Đó là lý do, đối với tôi, sau 43 năm xuất dòng (1982 - 2025), với tất cả
những gì đã xảy ra cho tôi suốt trong thời gian gần gấp đôi thời gian tu
Đồng Công của tôi, tôi càng thâm tín những điều chân thực sau đây:
Trước hết, tôi đã chuyển từ Ơn gọi tu trì Đồng Công sang Ơn gọi Tông đồ Giáo dân, hơn là phản
bội ơn gọi Đồng Công vô cùng cao quý. Bởi vì, tôi xuất dòng không phải vì
bất mãn với dòng, hay vì không được thỏa mãn đòi hỏi của tôi, như không được
học hay không được làm linh mục, nhà dòng đã không đáp ứng được ước vọng
thầm kín của tôi.
Thật ra sau thời gian 2 năm 1972 - 1974 sai tôi phục vụ ở Tiểu Chủng viện
Simon Hòa Đà Lạt, Anh Cả đã sai tôi xuống Lương Sơn Phan Rí để học Latinh
với Anh Phan Thiện Giản Đội III đang nghỉ ngơi ở đó. Trái lại, như
chính Đấng Sáng lập đã biết tôi và nhiều anh em dòng đều biết rằng tôi hăng
say nên thánh, sẵn sàng "ngồi vào chỗ cuối" (Luca 14:10), tự nguyện xung
phong nhào tới để điền vào chỗ trống cho hợp ý bề trên, tới độ, cho dù tôi
có tình nguyện đến như vậy, như làm bếp, vẫn bị Anh Cả phán cho một câu
trước mặt một số anh em đang quây quần bên Anh ở Di Linh năm 1971 bấy giờ là
"
Tâm Phương mà làm bếp thì quỷ cũng không ăn được!". Thế mà, dù tôi
làm bếp "quỉ cũng không ăn được" như vậy Anh vẫn cứ tiếp tục sai tôi làm bếp
ở Nhà Đá Qui Nhơn vào đầu năm 1974, thậm chí sai tôi làm bếp cho thuyền
trung ương năm 1975, tôi vẫn không viện lý "quỉ không ăn được" mà từ chối
Anh...!
Thật vậy, trước khi đi tu tôi quả thực đã được ơn Chúa gọi, đến nỗi bạn bè của tôi và bố mẹ của tôi cũng
phải công nhận rằng từ khi được ơn Chúa gọi đi tu năm 15 tuổi vào đêm Lễ Giáng
Sinh 24/12/1963 ở sân trường Đức Minh Tân Định, thời điểm bất ngờ tôi chợt nghe thấy trong bài
giảng của vị linh mục chủ tế lời Chúa phán trong Phúc âm được ngài sử dụng
để nhắc nhở cộng đoàn phụng vụ đang tham dự bấy giờ về đức khó nghèo theo
gương Vị Thiên Chúa làm người rằng: "
Được lời lãi tất cả thế gian mà mất
linh hồn mình thì nào được ích lợi gì" (Mathêu 16:26), bấy giờ tôi đã như bị tiếng
sét ái tình, chỉ muốn đi tu ngay, không còn những mộng tưởng tầm thường tự nhiên (làm
văn sĩ, thành ca sĩ v.v.), nhiều
khi lãng mạn (làm duyên làm dáng như nữ giới), và thậm chí tội lỗi (theo xu
hướng giới tính) của tuổi trẻ đang ở vào lứa tuổi 15 dậy thì; trái lại những việc
đạo đức thiêng liêng hàng ngày được tôi, một thiếu niên đã từng bỏ lễ Chúa
Nhật nhiều lần, bấy giờ đã tự động thi hành (đi lễ hằng ngày, chăm chỉ âm
thầm đọc
kinh cầu nguyện) ...

Hình chụp trong Hang Động Thánh Biển Đức ở Subiaco Ý quốc ngày 29/4
trong chuyến đi đột xuất Hành Hương Năm Thánh Lữ Hành Hy Vọng 2025
Anh chàng THĐC TĐCTT này, khi được ơn gọi tu trì vào đêm Giáng sinh 1963, đã
tìm kiếm các nơi tu trì để đáp lại ơn gọi của Chúa,
trong đó có Đan viện Xitô Thánh Mẫu
Mỹ Ca, nơi chàng đã viết thư xin và đã nhận chàng qua văn thư năm 1964.
Nhưng LTXC đã an bài thần linh cho chàng, theo chỉ dẫn của vị linh
hướng, vào Dòng Đồng Công,
để rồi sau khi đã có đủ vốn liếng thiêng liêng cho ơn
gọi tông đồ giáo dân thì chàng đã hạ sơn hành hiệp suốt 38 năm nay...
Cũng thế, nếu trước khi đi tu tôi đã có những dấu hiệu tích cực lạ lùng
bất thường
thì trước khi xuất tu tôi cũng có
những dấu hiệu tiêu cực khác thường tự nhiên xuất hiện một cách tỏ tường
hoàn toàn không thích đáng và tương xứng với đời sống tu trì, những dấu hiệu cho thấy tôi
dường như không thể tu được nữa, đến độ, sau
thời gian âm thầm chiến đấu, suy nghĩ và cầu nguyện trước khi trình bày tất cả mọi sự với bề trên, tôi thậm
chí đã xin Chúa, nếu quả thực con không tu được nữa, tu chỉ có thể tới đây thôi, thì xin Chúa
hãy chọn cho con một người vợ theo ý Chúa, chứ không phải theo ý của con...
Quả thực Ngài đã không chọn cho tôi hơn là gửi đến cho tôi chọn một
trong ba người, và tôi đã cảm thấy ai trong 3 người ấy ngay, đó là người vợ đang đồng hành tông đồ
giáo dân của tôi và với tôi, như nhiều anh em trong dòng cũng như nhiều bạn
đồng hành tông đồ với chúng tôi đều biết chúng tôi
là một cặp tông đồ. Chính nàng đã khuyên tôi tiếp tục tu khi biết tôi muốn
xuất tu, bỏ ơn gọi. Trong khi 2 nàng khác tôi cũng bất ngờ gặp trong thời
gian đi quyên tiền mua trụ sở cho Tỉnh Dòng với anh linh mục Phạm Tiến Đức vào
đầu năm 1981 ở miền Nam California:
Cô nàng đẹp nhất
trong 3 cô, đẹp như tài tử khi tôi vừa bước vào nhà đã thấy ngay hình cô nàng
trưng ở phòng khách, một người đẹp đã gửi cho tôi bức thư nắn nót nét chữ,
thơm thơm và được kẹp trong cuốn
tiểu thuyết Hoa Vông Vang của nhà văn Đỗ Tốn để tặng tôi với bầu tâm sự của cô
muốn gửi gấm cho
tôi. Còn cô nàng được xếp thứ ba về nhan sắc trong 3 cô, cũng duyên dáng dù
không hấp dẫn như cô nàng bắt mắt nhất, và cô nàng này sang Mỹ trước với một đứa con
trai trong khi người chồng đang ở trại cải tạo, gửi
cho tôi một tấm hình gợi cảm, và cho tôi biết đêm nào
cũng vậy, trước khi ngủ, nàng cũng phải nghe tiếng hát của tôi trong cuốn
băng cassette Tình Ca Đời Tận
Hiến nàng đã mua của tôi hôm tôi đến căn nhà nàng share phòng. Cuốn
băng cassette
Tình Ca Đời Tận Hiến này đã được tôi thực hiện vào đầu năm
1981 ở Oklahoma City bang Oklahoma cũng liên quan đến thời gian tôi đang suy
nghĩ và cầu nguyện về ơn gọi, trong đó bao gồm 18 bài do tôi sáng tác cùng
tự diễn, và con số 18 sáng tác này tôi có ý sáng tác và tự hát là để kỷ niệm 18 năm
tu trì Đồng Công của tôi.
Cuối cùng thấy đã tới lúc tôi cần phải trình bày với bề trên lúc bấy giờ về
các dấu hiệu khác lạ nơi bản thân mình, để ngài quyết định sao thì tôi sẽ
tuân theo đúng như vậy, vì ý Chúa được tỏ hiện qua bề trên, như tôi vẫn tuân
phục và được chính Đấng sáng lập quý mến tin tưởng và sai bảo những việc
ngài
không kiếm ra người chịu đảm nhận. Nếu vị bề trên của tôi bấy giờ bảo tôi
tiếp tục tu, không ngăn trở gì, thì tôi cũng theo ngay, dù lúc ấy tôi đã âm
thầm quen biết với 3 cô nàng, trong khi đó tôi đã cảm thấy dường như người
vợ Chúa gửi đến cho tôi chính là cô nàng nhan sắc ở giữa 3 cô
tôi gặp nhưng nết na đức hạnh nhất, đã khuyên tôi tiếp tục đời tu. Tuy nhiên, phán
quyết của bề trên lúc bấy giờ là: "
Như thế thì anh nên ra".
Và tôi đã rời
trụ sở Tỉnh dòng và đã vĩnh viễn lìa xa anh em dòng thân yêu hôm 20/8/1982 sau Ngày Thánh Mẫu
mà tôi đã lo Thánh ca, điều khiển hát cộng đồng và kiêm văn nghệ (nên tôi đã nỗ lực
mời thần đồng vĩ cầm Lưu Danh Bình ở San Diego California sang trình diễn,
nhưng bất thành bởi không có dàn đại dương cầm), và sau 7 năm cùng anh em dòng xuất hành từ Việt
Nam, một thời gian chung sống với nhau lúc đầu ở Hải ngoại Hoa kỳ, với
năm đầu 1975 - 1976 cùng nhau học Anh ngữ ở tại Nhà Carthage, rồi sau 2 năm
học triết ở Conception của Các Cha Dòng Biển Đức 1976 - 1978,
tôi bắt đầu được bề trên sử dụng trong các vai trò quản lý liên tục, thứ tự
theo thời gian: ở Trại heo Thiên Mẫu 1978-1980, quản lý kiêm lập Nhà in Sao
Mai Printing Houston Texas 1980, và quản lý Nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ 1980 -
1982.

Ảnh chụp (trên và dưới) ngày Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống mùng 8/6/2025
Ý tưởng Đức Mẹ đứng trên sóng gió ba đào trên đây do tôi, bấy giờ là
quản lý của Nhà in Sao Mai Printing Houston Texas,
gợi ý cho
anh chàng họa sĩ kiêm kiến trúc sư Nguyễn Mỹ / Kiểm THĐC IXC ở Houston TX năm 1980,
khi chàng được Anh Phó bề trên bấy giờ là Anh Baran Nguyễn Thái Hòa,
CMC, xuống Houston nhờ anh vẽ.
.jpg)
Chàng kiến trúc sư này đã tự động cho tôi biết: "Tâm phương, Anh Hòa
nhờ em vẽ mẫu cho một đài Đức Mẹ ...", "Vậy anh có nói Đức Mẹ gì không?"
- "Đức Mẹ Tỵ nạn, vậy thôi", anh Kiểm đáp câu hỏi của tôi, nghe thấy
vậy tôi nói ngay "Thế thì Đức Mẹ đứng trên sóng gió ba đào..."
Nhưng anh chàng kiến trúc sư kiêm họa sĩ Kiểm này đặt vấn đề và tự
giải quyết ngay: "Đức Mẹ phải đứng trên cái gì chứ... À đứng trên bọt sóng!"
Thế là anh chàng đã có đủ tư tưởng để vẽ mẫu
cho Tượng Đài Đức Mẹ Tỵ Nạn này rồi gửi về Carthage cho Anh Hòa,
anh cũng đồng thời tặng cho tôi 1 bản blue print về mẫu đài anh vẽ
này, một bản họa đồ - blue print được tôi còn giữ cho tới bây giờ.
Sau này tôi đã được nghe về tác dụng gây ra
bởi sự kiện xuất tu của tôi quá đột ngột và bàng hoàng đối với nhiều anh em
Dòng, đến độ người anh Đội Ba Bùi Anh Tuấn tôi hằng quí mến đã khóc thương tiếc tôi; có anh cùng Đội IX
đã cho tôi là "phá nồi cơm của Đội IX" vì khi tôi xuất dòng bấy giờ tôi là đội trưởng; nhiều tiếng đồn rằng vì ca hát tôi đã
gặp người vợ của tôi hiện nay và đã bỏ ra theo nàng v.v. Về phần Anh Cả thì
sao? Anh Cả đã được vị bề trên giải quyết dứt khoát cho ơn gọi Đồng Công của
tôi trình bày cho biết lý do tôi không thể tu được nữa, và Anh đã nói rằng
trước khi tu tôi đã có những triệu chứng ấy rồi, như tôi đã thành thật trình
bày với ngài (vẫn được ngài nhớ thì biết rằng ngài để ý đến tôi đến mức nào) khi tôi được gặp ngài lần đầu tiên ở Nhá Đá Qui Nhơn vào hè 1966.
Không biết bấy giờ Anh Cả có nghĩ rằng nếu tôi có những triệu chứng hay dấu
hiệu bất tương xứng với đời sống tu trì mà tự nhiên biến mất cho đến 18 năm
sau chúng bất ngờ trở lại thì có phải xuất phát từ sự an bài thần linh của
Thiên Chúa chăng, như dấu hiệu Ngài muốn tôi tu thân tích đức bằng ấy năm
thôi, lấy đủ vốn liếng Đồng Công rồi thì tới thời điểm tôi cần phải "hạ sơn
hành hiệp" bằng đời sống tông đồ giáo dân. Và những dấu hiệu hay triệu chứng
tiêu cực bất thường không tương xứng với đời tu ấy tự nhiên biến mất sau khi
tôi ra đời càng cho thấy bàn tay Thần linh âm thầm can thiệp vào cuộc đổi
đời có vẻ không được hay, không được tốt này của tôi đối với hội dòng và anh
em dòng. Nhưng hình như Anh Cả vẫn tỏ ra thương tiếc tôi, ở chỗ, như có một anh cùng
Đội IX A là Anh Trần Hữu Thảo sang Mỹ sau cho tôi biết khi gặp tôi lần đầu
tiên rằng "hầu như không ngày nào
Anh Cả không nhắc đến anh", một câu nói đã khiến tôi bỗng nhiên nhức nhối hơn hết, bởi
lòng tôi rất kính phục ngài và biết ơn ngài đã hết lòng huấn thánh cho tôi.
Giữa 2 cha con chúng tôi dường như đã có một mối
liên hệ sâu xa, không phải nhân tạo cho bằng thiên tạo, đến độ ngày ngài qua
đời 21/6/2007 chính là ngày tôi vào tu Đồng Công 43 năm trước, Chúa Nhật
21/6/1964, một mình tôi hôm đó, sau khi lớp tu 1964 đã chính thức bước vào
đệ tử viện 10 ngày trước, 11/6/1964, ngày Thứ Năm trong tuần cũng là ngày
tôi đến xin tu và được anh Giám đốc Đệ tử viện bấy giờ là Anh Bono Nguyễn An
Trị nhận tu nhưng hẹn tôi trở
lại nhập tu 10 ngày sau.
Bởi có một mối liên hệ sâu xa với Người AQP là vị linh
hướng duy nhất và trên hết của đời tôi nên tôi rất cảm thương ngài hơn bao
giờ hết khi ngài cảm thấy đớn đau nhức nhối nơi một
số đàn em mà ngài rất hy vọng, thậm chí công khai khen tặng, bất ngờ bỏ dòng mà đi.
Nếu niềm vui đệ nhất và trên hết của ngài là vị
sáng lập Dòng cho Người Việt Nam có thánh ở chỗ thấy được đàn em của mình
hăng say nên thánh, thì nỗi đớn đau nhức nhối nhất của ngài là thấy đàn em
của mình lơ là với lý tưởng thánh, vì thế ngài đã mở sổ khấn sau Đại Hội bất
thường năm 1968 để cho anh em nào kừng khừng nên thánh dứt khoát tu cho ra
tu bằng không thì ra, và ngài quằn quại trước một số người em ngài hy vọng
về đời sống thánh đức bất ngờ bỏ dòng mà đi...
Giờ đây, trên thiên đàng, trong mối hiệp thông thần
linh với Thiên Chúa, vị linh hướng huấn thánh tôi đang chuyển cầu cho tôi, vì ngài thấy được "tất cả
sự thật" (Gioan 16:13) về tôi trong sự an bài thần linh vô cùng sâu nhiệm
của Chúa,
như chính ngài khi còn sống đã tự thú và chân nhận những gì ngài đã cảm thức
được (sau biết bao trằn trọc nhức nhối về anh em) cùng Đại Hội
thành lập THĐC ngày 27/4/1974 rằng:
"Đối với anh em dòng các em cũng biết họ là con người như các em. Chúa
cho còn tu thì còn, mà ngày nào Chúa không chọn nữa, Ngài đưa về thế gian để
làm việc khác thì cũng là do ý Chúa chẳng ai hiểu được... Trong số các em
rất nhiều người có thiện chí, hăng say, đã và đang tỏ hiện tinh thần bác ái
Phúc Âm, tinh thần Đồng Công mà các em đã thụ huấn. Các em đang gieo vãi
những tinh thần ấy vào mọi lãnh vực các em đang sống rải rác nơi bốn phương
trời. Anh phải thú nhận rằng về vấn đề này, Anh cũng như anh em linh mục và
tu sĩ Đồng Công không thể làm được bằng các em ở ngoài. Chúa định cho các em
ở ngoài để đem tinh thần của Ngài đi sâu vào mọi giới trong xã hội, để chống
lại bè lũ Satan đang hăng say, tinh vi gieo vãi tinh thần của chúng làm
nhiều người mất đức tin..."
Bột Tông Đồ
Riêng đối với tôi, tôi không thể nào
quên được lệnh truyền theo Đức vâng lời của ngài cho số anh em dòng, trong
đó có những người tu sĩ trẻ như tôi mà ngài thấy không thể sống được với
cộng sản sau này, đang trọ
ở Nhà Nghỉ Mát của Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán tháng 4/1975 rằng: "Các em đi để giữ
lấy dòng và để truyền giáo". Đúng thế, mỗi lần có dịp về trụ sở Tỉnh Dòng lệnh truyền sai đi
kèm theo mục đích của chuyến xuất hành ra hải ngoại ấy lại nhắc nhở và
thôi thúc tôi hơn bao giờ hết và hơn ở đâu hết, nhưng tôi vẫn cảm thấy không
áy náy như thể tôi đã phản bội nhà dòng, vô ơn với Anh Cả, trái lại tôi vẫn
an tâm.
Tiến trình ơn gọi tông đồ giáo dân của tôi thật sự đã được diễn tiến theo 3
đấu bột tông đồ này, thứ tự đúng như trên đây: trước hết nhờ truyền thông và
từ truyền thông qua sách vở mà tôi đã được biết đến và được mời gọi phục vụ
Thiếu Nhi Fatima Liên Đoàn TGP LA và Phong trào Tông Đồ Fatima HK, rồi từ
Thánh Mẫu Fatima, tôi đã được Mẹ dẫn tôi đến với LTXC, và thật không ngờ,
hoàn toàn không ngờ, sau này đang khi loan truyền LTXC bằng các Khóa LTXC
trong Cộng đồng Công giáo Việt Nam ở Hoa Kỳ, tôi mới chợt khám phá ra là tôi
được giống ĐTC GP II, vị Thánh Giáo hoàng bao gồm cả Mẹ Fatima lẫn LTXC.
Nhìn lại quãng đời 38 năm tông đồ giáo dân của mình, từ 1987, sau 5 năm
chuyển từ ơn gọi tu trì sang ơn gọi tông đồ giáo dân với vốn liếng Đồng Công
vào đời, thời điểm tôi xuất bản tác phẩm đầu tay "Nước chảy từ tảng đá", tôi
càng phải công nhận rằng Men Đồng Công thực sự nơi tôi đã hoàn toàn thấm
nhập vào môi trường Bột Tông Đồ của tôi, như những gì đã xẩy ra được tôi
trưng dẫn và chứng thực sau đây: