính bản thân Mẹ đã nhận biết đặc ân ấy của mình, nên Mẹ đã "được ơn nghĩa với Chúa (hay) đẹp lòng Chúa" (Luca 1:30).

Về phần mình, Mẹ đã luôn sống xứng đáng với tình yêu thương vô cùng ấy của Thiên Chúa, nghĩa là, Mẹ đã để cho Thiên Chúa yêu thương Mẹ cho đến cùng, đã để Ngài được tự do tỏ tất cả mình ra cho Mẹ và qua Mẹ, trong cả mầu nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua của Con Ngài, tùy theo cách thức của Ngài, tùy Ngài định đoạt tất cả mọi sự về Mẹ và nơi Mẹ, ở chỗ, Mẹ chỉ biết hoàn toàn và tuyệt đối phó thác tất cả bản thân của Mẹ và cuộc đời của Mẹ cho Ngài: "Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin hãy thực hiện nơi tôi những gì ngài truyền" (Luca 1:38). Bởi đó, Mẹ mới "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45), và mới được "hết mọi đời chúc khen diễm phúc" (Luca 1:48): "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", như "một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao" (Khải Huyền 12:1).

Có thể nói, đối với satan và bọn ngụy thần hỏa ngục đang tấn công Giáo Hội hơn bao giờ hết đây, còn kinh sợ Thánh Danh Maria của Đức Mẹ hơn cả Thánh Danh Giêsu nữa. Không phải vì Thánh Danh Maria hơn Thánh Danh Giêsu, hay Mẹ Maria cao hơn Chúa Giêsu, mà chỉ vì Thánh Danh Maria chỉ là một thụ tạo thuần túy đã trở thành Mẹ Thiên Chúa, mà chúng vô cùng kiêu hãnh bị thua bại thì mới nhục nhã hơn là chúng thua Chúa Kitô dầu sao cũng là Vị Thiên Chúa Làm Người. Và chúng đã thực sự bị thua ngay từ giây phút hoài thai của nhân vật lịch sử "đầy ơn phúc" Maria này, và cũng nhân vật "đầy ơn phúc" Maria ấy đã đạp nát cái đầu rắn quỉ kiêu căng ngạo mạn quỉ quyệt gian dối của luxiphe nơi satan cùng bọn ngụy thần, ở dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô Con Mẹ, để rồi cuối cùng, nhân vật "đầy ơn phúc" Maria này sẽ tiếp tục đạp nát đầu hắn cho tới tận thế, nơi từng thành phần con cái hèn nọn như gót chân của Mẹ bị hắn rình cắn..., như Mẹ đã tiên báo ở Fatima ngày 13/7/1917 ở cuối Bí Mật Fatima phần thứ 2: "Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng!" .

(Đaminh Maria cao tấn tĩnh, lễ Thánh Danh Mẹ 12/9/2020)

Thiên Chúa đã cho Thánh Mẫu của Đức Ki-tô trổi vượt hơn muôn loài trên trời dưới đất ; chúng ta hãy thiết tha cầu nguyện :

Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con một người mẹ và một gương mẫu là Đức Ma-ri-a,

-  vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin làm cho chúng con được nên thánh.

Chúa đã làm cho Đức Ma-ri-a biết để tâm nghe lời Chúa, và phụng sự Chúa như một nữ tỳ trung tín,

– vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin làm cho chúng con trở thành môn đệ chân chính của Đức Ki-tô.

Chúa đã nhờ quyền năng Thánh Thần mà làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai Con Một Chúa,

– vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin rộng ban cho chúng con những ân huệ Thánh Thần.

Chúa đã ban cho Đức Mẹ đầy sức mạnh mà đứng gần thập giá, và được vui mừng khi Con Chúa sống lại,

– vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin ra tay nâng đỡ chúng con trong lúc ngặt nghèo, và cho chúng con vững lòng trông cậy.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 3, 1-11

"Anh em đã chết với Ðức Kitô. Vậy anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang.

Vậy anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em, tức là những điều trần tục: là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là sự thờ phượng thần tượng. Vì những tội ấy mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên những người con phản nghịch. Xưa kia anh em cũng đã sống trong những tội ấy, khi anh em sống trong những thói hư nết xấu đó. Nhưng bây giờ, anh em hãy loại bỏ tất cả những điều đó, là sự giận dữ, phẫn nộ, độc ác, phạm thượng, và lời tục tĩu bởi miệng anh em. Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Ðấng đã tạo thành nó: ở đấy không còn Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, người man rợ hay người Scytha, nô lệ hay tự do nữa; nhưng Ðức Kitô là mọi sự và ở trong mọi sự.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 10-11. 12-13ab

Ðáp: Chúa hảo tâm với hết mọi loài (c. 9).

Xướng: 1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.

3) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.

 

Alleluia: Ep 1, 17-18

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 20-26

"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói:

"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.

"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".

Ðó là lời Chúa. 

 

Related image

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Phúc khốn khó - họa may lành



T
ừ hôm nay, Thứ Tư Tuần XXIII Thường Niên, cho đến hết Thứ Bảy tuần này, Giáo Hội chọn đọc đoạn 6 của Phúc Âm Thánh ký Luca, đoạn về Bài Giảng Sống Thương Xót của Chúa Giêsu, nhưng chỉ có gần 1 đoạn 6 ngắn gọn hơn của Thánh ký Mathêu (dài tới 3 đoạn, từ đầu đoạn 5 đến hết đoạn 7). 

Tuy nhi
ên, nội dung của cả hai Phúc Âm cũng giống nhau, ở chỗ: 1- Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Người hơn là dạy chung dân chúng, và ở chỗ: 2- Chúa Giêsu muốn cho thành phần môn đệ của Người, nhất là các tông đồ, phải "nên trọn lành như Cha của các con ở trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), tức là phải biết "cảm thương như Cha của các con là Đấng thương xót" (Luca 6:36). 

Th
ật vậy, bài giảng trọn lành (theo Thánh Mathêu) cũng là bài giảng thương xót (theo Thánh Luca), được Chúa Giêsu giảng dạy cho riêng các môn đệ của Người hơn là cho chung dân chúng. Bởi thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay mở đầu, Thánh ký Luca đã viết một chi tiết rất quan trọng như sau: "Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói". 

Ng
ười đã nói những gì? Trong bài Phúc Âm theo Thánh ký Luca hôm nay, trước hết, Chúa Giêsu đã nói về bốn điều lành được Người khẳng định là "phúc", cho dù trái với lý lẽ tự nhiên, và bốn cái dữ mà Người xác quyết là "khốn", bất chấp bản chất tốt lợi của chúng, trong khi đó ở Phúc Âm Thánh ký Mathêu (đầu đoạn 5) chỉ có 8 Mối Phúc Thật, hoàn toàn không có 4 sự dữ tiêu cực như trong Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay.

Trước hết là bốn điều lành được Người khẳng định là "
phúc":

"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà 
 các ngươi bị người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng, và loại trừ như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế".

Sau n
ữa là bốn cái dữ mà Người xác quyết là "khốn":

"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".

Chúng ta thấy cái tương phản hoàn toàn với nhau một cách nẩy lửa giữa 4 điều lành và 4 cái dữ trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, thứ tự như sau: 

1- "Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có";

2- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê";

3- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười";

4- "Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người các ngươi b người ta thù ghéttrục xuất và phỉ bángvà loại trừ như kẻ bất lương" >< "Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng".

Thật ra, 4 cái Người gọi là "khốn" này, tự bản chất của chúng, không có gì là xấu, nhưng nếu con người vốn thiên về tự nhiên và hưởng thụ chúng có thể trở thành "dịp tội" nơi họ và cho họ, khiến họ, nhất là thành phần theo Chúa, thành phần sống trọn lành hơn, thành phần chứng nhân của Người, bị hòa đồng với thế gian và biến mất trong thế gian, đến độ có thể trở thành phản chứng Kitô giáo, thành những tiên tri giả hay kitô giả, như vẫn thấy xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội, đặc biệt là trong thời đại mà nhiều người cho là tận thế đến nơi rồi đây. 

Một điển hình có thể áp dụng một cách cụ thể vào cái "khốn" cho những ai "no nê" đó là những ai thích thưởng thức loại bữa ăn "all you can eat / ăn tha hồ mặc sức". Thật vậy, để có thể "ăn thả dàn, ăn mặc sức" những gì mình thích, nhiều món mình thích mà giá cũng không mắc lắm hay cũng đáng, người ta, trước hết phải nhịn ăn trước đó để có sức mà thưởng thức tối đa. Cái đói trước bữa ăn này đã là một cái "khốn" đầu tiên. Thế rồi, cái đói trong bữa ăn kiểu này nữa, đó là một khi ăn món này nhiều thì các món còn lại cũng ngon không thể ăn nhiều được nữa, tiếc tiền, đó là cái "khốn" thứ hai. Cái "khốn" thứ ba đó là sau khi ăn xong cái bụng sao mà nó nặng nề khó chịu quá sức. Chưa hết, cái "khốn" cuối cùng và là cái "khốn" nguy hiểm nhất đó là bị cao mỡ, vì đã ăn quá nhiều tôm hùm hay cua là những hải sản mắc tiền hiếm quí.

Trái lại, cũng thế, 4 điều được Chúa Giêsu gọi là "phúc" đây, tự bản chất của chúng, quả thực là dữ, là xấu, là bất lợi, khiến con người bản tính vốn vướng mắc nguyên tội cảm thấy bất hạnh, nên họ bao giờ cũng hoàn toàn muốn tránh né hay được giải thoát. Thế nhưng, với thành phần sống đức tin và vượt thoát, sống gần với Đấng đã đến để phục vụ hơn hưởng thụ (xem Mathêu 20:28), sống chứng nhân cho Đấng đã sống thân phận mục nát của hạt lúa miến trong lòng đất (xem Gioan 12:24), thì những cái bất hạnh ấy lại trở thành phương tiện siêu thoát của họ và cứu độ trần gian.

Theo chiều hướng của Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành ở Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, một thứ giáo huấn phải nói là ngược ngạo, hoàn toàn phản lại với lý lẽ, lập luận và khát vọng của trần gian, của bản tính tự nhiên nơi con người thích đường rộng (xem Mathêu 7:13) và thích tăm tối hơn ánh sáng (xem Gioan 3:19), thứ giáo huấn Chúa Giêsu truyền dạy liên quan đến phúc khốn khó và họa may lành, chúng ta mới hiểu được tại sao Thánh Phaolô đã khuyên dạy giáo đoàn Côlôsê trong Bài Đọc 1 hôm nay rất ư là chí lý về nguyên do tại sao họ phải sống trọn lành về tu đức như sau:

 

"Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang. Vậy anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em, tức là những điều trần tục: là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là sự thờ phượng thần tượng. Vì những tội ấy mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên những người con phản nghịch. Xưa kia anh em cũng đã sống trong những tội ấy, khi anh em sống trong những thói hư nết xấu đó. Nhưng bây giờ, anh em hãy loại bỏ tất cả những điều đó, là sự giận dữ, phẫn nộ, độc ác, phạm thượng, và lời tục tĩu bởi miệng anh em. Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Ðấng đã tạo thành nó: ở đấy không còn Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, người man rợ hay người Scytha, nô lệ hay tự do nữa; nhưng Ðức Kitô là mọi sự và ở trong mọi sự".

 

Trước những giáo huấn trọn lành này, một giáo huấn không phải để hủy diệt con người mà là hoàn hảo hóa con người, giúp con người sống trong bản tính đã hư hoại bởi nguyên tội được thần linh hóa và tác hành như là con cái của Thiên Chúa, những ai tin tưởng chấp nhận và áp dụng thực hành sẽ không thể nào không vang lên những lời của Thánh Vịnh 144 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:

 

1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được.

2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.

3) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ.

 

 

Ngày 13 tháng 9

Thánh Gio-an Kim Khẩu, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Thánh nhân sinh quãng năm 349 tại An-ti-ô-khi-a. Người học cao hiểu rộng, cuộc sống khắc khổ. Sau khi làm linh mục, người nhận nhiệm vụ giảng thuyết, thu hoạch được kết quả khả quan. Năm 397, người được chọn làm giám mục Công-tăng-ti-nốp. Người là mục tử tận tuỵ, lo chấn chỉnh phong hoá cho giáo sĩ và giáo dân. Vì can đảm làm chứng cho Tin Mừng và bênh vực người nghèo trước cảnh xa hoa vô tâm của người giàu, người đã bị hoàng gia ghen ghét và hai lần bị đi đày, rồi chết ở Cô-ma-na, Pon-tô nơi lưu đày, ngày 14 tháng 9 năm 407. Người đã giảng dạy nhiều và viết nhiều tác phẩm để giải thích giáo lý Công Giáo và huấn luyện đời sống Ki-tô hữu. Vì thế người được mệnh danh là “Kim Khẩu”.

Thánh Gioan Kim Khẩu, Giám mục, tiến sĩ Hội Thánh, Ngày 13 tháng 09 - Giáo  phận Long Xuyên

 

Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi

(Phụng vụ giờ kinh sách)

Trích bài giảng của thánh Gio-an Kim Khẩu, giám mục.

Dù sóng nước mênh mông hay dông tố phũ phàng, chúng ta cũng không sợ bị chìm đắm vì chúng ta đứng vững trên đá tảng. Biển có thét gào cũng không thể làm đá tiêu tan ; sóng có trào lên cũng không thể nhận chìm thuyền của Đức Ki-tô. Vậy, chúng ta sợ gì ? Sợ chết ư ? Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi. Hay là sợ phải lưu đày, bạn hãy nói đi. Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài. Hay sợ tài sản bị sung vào công quỹ ? Chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Tôi coi khinh những hình khổ của thế gian này và cho lợi lộc của nó là chuyện nực cười. Tôi không sợ nghèo, chẳng ham giàu có, không ngại chết, cũng chẳng muốn sống, trừ khi là để làm ích cho anh em. Vì thế, tôi nhắc lại những gì đang xảy ra và xin anh em lấy lòng yêu mến mà tin tưởng vào Chúa.

Chẳng lẽ bạn không nghe Chúa nói thế này sao : Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy giữa họ ? Vậy, giữa một dân đông đảo được liên kết bằng dây bác ái, Người lại không có mặt sao ? Tôi nắm được bảo chứng của Người, tôi có dựa vào sức riêng đâu ! Lời của Người, tôi đang nắm giữ. Đó là chiếc gậy bảo đảm cho tôi được an toàn, là cảng yên hàn cho thuyền tôi cập bến. Dù cả trái đất có đảo lộn, tôi vẫn nắm giữ sắc chỉ của Chúa, vẫn đọc tâm thư của Người. Đó là tường thành che chở, là chiến luỹ bảo vệ tôi. Tâm thư nào thế ? Thưa lời này : Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

Đức Ki-tô ở với tôi, tôi còn sợ gì ai ? Dù ba đào, dù biển cả, dù quan quyền hung dữ có nổi lên chống lại tôi, tất cả những thứ đó, tôi coi tựa lông hồng. Nếu không phải vì yêu mến mà anh em giữ tôi lại, thì tôi đã không ngần ngại đi nơi khác ngay hôm nay rồi. Quả thật, tôi vẫn thưa với Thiên Chúa : Lạy Cha, xin cho ý Cha được thể hiện. Con sẽ làm không phải điều người này người kia muốn nhưng là điều Cha muốn. Thánh ý Chúa là đồn luỹ bảo vệ tôi, là đá tảng kiên cố cho tôi nương tựa, là cây gậy giúp tôi vững bước. Nếu Thiên Chúa muốn thế nào, thì xin xảy ra như vậy. Nếu Người muốn tôi ở lại đây, tôi xin tạ ơn Người. Người muốn tôi đi đâu, tôi vẫn dâng lời cảm tạ.

Tôi ở đâu, anh em cũng ở đó ; anh em ở đâu, tôi cũng ở đó : Chúng ta là một thân thể ; thân không lìa đầu, đầu không lìa thân. Chúng ta xa cách nhau về nơi chốn, nhưng liên kết với nhau nhờ đức ái, đến nỗi cái chết cũng không thể phân ly. Quả vậy, dù thân xác tôi có chết, thì linh hồn tôi vẫn sống để nhớ đến đoàn dân.

Đối với tôi, anh em là đồng bào, là cha mẹ, là anh em, là con cái, là chi thể, là thân mình, là ánh sáng, mà còn êm dịu hơn cả ánh sáng ban ngày nữa. Ánh sáng ban ngày đối với tôi, đâu có quý bằng đức ái của anh em. Ánh sáng có ích cho tôi trên đời này, còn đức ái của anh em kết triều thiên cho tôi ở đời sau.

Lạy Chúa là nguồn sức mạnh cho những kẻ cậy trông, Chúa đã ban cho Giáo Hội một khuôn mặt sáng chói là thánh giám mục Gio-an Kim Khẩu, nhờ tài hùng biện lạ lùng và lòng can đảm hiên ngang trước mọi cơn thử thách. Xin Chúa cũng ban cho chúng con được thấm nhuần lời thánh nhân giảng dạy và có sức chịu đựng như người. Chúng con cầu xin

 

ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Gioan Kim Khẩu ở 2 cái links dưới đây:

Thứ Tư 19/9/2007, Bài Giáo Lý 50 -  Thánh Giáo Phụ Gioan Kim Khẩu

 

Thứ Tư 26/9/2007 – Bài Giáo Lý 51 - Thánh giáo phụ John Chrysostom (tiếp)

 

 

 

Ngày 14 tháng 9

Lễ Suy Tôn Thánh Giá

Lễ Kính

 

Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9

"Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".

Trích sách Dân số.

Trong những ngày ấy, dân chúng đi đường và mệt nhọc, nên nản chí, họ kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này". Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ chạy đến cùng Môsê và thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn".

Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 77, 1-2. 34-35. 36-37. 38

Ðáp: Chúng ta đừng quên lãng những kỳ công của Chúa (c. 7c).

Xướng: 1) Hỡi dân tôi, hãy nghe lời huấn dụ, hãy lắng tai nhận lấy những lời miệng tôi. Tôi sẽ xuất khẩu nói ra lời ngạn ngữ, sẽ trình bày những điều bí nhiệm của thời xưa. - Ðáp.

2) Khi Người sát phạt họ, bấy giờ họ kiếm tìm Người, và họ trở lại kiếm tìm Thiên Chúa. Họ nhớ lại rằng Thiên Chúa là Ðá Tảng của họ, và Thiên Chúa Tối Cao là Ðấng cứu chuộc họ. - Ðáp.

3) Nhưng rồi miệng họ đã phỉnh phờ, và lưỡi họ ăn nói sai ngoa với Người. Ðối với Người, lòng họ không ngay thẳng; họ cũng không trung thành giữ lời minh ước của Người. - Ðáp.

4) Phần Người từ bi, tha lỗi và không huỷ diệt họ; nhiều khi Người đã tự kiềm chế căm hờn, và không để cho thịnh nộ hoàn toàn tuôn đổ. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11

"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.

Anh em thân mến, Chúa Giêsu Kitô, tuy là [thân phận] Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa Kitô, chúng con thờ lạy Chúa; chúng con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dùng cây Thập giá mà cứu chuộc thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 3, 13-17

"Con Người phải bị treo lên".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: "Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.

"Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ".

Ðó là lời Chúa.

mountain pray church symbol cross jesus christ chr Women's Vintage Sport  T-Shirt | Spreadshirt


PHỤNG VỤ GIỜ KINH LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ

Thay vì bài suy niệm, chúng ta hãy cùng với Giáo Hội chiêm ngưỡng và suy tôn Thánh Giá ở những giờ Kinh Phụng Vụ  sau đây:

 

 

Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành sau lễ Cung Hiến Thánh Đường Phục Sinh, được xây ở Giê-ru-sa-lem trên mồ thánh (năm 335).

Từ cõi chết phục sinh, Chúa Ki-tô đã chiến thắng sự chết. Thánh giá của Người tiêu biểu cho cuộc chiến thắng này.

Truyền thống còn thấy ở đây dấu chỉ của Con Người, Đấng sẽ xuất hiện trên trời để loan báo ngày Người trở lại.

 

Sầu chất nặng, thêm giấm chua mật đắng,
Đinh sắt, lưỡi đòng, gai nhọn đâm thâu,
Thân nát tan, và máu nước tuôn trào
Cho vũ trụ càn khôn được thanh tẩy !

Ta tin thật : muôn rừng xanh chẳng thấy
Một cây nào : cành, hoa, quả như ngươi !
Mấy mũi đinh nhẹ quá, thập tự ơi,
Sao mang nổi tấm hình hài vô giá ?

Rủ cành xuống, hỡi cây cao bóng cả,
Giãn thớ ra cho thân cứng hoá mềm
Như chiếc giường vừa trải nệm ấm êm
Chờ Vua Cả đến đặt mình nằm xuống.

Ôi thập tự, chỉ ngươi là xứng đáng
Giá chuộc đời, đem cất giữ trong tim !
Biển trần gian, tàu cờ hiệu Máu Chiên,
Ngươi rước kẻ đắm chìm cho cặp bến.

Cung trầm bổng dệt bài ca cầu nguyện,
Xin khấu đầu thượng tiến Chúa Ba Ngôi
Đã đổ hồng ân cứu chuộc loài người
Muôn muôn thuở, xin dâng lời vinh chúc !

 

 

Thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô,
thánh giá nâng Người lên cao

(Phụng vụ giờ Kinh sách)

Trích bài giảng của thánh An-rê, giám mục Cơ-rê-ta.

Hôm nay chúng ta mừng lễ thánh giá ; thánh giá đã xua tan bóng tối và đem lại ánh sáng. Chúng ta mừng lễ thánh giá, và cùng với Đấng bị đóng đinh, chúng ta được đưa lên cao. Vì thế, chúng ta hãy từ bỏ trần gian và tội lỗi để được những của trên trời. Có được thánh giá là điều lớn lao biết mấy ! Ai có thánh giá là có một kho tàng. Tôi vừa dùng chữ kho tàng để chỉ điều người ta gọi, -và sự thật là như thế-, đó là của tốt nhất và đẹp nhất trong mọi của cải, vì trong đó, nhờ đó và vì đó mà tất cả điều cốt yếu của ơn cứu độ chúng ta được tạo lập và phục hồi.

Quả vậy, nếu không có thánh giá, thì Chúa Ki-tô cũng đã không bị đóng đinh, sự sống cũng đã không bị đóng đinh vào cây gỗ và nguồn mạch trường sinh, máu cùng nước thanh tẩy thế giới cũng không vọt ra từ bên sườn Người, văn khế tội nợ cũng đã không bị xé, chúng ta cũng đã không được đón nhận tự do, cũng không được hưởng nhờ cây ban sự sống, thiên đàng cũng đã không mở ra. Nếu không có thánh giá thì sự chết đã không bị quật ngã, hoả ngục cũng đã không bị tước đoạt vũ khí.

Vậy thánh giá vừa cao cả, vừa quý báu. Cao cả, vì thánh giá đã sinh ra nhiều ơn ích, bởi lẽ Chúa Ki-tô càng làm nhiều phép lạ và chịu đau khổ bao nhiêu thì Người lại càng chiến thắng lẫy lừng hơn bấy nhiêu. Quý báu, vì thánh giá vừa là sự đau khổ, vừa là chiến tích của Thiên Chúa. Là sự đau khổ, bởi vì Người đã tự nguyện chết trên đó ; là chiến tích, bởi vì ma quỷ đã bị trọng thương và bị đánh bại ở đó, thần chết cũng đã bị thua cùng với nó ; then sắt hoả ngục bị đập tan và thánh giá trở thành nguồn ơn cứu độ cho toàn thế giới.

Thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô, thánh giá nâng Người lên cao. Thánh giá là chén đắng Người khát khao, là bảng thâu tóm mọi cực hình Người đã chịu vì chúng ta. Thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô, điều ấy, anh em hãy nghe chính Người nói : Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình. Vậy lạy Cha, giờ đây xin Cha tôn vinh Con bên Cha. Xin ban cho Con vinh quang mà Con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống : Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa. Điều ấy ám chỉ vinh quang Người sẽ được trên thánh giá.

Thánh giá nâng Chúa Ki-tô lên cao, anh em biết đó, điều ấy là do chính Người nói ra : Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ lôi kéo mọi người lên với tôi. Bạn thấy đó : thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô, thánh giá nâng Người lên cao.

 

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá để cứu chuộc loài người. Xin cho chúng con mai sau được hưởng nhờ quả phúc cây thập giá, mà ngày nay chúng con vẫn một lòng yêu mến suy tôn. Chúng con cầu xin....

Ca Vịnh (Giờ Kinh Sáng: 3 câu mở và kết ở từng Ca Vịnh)

 

1- Đấng cam chịu khổ hình thập giá đã đập tan âm phủ, và đến ngày thứ ba đã sống lại đầy vinh hiển quyền năng.2- Ôi thập giá huy hoàng diễm phúc, thân xác Đấng nằm nghỉ trên ngươi, và máu đào Người đổ ra chan chứa sẽ chữa lành mọi thương tích phàm nhân.

3- Ôi thập giá cao sang rực rỡ, mang ơn cứu độ đến trần gian, ôi thập giá toàn thắng và hiển trị, thập giá xua đuổi mọi tội tình.

Thánh Ca Tin Mừng (Giờ Kinh Sáng: câu mở và kết)

Chúng con tôn thờ thánh giá Chúa, hát mừng Ngài sống lại hiển vinh; ấy chính vì bởi cây thập giá, niềm hân hoan tràn ngập địa cầu.

Lời cầu 

Đức Ki-tô đã chết trên thập giá để chúng ta khỏi chết muôn đời. Vậy ta hãy tin tưởng cầu xin :

Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Con Thiên Chúa, xưa trong sa mạc, Chúa đã cứu dân Do-thái bằng dấu hiệu con rắn đồng, - nay xin dùng thập giá mà cứu chúng con khỏi vết thương tội lỗi.

Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.

Chúa là Vị Cứu Tinh Chúa Cha ban tặng cho loài người, để ai tin vào Chúa thì không phải hư mất, - xin cho những người đang tìm kiếm Chúa được hưởng cuộc sống muôn đời.

Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.

Chúa đã được Chúa Cha sai đến, không phải để lên án, nhưng là để cứu độ trần gian, - xin ban ơn đức tin cho thân bằng quyến thuộc chúng con, để họ được an vui hạnh phúc.

Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.

Chúa đã đến thắp lửa tin yêu trên toàn trái đất, và muốn cho lửa ấy bừng lên mãnh liệt, - xin cho chúng con biết sống theo sự thật và tìm đến cùng ánh sáng của Chúa.

Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.

 

Cờ Vua Cả tung bay phất phới,
Thánh giá Người chói lọi oai phong,
Ai ngờ chính Đấng Hoá Công
Thân treo thập giá lạ lùng xiết bao.

Người chịu đóng đinh vào khổ giá,
Mũi giáo đâm thấu cả cạnh sườn,
Máu đào cùng nước chảy tuôn,
Rửa ta sạch hết ngàn muôn tội tình.

Cây tô điểm đôi cành rực rỡ,
Thấm máu Vua thắm đỏ cẩm bào,
Lựa từ gốc rễ thanh cao,
Xứng cho Thánh Thể tựa vào thân ngươi !

Phúc thay giá chuộc đời treo sẵn,
Trên cành ngươi trĩu nặng giờ đây,
Thân hình Chúa Tể quyền oai
Cứu người dương thế khỏi tay tử thần.

Ôi Tế Phẩm, Tế Đàn cao sáng
Đã chung phần khổ nạn quang vinh,
Chúa Trời hằng sống dâng mình,
Chết đi để phúc trường sinh cho đời.

Lạy thánh giá, người người hy vọng,
Trong ngày này, mở rộng thiên ân :
Tôi trung phúc đức tăng phần,
Khoan hồng tha thứ tội nhân quy hồi.

Xin tán tụng Ba Ngôi một Chúa
Chính là nguồn cứu độ trào dâng,
Nhờ ơn thập giá đỡ nâng,
Đoàn con khải thắng hát mừng thiên thu.

Lời cầu (Giờ Kinh Chiều)

 

 

Ta hãy nhìn lên Đức Ki-tô, Đấng chịu đóng đinh vào thập giá, và ta hãy tha thiết khẩn cầu Người :

Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.

Lạy Chúa Ki-tô, Chúa đã khước từ tất cả, mặc lấy thân phận nô lệ thấp hèn, và trở nên giống một kẻ phàm nhân, - xin cho mọi người trong Hội Thánh biết noi gương khiêm nhường của Chúa.

Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.

Chúa đã tự hạ, sống phục tùng, đến nỗi bằng lòng chết, và chết trên thập giá, - xin cho các tín hữu cũng biết sống kiên nhẫn và tùng phục lẫn nhau.

Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.

Chúa đã được siêu tôn, và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu, - xin cho các tín hữu Chúa được bền đỗ đến cùng.

Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.

Chúa đã được mọi nước mọi dân tuyên xưng là Đức Chúa, đồng vinh hiển với Chúa Cha, - xin cho những kẻ đã một lòng tin theo Chúa được vào hưởng vinh quang Nước Trời.

Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.

 

Suy Tôn Thánh Giá: Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa 

Trần Văn Trí

Hằng năm, Giáo Hội Công Giáo dành ngày 14 tháng 9 làm Lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ kính...

Thánh Giá là ảnh tượng được tôn kính, sùng mộ, rất thân thuộc trong đời sống đạo đức của người Kitô hữu. Nhưng, dần dần vì quá quen người tín hữu có thể giảm bớt hoặc mất đi sự quan tâm. Ngay cả dấu Thánh Giá, nhiều lúc, vì ảnh hưởng của thói quen, chỉ được giáo hữu “làm dấu” qua loa lấy lệ, không còn nhớ đến ý nghĩa cao quý về hồng ân châu báu Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế để lại dưới thế trần.

 Để góp phần cùng quý giáo hữu dọn lòng sốt sắng, tăng thêm tinh thần đạo đức tôn vinh Thánh Giá một cách có ý thức trọn vẹn, chúng tôi xin giới thiệu một ít học hỏi về Thánh Giá; về nghi lễ biểu dương Thánh Giá; về lễ Suy Tôn Thánh Giá; về dấu Thánh Giá và mầu nhiệm Thập Giá.

Thánh Giá

Thập giá hay cái “giá” hình chữ “thập” mang xác Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết để chuộc tội cho nhân loại, nên được gọi là Thánh Giá. Ngay từ thời Giáo Hội tiên khởi vào thế kỷ thứ nhất, vì biết lòng mến mộ Thánh Giá gia tăng lòng đạo đức, ảnh hưởng đến việc mở mang Kitô Giáo, các vua chúa quan quyền, từ các hoàng đế Roma đến quan chức tại Trung Đông, đã tìm đủ mọi cách quyết xóa bỏ niềm tin vào Thánh Giá. Thập giá được dùng để thử thách, cưỡng bách người có đạo bước qua hoặc chà đạp trước khi lãnh án “tử vì đạo”.

Thâm độc nhất là hơn hai thế kỷ đầu theo niên lịch công nguyên, Kitô Giáo bị đàn áp và bách hại kịch liệt. Vua Adriano ( 76 – 138 ), khi lên ngôi hoàng đế Roma ( 117 – 138 ) đã ra lệnh triệt hạ hay phá hủy các di tích về Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, như nơi Chúa Chịu Khổ Nạn, Chịu Chết và Mai Táng. Rồi khoảng năm 135, ông còn cho xây nhiều đền thờ bụt thần trên Mộ Thánh của Đức Kitô và tìm mọi cách chôn giấu Thánh Giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh, không cho giáo hữu tôn kính. Dù vậy, trong khi đó tại Giêrusalem, Giáo Hội lại đi tiên phong trong các lễ nghi và nghi thức Phụng Vụ liên quan đến Đấng Cứu Thế cũng như tôn vinh Thánh Giá.

Mãi đến thế kỷ thứ tư, thời vua Constantino ( khoảng năm 270, 280 đến 337 ), làm hoàng đế Roma ( 306 – 337 ), đạo Chúa mới được tự do. Sau khi nhờ phép lạ Thập Giá để được đại thắng quân xâm lăng của Maxentio, vua ban hành lệnh tự do tôn giáo, dẹp bỏ đàn áp bắt bớ Kitô Giáo. Ông trở lại đạo và bà Helena, mẹ vua, cũng trở lại đạo Công Giáo. Vì lòng kính mến Chúa Giêsu Cứu Thế và nhiệt thành sùng mộ Thánh Giá, năm 326, dù đã 80 tuổi, bà cũng thân hành qua Thánh Địa, cộng tác chặt chẽ với Đức Cha Macario, Giám Mục thành Giêrusalem, để cho tiến hành tìm các nơi Thánh, di tích sau hết của cuộc đời Chúa Cứu Thế.

Nhờ các nguồn thông tin có cơ sở, bà cho xúc tiến đào bới về khảo cổ tại chân núi Calvario và đã lần lượt tìm được các di tích về Khổ Nạn, Chịu Chết và Mai Táng Chúa Giêsu trong Mộ. Thành công lớn lao nhất là tìm được ba cây Thập Giá: một của Đức Kitô và hai của hai tên trộm. Theo nghiên cứu về Thánh địa, Linh Mục Jaud cho biết: Nhờ phép lạ cứu sống một bệnh nhân đang hấp hối và một người đã chết được sống lại, khi mỗi người chạm đến gỗ Thánh, Đức Giám Mục Macario xác định thập giá thực trên đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh và gọi tên là Thánh Giá.

Nghi lễ biểu dương Thánh Giá

Sự tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Giáo Hội Giêrusalem là nghi lễ biểu dương Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh mà dần dần lan rộng trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Sau đó, Đức Giáo Hoàng Gregorio ( 590 – 604 ) đưa vào Phụng Vụ Roma như nghi lễ Thứ sáu Tuần Thánh ngày nay. Chính yếu là việc biểu dương “Gỗ thập giá”, với lời kêu mời long trọng: Ecce lignum Crucis. Xướng: Đây là gỗ Thánh Giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian. Đáp: Chúng ta hãy đến thờ lạy. ( Ecce lignum crucis in quo salus mundi pependit. Venite adoremus. )

Vì thế, khi tham dự nghi lễ Thờ lạy Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta hãy nhớ đến ý chỉ chính của phụng vụ là tôn vinh “Gỗ thập giá” ( chứ không phải Thánh Giá có hình Chúa Giêsu. )

Lễ Suy Tôn Thánh Giá

Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Kitô Giáo. Cụ thể, khi đề cập đến Giáo Hội từ thời sơ khởi, vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như Giáo Phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người Kitô hữu đều làm dấu Thánh Giá.” Thậm chí người Kitô hữu có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Nhưng, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá.

Đầu tiên, khi tìm được di tích Thánh Giá vào năm 326, bà Helena cho xây cất hai đền thờ, một tại núi Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh thành và cung hiến hai đền thờ này được tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào hai ngày 13 và 14 tháng 9 để mừng Đền Thờ Calvario và Mộ Thánh. Năm 335, ngày 14 tháng 9 cũng mừng kính ngày tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được phân ra nhiều phần rất nhỏ, chia cho các Giáo Hội tại mỗi nơi. Thành Constantinopoli được phần Gỗ Thánh lớn hơn và phần còn lại được lưu niệm tại Giêrusalem. Từ đó, ở Giêrusalem lễ tìm được Thánh Giá mừng kính trọng thể vào ngày 14 tháng 9.

Tiếp đến, Lễ Suy Tôn Thánh Giá được thiết lập tại Giêrusalem vào 14.9.629 như chứng tích sau:

Thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi lên, vua Ba Tư Khosroès 1 ( 531 – 579 ), đem quân đến Cận Đông và đánh thắng quân của đế quốc Roma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May thay, lúc ấy có ông Heraclius ( 575 – 641 ), vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành Carthage, đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopoli ngày 3.10.610, và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius 1 ( 610 – 641 ). Ông đã anh dũng điều khiển trận đánh và chiến thắng đầu tiên ngày 12.12.627. Ông rượt đuổi vua Khosroès 1 đến Ctésiphon, và tại đây, con trai của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và giao nộp Thánh Giá thực lại cho vua Heraclius 1.

Năm 629, Thánh Giá được kiệu về Constantino, rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem. Vua Heraclius muốn vác Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc vương phục và đội mũ hoàng đế. Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy quá nặng. Tức thì, Đức Zacharias, Giáo Chủ Giêrusalem, liền nói với vua: “Xin hoàng đế thận trọng vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không hợp để vác Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Chúa Giêsu Kitô.”

Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo Chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và Heraclius 1 vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với gỗ Thập giá Thánh, Thiên Chúa còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết được sống lại; bốn người bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi được trở nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám được giải thoát...” ( Viết theo nghiên cứu của Abbé L. Jaud, Vie des Saints, 1950 )

Từ đó, tại Giêrusalem, Đức Giám Mục đã cử hành trọng thể lễ Suy Tôn Thánh Giá ngày 14 tháng 9 năm 629, mà sau này trở thành Lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 ngày nay.

Dấu Thánh Giá

Suy tôn Thánh Giá có ý nghĩa nhất là suy gẫm và làm Dấu Thánh Giá cách sốt sắng.
Sự tích Dấu Thánh Giá như sau: Điềm đã xảy đến đem lại chiến thắng cho hoàng đế Roma Constantino là “một dấu chỉ lạ về Thập Giá”. Khi phải tuyên chiến với quân của Maxentio xâm lược nước Ý, vua Constantino 1 ( 306 – 337 ) đã nhìn thấy xuất hiện trên trời điềm lạ “một thập giá sáng ngời” với lời phán: “Dưới dấu chỉ này, người sẽ chiến thắng – In hoc signo vinces”. Vua ra lệnh giương cao “dấu Thánh Giá – signum Crucis” làm cờ hiệu và đã chiến thắng quân Maxentio tại chân tường Roma, gần cầu Milvian, vào ngày 28.10.312. Vua nhìn nhận đó là “dấu chỉ Thiên Chúa ban ơn”, nên đã ra lệnh dep bỏ mọi hình thức bắt đạo và truyền loan “Kitô Giáo là tôn giáo chính thức của hoàng triều Roma.”

Làm dấu Thánh Giá

Theo Phụng Vụ, Thánh Giá được tôn vinh trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Thông thường, khi làm Dấu Thánh Giá trên mình, người Kitô hữu đọc kinh: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” Nhưng vẫn có nhiều trường hợp làm Dấu Thánh Giá mà không đọc Kinh Dấu Thánh Giá, như trong Thánh Lễ với câu: “Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa”, và sau Kinh cáo mình: “Xin Thiên Chúa toàn năng...” Hoặc, trước khi đọc Phúc Âm, vị Chủ Tế hoặc Phó Tế làm Dấu Thánh Giá nhỏ trên khởi đầu Tin Mừng, rồi làm Dấu Thánh Giá nhỏ trên trán, trên môi miệng và trên ngực.

Hoặc, trong Phụng Vụ Giờ Kinh khi đọc “Lạy Chúa, xin hãy phù trợ chúng tôi – Deus in adjutorium nostrum intende”, hay khởi đầu các bài “Magnificat”, “Benedictus”, hay “Nunc Dimitis”, hoặc làm một Dấu Thánh Giá nhỏ trên môi khi đọc: “Lạy Chúa xin mở môi con ra – Domine labia mea aperies”.

Trong Giáo Hội Chính Thống Giáo, việc làm Dấu Thánh Giá được thực hiện nghiêm chỉnh bằng “bàn tay phải với ba ngón tay “ngón trỏ, ngón chỉ và ngón giữa” tụm lại, tiêu biểu niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa; còn hai ngón đeo nhẫn và ngón út thì sát vào nhau, để chỉ sự kết hợp của “thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu”.

Mầu nhiệm Thánh Giá

Giáo huấn của Hội Thánh rất phong phú về Suy Tôn Thánh Giá. Theo hướng dẫn của Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, suy tôn Thánh Giá chính là:

1. Minh chứng Đức Tin qua gương Mẹ Maria. “Khi chứng kiến Chúa Giêsu bị treo trên Thập Giá, Đức Tin của Mẹ không bao giờ dao động vì Mẹ tin rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa của Ngài cứu chuộc nhân loại.” ( Giáo Lý 149 ).

2. Cổ võ sự thống hối và tôn thờ Thiên Chúa, như được ghi trong Sách Công Vụ Tông Đồ: “Khi nói cùng toàn thể nhà Ítraen, Phêrô quả quyết: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên Thập giá thì Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài là Chúa và là Đức Kitô.” ( Cv 2, 36; Giáo Lý 440 ).

3. Kêu gọi yêu thương, hiệp nhất, như lời Thánh Phaolô Tông Đồ: “Chúa Kitô bị treo trên Thập Giá thu hút mọi người đến với Ngài” ( Ga 12, 32; Giáo Lý 160 ), “lôi cuốn hết thảy cùng hiệp nhất với nhau.” ( Giáo Lý 542 ).

4. Tuyên rao Nước Chúa trị đến, như lời ca tôn vinh gỗ Thập Giá “Vexilla Regis” Thứ Sáu Tuần Thánh ghi lại: “Chính nhờ cây Thánh Giá của Chúa Kitô mà Nước Thiên Chúa được thiết lập cách dứt khoát... Thiên Chúa đã cai trị từ trên cây gỗ này” ( Giáo Lý 550 ).

5. Thánh Giá là bằng chứng Chúa Giêsu tiếp tục bênh vực cho chúng ta trên Nước Trời. Thánh Phaolô Tông Đồ nói: “Sự nâng lên trên cây Thập Giá ngụ ý và báo trước việc Chúa lên Trời. Ngài là Đấng ra trước Thiên Chúa để bênh vực chúng ta” ( Dt 9, 24; Giáo Lý 662 ).

Công Đồng Vaticano 2 ( 1962 – 1965 ) khai triển Suy Tôn Thánh Giá hướng đến:
Mầu nhiệm Phục Sinh. “Sau khi chịu chết trên Thập giá, Đức Kitô đã phục sinh” ( GH ). “Nhờ Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, thế gian đã được giải thoát” ( MV, 2 ).
Thánh Lễ: Mỗi lần hy tế Thập Giá được cử hành trên bàn thờ, Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế” ( 1Cr 5, 7 ) thì công trình cứu chuộc được thực hiện” ( GH, 3 ).

Ơn cứu độ. “Nhờ Người đã hoàn tất công trình cứu chuộc trên Thập Giá, mang lại cho con người ơn cứu độ và tự do” ( TD, 11 ).

Hòa giải. “Đức Kitô đã hòa giải con người với Chúa Cha bằng Thập Giá” ( MV, 78 ).

Vác Thánh Giá theo chân Chúa Giêsu. “Tưởng niệm Thập Giá và sự Phục Sinh của Đức Kitô, người tín hữu vác Thập Giá bước theo Chúa Giêsu” ( TĐ, 4; GH, 41 ).

Ghi chú các chữ tắt: GH = Hiến chế Tín lý về Giáo Hội; MV = Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay; TD = Tuyên ngôn về Tự Do tôn giáo.

(nguồn: webiste tinmung)

 

 

"Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!" - Dưới chân Thánh Giá trên đỉnh đồi ở Linh Địa La Salette Pháp quốc - Nhóm TĐCTT Hành Hương Thánnh mẫu Thời Điểm Maria ngày 19/5/2017

 

Thứ Năm

(Nếu ngày Thứ Năm này không bị át đi bởi lễ Kính Suy Tôn Thánh Giá như năm 2023)

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 3, 12-17

"Anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau, nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện.

Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em.

Với tất cả sự khôn ngoan, anh em hãy học hỏi và nhủ bảo lẫn nhau. Hãy dùng những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân, để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em. Và tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 150, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen Thiên Chúa (c. 6).

Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa trong thánh đài của Chúa, ngợi khen Chúa nơi thanh không cao cả của Người. Hãy ngợi khen Người vì những kỳ công vĩ đại, ngợi khen Người bởi sự Người tuyệt đối oai nghiêm. - Ðáp.

2) Hãy ngợi khen Chúa với tiếng kèn rầm rộ, ngợi khen Người với cây đàn sắt, đàn cầm, hãy ngợi khen Người với trống rung và ca vũ, ngợi khen Người với tơ đàn, với ống tiêu. - Ðáp.

3) Hãy ngợi khen Người với âm vang não bạt, ngợi khen Người với tiếng rền rĩ mã-la. Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen Thiên Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Cr 5, 19

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian với Người, và đã đặt lời giải hoà trên môi miệng chúng tôi. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 27-38

"Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại.

Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng.

Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác.

Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Bài Thánh Ca Thương Xót

 

 

 

Tiếp tục đề tài sống trọn lành hay sống cảm thương với các môn đệ, nhất là với thành phần 12 vị vừa được tuyển chọn làm tông đồ của mình, Chúa Giêsu đã đi thẳng và đi ngay vào những gì chính yếu nhất và thiết yếu nhất Người muốn nói với các vị và muốn các vị sống như vậy.

Thật thế, ngay sau khi mở màn như một dạo khúc cho bài huấn dụ trọn lành cũng là bài huấn dụ về lòng cảm thương này, một dạo khúc bao gồm 4 "phúc" hạnh và 4 "khốn" nạn tương phản nhau, một dạo khúc đã được Chúa Giêsu tài tình hòa âm cho hai bè hát xung khắc nhau, nhưng một khi trình diễn với tất cả hồn sống của mình thì chính ca sĩ mới cảm thấy thấm thía hơn bao giờ hết, nhất là khi hát đến các phiên khúc chính yếu và các kết thúc của bản thánh ca thương xót huyền diệu siêu vời này.

Bản Thánh Ca Thương Xót này, mà điệp khúc là phần hòa âm hai bè "phúc/khốnđầy tính chất giằng co nhức nhối, có tất cả 2 phiên khúc và 2 đoạn kết thứ tự được liệt kê như sau:

Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ nhất:

"Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ hai:

"Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tạm kết:

"Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tận kết:

"Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy ban tặng, thì các con sẽ tặng lại; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".

Tất cả nội dung và ý nghĩa của bản Thánh Ca Thương Xót này, tức là tột đỉnh của bản Thánh Cha Trọn Lành này đều được cô đọng ở chung đoạn tổng kết và ở riêng câu đầu của đoạn tổng kết ấy, đó là: "các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ". Mà "nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ" ở chỗ nào, nếu không phải, cũng trong đoạn tổng kết, ở 4 thái độ thứ tự là: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng".

Trong 4 thái độ để phản ảnh lòng nhân từ của Cha trên trời xót thương nhân loại vừa được tóm kết trên đây, có 2 thái độ mang tính cách tránh những gì là tiêu cực: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", và 2 thái độ có tính cách thực hiện những gì là tích cực: 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng". 

1- "Ðừng xét đoán" và 2- ừng kết án": bởi vì, "Thiên Chúa không sai Con Ngài đến thế gian để luận án thế gian nhưng là để thế gian nhờ Người mà được cứu độ" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "đừng xét đoán" và "đừng kết án".  

3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng": bởi vì, "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Người thì không phải chết ("tha th") nhưng được sự sống đời đời ("ban tặng")" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "hãy tha thứ" và "hãy ban tặng", ở chỗ vừa "tha thứ" vừa "ban tặng" đúng như phiên khúc 1 đã khuyên dạy: "(Tha Thứ) - Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. (Ban Tặng) - Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".

Theo chiều hướng trọn lành Chúa Giêsu dạy ở Bài Giảng Trên Núi của Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, Thánh Phaolô tiếp tục khuyên dạy giáo đoàn Côlôsê về đời sống bác ái yêu thương trọn lành của một người Kitô hữu, của thành phần môn đệ của Chúa Kitô, của con cái Đấng là Cha xót thương ở trên trời, như sau:

 

"Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau, nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện".

 

Một Kitô hữu sống đức ái trọn hảo như thế mới hoan hưởng bình an và hiệp nhất, với Chúa và với nhau, như Thánh Phaolô tiếp tục cho biết trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em". Chỉ vì họ đã biết sống vì Chúa: "tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha".

 

Đời sống đức ái trọn hảo của Kitô hữu là một đời sống liên lỉ hân hoan tươi trẻ trong Chúa, như thể cuộc đời của họ trở thành "những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân, để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em", như chủ trương của Thánh Phaolô, một đời sống theo chiều hướng của Thánh Vịnh 150 ở bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Hãy ngợi khen Chúa trong thánh đài của Chúa, ngợi khen Chúa nơi thanh không cao cả của Người. Hãy ngợi khen Người vì những kỳ công vĩ đại, ngợi khen Người bởi sự Người tuyệt đối oai nghiêm.

2) Hãy ngợi khen Chúa với tiếng kèn rầm rộ, ngợi khen Người với cây đàn sắt, đàn cầm, hãy ngợi khen Người với trống rung và ca vũ, ngợi khen Người với tơ đàn, với ống tiêu.

3) Hãy ngợi khen Người với âm vang não bạt, ngợi khen Người với tiếng rền rĩ mã-la. Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen Thiên Chúa.

 


Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 1, 1-2. 12-14

"Trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót".

Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timôthêu.

Phaolô, Tông đồ của Ðức Giêsu Kitô theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, gửi lời thăm Timôthêu, người con yêu dấu trong đức tin. Nguyện xin ân sủng, lòng từ bi và bình an của Thiên Chúa Cha, và của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng con! Cha cảm tạ Ðấng đã ban sức mạnh cho cha, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin. Nhưng ân sủng của Chúa chúng ta đã tràn lan dồi dào, cùng với đức tin và đức mến, trong Ðức Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 11

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (c. 5a).

Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa; con thưa cùng Chúa: "Ngài là Chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con". - Ðáp.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.

3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 39-42

"Người mù có thể dẫn người mù được chăng?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.

"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh", trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

3 Can the Blind Lead the Blind? - Luke 6:39-42 &quot;Remain in ignorance  following the blind&quot; - YouTube

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

Cái đấu đong thương xót

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXIII Thường Niên, Thánh ký Luca tiếp tục thuật lại Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Người về lòng "cảm thương như Cha thương xót", mô phạm tối cao của chung nhân loại, của riêng thành phần con cái của Cha trên trời và nhất là của thành phần môn đệ Chúa Kitô, thành phần tông đồ làm chứng cho Chúa Kitô.

Ý tưởng chính trong bài Phúc Âm hôm nay đó là câu Chúa Giêsu nói ở ngay đầu: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư?" Ngay sau câu này, Chúa Giêsu còn thêm một câu nữa, đó là: "Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi", như thế có nghĩa là gì, câu trước và câu sau có liên hệ gì với nhau chăng? 

Tất nhiên một khi Chúa Giêsu đã nói là phải có ý nghĩa của nó, phải có lý của nó. Phải chăng ở đây Người có ý nói rằng người mù không thể nào dẫn người mù được, chắc chắn cả hai sẽ lọt xuống hố mà thôi? 

Bởi vậy, con người cần phải học hỏi bởi những người khôn ngoan hơn, cần được họ dẫn dắt như là những bậc sư phụ của mình, đặc biệt là Chúa Giêsu, một Đại Sư đệ nhất thiên hạ, là chính "chân lý" (Gioan 14:6), thì mới có thể tránh được lầm lỗi, thất bại, và nếu con người là môn sinh tỏ ra biết dễ dạy lắng nghe tuân thủ những gì được các bậc sư phụ khôn ngoan hướng dẫn thì con người mới có thể đạt tới chỗ khôn ngoan "hoàn hảonhư bậc thày của mình.

Một trong những trường hợp hay khuynh hướng chứng thực con người vốn sống mù quáng, đó là con người không "tri kỷ tri bỉ", không biết mình biết người, như Chúa Giêsu đã nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay:

"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".

Thật thế, theo tâm lý tự nhiên, thường ai cũng cho mình là hay là tốt, hiếm người hay ít người tự nhận mình là kém tài kém đức thua nhiều người khác. Thậm chí miệng nói tôi tài hèn sức mọn, ấy thế mà không được trọng dụng thì bất mãn, hay thấy ai nổi hơn mình thì chọc phá tìm cách hạ bệ. Hoặc bị phê bình hay chê trách là choảng lại liền, hay đổ lỗi cho người khác hoặc cho hoàn cảnh, vì lý do kỹ thuật v.v. 

Với tâm tính đầy tự cao tự đại và nặng tự ái như thế, con người tự nhiên chẳng những tìm cách bênh vực mình bao nhiêu có thể trong mọi sự, không muốn bị ai dò xét, không muốn bị người nào bình phẩm hay đụng chạm tới, ngược lại, họ cứ thích pha mình vào cuộc đời của người khác, ở chỗ xét đoán người khác, thường là xét đoán xấu hơn là xét đoán tốt, thậm chí còn tự suy diễn và kết tội người khác, chẳng những trong lòng của họ mà còn công khai trước cộng đồng của họ nữa. 

Nếu người ta đeo kính râm thì nhìn mọi sự mờ mờ hơn là sáng tỏ thế nào, thì bản chất con người vốn hướng hạ và hướng xấu, nhất là dễ tin những điều xấu hơn điều tốt, họ sẽ thấy anh chị em của mình một cách thiển cận, không rõ ràng, thậm chí còn có khuynh hướng suy bụng ta ra bụng người nữa - mình xấu thì không ai được tốt hơn. Đó là lý do nguyên tắc và đường lối sáng suốt khôn ngoan mà Vị Đại Sư dạy trong bài Phúc Âm hôm nay cần phải được áp dụng: "hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".

Chính vì con người rất khó bỏ tật xét đoán tha nhân một cách thiển cận và ngặt nghèo mà, theo tu đức, vì lòng nhân từ của mình, muốn cho một tâm hồn nào đó biết mình, nhờ đó họ không dám khinh người nào nữa, Cha trên trời hay sử dụng chiêu "các con lấy đấu nào mà đong cho ai thì sẽ bị đong lại cho đấu ấy" (Mathêu 7:2). Cái đấu ấy cũng có thể là chính lòng thương xót: "Ai có lòng xót thương ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thương xót vậy" (Mathêu 5:7).

Cha trên trời hay sử dụng chiêu "các con lấy đấu nào mà đong cho ai thì sẽ bị đong lại cho đấu ấy" (Mathêu 7:2) bằng cách để cho người xét đoán xấu cho anh chị em mình bị người khác xét đoán xấu y như vậy hay hơn vậy nữa. Nếu nạn nhân bị người khác đong trả cho đấu mà họ đong cho người khác, bấy giờ, tâm hồn thiện chí thấy được Thiên Chúa thật tốt lành, đã sử dụng chính những xét đoán xấu của người khác để làm cho họ mở mắt ra không dám xét đoán xấu cho ai nữa, trái lại, hoàn toàn thông cảm với mọi người hơn trước, không dám khinh thường một ai. 

Đúng thế, nếu "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư?", như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, thì Người không thể nào tuyển chọn một người mù để dẫn dắt những ai Người muốn cứu độ, và dù Người có chọn họ chăng nữa, Người cũng phải làm cho họ sáng mắt đã, như trường hợp điển hình nhất là chàng Saolê, khi bị Người quật ngã, đứng lên mà chẳng thấy gì dù mắt vẫn mở, cho tới khi chàng được vị sứ giả của Người đặt tay làm cho mắt chàng sáng ra, chẳng những con mắt về thể lý mà nhất là con mắt thiêng liêng của chàng, để nhờ đó ngài được thánh hóa và sai đi "làm ánh sáng muôn dân - lumen gentium - để ngươi mang ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 13:47). Chính Thánh nhân đã tâm sự cùng môn đệ Timôthêu của ngài trong Thư 1 ở Bài Đọc 1 hôm nay như sau:

 "Cha cảm tạ Ðấng đã ban sức mạnh cho cha, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin. Nhưng ân sủng của Chúa chúng ta đã tràn lan dồi dào, cùng với đức tin và đức mến, trong Ðức Giêsu Kitô".

Với cảm nhận thần linh như vậy, về bản thân mình và về lòng thương xót Chúa, vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô có thể cùng với Thánh Vịnh 15 xướng lên rằng:

 

1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa; con thưa cùng Chúa: "Ngài là Chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con".

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.

3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời!

 

 

Ngày 15 tháng 9

Lễ Ðức Mẹ Sầu Bi

Lễ Nhớ

 

Đức Ma-ri-a đã hiệp thông sâu xa với cuộc Thương Khó của Chúa Con. Vì thế, Mẹ cũng được liên kết một cách độc nhất vô nhị với cuộc Phục Sinh của Người. Chính vì thế, sau ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, chúng ta mừng lễ Đức Ma-ri-a cùng chia sẻ cuộc Thương Khó của Đức Giê-su. Lễ này nhắc cho chúng ta nhớ rằng : dưới chân thánh giá, tình mẫu tử của Đức Ma-ri-a đã trải rộng ra khắp Thân Thể nhiệm mầu của Chúa Ki-tô, tức là Hội Thánh.

 

MAY, THE MONTH OF MARY (MAY 21) – MARY, OUR SORROWFUL MOTHER |  www.immaculate.one

 

Đức Mẹ đứng gần bên thánh giá

(Giờ Kinh Sách 15/9)

Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.

Cuộc tử đạo của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, chúng ta biết được là nhờ lời tiên báo của ông già Si-mê-ôn, cũng như chính bài tường thuật cuộc Thương Khó của Chúa. Về Hài Nhi Giê-su, ông già nói rằng : Cháu sẽ là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn bà -ông nói với Đức Ma-ri-a- bà sẽ bị nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thâu.

Vậy lạy Mẹ diễm phúc, một lưỡi gươm đã đâm thâu lòng Mẹ. Lưỡi gươm ấy không thể đâm vào thân con của Mẹ mà một trật không đâm thâu lòng Mẹ. Thật đúng, Chúa Giê-su, Con của Mẹ tuy là của tất cả mọi người, nhưng đặc biệt là riêng của Mẹ ; sau khi trút hơi thở cuối cùng, Người đã không bị lưỡi gươm tàn bạo đâm thấu lòng. Lưỡi gươm đó không tha cho một người đã chết mà nó không còn làm hại được nữa, nó đã mở sườn Người ra ; nhưng chính lúc đó, nó lại đâm thâu lòng Mẹ. Linh hồn của Người, chắc chắn không còn đó nữa, nhưng tâm hồn của Mẹ không tránh đâu được. Lòng Mẹ đã bị đau khổ đâm thâu, vì vậy, chúng con thật có lý mà tuyên bố rằng Mẹ còn hơn cả vị tử đạo, bởi vì nỗi đau do việc Mẹ cùng chịu khổ chắc chắn đã vượt quá sự đau khổ trong thân xác. Câu : Thưa Bà, đây là con Bà, đối với Mẹ, chẳng còn hơn một lưỡi gươm và đã chẳng đâm thâu lòng Mẹ cùng đạt tới chỗ phân cách tâm với linh sao ? Ôi cuộc trao đổi kỳ lạ ! Thánh Gio-an đã được trao cho Mẹ để thế chỗ Chúa Giê-su. Người tôi tớ thế chỗ chủ, người môn đệ thế chỗ thầy, con ông Dê-bê-đê thế chỗ Con Thiên Chúa, một người phàm thay vì Thiên Chúa thật. Làm sao nghe lời này, lòng Mẹ đầy âu yếm không bị đâm thâu, trong lúc chúng con, dù lòng chai dạ đá mà chỉ nhớ tới lời đó thôi, cũng cảm thấy lòng mình tan nát ?

Thưa anh em, anh em đừng ngạc nhiên khi Đức Ma-ri-a được gọi là vị tử đạo trong tâm hồn. Có ngạc nhiên chăng là kẻ quên lời thánh Phao-lô nói rằng một trong những tội tày trời của dân ngoại là vô tâm bạc tình. Một tội như thế thật xa lạ đối với lòng dạ Đức Ma-ri-a. Ước gì tội đó cũng xa lạ đối với lòng dạ các tôi tớ mọn hèn của Mẹ.

Biết đâu có kẻ chẳng nói : Nào Mẹ lại không biết trước Chúa Giê-su phải chết sao ? - Dĩ nhiên là biết. Nào Mẹ chẳng hy vọng Người sẽ sống lại ngay sao ? - Dĩ nhiên, với tất cả lòng tin. Và dù vậy, Người cũng đau khổ khi thấy Con mình bị đóng đinh, phải thế không ? - Phải, và đau khổ ghê gớm. Này người anh em, bạn là ai ? Khôn ngoan của bạn ở đâu mà bạn lại ngạc nhiên vì Đức Ma-ri-a cùng chịu thương khó hơn là vì Đức Giê-su, Con của Người chịu thương khó ? Về phần xác, Con của Mẹ đã chết, còn Mẹ, Mẹ đã chẳng chết trong tâm hồn với Con sao ? Chính tình thương đã khiến Chúa Ki-tô chịu thương khó, và không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Người. Và kể từ đây, không có tình thương nào sánh nổi với tình thương đã khiến Đức Ma-ri-a cùng chịu thương khó với Con của Người.

 

Mẹ Maria liên kết với Chúa Giêsu trên Thập Giá

ĐTC Gioan Phaolô II - Loạt 70 Bài Giáo Lý Thánh Mẫu: Bài 3 – 25/10/1995

 

Image result for luke 2:35

 

1.         Khi nói rằng “Trinh Nữ Maria… được nhận biết và tôn kính như là Người Mẹ thực sự của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Chuộc” (Lumen Gentium, 53), Công Đồng tỏ ra chú ý tới mối liên kết giữa vai trò làm mẹ của Mẹ Maria và việc Cứu Chuộc.

 

Sau khi nhận thức được vai trò làm từ mẫu của Mẹ Maria, vị được tôn kính nơi giáo huấn và việc tôn thờ của các thế kỷ đầu như là Người Mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu Kitô, và vì thế như là Người Mẹ của Thiên Chúa, vào Thời Trung Cổ, lòng đạo đức của Giáo Hội và việc suy tư thần học nêu lên vấn đề Mẹ cộng tác vào công việc của Chúa Cứu Thế.

 

Việc trì hoãn này được thấy nơi sự kiện là các nỗ lực của những vị Giáo Phụ Hội Thánh cũng như của các Công Đồng Chung ban đầu, đã tập trung vào căn tính của Chúa Kitô là những gì cần gạt qua một bên những khía cạnh khác của tín điều. Sự thật được mạc khải chỉ được tỏ lộ dần dần tất cả mọi phong phú của nó. Qua các thế kỷ, khoa Thánh Mẫu Học bao giờ cũng bắt nguồn từ khoa Kitô Học. Vai trò làm mẹ thần linh của Mẹ Maria tự  được Công Đồng Chung Êphêsô đã cống bố chính yếu là để khẳng định duy nhất tính nơi ngôi vị của Chúa Kitô. Cũng thế, đã có một kiến thức sâu xa hơn về sự hiện diện của Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ.

 

2.         Vào cuối thế kỷ thứ hai, Thánh Irenaeus, người môn đệ của Thánh Polycarp, đã cho thấy việc góp phần của Mẹ Maria vào công cuộc cứu độ. Ngài đã hiểu được giá trị của việc Mẹ Maria ưng thuận trong lúc Truyền Tin, khi nhìn nhận một kết quả phúc lợi trên định mệnh của nhân loại  nơi đức tuân phục và niềm tin tưởng của vị Trinh Nữ Nazarét này đối với sứ điệp của thiên thần là những gì hoàn toàn tương phản với cái bất tuân và hoài nghi của Evà. Thật vậy, như Evà đã gây ra sự chết thế nào thì Mẹ Maria, bằng tiếng “xin vâng” của mình, đã trở nên “một căn nguyên cứu độ” cho chính bản thân Mẹ cũng như cho toàn thể nhân loại (cf. Adv. Haer., III, 22, 4; SC 211, 441). Thế nhưng, điều khẳng định này đã không được các vị Giáo Phụ khác trong Hội Thánh khai triển một cách nhất trí và hệ thống.

 

Mẹ Maria trở nên Người Mẹ thiêng liêng của toàn thể nhân loại

 

Thay vào đó, tín lý này đã được trình bày một cách hệ thống hóa lần đầu tiên vào cuối thế kỷ thứ 10 trong cuốn Đời Sống của Mẹ Maria của một đan sĩ Byzantine là John the Geo meter. Ở tập sách này Mẹ maria liên kết với Chúa Kitô trong toàn thể công cuộc Cứu Chuộc, thông phần vào, theo dự án của Thiên Chúa, Thập Giá và khỗ đau vì phần rỗi của chúng ta. Mẹ vẫn hiệp nhất với Con Mẹ “ở hết mọi việc làm, thái độ và ước muốn” (cf. Life of Mary, Bol. 196, f. 122 v.). Việc liên kết của Mẹ Maria với công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu phát xuất từ tình yêu Mẫu Thân của Mẹ, một tình yêu được tác động bởi ân sủng, thứ ân sủng cban cho nó một quyền năng cao cả hơn: tình yêu thoát khỏi đam mê chứng tỏ mình là lòng cảm thương hết sức (cf. ibid., Bol. 196, f. 123 v.).

 

3.         Ở Tây phương, Thánh Bênađô, vị qua đời vào năm 1153, đã hướng về Mẹ Maria và nhận định về việc hiến dâng Chúa Giêsu trong đền thờ như thế này: “Hỡi Trinh Nữ bất khả xâm phạm, hãy hiến dâng Con Mẹ, và dâng hoa trái của lòng Mẹ cho Chúa. Vì việc chúng con giao hòa vối tất cả mọi người, xin Mẹ hãy hiến dâng tế vật thiên đình hài lòng Thiên Chúa” (Serm. 3 in Purif., 2: PL 183, 370).

 

Một người môn đệ và là bạn của Thánh Bênađô là Armold ở Chartres, đã đặc biệt làm sáng tỏ về việc Mẹ Maria hiến dâng nơi hy tế Canvê. Ông phân biệt nơi Thập Giá “hai bàn thờ: một ở nơi tấm lòng của Mẹ Maria, và một nơi thân xác của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã hy sinh xác thịt của mình, Mẹ Maria đã hy sinh linh hồn của Mẹ”. Mẹ Maria đã hy sinh bản thân mình một cách linh thiêng trong mối hiệp thông sâu xa với Chúa Kitô, và van nài phần rỗi cho thế giới: “Những gì người mẹ yêu cầu thì Người Con chấp nhận và Người Cha ban phát” (cf. De septem verbis Domini in cruce, 3: PL 189, 1694).

 

4.         Đồng thời, nơi việc tôn thờ và lòng đạo hạnh của Kitô giáo, việc suy niệm chiêm ngắm về ‘lòng thương xót” của Mẹ Maria đã khai triển, đạt đến tuyệt đỉnh sâu sắc nơi các hình ảnh Mẹ Sầu Bi. Việc Mẹ Maria thông dự vào thảm kịch Thập Giá làm cho biến cố này có tính chất nhân bản sâu xa hơn và giúp cho tín hữu tiến vào mầu nhiệm này, đó là lòng cảm thương của Mẹ Maria tỏ hiện rõ ràng hơn Cuộc Khổ Nạn của Người Con.

 

Nhờ tham phần vào việc cứu chuộc của Chúa Kitô mà vai trò làm mẹ thiêng liêng và phổ quát của Mẹ Maria cũng được nhìn nhận. Ở Đông phương, John the Geometer đã nói cùng Mẹ Maria rằng: “Mẹ là Mẹ của chúng con”. Khi dâng lời tạ ơn Mẹ Maria “về những sầu thương và khổ đau Mẹ đã chịu vì chúng ta, ông đã cho thấy cảm tình từ mẫu và mối quan tâm mẫu thân của Mẹ đối với tất cả những ai được cứu độ” (cf. Farewell Discourse on the Dormition of Our Most Glorious Lady, Mother of God, in A. Wenger, L'Assomption de la Très Sainte Vierge dans la tradition byzantine, p. 407).

 

Ở cả Tây phương nữa, tín lý về vai trò làm mẹ thiêng liêng này đã được Thánh Anselm khai triển, vị chủ trương rằng “Mẹ là người mẹ… của việc hòa giải và thành phần được giải hòa, mẹ của việc cứu độ và của thành phần được cứu độ” (cf. Oratio 52, 8: PL 158, 957 A).

 

Mẹ Maria không ngừng được tôn kính như là Mẹ của Thiên Chúa, thế nhưng sự kiện Mẹ là Mẹ của chúng ta là những gì cống hiến cho vai trò làm mẹ thần linh của Mẹ một khía cạnh mới mở ra trong chúng ta con đường tiến đến chỗ hiệp thông sâu xa hơn nữa với Mẹ.

 

5.         Vai trò làm mẹ của Mẹ Maria đối với chúng ta chẳng những bao gồm một mối liên kết về tình cảm: vì các công nghiệp của Mẹ cùng với việc chuyển cầu của Mẹ được Mẹ góp phần một cách hiệu nghiệm vào việc hạ sinh thiêng liêng của chúng ta cũng như vào việc tiến triển đời sống ân sủng trong chúng ta. Đó là lý do tại sao Mẹ Maria được gọi là “Mẹ ân sủng” Và “Mẹ sự sống”.

 

Mẹ của Sự Sống mà từ đó mọi người được sự sống

 

Tước hiệu “Mẹ của sự sống”, một tước hiệu được Thánh Gregory ở Nyssa sử dụng, được giải thích như sau bởi Chân Phước Guerric ở Igny, vị qua đời vào năm 1157: “Mẹ là Mẹ của Sự Sống mà từ đó tất cả mọi người có được sự sống: trong việc tự mình hạ sinh sự sống này, một cách nào đó Mẹ tái sinh tất cả những ai đã sống sự sống ấy. Chỉ có một vị được hạ sinh, còn tất cả chúng ta đều được tái sinh” (In Assumpt. I, 2: PL 185, 188).

 

Một bản văn hồi thế kỷ 13 là Mariale đã sử dụng một hình ảnh sống động để ghép cho việc tái sinh này “cảnh quằn quại sinh con” ở Canvê, nhờ đó “Mẹ đã trở nên người mẹ thiêng liêng của toàn thể nhân loại”. Thật vậy, “nơi cung lòng tinh sạch của mình, bằng lòng xót thương Mẹ đã thụ thai con cái của Giáo Hội” (Q. 29, par.3).

 

6.         Công Đồng Chung Vaticanô II, sau khi nói rằng Mẹ Maria “một cách hoàn toàn chuyên biệt đồng tác vào công cuộc của Chúa Cứu Thế”, đã kết luận rằng: “vì lý do ấy, Mẹ là một người mẹ đối với chúng ta trong lãnh vực ân sủng” (Lumen Gentium , 61), như thế khẳng định việc Giáo Hội nhận thức rằng Mẹ Maria ở bên Con Mẹ như là Người Mẹ thiêng liêng của toàn thể nhân loại.

 

Mẹ Maria là Mẹ của chúng ta: sự thật an ủi này, được cống hiến cho chúng ta một cách rõ ràng và sâu xa hơn bởi tình yêu và niềm tin của Giáo Hội, đã bảo trì và đang nâng đỡ đời sống thiêng liêng của tất cả chúng ta, và phấn khích chúng ta, ngay cả trong khi đau khổ, hãy tin tưởng và hy vọng. 

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Chuyển dịch từ L'Osservatore Romano Weekly Edition in English 1/11/1995, trang 11.

 

Pin by Joan Hultman on jesucristo | Mary and jesus, Catholic memes, Mother  mary

 

Xin xem Truyện Đời của Mẹ trong Thần Đô Huyền Nhiệm về biến cố Mẹ:

 

 Vượt Qua Với Con

 

 

 

Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 1, 15-17

"Người đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này, để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Ðức Giêsu Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời. (Nguyện) danh dự và vinh quang (quy về) Thiên Chúa độc nhất, hằng sống, vô hình, là Vua muôn đời! Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 112, 1-2. 3-4. 5a và 6-7

Ðáp: Nguyện danh Chúa được chúc tụng đến muôn đời (x. c. 2).

Xướng: 1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.

2) Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa. - Ðáp.

3) Ai được như Thiên Chúa chúng tôi, Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất? Người nâng kẻ hèn hạ lên khỏi trần ai, và rước người nghèo khó khỏi nơi phẩn thổ. - Ðáp.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 43-49

"Tại sao các con gọi Thầy "Lạy Chúa, lạy Chúa", mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra. Tại sao các con gọi Thầy: "Lạy Chúa, lạy Chúa", mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lc 6, 43-49

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Không thể theo Chúa mà lại không thực hành giáo huấn của Người

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXIII Thường Niên, là phần kết của những lời Chúa Giêsu huấn dụ các môn đệ của Người về đời sống trọn lành bằng Lòng Thương Xót như Cha trên trời, cho dù bài Phúc Âm hôm nay không trực tiếp đến chủ đề chính yếu ấy. Tuy nhiên, không phải vì bài Phúc Âm hôm nay không trực tiếp đến chủ đề chính yếu ấy mà Chúa Giêsu không nói đến như một phần bất khả thiếu của tất cả những gì Người muốn huấn dụ thành phần môn đệ của Người, bằng không, bài huấn dụ quan trọng này có thể sẽ trở thành vô bổ. 

Chủ ý Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở trong bài Phúc Âm hôm nay đó là hãy đem những gì Người truyền dạy ra thực hành chứ đừng nghe suông thì chẳng bổ ích chi: "Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành". 

Qua câu vừa có tính cách chất vấn (khúc đầu) vừa có tính cách khẳng định (khúc cuối) này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ vừa nghe xong chủ đề sống lòng thương xót như Cha trên trời rằng: nếu các con coi Thày là Thày của các con thì các con hãy thi hành những gì Thày đã truyền dạy cho các con, như thế các con mới chứng tỏ các con quả thực là môn đệ của Thày và thật sự muốn theo Thày.

Không biết khi nói câu này, Chúa Giêsu có nghĩ đến một trong thành phần 12 tông đồ được Người tuyển chọn sau cả một đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa là Giuđa Íchca hay chăng? Bởi vì, nếu người tông đồ được liệt kê cuối cùng này đem những gì Người truyền dạy ra thực hành thì người tông đồ đáng thương này đã không đi đến chỗ phản nộp Người. 

Phải chăng đó là lý do ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã nêu lên nguyên tắc "trong sao ngoài vậy" và đường lối "xem quả biết cây" để thấy được chân tướng của những ai có thực hành lời Người hay chăng và họ để cho lời của Người tác dụng nơi họ hay chăng

"Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra". 

Đường lối xem quả biết cây như thế không phải chỉ liên quan đến thiên nhiên nơi loại thảo mộc mà còn liên quan đến chính vấn đề khôn ngoan và công sức của con người nữa, như trong việc con người có biết xây nhà trên nền tảng vững chắc hay không. Chúa Giêsu đã so sánh thành phần nghe lời của Người mà đem ra thực hành hay không đem ra thực hành như sau:

"Người ấy (Người thực hành lời Chúa) giống như người xây nhà: người ấy đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".

Nếu ở câu đầu bài Phúc Âm hôm nay, khi nói đến nguyên tắc "trong sao ngoài vậy" và đường lối "xem quả biết cây" có thể Chúa Giêsu đã nghĩ đến tông đồ Giuđa Íchca thế nào, thì trong câu Phúc Âm cuối bài này, Chúa Giêsu cũng có thể đã nghĩ đến tông đồ Phêrô sẽ được Người đổi tên là "đá", một người môn đệ cho dù sau này có lỡ chối bỏ Người, nhưng tự bản chất rất chân tình và nhiệt tình, luôn đơn sơ dễ dậy lắng nghe và thực hành lời của Người, như bài Phúc Âm Thứ Năm tuần trước về mẻ cá lạ cho thấy, vẫn được Người đặt làm nền tảng cho Giáo Hội Người thiết lập (xem Mathêu 16:18).

"Đá" liên quan đến tên gọi "Phêrô, con là đá" (Mathêu 16:18) ở đây có một ý nghĩa thiêng liêng hơn là tự nhiên. Thật vậy, theo tự nhiên thì đã là đá thì tự bản chất của nó phải cứng rắn và vững chắc, bằng không không phải là đá, như đã là ánh sáng thì phải chiếu soi, bằng không không phải là ánh sáng. Nhưng "đá" được Chúa Giêsu sử dụng để làm nền tảng cho Giáo Hội Người thiết lập đây lại bao gồm 2 đặc tính hoàn toàn tương phản nhau, ở chỗ vừa cứng lại vừa mềm: mềm ở bản chất của con người lãnh đạo tông đồ đoàn mang tên Simon này, và cứng ở lòng tin tưởng của ngài nơi Đấng đã kêu gọi và tuyển chọn ngài. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nhắn nhủ ngài rằng: 

"Simôn, Simôn ơi, kìa Satan đã xin được sàng tất cả các con như người ta sàng gạo. Thế nhưng Thầy đã cầu nguyện cho con để con không bị mất lòng tin. Phần con, một khi đã trở lại, con hãy kiên cường củng cố cho anh em của con" (Luca 22:31-32). 

Nếu "cứ xem trái thì biết cây", và nếu áp dụng vào trường hợp của chàng Saolê trở thành một vị Tông Đồ Dân Ngoại đủ thấy thật là chí lý, vì trái đây chính là bản thân được hoán cải của ngài, còn cây đây là lòng thương xót Chúa, như ngài đã tự thú với người môn đệ Timôthêu của ngài trong Bài Đọc 1 hôm nay như sau:

 

"Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này, để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Ðức Giêsu Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời. (Nguyện) danh dự và vinh quang (quy về) Thiên Chúa độc nhất, hằng sống, vô hình, là Vua muôn đời! Amen".

 

Chỉ có ai cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa như Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại mới tràn đầy tâm tình tri ân cảm tạ và chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa như Thánh Vịnh 112 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:

 

1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời.

2) Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa.

3) Ai được như Thiên Chúa chúng tôi, Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất? Người nâng kẻ hèn hạ lên khỏi trần ai, và rước người nghèo khó khỏi nơi phẩn thổ.

 

Thánh Cornêliô, Giáo Hoàng (+ 253) &

Thánh Cyprianô, Giám Mục Tử Ðạo (200-258)

(16/9)

 

Thánh Cornêliô Giáo hoàng và Thánh Cyprianô Giám mục, tử vì đạo (16/9)

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh - tổng hợp từ các nguồn tài liệu khác nhau: Đi Tìm Chân Lý, Giáo Phận Phú Cường, Lời Chúa Dòng Don Bosco, nhất là phụng vụ giờ kinh sách ngày 16/9 của Giáo Hội

1. Lược Sử.

 

Thánh Côrnêliô sinh tại Rôma, là người có một lối sống trong sạch thuần khiết và khiêm nhường sâu xa không gì có thể trách cứ được. Sau khi giữ các phận vụ trong Giáo hội và được mọi người thán phục, ngài lên ngôi Thánh Phêrô, kế vị Đức Giáo Hoàng Fabianô, Đấng đã chết vì đạo 15 tháng trước trong cuộc bách hại của Đêciô.

 

Thật vậy, sau khi thánh Fabianô tử vì đạo thì Giáo hội thời bấy giờ không có Giáo Hoàng trong vòng 14 tháng, vì sự bách hại quá mãnh liệt. Trong thời gian ấy, Giáo hội được điều hành bởi một tập thể linh mục. Cyprianô, một người bạn của Cornêliô, viết lại rằng Cornêliô được chọn làm Giáo Hoàng “bởi quyết định của Thiên Chúa và của Ðức Kitô, bởi sự chứng thực của hầu hết mọi giáo sĩ, bởi lá phiếu của người dân, với sự đồng ý của các linh mục lớn tuổi và những người thiện chí.”


Nhưng lên ngôi ít lâu, ngài đã phải đương đầu với cuộc ly khai đầy gương mù của một giáo hoàng giả. Nôvatianô là một linh mục đầy tham vọng, được một linh mục Phi châu là Nôvatô hậu thuẫn.  Họ nổi tiếng về triết học và tài lợi khẩu, đến nỗi có người than phiền vì đã chọn lầm Đức Côrnêliô làm Giáo Hoàng mà không chọn Nôvatianô. Hai người nổi loạn đã nỗ lực tuyên truyền và lôi kéo được một số tín hữu và cả một số giám mục đi theo. Ba giám mục nước Ý đã đặt tay tấn phong cho Nôvatianô làm giáo hoàng. Nôvatianô liền viết thư cho nhiều Giám mục chống lại Đức Giáo Hoàng Côrnêliô, trách cứ ngài quá dễ dàng tiếp nhận lại những người đã dâng hương tế thần.

 

Thánh Côrnêliô đã dùng cả con đường hiền dịu lẫn cứng rắn mà vẫn không lôi kéo được hai con người bội phản trở lại đường ngay. Nhưng nhờ các nhân đức của một vị tông đồ chân chính, thánh Cornêliô đã chinh phục được nhiều Giám Mục hợp tác với Ngài. Chính thánh Cyprianô, sau khi biết rõ việc tuyển chọn hợp pháp của thánh Côrnêliô đã cộng tác với ngài hết mình để mang lại sự hợp nhất cho Giáo hội. Những sắc lệnh kết án Nôvatô và Nôvatianô được một công đồng ở Rôma chuẩn nhận.

 

Đúng thế, phải đương đầu với cuộc ly khai đầy gương mù của một giáo hoàng giả, trong thời gian hai năm làm Giáo Hoàng, thánh Cornêliô còn phải đương đầu với vấn đề lớn nhất thời bấy giờ có liên quan đến Bí tích Thống hối, và nhất là vấn đề tái gia nhập Giáo hội của các Kitô hữu đã chối đạo trong thời kỳ bị bách hại. Cả hai thái cực đều bị lên án. Ðức Cyprianô, Giám mục đứng đầu Kitô giáo Phi châu, yêu cầu Đức Giáo Hoàng xác định lập trường mà ngài chủ trương, đó là người bội giáo chỉ có thể hòa giải duy bởi quyết định của vị Giám mục (trái với thông lệ thật dễ dãi trong việc phục hồi những người đã chối đạo do Novatô chủ trương).

Ở Rôma, đức Cornêliô lại gặp một quan điểm đối nghịch khác. Sau cuộc bầu Giáo Hoàng, một linh mục tên Novatianô (một trong những người điều hành Giáo hội) lo liệu để mình được tấn phong làm Giám mục Rôma – Giáo Hoàng đối lập đầu tiên chống lại Giáo Hoàng chính thống. Novatianô chủ trương rằng, không những người bội giáo, mà ngay cả những người phạm tội sát nhân, tội ngoại tình, tội gian dâm hay người tái hôn thì Giáo hội cũng không có quyền tha tội! Ðức Cornêliô được sự hỗ trợ của hầu hết mọi người trong Giáo hội (nhất là Ðức Giám mục Cyprianô ở Phi châu) trong việc lên án chủ thuyết của Novatianô, dù rằng giáo phái này kéo dài trong vài thế kỷ. Vào năm 251, Ðức Cornêliô triệu tập công đồng Rôma và ra lệnh những người “sa ngã” được phục hồi lại với Giáo hội qua “phương dược Bí tích thống hối” thông thường.

Tình bạn giữa Đức Giáo Hoàng Cornêliô với Đức Giám mục Cyprianô bị căng thẳng một thời gian khi một đối thủ của Cyprianô đưa ra những lời tố cáo đức Ciprianô. Nhưng vấn đề sau đó được làm sáng tỏ.

Một tài liệu từ thời đức Cornêliô cho thấy mức độ tổ chức của Giáo hội Rôma trong giữa thế kỷ thứ ba: Giáo hội Rôma khi ấy  gồm 46 linh mục, bảy phó tế, bảy trợ phó tế. Số Kitô hữu được ước lượng khoảng 50,000 người.

Khi Gallô mở lại cuộc bắt đạo, Đức Côrnêliô bị tống giam. Ngài bị đày tới Contumcella, bây giờ là Civita Vecchina. Trong một lá thư chào mừng, thánh Côrnêliô viết:

 

- Chúng ta cầu nguyện cho nhau trong những ngày bị bách hại này, nâng đỡ nhau bằng tình bác ái. Nếu ai trong chúng ta được Thiên Chúa ban đặc ân cho qua đời trước, chớ gì tình thân hữu vẫn tiếp tục trước mặt Chúa và lời cầu nguyện của chúng ta tiếp tục thúc đẩy Chúa dủ tình thương xót anh chị em của chúng ta.

 

Quả thật, thánh Côrnêliô đã chẳng sống lâu. Ngài đã qua đời trong lúc bị đi đày tại Contumsenla, ngày 14 tháng 9 năm 253 và được an táng tại đó. Sau này thi hài cuả ngài được dời về nghĩa trang thánh Callistô.

 

Tình bằng hữu của hai thánh Côrnêliô và Cyprianô vẫn còn sống mãi cho tới ngày nay, và Giáo hội kính nhớ các ngài vào cùng một ngày.

 

Thánh Cyprianô là bạn thân của Đức Cornêliô nên được mừng lễ cùng ngày với nhau. Ngài sinh tại Carthage năm 210, trong một gia đình ngoại đạo.

 

Thánh Cyprianô là một khuôn mặt sáng chói trong Giáo Hội sơ khai, là một người Phi Châu. Hồi còn là lương dân, với những tài năng đặc biệt của một giáo sư dạy khoa hùng biện và của một luật sư, ngài đã buông mình theo thú vui như một thanh niên thời đó. Nhưng khi nhờ cha Côcilianô đưa trở lại với đức tin Kitô giáo, ngài đã hết lòng từ hiến đời mình để phụng sự Chúa Kitô.

 

Được hấp thụ nền giáo dục cao, lại là nhà hùng biện nổi tiếng, ngài đã trở thành Kitô hữu khi đã trưởng thành. Ngài phân chia của cải cho người nghèo, tạo nên sự kinh ngạc của các công dân bạn hữu ngài khi ngài thực hiện lời khấn sống khiết tịnh trước khi chịu rửa tội. Ngài cũng từ bỏ văn chương để học hiểu Kinh Thánh, một số tác phẩm và một số tuyển tập thư tín của ngài là phần đóng góp cho nền văn chương Kitô giáo. 


Với cuộc sống như vậy, chẳng lạ gì khi vừa trở lại đạo, ngài đã được thụ phong linh mục và năm 249 được chọn làm Giám mục Carthage, (nay là thủ đô Tuni của nước Tunisi), ngược với ý muốn của ngài, dưới sức ép của hàng giáo sĩ và giáo dân. Ngài đã có được mọi khả năng và đức tin mà một Giám mục có thể có được. Với hết tâm lực, ngài tìm cách nâng cao nếp sống luân lý đạo đức của một đoàn chiên sau nhiều năm phóng túng vì cuộc bách hại. Đặc biệt ngài đã viết truyền đơn chống lại sự thế tục của các trinh nữ tận hiến.
 
Một năm sau khi được tấn phong, năm 250 Hoàng đế Đêciô bắt đầu một cuộc bách hại đầy nguy hiểm vì được tổ chức có hệ thống. Ông bắt mọi người phải dâng lễ kính thần minh của ông. Nhiều Kitô hữu đã tuân phục. Một số khác tìm cách mua những giấy chứng nhận để được yên thân vì nghĩ rằng: Giáo hội không thể thiếu một vị Giám mục khi phải đương đầu với cơn bão táp. Từ nơi trú ẩn ngài viết thơ hướng dẫn đoàn chiên.

 

Cyprianô than phiền rằng thời gian bình an mà Hội Thánh được vui hưởng đã làm giảm yếu tinh thần của nhiều người Kitô hữu và mở cửa cho những người trở lại đạo mà không có một tinh thần đức tin đích thực. Khi cuộc bách đạo của Dexianô bắt đầu, nhiều Kitô hữu dễ dàng từ bỏ Hội Thánh. Chính việc tái hội nhập của họ vào Hội Thánh tạo nên những cuộc tranh luận to tát trong thế kỷ thứ ba, và giúp cho Hội Thánh tiến bộ trong sự hiểu biết của mình liên quan đến Bí tích Thống hối.

Trong nạn dịch tại Carthage, Giám mục Cyprianô thúc giục các Kitô hữu giúp đỡ mọi người, bao gồm cả những kẻ thù và những kẻ bách đạo.

Là bạn của Đức Giáo Hoàng Cornêliô, nhưng Đức Giám mục Cyprinanô lại chống lại vị giáo hoàng kế tiếp là Stêphanô. Ngài cùng với các giám mục Phi Châu khác không muốn nhìn nhận hiệu lực và sự chính đáng của phép Rửa tội do những người lạc giáo và ly giáo cử hành. Đó không phải là quan niệm của Hội Thánh toàn cầu, nhưng Cyprinô vẫn không khiếp sợ cho dù bị đe dọa vạ tuyệt thông.

Ngài bị hoàng đế đem đi lưu đày nhưng sau đó được gọi về để chịu xét xử. Ngài từ chối rời thành phố, nhấn mạnh rằng dân của ngài phải được chứng kiến cuộc tử đạo của ngài.

Cuộc bách hại chấm dứt sau cái chết của Đêciô. Nhiều người Kitô hữu chối đạo trở về với Giáo Hội. Thánh Cyprianô chủ tọa một công đồng trong đó quyết định rằng: những người dâng lễ kính thần minh chỉ được tha tội trước khi chết, còn những người chỉ mua giấy chứng nhận (1a belli), thì được tha sau một thời gian thống hối. Novatô, một linh mục và Fêlicissimô, một phó tế đã ly khai vì muốn tha ngay, thánh Cyprianô đã hỗ trợ cho Đức Giáo Hoàng Cornêliô chống lại nhóm ly khai theo Novatianô. Cùng với nhiều lá thư ngài gửi cho các Kitô hữu Rôma một khảo luận về sự hiệp nhất Giáo Hội "De Unitate Ecclesiae" trong đó ngài nhấn mạnh tới thượng quyền của đấng kế vị thánh Phêrô.
 
Năm 253, một cơn dịch lan tràn khắp đế quốc. Các Kitô hữu ở Carthage quảng đại phục vụ các nạn nhân. Nhưng người ta mê tín lại cho rằng: các thần minh đã giận dữ với người Kitô hữu. Hoàng đế Gallô mở một cuộc bách hại mới. Một sắc lệnh mới tha tội cho mọi hối nhân để họ đứng vững trong đức tin. Dầu vậy cuộc bách hại đã không dữ dội ở Carthage và Đức Cha Cyprianô không bị quấy rầy.
 
Chẳng may có sự tranh chấp giữa thánh Cyprianô với đấng kế nhiệm thánh Cornêliô là Đức Giáo Hoàng Stêphanô về việc rửa tội lại cho người đã được rửa tội trong lạc giáo. Cuộc ly khai đã không xảy ra vì Đức Sixtô kế vị Đức Stêphanô được giữ tập tục của mình.
 
Năm 257, hoàng đế Valêrianô lại khơi dậy cuộc bách hại. Thánh Cyprianô là nạn nhân của cuộc bách hại này. Các tường thuật về cuộc diện kiến của ngài trước quan tổng trấn và về cuộc tử đạo của ngài dựa tên các tài liệu chính thức của một người đã được mục kiến. Trước mặt tổng trấn Paternô, ngài tuyên xưng đức tin và không chịu nộp danh sách các linh mục. Ngài bị đày đi Curubis, một thành bên bờ biển là nơi ngài viết khảo luận cuối khuyên nhủ can đảm chịu chết vì đạo. Vào đêm trước khi bị lưu đày, ngài mơ thấy mình bị chặt đầu vào năm sau. 

 

Quả thật, năm sau, vào mùa thu năm 258 có sắc lệnh xử các giáo sĩ. Ngài bị điệu về trước mặt quan tổng trấn mới là Galeriô Maximô. Chúng ta có được bản ký sự về thánh Cyprianô do phó tế Pontiô của ngài viết. 

 

Việc chính đáng như thế, khỏi cần phải suy nghĩ

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 16/9)

Trích sử liệu về cuộc tử đạo của thánh Síp-ri-a-nô.

Sáng ngày 14 tháng 9, một đám rất đông dân chúng tụ họp tại quảng trường Xét-tô, theo lệnh của quan kinh lược Ga-lê-ri-ô Mác-xi-mô. Viên quan này truyền lệnh phải điệu thánh Síp-ri-a-nô ra trước mặt ông ngay trong ngày, khi ông ngồi xử tại tiền đường Xau-si-ô-lô. Khi giám mục Síp-ri-a-nô bị điệu đến, quan kinh lược hỏi : “Ông có phải là Ta-si-ô Síp-ri-a-nô không ?” - Giám mục Síp-ri-a-nô trả lời : “Chính tôi.”

Quan kinh lược nói : “Ông có phải là lãnh đạo đám người có đầu óc phạm thượng đó không ?” - Giám mục Síp-ri-a-nô trả lời : “Chính tôi.” Quan kinh lược lại nói : “Các hoàng đế chí tôn đã truyền cho ông phải tế thần.” - Giám mục Síp-ri-a-nô trả lời : “Tôi không tế.” Quan Ga-lê-ri-ô Mác-xi-mô nói : “Ông nghĩ kỹ đi !” - Thánh Síp-ri-a-nô trả lời : “Quan được lệnh làm gì thì cứ làm đi. Trong một việc chính đáng như thế này, khỏi cần suy nghĩ nữa.”

Khi bàn hỏi với hội đồng, quan kinh lược quyết định tuyên án. Quan buộc lòng phải nói như sau : “Ông đã sống theo học thuyết phạm thượng này từ lâu rồi, và ông đã quy tụ nhiều người để mưu đồ làm tội ác, ông đã đứng lên đối địch với các thần Rô-ma và các nghi thức kính thần ; các hoàng đế mộ đạo và chí thánh của chúng ta là Va-lê-ri-a-nô và Ga-li-ê-nô ; ngay cả Va-lê-ri-a-nô, vị Xê-da chí tôn, cũng đã không thể làm cho ông trở lại thờ cúng như các ngài. Ông bị bắt vì đã chủ mưu và gieo rắc các tội ác khả ố, nên ông sẽ là bài học cho những kẻ đã liên kết với ông để làm tội ác. Máu của ông sẽ làm chứng cho sự nghiêm minh của pháp luật.” Nói xong, quan đọc án quyết ghi trên một tấm thẻ nhỏ : “Chúng tôi ra lệnh xử trảm Ta-si-ô Síp-ri-a-nô.” Giám mục Síp-ri-a-nô nói : “Tạ ơn Chúa.”

Sau khi nghe bản án, đám đông anh em tín hữu hô lên : “Chúng tôi xin cùng được xử trảm với người.” Vì thế, họ náo động và một đám rất đông dân chúng theo sau người tử tội. Síp-ri-a-nô bị điệu tới quảng trường Xét-tô. Người cởi áo choàng ra, quỳ xuống và sấp mình cầu nguyện với Chúa. Sau khi cởi áo giám mục trao cho các phó tế, và chỉ giữ lại trên mình áo dài bằng vải gai, người đứng đợi lý hình.

Khi lý hình tới, người bảo mấy tín hữu đứng quanh cho anh ta hai mươi lăm đồng tiền vàng. Đám anh em tín hữu trải vải và khăn ra trước mặt người. Rồi thánh Síp-ri-a-nô tự tay bịt mắt. Vì người không thể tự buộc tay, nên linh mục Giu-li-a-nô và phụ phó tế cũng tên là Giu-li-a-nô buộc giùm cho người.

Thánh Síp-ri-a-nô đã chịu tử đạo như thế. Để tránh cho dân ngoại khỏi tò mò, người ta đem cất xác người ở một nơi gần đó. Rồi đến đêm, họ mang đèn cầy và đuốc rước xác người về nghĩa trang của thái thú Ma-cô-bê Căn-đi-đi-a-nô, trên đường Máp-pa-la, gần các bể chứa nước. Cuộc rước này diễn ra trong bầu khí hân hoan khải hoàn. Ít ngày sau, quan kinh lược Ga-lê-ri-ô Mác-xi-mô qua đời.

Thánh Síp-ri-a-nô chịu tử đạo ngày 14 tháng 9 dưới thời các hoàng đế Va-lê-ri-a-nô và Ga-li-ê-nô, nhưng thật ra là dưới triều của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng được vinh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.

 

Thánh Cyprianô giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển tư tưởng Kitô giáo và việc thực hành nếp sống đạo trong thế kỷ thứ ba, cách riêng tại Bắc Phi châu.

Cyprianô pha trộn nơi bản thân mình sự dịu dàng và can đảm, tính cương nghị và sức mạnh. Ngài vui vẻ nhưng nghiêm khắc, nên người ta không biết liệu mình phải mến ngài hay kính sợ ngài. Vẻ mặt ngài bừng bừng trong cuộc tranh luận về phép Rửa tội, và  tình cảm nóng nảy đó có thể khiến ngài quan tâm, bởi đó là thời gian ngài viết tác phẩm về sự kiên nhẫn. Thánh Augustinô nhận xét rằng thánh Cyprianô đền tội cho sự nóng nảy giận dữ của mình bằng cuộc tử đạo vinh quang của ngài.

 

2. Gương Sống:

 

a. Lòng can đảm.

 

Việc Đức Cornêliô cùng với anh em linh mục và giáo dân đã can đảm khi bị vua quan tra tấn hành hạ, đã làm nức lòng mọi người. Tin này làm cho mọi người hân hoan phấn khởi, nhất là thánh Cyprianô. Thánh Cyprianô đã hết lòng ca ngợi tấm gương cao cả này: “Làm sao diễn tả cho hết niềm phấn khởi và nỗi vui mừng ở đây, khi chúng tôi biết được những thành quả can đảm của những người anh em chúng tôi". Ngài viết tiếp rằng "ở đó, chính ngài (Đức Cornêliô) đã dẫn đầu anh em trong việc tuyên xưng đức tin; và việc tuyên xưng của những người anh em làm cho việc tuyên xưng của người đứng đầu nổi hẳn lên. Vì khi dẫn đầu đi tới vinh quang, Ngài đã lôi kéo được nhiều người cùng đi tới vinh quang. Ngài đã thuyết phục được toàn dân tuyên xưng đức tin, khi ngài sẵn sàng tuyên xưng trước hết thay cho tất cả mọi người, đến nỗi chúng ta không biết phải ca tụng điều gì trước: đức tin mau mắn vững bền của ngài hay là lòng yêu thương của mọi người không muốn tách rời khỏi người cha chung của họ? Lòng can đảm của vị Giám mục dám đi tiên phong trong việc tuyên xưng đức tin đã được mọi người công nhận…”

 

b. Lòng bao dung.

 

Lúc đó trong Giáo hội đã xảy ra cuộc tranh cải sôi nổi về những người đã chối đạo. Họ là những người vì quá sợ mà đã phạm tội bọ đạo và tế thần. Vấn đề đặt ra là có nên tha cho họ khi họ ăn năn sám hối trở về với Chúa hay không? Có được nhận họ trở lại với Hội thánh không?

 

Về vấn đề này có hai khuynh hướng đối chọi nhau.

 

Khuynh hướng thứ nhất đứng đầu là linh mục Nôvatianô chủ trương dứt khoát phải loại bỏ những hạng người này ra khỏi Giáo Hội, tuyên bố vạ tuyệt thông đối với họ.

 

Khuynh hướng thứ hai: Sau khi họp bàn với các Đức Giám mục, Đức Thánh Cha Conêliô tuyên bố tha thứ và đón nhận họ trở lại với Hội thánh. Nhóm giáo sĩ ly khai chống đối. Vì thế mà có cuộc tranh luận dằng dai trong Giáo hội, làm cớ cho vua quan phần đời lợi dụng cơ hội chống phá đạo.

 

3- Lời bàn

Về thánh Cornêliô: Thật đúng để nói rằng trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều giáo thuyết lầm lạc được đưa ra vào một thời điểm nào đó. Thế kỷ thứ ba đối diện với một vấn đề mà ít khi chúng ta để ý đến – một khi đã phạm tội trọng thì phải sám hối trước khi giao hòa với Giáo hội. Những người như thánh Cornêliô và thánh Cyprianô là công cụ của Thiên Chúa để giúp Giáo hội tìm ra con đường khôn ngoan giữa hai thái cực của sự nghiêm khắc và sự lỏng lẻo. Họ là những phần tử của một Giáo hội truyền thống đầy sinh động, nhằm đảm bảo tính cách liên tục của những gì đã được Ðức Kitô khởi sự, và lượng giá những kinh nghiệm mới qua sự khôn ngoan và kinh nghiệm của những người đi trước (Rliner).

Về thánh Cyprianô: “Những cuộc tranh luận về phép Rửa tội và Bí tích Thống hối trong thế kỷ thứ ba nhắc nhở cho chúng ta rằng Hội Thánh tiên khởi không có những giải pháp có sẵn từ Chúa Thánh Thần. Các người lãnh đạo và các thành viên Hội Thánh của thời đó phải thực hiện những phán đoán tốt nhất mà họ có thể có, trong khi dõi theo toàn bộ giáo huấn của Chúa Kitô mà không bị đưa đi trệch đường bởi những sự thái quá về phía hữu hay phía tả.

4- Lời trích

Cornêliô: “Chỉ có một Thiên Chúa và một Ðức Kitô và một ngôi tòa Giám mục, được xây dựng đầu tiên trên thánh Phêrô bởi quyền năng Thiên Chúa. Do đó, không thể nào đặt ra một bàn thờ khác hay một tư tế khác. Bất cứ gì người ta thiết lập ra trong khi tức giận hay hấp tấp, bất chấp quy luật của Thiên Chúa, chỉ là một quy tắc giả mạo, trần tục và phạm thượng” (Thánh Cyprianô, tác phẩm “Sự Hiệp nhất của Giáo hội Công giáo”)

Cyprianô: “Bạn không thể có Thiên Chúa là Cha nếu bạn không có Hội Thánh là Mẹ… Thiên Chúa là một, Chúa Kitô là một; đức tin là một, và dân Chúa được kết đính lại cùng nhau bằng sự hòa hợp trong một thân thể duy nhất… Nếu chúng ta là những người thừa kế của Chúa Kitô, chúng ta hãy ở lại trong sự bình an của Chúa Kitô; nếu chúng ta là những con cái Thiên chúa, chúng ta hãy là những người yêu mến hòa bình” (Thánh Cyprianô, trong tác phẩm “Sự Hiệp nhất của Giáo hội Công giáo”)

Lạy hai thánh Corlêliô và Cyprianô, xin cầu cho chúng con. Amen.

 

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho dân Chúa hai vị mục tử nhiệt thành và cũng là chứng nhân bất khuất là thánh Co-nê-li-ô và thánh Síp-ri-a-nô. Xin nhậm lời hai thánh chuyển cầu mà ban cho chúng con can trường giữ vững đức tin, và không ngừng hoạt động cho Giáo Hội được hợp nhất. Chúng con cầu xin