TẤT CẢ BÍ MT FATIMA

 

Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh, BVL

2009

 

 

6

 

Bí Mật Fatima

cứu độ

 

 

 

H

iện ra ở đâu, nhất là ở những nơi đă được Giáo Hội công nhận và nổi tiếng như Lộ Đức năm 1858 ở Pháp quốc và Fatima năm 1917 ở Bồ Đào Nha, Đức Mẹ đều kêu gọi chung loài người và riêng con cái Giáo Hội hăy ăn năn thống hối và cải thiện đời sống. Thậm chí có những lần Mẹ đă khóc, chẳng hạn ở tỉnh Pantano gần Civitavecchia, cách Rôma khoảng 60 cây số, vào Lễ Đức Mẹ Dâng Con 2/2/1995, một tượng Đức Mẹ đă khóc ra máu và vị giám mục địa phương cai quản giáo phận Civitavecchia này là chứng nhân trực tiếp thấy hiện tượng này vào ngày 15/3 cùng năm tại chính ṭa giám mục của ngài.

Chị Thánh Faustina cũng đă thuật lại trong cuốn Nhật Kư của chị, ở đoạn 686, như sau:

 

·         Thứ Sáu Đầu Tháng 9. Vào buổi tối hôm ấy, tôi đă trông thấy Mẹ Thiên Chúa, với lồng ngực lộ ra bị  một thanh gươm đâm thâu. Bấy giờ Mẹ chảy những giọt nước mắt xót xa và đang che chở chúng ta cho khỏi bị Thiên Chúa giáng phạt cách kinh hoàng. Thiên Chúa muốn giáng h́nh phạt khủng khiếp xuống trên chúng ta, nhưng Ngài không thể làm được v́ Mẹ Thiên Chúa đang bao che cho chúng ta…”.

 

Trước đó, ở đoạn Nhật Kư 635, chị Thánh Faustina c̣n tiết lộ như sau:

 

·         "Ngày 25/3/1936. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đă nói với tôi rằng: ‘Mẹ đă ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; c̣n phần con, con phải nói cho thế giới về t́nh thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng ḿnh trước ngày này. Hăy nói cho các linh hồn biết về t́nh thương cao cả này trong khi c̣n thời gian ban phát t́nh thương. Nếu giờ đây con câm nín th́ con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy’”.

 

C̣n nữa, cũng ti Âu Châu, Syracuse năm 1953, M cũng đă khóc, và đă được chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhc li trong Hun T Truyn Tin ca ngài vào trưa Chúa Nht 31/8/2003, khi Ngài hiến dâng Âu Châu cho M Maria, mt Âu Châu đang trong thi k b khng hong đức tin sâu xa. Vị Giáo Hoàng Totus Tuus này đă cảm nhận về Thánh Mẫu Châu Lệ này như sau:

 

·         "Trong các Chúa Nht va qua, vic suy tư ca Tôi nhm đến Âu Châu và các căn gc Kitô giáo ca châu lc này, khi xem li bn văn kin tông hun hu Thượng Hi Giám Mc Âu Châu: 'Giáo Hi Ti Âu Châu'. Bn văn kin này đă kết thúc vic 'Hiến Dâng cho M Maria' tt c mi con người nam n ca châu lc này, mt vic hiến dâng Tôi mun lp li ngày hôm nay đây, để V Thánh Trinh N làm cho Âu Châu tr thành mt bn hp tu các quc gia dn thân cùng nhau xây dng mt nn văn minh yêu thương và ḥa b́nh. Có vô vàn các đền th Thánh Mu hết mi x s Âu Châu. Hôm nay Tôi đặc bit nghĩ đến Đền Đức M Khóc Syracuse, nơi đang c hành 50 năm M Maria khóc... Nhng git nước mt này mu nhim biết bao! Chúng nói lên cho thy ni kh đau và du dàng, đến nim an i và t́nh thương thn linh. Chúng là du hiu cho thy s hin din t mu, và là mt li kêu gi hoán ci tr v cùng Thiên Chúa, t b con đường gian ác để trung thành theo Chúa Giêsu Kitô. Hi Đức M Git Châu ngt ngào, chúng con dâng cho M Giáo Hi và toàn thế gii. Xin M hăy nh́n đến nhng ai cn đến ơn tha th và s ḥa gii nht; M hăy mang ḥa hp đến cho các gia đ́nh và mang b́nh an đến cho các dân tc. Xin hăy lau khô nước mt gây ra bi hn thù và bo lc nhiu min đất trên Thế Gii này, nht là Trung Đông và lc địa Phi Châu. Ôi Ly M, ch ǵ nhng git nước mt ca M là mt bo chng cho vic hoán ci và ḥa b́nh nơi tt c mi con cái ca M!"

 

Ti sao M Maria ca chúng ta không c̣n lên tiếng na, như M đă rơ ràng kêu gi Paris năm 1830 vi n tp sinh Catarina Labourê, hay L Đức năm 1858 vi thiếu n Bernadette, hoc Fatima năm 1917 vi thiếu nhi Lucia, Phanxicô và Giaxinta?

 

Phi chăng là v́ M đă nói hết li hết l ri, nói đi nói li ri, không c̣n ǵ để nói na, mà loài người nói chung, và con cái Chúa nói riêng, vn càng ngày càng lâm vào t́nh trng "v́ s d gia tăng mà ḷng mến nơi nhiu người đă tr nên ngui lnh" (Mt 24:12), đến ni, M ch c̣n biết khóc?

 

Phi chăng thái độ M không c̣n nói ǵ được na, ch c̣n biết khóc là du chng nhng chng t cho thy c nim đau ca M đă lên ti cc độ ln mi quan tâm t mu tn cùng ca M đối vi con cái loài người, mà c̣n cho thy t́nh trng ti li ca loài người đă lên ti độ cc k trm trng, hết sc nguy him cho phn ri đời đời ca h. Nước mắt của Mẹ phải chăng c̣n là dấu báo cho biết đă sắp hết thời xót thương, tức sắp tới lúc Mẹ không c̣n có thể ngăn tay giáng phạt của Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu song cũng vô cùng công minh được nữa.

 

Tht vy, M c̣n nói ǵ hơn được na, nếu không phi ch c̣n biết nghn ngào khóc thương cho con cái ca ḿnh, khi thy h mi ngày tiến gn đến h t dit, mt t́nh trng được t tường th hin qua trào lưu văn hóa s chết t thế k 20: dit chng, phá thai, trit sản, khng b t sát, diệt mạng an t v.v...

 

Nhng ǵ Thiên Chúa Hóa Công đă thiết lp ngay t ban đầu, như hôn nhân và sinh sn (x Gen 1:27-28, 2:23-24), th́ con người văn minh hu như tuyt đỉnh ngày nay, c v khoa hc và k thut ln nhân bn và nhân quyn, chng nhng đă lt đổ, bng lut cho phép ly d và phá thai, c̣n thay thế vào đó bng nhng con ḅ vàng ngu tượng do chính h to nên, khi ban b nhng th lut l cho phép hôn nhân đồng tính và to sinh vô tính (cloning).

 

Đó là lư do, qua cp mt ca Giáo Hi Công Giáo, cp mt được nh́n bi nhng v Đại Din Chúa Kitô trên trn gian, nhng v đóng vai tṛ tha kế Thánh Phêrô chăn dt Giáo Hi ca Người, nht là 3 v gn nht, t Công Đồng Chung Vaticanô II (8/12/1965-2005), M Maria đă thc s không khi ngm ngùi chng kiến thy cnh loài người đang hn h tŕnh din trên khu trường lch s màn "đóng kh đi giy tây", mt màn tŕnh din cho thy con người càng văn minh vt cht và nhân quyn, càng sa đọa v luân thường đạo lư.

 

Trước hết, qua ánh mt ca V Giáo Hoàng Tôi T Chúa Phaolô VI (1963-1978), được bày tỏ qua nhng li ngài nói trong khóa hp cui cùng Công Đồng Chung Vaticanô II ngày 7/12/1965, M đă thy một nhân loi coi trời bằng vung, coi ḿnh như cái rốn của vũ trụ, nhưng lại là "mt con người co qup ly bn thân ḿnh… một con người không cm thy hnh phúc vi chính bn thân ḿnh, cười cười khóc khóc”. Chính vị Giáo Hoàng bế mạc Công Đồng Chung Vaticanô II cách đây 40 năm này cũng đă phải thốt lên trong buổi triều kiến chung ngày 15/11/1972 là:

 

·         Tôi cảm thấy là có một luồng khói Satan đă đột nhập vào Đền Thờ Thiên Chúa qua một kẽ nứt hở nào đó”.

 

Sau na, qua ánh mt ca Đức Gioan Phaolô II (1978-2005), được bày tỏ trong Thông Đip đầu tiên của giáo triều ngài là "Đấng Cu Chuc Nhân Trn", ban hành ngày 4/3/1979, đon 17, M đă thy nhân loi đang sống trong "mt thế k ca nhng hy hoi ln lao đối vi con người, ca nhng tàn phá vĩ đại, chng nhng v vt cht mà c̣n c v luân lư, thc s trên hết là v mt luân lư... Người ta đă gây ra cho nhau nhiu bt công và kh đau. Trong thc tế, chúng ta thy trước mt có nhng tri tp trung, bo lc, hành h, khng b, và k th dưới nhiu th cách..."

 

Sau hết, với ánh mt ca V Giáo Hoàng đương kim Bin Đức XVI (2005-), qua bài ging khai mc Mt Ngh Hng Y bu Giáo Hoàng ngày 18/4/2005, trước ngày ngài được bầu làm giáo hoàng, Mẹ đă thy nhân loi như đang bị chao đảo bởi một trận băo lụt đầy sóng gió vô thần duy vật, đến nỗi, “con tu tư tưởng nh bé ca nhiu Kitô hu thường b xô ln bi nhng cơn sóng này, tung h t cc đoan này sang cc đoan kia: t ch nghĩa Marxít đến ch nghĩa t do, thm chí đến ch nghĩa duy t do; t ch nghĩa tp th đến ch nghĩa cá nhân cc đoan...”. Đến nỗi, nếu sống sát với “Kinh Tin Kính ca Giáo Hi, th́ li thường được gán cho là theo ch nghĩa bo thủ”. Trái lại, “mt khi để cho ḿnh 'bđẩy theo chiu gió ch nghĩa'”, th́ được cho là “thích hp vi thi đại tân tiến”, nhưng lại là lúc con người chiều theo một thứ “ch nghĩa tương đối độc đoán, cho rng không có ǵ là tuyt đối c, và là mt ch nghĩa ch biết căn c vào cái tôi cùng vi nhng ước mun ca cái tôi mà thôi". Trong Sứ Điệp cho Ngày Ḥa B́nh Thế Giới 1/1/2006, ở đoạn 9 và 10, vị Giáo Hoàng đương kim của chúng ta c̣n đề cập tới hai chủ nghĩa đang hủy hoại loài người hiện nay, đó là chủ nghĩa bảo thủ cuồng tín, nhất là chủ nghĩa tuyệt mệnh, một chủ nghĩa được Đức Gioan Phaolô II diễn tả trong Sứ Điệp cho Ngày Ḥa B́nh Thế Giới 2002, ở đoạn 6, là “chán chường về nhân loại, về sự sống, về tương lai. Theo quan điểm của họ th́ cần phải thù ghét và hủy diệt đi tất cả mọi sự.

 

Hinh ảnh về Vị Thánh Mẫu Châu Lệ của chúng ta phải nói là đặc biệt nhất ở Biến Cố Thánh Mẫu La Sallette Pháp quốc năm 1846, như được một trong hai thiếu niên thụ khải bấy giờ là gái Melanie 14 tuổi thuật lại rằng:

 

·         “… Tôi đă thấy một người nữ tuyệt đẹp ngồi trên nóc của cái Thiên Đàng chúng tôi đă làm, hai tay ôm lấy đầu… Khi tôi tới gần Người Nữ Tuyệt Đẹp ấy, đứng ở phía trước về bên tay phải, th́ Người bắt đầu lên tiếng nói với những giọt lệ cũng bắt đầu tuôn ra từ đôi mắt tuyệt vời của Người… Vị Trinh Nữ Thánh này đă khóc hầu như suốt thời gian Người nói với tôi. Những giọt nước mắt của Người đă nhẹ nhàng tiết ra, từng giọt một, nhỏ xuống đầu gối của Người, đoạn, như những tia sáng, chúng đă biến đi. Chúng lấp lánh và tràn đầy yêu thương. Tôi muốn an ủi Người và chặn lại những giọt nước mắt của Người. Thế nhưng, tôi cảm thấy rằng Người cần phải khóc để chứng tỏ hơn nữa cho con người thấy rằng họ đă quên đi mất t́nh yêu của Người rồi. Tôi muốn gieo ḿnh vào ṿng tay của Người mà nói cùng Người rằng: ‘Mẹ nhân ái ơi, xin đừng khóc nữa! Con muốn yêu mến Mẹ thay cho tất cả mọi người trên  trái đất này’. Thế nhưng, bấy giờ dường như Mẹ đă nói cùng tôi rằng: ‘Có quá nhiều người chẳng nhận biết Mẹ ǵ hết!’”

 

Em c̣n cho biết rằng em “đă nh́n thấy một người nữ, ở tư thế ngồi, tay ôm mặt khóc, sau đó Bà từ từ đứng lên, hai tay chéo nhau trước ngực, đầu hơi cúi xuống nh́n các em đang bàng hoàng nh́n Bà mà nói:

 

·         Hỡi con cái của Mẹ, hăy đến với Mẹ. Đừng sợ. Mẹ đến đây để nói với các con một điều hết sức hệ trọng…. Nếu dân của Mẹ không chịu nghe lời th́ Mẹ sẽ buộc phải buông cánh tay Con của Mẹ ra. Mẹ đă từng chịu khổ v́ các con đă lâu rồi! Nếu Con Mẹ không triệt hạ các con là v́ Mẹ đă phải liên lỉ năn nỉ Người. Thế nhưng các con không hề lưu ư tới điều ấy chút nào cả. Bất kể sau này các con có nguyện cầu sốt sắng tới đâu, có hành động tốt lành đến mấy, các con vẫn không bao giờ có thể đến đáp lại Mẹ những ǵ Mẹ đă chịu đựng v́ các con đâu…’ Mẹ c̣n nói nhiều điều nữa rồi về trời với giọt lệ long lanh”.

 

Tuy nhiên, dù có che chở chúng ta đi nữa, Mẹ vẫn cảnh báo cho chung loài người và riêng con cái Giáo Hội biết về những hậu quả của t́nh trạng không chịu ăn năn thống hối cải thiện đời sống của họ, như trong Bí Mật La Sallette, được Melanie viết lại vào năm 1878 và được xuất bản vào năm 1879 sau đây:

 

Một cuộc khủng hoảng đức tin:

 

·         “Những linh mục, những thừa tác viên của Con Mẹ, những linh mục mà, với cuộc sống tội lỗi, với việc cử hành những mầu nhiệm thánh cách bất kính và khô đạo, với ḷng ham mê tiền bạc, ḷng yêu chuộng danh vọng cũng như khoái lạc, những vị linh mục đă trở nên những hố phân ô uế.

 

·         “Những vị làm đầu, những nhà lănh đạo dân Thiên Chúa đă bỏ bê việc cầu nguyện và khổ hạnh, ma qủi đă làm cho trí tuệ của họ mù tối. Họ trở nên những tinh tú lang thang sẽ bị lôi kéo làm cho hư đi bởi cái đuôi của ma qủi xưa kia….

 

·         “Vị Đại Diện Con Mẹ sẽ chịu nhiều đau khổ, v́ Giáo Hội sẽ chịu đựng bắt bớ lớn lao một thời, thời tối tăm và Giáo Hội sẽ chứng kiến một cuộc khủng hoảng rùng rợn…

·         “Rôma sẽ mất Đức Tin và trở nên ngai ṭa của tên Phản Kitô….

 

T́nh h́nh thời cuộc biến loạn:

 

·         “Xă hội của con người đang ở vào cận điểm của những cực h́nh khủng khiếp nhất và của những biến cố trầm trọng nhất. Nhân loại cứ chờ mà bị cai trị bằng chiếc roi sắt và uống chén thịnh nộ của Thiên Chúa.

 

·         “Mong vị đại diện Con của Mẹ là Đức Giáo Hoàng Piô IX đừng bao giờ ra khỏi Rôma nữa sau năm 1859; tuy nhiên, cần ngài phải vững mạnh và nổi vượt, phải dùng khí giới Đức Tin và Đức Mến mà chiến đấu. Mẹ sẽ ở bên cạnh ngài. Ngài cần để ư đề pḥng Napoleon: ông ta là con người hai mặt, và khi ông ta muốn vừa làm Giáo Hoàng vừa làm hoàng đế, Thiên Chúa sẽ sớm cho ông biết tay. Là một tay trí lược, ông luôn muốn vươn ḿnh lên cao hơn nữa, song sẽ ngă trên lưỡi gươm mà ông dùng để áp lực dân chúng phải nổi dậy.

 

·         “Nước Ư sẽ bị phạt v́ tham vọng của ḿnh trong việc muốn trút bỏ cái ách của Chúa các Chúa. Ư sẽ bị rơi vào cuộc chiến tranh; máu sẽ lan tràn khắp mọi phía. Các thánh đường sẽ bị đóng kín và bỏ hoang. Các linh mục và các ḍng tu sẽ bị lùng giết và bị chết thảm thương. Một số sẽ chối bỏ Đức Tin, và một số lớn linh mục cũng như những phần tử của các ḍng tu sẽ phá giới cuộc sống tu tŕ chân thật; trong đó có các giám mục….

 

·         “Tất cả những chính quyền dân sự sẽ có cùng một dự định giống nhau, đó là hủy bỏ và loại trừ mọi nguyên tắc đạo giáo, thay vào đó là khuynh hướng duy vật, vô thần, duy linh và lầm lỗi đủ thứ….

 

·         “Đức Tin chân thật đối với Chúa đang bị quên lăng mất rồi, mỗi người sẽ muốn làm chủ lấy ḿnh và nắm đầu người cùng lứa với ḿnh, họ sẽ hủy bỏ dân quyền cũng như giáo quyền, tất cả mọi trật tự và mọi công chính sẽ bị chà đạp dưới chân, chỉ c̣n tàn sát, giận hờn, ghen ghét, dối trá và nổi loạn là được thấy, không c̣n ǵ là t́nh yêu tổ quốc và gia đ́nh….

 

·         “Pháp, Ư, Tây Ban Nha và Anh quốc sẽ có chiến tranh. Máu sẽ chảy ngoài đường. Dân Pháp sẽ đánh nhau với dân Pháp, dân Ư sẽ đánh nhau với dân Ư. Một cuộc chiến chung tiếp theo sau đó sẽ rùng rợn. Có lúc Thiên Chúa sẽ không c̣n nhớ đến Pháp và Ư nữa, v́ Phúc Âm Chúa Giêsu Kitô đă bị quên lăng. Tội nhân sẽ lợi dụng tất cả những đường lối gian ác của ḿnh. Con người sẽ chém giết lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau, ngay cả trong nhà của ḿnh….

 

Hiện tượng thiên nhiên biến đổi:

 

·         “Ngay nhát gươm đầu tiên vụt xuống, những núi non và tất cả thiên nhiên sẽ run sợ trong kinh hoàng, v́ những lộn xộn và tội ác của con người đă đâm thấu tận đỉnh các tầng trời. Balê sẽ bị thiêu rụi và Marseille sẽ bị ch́m ngập. Một số thành phố sẽ bị rung xập và bị nuốt mất bởi những trận động đất. Dân chúng sẽ tin rằng tất cả đều bị tiêu tan. Không ǵ c̣n thấy ngoài sát nhân, không ǵ c̣n nghe ngoài sự va chạm của những đối chọi và lời lộng ngôn…..

 

·         “Trái đất sẽ bị điêu linh bởi đủ mọi thứ tai ương (thêm vào với dịch hạch và đói khát lan rộng). Sẽ có một chuỗi chiến tranh cho đến trận chiến cuối cùng là trận đánh giữa 10 vua của tên Phản Kitô, mà tất cả có cùng một dự tính và sẽ là những nhà lănh đạo duy nhất trên thế giới…

 

·         “Thiên nhiên đang kêu cầu sự báo oán v́ tội lỗi của con người, và nó run sợ trước những ǵ xẩy đến cho thế giới nhuốm tội ác. Hăy run sợ, hỡi trái đất, và các con là những người tuyên bố chính ḿnh là môn đệ của Chúa Giêsu Kitô mà trong thâm tâm chỉ tôn thờ ḿnh, hăy run sợ v́ Thiên Chúa sẽ trao ngươi cho kẻ thù của Ngài, bởi những nơi thánh đang ở trong một t́nh trạng băng hoại. Nhiều viện tu không c̣n là nhà của Thiên Chúa nữa….

 

·         “Thời tiết sẽ bị đảo lộn, trái đất sẽ không c̣n nẩy nở ǵ hơn ngoài trái xấu, những tinh tú sẽ di động bất thường, mặt trăng sẽ chỉ phản chiếu một thứ ánh sáng đỏ mầu bạc nhược. Nước và lửa sẽ làm cho bầu trái đất những cuộc rung chuyển và những trận động đất kinh hồn nuốt tiêu đi các núi đồi và thành phố v. v.

 

·         “Khốn thay những dân cư trên mặt đất! Sẽ có những trận chiến đẫm máu và đói khát, dịch tễ và những bệnh truyền nhiễm.. Sẽ có mưa đá rùng rợn toàn là những thú vật. Sẽ có những trận sấm sét làm rung chuyển cả những thành phố, các trận động đất sẽ nuốt trửng những xứ sở. Trên không trung có những tiếng phát ra. Con người sẽ đập đầu vào tường t́m kiếm cái chết, trong khi cái chết lại là một cực h́nh của họ. Máu sẽ lênh láng mọi phía. Ai sẽ là kẻ thắng cuộc nếu Thiên Chúa không rút ngắn cuộc thử thách lại? Tất cả máu lệ và nguyện cầu của kẻ lành làm Thiên Chúa nương tay. Eânóc và Eâlia sẽ bị giết. Rôma vô đạo sẽ biến mất. Lửa Trời sẽ đổ xuống thiêu hủy 3 thành phố. Tất cả vũ trụ sẽ bị một trận kinh hoàng và nhiều người sẽ để ḿnh bị lừa đảo lầm lạc v́ họ không tôn thờ Chúa Kitô đích thực là Đấng ở giữa họ. Thời điểm là đây; mặt trời đang mờ tối; chỉ c̣n Đức Tin tồn tại….

 

Quyền lực thần dữ phá hoại:

 

·         Thiên Chúa sẽ cho phép con cựu xà gây chia rẽ giữa những người chủ trị trong mỗi xă hội và nơi từng gia đ́nh. Những đớn đau về thể lư cũng như luân lư phải gánh chịu. Thiên Chúa sẽ bỏ mặc kệ loài người và sẽ gửi đến trên 35 năm hết h́nh phạt này đến h́nh phạt khác…..

 

·         “Vào năm 1864, Luxiphe cùng với một số lớn qủi ma sẽ được thả ra khỏi hoả ngục; chúng sẽ dần dần làm mất Đức Tin ngay cả nơi thành phần tận hiến cho Thiên Chúa. Chúng sẽ làm cho họ mù quáng đến nỗi, trừ khi nhận được một ơn đặc biệt, những người này sẽ mặc lấy tinh thần của những thần dữ trong hoả ngục; một số ḍng tu sẽ mất Đức Tin và nhiều linh hồn ở đó sẽ hư đi…..

 

·         “Những sách xấu sẽ lan tràn khắp mặt đất và thần tối tăm sẽ lan truyền khắp nơi một sự lơ là chểnh mảng toàn diện trong tất cả những ǵ liên quan đến việc phụng tôn Thiên Chúa. Chúng sẽ có quyền hạn lớn lao thuộc lănh vực tự nhiên: sẽ có những nhà thờ được xây lên để phụng tôn những thần dữ ấy..

 

·         “Khắp nơi sẽ có những sự lạ lùng phi thường, khi mà Đức Tin đă bị lu mờ đi dần dần và ánh sáng giả tạo soi dẫn người ta…

 

·         “Vào năm 1865 sẽ có một cuộc tục hoá các nơi thánh. Trong các viện tu, những bông hoa của Giáo Hội sẽ tàn lụi và ma qủi sẽ làm vua cai trị mọi con tim. Những ai mang trách nhiệm ở các viện tu hăy cẩn trọng đối với những người mà họ phải nhận vào, v́ ma qủi sẽ vận dụng tất cả những mưu mô gian trá của hắn để đưa các tội nhân vào tu viện, v́ sự lệch lạc và v́ t́nh yêu khoái cảm nhục dục sẽ lan tràn khắp nơi trên mặt đất….

 

·         “Tên tiền hô của Phản Kitô cùng với các quân đoàn triệu tập từ một số nước sẽ chiến đấu chống lại Chúa Kitô đích thực, Đấng Cứu Thế duy nhất của thế giới. Hắn sẽ làm máu đổ nhiều và muốn tận diệt sự tôn thờ Thiên Chúa để tự làm cho ḿnh được chiêm ngưỡng giống như một vị Thiên Chúa.

 

·         “Đám qủi trên không trung hợp với tên Phản Kitô sẽ thực hiện những sự lạ lùng cả thể trên mặt đất và trên không trung, và con người càng ngày càng hư hỏng….

 

·         “Đây là thời điểm; hố thẳm đang mở ra. Ḱa Vua các Vua tăm tối, ḱa Con Mănh Thú với bọn lâu la của hắn, xưng ḿnh là Đấng Cứu Thế. Hắn sẽ nghênh ngang vươn ḿnh trên không trung, lên đến tận Trời. Hắn sẽ bị hạ bởi hơi thở của Thánh Tổng Thần Micae. Hắn sẽ rơi xuống, và trái đất, nơi sẽ xẩy ra một loạt biến hóa liên tục trong ba ngày, sẽ mở toang những bụng lửa của ḿnh ra để đời đời hắn cùng với bọn bộ hạ sẽ bị d́m ngập trong hỏa ngục muôn kiếp. Đoạn nước và lửa sẽ tẩy rửa trái đất và tiêu hủy tất cả những công tŕnh h́nh thành do sự kiêu ngạo của con người, rồi tất cả sẽ được đổi mói. Thiên Chúa sẽ được phụng thờ và tôn vinh”.

 

Thành phần tông đồ cuối thời:

 

·         “Mẹ khẩn thiết kêu gọi trái đất. Mẹ kêu gọi những môn đệ đích thực của Thiên Chúa hằng sống là Đấng ngự trên Trời; Mẹ kêu gọi những môn đồ của Chúa Kitô làm người, Vị Cứu Tinh chân thật duy nhất của con người; Mẹ kêu gọi con cái của Mẹ, những tín hữu đích thực, những người đă hiến ḿnh cho Mẹ để Mẹ dẫn dắt họ đến cùng Con Thần Linh của Mẹ, những người mà Mẹ bồng trên tay, nói cách khác, những người sống theo tinh thần của Mẹ. Sau hết, Mẹ kêu gọi Những Tông Đồ Cuối Thời, những môn đệ trung kiên của Chúa Giêsu Kitô, những người sống trong sự khinh chê thế gian và chính ḿnh, trong nghèo khó và khiêm hạ, trong lănh đạm và thầm lặng, trong nguyện cầu và khổ chế, trong tinh tuyền và thần hiệp, trong khổ đau và ẩn khuất trước mắt thế gian. Đây là lúc họ xuất thân làm cho thế gian tràn đầy ánh sáng. Hăy đi mà tỏ ḿnh ra là các con cái dễ thương nhất của Mẹ. Mẹ ở bên các con và ở trong các con, nếu Đức Tin của các con là ánh sáng soi cho các con trong những ngày bất hạnh này. Chớ ǵ ḷng nhiệt thành của các con làm cho các con đói khát vinh quang và vinh dự của Chúa Giêsu Kitô. Hăy chiến đấu, hỡi các con cái của ánh sáng, các con là thành phần ít ỏi. V́ đây là thời điểm của mọi thời điểm, tận cùng của mọi cùng tận”.

 

(Dịch từ bản Anh Ngữ: "Apparition of the Blessed Virgin on the Mountain of La Salette the 19th of September, 1846". Bản dịch Anh Ngữ này được chuyển ngữ hoàn toàn theo nguyên bản Pháp Ngữ đầu tiên do Lecce xuất bản năm 1879 với phép in của giám mục Zola. Người dịch tự phân xếp thành 5 đề mục).

 

Vấn đề thiên định và liên hệ mật thiết giữa Bí Mật La Salette và Bí Mật Fatima ở đây là Thánh Long Mộng Phố với tác phẩm Luận Về Ḷng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của ngài. Tại sao ?

 

Tại v́, đúng như Thánh nhân tiên báo ngay trong tác phẩm này về thân phận của nó, cùng với thân phận của thành phần thuưc hành nó, sẽ bị ma quỉ tác hại ở đoạn 114:

 

·         Tôi rơ ràng thấy thấy trước là những con mănh thú hung ác sẽ xuất hiện một cách giận dữ để lấy nanh vuốt quỉ quyệt của chúng xâu xé bản viết nhỏ này và người được Thánh Linh dùng để viết ra nó – hay ít là giấu nó đi trong tăm tối và kín đáo trong một cái két đựng để nó đừng xuất hiện. Họ sẽ thậm chí tấn công và bách hại những ai sẽ đọc nó và thi hành nó”.

 

Thật vậy, lời tiên báo này đă xẩy ra đúng y như thế, ở chỗ: thứ nhất, cuốn sách đă bị biến khuất, không ai biết đến hơn 100 năm, cho đến măi năm 1842 mới được một vị linh mục Ḍng Montfort t́m thấy trong một ḥm sách cũ. Thứ hai, thành phần phổ biến ḷng tôn sùng như cuốn sách dạy thật sự đă bị bách hại, như trường hợp của tu sĩ Ḍng Montfort đă bị thành phần bè rối Jansenist thời bấy giờ, một bè rối với chủ trương ban đầu là chỉ có những ai được tiền định mới được rỗi bằng không bị hư mất, v́, theo chủ trương sau đó của họ, Thiên Chúa chỉ thương yêu và cứu độ một số được ưu tuyển mà thôi. Thứ ba, Đức Gioan Phaolô II đă đọc và thi hành đường lối Tu Đức Thánh Mẫu của cuốn sách này và cũng là vị bị ám sát ngày 13/5/1981.

 

Phải chăng tác phẩm Luận về Ḷng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của Thánh Long Mộng Phố được t́m thấy sau 126 năm, vào năm 1842, quả thực có liên quan tới Biến Cố Thánh Mẫu La Salette xẩy ra sau đó 4 năm, 1846, cũng ở Pháp quốc là quê hương của vị thánh tác giả? Bằng không, tại sao lời hiệu triệu ở phần cuối Bí Mật La Salette lại trùng hợp với những ǵ được Thánh nhân như thị kiến thấy khi ngài được thần hứng hay linh ứng viết ra trong tác phẩm Thánh Mẫu thời danh của ḿnh, một tác phẩm đă ảnh hưởng đến vị Giáo Hoàng trong thị kiến của Bí Mật Fatima phần 3!

 

Ngoài ra, vị thánh tác giả này c̣n tiên báo những ǵ đă hoàn toàn xẩy ra ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima 1917 nữa. Thật thế, ở đoạn 49 và 50, ngài đă viễn tượng thấy thế này:

 

·         Vào lần đến thứ hai của Chúa Giêsu Kitô, Mẹ Maria được Chúa Thánh Thần làm cho nhận biết và tỏ hiện, để qua Mẹ, Chúa Giêsu Kitô được nhận biết, mến yêu và phụng sự”; “Thiên Chúa muốn làm cho Mẹ Maria, tuyệt phẩm của bàn tay Ngài, được tỏ hiện và nhận biết vào những thời buổi sau này”.

 

Không phải hay sao, trước hết Thiên Chúa đă làm cho Mẹ được tỏ hiện và nhận biết trong chính Giáo Hội, khi Giáo Hội chính thức công bố Tín Điều Mẹ Vô Nhiễm ngày 8/12/1854 bởi Giáo Hoàng Chân Phước Piô IX, và Tín Điều Mẹ Mông Triệu ngày 1/11/1950 bởi Đức Thánh Cha Piô XII, bởi Đức Thánh Cha Piô XII. Sau nữa, Thiên Chúa đă không tỏ ư muốn làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến hay sao, ở chỗ, vào lần hiện ra thứ ba ở Fatima, ngày 13/7/1917, khi tiết lộ phần thứ hai cũng là phần cốt lơi của Bí Mật Fatima, Mẹ Maria đă tuyên bố: “Thiên Chúa muốn thiết lập ḷng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, và vào lần hiện ra thứ hai 13/6/1917, Mẹ Maria đă nói riêng với thiếu nhi Lucia và cho em biết lư do tại sao hai em họ của em là Phanxicô và Giaxinta “được đưa về trời sớm, c̣n con c̣n phải ở lại thế gian lâu hơn”, là v́: “Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”.

 

Nếu nội dung Bí Mật La Salette và  Bí  Mật Fatima  phần 3 giống nhau ở chỗ một nhân loại đáng bị  trừng phạt cần có một đạo binh dàn trận của Mẹ  thế nào th́ Lời hiệu triệu của Mẹ Maria ở phần cuối của Bí Mật La Salette và việc Mẹ Maria vừa hiện ra ở Fatima, chưa cho biết ḿnh là ai và đến để làm ǵ, đă triệu tập ngay 3 Thiếu Nhi Fatima, thành phần được phản ảnh trong Bí Mật Fatima phần ba liên quan đến hiến tế cứu độ, không phải đă được vị thánh này phạc họa trong tác phẩm của ngài ở đoạn 58 và 59 hay sao, như sau:

 

·         Họ sẽ là những vị tông đồ đích thực của những thời buổi sau này, thành phần mà Chúa các Đạo Binh sẽ ban cho họ lời nói và sức mạnh để họ thực hiện những điều kỳ diệu và vinh thắng tước đoạt các chiến lợi phẩm từ tay quân thù của Người...” (đoạn 58). “Tóm lại, chúng ta biết rằng họ sẽ là thành phần môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô, bước theo gót chân nghèo hèn, khiêm hạ, bị thế gian khinh chê, yêu thương bác ái của Người; họ giảng dạy con đường hẹp của Thiên Chúa bằng sự thật nguyên vẹn của Thiên Chúa theo Phúc Âm thánh hảo, chứ không theo những tâm niệm của thế gian... Họ sẽ ngậm nơi miệng của ḿnh thanh gươm hai lưỡi Lời Thiên Chúa. Họ sẽ vác trên vai ḿnh một thứ Thánh Giá đẫm máu, tay phải của họ cầm Tượng Chuộc Tội, tay trái của họ nắm Tràng Kinh Mân Côi, con tim của họ ghi Thánh Danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, hành vi cử chỉ của họ bộc lộ đức hạnh và khổ hạnh của Chúa Giêsu Kitô. Họ là những con người cao cả sẽ phải đến; c̣n Mẹ Maria, theo lệnh của Đấng Tối Cao, chính là vị sẽ trang bị cho họ, để vương quốc của Ngài bao trùm trên vương quốc của người vô đạo, vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng và vương quốc của Tín Đồ Hồi Giáo” (đoạn 59).

 

Ở đây Thánh Long Mộng Phố nói tới 3 vương quốc bị vương quốc của Thiên Chúa triệt hạ bởi Mẹ Maria. Trước hết, nếu “vương quốc của người vô đạo” đây là khối Cộng Sản, th́ “vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng” đây là khối tư bản và “vương quốc của Tín Đồ Mahomét” đây là lực lượng Hồi Giáo.

 

Theo lời tiên đoán của Thánh Long Mộng Phố trên đây, th́ thứ tự 3 vương quốc này bị vưông quốc của Thiên Chúa bao trùm là Cộng Sản, rồi tới Tư Bản và cuối cùng mới tới Hồi Giáo. Mà “vương quốc của Đấng Tối Cao” đây là ǵ, nếu không phải là một “vương quốc” được hiện thân nơi Giáo Hội Chúa Kitô trên trần gian, một Giáo Hội đă thực sự, qua ảnh hưởng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ‘bao trùm’ trên cuộc sụp đổ tan tành của chế độ Cộng Sản thuộc “vương quốc của người vô đạo” ở Đông Âu cuối năm 1989 và Liên Sô cuối năm 1991, và việc này chỉ xẩy ra sau khi Nước Nga được hàng giáo phẩm của Giáo Hội Công Giáo hiệp dâng cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ 25/3/1984.

 

Thế nhưng, “vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng” bị vương quốc của Đấng Tối Cao là Giáo Hội bao trùm ra sao? Nếu xuất thân từ Balan, từ Đông Âu, Đức Gioan Phaolô II đă làm cho Cộng Sản Đông Âu Sụp Đổ, kéo theo cả sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh là biểu hiệu cho t́nh trạng phân cách Châu Âu, một Đông Âu và một Tây Âu, th́ phải chăng Giáo Hoàng Biển Đức XVI, xuất thân từ Tây Âu, từ Đức Quốc, từ một quốc gia gây ra hai Thế Chiến trong thế kỷ 20, và cũng chính là nơi xuất phát ra phong trào Thệ Phản Cải Cách từ đầu thế kỷ 16, cũng được Thiên Chúa quan pḥng sử dụng để thực hiện cho một Âu Châu Hiệp Nhất như vậy. V́, chỉ khi nào Tây Phương, tiêu biểu là Âu Châu, trở về với căn tính của ḿnh, qua việc Hiệp Nhất Kitô Giáo, bấy giờ họ mới có thể làm cho “vương quốc của Đấng Tối Cao bao trùm vương quốc của tín đồ Hồi Giáo”.

 

Ba vương quốc này nơi tác phẩm được t́m thấy ngay trước Biến Cố Thánh Mẫu La Salette ấy, trong Bí Mật Fatima phần ba, là h́nh ảnh chia đôi (cộng sản và tư bản) của «một thành phố lớn» (Tây phương) và h́nh ảnh «một nhóm lính» (Hồi giáo) tàn sát, nhưng cuối cùng cả 3 bị bao trùm bởi vương quốc của Thiên Chúa là một Giáo Hội tử nạn dưới chân Thập Giá!

 

 

Nội Dung

 

PHẦN MỘT

 

Bí Mật Fatima

 

1 - Bí Mật Fatima Toàn Bộ - chân thật …………………... 5

2 - Bí Mật Fatima Thứ 3 - giả tạo………………………… 15

3 - Bí Mật Fatima Phần 3 - dẫn giải …………………….. 31

4 - Bí Mật Fatima Phần 3 - chưa trọn……………………  39

5 - Bí Mật Fatima Toàn Bộ - cốt lơi……………………… 53

6 - Bí Mật Fatima – cứu độ ….............................................. 61

 

PHẦN HAI

 

Thánh Chiến Maria

 

7-   Satan - Hận Thù Quyết Thắng ……………………. ..83

8-   Maria - Phượng Hoàng Sa Mạc ………………….....105

9-   Đạo Binh Dàn Trận……………………………...........119

10- Trái Tim Mẹ Thắng…………………………………...139

 

PHẦN BA

 

Tôn Vinh Maria

 

11-    Kiệu Mẹ .………………………..................................155

12-    Chầu Mẹ ……………………………………………..179